Friday, April 30, 2010

TÔ HẢI * HÒA HỢP HÒA GIẢI

HÒA HỢP-HÒA GIẢI?KHÔNG BAO GIỜ! NẾU....

Nhân ngày 30 tháng tư thứ 35 đến ,tớ nằm đọc cả trăm bài viết rất chi là chân thành của nhiều nhà chính tr ị,trí thức, văn nghệ sỹ, nhà báo của "phe thắng", đề xuất với "phe thua".... Tớ cũng chẳng còn muốn nhắc lại những lời nói hay ho và rất... "chính trị" của ông Trần văn Trà là "Người Việt nam không có ai thắng, ai thua. Chỉ có Đé Quốc Mỹ là thua", (được ông Nguyễn Thành Tài,,phó chủ tịch UBND t/p HCM thận trọng nhắc lại nguyên xi vế một ,nhưng bỏ vế hai , trên HTV tối qua.) Tớ chỉ thương cho mấy hạt muối bỏ biển (ý của thi-nhạc sỹ N.T.T) đã không nói hết được những gì là gan ruột của mình về giấc mơ hòa hợp không bao giờ thanh hiện thực,.... mà khăng định rứt khoát về 4 cái chữ hòa giải- hòa hợp như sau : KHÔNG! KHÔNG BAO GIỜ CHUYỆN ĐÓ TRỞ THÀNH HIỆN THỰC! NẾU... Lý do:
-Làm sao có thể hòa giải-hòa hợp với hàng vạn gia đình, con cháu họ khi cha ông họ bị cướp sạch ruộng đất, nhà cửa, bị đấu tố rồi giết hại bằng đủ kiểu dã man như thời Trung Cổ bởi những Đoàn, Đội Cải cách ruộng đất cơ chứ?
-Làm sao có thể hòa giải với cả triệu người vì quá sợ cải cách mà bỏ cả quê hương bản quán mồ mả cha ông,mà bồng bế nhau chay vô Nam ? rồi còn bị người ta tuyên truyền là bị "cưỡng ép,theo Chúa vào Nam"?
-Làm sao có thể hòa giải với hàng triệu gia đình , sau chiến thắng Điện Biên, phải bỏ hết của cải, nhà cửa ,xưởng máy "di cư"vô Nam để tìm tự do.Những người ở lại, thì mất hết sau các đợt cải tạo tư sản, cải tạo nhà đất ,bị tịch thu từ cái máy may đến cửa hàng không quá 3 mét ở các phố hàng Đào, hàng Ngang ,hàng Trống.... và nhiều nhà hơi cao, cửa hơi rộng cũng vị tịch thu hoặc bố trí cho thành phần cốt cán vào ở cho đến nay cũng cấm đòi lại. (Giới văn nghệ cũng có hàng trăm người hoặc mất béng,hoặc "chiếm đóng"tọa hưởng kỳ thành cho tới hôm nay.)Cứ hỏi xem vợ NSND Đặng nhật Minh xem vợ ông ,bà Phương Nghi,có cái nhà to đùng ở phố hàng Chuối bị trưng thu làm trụ sở Hội L H P N V N nay đã đòi được hay chưa? Hỏi hàng vạn người bị kiểm tra hành chính (sau 75) chỉ vì có nhà cao hơn 2 tầng (!?) nên bị tịch thu chỉ bằng một lệnh mồm xem có ai được xin lỗi và trả lại cùng với tủ lạnh, tivi có sẵn trong nhà, mà người ta khuân từ vùng mới "giải phóng" ra , chứ chẳng chiếm đoạt , bóc lột của ai xem. Có ai đuợc trả lại chưa?Tớ tin là chưa vì tớ có ông anh họ ,Tô Ninh, chẳng phải tư sản, chẳng phải địa chủ mà còn là cựu chiến binh -cựu nhà báo nữa cũng bị "đánh" một cách bất hợp pháp như thế ,đến nay gần chết vẫn...chưa được trả lại ngôi nhà Hàng Bông Nhuộm! Làm sao hòa giải với ông ấy chứ?
-Làm sao hòa giải với con cháu những người văn nghệ sỹ, trí thức bị đi tù không án, không thời hạn, thậm chí ra tù cũng chết dần chết mòn cả thể xác lẫn sự nghiệp ,dù hôm nay có đền bù một cái giải thưởng này nọ kèm theo tí tiền còm nhưng không một lời xin lỗi!! Tớ không tin con cái, cháu chắt họ thôi căm thù đâu!
-Làm sao có thể hòa giảỉ với hàng triệu gia đình có cha,ông là sỹ quan phía "bên kia"bị đánh lừa bằng những lời hứa hẹn kiểu ông Trần văn Trà "Người Việt Nam không ai thắng ai thua,Chỉ có Đế Quốc Mỹ là thua thôi!",đã hồ hởi (?) đi "học tập mang theo lương thực 10- 20" ngày để rồi bị đi mút mùa ở các trại cải tạo nơi rừng sâu nước độc,để ỏ nhà vợ con bị xua đi kinh tế mới... và không ít người đã mất xác cho đến nay, bao gia đình vẫn phải về tìm hài cốt ở những nơi chồng, cha họ đã từng bị "học tập",dưới danh nghĩa "khúc ruột ngàn dặm" một cách đắng cay va mai mỉa...
-Làm sao có thể hòa giải-hòa hợp với những người phải bỏ nước ra đi ,sống ở quê người, những người bị làm mồi cho cá mập đại dương, cho lũ cướp biển, bỏ lại tất cả của cải ,nhà cửa, xe cộ cho mấy ông cán bộ lấy làm chiến lợi phẩm ? Cho đến tận hôm nay ,mỗi lần về "du lịch thăm quê"nhìn ngôi nhà mình ,cửa hàng mình, xưởng máy mình nay đã trở thành "của riêng" của mấy ông cán bộ c s đang làm chủ hợp pháp có đầy đủ giấy đỏ ,giấy hồng mà chỉ dám đi qua mà chửi đổng? (Riêng giới văn nghệ sỹ ,cho tới hôm nay cũng được làm chủ ít nhất cả trăm villa của những "kẻ thua phải bỏ chay",có vị do "bán đi kiếm cái nhà ngoại ô" nay đã có trong tay cả mấy ngàn cây vàng. Các vị này muốn hòa giải bằng cách trả lại cho các khổ chủ hợp pháp của các tài sản kia để tiến tới hòa giải-hòa hợp không? Chắc chắn là KHÔNG !
Và còn hàng ngàn,hàng vạn thứ chủ trương, hành động gây thù, gây oán ngàn đời không rửa sạch nữa ,xảy ra suốt hơn 60 năm tớ sống và làm việc trong kinh hoàng và sợ hãi thường trực nữa.....Cho nên tớ mới nghĩ rằng:
CHỈ KHI NÀO,NHỮNG KẺ GÂY NÊN THÙ HẬN NHÌN RA LÀ MÌNH CÓ TỘI THÌ MAY RA SỰ HẬN THÙ MỚI ĐƯỢC DẦN DẦN ĐƯỢC NGUÔI NGOAI.
Cụ thể giấc mơ của tớ là :Có một ngày nào đó nước ta có một vài ông to dám nói ra những gì các ông Goóc-Ba-Chốp, En-Xin ,Putin và gần đây cả Medvedev nữẵ ĐÃ NÓI VÀ LÀM thì chẳng cần hô hào,mọi người sẽ lại gần nhau để tìm ra cách hòa hợp hòa giải....Bằng không thì...không bao giờ có ,với cái kiểu CHO PHÉP ĐỰOC HÒA GIẢI, cả!
Tớ cũng mong ước các vị nào đó có vai trò nặng kí trong "Đảng- Chính- Phủ"hãy tuyên bố đột phá (như Khơ-rút-xốp ở Đai Hội XX ấy)
"ĐẢNG của chúng tôi đã hoàn thành xuất sắc nhệm vụ giải phóng dân tộc,nay trước nhiệm vụ xây dựng đất nước,đưa cuộc các mạng kinh tế,khoa học,xã hội và nhân văn lên tầm cao mới,chúng tôi thấy không đủ tài năng và trí tuệ.Vậy xin nhường quyền lãnh đạo đất nước cho mọi nhân tài không phân biệt chính kiến,tôn giáo,đảng phái.... ra lãnh đạo đất nước bằng một cuộc tuyển cử thật sự công bằng,văn minh"..
Chỉ lúc ấy,mọi giấc mơ về hòa giải-hòa hợp mới thực sự bắt đầu. Bằng không thì đúng như anh Nguyễn Trọng Tạo,"Làm sao để không còn 30 tháng 4 CHỈ LÀ NHỮNG HẠT MUỐI BỎ BỂ MÀ THÔI!
*

SUY NGHĨ VỀ 30-4-1975



Xin gởi đến quý vị bài mới và trân trọng giới thiệu đến qúy vị bài viết của hai chị Liên Vũ và Nguyễn Lê Thanh Trúc hướng về 35 cộng sản chiếm miền Nam. Xin tiếp tay phổ biến rộng rãi.
Nguyễn Quang Duy


Bài thứ nhất
35 Năm Đối Kháng.


Với lịch sử giai đọan 35 năm vừa qua (1975-2010) dù ngắn nhưng là một giai đọan cực suy của dân tộc Việt Nam, một giai đọan mà người Việt phải đối kháng với thể chế độc quyền tòan trị cộng sản, lúc theo Liên Sô lúc theo Trung Quốc. Tại sao lại không phải là đối lập ? Đối lập chỉ tồn tại và phát triển dưới thể chế tự do. Cả người cầm quyền, người đối lập và người dân đều phải dựa trên Hiến pháp để dòm chừng, để lên tiếng, để kiểm sóat và cạnh tranh lẫn nhau.

Có đối lập các chính sách cũ sẽ được hòan chỉnh hơn, hay dựa trên nền tảng Hiến Pháp để đề ra những chính sách mới ưu việt hơn. Nhờ đối lập những thành qủa của thể chế dân chủ được tối ưu trong hòan cảnh và điều kiện của từng quốc gia. Nói tóm lại đối lập đưa xã hội, dân tộc, đất nước ngày một thăng tiến. Thể chế cộng sản ngược lại đề ra việc tiêu diệt cái cũ để xây dựng cái mới. Mới và cũ bao gồm từ văn hóa, văn học, nghệ thuật, kinh tế, xã hội, … đến con ngừơi.


Cái mới lẽ ra phải tốt đẹp hơn cái cũ, thực tế đã chứng minh ngược lại và kết quả là sự sụp đổ của hầu hết các quốc gia bị cộng sản chiếm đóng. Dưới chế độ cộng sản mọi quyết định trọng đại lại đều đến từ một cá nhân hay một nhóm cầm quyền. Không có đối lập, không dân chủ, người dân bắt buộc phải tuân theo các nghị quyết các quyết định do đảng đề ra. Thậm chí người dân còn phải tuân theo các lệ làng do cán bộ địa phương đề ra. Không tuân theo sẽ bị khép vào thành phần phản động, phản cách mạng và bị đẩy về phía đối kháng. Dưới thể chế cộng sản Việt Nam , cái mới gồm tư tưởng, phương cách suy nghĩ và hành động lúc thì theo Trung Quốc lúc lại theo Liên Sô . 35 năm đối kháng có thể được chia làm 2 giai đọan: giai đọan ĐCSVN theo Liên Sô (1975-89) và giai đọan theo Trung Quốc (1989-2010). Giai đọan ĐCSVN theo Liên Sô (1975-89).


Trước 1975, Việt Nam Cộng Hòa là một chiến trường cho hai khối tự do và cộng sản thử bom đạn. Trong khi Hoa Kỳ rút chạy thì Liên Sô, Trung Quốc cùng tòan Khối Cộng sản lại quyết tâm tài trợ cộng sản Bắc Việt xâm lấn miền Nam. Cộng sản Bắc Việt thì bất chấp mọi hiệp định quốc tế đã ký trước đây vượt vĩ tuyến 17 thôn tính miền Nam . Dẫn đến ngày 30/4/1975. Để xây dựng một thể chế mới gồm những con người mới, dân miền Nam bị khép là ngụy quân, ngụy quyền, ngụy dân. Các trại tù được dựng lên khắp nơi nhằm “cải tạo” xã hội ngụy. Các khu kinh tế mới được dựng lên để đẩy ngụy dân khỏi các thành phố, dành chỗ cho cán bộ từ Bắc vào. Các tà sách ngăn sông cấm chợ, đánh tư sản mại bản, quốc doanh hóa, hợp tác hóa công nông nghiệp nhằm biến miền Nam thành miền Bắc rập theo khuôn khổ mô hình kinh tế và chính trị Liên Sô . Về văn học, văn nghệ, nghệ thuật và hình thức bề ngòai xã hội miền Bắc trước 1975 lại giống như một xã hội Trung Hoa thu nhỏ.


Chỉ cần xem lại sách báo, báo chí hay phim ảnh trước đây bạn sẽ thấy ngay từ cách ăn mặc, cách hành xử, lời ca, điệu nhạc, đến phong cách hành văn đều xuất phát từ hay bị ảnh hưởng nặng nề của Trung Quốc . Do hai đảng cộng sản Việt Nam - Trung Quốc sau 1975 đã trở thành kẻ thù không đội trời chung . ĐCSVN vì thế muốn thóat khỏi ảnh hưởng của văn hóa cách mạng kiểu Trung cộng. Nhưng vẫn mang tính chất cưỡng bức áp đặt nhằm phục vụ tuyên truyền cho đảng cộng sản. Vì thế trong nước vẫn tồn tại nền văn học nghệ thuật đối kháng chống lại sự áp đặt của ĐCSVN lên nền văn học nước nhà. Vừa thóat ra khỏi chiến tranh, ĐCS lại tiếp tục sử dụng bạo lực cách mạng, dùng chuyên chính vô sản để đàn áp mọi suy nghĩ, mọi tiếng nói khác biệt. Việt Nam từ Bắc xuống Nam trở thành một nhà tù. Một vài cán bộ cấp dưới bất đồng phải lén núp “xé rào” nhà tù làm ngược lại các sách lược của đảng. Xé rào là cụm từ do chính những đảng viên xé rào đặt ra. Trong giai đọan này, ĐCSVN nhận một nguồn viện trợ dồi dào từ Liên Sô để biến Việt Nam thành một chư hầu thực hiện vai trò quốc tế tại Á Châu .


Từ 1979 đến 1989, ĐCSVN đã đưa đất nước vào 2 cuộc chiến tranh nội bộ các đảng cộng sản: xâm lấn Cam Bốt ở miền Nam và chiến tranh biên giới với Trung Quốc tại miền Bắc. Hằng trăm ngàn thanh niên đã bỏ mình trong hai cuộc chiến. Hằng trăm ngàn người khác đã trở thành những thương binh tàn phế một phần cơ thể. Ảnh hương đến tinh thần hàng triệu gia đình Việt Nam , ảnh hưởng này vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Nhiều phần đất, phần biển do ông cha để lại hiện nay vẫn còn bị Trung cộng chiếm đóng và được ĐCSVN chính thức công nhận sự chiếm đóng. Sự phản kháng rõ nét nhất là hàng triệu người trên con thuyền nhỏ hay bằng mọi phương tiện rời miền Bắc sau 1954 và sau 1975 đã bỏ nước ra đi. Đa số những người bỏ nước ra đi vẫn tiếp tục đối kháng với ĐCS một cách mạnh mẽ trên mảnh đất tái cư. Cũng có người từ hải ngọai trở về chiến đấu cho tự do.


Để đương đầu với chuyên chính, giai đọan này những người chống cộng phải chọn gắn liền giữa đấu tranh chính trị và vũ trang. Vì thể chế cộng sản đi ngược với chiều tiến hóa của nhân lọai và đi ngược với lòng người, nên dân tộc các quốc gia Đông Âu và Liên Sô đã lần lượt đứng lên giành lại quyền tự quyết dân tộc. Các lực lượng đối kháng Việt Nam phần bị đàn áp, phần không tiên đóan trước sự sụp đổ của chế độ cộng sản Âu châu, phần thiếu thông tin, thiếu liên kết nên gần như đứng ngòai cuộc thay đổi tòan cầu, không thể hướng dẫn quần chúng đẩy mạnh tiến trình dân chủ cho Việt Nam. Giai đọan ĐCSVN theo Trung Quốc (1989-2010).

Đứng trứơc khủng hỏang và lo sợ sự sụp đổ, Đại Hội lần thứ VI ĐCS Việt Nam đã phải chấp nhận đổi mới thay vì chết. ĐCS một mặt phải cởi trói kinh tế, giao thương với các quốc gia tự do, mặt khác phải vội vàng thần phục Trung Quốc lấy chỗ dựa tiếp tục đàn áp mọi nỗ lực đối kháng. Nhờ cởi trói kinh tế, một phần người Việt đã nhanh chóng thoát khỏi cảnh đói nghèo. Nhưng để hướng đến một đời sống vật chất cũng như tinh thần cao hơn thì giáo dục và huấn luyện kỹ năng là hai yếu tố quan trọng lại không được ĐCS để ý tới. Đa số lao động Việt Nam vẫn chỉ dựa vào nông nghiệp, vào kỹ nghệ đơn thuần, du lịch và vào việc tận dụng tài nguyên thiên nhiên. Trong thời gian gần đây do trình độ quản lý kinh tế yếu kém, Việt Nam đang quay lại thời kỳ với mức lạm phát phi mã, nhiều lần phải phá giá đồng tiền, đầu tư và xuất cảng sút giảm, nạn thất nghiệp gia tăng, nợ quốc tế càng ngày càng chồng chất… đa phần dân chúng đã nghèo lại nghèo thêm.


Thiếu quyền lực chính trị, quyền lợi kinh tế của dân chúng gần như không được quan tâm. Việc tận dụng tài nguyên quốc gia và lệ thuộc vay mượn thế giới là một cách ăn cướp của các thế hệ con cháu chúng ta. Trong khi ấy để kiểm sóat chính trị, nhiều xí nghiệp quốc doanh được cổ phần hoá đã lọt vào tay của một số đảng viên cao cấp hay gia đình, tạo nên một tầng lớp đại gia tư bản đỏ. Tầng lớp này nắm cả độc quyền kinh tế lẫn chính trị nên càng ngày càng trở nên giàu có và quyền thế. Hố ngăn cách giữa thiểu số này và đa số dân chúng nghèo khổ đang ngày một sâu hơn.

Chênh lệch giàu nghèo, sự bất bình đẳng đang đào sâu các tiềm ẩn đối kháng, đến mức độ không kềm hãm được sẽ là nguyên nhân cho mọi biến động xã hội - chính trị. Thiếu quyền lực chính trị dân Việt cũng trở thành nạn nhân của quốc nạn tham nhũng. Thêm vào đó một cuộc khủng hỏang tòan diện đang càng ngày càng lan rộng trên mọi lãnh vực đến mọi tầng lớp xã hội. Sự bất mãn càng ngày càng bộc phát để đến một lúc nào sẽ phải bùng nổ.


Đảng cộng sản còn luôn phải đối đầu với hàng loạt các cuộc đình công đòi tăng lương đòi bảo đảm quyền lao động. Những cuộc biểu tình chống tham nhũng, chống bất công trong việc qủan lý đất đai và một cao trào đòi đất của giáo hội Công giáo và các tôn giáo khác đã bị đảng cộng sản cướp đi sau khi chiếm được chính quyền. Nhiều cuộc biểu tình đòi tự do tôn giáo hay của đồng bào sắc tộc chống lại áp bức bất công. Dẹp được cuộc biểu tình này thì xẩy ra cuộc biểu tình khác. Các cuộc biểu tình thì càng ngày càng thu hút được nhiều người hơn, có tổ chức hơn và xẩy ra gần thủ đô Hà Nội hơn. Chuyện gì sẽ xảy ra khi mọi người đồng tâm đứng lên đòi lại quyền tự quyết dân tộc.


Khi mức độ đối kháng của các tầng lớp dân chúng càng ngày càng nâng cao, ĐCS lại phải lộ rõ bản chất buôn dân bán nước. Nhiều phần lãnh thổ, lãnh hải do ông cha ta để lại đã được ĐCS chính thức trao cho Trung Quốc . Nhà cầm quyền Việt Nam đã để mặc cho Quân Đội Trung Quốc bắn, bắt, cướp tàu, đòi tiền chuộc khi các ngư dân Việt Nam đánh bắt trên vùng lãnh hải Việt Nam. Khi các anh chị sinh viên biểu tình xác định “Hòang Sa Trường Sa Biển Đông là của Việt Nam ” lại bị công an cộng sản xuống tay đàn áp. Người dân đã mất cả quyền được yêu nước được chống xâm lăng . Đảng CS còn chủ trương để Trung Quốc tiến hành khai thác bauxite Tây Nguyên dù đã gặp phản đối mạnh mẽ cả trong lẫn ngoài đảng. Việc này đã tạo ra một cao trào phản kháng từ tầng lớp trí thức trong nước. Lần đầu tiên hằng ngàn trí thức đã công khai ký tên phản kháng một chủ trương đã được Bộ Chính Trị ĐCS thông qua.

Gần đây lại đến việc các nhà cầm quyền địa phương cho Trung Quốc mứơn rừng Việt Nam mà quên đi quyền lợi của dân tộc luôn bị nước này nhòm ngó. Việc này tạo thêm một khoảng cách giữa những người yêu nước chân chính và tập đòan lãnh đạo cộng sản buôn dân bán nước. Sự kiện Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) tự gỉai thể là thí dụ đối kháng mạnh mẽ nhất của tầng lớp trí thức Việt Nam . Viện được xem là một bầu trí tuệ của Việt Nam . Đa số các thành viên của Viện đã tích cực đóng góp trong quá trình đổi mới kinh tế sau Đại Hội VI . Viện tập trung nghiên cứu về kinh tế, giáo dục, y tế, xã hội… khổ nỗi dưới sự cầm quyền của đảng Cộng sản, Việt Nam càng ngày càng lâm vào khủng hoảng toàn diện, đời sống dân chúng thì mỗi ngày một tệ hại hơn. Kết quả những công trình nghiên cứu thường phơi bày sự thật rất trái ngược với luận điệu tuyên truyền của đảng. Để họ phải ra Quyết Định 97 bịt miệng các thành viên trong Viện. Phản kháng lại các thành viên Viện đã quyết định tự giải thể, nhưng tuyên bố cá nhân sẽ tiếp tục phản biện các chính sách sai trái của nhà cầm quyền Việt Nam .


Báo chí một công cụ của đảng cộng sản, thế mà trong thời gian qua nhiều nhà báo bị tạm giam, bị bắt hay mất việc, nhiều Tổng biên tập bị thay đổi, nhiều tờ báo bị đóng cửa cũng chỉ vì thông tin trung thực khách quan và toàn diện phản lại các tuyên truyền chính thống do ĐCS đề ra. Trong thời gian gần đây các cụm từ “diễn tiến hoà bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” càng ngày càng được nhà cầm quyền cộng sản sử dụng một cách thường xuyên hơn trên các Nghị Quyết, các cơ quan truyền thông báo chí. Việc làm này tự nó cho thấy ĐCS đang lo sợ những thách thức độc quyền cai trị từ bên trong hệ thống. Trong khi các lực lượng đấu tranh cho dân chủ đã công khai từ bỏ đấu tranh vũ trang thì ĐCS lại lo sợ quân đội sẽ đứng về phiá người dân để giành lại các quyền tự do cho dân tộc. ĐCS lo sợ vì đa số cán bộ trung và cao cấp trong quân đội đều trưởng thành trong cuộc chiến tại Cam Bốt và cuộc chiến chống bá quyền Trung Quốc. Trưởng thành trong chiến tranh họ có cách nhìn và suy nghĩ rất khác với thiểu số cầm quyền cộng sản. Trong khi tập đòan lãnh đạo lại càng ngày càng cấu kết với Trung Quốc đi ngược quyền lợi dân tộc.


Về phong trào Cách Mạng, thêm vào các tổ chức đảng phái chính trị thành lập từ trước, ngày 8-4-2006 Khối 8406 được thành lập. Khối là một tổ chức quần chúng đấu tranh với “mục tiêu giải thể chế độ cộng sản độc tài toàn trị, giành lại các quyền tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam bằng đường lối bất bạo động”. Từ chỉ gồm 118 thành viên ban đầu, nay đã tăng lên hàng chục ngàn thành viên gồm đủ mọi tầng lớp, mọi tổ chức đấu tranh ở khắp nơi trong và ngòai nước. Khối đã được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế công nhận. Lo sợ trước sự phát triển của lực lượng đối kháng nhiều thành viên trong Khối đã cộng sản bắt bớ, tù đày, cô lập.
Trong thời đại thông tin tòan cầu, mạng lưới thông tin hải ngọai không phải chỉ thực hiện vai trò thông tin đại chúng, còn tạo một môi trường để những cá nhân, những lực lượng đối kháng trong và ngòai nước tìm hiểu và tôn trọng sự khác biệt nhằm hướng đến việc kết hợp đẩy mạnh cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ tại Việt Nam. 35 năm là một giai đọan đủ dài để các tổ chức đối kháng trửơng thành và chủ động hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Sắp tới Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Úc châu sẽ tổ chức một Nghị Hội Người Việt Tự Do Trên Toàn Thế Giới. Mục đích của Nghị Hội là để kết hợp các cá nhân, các hội đòan, đòan thể, các đảng phái trong cộng đồng người Việt trên tòan thế giới, tạo thế liên kết, đồng nhất phương cách đấu tranh và phân công tác. Để từ đó mọi người Việt yêu chuộng tự do trên tòan thế giới chủ động dồn tổng lực tấn công đánh đổ chế độ độc tài cộng sản.
Bài viết này sẽ được trình bày trong “Đêm thắp nến tri ân các chiến sỹ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 30-4-2010” tại Victoria (Úc châu). 35 năm là một khỏang thời gian thật dài trong một đời người. Nhiều người chào đời sau 1975 ngày nay đã trở thành người đại diện cho Phong trào Dân chủ như luật sư Lê Thị Công Nhân, hay đại diện cho Cộng đồng như ông Nguyễn văn Bon, chủ tịch Cộng đồng tại Victoria, trưởng ban tổ chức đêm nay. Được biết “Đêm Thắp Nến” sẽ có sự hiện diện của nhiều bạn trẻ và sinh viên tại Victoria, nhiều bạn sau đó sẽ nhập đòan người hướng về Canberra cho “Đêm Tâm Tình Tuổi Trẻ”. Tương lai cộng đồng và đất nước thuộc về các bạn.


Nguyễn Quang Duy Melbourne, Úc Đại Lợi

28/4/2010





Bài thứ hai


Nhân Biến Cố 30/4: Bạn Trẻ Chúng Ta Làm Gì Cho Tổ Quốc Việt Nam?




Kính thưa tất cả quí vị quan khách hiện diện nơi đây,

Hôm nay nhân tưởng niệm biến cố đau thương 30/4, con xin được phép thay mặt cho các bạn trẻ tại Victoria kính gởi lời tri ân đến các bậc tiền bối: các ông, các bác, các cô chú đã chiến đấu cho độc lập, tự do, chủ quyền và vẹn toàn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam, chống lại bè lũ độc tài toàn trị mệnh danh là CSVN, thực chất chỉ là một bọn Mafia đỏ bán nước “hèn với giặc ác với dân”, đã và đang từ từ dâng cúng đất biển của đất nước cho thiên triều phương bắc của chúng. Chúng con cũng không quên những chiến sĩ QLVNCH, hiện đang sống tại hải ngoại, hoặc còn tại quê nhà: các ông, các bác, các chú thương phế binh đã hy sinh rất nhiều, ngay cả chính một phần thân thể của họ cho lý tưởng tự do, hiện nay đang bị đám cầm quyền CSVN ngược đãi, phải sống lây lất trên mảnh đất quê hương mình, xin cho chúng con nghiêng mình cám ơn họ.


Thế hệ trẻ chúng con hôm nay, tuy sống lưu vong nơi xứ người nhưng trái tim và tâm trí luôn luôn hướng về quê hương Việt Nam đặc biệt trước mối hiểm hoạ mất nước, trước dã tâm của bọn bá quyền Bắc Kinh và trước thái độ ươn hèn của cái gọi là nhà nước CSVN. Vì lý do này chúng con cùng tất cả người dân VN trong & ngoài nước càng cảm nhận ngày tưởng niệm 30/4 mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng và khẩn thiết hơn bao giờ hết.

Thế kỷ này là thế kỷ của chúng con vì vậy xin quý vị cho chúng con đôi lời với các bạn trẻ VN:

Các bạn trẻ hỡi, xin hãy can đảm đứng lên làm lịch sử, vì đây là một phần trách nhiệm của chúng ta, chỉ có chính chúng ta phải chủ động và vận động các bạn trẻ, sinh viên khác để nâng cao tinh thần và sức mạnh cho các bạn trẻ trong nước, cổ võ họ giành lại tiếng nói của mình. Tháo bỏ cái hàng rào bưng bít thông tin, đòi lại quyền tự do, dân chủ, nhân quyền mà đáng lẽ các bạn và người dân đã phải được hưởng từ lâu. Quyền tự do thành lập nhóm, gia nhập hội đoàn sinh viên trí thức, hội đoàn tôn giáo, học hỏi, trao dồi, chia sẻ và tiếp thu kiến thức mới, tự do thành lập nghiệp đoàn, công đoàn thực sự bảo vệ quyền lợi công nhân, tự do ngôn luận trên diễn đàn, báo chí, các phương tiện truyền thông trong nước, thông tin tức trên mạng v.v… Hãy cùng nhau vượt qua nỗi sợ hãi và nói lên sự thật. Quyết tâm hướng về tương lai tốt đẹp hơn, đoàn kết và yêu thương, cùng nhau xây dựng một nước VN độc lập, tự do, dân chủ và nhân quyền.



Cũng chính vì lý do này, một lần nữa xin các bạn trẻ đầy nhiệt huyết và bằng lương tâm của chính mình, hãy cùng tiếp tay, đóng góp thêm một phần tiếng nói, hành động trong tầm tay của mình cùng với các bậc ông bà, các bác, các cô chú cùng toàn thể anh chị em trong khối 8406 giúp thúc đẩy sự thay đổi cho một VN tươi sáng thêm mau chóng và mạnh mẽ hơn.

Các nhà đấu tranh cho dân chủ trong nước với 2 tấm gương tiêu biểu là Linh mục Nguyễn Văn Lý và Luật sư Lê Thị Công Nhân, là những người rất can đảm chấp nhận hy sinh chính bản thân mình để đòi lại những quyền căn bản cho toàn thể dân tộc. Cô LTCN lúc vừa mới ra tù đã nhắn nhủ lại với chúng ta: ‘Tôi chỉ có thể làm được cái nhiệm vụ bé nhỏ của tôi, tôi không thể làm nhiệm vụ của 90 triệu người dân VN, kể cả 3 triệu người Việt hải ngoại’. Đây là lời nhắn nhủ rất quan trọng và đầy trách nhiệm trên mỗi người con Việt Nam, đặc biệt cho thế hệ trẻ. Chúng ta hãy tiếp tay với cô vận động và kêu gọi các bạn trẻ trong nước hãy can đảm đứng lên bằng mọi cách phù hợp và thích ứng với điều kiện và tình huống của mỗi người.



Nguy cơ mất nước vào tay bọn bành trưóng Bắc Kinh đã gần kề. Những sự kiện xảy ra trong hơn 60 năm qua, kể từ khi có đảng CSVN từ việc dâng hiến biển đảo, đất đai cho quan thầy phương Bắc, đến việc cho bọn chúng tự do đem người của chúng khai thác bừa bãi bô xít ở Tây Nguyên, mà thực chất bọn công nhân này chính là những tên lính giả dạng, những tay súng sẵn sàng xâm chiếm VN khi thời cơ chín mùi. Tất cả những nguy cơ này cũng chỉ vì chúng ta đã thờ ơ với đất nước để cho một nhóm lãnh đạo CSVN tác oai tác quái trên quê hương, coi đất nước VN là của riêng của chúng, dân tộc VN là nô lệ của bọn chúng. Đã đến lúc chúng ta không thể ngoảnh mặt làm ngơ nếu không muốn một đất nước nô lệ.



Dân tộc Việt Nam ta nghìn năm lịch sử oai hùng, chúng ta sẽ không cúi đầu trước bất cứ thế lực nào đe doạ từ bên ngoài.

Có thể các bạn chỉ nghĩ đây là giấc mơ nhưng nếu chúng ta nuôi nấng và nung nóng nó, với cùng chung một ý chí và sức mạnh, giấc mơ sẽ thành hiện thực.

Khối 8406 trong và ngoài nước đang phát động và thúc đẩy một cao trào dấy lên lòng yêu nước để biến đổi giấc mơ thành sự thật. Với một phương thức đấu tranh bất bạo động, sức mạnh không có từ bạo lực. Sức mạnh đến từ sự can đảm và niềm tin, lòng quyết tâm cùng với sự đoàn kết, do đó Khối 8406 trong nước rất cần sự ủng hộ của toàn thể dân tộc, dư luận toàn thế giới, đặc biệt sự yểm trợ của người Việt hải ngoại cả về tinh thần lẫn vật chất. Vì thế nhu cầu phát triển của Khối tại các địa phương hải ngoại là một điều cần thiết.



Đây cũng là lý do chính để Khối 8406 Victoria được thành lập và phát triển. Sau đây, tôi xin giới thiệu sơ lược về Khối 8406 – Victoria:

Khối 8406 Victoria là một nhóm độc lập, sinh họat song song với Cộng Đồng, tuyệt đối tôn trọng nội quy của CĐNVTD Úc Châu. Khối đang phát triển để mời gọi quí vị tham gia. Sự tham gia của chúng ta sẽ chia sẻ gánh nặng đấu tranh cho tự do tại quê nhà mà Ban Chấp Hành Cộng Đồng đang gánh vác. Chúng ta sẽ thực hiện các đêm cầu nguyện hay thắp nến cho tự do. Một buổi lễ lớn có đông người vận động và cổ võ, sẽ chùn bước bọn csvn và nâng cao tinh thần cho người dân trong và ngòai nước. Chúng ta sẽ vận động chính giới Úc và đồng bào yểm trợ Phong trào đấu tranh cho dân chủ, rút ngắn ngày Tự Do cho dân tộc chúng ta. Một con én không làm nên mùa xuân, nhóm anh chị em chúng tôi tiếp tục kêu gọi quí vị, đặc biệt các bạn trẻ hãy bỏ chút thì giờ để quan tâm đến tình hình đất nước và dấn thân cho Tổ Quốc Việt Nam.


Các anh chị trong Khối sẽ chuyển tờ leaflet có đăng các thông tin cần thiết, và nếu quí vị, các bạn trẻ nào muốn tham gia xin liên lạc qua các thành viên trong khối: Liên Vũ (maytrang2020@hotmail.com); Phùng Mai (phungmai871@yahoo.com.au) hay

Nguyễn Quang Duy (
duyact@yahoo.com.au), hoặc quí vị có thể lên mạng/internet ghi danh qua Web site : http://8406vic.blogspot.com.



Xin nhấn mạnh với quí vị cùng các bạn trẻ rằng: Xin đừng lo lắng hoặc sợ hãi về kiến thức chính trị. Không ai dám tự hào mình có đầy đủ kiến thức đâu. Vả lại thời cuộc ngày nay biến đổi rất nhanh, do đó tình hình chính trị cũng biến đổi từng ngày. Người làm chính trị phải biết tuỳ cơ ứng biến. Nhưng chúng ta có làm chính trị đâu. Có thể nói chúng ta đang làm nghĩa vụ của một người VN. Nghĩa vụ khi mình cảm thấy có trách nhiệm phải làm một cái gì cho đất nước. Như thế cần tấm lòng là đủ. (Chính anh Phương Duy cùng các anh chị trong nhóm đã khuyên & nhắn nhủ tôi câu nói này, rất cảm động & đầy ý nghĩa cho nên hôm nay tôi cũng xin mạn phép gởi lại câu nói này đến các bạn trẻ chúng ta).

Xin chân thành cám ơn quý vị và kính chúc tất cả qui vị sống khoẻ mạnh và tràn đầy nghị lực để tiếp tục yểm trợ cho công cuộc đấu tranh giành lại tự do, dân chủ và nhân quyền cho người dân Viêt Nam.

Liên Vũ

Thành Viên Khối 8406

Melbourne 30/4/2010


Bài thứ Ba

Tâm Tình của người con thuộc thế hệ thứ hai Tưởng Niệm 35 năm Mất Nước


35 năm qua cộng đồng Việt nam chúng ta đã định cư , thành công trên xứ người rạng rỡ tông môn, nhưng cũng không kém phần chua xót khi nghĩ về Quê Hương Việt Nam thì không ít người trong chúng ta, phải gục đầu tủi hổ cho thân phận nước Việt Nam yêu dấu đang trong tay loài qủy đỏ cộng nô.

35 năm mất Nước Người Việt Quốc Gia chỉ chấm dứt một trận chiến 30/04/1975, nhưng cuộc chiến vẫn chưa chấm dứt mà chỉ chuyển biến sang một cục diện mới , là sự đấu tranh toàn diện cho chính nghĩa cho dân chủ và nền độc lập tự do thật sự của Dân Tộc Việt Nam.

35 năm dòng lịch sử Việt Nam bị hoen ố vẩn đục , Dân Tộc Việt Nam bị chà đạp ô nhục ! Quốc nhục cũng bỡi bọn phản Quốc cộng sản Việt nam cõng rắn cắn gà nhà cam tâm làm chư hầu cho Trung cộng, và chính điều này đã cho ta thấy Nước Việt Nam chưa có độc lập, không có dân chủ và tự do.


Việt Cộng là bọn hèn hạ ác độc như quái thú ! Chúng đã giết chết biết bao nhiêu thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam , chúng vắt cạn kiệt hết tất cả năng lực của con dân Việt Nam , bằng những màn buôn bán nô lệ với chiêu bài ‘xuất khẩu nhân công’ đi lao động nước ngoài, buôn bán trẻ em và phụ nữ ,Nước Việt Nam bị ô nhục , chỉ có lấy cây rừng làm bút và nước biển làm mực mới viết lên được hết tội ác của cộng sản Việt Nam.



Hôm nay tưởng niệm 35 Quốc hận, nơi đất khách quê người , đã trở thành quê hương thứ hai của chúng ta những người Việt Quốc Gia , chúng ta đã có được 4 thế hệ hiện diện nơi đây ( thế hệ thứ nhất, một rưỡi , thứ hai và thứ ba) , chỉ mong sao 4 thế hệ hiện tại này chúng ta có thể nào nắm tay nhau tạo nên một thành trì vững chắc , để bảo vệ cộng đồng người Việt Tự Do tại hải ngoại không để cho nghị quyết 36 xâm nhập, sự đoàn kết của chúng ta sẽ chống lại sự đánh phá của Việt cộng, và sự phá rối của Việt gian gây xáo trộn trong hàng ngũ những người Việt Quốc Gia không cộng sản.



Nếu trong chúng ta những ai có còn sự dị biệt còn câu nệ ‘cái tôi’ của chính mình , không bỏ đi được bản ngã ích kỷ nhỏ nhen , hơn thua nhau bỡi câu nói việc làm ,thì chắc rằng chúng ta sẽ lại giận hờn nhau , xa cách nhau và tự mình chia rẽ mình , Việt cộng không lo chống mà chống Cộng Đồng để rồi chính mình ‘bỏ ngỏ’ cho đảng cộng sản Việt Nam và tay sai của chúng, lúc ấy Việt cộng sẽ đánh thẳng vào cộng đồng Người Việt Quốc Gia của chúng ta ở hải ngoại và phá nát Cộng Đồng Người Việt Tự Do của chúng ta.



Kính thưa qúy Ông Bà cô bác anh chị em, trước khi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có thể “ngư ông đắc lợi” thì chúng con những người con nhỏ bé của thế hệ thứ hai thứ ba này, xin tha thiết kêu gọi sự đoàn kết , cảm thông và chia sẽ của tất cả đồng bào , những người Việt Nam Quốc Gia không cộng sản ; hãy để một bên những “áo mão cân đai” “những bằng cấp” hay ‘giai cấp’ , ‘giàu hay nghèo’,hoặc kinh nghiệm xương máu nhiều hay ít , hiểu Việt cộng ít hay nhiều..tất cả những điều đó rất đáng qúy nhưng xin hãy để một bên , mà chỉ xin nhìn nhau qua lá cờ Vàng Ba sọc đỏ lá cờ Quốc Gia Không Cộng sản, màu cờ như da vàng máu đỏ..và Mẹ Việt Nam ơi ..chúng con vẫn còn đây .. và chúng con cùng nhau nắm chặt tay nhau , không phân biệt tuổi tác chỉ biết vì chính nghĩa và vì bảo tồn dân tộc Việt Nam , cho dù sanh đẻ trên xứ người nơi đâu , dòng máu chúng con đang chảy vẫn là dòng máu Việt Nam muôn đời bất khuất. Nếu có chăng sự khác biệt duy nhất ở đây là “Tôi là người Quốc Gia không cộng sản, và anh là tên Việt cộng thì tôi sẽ chống”, chúng ta chống đảng cộng sản chứ không chống Dân Tộc Việt Nam .

Hỡi các bạn trẻ của thế hệ tương lai hãy đứng lên gánh vác cộng đồng hỡi đồng bào yêu dấu hãy nắm chặt tay nhau xây dựng cộng đồng Việt Nam bền vững, Một Cộng Đồng Người Việt Tự Do Quốc Gia Không Cộng Sản, đầy chính nghĩa để mỗi chúng ta không hổ thẹn với hồn thiêng sông núi, với Những người anh hùng đã nằm xuống cho hai chữ Dân chủ cho hai chữ Tự Do !!

Trân Trọng

Nguyễn Lê Thanh Trúc

Melbourne 23/04/2010

Melbourne 30/4/2010


*

Wednesday, April 28, 2010

TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN,* THÂN PHẬN CON NỢ VIỆT NAM TRƯỚC CHỦ NỢ TRUNG QUỐC



THÂN PHẬN CON NỢ VIỆT NAM TRƯỚC CHỦ NỢ TRUNG QUỐC  
 
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế http://viettudan. net  
 
  Cách đây chừng trên 20 năm, có phong trào các nước đã Kỹ nghệ hóa MUA NỢ lại các nước nghèo chưa mở mang ở Phi Châu và Nam Mỹ. Khi Chính quyền những nước nghèo có những món nợ chồng chất, họ tìm cách bán những món nợ ấy. Phải chăng việc các nước giầu mua nợ (nhận nợ dùm) là một hành động bác ái, thương người ? Về tiền bạc, rất hiếm người hoặc không có ai dễ dàng trở thành mạnh thường quân mà không có hậu ý. Cái hậu ý ở đây là bắt con nợ phải nhường những nguồn lợi Kinh tế lớn gấp mấy lần giá trị của món nọ mà họ mua dùm.  Tôi xin kể ra đây một tỉ dụ cụ thể để dễ hiểu. Cách đây 20 năm, tôi làm Cố vấn Tài chánh cho Group BONGO tại Congo. Sang Brazaville, tôi chứng kiến một Hợp đồng Mua Nợ giữa Nhật và Congo. Chính phủ Congo không có tiền để trả nợ. Một Công ty lớn của Nhật mua lại món nợ ấy với điều kiện là Chính phủ Congo nhường cho Công ty Nhật cả một vùng rừng phía Bắc nước Congo để Nhật khai thác gỗ qúy. Đối với Chính phủ Congo, thì đây là việc họ làm với Nhật mà Dân chúng không biết gì cả. 
 
Có thể Chính phủ còn nói với Dân rằng đây là việc khai thác tài nguyên rừng mà người Nhật làm ích lợi cho xứ sở. .   Việt Nam con nợ của Tầu Tại Việt Nam, chúng ta cũng thường nghe trong dân gian có những chuyện con nợ nghèo quá, phải gả chính con gái nhỏ để làm vợ cho chủ nợ. CSVN, trong những năm gần đây, thiếu hụt Ngân sách trầm trọng. 
 
Cuộc Khủng hỏang Tài chánh/ Kinh tế Thế giới làm cho đầu tư nước ngòai thụt xuống 82%(Tài liệu:Bài viết của phóng viên Asia Sentinel Consulting). Xuất cảng hàng hóa giảm 60%. Ngay cả giữa Trung quốc và Việt Nam, cán cân thương mại cũng thua lỗ: Năm 2008, Việt Nam xuất cảng sang Trung quốc trị giá USD.4 tỉ, trong khi đó nhập cảng từ Trung quốc tới USD.15 tỉ. Việt Nam muốn đi vay nợ từ những nước khác, nhưng trong hòan cảnh Khủng hỏang Tài chánh/Kinh tế, các nước khác cũng gặp khó khăn, làm sao cho vay được. Trong hòan cảnh như vậy, chỉ còn đi làm đầy tớ cho Tầu, bán cả vợ con cho Tầu để nhận làm con nợ.  Tầu là chủ nợ cho Việt Nam Chủ nợ thường có những lo lắng về trường hợp con nợ ăn qụyt. Ở đọan trên, chúng tôi nói rằng nhiều nước, nhất là Tây phương, rất ngại ngùng cho Việt Nam vay nợ, một phần là vì cuộc Khủng hỏang hiện nay, nhưng một phần quan trọng nữa là sợ CSVN qụyt nợ. Làm trong lãnh vực Tài chánh, chúng tôi đã nghe một số Ngân hàng gia nói rằng họ có thể cho Phi châu vay, nhưng nói đến cho Việt Nam vay, thì họ rất lo ngại.
 
 
 Cái lý do là nếu Việt Nam ăn qụyt, thì họ khó kiện cáo về luật lệ đối với Việt Nam. Ngược lại, Trung quốc sẵn sàng cho Việt Nam vay nợ vì họ có những thuận lợi chắc chắn sau đây: => Trung quốc cho Việt Nam vay nợ không phải bằng tiền mặt, mà bàng hàng hóa và nhân công. Trung quốc đang cần xuất cảng hàng hóa, nhân công và thiết bị dư thừa. => Trung quốc bắt Việt Nam phải cho những nhượng địa để khái thác tài nguyên làm bảo chứng cho những món nợ mà họ cho vay. Trung quốc nắm phần chắc Việt Nam trả nợ trước bàng tài nguyên khi cho vay bằng hàng hóa mà họ muốn xuất cảng. => Trong trường hợp Việt Nam lật lọng muốn ăn qụyt nợ, thì Trung quốc có quân đội mạnh đã bao vây Biển và sát trên đất liền để tràn sang bắt phải trả nợ. Trung quốc không cần phải kiện cáo luật lệ gì với Việt Nam, mà dùng sức mạnh quân sự giải quyết. 
 
 Tương quan Chủ nợ—Con nợ Không phải chỉ có tương quan hai CƠ CHẾ mà CSVN cần Tầu che chở, mà cái tương quan tệ hại nhất là giữa Con nợ mất hết độc lập và Chủ nợ hống hách chủ trương xâm lăng Việt Nam. Tương quan này cắt nghĩa:  (i) Tại sao Việt Nam dành cho Tầu khai thác tài nguyên; (ii) Tại sao mất Biển Đông, Hòang Sa/Trường Sa mà không dám than; (iii) Tại sao dành những Dự án cho Tầu; (iv) Tại sao Ngư dân Việt Nam bị Tầu bắt mà không dám nói; (v) Tại sao biết khai thác Bôxit Tây nguyên có hại mà vẫn cúi đầu để cho Tâu làm; (vi) Tại sao nhân công Tầu tràn vào Việt Nam trong khi đó dân nghèo VN thất nghiệp; (vii) Tại sao cấm giới trẻ VN không được tỏ lòng yêu nước; (viii) Tại sao bắt những Blogers nói đụng đến Tầu; (ix) Tại sao cấm những Trí thức Việt Nam như IDS phải câm miệng ?  Tất cả chỉ vì tính đê hèn, vô liêm sỉ, mất hết sĩ diện của con nợ CSVN trước chủ nợ Tầu luôn tìm mọi cách xâm lăng Việt Nam. 
 Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN,

THƠ THANH THANH

*

VƯỢT BIỂN


Giữa đêm lén dậy dòm khe hở
Nhìn những can-nhân bị bắt về.
Tiếng khóc thơ nhi làm nghẹn thở;
Trái tim thắt bóp nhói đau tê .
Kìa, người thiếu-phụ bồng con dại;

Đứa lớn lưng đìu, tay dắt em.
Ánh mắt nhìn con đầy ái-ngại:
Một bầu đen tối mấy trời lem...
Cuộc đời như một trò may rủi;
Không được thì thua, lẽ hiển-nhiên:
Vốn sạch, sòng tan, tay trắng phủi;
Hướng lai tâm-sự đối sầu miên...
Ngó người tự thấy mình trong cuộc,
Không khóc mà sao lệ bỗng trào !
Tình-cảm vô-hình mà trói buộc
Cho cùng hạnh-phúc, tận thương-đau !
Hôm kia, nàng soạn xong hành-lý,
Chỉ chọn mang theo cái tối-cần:
Trước mắt, đàn con là của qúy,
Một phần xương thịt chính châu-thân.
Hôm qua, nàng mặc cho con ấm,
Buộc tóc, trùm khăn, kín cả người;
Lũ trẻ mừng như ăn trái cấm
(Không cho ai biết chuyến "đi chơi")
Hôm nay, tất cả dầm sương giá,
Mũi buốt xuyên thâu tận đáy lòng.
Đám nhỏ ngỡ-ngàng "Sao thế, má?"
Nghẹn-ngào nàng biết nói sao xong!
Nàng đi tìm sống cho ra sống,
Cho bản-thân và cho các con:
Không chỉ cơm canh và áo xống,
Mà còn... chí cả với lòng son...
Những ai cất bước lên đường trước?
Ai gặp duyên may, mộng ước thành?
Ai gửi xương tàn về đáy nước?
Và ai ... mai mốt sẽ xuyên ranh?
Thời-gian tưới tắt bao nhiêu lửa,
Quét sạch tàn tro bếp củi rừng...
Nhưng, những hỏa-sơn còn mãi thở:
Lửa lòng âm-ỷ thuở nào ngưng!
Người đi, không nói bằng lời nói,
Mà nói xuyên qua việc dám làm:
Bản án tuyên trên đầu hổ sói!
Vết thương lở giữa óc phu phàm!
Nhưng đàn con dại làm sao hiểu ?
Từ độ đông về, đã mấy xuân!
Đứa mới nhi-nhô hồn ấu-tiểu,
Đứa chưa kết hạt bụi trong trần!
Ngày mai mới thấy thân tù-tội,
Chúng sẽ buồn hơn kiếp chó hoang:
Chấp-nhận đêm đen là dạ-hội,
Biết đâu địa-ngục với thiên-đàng!
Ngày kia, nhiễm thói đời điên-đảo,
Chúng sẽ căm-thù chính mẫu-thân:
Chẳng chịu an-tâm đời "thiện-hảo",
Kéo con cùng kẹt cảnh gian-truân!
Hỡi người thiếu-phụ không quen biết!
Tôi khóc trong này, nàng biết chi!
Nàng khổ từ đây cùng cốt-huyết,
Từ lâu ... tôi khổ... với thê-nhi ...
Trại Kho Đạn (Chợ Cồn) Đà Nẵng 80-81
THANH-THANH



Tuesday, April 27, 2010

NGỌC CHÂU * KÝ


Nhìn Lại Mình Sau 35 Năm Tỵ Nạn,
Từ Tháng 4-1975


Ngọc Châu
(Là một đoản văn tự thuật nên không sao tránh khỏi đề cập đến "cái tôi đáng ghét", mong quý độc giả thông càm! -- NC_M/Ger)

Thắm thoát mà tôi đã xa quê hương, xa Việt Nam mến yêu 35 năm, kể từ đầu tháng tư 1975 oan nghiệt!

Ba mươi lăm năm trôi qua nhanh như thoi đưa, như là một giấc mơ khi nhìn lại mình giờ đây tóc đã bạc nhưng so với nước Đức là nơi tôi đang định cư với tư cách một người tỵ nạn chính trị thì nghiệt ngã, buồn đau, áp bức, tù đày… vẫn còn hiện hữu trên quê hương mặc dầu Việt Nam (VN) đã thống nhất từ đó, 15 năm trước Đức!

Ba mươi lăm năm rồi mà người Việt đi vẫn đi, tuy không còn bằng cách vượt biển hay vượt biên như sau 30-04-1975 nhưng đồng hương cũng đã tìm ra nhiều cơ hội khác để "rời Việt Nam" qua diện đoàn tụ gia đình (vợ, chồng, con cháu) hay kết hôn với người nước ngoài, miễn làm sao rời xa được nơi mệnh danh là “thiên đàng xã hội chủ nghĩa”, trốn khỏi được cái “thiên đàng cộng sản” là mừng như một lần được hồi sinh. Trong khi đó ngược lại thì dân Đông Đức (DDR) chẳng thấy ai trốn chạy vì Cộng Hoà Liên Bang Đức (BRD) đã làm chủ một Đức quốc thống nhất sau khi cộng sản DDR bị giải thể.

Người dân Đông Đức chẳng những không lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rún mà trái lại họ còn ở lại, vượt qua bao nhiêu khó khăn để cùng nhau nổ lực xây dựng một nước Đức hùng cường, tự do, dân chủ. Khác với Việt Nam, biến cố Thống Nhất Đất Nước của Đức không đổ một giọt máu nào của đồng bào vô tội cả!

Đức không tiêu hủy hàng triệu tài nguyên trí tuệ và nhân lực của “Quốc Gia Dân Tộc“ trong những trại tù khổ sai ‘‘học tập cải tạo“ và cũng không để lại các tệ nạn xã hội xấu xa tiêu biểu nhất của thế kỷ mà vẫn giữ được sự vẹn toàn lãnh thổ và đã xây dựng một xã hội ôn hoà, nhân bản đầy tình yêu thương đồng loại. Vì vậy 20 năm sau khi thống nhất cả thế giới đang nhìn nước Đức với lòng thiện cảm và đầy khâm phục.

Chừng đó thôi cũng đủ để chứng minh một cách rõ ràng rằng những ai từng yêu chuộng Tự Do đều không thể sống dưới chế độ cộng sản gian manh, tàn bạo. Minh chứng cho sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản cách hùng hồn nhất là sự sụp đổ của cộng sản Đông Đức cũ, của cả khối cộng sản Ðông Âu và tiếp theo là đàn anh Nga Sô vào cuối thập niên 1980!

Hôm nay tôi chỉ muốn ghi lại đây vài ý tưởng chợt thoáng về liên quan chút ít đến cuộc đời tỵ nạn của mình và xin được nói sơ về "cái tôi đáng ghét" qua bài tạp ghi ngắn này! Là một bài ngắn mang tích cách tự thuật nên chắc chắn khó tránh khỏi được cái nhìn chủ quan có thể làm phật lòng ai đó qua sự diễn đạt tư tưởng rất trung thật của mình, vì thế mong tất cả hoan hỉ cho!

Tôi nói riêng đã may mắn đón nhận được rất nhiều "tình cờ" trong cuộc đời. Ngẫu nhiên đầu tiên là dù không bao giờ nghĩ đến nhưng … tôi đã được phép của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà thời đó cho xuất dương du học sau khi xong Tú Tài II, giữa lúc quê hương ngập chìm trong binh lửa trước tham vọng cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam (NVN) do cộng sản miền Bắc chủ xướng với sự giúp đỡ về mọi mặt của Nga, Tàu và khối cộng sản nói chung!

Đầu tháng 03-1975 tôi về thăm quê hương và gia đình nhưng lúc ấy chiến trường VN sôi động, người dân miền Nam bối rối, lo âu nên tôi đành phải rời VN sớm hơn dự tính. Lại thêm một "tình cờ" nữa, tôi may mắn đã rời Sài Gòn vào đầu tháng 04-1975, vì vài tuần sau đó, Nam Việt Nam thất thủ. Nếu không chắc tôi cũng sẽ phải chọn đường vượt biên hoặc vượt biển như bao đồng hương khác, sau 30-04-1975.

Có thể nói cuộc đời của những du học sinh thời Việt Nam Cộng Hòa như tôi trải qua khá nhiều truân chuyên từ dạo ấy, sau tháng tư đen 1975, từ khi cộng sản Bắc Việt ngự trị miền Nam Việt Nam. Khác với quyết định đi tìm Tự Do, đi tìm sự sống trên cái chết qua hình thức vượt biên vượt biển của đồng hương, chúng tôi may mắn hơn, đơn thuần chỉ phải chọn lựa một trong hai: về Việt Nam hay ở lại nước ngoài. Nếu quyết định về VN thì phải cuối đầu phục tùng nhóm sinh viên đoàn kết và toà đại sứ Việt Cộng. Còn ngược lại nếu quyết định ở lại nước ngoài thì phải chấp nhận xa quê hương, xa gia đình, bạn bè anh em và không biết khi nào mới gặp lại!

Cuối cùng, riêng tôi đã có một quyết định "xin tỵ nạn chính trị", dù tuổi và kinh nghiệm đời của mình lúc đó chẳng là bao. Cũng không phải là những người từng phục vụ trong quân đội hoặc tham chính thời VNCH; chưa từng bị cộng sản bắt bớ giam cầm hay đã “bị tra tấn dã man và nếm mùi học tập cải tạo của cộng sản“ nên muốn được "tỵ nạn" những sinh viên du học phải chứng minh cho chính quyền Đức lúc đó rõ lý do là tại sao không muốn hồi hương v.v…

Trong thời gian chuyển tiếp kể từ khi nộp đơn chúng tôi từ những người tuy có quốc gia, gia đình bỗng nhiên trở thành những kẻ "vô tổ quốc" vì đã nhận được sổ thông hành mang tên như vậy. Cơ quan hữu trách Đức cứu xét hồ sơ xin tỵ nạn khá lâu, có người chờ đến 2-3 năm nhưng cuối cùng tôi đã nhận được sổ thông hành tỵ nạn.

Điều làm chúng tôi đau lòng nhất là trong sổ thông hành tỵ nạn này có ghi câu "được phép đi khắp nơi, nhưng trừ Việt Nam", nơi mình sinh ra và lớn lên. Vâng, điều kiện tỵ nạn là vậy vì dễ hiểu thôi, đã viện dẫn "gặp khó khăn với nhà cầm quyền cộng sản" để xin tỵ nạn thì thật là quá mâu thuẩn nếu mình về Việt Nam và lại ra đi an toàn phải không? Khó khăn ban đầu sau 30-04-1975 xem như đã vượt qua, được chỗ tạm dung. Chưa hết, vấn đề sinh kế cũng làm chúng tôi xính vính thời gian khi mà tình trạng kinh tế lúc bấy giờ đang bị khủng hoảng trầm trọng.

Có lẽ thánh nhân đãi ngộ nên tôi đón nhận thêm ngẫu nhiên, may mắn khác trong hoàn cảnh lúc đó sau khi cầm sổ thông hành tỵ nạn trong tay. Được thâu nhận vào làm việc thuộc phần hành "nghiên cứu và phát triển, trọng điểm là phát triển" cho hãng rất nổi tiếng trên thế giới, nên tôi nói riêng cảm thấy an tâm từ đó nhưng buồn ray rức vì nỗi nhớ nhà và tủi thân cho kiếp sống tha hương, ăn nhờ ở đậu của mình.

Tôi như con chim lạc đàn, trong thức ngủ vẫn ước mơ có ngày tìm về tổ ấm. Với thông hành tỵ nạn, chúng tôi nói chung được quyền sống và đi làm như dân bản xứ, chỉ khác điều là không được phép bầu cử.

Cuối thập niên 70, phong trào tỵ nạn lên cao. Người Việt được thâu nhận vào Đức rất dễ dàng mà không phải qua những thủ tục rườm rà hay khó khăn như chúng tôi trước đó. Ai thuộc diện "boat people" tự động được cấp thông hành tỵ nạn khi đến Đức, không cần cứu xét gì cả! Thỉnh thoảng gặp đồng hương thuộc diện này chúng tôi có trò chuyện. Hết kể những cuộc vượt biên vượt biển thật hải hùng thì họ xoay ra than chuyện khó khăn về hội nhập hay khi học tiếng Đức…

Đôi khi họ đề cập đến chuyện nhập tịch, viện dẫn có quốc tịch đi đó đây làm việc dễ dàng hơn. Tôi chỉ nghe và ghi nhận. Khi được hỏi thì tôi cũng chỉ trả lời là vẫn còn mang sổ thông hành tỵ nạn, dù ở đây lâu gấp mấy lần cũng như thường hay đi nước ngoài vì lý do nghề nghiệp thời đó. Thú thật, đã đi công tác Bắc Âu, Pháp, Áo, Ý, thăm thân nhân ở Úc, Mỹ, Anh nhưng ít gặp trở ngại, chỉ tội mất thì giờ chờ lâu hơn tại các phi trường so với những ai có quốc tịch Đức mà thôi.

Thế rồi những đồng hương qua sau tôi lần lượt xin nhập tịch Đức. Riêng tôi vẫn giữ sổ thông hành tỵ nạn cho đến năm 1994. Thêm một tình cờ khác làm tôi thay đổi ý định và … xin vào quốc tịch xứ người, một quyết định không đơn giản sau nhiều đêm dài trằn trọc suy nghĩ.

… Số là trong chuyến công tác đi miền Nam nước Pháp cho hãng vào cuối hạ 1993, tôi gặp trở ngại ngay tại phi trường. Bạn đồng nghiệp ra ngoài cỗng đứng chờ còn tôi vì thấy trong thông hành tỵ nạn để quốc tịch Việt Nam nên nhân viên phi trường nghi ngờ, lý do Pháp "đón nhận bất đắc dĩ người Việt sang Pháp không hợp lệ" và tìm cách định cư tại đó. Phải giải thích khá dài giòng, nói là có vé máy bay khứ hồi, ngủ ở khách sạn do hãng giữ chỗ v.v… thì họ mới bằng lòng cho đi. Mấy người bạn Đức thấy vậy chọc quê quá xá nên sau đó …. tôi mới có ý định xin nhập tịch Đức, nộp đơn vào cuối năm 1993.

Nói đến đây cho tôi vòng vo thêm một tí. Hoàn thành đủ thủ tục giấy tờ đòi hỏi từ phía Đức đem nộp, thì được nhân viên chỉ cho đống hồ sơ trước mặt và nói, hồ sơ ông hôm nay nằm dưới cùng. Đến khi được duyệt xét chắc cũng nửa năm sau. Nghe vậy tôi giật mình. Hỏi thêm thì bà nhân viên mách nước phải làm thế này thế kia thì may ra được ưu tiên hơn.

Tôi xin hãng cấp cho giấy phải công tác ngoại quốc nên nộp vào thì hồ sơ tôi không còn nằm hạng chót nữa. Lại thêm một ngẫu nhiên tốt đến với tôi. Chưa hết. Cái khó khăn mà tôi phải đương đầu giải quyết là việc phải nộp cho chính quyền Đức giấy từ bỏ quốc tịch Việt Nam.

Thế là một cuộc bút chiến xảy ra giữa tôi bà bộ nội vụ tiểu bang Bayern liên tục trong vài tháng. Tôi đã viện dẫn không liên hệ gì hết với toà đại sứ Việt cộng từ 30- 4 -1975 nhưng chẳng nhằm nhò gì, họ khư khư nói, bây giờ Việt Nam đã cấp giấy thôi quốc tịch rồi, không có không được.

Thế là tôi đành cắn răng viết thư cho toà đại sứ Việt cộng. Tuy nhiên tôi nghịch ngợm nên viết thư toàn bằng tiếng Đức với nhân viên sứ quán. Có lần điện thoại lên hỏi sự việc đến đâu sau hơn 6 tháng chờ đợi, thì họ nói "vòng vo" làm tôi cảm thấy khó chịu nên cuối cùng tôi viết thư (cũng bằng tiếng Đức) lên cho biết VÌ chính quyền ĐỨC yêu câù chứ thật ra tôi chẳng muốn liên hệ gi cùng quý vị cả và nếu không cho tôi thôi quốc tịch thì trả lời cho biết qua thư.

Một bản sao (Copy) tôi gởi cho bộ nội vụ Đức để kính tường vì trong trường hợp như vậy tôi sẽ được nhập tịch, mà không cần giấy chứng minh thôi quốc tịch Việt Nam. Chắc thấy tôi cứng rắn quá nên vài tuần sau tôi nhận được giấy từ bỏ quốc tịch, dễ hiểu thôi… vì nếu không cấp thì tòa đại sứ mất toi hơn hai ngàn Đức Mã là lệ phí mà tôi phải trả cho cái giấy từ bỏ quốc tịch Việt Nam, một số tiền không nhỏ!

Trong thời gian chờ đợi giấy tờ từ toà đại sứ Việt cộng tôi được giấy chấp nhận cho phép nhập tịch Đức. Nộp thêm chứng minh thư cho thôi quốc tịch VN là tôi được gọi ra nhận sổ thông hành Đức ít lâu sau đó. Xứ tôi ở không rườm rà như các quốc gia khác, làm lễ rình rang khi nhập tịch.

Ra sở ngoại kiều ký giấy nhận sổ thông hành, nộp pass tỵ nạn cũ và nhận thông hành Đức là xong, sau khi trả lệ phí cho sở ngoại kiều mà nếu tính ra thì quá rẽ, chỉ bằng 1/10 số tiền phải đóng cho toà đại sứ Việt cộng để có được giấy từ bỏ quốc tịch Việt Nam.

Một điểm khác xin nói thêm nhờ theo học Đại Học Đức và ở đây trên 15 năm (theo luật thời đó) nên tôi khỏi phải thi khoá Đức ngữ thành ra tiết kiệm được thêm chút ít tài chánh.

Vậy là tôi, một kẻ da vàng tóc đen, mũi tẹt trở thành công dân Đức từ giữa năm 1994, sau 26 năm kể từ khi tôi đặt chân đến xứ Đức lạnh lẽo này. Có thể nói chỉ trên giấy tờ vì ra đường dưới con mắt của người dân bản xứ chúng tôi vẫn là một người ngoại quốc dựa theo màu da và hình dáng, không hơn không kém. Cũng vì "thành dân Đức bất đắc dĩ" mà con trai đầu lòng tôi đã phải bị động viên, gọi đi quân dịch khi mới vừa vào học Đai Học lục cá nguyệt hai có hai ngày và sau 10 tháng quân trường mới về học lại; không như ở Mỹ là sinh viên đi lính vài năm để được học bỗng hay trợ cấp vào Uni học.

Thời gian cứ thế mà trôi, đời sống tôi thật sự chẳng có gì thay đổi, chỉ khác là đã đi bầu nghị sĩ quốc hội, nghị viên tiểu bang và đại diện làng xã được vài lần trong suốt 16 năm qua, kể từ khi tôi mang quốc tịch Đức. Tôi vẫn đi làm như bao người khác, thi hành đúng bổn phận “một người Đức mới“ và cảm thấy mình đang chia sẻ với dân bản xứ, với quốc gia đã cưu mang mình!

Thỉnh thoảng gặp lại đồng hương, những người vượt biên, vượt biển trước đây và tuy đến sau nhưng đã nhập tịch Đức trước chúng tôi thì tôi nhận thấy có nhiều thay đổi. Họ đi lui tới về Việt Nam với nhiều lý do …, những lý do giải thích mà mọi người - trừ những ai thiếu may mắn đã bỏ mình trên con đường đi tìm Tự Do - đều có thể sử dụng trong trường hợp "về thăm quê hương".

Có người gặp tôi lần đầu biết là thành phần đi du học thời Việt Nam Cộng Hòa hỏi anh về VN chưa, nói Việt Nam giờ thế này thế kia ... tôi chỉ cười nói chưa dù có đủ khả năng. Nghe vậy họ nhìn… rồi đổi sang đề tài khác. Một lần, gặp vài người quen trong giới tỵ nạn hỏi: sao anh có xin Visa về VN, được cấp chưa v.v… tôi tỉnh bơ trả lời. "tôi đâu có bao giờ liên hệ với sứ quán Việt cộng xin chiếu khán (Visa) đâu mà chờ với đợi, mà cho với không cho…"!

Vâng, 35 năm rồi kể từ khi tôi đặt chân tại Sài Gòn lần cuối hay đúng hơn kể từ khi tôi "trốn chạy vào đầu tháng tư 1975" trong chuyến về thăm gia đình với dự tính ở lại ba tháng để đi thăm bà con từ Sài Gòn ra Huế thì tôi đã để lại quê hương yêu dấu của mình đàng sau lưng từ dạo ấy. Tôi đang chôn chân xứ người, vẫn làm thợ khách và chờ ngày về hưu.

Tuy nhớ nhung muôn vàn Việt Nam quê tôi nhưng chỉ biết ngậm ngùi thương nhớ, vẫn hằng ước mong một ngày về mà Việt Nam thật sự có đầy đủ tự do, dân chủ và nhân quyền. Tôi nghĩ mình không thể nào cam tâm cúi đầu xin phép để được du lịch, để được cho phép về thăm quê hương của chính mình trong hoàn cảnh hiện tại mà chắc chắn tôi sẽ phải tự hổ thẹn với lương tâm nếu tôi làm việc này bởi vì một khi mà tôi với hơn 25 tuổi đầu, có thể nói là quá trưởng thành đã quyết định xin tỵ nạn, xin chọn nước Đức làm quê hương thứ hai và lý do được nêu ra rất rõ ràng: "vì tôi không chấp nhận chế độ cộng sản".

Tôi chẳng phải là đứa bé lên năm! Một đứa bé chừng ấy tuổi nếu ai đưa cho nó hai miếng bánh chắc chắn nó sẽ tự chọn cái nào thấy ngon hơn. Khi chọn lựa cho mình “con đường để đi“ sau 30-04-1975, tuy còn quá trẻ, chỉ mới hơn 25 tuổi và vừa tốt nghiệp Đại Học xong nhưng chẳng ai ép bắt tôi phải làm theo ý họ.

Chính tôi phải có một sự lựa chọn dứt khoát.
Tôi đã bỏ tất cả để chọn cho cuộc đời mình hai chữ “TỰ DO“!

Bút mực còn đó, giấy tờ và chữ ký quả quyết rằng đã khai đúng sự thật khi nộp đơn xin tỵ nạn còn đó. Tôi không thể nào dối lòng, dối mình được!

Nhìn lại mình thì tôi, một cựu du học sinh thời Việt Nam Cộng Hoà không hổ thẹn gì hết. Tôi quan niệm rất thực tế: "Đất lành chim đậu". Ngày đêm vẫn thiết tha mơ ước được dịp "Tung cánh chim tìm về tổ ấm" nhưng rất tiếc tôi vẫn còn là con chim lạc đàn, đang tha phương và vẫn còn giữ vững tư cách của một người tỵ nạn chính trị sau 35 năm đổi đời, theo đúng nghĩa của nó vì đã không chấp nhận chế độ chuyên chính vô sản sau khi cộng sản cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam nên tạm “ Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương“!

Ngọc Châu_M / Đức quốc
(ghi vội lại vài ý tưởng chợt về nhân ngày 30-04-2010)
NGỌC CHÂU


Sunday, April 25, 2010

RFA * 30-4-75

*

35 năm sau, những chiến binh cả 2 miền Nam-Bắc


Đỗ Hiếu, phóng viên RFA
2010-04-25

Những chiến binh thuộc hai Miền Nam-Bắc, những người đã từng là đối thủ, kẻ thù của nhau trong suốt cuộc chiến, 35 năm sau họ nói gì?


AFP PHOTO/Aude GENET

Phát triển kinh tế nhưng vẫn còn khoảng cách giàu nghèo.

Biến cố 34-4-1975 được xem là “một sự đổi đời” khiến hàng triệu người phải vượt thoát tìm tự do, trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông. Hàng triệu người khác bị cầm tù, bị xua đuổi khỏi thành thị, bị bần cùng hóa, bị tước đoạt quyền sống.

Đáp lời mời của Ban Việt Ngữ, hai cựu sĩ quan Không Quân và Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, một cựu sĩ quan Quân Đội Nhân Dân và một cựu đảng viên Cộng Sản từng được cử du học Đông Âu, trình bày những suy nghĩ của mình đối với hiện tình đất nước, sau khi đã dứt tiếng súng từ 35 năm qua; hòa bình được vãn hồi, kinh tế đang phát triển, xã hội ổn định, tuy nhiên người dân Việt cho rằng vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, được chính những chiến binh của hai miền Nam-Bắc nêu lên với RFA.

Fact box
- Việt Nam - Dân số: 85.789.573,
- Chính trị:theo chế độ xã hội chủ nghĩa, một đảng duy nhất là Đảng CSVN,
- lợi tức bình quân 1,060 US dollars.

Tự do, dân chủ, độc lập?

Một quân nhân Không Quân miền Nam có gần 25 năm thâm niên công vụ, cựu tù nhân cải tạo với 7 năm tù, từ California, ông Nguyễn Thanh Liêm phân tích về tình hình đất nước:

Về mặt chủ quyền: Giáp ranh biên giới Ải Nam Quan, Thác Bản Dốc và các hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa đều bị Trung Quốc cướp mất. Trên Internet tố cáo Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận hối lộ trên trăm triệu đô la cho Trung Quốc khai thác Bô Xít tại Cao Nguyên.
Về mặt xã hội: Việt Nam đàn áp một cách khốc liệt các nhà tranh đấu cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền, luôn cả các nhà tu hành đòi tự do tôn giáo, bắt cầm tù và tra tấn trong các nhà giam. Chưa có một chính phủ nào, luôn cả thời thực dân đế quốc đô hộ, cũng chưa bằng thời nay do cộng sản cai trị; không có luật pháp, chỉ có luật rừng do họ dựng nên để đè đầu người dân Việt Nam.
Cộng sản Việt Nam cho xuất khẩu lao động đem dân đi làm nô lệ cho quốc tế, hạ nhân phẩm người phụ nữ Việt Nam, buôn bán phụ nữ làm vợ cho người Đài Loan, Đại Hàn, và có nhiều người phải làm vợ cho cả gia đình cha con và anh em. Trẻ em 8, 10 tuổi thì đưa sang Campuchia cho vào các động mãi dâm làm gái với khách thập phương.
Về giai cấp: Số đông dân chúng quá nghèo, thành phần giai cấp lãnh đạo thì quá giàu, một bữa tiệc gần cả trăm ngàn đô la, một chai rượu ngoại cả ngàn đô, nhà cao cửa rộng, như nhà của cựu Tổng Bí Thư Lê khả Phiêu đã phô bày trên Internet.


Một lọat các nhà đấu tranh cho dân chủ bị đưa ra xét xử gần đây
Một lọat các nhà đấu tranh cho dân chủ bị đưa ra xét xử gần đây


Lời nói của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm” là một câu nói bất hủ muôn đời! Cộng Sản miền Bắc xâm lăng miền Nam, không xem dân miền Nam là tình ruột thịt anh em mà đối đãi như kẻ thù cần tiêu diệt. Đảng cộng sản phải giải tán, để cho nhân dân Việt Nam tự do bầu lấy một chính quyền do Dân, phục vụ Dân và lập quyền Dân.”

Thất vọng

Kế đó, một cựu sĩ quan Quân Đội Nhân Dân, nhiều năm chiến đấu ngoài mặt trận từng chứng kiến bao đồng đội gục ngã, hy sinh máu xương để thực hiện chiêu bài “Giải Phóng Miền Nam” do Hà Nội chủ trương, ông Vũ Cao Quận nói lên niềm tâm sự của mình, được gói gọn qua hai chữ “thất vọng”:

“Tôi lúc này như ngọn nến mong manh trước gió, tắt lúc nào chưa biết, những lời nói của tôi là điều tôi nói thật. Cuộc chiến đấu giải phóng Miền Nam đối với tôi, khi sắp sửa ra đi với các cụ rồi, tôi chỉ đau lòng là cuộc chiến đấu đó là “nồi da xáo thịt”, hai anh em xông vào bắn giết lẫn nhau. Một bên là người Mỹ cho kẹo cao su với khẩu AR 15, một bên là Tàu với Liên Xô cho một gói lương khô với khẩu AK 47, cứ thế mà hai thằng anh em ruột, cùng máu đỏ, da vàng, cùng bà mẹ Âu Cơ sinh ra, xông vào chém giết lẫn nhau.

Chúng tôi chẳng giải phóng Miền Nam làm gì, và Miền Nam cũng chẳng cần chúng tôi giải phóng.

Ông Vũ Cao Quận

Chúng tôi chẳng giải phóng Miền Nam làm gì, và Miền Nam cũng chẳng cần chúng tôi giải phóng. Cái chuyện đó đã qua lâu lắm rồi mà tôi thì già yếu quá, chỉ trả lời tóm tắt thế thôi.
Tôi chỉ thấy nỗi đau là cái giá hy sinh của đồng đội tôi, và kể cả các ông nữa, tôi không biết gọi như thế nào, là những người đồng đội, hai bên cùng vì Tổ quốc của mình mà bắn giết lẫn nhau. Đến bây giờ chỉ có điều là tôi thất vọng quá, có thế thôi, tôi sắp ra đi rồi, tôi không cần gì nữa, còn tôi thất vọng vì nó rồi, đồng đội của tôi chiến đấu chết nhiều quá. Những lời hô hào của họ thì đều đẹp đẽ cả, chẳng gây cho tôi một cái hy vọng gì cả, một chút hy vọng nào cả, tôi không chờ được nữa. Thế là công lao của tôi là công cóc rồi, không chờ được cái ngày ấy nữa đâu. Nhân dân ta thì vẫn khổ quá, không hy vọng gì cả.”

Đâu rồi lợi thế 35 năm?

Với cái nhìn của một nhà phân tích thời sự, bình luận chính trị, một cựu sĩ quan Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, ông Đại Dương đưa ra nhận xét của ông về chính sách của Hà Nội, trong hơn 3 thập niên qua, cùng các hậu quả được thể hiện rõ, hôm nay:



Bản đồ hình lưỡi bò do Trung Quốc công bố xác định chủ quyền trên  biển Đông. Photo courtesy of nguoiviettynan.net
Bản đồ hình lưỡi bò do Trung Quốc công bố xác định chủ quyền trên biển Đông. Photo courtesy of nguoiviettynan.net


“Tập đoàn lãnh đạo đảng cộng sản đưa đất nước vào tình cảnh mà không một người Việt Nam yêu nước nào cảm thấy hài lòng, hãnh diện vì áp dụng chính sách bất dung và chọn lầm đồng minh. Hòa bình đến, nhưng, hy vọng về đất nước thanh bình, hết hận thù để cùng chung sức phát triển đã bị chính sách bất dung làm triệt tiêu có hệ thống các yếu tố góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Sách vở như chiếc túi khôn của loài người vốn tích lũy vô số kinh nghiệm bị đảng cộng sản Việt Nam đốt sạch nhằm cắt đứt sự liên hệ giữa thế hệ trẻ với sinh lực dân tộc. Chính sách bất dung dấy lên làn sóng vượt biên, thuyền nhân từ Bắc chí Nam đã vét cạn chất xám cần thiết cho công cuộc xây dựng đất nước phú cường.



Do đó, tập đoàn lãnh đạo Hà Nội phải dựa vào đồng minh để tồn tại đã khắc sâu những vết hằn đau đớn lên cơ thể Việt Nam. Việt Nam chọn Liên Xô làm đồng minh nên cho Mạc Tư Khoa toàn quyền sử dụng hải cảng Cam Ranh từ năm 1979 đến 2004. Áp dụng chính sách hợp-tác-hóa đã dẫn dân tộc đến bờ vực nạn đói năm 1985. Việt Nam xua quân vào Xứ Chùa Tháp năm 1979 đã kích thích Bắc Kinh mở cuộc chiến tranh biên giới khốc liệt vào năm 1979.
Liên Xô tan rã, Hà Nội lại muối mặt cầu cạnh Bắc Kinh nên phải làm quà bằng các Hiệp định về biên giới và Vịnh Bắc Bộ. Từ đó, Việt Nam có một mô hình kinh tế tư bản man dại thời đại Karl Marx, cộng với kiểu kinh tế thân hữu đã bị thế giới ruồng bỏ. Vì áp dụng mô hình lạc hậu nên đến năm 2009, lợi tức bình quân chỉ có 1,000 USD. Từ 1963 đến 1995, Nam Hàn đã nâng lợi tức bình quân từ 100 lên tới 10,000 USD.

Việt Nam đang từng phút, từng giờ đứng trước mối đe dọa mọi mặt của người đồng minh “môi hở răng lạnh”. Chỉ có dân tộc Việt Nam đồng lòng mới giải tỏa được chứ không thể trông chờ vào nhà nước ù lì và bất lực.”

Thực chất của chế độ cộng sản

Một cựu đảng viên cộng sản, du học tại Ba Lan rồi trở về nước phục vụ, nay sinh sống tại thủ đô Vác Sa Va, tiếp tục đấu tranh cho quyền lợi giới lao động Việt Nam ở hải ngoại, ông Trần Ngọc Thành giải thích vì sao ông rời bỏ hàng ngũ đảng cộng sản Việt Nam:


“Ra đi du học tại Ba Lan tôi mới bắt đầu hiểu thực chất của chế độ cộng sản là gì, tôi có rất nhiều anh chị em trực tiếp tham gia vào quân đội, có những người đã hy sinh, có những người hiện nay là thương binh. Sau này, ngày càng tìm hiểu thì tôi thấy đó là một cuộc nồi da xáo thịt của người Việt Nam đánh nhau. Người hưởng lợi chính là đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1945 thì họ cướp chính quyền tại Miền Bắc, khi đất nước chia thành hai miền sau hiệp định Geneve, họ lại bắt đầu phát động cuộc chiến tranh gọi là giải phóng Miền Nam, thực chất là họ muốn thu quyền lực về một mối, tôi rất thất vọng về chính quyền hiện nay.


Những căn nhà sang trọng nhiều từng
Những căn nhà sang trọng nhiều từng lầu chung quanh nhà bác Phiêu đều là của các lãnh tụ cao cấp tướng tá


Thật ra ý đồ của Hà Nội là thâu tóm tất cả chính quyền về tay người cộng sản, nhưng phải nhìn vào thực tế của đất nước, nhìn vào hạnh phúc của nhân dân mà phấn đấu. Thật ra từ năm 1975 đến nay, những người cầm quyền chỉ chăm chú vào quyền lợi của đảng cộng sản cũng như bản thân người cầm quyền, còn người dân vẫn là nô lệ trên đất nước mình. Cái nô lệ ở đây không chỉ nói riêng về kinh tế mà trên các mặt, người dân có quyền nói, biểu hiện chính kiến, cách nhìn của mình, nhưng dưới chế độ cộng sản họ bị nô dịch tất cả các mặt. Về kinh tế thì chính quyền cho cái gì thì dân được cái nấy, như việc hợp tác hóa, rồi sau này các chính sách khác về kinh tế là ngăn sông cấm chợ, cấm buôn bán, cải tạo công thương nghiệp, chỉ để phục vụ một nhóm nhỏ trong chính quyền.


Thật ra thì tôi không trả thẻ đảng mà tôi vất thẻ đảng, vì những người làm chủ đất nước hiện nay, thực sự chỉ là tôi tớ cho một số đảng viên cao cấp. Phần lớn người lao động hiện nay xuất thân từ nông thôn hay thành thị, từ trước tới nay bị phân biệt đối xử, về cả kinh tế lẫn mặt chính trị. Sự sụp đổ của chế độ cộng sản, thay đổi chính trị tại Đông Âu là điều cần phải thay đổi để làm cho đất nước đi lên. Tôi thấy rằng, mục tiêu của chúng ta hiện nay là làm sao cho đại bộ phận người Việt Nam được no ấm.”

Qua những góp ý của các cựu chiến binh của hai miền Nam Bắc thì 35 năm sau khi chiến tranh kết thúc Việt Nam vẫn chưa thực hiện được chủ trương “độc lập, tự do, hạnh phúc” được ghi trên quốc uy của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cũng là mục tiêu do đảng cộng sản đề ra, từ khi lên nắm chánh quyền hồi năm 1945.
35 năm sau khi hòa bình được vãn hồi, mặc dù được Hà Nội đã được kết nạp vào WTO, là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, là chủ tịch luân phiên của ASEAN, nhưng công luận vẫn cho là Việt Nam thiếu tự do, dân chủ, không có tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, không có nhân quyền và nằm trong danh sách những quốc gia có thu nhập thấp kém trên thế giới và trong khu vực Châu Á.

Theo dòng thời sự:

HOÀNG HẢI THỦY * NGUYỄN NGỌC LOAN



LTS.

Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan là một chiến sĩ quốc gia anh dũng. Ông là một võ tướng cho nên có những hành động ngang tàng. Người Mỹ cũng như dư luận quốc tế đã phê phán việc ông bắn một tên Việt cộng. Người Mỹ nhân đạo ư? Sự thật đa số dân chúng trên thế giới bị bưng bít về những hành vi của cộng sản mà họ chỉ thấy những điều không đẹp của xã hội miền Nam. Dẫu sao, tướng Loan đã giết một kẻ địch đang lúc xảy ra một trận chiến nguy kịch trong khi Việt Cộng giết Trúc Khê, Khái Hưng, Huỳnh giáo chủ, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm , các nông dân trong CCRD, và nhân dân thành phố Huế trong mậu thân là những người dân không tấc sắt? Họ có biết không và lên tiếng cho nhũng nạn nhân này với tư cách những nhà bình luận công bằng?

Trước 1965, mấy ai lên tiếng về viêc Stalin giết nhân dân Liên Xô và đảng viên cộng sản, nhất là việc Stalin giết cả nhà và các đồng chí của Trotsky, và sau khi Mao chết, những ai đã lên tiếng kết án Mao giết hàng triệu nhân dân Trung Quốc! Sau 1975, cộng sản Việt Nam đã giết công khai hoặc âm thầm các sĩ quan VNCH, nhưng không thấy ai lên tiếng kết án cộng sản dã man.Như vậy có công bằng không? Không những thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan thiệt thòi mà cả miền Nam ta cũng bị đối xử bất công.

Trong khi một số tướng tá, văn nghệ sĩ và nhà tu hành chạy theo cộng sản, thì gương mặt Nguyễn Ngọc Loan trở thành một khuôn mặt sáng ngời, có nhiều điểm đáng khen ngơi.




Ông Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan

Tướng Nguyễn Ngọc Loan xử bắn tại trận tên Việt Cộng ác ôn từng giết nhiều người trong trận Việt Cộng đánh vào Sài Gòn Tết Mậu Thân.



Hình được trích trong quyển NAM: A Photographic History của 2 tác giả Leo J. Daugherty và Gregory Louis Mattson. Đây là lời dưới hình bằng tiếng Mỹ:
The head of South Vietnam’s National Police, Brigadier General Nguyen Ngoc Loan, executed a capture Viet Cong officer in a Saigon street. Loan had just learned that the Viet Cong had killed a fellow police officer and his completed family. Captured on film and in this photograph, this horrifyng image shocked public opinion in the United States, bringing the atrocities of the war home to them to become a matter of public interest. This image, taken by AP photographer Eddie Adams, earned the photographer a Pulitzer Prize in 1969.

Phỏng dịch: Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia Vịêt Nam, xử tử một tên Việt Cộng bị bắt trong một đường phố ở Sài Gòn. Tướng Nguyễn Ngọc Loan vừa mới biết tên Việt Cộng đã giết một sĩ quan cảnh sát và giết tất cả vợ con ông sĩ quan. Được ghi lên phim, và trên bức hình này, hình ảnh ghê rợn trong hình làm công luận Hoa Kỳ xúc động, bức hình cho dân Mỹ thấy cảnh tàn ác của chiến tranh và làm họ chú ý đến cuộc chiến Việt Nam. Bức hình do Eddie Adams, Phóng viên Nhiếp Ảnh của AP (Associated Press) chụp, đã làm cho Eddie Adams được Giải Pulitzer năm 1969.
Trang 574, Tập Ảnh NAM, in bức hình thứ hai của Tướng Nguyễn Ngọc Loan. Trong hình, trước mặt ông Tướng là bà Nguyễn Ngọc Loan. Đây là lời tiếng Mỹ đăng dưới hình:
The former South Vietnamese National Police Chief Nguyen Ngoc Loan with his wife in the burger, pizza, and Vietnamese restaurant he managed in Burke, Washington after escaping Vietnam. Honest Vietnamese officials and soldiers settling in the U.S. were often forced to take quite menials jobs as unlike others, they were innocent of corruption and therefore had no money waiting in overseas accounts.

Phỏng dịch: Ông Nguyễn Ngọc Loan, Cựu Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam, với bà vợ ông trong một tiệm burger, pizza và hàng ăn Việt Nam ông bà mở ở thị trấn Burke, gần Washington D.C. Những viên chức và quân nhân Việt Nam lương thiện định cư ở Hoa Kỳ thường phải làm những công việc tay chân không như một số người Việt khác. Những người Việt lương thiện ấy không tham nhũng, không thối nát nên họ không có tiền để sẵn trong những trương mục ngân hàng ở nước ngoài.
———-
Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ tưởng niệm Tử Sĩ Trận MẬU THÂN
DALLAS, Texas — “Almighty Father, we are gathered here today to celebrate and honor the brave warriors who served in Vietnam and who fought to bring us victory during The Tet Offensive. Bless all who served or who died to protect our nation and its values, founded on the bedrock of Thy Word. Bless and reward their spouses, widows and children.,”


Đó là lời cầu nguyện của Mục sư – Cựu Chiến Binh Marcus Evans tại Bệnh viện VA North Texas Health Care System của Hội Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ tại thành phố Dallas, Texas trưa Ngày Mồng Ba Tết Bính Tuất, tức Thứ Ba 31 Tháng Giêng năm 2006, để vinh danh chiến công của các Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa trong trận chiến Tết Mậu Thân. Mục sư xin Đấng Toàn Năng ban phúc lành cho những chiến binh còn sống, cho những người vợ, những quả phụ và con cháu của những chiến binh đã hy sinh trong trận đánh xẩy ra 38 năm trước.
Tôi, một người Việt mất nước sống buồn ở xứ người, đọc bài báo tưởng niệm, vinh danh các Cựu Chiến Binh Chiến Tranh Việt Nam với niềm ngậm ngùi và kiêu hãnh.



Ngậm ngùi vì 38 năm sau trận đánh những chiến binh mới được vinh danh, kiêu hãnh vì trong đời tôi, tôi được thấy ngày người thế giới sáng mắt, sáng lòng, nhìn thấy sự thật là Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, và Quân Đội Hoa Kỳ, “đã không thua” trong Chiến Tranh Việt Nam, những hy sinh máu xương của những chiến binh Việt, Mỹ trên đất nước Việt Nam không phải là vô ích. Vì những hy sinh ấy Chủ nghĩa Cộng Sản bị tiêu vong, mãi mãi tiêu vong, ngàn ngàn triệu triệu kiếp không bao giờ bọn đảng viên cộng sản còn có thể làm người thế giới đau khổ, đọa đầy. Trận Chiến Tranh Việt Nam góp một phần sức công phá làm cho cái gọi là Liên Xô Thành Trì Vô Sản Quốc Tế của bọn Nga Cộng sụp đổ tan tành, làm cho nhân dân các nước Đông Âu có thể vùng lên đập phá những gông cùm cộng sản, làm cho những tượng đồng, tượng đá, tượng gỗ, tượng xi-mo Lê-nin, Sịt-ta-lin bị kéo đổ, hạ xuống, cưa đầu, kéo ra cho nằm ở bãi rác.


Trong những đêm cuối năm, ở xứ người Kỳ Hoa Đất Trích, tôi đọc những bài viết về Trận Tết Mậu Thân và những người dự trận đánh ấy.
Mời quí vị đọc bài viết về Cố Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, đăng trong:
CON ONG. Bán Nguyệt San ấn hành ở Houston, Texas. Số 179. Tháng 2, 2006. Bài “Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa.” Người viết Cao Hồng Lê.
Sáng Mồng 2 Tết Mậu Thân, Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu họp, Tướng Nguyễn Ngọc Loan thuyết trình về tình hình chiến sự, Tướng Nguyễn Cao Kỳ, bay trực thăng, tới họp..

Sau Tướng NN Loan là phần thuyết trình của Đaị Tá Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô. Đại Tá nói tới một tin mà ở Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu nhiều người đã nghe nói. Đó là tin Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp Binh của ta ở Gò Vấp bị địch tấn công, quân ta phản công mạnh nên bọn VC đã phải tháo lui. Kho Đạn Gò Vấp bị một tiểu đoàn đặc công VC đánh vào. Đúng lúc bọn VC kéo vào Kho Đạn thì vị sĩ quan Trực Kho Đạn cho phát động hệ thống phá hoại. Kho đạn nổ tung, cả một tiểu đoàn đặc công VC chết tan xác. Ông Trung Úy Quân Cụ Trực Kho Đạn, người cho Kho Đạn phát nổ, bị sức ép của hàng ngàn tấn đạn làm cho miệng, mũi, tai trào máu, khó lòng sống sót, dù ông được tải thương về ngay Tổng Y Viện Cộng Hòa cứu cấp. Nghe nói đến đây, tự nhiên Tướng Loan tỏ vẻ khác lạ, ông đứng lên, nói:
- Ê! Kỳ! Cho “moa” mượn trực thăng “moa” bay xuống Gò Vấp. Muời phút “moa” về liền!
Không đợi Tướng Kỳ trả lời, Tướng Loan đi ngay ra khỏi phòng. Đaị Tá Trưởng Phòng 3 Bộ Tổng Tham Mưu, chạy theo, nói với:
- Thiếu Tuớng! Cho tôi gửi một người theo ông.

Ông Đại Tá đưa cho tôi cái máy Truyền Tin HT1, máy to, nặng nhưng cách xử dụng cũng giống như cái hand phone bây giờ. Ông nói với tôi:
- “Toa” chịu khó đi theo ông Sáu Lèo, coi tình hình ở đó ra sao, có gì gọi về cho “moa” biết ngay.
Chuyện được sai đi cấp kỳ như vậy đối với tôi đã quá quen. Ông Đại tá là niên trưởng Võ Bị của tôi, tôi đã làm việc dưới quyền ông lâu ngày rồi, tôi cầm ngay cái máy truyền tin, chạy theo Tướng Loan ra phi cơ trực thăng. Chỉ 2 phút sau trực thăng đáp xuống sân Kho Đạn Gò Vấp. Ở đó một Đaị Đội Dù đã tái chiếm từ hôm qua. Đạn trong kho đã nổ hết. Xác bọn VC tan tành thành những mảnh thịt xương vụn, súng AK gẫy còng queo, rải rác khắp nơi.


Sau khi xem Kho Đạn, Tướng Loan đi sang Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp cạnh đó. Trụ sở Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp không bị tổn hại gì nhiều, ngoài một lổ hổng lớn do đạn SKZ phá, nhưng VC không vào được trong Trụ sở vì Binh sĩ Thiết Giáp tập trung hoả lực bắn vào bít lỗ trống gọi là “Đột Phá Khẩu của VC”. Các đơn vị xe tăng đều đi đánh giặc xa cả, bao nhiêu lực lượng binh sĩ ở căn cứ đều tập trung bảo vệ Bộ Chỉ Huy, thành ra việc phòng thủ Traị Gia Binh Thiết Giáp ở ngay bên cạnh Bộ Chỉ Huy không được vững mạnh, bọn VC đã xông vào Trại Gia Binh, bắn giết một số vợ con binh sĩ ta.


Một Trung Úy Thiết Giáp đưa Tướng NN Loan vào Trại Gia Binh để ông Tướng thấy cảnh vợ con binh sĩ ta bị VC sát hại. Sau khi đến thăm một số nhà binh sĩ có người bị VC giết, nhiều xác người chưa được mang đi, còn quàn tại chỗ, Tướng Loan nói ông có người bạn cùng khóa là Đại Tá Tuấn, Binh Chủng Thiết Giáp, đã giải ngũ nhưng không có nhà riêng ở ngoài thành phố, nên cả gia đình vẫn ở trong Trại Gia Binh này. Ông bảo ông Trung Úy Thiết Giáp đưa ông tới nhà Đại Tá Tuấn. Tôi đi theo đến một hầm trú ẩn. Hầm này vốn là cái xác của chiếc xe M113 đã phế thải, Đại Tá Tuấn xin về đặt bên cạnh nhà, đắp thêm bao cát bên ngoài, cho vợ con ông làm hầm tránh pháo kích của bọn VC.


Khi mở cửa hầm ra thì… tôi rởn tóc gáy trước cảnh tôi nhìn thấy: Cả gia đình Đại Tá Tuấn vẫn còn nằm trong hầm. Máu ngập cao cả chục phân tây, kín cả cái sàn xe thiết vận xa phế thải. Trong vũng máu là 8 xác chết, đủ cả đàn ông, đàn bà, trẻ con, người nào cũng bị chém đầu lìa khỏi cổ. Cả đến đứa cháu ngoại, mới 3 tuổi của Đại tá Tuấn về ăn Tết với ông Ngoại cũng bị VC chặt đầu.
Tướng NN Loan đứng nhìn thảm cảnh. Ông lặng người, không nói được lời nào! Rồi ông đứng nghiêm, giơ tay chào vĩnh biệt gia đình Đại Tá Tuấn.


Trên trực thăng bay trở về Bộ Tổng Tham Mưu, Tướng Loan, mặt tái xám, hai mắt ông đỏ ngầu. Ông chỉ nói một câu mà, đến nay gần 40 năm, tôi còn nhớ:
- Đ.. Cụ thằng nào từ nay bắt được Việt Cộng còn cho nó làm tù binh.
Về đến Bộ Tổng Tham Mưu, Tướng Loan không vào Trung Tâm Hành Quân, ông lên xe jeep đi ngay đến chỗ có VC. Phần tôi, tôi vào phòng báo cáo với các vị đang họp những gì tôi thấy ở Kho Đạn Gò Vấp và ở Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp. Còn xúc động vì những hình ảnh ghê rợn, thảm khốc nên tôi nói lập cà lập cập, không rõ ràng chút nào. Đaị Tá C, Trưởng Ban 2 của Trung Tâm Hành Quân hỏi tôi có chụp được tấm hình nào không? Khi biết tôi không đem theo máy ảnh, ông cho nhân viên của ông đi Gò Vấp chụp hình ngay.


Không biết những tấm hình đó bây giờ ở đâu? Nếu có những tấm hình đó bây giờ thì đó là những chứng tích chứng tỏ sự bạo tàn ghê rợn của bọn cán binh CS khi chúng vào được một trại gia binh của Quân Đội ta ở Sài Gòn trong trận Tết Mậu Thân.
Hai ngày sau, khi Lực lượng Cảnh Sát Dã Chiến đánh phá một hang ổ của VC ở trong chùa Ấn Quang, bắt sống được ở đây tên Thượng tá VC chỉ huy cánh quân đánh vào Kho Đạn Gò Vấp. Sau khi hỏi cung sơ qua, binh sĩ ta trói tay nó, dẫn giải về traị tù binh. Đọc đường tên VC đó gặp Tướng Loan. Và cái gì đã xảy ra thì cả thế giới đều biết do người phóng viên nhiếp ảnh Mỹ chụp được tấm hình giật gân Tướng NN Loan dí súng vào đầu tên VC mặt hung ác, ngu đần, bận áo sơ-mi ca-rô. Nhờ tấm hình này mà người phóng viên Mỹ nổi danh. Cũng vì cái hình này mà Tướng Loan đã bị một số người Mỹ chụp cho cái mũ “Killer”. (.. .. .. )
Khi là Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, là cái chỗ “Ho ra Bạc, Khạc ra Tiền”, Tướng NN Loan không bị báo chí thời đó, và ngay cả bây giờ, cho tên vào Băng Tham Nhũng Đệ Nhị Cộng Hòa. Việc ông xử tử tại trận tên VC, như ông nói: “Tôi làm nhiệm vụ của tôi..” thì đúng quá còn gì nữa. Nghe nói quí vị thân nhân của Tướng NN Loan đã phải chịu nhiều khổ tâm vì người ta xét đoán lầm ông Tướng qua bức hình ông xử tử tên VC trong trận Tết Mậu Thân. Xin quí vị thân nhân của Tướng Nguyễn Ngọc Loan coi bài tưởng niệm này là “Một Vòng Hoa Muộn, Một Nén Hương Thêm” cầu chúc anh hồn Cố Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan yên nghỉ nơi miền an lạc; xin Bà Quả Phụ Nguyễn Ngọc Loan nhận cho sự kính trọng Cố Thiếu Tướng của tôi, một tên lính bại trận mà không chết, và sự phân ưu muộn màng của tôi với quí gia đình.
Cao Hồng Lê
*

(Trích trong cuốn CHIẾN SỬ QLVNCH)

Còn nhớ trong những ngày lửa binh Mậu Thân đợt 1 và đợt 2 ở vùng Sài Gòn - Gia Định -Chợ Lớn, có một vị tướng dáng vóc nhỏ bé trong chiếc áo giáp đen sạm khói súng, đã xông xáo giữa những làn đạn chằng chịt đỏ lửa, trong tiếng AK và tiếng B40 nổ rền trời. Ông ôm cây súng M16 đứng xổng lưng trên tuyến đầu, chiến đấu và bắn về phía quân địch như bất cứ một người chiến sĩ khinh binh dũng cảm nào của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Vị Tướng mà đã đi vào huyền thoại quân lực và chiến sử Việt Nam, chính là Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, Chỉ Huy Trưởng Tình Báo và An Ninh Quân Đội, cựu Tư Lệnh Phó Không Quân QLVNCH.

Cuộc đời của Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan là cả một tấm gương sáng. Là một phi công ưu tú của quân chủng Không Quân, người đã có hàng ngàn giờ bay trên nhiều loại phi cơ oanh tạc chiến đấu, sự dũng cảm phi thường của ông đã đưa ông lên đến chức vụ cao tột Tư Lệnh Phó Không Quân Việt Nam Cộng Hòa trong những năm 1960 sau cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Chính là người đã dẫn đầu những phi đoàn Bắc phạt A1 Skyraider nằm trong khuôn khổ chiến dịch "Mũi Tên Lửa " (Flamming Dart) ngày 11.2.1965, dũng mãnh lao xuyên qua những làn đạn phòng không kinh khủng của giặc bắn phá hang ổ địch và những địa điểm tàng trữ các phương tiện chiến tranh mà từ đó Hà Nội trang bị cho binh đội của họ tràn qua vĩ tuyến 17 tàn sát đồng bào miền Nam. Trong những giây phút lơ lửng giữa sự sống và cái chết trên bầu trời miền Bắc, những chiếc A1 do Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan chỉ huy đã đánh những chùm bom chính xác rải lên đầu bọn cuồng khấu. Để cho chúng biết rằng, dù những chiếc A1 bay chậm và lỗi thời, không thể nào địch nổi những chiếc MIG 17, 19, 21 phản lực cơ tối tân mà Nga Sô và Trung Cộng đã viện trợ cho Không Quân Bắc Việt, những người trai anh dũng của Việt Nam Cộng Hòa vẫn quyết tâm chiến đấu cho sự sống còn của dân tộc. Trong một phi vụ vượt vĩ tuyến, có một lần Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đã phải đau xót nhìn chiếc phi cơ của anh hùng Thiếu Tá Phạm Phú Quốc trúng đạn giặc và nổ bùng thành một chiếc hoa lửa đỏ giữa bầu trời xanh thẳm.

Sau những chiến công lừng lẫy trên bầu trời miền Bắc và sau khi chiến dịch "Mũi Tên Lửa" chấm dứt, Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan được vinh thăng Chuẩn Tướng và được điều động về làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương và Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia cùng lèo lái con thuyền quốc gia kể từ ngày 19.6.1965, sau khi đã gạt bỏ được Đại Tướng Nguyễn Khánh ra khỏi chức vụ Thủ Tướng Chính Phủ, vì những yếu kém và bất lực của ông này. Ngày 19.6 từ đó được chọn là "Ngày Quân Lực", biểu trưng của ngày mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tái lập trật tự và điều hành guồng máy quốc gia. Trong những năm đó, Chuẩn Tướng Loan được sự tín nhiệm của Thiếu Tướng Kỳ, đã là một vị tướng hết sức mẫn cán, ông thẳng tay bố ráp và truy lùng bọn cộng sản nằm vùng, bọn tình báo địch xâm nhập đô thành.

Cảnh Sát Quốc Gia của ta trong thời kỳ đó đã hốt được nhiều mẻ lớn. Là một vị tướng năng nổ, ông đã được chính phủ cử ra Trung cùng một số tướng lãnh tài năng khác bình định vụ biến động Phật giáo trong năm 1966. Ngoài Vùng I tình hình vô cùng rối ren với sự khuấy động của Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, sự bất tuân phục của ông này vì sự tranh giành quyền lực với chính phủ trung ương, và sự quá khích của những thành phần Phật giáo. Có đến một trung đoàn quân đội ngoài Vùng I tham gia phe ly khai. Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan, với sự giúp sức của các cấp quân sự thuộc binh chủng Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp, đã nhanh chóng bình định được tình thế, với một sự thiệt hại về nhân mạng và vật chất ở mức tối thiểu ngoài sự mong đợi của chính phủ trung ương. Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi được cho đi Hoa Kỳ. Cơn sóng gió tưởng chừng có thể làm ngửa nghiêng đất nước và mối hiểm họa binh đội cộng sản lăm le tràn xuống nuốt lấy Việt Nam Cộng Hòa đã được những viên tướng tài giỏi nhất của Việt Nam Cộng Hòa san bằng. Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan được vinh thăng Thiếu Tướng.

Với quyền lực to lớn, với ánh hào quang và những phương tiện vật chất dồi dào ấy, đáng lẽ ông phải vun vén cho riêng cá nhân mình một cái gì đó. Nhưng kỳ diệu và đáng kính phục biết ngần nào, cuộc sống của người bình dị và đơn sơ quá, người không có tài sản gì đáng giá. Ở giữa một xã hội vật chất phù phiếm và đua tranh, chung quanh ông đầy dẫy những tấm gương tham nhũng của những yếu nhân tai to mặt bự, với những cảnh ăn chơi xa hoa trụy lạc thâu đêm suốt sáng, thì tấm gương thanh liêm của người cùng với một số hiếm hoi các tướng lãnh khác giống như những viên ngọc quí nằm trong mớ tro củi bẩn thỉu. Ông không lấy của công làm của tư, không có biệt thự riêng, chỉ ở nhà của chính phủ cấp cho, một chiếc xe Jeep, một chiếc áo giáp, một cây súng và một trái tim dành cho nước non.

Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan sinh ngày 11.12.1930 tại Huế, khi vào lính ông được gửi đi học Khóa 1 Trường Võ Khoa Thủ Đức. Tốt nghiệp Thủ Đức, tân sĩ quan Nguyễn Ngọc Loan về phục vụ trong Lực Lượng Xung Kích Việt-Pháp năm 1952. Nhưng đến năm sau ông lại được gửi đi thụ huấn khóa phi công tại Trường Không Quân Salon De Provence tại Pháp và trở thành người phi công lái khu trục cơ đầu tiên của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa kể từ năm 1956. Khoảng đầu những năm 1960 ông nhận nhiệm vụ làm Chỉ Huy Trưởng Phi Đoàn 2 Quân Sát đóng tại Nha Trang. Bốn năm sau, Đại Tá tân thăng Nguyễn Ngọc Loan được tín nhiệm chức vụ cao quí tột bậc quân chủng, Tư Lệnh Phó Không Quân VNCH. Bắt đầu từ năm 1965, Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan được điều về làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Cục Trưởng Cục An Ninh Quân Đội, Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo. Một thời gian sau ông được vinh thăng Thiếu Tướng.

Một trong những câu chuyện vẫn còn được những thuộc cấp kể cho nhau nghe về lòng độ lượng và thương yêu thuộc cấp của Thiếu Tướng Loan. Một đám cận vệ của "Anh Sáu"(chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia và Cảnh Sát Dã Chiến kính trọng và mến thương gọi Tướng Loan, dĩ nhiên là gọi sau lưng. Đứng nghiêm trình diện trước mặt người dù không có tội gì cũng đã thấy muốn...vãi đái trong quần, ở đó mà anh Sáu với lại anh Năm) đang ngồi binh xập xám ở phòng ngoài của Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia, Tướng Loan đang nằm lim dim nghỉ trên một cái sofa ở phòng trong. Bọn "nhỏ" mê mẩn sát phạt nhau hung quá không nhận ra "Anh Sáu" đã thức giấc lúc nào và đang nhẹ nhàng như một con báo lướt ra khỏi cửa phòng. Người đứng nhìn đám đàn em thân thiết, tủm tỉm cười và nghĩ ra một trò chơi nhỏ mà sẽ làm cho mấy thằng em lên ruột lên gan chút chơi. Con người kinh khủng đó cũng có khiếu khôi hài lạnh quá đi. Ông lẳng lặng biến mất ra khỏi Tổng Nha CSQG, leo lên chiếc Jeep cùng tài xế nhấn ga dọt mất. Mãi một lúc sau, có một anh lính tình cờ nhìn vào bên trong, chiếc sofa trống trơn, Tướng Loan đã biến mất. Đám cận vệ nhốn nháo, mặt mũi xanh mét như tàu lá chuối vứt bài tứ tung la hoảng :" Ổng đi mất tiêu rồi! ". Cả bọn hối hả quơ súng ống chạy túa ra như bị ma rượt. Thiếu Tướng Loan dũng cảm trên chiến trường, nhưng cũng rất dồi dào tình yêu thương thuộc cấp. Khi thuộc cấp lầm lỗi, ông không trừng trị họ bằng những phương cách thô bạo, mà ông chỉ làm cho họ cảm phục quyết định và tự thấy xấu hổ trước vị chỉ huy của mình, từ đó họ sẽ sửa chữa và làm những công việc tốt đẹp để chuộc lỗi.

-- Ke Si Bac Ha (ke_si_bac_ha@yahoo.com), September 21, 2004