Saturday, July 31, 2010

VOA * CỘNG SẢN VIỆT NAM BẮT CÓC TỐNG TIỀN


VOA Tiếng Việt Cập nhật Thứ Bảy, 31 tháng 7 2010 RSS Feeds RSS

Chuyện Có Thật 100%

Hình: Getty Images/iStockphoto

Chia sẻ

Tin liên hệ

Hôm qua trên tờ nhật báo “The Age” là một trong những cơ quan truyền thông có ảnh hưởng lớn nhất ở Úc có đăng một bài báo mang tựa đề ‘Qantas held to ransom in Vietnam’ mà tôi xin tạm dịch là ‘Qantas bị đòi tiền chuộc ở Việt Nam’.

Đối với dân Úc hay hầu hết những ai đã có dịp sang Úc có lẽ tất cả đều biết Qantas là hãng hàng không quốc gia lớn nhất của Úc và cũng là một trong những hãng hàng không an toàn, hiện đại nhất thế giới. Không những nó là niềm hãnh diện của cả quốc gia mà chính hãng Qantas cũng luôn tự hào là từ khi được thành lập vào năm 1920 cho đến nay, chưa có bất kỳ một chiếc máy bay Qantas nào đang bay lại bị… rớt.

Hãnh diện là thế. Tự hào là thế.

Vậy mà theo bài báo có một điều ít ai ở Úc được biết đó là trong năm vừa qua, hãng Qantas đã bị làm tiền ở Việt Nam rất nhiều lần mà không ai dám nói ra, kể cả những giám đốc hiện đang điều hành Qantas. Đặc biệt hơn là hai giám đốc Daniela Marsilli và Tristan Freeman vừa được Việt Nam cho phép trở về Úc sau hơn 6 tháng bị cấm không được rời khỏi Việt Nam. Mặc dù họ chưa bao giờ bị truy tố, gán ghép vào bất cứ tội gì trong suốt thời gian bị công an liên tục hù dọa và tra hỏi.

Từ lúc họ được thả ra cho đến nay không một ai dám lên tiếng hoặc trả lời phỏng vấn của các báo chí Úc. Thế mới lạ.

Theo bài báo cho biết nguyên nhân của vụ này liên quan đến việc vào năm 2007 hãng Qantas đồng ý mua 18% cổ phần của hãng máy bay Pacific Airlines mà sau này đã được đổi tên thành Jetstar Pacific là hãng hàng không lớn thứ hai của Việt Nam, chỉ đứng sau Vietnam Airlines.

Dĩ nhiên ở Việt Nam đa số các công ty lớn hoặc liên quan đến những lĩnh vực quan trọng như truyền thông, vận tải, v.v… đều do chính phủ nắm giữ thông qua các công ty quốc doanh được thành lập và trực tiếp quản lý. Hãng Jetstar Pacific vì thế cũng không phải là một ngoại lệ vì ông chủ thật sự của hãng là Bộ Tài chính đầy quyền lực.

Vào giữa năm 2008 khi giá xăng bất chợt tăng lên một cách chóng mặt trên toàn thế giới, hãng Jetstar Pacific đã đồng ý ký hợp đồng cam kết với đối tác sẽ mua xăng với giá là $135/thùng cho đến giữa năm 2009 vì theo nhận định của các chuyên gia vào thời điểm đó, giá xăng có thể lên đến $200/thùng.

Nhưng rất tiếc chỉ vài tháng sau giá xăng đã bị tụt một cách khủng khiếp từ $135/thùng xuống chỉ còn $50/thùng, báo hại hãng Jetstar Pacific đã bị lỗ đến 31 triệu đô chỉ riêng cho khoản này.

Đây là một tổn thất khá to lớn cho một hãng máy bay nội địa. Nhưng nếu điều này xảy ra ở một nước có đầy đủ pháp quyền thì thật ra cũng chẳng có điều gì đáng nói. Chuyện làm ăn lỗ lã ai cũng biết là chuyện thường tình ở huyện. Bất quá thì đem nhau ra toà kiện cáo chứ không bao giờ liên quan đến nhà nước và… công an.

Nhưng ở Việt Nam thì khác. Không những Tổng Giám Đốc CEO Lương Hoài Nam bị cho vào tù không biết ngày nào ra mà ngay cả công dân Úc chính cống thứ thiệt cũng bị bắt giữ lại không cho bay về nước mà không cần bất kỳ một trát tòa nào. Hay lệnh tống giam nào. Kể cả không được thuê mướn luật sư để bảo vệ quyền lợi cho mình.
Và theo bài báo cho biết mãi cho đến tháng trước, khi cả hai giám đốc Qantas bị chính một tướng công an buộc phải nhận trách nhiệm cho khoản lỗ này thì họ mới được phép bay về lại Úc.

Bởi vậy tác giả mới đặt tựa đề cho bài báo là “Qantas held to ransom in Vietnam”.

Trông người lại nghĩ đến ta. Trong hai lần về Việt Nam làm việc, mỗi lần cách nhau đúng 10 năm, tôi cũng đã phải trải qua những kinh nghiệm tương tự như thế. Không biết là bây giờ tôi có nên kể ra đây để các bạn cùng thưởng thức không nhỉ?

Bảo đảm toàn là chuyện có thật 100%, không hấp dẫn không ăn tiền.
Chúc các bạn một kỳ nghỉ cuối tuần vui vẻ.
*

RFA * HOA KỲ THAY ĐỔI CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO


Hoa Kỳ thay đổi chính sách ở Đông Nam Á
2010-07-31

Qua các tuyên bố của bà Hillary Clinton, Ngoại trưởng Hoa Kỳ, trong chuyến thăm châu Á hồi tháng 7 vừa qua cũng như tham dự hội nghị Diễn đàn An ninh Khu vực Asean tại Việt Nam, ngoài các phát biểu được nhiều người quan tâm như: nêu lên ý kiến giúp các nước trong khu vực giải quyết về vấn đề Biển Đông, có lẽ chúng ta còn nhận thấy có sự thay đổi lớn trong chính sách của Mỹ dành cho Đông Nam Á qua phát biểu của bà Clinton.

Photo courtesy of US Embassy/Minh Ngo

Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton trả lời báo chí bên lề hội nghị khu vực ASEAN 17 hôm 23-07-2010

Chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với khu vực Đông Nam Á đã thay đổi ra sao? Mời quý vị cùng Thông tín viên Ngọc Trân tìm hiểu thêm.

Chương mới trong quan hệ Mỹ - Đông Nam Á

Quan hệ giữa Hoa Kỳ với Đông Nam Á đã thay đổi, có lẽ bắt đầu kể từ tháng 7 năm ngoái, trong chuyến viếng thăm của bà Hillary Clinton, Ngoại trưởng Hoa Kỳ, đến Đông Nam Á và tham dự Diễn đàn An ninh Khu vực ở Thái Lan, nơi đó bà đã tuyên bố với các nước Asean rằng: “Chúng tôi trở lại”.

Tuyên bố này của bà Clinton có thể sẽ đi vào lịch sử ngoại giao của nước Mỹ bởi vì đây là một tín hiệu cho thấy, rõ ràng là Mỹ đang tìm cách thách thức sự ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Và tuyên bố này có lẽ cũng với mục đích đáp trả lại các mối lo ngại về sự bành trướng của Trung Quốc, có khả năng gây bất ổn lớn trong khu vực, nhất là trên Biển Đông.

obama-singapore-nov2009-250.jpg
Tổng thống Obama tham dự Hội nghị Các lãnh đạo (Leaders Meeting) Hoa Kỳ và Asean ở Singapore hôm 15/11/2009. AFP PHOTO/Mandel Ngan.
Việc Ngoại trưởng Mỹ tham gia vào Diễn đàn Khu vực ASEAN kể từ năm ngoái, đã nói lên tầm quan trọng của Asean đối với Hoa Kỳ. Ngoài việc tham gia vào các cuộc họp quan trọng của Asean, trong chuyến thăm Đông Nam Á lần này, bà Clinton cũng đã ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với các nước Đông Nam Á, đây là hiệp ước tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ mới giữa Asean và Mỹ, cũng như đảo ngược chính sách của chính phủ tiền nhiệm trước đây đối với Asean.

Cũng xin nhắc thêm để thính giả hiểu, dưới thời Tổng thống George W. Bush, do Hoa Kỳ bận rộn với chủ nghĩa khủng bố, và hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan, cho nên khu vực Đông Nam Á gần như đã bị bỏ quên. Bà Condoleezza Rice, Ngoại trưởng Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống George W. Bush đã không quan tâm nhiều đến khu vực này. Bà Rice đã vài lần không tham gia Hội nghị thượng đỉnh Asean, cho nên khi bà Hillary Clinton tham dự các cuộc họp với khối Asean kể từ hồi năm ngoái, có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nước Đông Nam Á.

Qua việc ký hiệp ước nói trên và tuyên bố sẽ trở lại Đông Nam Á, Hoa Kỳ muốn nhắn nhủ rằng, họ sẽ ở bên cạnh các nước Asean để đương đầu với các thử thách mà hai bên sẽ phải đối mặt.

Sau chuyến thăm của bà Clinton, ngày 16 tháng 11 năm ngoái, Tổng thống Obama cũng đã đến Singapore tham dự Hội nghị Các lãnh đạo (Leaders Meeting) Hoa Kỳ và Asean. Đây là lần đầu tiên ông Obama gặp lãnh đạo của mười nước Đông Nam Á, và hai bên cũng đã thảo luận các cam kết cụ thể của chính phủ Hoa Kỳ dành cho khu vực này. Sự xuất hiện của Tổng thống Obama tại Hội nghị Các lãnh đạo Asean - Mỹ, cho thấy sự hiện diện của Hoa Kỳ ở khu vực Đông Nam Á ngày càng rõ hơn.

Tăng cường quan hệ hơn nữa

Hkg3854271-250.jpg
Ngoại trưởng Hillary Clinton tại hội nghị khu vực ASEAN 17 hôm 23-07-2010. AFP PHOTO / Paul J. Richards
Và mới đây, trong chuyến đi của bà Clinton đến Việt Nam, để tham dự Diễn đàn Khu vực Asean cũng với mục đích củng cố và gia tăng mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và các nước Đông Nam Á. Khi được hỏi về quan hệ chiến lược giữa Mỹ và Asean cho hiện tại và tương lai, bà Clinton cho biết như sau:

Tại Hội nghị các Bộ trưởng Asean năm ngoái, tôi đã thông báo Hoa Kỳ trở lại Đông Nam Á và đã cam kết sẽ làm việc với các nước Asean để nâng cao lợi ích và các giá trị mà chúng ta chia sẻ. Kể từ đó, chúng ta đã đạt được nhiều tiến triển và hôm nay tôi xin nhắc lại rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục làm việc với từng nước thành viên ASEAN để thúc đẩy quan hệ đối tác giữa các quốc gia.”

Hoa Kỳ quyết định tăng cường hợp tác với các nước Asean có lẽ do hai bên đều được lợi trong mối quan hệ hợp tác này, Asean được lợi qua việc hợp tác với một siêu cường thế giới, do Hoa Kỳ có thể giúp các nước Đông Nam Á cân bằng quan hệ với Trung Quốc. Trong khi đó, Mỹ cũng được nhiều lợi thế khi tham gia với các đối tác đa dạng dưới một tổ chức như Asean, ở một khu vực giàu tài nguyên và có nhiều tiềm năng phát triển, cho dù vẫn còn phải đối mặt với các thách thức về kinh tế, xã hội và môi trường. Bà Clinton nói tiếp:

Hoa Kỳ cam kết làm việc với các bạn để đem lại hòa bình, thịnh vượng, an ninh và cơ hội nhiều hơn cho tất cả mọi người dân ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

NT Hillary Clinton

“Người dân Mỹ nhận ra rằng khu vực này quan trọng đối với tất cả các nước châu Á, với Mỹ và quan trọng đối với thế giới, và chúng ta cũng biết rằng chúng ta có nhiều mục tiêu cùng chia sẻ. Chúng tôi muốn Đông Nam Á giữ vững kinh tế mạnh mẽ và độc lập. Chúng tôi tin rằng người dân Đông Nam Á được quyền hưởng hòa bình, ổn định khu vực và quyền con người, và chúng tôi sẽ làm việc với các bạn để cải thiện cơ hội kinh tế và giáo dục để thanh niên có cơ hội cạnh tranh thành công trên thị trường toàn cầu.

Ngày nay, khoảng cách giữa các dân tộc và các quốc gia bị thu hẹp lại. Chúng tôi nhận thấy chúng ta đoàn kết xung quanh các mối quan tâm chung và chúng tôi thấy rằng công nghệ mới cho chúng ta nhiều cơ hội làm việc hơn trong quan hệ đối tác và hợp tác với nhau”.

Để kết thúc bài này, chúng tôi xin mượn lời cam kết của bà Clinton dành cho các nước Đông Nam Á như sau:“Hoa Kỳ cam kết làm việc với các bạn để đem lại hòa bình, thịnh vượng, an ninh và cơ hội nhiều hơn cho tất cả mọi người dân ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Để làm được điều đó, chúng tôi cần sự giúp đỡ của các bạn. Chúng tôi mong được làm việc với các bạn”.

Theo dòng thời sự:

Copyright © 1998-2010 Radio Free Asia.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Us-changes-its-policy-in-south-east-asia-ntran-07312010095928.html

*

MAI THANH TRUYẾT * TRUNG CỘNG XÂM LƯỢC VIỆT NAM


Âm mưu tiến chiếm Việt Nam của Trung Cộng

Mai Thanh Truyết


Trong suốt quá trình lịch sử, Trung cộng đã từng đô hộ Việt Nam. Mãi cho đến năm 939, Ngô Quyền mới dành lại nến tự chủ cho dân tộc. Kể từ đó, TC vẫn sang xâm lăng nước ta nhiều lần nhưng lần nào cũng bị bẻ gảy. Dấu vết của người lính TC lần sau cùng diễn ra trong một giai đoạn ngắn ngũi. Đó là thời gian quân sĩ của Tôn Sĩ Nghị chiếm thành Thăng Long vào tháng 11 năm 1978. Chỉ hơn một tháng sau đó, quân binh của Hoàng đế Quang Trung với chiến thuật thần tốc đã đuổi quân xâm lược chạy có cờ… Từ đó đến nay, có thể nói, trên toàn cõi đất nước không còn bóng dáng quân thù Bắc phương. Nhưng từ khi, CS Việt Nam dành công đầu của tất cả đảng phài trong công cuộc giải phóng dân tộc dưới thời thực dân Pháp, tuyên bố độc lập vào năm 1945, thêm một lần nữa bóng dáng quân xâm lược lại bắt đầu xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau do CS Việt Nam yêu cầu. Và sự hiện diện của quân thù Bắc phương thực sự hiện rõ nét kể từ ngày CS Việt Nam chiếm toàn thể đất nước vào ngày 30 tháng tư năm 1975.

Đây là lý do chính để Trung Cộng đã và đang chuyển mình tiến về Đông Nam Á. Và Việt Nam là một trong những thí điểm lớn để cho tư bản TC định cư cùng với những ảnh hưởng chính trị và quân sự để thực hiện mộng bá quyền nước lớn và thôn tính vùng Đông Nam Á cùng biển Đông. Trước sự cạnh tranh kinh tế toàn cầu ngày càng gay gắt, việc hạ giá thành phẩm là việc làm ưu tiên để có thể chiếm lĩnh thị trường thế giới.

Đó là chính sách chung của mọi quốc gia. Do đó, Việt Nam là một mãnh đất béo bở cho tài phiệt TC đầu tư vì: - Nhân công còn quá rẻ, ngay cả đối với nhân công TC vốn dĩ đã quá rẻ mạt; - Chi phí cho việc bảo vệ môi trường không bị đòi hỏi gắt gao như ở TC hiện tại; - Và quan trọng nhất là mọi thủ tục hành chánh và dịch vụ xuất nhập cảng đều được dễ dàng vì cung cách quản lý địa phương ở Việt Nam dễ bị mua chuộc.

Từ 3 yếu tố trên, Việt Nam đối với TC có thể được ví như là Mễ Tây Cơ với Hoa Kỳ trong lãnh vực đầu tư và sản xuất. Thêm một yếu tố tâm lý quan trọng khiến cho các nhà đầu tư TC di chuyển xuống Việt Nam là TC tìm thấy nơi đây một xứ sở giống như đất nước của họ, một đất nước đang chuyển mình từ từ và đang từ bỏ chủ thuyết cộng sản không tưởng để tiến tới một nền kinh tế thị trường tự do đầy hấp dẫn.

Còn về tâm lý chung của hai dân tộc, có nhiều điểm tương đồng chính nhất là việc quan hệ kinh doanh dựa theo cách tiếp cận có tính cách cá nhân và thường sử dụng quyền lực áp đặt để lấn át pháp luật hầu mang lại mọi dễ dãi trong thủ tục hành chánh. Hãy nghe Zou Qinghai, Chủ tịch phòng Thương mãi Triết Giang tuyên bố:” Chúng tôi hiểu thông suốt rằng phải đưa tiền hối lộ mới xong công việc.

Cách thức phát triển của Việt Nam chỉ đơn giản là một bản sao của Trung Cộng”. Hiện tại, tính đến cuối năm 2005, đầu tư của TC chính thức vào Việt Nam tương đối còn khiêm nhường so với các quốc gia trong vùng như Đài Loan, Nhật Bản, Đại Hàn là 734 triệu Mỹ kim so với hơn 50 tỷ của ba nước vừa kể trên. Nhưng qua những con số không chính thức có liên quan đến những đối tác Hồng Kông thì mức thẩm thấu vào Việt Nam có thể lên đến 3,7 tỷ.

Và thương mãi hai chiều dự kiến trong năm 2009 là trên 10 tỷ Mỹ kim. Các công ty TC chú trọng đầu tư vào năng lượng và tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam. TC đã ký thoả thuận trong việc thăm dò dầu khí ở vịnh Bắc Việt trong khi Hồ Cẩm Đào viếng thăm thủ đô Hà Nội vào tháng 10, 2005. Việt Nam vẫn là một lợi điểm cho TC vì hai quốc gia đã ký hiệp ước tự do mậu dịch với nhau. Từ đó, TC có thể chuyển ngành dệt sang VN để tránh vấn đề hạng ngạch (quota) trong việc xuất cảng các sản phẩm nầy qua Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu. Từ quyết định giao khoán cho TC khai thác cao nguyên Trung phần Việt Nam qua các công trình quặng mõ bauxite, chúng ta có thể hình dung được âm mưu hay kế hoạch của TC (và của cả Việt Nam, vì cả hai thiết nghĩ đều cùng nhìn chung một chiến lược của cộng sản toàn cầu) .

Đó là việc khống chế vùng Đông Nam Á châu trong tương lai. Việc nầy đã được TC (hay có cả Việt Nam) tính toán từ lâu qua những công trình quốc tế trong vùng từ hơn 10 năm qua. Chiến lược xâm chiếm Việt Nam của Trung Cộng Chúng ta thử hình dung các mắc xích có thể kết nối bảy sự kiện đang được khai triển ở Việt Nam và các quốc gia lân cận.

Đó là: 1- Công trình xây dựng xa lộ Trường sơn,
2 - Mở rộng đường số 9 nối liền biên giới Thái-Lào ra biển Đông qua thị xã Quảng Trị,
3 – Xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất,
4 - Dự án quốc tế giữa Trung Quốc, Lào, và Thái Lan trong việc khai thông lòng sông Cửu Long để tàu vận tài nặng có thể lưu thông trên thủy lộ nầy,
5 - Thiết lập xa lộ nối liền thành phố Nam Ninh, Côn Minh và Hà Nội,
6 - Miễn hộ chiếu cho người Trung hoa vào tận mũi Cà Mau,
7 - Dự án khai thác quặng bauxite ở vùng Tây nguyên (Cao nguyên).

Công trình xây dựng xa lộ Đông Trường Sơn:

Từ năm 2001, cựu Thủ tướng Việt Nam cộng sản Võ Văn Kiệt đã ra lịnh bằng mọi giá phải xây dựng xa lộ Trường Sơn nối liền Bắc Nam dọc theo biện giiới Việt Miên Lào, huy động hàng trăm ngàn thanh niên xung phong thời bấy giờ. Theo quan điểm chiến lược quân sự mới, xa lộ Trường Sơn sẽ không còn là con đường chiến lược một khi có chiến tranh như lãnh đạo Việt Nam biện minh cho việc xây dựng nầy, vì với vũ khí tối tân hiện tại, sẽ không có việc di chuyển vũ khí và quân đội bằng đường bộ qua kinh nghiệm hai trận chiến ở Iraq và Afganistan.

Thiết nghĩ đây là con đường chiến lựơc dành cho mục đích kinh tế-chính trị, nhưng không hẳn để áp dụng cho Việt Nam vì trong suốt chiều dài của xa lộ là vùng thưa dân cư nếu không nói là hoang dã. Như vậy mục tiêu chính phải chăng là nhắm tới một mục tiêu bí mật nhằm giải quyết huyết lộ vận chuyển hàng hoá hai chiều ở miền Tây Trung Cộng ra hải ngoại. Thử hỏi, Quốc lộ I, con đường huyết mạch của Việt Nam, cần phải được nâng cấp vì nhu cầu giao thông và phát triển cho Việt Nam, nhất là từ Quảng Trị trở ra Bắc nhưng tại sao không được lưu tâm đến? Ngoài con đường trên, theo nguồn tin mới nhất vừa nhận được là Trung Cộng đã hoàn tất công trình tu sửa và mở rộng quốc lộ 13 nối liền Bắc Nam của Lào vào cuối năm 2008 để khai thông đường Tây Trường Sơn. Hiện TC cũng đang tu sửa và mở rộng quốc lộ 7 dự trù hoàn tất vào năm 2010 xuyên Cambodia từ Nam Lào đến hải cảng Sihanoukville ở vịnh Thái Lan. Cả hai dự án nầy là do viện trợ không bồi hoàn của TC.

Đường số 9 được nới rộng thành một xa lộ để khai thông một huyết mạch mới đông tây từ Thái Lan ra biển Đông nối liền Quảng Trị và thành phố Tchepone và tiếp tục nối liền thành phố Sawannakhet của Lào. Có được con đường nầy, hàng hoá hai chiều của TC có thể được chuyển vận bằng đường sông và đường bộ để tiếp cận với các quốc gia khác qua biển Đông. Ngoài ra, từ Sawannakhet đã được tiếp nối qua sông Cửu Long và kéo dài đến hải cảng phiá tây của Thái Lan là Mawlamyine.

Như vậy, từ nay, những tỉnh phía Tây TC đặc biệt là tỉnh Vân Nam, trung tâm công nghệ hoá chất hàng đầu, đều nối liền ra ba cửa ngõ Thái Bình Dương và vịnh Thái Lan ở Việt Nam, Cambodia, và Tây Thái Lan để trao đổi xuất nhập cảng với thế giới bên ngoài. Về nhà máy lọc dầu Dung Quất: Tuy vùng nầy không có hạ tầng cơ sở như giao thông, điện nuớc, và dân cư thưa thớt, và rất xa trung tâm sản xuất dầu thô hàng ngàn dậm. Địa điểm nầy phải chăng được chọn lựa để đáp ứng mục tiêu chuyển vận dầu khí vào vùng đất phía Tây Nam của TC, thay vì phải chuyển vận từ Thượng Hải, Hong Kong bằng đường bộ rất tốn kém?

Có phải, chính vì các lý do trên, mà Việt Nam phải chấp nhận mọi tốn kém để xây dựng nhà máy Dung Quất dù cho tư bản Pháp và Liên bang Nga đã rút ra khỏi dự án từ ban đầu. Và công trình quốc tế thứ tư là trục vớt đá ngầm cùng nới sâu lòng sông Cửu Long từ năm 2004 qua việc thõa thuận giữa TC, Thái và Lào không ngoài mục đích vận chuyển của các tàu vận tải hàng hóa có trọng tải lớn nối liền Vân Nam (Tây Nam Trung Quốc), Thái, Lào, và Việt Nam, và giao thương với thế giới.

Vân Nam là một tỉnh sản xuất hoá chất hàng đầu của Trung Quốc và nhu cầu dầu thô của tỉnh nầy hang ngày là 1 triệu thùng dầu. Do đó, nhu cầu vận chuyển nguyên liệu nhập cảng và xuất cảng thành phẩm ra ngoại quốc là một nhu cầu chính yếu. Thế giới đã bắt đầu kêu gọi “hãy cứu dòng sông Mekong” qua hiểm hoạ tràn dầu khi hai chuyến tàu dầu đầu tiên nhận dầu từ Trung Đông qua cảng Chiang Ray của Thái Lan và điểm đến là vùng phía Nam tỉnh Vân Nam (Yunnang) ngày 29 tháng 12, 2008. Thiết lập thiết lộ và xa lộ nối liền Nam Ninh và Hà Nội: Song song với việc trên, một thiết lộ cũng đã được khai thác và nối liền hai thành phố nầy.

Việc xây dựng hoàn toàn do nhân viên và chuyển viên Trung Quốc đãm nhiệm, cũng như bề ngang của đường xe hỏa dựa theo tiêu chuẩn Trung Quốc; vì vậy, xe hỏa Việt Nam không thể sử dụng được. Hiện tại, chúng ta chỉ thấy các toa xe hoàn toàn mang bản hiệu chữ Tàu mà thôi. Phải chăng, thiết lộ nầy ngoài nhu cầu phục vụ các dịch vụ giao thương kinh tế giữa hai nước hay còn một ẩn dụ nào khác? Đó là con đường tháo chạy an toàn cho lãnh đạo Việt Nam hiện tại, mỗi khi có biến động lớn ở Việt Nam? Thêm nữa, việc thiết lập xa lộ nối liền Côn Minh (Kunming) – Hà Nội- Hải Phòng và Nam Ninh (Nanning) – Lạng Sơn – Hà Nội. Với mắc xích nầy, chúng ta cũng có thể hình dung được âm mưu của TC trong việc ảnh hưởng lên kinh tế-chính trị-quân sự của Việt Nam qua việc hình thành các con đường chiến lược kể trên.

Việc miễn hộ chiếu cho người Trung hoa vào tận Mũi Cà Mau: Mãi cho đến tháng 11, 2008, người Trung hoa được tự do đi lại, không cần hộ chiểu chỉ ở các tỉnh miền Bắc. Sau ngày trên, người Trung hoa có thể đi lại vào tận cao nguyên thậm chí đến Cà Mau không cần xin hộ chiếu. Quyết định nầy là một lợi khí lớn cho Trung Cộng để chuyển vận hàng hoá và thực phẩm, và nhân công dân sự hay quân sự (?) chính thức hay không chính thức xâm nhập vào tận miền Nam bằng đường bộ. Người “công nhân” TC không phải đã định cư ờ Nhân Cơ hay Tân Rai, mà họ đã có mặt ở khắp miền đất nước từ Bắc chí Nam.

Như tại Công ty Nhiệt điện Quảng Ninh đã có trên 4.000 công nhân và chuyên viên cư ngụ ở một khu vực hoàn toàn biệt lập có cổng rào riêng và được canh gát cẩn mật do bảo vệ cũng là người Hoa. Tương tợ như ở Công ty cổ phần nhiệt điện Hải Phòng với trên 2000 công nhân, Công ty than Nông Sơn đã có trên 100 và dự trù vào tháng 6 tới đây sẽ tăng cường thêm 500 nữa. Thậm chí Công ty Điện Đạm Cà Mau cũng đã có trên 1.000. Việt Nam đang đứng trước nạn khủng hoảng kinh tế và nạn thất nghiệp trầm trọng; theo con số chính thức đã có trên 1 triệu công nhân thất nghiệp đặc biệt là hai khu chế xuất Đồng Nai và Sông Bé…

Thế mà cũng đã có hàng ngàn công nhân nhập lậu (không có giấy phép lao động) làm việc trong các hảng xưởng do người Tàu làm chủ theo tin tức của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Đồng Nai. Chính Thứ trưởng Bộ Lao động và Thương binh mới vừa công bố là không có công nhân “không có giấy phép làm việc” và các công ty đều theo đúung thủ tục của Luật Lao động. Xin thưa, Luật Lao động có ghi rõ là mọi công nhân hay chuyên viên nước ngoài đều phải xin giấy phép và công ty thuê mướn phải chứng minh là loại công việc trên là cần thiết và được Bộ Lao động cung cấp giấy phép lao động. Xin hỏi các công nhân làm việc trên hai công trường Tân Rai và Nhân Cơ như cất nhà, làm đường xá, làm mặt bằng, hay đào các hố rãnh v.v…

Đây có phải là những việc người công nhân Việt Nam không có khà năng làm không? Và mắc xích sau cùng và có thể là cuối cùng chính là việc Cộng sản Việt Nam cúi đầu chấp nhận cho TC đem nhân sự và máy móc cày xới mãnh đất thân yêu vùng Cao nguyên Trung phần như đã nói ở phần trên. Xin thưa, Cao nguyên Trung phần Việt nam năm 1975 có số cư dân là 1,4 triệu, và năm 2008 đã tăng lến đấn 4 triệu.

Xuyên qua bảy cản ngại đã phân tích ở phần trên để lý giải cho việc phát triển không đồng bộ đưa đến tình trạng bế tắc hiện tại của Việt Nam trong vấn đề hội nhập vào tiến trình tòan cầu hóa trên thế giới, Việt Nam đang tiếp tục đi theo chiều hướng kinh tế chỉ huy, do đó không còn đủ sức quán tính mạnh để vượt ra khỏi rào cản thần phục và xin-cho, để rồi cuối rồi cũng đi theo …bảng chỉ đường của Trung Cộng mà thôi. Điểm thứ tám chúng tôi muốn trang trãi ra đây là một sự nhượng bộ gần như không điều kiện gần đây nhất của Thủ tướng cs Nguyễn Tấn Dũng. Theo tin Tân hoa xã ngày 7 tháng 3, 2009 vừa qua, NTDũng đã phê chuẩn một kế hoạch đầu tư trên 50 tỷ Mỹ kim để phát triển vành đay kinh tế dọc theo duyên hải miền Bắc. Kế hoạch nầy dự trù thực hiện cho đến năm 2020 với ngân khoản đầu tư 100% của TC nhằm biến các tỉnh ở vùng nầy thành khu kinh tế trọng điểm hoàn toàn do TC chủ động từ công nhân, chuyên viên, thiết bị, thậm chí đến công nhân dịch vụ như làm vệ sinh, nấu nướng, bảo vệ v.v… cũng do người Trung hoa đãm nhiệm. Các dự án kể trên đều là những dự án gây ra ô nhiễm trầm trọng như dự án luyện gang, sắt, thép, than đá, xi măng, phân bón, xây dựng, hoá chất.

Tuy các doanh nghiệp bản địa cũng có khả năng thực thi dự án, nhưng hầu như tất cả đều vào tay của doanh nghiệp Trung Cộng trúng thầu! Còn một điểm cần phải nêu ra đây là, kể từ sau tiếng sứng nổ ra ở biên giới Việt – Trung ngày 17 tháng 2 năm 1979. Cuộc chiến không phải chấm dứt 10 ngày sau đó mà vẫn tiếp tục dai dẳng dọc theo biên giới mãi cho đến 1988 mới thực sự chấm dứt qua sự quy phục hầu như hoàn toàn của CS Việt Nam. Kết quả là hiệp ước biên giới được ký kết với tất cả thiệt thòi về phía Việt Nam như: - Cột mốc biên giới số 1116 đã được chính thức cấm vào phía Nam của Ải Nam Quan và cách ải 280 mét; - Thác Bản Giốc trở thành một trung tâm du lịch của TC; - Quan trọng hơn hết là sự hiện diện của người thiểu số Tày dọc theo chiều dài biên giới tới tận tỉnh Quảng Đông.

Người Tày có khuynh hướng than TC và đã được TC khuyến dụ như là một đạo quân thứ 5 của TC ở Việt Nam. Và người Tày chiếm trên 10% dân số của Quảng Đông. Đây có thể là một nguy cơ lớn và Bắc Việt có thể lọt vào tay TC một khi cuộc chiến xảy ra ngay sau đó? Âm mưu Hán hoá Cao nguyên miền Nam Qua những phân tích vừa nêu trên, chúng ta có thể hình dung một viễn ảnh khá rõ ràng là Trung Cộng đã thể hiện nhiều dấu hiệu chứng tỏ âm mưu thôn tính vùng đất trù phú của Việt Nam, và vùng đất nầy cũng là cột xương sống nối liền Bắc Nam. Một khi chiếm lĩnh vùng nầy dù dưới hình thức nào đi nữa, TC sẽ nắm trọn khả năng khống chế Việt Nam. Hiện tại, TC đã phối hợp một cách gián tiếp với người Chăm ở cao nguyên Bolloven bên Lào, bên Cambodia, và “nhập nhằng” tóm gọn hai dân tộc Chăm và Thượng làm một, dưới danh nghĩa Fulro/Chăm để khích động nhu cầu dành lại chủ quyền của vương quốc Champa do một nhóm người Chăm bên Pháp dưới quyền lãnh đạo của một tiến sĩ người Chăm cổ suý.

Nhóm nầy cũng được sự hỗ trợ của thực dân Pháp vốn đã có quyền lợi tại vùng cao nguyên nầy hồi thời thuộc địa. Cũng cần nên biết thêm, người Thượng ở vùng Cao nguyên hiện tại đã được các hội thiện nguyện Hoa Kỳ yểm trợ dưới danh nghĩa DEGA. Theo tin tức được loan tải trên mạng, họ đã hình thành tổ chức The Cham National Federation of Cambodia (CNFC) và đã được Liên hiệp Quốc công nhận qua Department Of Economic and Social Affairs (DESA) dưới quy chế Tham Mưu (consultative status) kể từ năm 2009 nầy.

Một tổ chức thứ hai là The Overseas Cham Unity Organization (OCUO) cũng đang xúc tiến hồ sơ lên Liên Hiệp Quốc và Thuỵ Điển để ghi danh xin thành lập Chính phủ Lưu vong Chăm (The Cham National Government In Exile). Chính phủ nầy sẽ ở ngoài lãnh thổ truyền thống của Champa là miền Trung Việt Nam, mục đích nhằm duy trì sự hiện hữu của chính phủ hoàng gia Champa trước đây. Theo như dự định, chính phủ nầy sẽ phác thảo bản hiến pháp và triệu tập Đại hội để bầu ra Thủ tướng và các Bộ trưởng vào nội các chính phủ. Qua các tin tức trên, chúng ta thấy rõ ràng là phải có bàn tay “lông lá” của TC mới có thể thực hiện được những dự tính thành lập chính phủ lưu vong của người Chăm.

Theo một nguồn tin đáng tin cậy, chính phủ lưu vong ban đầu dự định đặt trụ sở tại đảo Hải Nam (TC), nơi có một cộng đồng thiểu số Chăm nay gọi là Utsat cư ngụ. Cộng đồng người Chăm nầy theo sử liệu đã sang định cư tị nạn tại đây để chạy loạn vào thời Lưu Kỳ Tông, một ông vua tiếm ngôi không phải gốc Chăm đã có một thời áp dụng chính sách cai trị hà khắc với dân chúng Chăm năm 988 (theo Georges Maspero trong quyển sách Le Royaume de Champa). Nhưng sau đó, để tránh sự phản kháng của các thành viên LHQ khác, trụ sở hiện tại là P.O. Box 122, SE-33523 Gnosjo, Sweden, nơi có một tiến sĩ người Chăm định cư để tạo danh nghĩa nhằm gây áp lực với Việt Nam cộng sản khi cần thiết.

Một trụ sở tạm của chính phủ trên cũng đặt tại P.O. Box 1635, Phnom Penh 12000, Cambodia. Câu hỏi được đặt ra là TC giúp người Chăm hải ngoại nhằm mục đích gì? Câu trả lời giản dị sẽ là, TC muốn hoàn toàn khống chế Việt Nam trong lãnh vực kinh tế-quân sụ-chính trị qua việc kiểm soát vùng cao nguyên Trung phần. Nắm được cao nguyên nầy, TC sẽ biến vùng nầy thành một vùng “lệ thuộc” như miền đất Tây Tạng năm 1959. Đã nắm được yết hầu của Việt Nam rồi, mặc nhiên TC có toàn khả năng khống chế lãnh đạo hiện tại của Việt Nam trong mọi tình huống. Và biết đâu trong một tương lai không xa sau đó, Việt Nam có thể sẽ là một tỉnh “lẽ” Quảng Nam, tiếp theo tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của TC??

Nếu viễn ảnh trên đây trở thành một sự thật thì rõ ràng, điều nầy sẽ không thể hiện tinh thần hội nhập và phát triển bền vững theo tinh thần của Liên Hiệp Quốc đề ra mà chỉ tô đậm thêm lý tính thần phục, nếu không nói là nô lệ của cường quyền để phục vụ cho nhu cầu kinh tế, chính trị, và quân sự của Trung Quốc hơn là tạo thêm phúc lợi cho người dân Việt. Chúng ta phải làm gì trước chiến lược đen tối của Trung Cộng?

Như vậy, một lần nữa, sự kiện mới nhất trên đây đã cho chúng ta thấy thêm rõ nét là CS Việt Nam qua Bộ chính trị đã hiến dâng toàn lãnh thổ Việt Nam cho Trung Cộng là một hiện thực. Chúng ta phải làm gì trước chiến lược đen tối của Trung Cộng với sự đồng lõa của cộng sản Việt Nam? Câu hỏi được đặt ra là: Có phải đây là vấn đề “phải đoàn kết lại” để chống “Trung Cộng”?

Câu hỏi được đặt ra cho tất cả mọi con dân Việt dù ở quốc nội hay hải ngoại. Đứng trước việc khai thác quặng mõ bauxite trên, Việt Nam cộng sản trong một “chiêu thức “ khác, qua tác động của những nhóm, hội đoàn ngoại vi… đã khơi dậy lòng yêu nước của người Việt khắp nơi trong đó có cả người Việt hải ngoại cùng nhau “đoàn kết” lại để “chống Trung Quốc”. Đây là một chiêu thức độc đáo làm cho một số người Việt hải ngoại có thể “siêu lòng” trước những lời chiêu dụ trên. Xin đừng quên, 84 triệu con dân Việt (trừ bớt số lượng đảng viên đảng cộng sản) đang còn chịu đựng ách thống trị hà khắc của một chế độ chuyên chính và độc tài, bóp nghẹt tất cả mọi khát vọng tự do dân chủ của người dân.

Do đó, chúng ta cần phải cảnh giác để khỏi vướng vào vòng kim cô của Nghị quyết 36. Nhiệm vụ chính yếu của chúng ta phải nhắm vào hai mặt có tính cách quyết định: - Thứ nhất, tiếp tục vận động và phối hợp với những nhà dân chủ trong nước, chuyển tải các tin tức cập nhật về dân chủ, nhân quyền trên thế giới ngõ hầu cùng nhau đẩy mạnh tiến trình dân chủ cho Việt Nam. - Thứ hai, kêu gọi sự yểm trợ của thế giới tự do qua chiến lược cụ thể của Trung Cộng nhằm tiến chiếm Việt Nam dưới một hình thức “thực dân” mới, nghĩa là không cần động binh để chiếm đóng như ngày xưa nữa.

Còn đối với hành động xâm lược của TC, theo nghiên cứu của Alexander Vuving thuộc Trung Tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương, chúng ta, người Việt hải ngoại cần phổ biến rộng rãi cho thế giới thấy rõ những nhược điểm của TC là tình trạng phát triển quốc gia không ứng hợp với chiều hướng toàn cầu hoá và không bảo vệ môi trường tạo ra sự ô nhiễm ngày càng trầm trọng không những cho đất nước TC mà còn ảnh hưởng lây lan trên toàn thê giới. Thêm nữa, việc vận động thế giới, nhất là Hoa Kỳ và Tây Âu, tẩy chay hàng hoá xuất cảng từ TC vì các sản phẩm nầy vì không đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm hay có chứa hoá chất độc hại ảnh hưởng lên sức khoẻ con người.

Những việc nầy cần phải thực hiện cùng một lúc và việc cần phải làm chính yếu là nỗ lực vận động để thúc đẩy tiến trình dân chủ cho Việt Nam phải được xem là ưu tiên hàng đầu. Thay lời kết Qua những nhận định và phân tích vừa kể trên, quả thật chúng ta đã thấy thật rõ âm mưu thôn tính Việt Nam của Trung Cộng. Cao nguyên Trung phần là yếu huyệt của Việt Nam, không thể đưa cho ai khai thác, vì đây là một vị trí địa dư rất quan trọng và nhạy cảm trong lãnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, và xã hội.

Việt Nam đã mất lợi điểm ở phương Bắc qua trận chiến 1979 và các hiệp ước song phương Trung-Việt ô nhục về việc cấm mốc biên giới cụ thể là cột mốc số 1116 nằm ở phía Nam của Ải Nam Quan và cách Ải 280 thước tây đã được chính thức cầm vào cuối tháng 12/2008. Và thác Bản Giốc cùng Hoàng Sa đã trở thành một địa điểm du lịch của …Trung Quốc cũng như TC đã đăng quảng cáo trên báo chí Việt Nam mời gọi người Việt đi thăm tụ điểm du lịch nầy. Quả thật mỉa mai! Một đất nước đã được cha ông vun bồi từ ngàn năm trước, để rồi ngày nay con cháu Việt lại bán dâng cho ngoại bang. Về sườn phía Đông, Việt Nam đã mất biển Đông do việc chiếm đóng Hoàng Sa và Trường Sa để thành lập huyện Tam Sa thuộc TC.

Về sườn phía Tây của Việt Nam là Lào và Cambodia đã được TC kiểm soát qua quốc lộ Bắc Nam 13 xuyên Lào, và quốc lộ Bắc Nam 7 xuyên Cambodia xuống tận cảng Sihanoukville. Như vậy, Việt Nam hoàn toàn bị bao vây tứ phía, và nếu ngày hôm nay TC kiểm soát được cao nguyên Trung phần, mãnh đất đã được cựu Hoàng Bảo Đại quyết định là Hoàng triều cương thổ, thì chỉ cần một thời gian ngắn, TC có thể tiến chiếm toàn cõi Việt Nam hay xé Việt Nam ra thành nhiều mãnh tuỳ theo chiến lược Nam tiến của họ.

Một phần các nhận định trên đã được tạp chí Foreign Affairs bình luận từ năm 2005, và chúng tôi cũng đã trình bày sơ lược trước nhóm think tank thuộc American Enterprise Institute (AEI) ở quốc hội Hoa Kỳ vào tháng 12, 2005. Lòng dân Việt Nam đã hoàn toàn không đứng về một phía với đảng Cộng sản Việt Nam, làm sao họ có khả năng huy động Hội nghị Diên Hồng như dưới thời Trần Hưng Đạo, dưới thế nước tràn đầy tình đoàn kết dân tộc “thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh, hy sinh”. TC đã từng “lý luận tương đồng, vận mệnh tương quan” với Việt Nam cộng sản qua 8 chữ vàng trên. Thử hỏi, làm sao Việt Nam có thể cưỡng lại kế hoạch Nam tiến của TC là tiến chiếm Việt Nam và toàn cõi Đông Nam Á.

Và dĩ nhiên CS VIỆT NAM sẽ không còn quyền lực nào trong việc quản lý đất nước và sẽ trở thành bù nhìn trước các quan thái thú TC dày xéo đất nước của ông cha để lại, giống như dưới thời Tô Định ngày xưa. Tóm lại, cho đến ngày hôm nay, có thể nói qua những phân tích trên đây, mọi hành xử của cộng sản Việt Nam đều do cộng sản TC điều khiển từ xa; Việt Nam hoàn toàn không còn khà năng quyết định vận mệnh của đất nước nếu không có sự “góp ý” hay nói trắng ra là là phải làm theo mệnh lệnh của TC mà thôi. Và việc khai thác quặng mõ bauxite ở cao nguyên phải chăng là chiến lược sau cùng của TC và Việt Nam cộng sản cùng cấu kết với nhau để TC có điều kiện khống chế toàn vùng Đông Nam Á, thực hiện chính sách Đại Đông Á của TC?

Chúng ta phải làm gì, hởi những người Việt yêu nước ở quốc nội và hải ngoại? Đã đến lúc Việt Nam cần phải thay đổi, và thay đổi theo trào lưu dân chủ trên thế giới. Đã đến lúc, cộng sản Việt Nam phải cáo chung, vì những việc làm sai trái trong quá khứ và gần đây nhất là việc chấp nhận hay đồng lõa với Trung Cộng để cho hàng ngàn quân nhân dưới dạng công nhân xâm nhập và khai thác nguồn tài nguyên phong phú còn lại của Việt Nam, vùng Cao nguyên Trung phần và nhiều nơi khác ở Việt Nam.

www.thegioi-song.com/JUN/ammuu.doc

Nơi đây có nhiều chỉ dấu cho thấy, đó là âm mưu Hán hoá dân tộc và biến mãnh đất nầy thành một Tây Tạng thứ hai với sự đồng thuận hay tiếp tay của Cộng sản Việt Nam. Cầu mong cho tất cả chúng ta, những người còn ưu tư đến sự hưng vong của quê hương được chân cứng đá mềm để vượt qua giai đoạn vô cùng xấu của đất nước kể từ thời dựng nước đến nay. Đất Nước và Dân Tộc là hai thành tố không thể tách rời được và mãi mãi trường tồn. Chế độ chỉ có thể tồn tại trong một giai đoạn mà thôi. Và một khi, chế độ đi ngược lại với quyền lợi của Dân Tộc, thế nào rồi cũng bị đào thải và tiêu diệt. Mai Thanh Truyết Nhóm Nghiên cứu Việt Nam 19/6/2009

CHU CHỈ NAM * MỸ & TRUNG CỘNG

*

CUỘC TRANH HÙNG MỸ - TRUNG hay CUỘC TRANH HÙNG TƯ BẢN - CỘNG SẢN TÁI DIỄN AI THẮNG AI?

ông Paul Nitzé

Cuộc tranh hùng tư bản - cộng sản, chủ yếu là giữa Mỹ và Liên sô, trong thời gian Chiến tranh Lạnh, bắt đầu từ sau Đại Chiến thứ Nhì cho tới cuối năm 1989, khi bức tường Bá Linh sụp đổ, thì nhà chiến lược Hoa Kỳ, ông Paul Nitzé, cha đẻ của Chính sách Be bờ (Containment Policy), lúc đó đang là Trưởng Phái đoàn về vấn đề Tài giảm binh bị Mỹ-Liên Sô ở Genève, đã tuyên bố:

Gorbatchev

«Chúng ta đã chiến thắng Chiến tranh Lạnh.» Và chỉ hơn một năm sau, vào đầu năm 1991, thì đế quốc cộng sản Liên sô sụp đổ, khi ông Gorbatchev từ chức Chủ tịch Liên bang Liên Sô. Ngày hôm nay, có người cho rằng cuộc tranh hùng tư bản-cộng sản lại tái diễn, qua cuộc tranh hùng Mỹ-Trung. Có phải thế không? Nếu phải, thì ai sẽ thắng ai?


Chúng ta hãy cùng nhau xem xét vấn đề và đưa ra một vài tiên đóan. Một cách đại lược, chúng ta có thể nói là Chiến tranh Lạnh bắt đầu ngay từ sau khi Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945) chấm dứt. Theo báo chí và những sử gia, thì ông Paul Nitzé, Cố vấn An ninh của Tổng thống Hoa Kỳ H. Truman, khi họp Hội nghị Potsdam từ ngày 17/7 tới ngày 2/8/1945, đã mang theo quyển Trại Súc Vật (Animal Farm), của nhà văn hào Anh G. Orwells, làm quyển sách gối đầu giường, và ông đã lấy những ý trong quyển sách này làm Chính Sách Be Bờ.

nhà văn hào Anh G. Orwells

Theo ông, cộng sản như những loài súc vật, nếu chúng ta đương đầu với chúng lúc chúng đang hăng, thì không thể được, mà cần phải kiên nhẫn đợi chờ, be bở để ngăn chặn, cho tới khi cộng sản súc vật cắn quái lẫn nhau, vì nhiều lý do, trong đó có lý do vì cộng sản súc vật là tiểu nhân, «Đồng nhi bất hòa», trái ngược với người quân tử «Hòa nhi bất đồng», theo lời Khổng Tử. Thêm vào đó có lý do vì Súc vật cộng sản không biết làm kinh tế, sau đó vì tranh nhau ăn nên cắn quái nhau trong nội bộ, trong những nước cộng sản.


Chính sách Be Bờ được gói ghém trong Chỉ thị mang tên số 68 của Hội Đồng An ninh Quốc Gia Hoa Kỳ, và đã được những nhà chính khách, ngoại giao coi như kim chỉ nam cho chiến lược ngoại giao Hoa Kỳ, suốt trong thời gian Chiến Tranh Lạnh. Trái với những điều nhiều người tin tưởng, cho rằng Hoa Kỳ là một anh cao bồi, thích dùng quân sự hơn là chính trị, nếu chúng ta xét gần là trong thời gian Chiến tranh Lạnh, và xa là từ đầu thế kỷ 20 với Đệ Nhất Thế Chiến (1914-1918), thì Hoa Kỳ không «cao bồi, thich giải pháp quân sự», như nhiều người lầm tưởng, mà Hoa Kỳ rất chính trị, đã tỏ ra là «người giỏi trong những người giỏi» «Khuất phục được quân người, nhưng không làm quân người tan, lấy được thành người, nhưng không làm thành người vỡ, chiếm được nước người, nhưng không làm nước người bể», theo như Binh Thư Tôn Tử nói.

Thật vậy, không ai chối cãi là 1 thế kỷ nay Hoa Kỳ, bằng cách này hay cách khác đã thắng 3 cuộc chiến lớn: Đệ Nhất, Đệ Nhị và Chiến tranh Lạnh; và đã thủ lợi trong cả 3 cuộc chiến này, đã hạ thủ 2 đế quốc Anh, Pháp và sau này là Liên Sô. Không ai chối cãi là hiện nay cường quốc có thể thách thức vai trò độc tôn của Hoa Kỳ là Trung Cộng. Một điều không thể chối cãi nữa là Hoa Kỳ bằng bất cứ giá nào phải bảo vệ, duy trì vai trò độc tôn của mình, như tất cả những quốc gia ở vào địa vị đó đều làm. Từ đó tất nhiên có cuộc tranh hùng giữa Trung Cộng và Hoa Kỳ. Tuy nhiên cuộc tranh hùng này sẽ diễn ra như thế nào ; bằng chính trị, bằng kinh tế hay bằng quân sự hoặc cả 3 hay cả 2 cùng một lúc?

Như trên đã nói Hoa Kỳ, trái với nhiều người nghĩ, họ rất chính trị, họ đặt ưu tiên cho giải pháp chính trị, sau đó mới đến kinh tế và thứ ba mới đến quân sự, cũng như Tôn Tử đã nói: «Thứ nhất công tâm, thứ nhì công lương, thứ ba mới công thành.» Việc này người Hoa Kỳ đã làm từ lâu. Họ đã làm với Liên Sô và Đông Âu, ngày hôm nay họ tái diễn với Việt Nam và Trung Cộng. Thật vậy, khi ký Hiệp Ước Bình Thường hóa quân hệ kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, ông Bill Clinton đã tuyên bố : «Những Hiệp ước bình thường hóa kinh tế và thương mại giữa Hoa Kỳ và những nước Đông Âu đã giúp cho các dân tộc này tìm thấy được mô hình tổ chức xã hội dân chủ, tự do và kinh tế thị trường.


Tôi hy vọng rằng Hiệp ước Bình thường hóa kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và Hoa kỳ cũng giúp dân tộc Việt Nam tìm thấy được mô hình tổ chức xã hộ dân chủ, tự do và kinh tế thị trường như các dân tộc Đông Âu.» Mặc dầu là đệ nhất cường quốc, nhưng giới lãnh đạo Hoa Kỳ biết rất rõ là nếu Trung Cộng và Việt Nam theo như Bắc Hàn và Cu Ba, áp dụng chính sách bế quan tỏa cảng, thì Hoa Kỳ cũng không thể làm gì.

Vì vậy giai đoạn đầu là phải dụ Trung Cộng và Việt Nam chấp nhận kinh tế thị trường, biến kinh tế từ kinh tế quốc doanh, kinh tế không tương thuộc ‘économie autarcique‘, thành kinh tế thị trường, vùng này lệ thuộc vùng kia, ngành này lệ thuộc ngành kia, kinh tế tiền tệ, ngân hàng; và nếu trong tương lai, nếu có một cuộc khủng khỏang tài chánh, thì sẽ kéo theo khủng hỏang kinh tế, tới khủng hỏang xã hội, rồi mới tới khủng hoảng chính trị. Và từ đó mới có cơ để thay đổi mô hình tổ chức xã hội độc tài qua mô hình tổ chức xã hội dân chủ, tự do và kinh tế thị trường.

Tất nhiên trong thời gian chiêu dụ này, thì có những ưu đãi, những hiệp thương kinh tế, đàu tư, làm cho kinh tế Trung Cộng phát triển. Cũng từ đó có nhiều người tin rằng ngày hôm nay kinh tế Trung Cộng đã trở thành kinh tế thứ nhì trên thế giới với tổng sản lượng là 5.588 tỷ $, đứng sau Hoa kỳ là 14.840 tỷ, trên Nhật với 5.128 tỷ $, đã trở thành chủ nợ lớn nhất của Hoa kỳ trên dưới 800 tỷ; Trung cộng có thể đánh bại kinh tế Hoa Kỳ và thế giới.


Đây là một cái nhìn phiếm diện và lầm lẫn đi vào chỗ Trung cộng tự kỷ trung tâm. Nếu chúng ta xét kỹ, thì mặc dầu tổng sản lượng quốc gia cao, vì dân số đông, chứ sản lượng tính theo đầu người của Trung Cộng mới là 4.170$, bằng 1/11 Hoa kỳ với 47.920$, bằng 1/10 hay 1/9 Nhật bản với 40.440$; và tất nhiên là còn thua nhiều nước khác.


Thêm vào đó Trung cộng đã phải trả một giá rất đắt về vấn đề phát triển. Đó là xã hội trở nên vô cùng bất công : bất công giữa những vùng phát triển ven biển và những vùng trong lục địa, bất công giữa người dân, người thì quá giàu, phần lớn là con ông cháu cha và công chức cao cấp và đại đa số dân thì quá nghèo. Dân bất mãn nổi lên ở mọi nơi, hàng năm có cả hàng 100.000 vụ nổi dậy, có những vụ xô sát đưa đến cả trăm người chết và cả ngàn người bị thương. Người dân bị bóc lột tận xương tủy bởi những ông tân tư bản đỏ cộng sản và những ông tư bản trắng từ nước ngoài. Thêm vào đó có nạn ô nhiễm môi sinh, môi trường, 70% sông ngòi của Việt Nam và Trung Cộng bị ô nhiễm.


Tất cả những yếu tố trên sẽ làm cho người Hoa Kỳ khai thác tối đa để ép chính quyền Trung Cộng thay đổi mô hình tổ chức xã hội; nếu không thì sẽ có một cuộc nổi dậy chính trong lòng chế độ. Người Hoa Kỳ chưa cần đến giải pháp quân sự. Tuy nhiên là một đại cường quốc, những nhà chiến lược Hoa Kỳ phải tiên đóan tất cả những khả thế có thể xẩy ra, từ khả thế tốt nhất là thay đổi Trung Cộng bằng chính trị, sau đó mới tới kinh tế và cuối cùng mới tới quân sự. Chính Tôn Ngô Binh pháp, phần Ngô tử, có đoạn:

“Có 4 điều bất hòa: bất hòa trong nước thì không thể ra quân; bất hòa trong quân thì không thể ra trận; bất hòa trong trận thì không thể tiến chiến; bất hòa trong chiến thì không thể quyết thắng… Ngô Khởi còn viết thêm: “Nếu làm không hợp đạo, động không hợp nghĩa, thì ở lớn, ngồi sang, tai nạn tất cũng sẽ đến. Cho nên thánh nhân yên bằng đạo, trị bằng nghĩa, động bằng lễ, nuôi bằng nhân…” “Phàm cái khởi binh có 5: một là tranh danh; hai là tranh lợi; ba là tích ác; bốn là nội loạn; năm là nhân đói.” Ngày hôm nay ai cũng biết xã hội Trung cộng là một xã hội vô cùng bất công, nhiều vùng bị nghèo đói, dân bất mãn nổi lên ở khắp nơi. Nếu Trung cộng gây chiến là nằm trong 5 lý do trên. Nhưng bất hòa trong nước mà ra quân, thì phần Trung Cộng chiến thắng Hoa Kỳ rất là mỏng manh; ngược lại, lại có nhiều phần thua.

Paris ngày 12/05/2 010
Chu chi Nam
Xin xem them phần Chiến lược ngoại giao của Hoa kỳ và Chiến tranh lạnh, trên http://perso.orange.fr/chuchinam/

*

TẠP CHÍ PHÁP LUẬT * KINH TẾ TRUNG QUỐC


Người Trung Quốc nói gì về “Mô hình Trung Quốc”?

Cục trưởng Cục Thống kê Trung Quốc nói: “Dù GDP Trung Quốc xếp thứ mấy trên thế giới đi nữa nhưng GDP bình quân đầu người vẫn xếp thứ hạng sau 100. Tình hình cơ bản của Trung Quốc vẫn là người đông, vốn mỏng, tương đối thiếu tài nguyên, lắm người nghèo”.


Ngày 21-1-2010, Cục Thống kê nhà nước Trung Quốc công bố GDP năm 2009 của nước này tăng 8,7% so với năm 2008, đạt 33.535,3 tỉ nhân dân tệ.

Tính theo tỷ giá hối đoái 1 nhân dân tệ = 0,1466 USD thì con số ấy tương đương 4.916,275 tỉ USD.

Theo số liệu của IMF, 10 nước lớn kinh tế năm 2008 là Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Đức, Pháp, Anh, Ý, Nga, Tây Ban Nha và Brazil. Ngành thống kê Trung Quốc cho biết: vì gần đây đồng Yen Nhật tăng giá so với USD, cho nên kinh tế Trung Quốc năm 2009 chưa vượt Nhật nhưng năm 2010 (vượt Nhật) thì “không có vấn đề.”

Một công ty tư vấn Pháp dự kiến sớm nhất tới năm 2020 kinh tế Trung Quốc sẽ vượt Mỹ, năm 2030 vượt xa Mỹ; khi ấy 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ là Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Nhật, Brazil, Nga, Đức, Mexico, Pháp và Anh; tỷ lệ của các nước trong GDP toàn cầu là: Mỹ 16%, EU 15%, Trung Quốc 19%, Ấn Độ 9%.

Ngày 24-1 Jim O’Neill chuyên viên trưởng kinh tế của Goldman Sachs Group Inc. nói trong năm nay Trung Quốc có thể trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sớm 1 năm so với dự kiến trước đây. Ông nói: với tốc độ tăng trưởng 8,3%, tới năm 2020 quy mô kinh tế Trung Quốc sẽ gấp 3 hiện nay.

Rõ ràng sự trỗi dậy mạnh mẽ của kinh tế Trung Quốc đã trở thành hiện thực trước mắt toàn thế giới. Tạp chí Forbes (Mỹ) số ra ngày 15-12-2009 viết “Trung Quốc đã là siêu cường”.

Dư luận quốc tế bắt đầu bàn luận ồn ào về Mô hình kinh tế Trung Quốc. Các nước đang phát triển mong muốn từ mô hình đó tìm được con đường phát triển của mình; các nước giàu cũng muốn tham khảo các kinh nghiệm bổ ích của Trung Quốc để giúp cho sự phục hồi kinh tế của họ.

Mới đây Joshua Cooper Ramo đăng trên cơ quan ngôn luận của một nhóm chuyên gia cố vấn nổi tiếng Anh Quốc là Trung tâm chính sách ngoại giao Luân Đôn bài viết có tên Nhận thức chung Bắc Kinh (The Beijing Consensus), tuyên truyền rùm beng về cái gọi là Mô hình Trung Quốc, cho rằng trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua mô hình này đã “cứu thế giới” ra khỏi cơn suy thoái kinh tế. Thậm chí báo Anh The Guardian còn gọi năm 2008 là Năm mô hình Trung Quốc.

Nhà chính trị học nổi tiếng Francis Fukuyama, tác giả cuốn Hồi kết của lịch sử (The End of History and the Last Man, 1992) – trong đó ông từng quả quyết “Mô hình Mỹ ưu việt hơn bất cứ mô hình nào khác” – nhưng năm 2009 khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Nhật lại nói: “Trong gần 30 năm nay sự phát triển nhanh chóng kỳ lạ của kinh tế Trung Quốc đã thể hiện tính hữu hiệu của Mô hình Trung Quốc, nhìn chung người ta cho rằng Trung Quốc có khả năng tiếp tục tăng trưởng 30 năm nữa. Hiện thực khách quan chứng tỏ dân chủ tự do của phương Tây không phải là hồi kết của lịch sử tiến hoá của nhân loại. Cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc, cái gọi là thuyết Hồi kết của lịch sử cần được cân nhắc lại và hoàn thiện thêm. Kho tàng tư tưởng của nhân loại cần dành một chỗ cho truyền thống của Trung Quốc.”

Báo Washington Post ngày 14-11-2009 cũng đăng bài với đầu đề Người Trung Quốc đang thay đổi chúng ta.

Tóm lại dường như các nước phương Tây tràn đầy niềm hy vọng đối với Trung Quốc. Có điều niềm hy vọng ấy không đơn giản chút nào.

Dư luận Trung Quốc cũng rất phấn khởi đưa tin thế giới xôn xao ca ngợi mô hình phát triển kinh tế của nước họ. Tuy vậy, theo Quảng Châu nhật báo, nhiều người đã nhanh chóng nhận ra động cơ sâu xa tại sao phương Tây lại làm rùm beng vấn đề Mô hình kinh tế Trung Quốc – đó là họ muốn Trung Quốc phải gánh vác trách nhiệm vượt quá năng lực của mình. Nói trắng ra, cách phương Tây tâng bốc “Mô hình Trung Quốc” chẳng qua là để làm hại Trung Quốc mà thôi – tờ Quảng Châu nhật báo viết.

Tổng thống Obama từng nói trong chuyến thăm Trung Quốc năm 2009: “Mỹ không theo đuổi việc kiềm chế Trung Quốc, ngược lại, Trung Quốc lớn mạnh phồn vinh có thể trở thành một lực lượng của cộng đồng quốc tế.” Có thể từ câu nói này suy ra ông Obama yêu cầu Trung Quốc cần có đóng góp tương xứng với vai trò một lực lượng của cộng đồng quốc tế.

Đồng thời báo chí phương Tây bắt đầu bàn tán ầm ỹ cái gọi là mô hình “G2”, tức liên kết kinh tế My-Trung Quốc, cho rằng thế giới đã tiến sang thời đại “Trung Quốc-Mỹ cùng thống trị toàn cầu”. Theo logic của họ, một khi Trung Quốc đã ngang hàng với Mỹ thì nước này nên gánh vác nhiều ‘trách nhiệm” hơn đối với thế giới.

Thí dụ khái niệm G2 được nêu lên tại 2 cuộc họp G20 trong năm 2009, sau đó lại được tiếp tục đề cập tới trong hội nghị thượng đỉnh khí hậu Copenhagen. Có người nói Mỹ và Trung Quốc chiếm 40% lượng khí thải gây nên hiệu ứng nhà kính toàn cầu, nếu hai nước này không có cam kết cụ thể thì hội nghị Copenhagen rất khó đạt được bất cứ thoả thuận nào. Nghĩa là phương Tây muốn trên vấn đề biến đổi khí hậu, Trung Quốc phải cùng gánh vác trách nhiệm như Mỹ. Người Trung Quốc cho rằng, đòi hỏi như vậy là không hợp lý, vì họ đã không xét tới việc Trung Quốc chỉ là nước đang phát triển, khác với Mỹ là nước đã phát triển; một nước đang phát triển đang mở mang kinh tế thì dĩ nhiên cần thải khí nhiều hơn.

Báo Nhật Mainichi ngày 3-8-2009 có bài viết dưới đầu đề “Kế tâng bốc để diệt Trung Quốc”. Bài báo viết: Chủ tịch Uỷ ban Kinh tế Mỹ (National Economic Council) Lawrence Summers mới đây nói: “Mỹ không còn là đầu tàu kinh tế thế giới nữa”, ngụ ý nhường vai trò đó cho Trung Quốc, nhưng đây chỉ là kế sách tạm thời của Mỹ nhằm để tâng bốc mà làm hại Trung Quốc. 20 năm trước Mỹ cũng dùng cách tâng bốc Nhật là Số Một thế giới để hại Nhật, kết quả chỉ sau vài năm kinh tế bong bóng của Nhật tan vỡ, rơi vào tình trạng trì trệ lâu dài.

Một chuyên gia tại Brookings Institution phân tích phương Tây muốn Trung Quốc gánh vác “trách nhiệm quốc tế” trên 3 mặt: Thứ nhất, trách nhiệm về kinh tế và vật chất; họ nói Trung Quốc nay giàu rồi nên góp công góp của cho các vấn đề quốc tế. Thí dụ Ngân hàng Thế giới (WB) nói Trung Quốc đã không còn là nước cần được quốc tế cho vay nữa. Thứ hai, trách nhiệm mở cửa thị trường tài chính, Trung Quốc cần bãi bỏ sự kiểm soát thị trường này để các công ty nước ngoài tham gia thị trường tài chính Trung Quốc, một thí dụ là phương Tây ép Trung Quốc nâng giá đồng nhân dân tệ. Thứ ba, trách nhiệm về đạo nghĩa, Trung Quốc cần tăng đóng góp tài chính cho cộng đồng quốc tế, cho các tổ chức quốc tế.

Quảng Châu nhật báo cho rằng tình hình Trung Quốc hiện nay rất giống Nhật trước đây. Sau 2 thập niên tăng trưởng cao, nửa cuối thập niên 80, kinh tế Nhật tiến vào thời kỳ phồn vinh chưa từng thấy. Năm 1985, Nhật trở thành nước chủ nợ lớn nhất thế giới, còn nước Mỹ sau 70 năm là chủ nợ nay lại là con nợ. Ngày ấy dư luận phương Tây bàn tán om xòm về Huyền thoại Nhật Bản. Năm 1979, cuốn Nhật Bản là Số Một (Japan As No. 1) của Ezrra Vogel xuất bản làm chấn động dư luận thế giới. Trong cuốn Thuật luyện đan tài chính (The Alchemy of Finance, 1988), George Soros tuyên bố: sức mạnh kinh tế tài chính đang chuyển từ Mỹ sang Nhật.

Thập kỷ 80, tư bản Nhật thừa đô la tranh nhau mua bất động sản tại Mỹ. Nhiều người Mỹ lo sẽ có ngày Nhật mua hết cả nước mình. Thực ra doanh nhân Nhật còn thiếu kinh nghiệm đầu tư ở nước ngoài. Trên thực tế họ đã mù quáng mua lại nhiều công ty cũng như bất động sản của Mỹ.

Trong thời gian đàm phán Thỏa ước Plaza (Plaza Accord) Nhật Bản quá tự tin đã chủ động đề xuất tăng giá trị đồng Yen Nhật thêm 10%. Nhưng chính là việc ký thỏa ước đó (22-91985) làm cho Nhật chỉ vài năm sau đã rơi vào cuộc suy thoái “10 năm mất mát”. Đồng yên lên giá, đô la mất giá làm cho xuất khẩu của Nhật giảm sút, mặt khác các bất động sản người Nhật tậu tại Mỹ tự nhiên mất giá, toàn bộ sự phồn vinh kinh tế của Nhật nhanh chóng biến thành bong bóng xà phòng. Một thí dụ: công ty Mitsubishi bỏ ra 1,4 tỉ USD mua Trung tâm Rockefeller chưa được bao lâu phải bán lại cho chủ cũ với giá bằng một nửa. Nhiều dự án đầu tư của Nhật tại Mỹ thất bại thảm hại.

Mãi tới cuối 1989 chính phủ Nhật mới chú ý đến tính chất nghiêm trọng của nền kinh tế bong bóng. Ngược lại, kinh tế Mỹ từ thập niên 90 bắt đầu thoát ra khỏi sự trì trệ, tiến sang thời kỳ tăng trưởng nhanh liên tục trong cả chục năm. Sau khi các bong bóng kinh tế nối nhau tan vỡ, người Nhật mới tỉnh ngộ, suy nghĩ lại mọi chuyện. Nhiều chuyên gia kinh tế Nhật đổ lỗi cho Thỏa ước Plaza, thậm chí cho rằng đó là âm mưu thâm hiểm của Mỹ.

Trung Quốc cần rút kinh nghiệm tránh giẫm lên vết xe đổ của Nhật Bản, chớ nên hoa mắt trước những lời tâng bốc ca ngợi Mô hình Trung Quốc của phương Tây – Quảng Châu nhật báo kết luận.

Theo Nguyên Hải (Nhân Dân điện tử)

http://phapluattp.vn/20100201052711656p1014c1072/nguoi-trung-quoc-noi-gi-ve-mo-hinh-trung-quoc.htm

*

LÊ VĂN XƯƠNG * TỘI ÁC CỦA TRUNG CỘNG


Tội Ác Của Lãnh Ðạo Tàu Ðối Với Nhân Loại và âm mưu thôn tính Việt Nam

Tham vọng lấn chiếm thế giới của Tàu

Thời kỳ trì hoãn chiến (hay chiến tranh gián chỉ, proxy war) giữa khối Cộng Sản và Tự Do chấm dứt khi Việt Nam Cộng Hoà bị bức tử vào tháng 4 năm 1975, để thế giới bước vào giai đoạn chuyển tiếp tức là lúc Liên Xô can thiệp vào khắp nơi trên thế giới. Giai đoạn này báo hiệu sự cáo chung của Liên Xô, nhưng cũng là một dấu hiệu chỉ ra thời kỳ mà Tàu cộng chuyển qua sách lược xâm lấn các lân bang một cách có quy mô, hệ thống ở khắp nơi. Do vậy, ta cần phải xem xét các điều đã và đang xảy ra đối với các lân bang của Tàu. Năm 1978 khi Liên Xô tung nhân lực, tài lực và vật lực để can thiệp vào nhiều vùng trên thế giới nhằm gắng sức đánh sập Mỹ và Phương Tây, nhưng Liên Xô đã trúng kế Mỹ một cách thảm thương vì tài nguyên của Liên Xô có giới hạn, kinh tế của Liên Xô lại èo uột và sự hiểu biết của Liên Xô về thế giới quá nghèo nàn và một chiều, trong khi Trung cộng lại ngả hẳn sang phía Mỹ thì mọi cố gắng của Liên Xô coi như vô vọng. Do đó, sự tan rã của Liên Xô chỉ còn là vấn đề của thời gian.

Ðể thưởng công cho Trung cộng, Phương Tây và Mỹ đã giúp Bắc Kinh về kinh tế, kỹ thuật (cả Phương Tây-Mỹ và Trung cộng đều có ý đồ trong sự trợ giúp này, sẽ bàn vào một dịp khác khi thời gian cho phép) và chính trị (giúp Trung cộng có 1 chân trong Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc). Như thế, Trung cộng yên hàn với Phương Tây-Mỹ khi Liên Xô tan rã. Trung cộng không phải lo đối đầu với con gấu Bắc Cực nữa. Tàu biết là đã đến lúc họ phải cần tập trung tối đa nỗ lực nhằm khai thác tối đa, trong thời kỳ lúc quan hệ với Hoa Kỳ đang tốt đẹp để củng cố và phát triển tối đa về kinh tế, kỹ thuật đồng thời chuẩn bị các phương tiện nhằm xâm chiếm các nước lân bang một cách âm thầm thông qua đường lối mua chuộc ngoại giao, kết hợp với kinh tế, quân sự đi liền với đà di dân để đồng hoá các vùng biên giới giữa Tàu và các nước lân bang ( thí dụ rõ nét nhất về âm mưu di dân thâm hiểm này đang xảy ra tại Việt Nam. Chính quyền tay sai Việt cộng thân Tàu đã cho phép dân Tàu hay là Tàu cộng đã được huấn luyện có quyền qua biên giới Việt-Tàu để đi lại khắp vùng lãnh thổ Việt Nam mà không cần xin chiếu khán hay Visa nhập cảnh. Bắc Kinh cũng đã và đang huấn luyện, dạy tiếng Việt cho những thanh niên Tàu nghèo khổ và không thể kiếm được vợ tại Tàu và đưa họ sang sinh sống tại Việt Nam .

Chúng ta phải nhớ rằng: Hiện nay có khoảng hơn 100 triệu thanh niên Tàu không thể kiếm được vợ ngay trong nước Tàu vì nạn “Trai Thừa Gái Thiếu” do hậu qủa của chính sách “Một Con” do đảng Cộng sản Tàu đề ra. Những thanh niên tình báo này khi sang Việt Nam thì lấy gái Việt Nam và được lệnh từ Bắc Kinh để định cư tại 1 vùng chiến lược nào đó tại Việt Nam . Với tiền bạc dồi dào được cung cấp từ các nhóm tình báo Tàu trá hình làm con buôn đã nằm sẳn trong nước Việt Nam, các thanh niên này thông qua gia đình vợ Việt, họ sẽ phát triển mạng lưới kinh tế và tình báo khắp Việt Nam. Tại các vùng chiến lược tại Việt Nam, thì nhóm Tàu tình báo chiến lược này với tiền bạc và ưu thế về kinh tế, họ sẽ dần dần nắm hệ thống chính quyền địa phương. Theo thời gian, dân chúng trong những vùng chiến lược này sẽ là Tàu, Tàu lai hay những người có họ hàng thân thiết với Tàu hay có con rễ người Tàu.

Khi cần có một cuộc trưng cầu dân ý tỏ vẻ “dân chủ kiểu Tàu”, để xem dân chúng ở các vùng chiến lược này có muốn đất đai nơi họ cư ngụ thuộc về Việt Nam hay Bắc Kinh, thì đương nhiên dân chúng vùng này sẽ ngả về phía Bắc Kinh. Như vậy Việt Nam sẽ mất đất đai hay bị Tàu đồng hóa mà Tàu không cần phải đánh chiếm. Lịch sử là một cuộc tái diễn, chuyện Trọng Thủy, Mỵ Châu đã và đang lập lại trên đất nước Việt Nam một cách có hệ thống bởi giới cầm quyền Bắc Kinh và những tên Việt gian Cộng sản tay sai bán nước cho Tàu đang đóng vai lãnh đạo Việt Nam) để rồi từ đó lan rộng ra từng bước một, cộng thêm với sự tiếp tay của các chính quyền tay sai, bù nhìn thân Tàu tại các nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Nepal thì một ngày không xa, Tàu sẽ chiếm hay chi phối toàn bộ các nước này. Khi tình hình chín mùi, bọn Tàu sẽ dùng thủ thuật dân chủ bịp bợm (qua hình thức trưng cầu dân ý), kết hợp bạo lực để hình thành các chính quyền địa phương hãy còn mang mầu sắc bản xứ, nhưng thực chất một nửa dân số các vùng ấy là Tàu hay Tàu lai và các lãnh đạo chính quyền ấy đều là Tàu trá hình, để trong vòng không đầy 50 năm nữa hay là hai thế hệ sau, các lân bang này sẽ bị tuyên bố trở thành một tỉnh của Tàu.

Theo ước tính này thì trong vòng chưa tới 50 năm nữa, tức là khoảng năm 2050 thì toàn bộ vùng Ðông Nam Á sẽ bị Hán hóa hoàn toàn. Khi Ðông Nam Á bị mất vào tay Tàu mà Phương Tây-Mỹ chẳng làm gì được thì Úc Châu, Tân Tây Lan sẽ bị đe dọa và cùng cách thức áp dụng tại các nước Ðông Nam Á. Người Tàu tại Úc, Tân Tây Lan cũng sẽ chiếm ít nhất một nửa dân số để từ đó đưa Úc và Tân Tây Lan thành những tỉnh của Tàu vào khoảng năm 2050. (chúng ta nên hiểu rằng sau tháng 4 năm 1975 khi đàn em Cộng sản Hà Nội tung quân chiếm trọn Việt Nam, thì Bắc Kinh đã có những kế sách xuất cảng người Tàu sang các nước lân bang phía Nam và Tây phương, đây là một sách lược lâu dài và vô cùng tinh vi, Bắc Kinh hiểu rằng phải khống chế Úc Châu mới đẩy Hoa Kỳ sang bên kia quần đảo Hawaii – Hạ Uy Di, tính đến nay không ai có thể biết rõ là có bao nhiêu tình báo người “Việt” nói tiếng Tàu đang nằm vùng và làm việc cho Bắc Kinh khắp nơi tại Úc Châu. Sau 30 năm đến nay người “Việt Nam” còn “vượt biên” đến Úc Châu từ Nam Dương-Indonesia, Timor. Nhưng theo tin mới nhất từ Bộ Di Trú Úc thì hầu như những người Việt Nam này thì lại không biết nói tiếng Việt Nam mà chỉ biết nói tiếng Trung Hoa, từ Vân Nam người Tàu có thể đi đường xe hỏa xuống Kualalumpur sang Jakarta và “vượt biển tị nạn” sang Úc. Vì vậy Bắc Kinh mới gọi con đường sắt nối liền Vân Nam và Thái Lan là con đường chiến lược. Xin xem lại đoạn “Kiều Vụ Chính Sách – Chu Tri Lục 3 của X. Y. Thái Dịch Lý Đông A ở đoạn trên).

Khi Úc đã mất, tất cả các đảo nhỏ ở Thái Bình Dương sẽ bị Tàu xâm chiếm bằng ngả di dân (Nhập cảnh lậu hay di dân chính thức bằng cách hối lộ chính quyền địa phương tham nhũng tại các nước này) và cũng vào khoảng năm 2050, Hawaii sẽ bị Hán hóa. Với đà lấn chiếm thâm hiểm như vậy, thời điểm 2050 thì Tàu sẽ ngang nhiên trở thành thế lực chi phối toàn bộ 2/3 vùng Châu Á-Thái Bình Dương và Ấn Ðộ Dương, một phần Châu Phi, riêng Úc Châu thì coi như đã bị Bắc Kinh xóa tên, vì Úc Châu đất rộng nhưng dân số lại ít, để đẩy Âu Châu và Mỹ co cụm vào thế phòng thủ trên 1/3 diện tích Thái Bình Dương và Vùng Bắc Ðại Tây Dương mà thôi. Riêng Trung-Nam Mỹ thì cũng sẽ bị Tàu khống chế. Mặc khác, thông qua các Cộng Hòa Hồi Giáo thuộc Liên Xô cũ, Tàu sẽ tràn lên hướng Tây Bắc, theo con đường buôn bán tơ lụa khi xưa để chiếm toàn vùng biển Caspian, mạn Nam Nga, Iran, Iraq, Syria, v.v.v. theo đúng con đường mà ngày xưa Thành Cát Tư Hãn đã thực hiện trong thế kỷ thứ 13.

Theo chúng tôi ước tính chính xác là: Trước năm 2100, toàn bộ thế giới sẽ bị Tàu đô hộ, mọi quyết định về vận mạng thế giới sẽ xuất phát từ Bắc Kinh. Đây là một sự thật được lượng định rõ ràng chứ không phải ảo tưởng, mong các nhà nghiên cứu chiến lược để tâm theo dõi.

Không phải là Tàu không quan tâm đến thái độ của Hoa Kỳ hay Âu Châu nhưng Tàu đánh giá là: Mạng lưới tình báo Tàu thông qua đạo quân thứ 5 hiện đang hiện diện hơn 60 triệu người khắp thế giới và đang nắm nền kinh tế tại nhiều nước (thí dụ vùng Ðông Nam Á) thì Tàu đủ sức khuấy động, tạo sự bất ổn về tình hình chính trị, xã hội, kinh tế của Hoa Kỳ và Âu Châu. Ở một tầm nhìn chiến lược cao hơn, Tàu nghĩ rằng: Xã hội Phương Tây quá phóng túng và tự do theo chủ nghĩa cá nhân, thì xã hội này sẽ dãy chết trước làn sóng xâm thực một cách từ từ nhưng vô cùng hữu hiệu của Tàu mà Tàu không cần gây chiến tranh toàn diện. Nếu bất đắc dĩ Bắc Kinh phải tham gia vào cuộc chiến tranh đối đầu trực tiếp bằng võ lực thì Bắc Kinh sẵn sàng làm liều, giáng trả với tất cả sức mạnh nguyên tử hay chiến tranh cổ điển và bất chấp mọi qui ước, vì Bắc Kinh nghĩ là sau cuộc chiến tranh, với đất rộng, người đông Trung Hoa vẫn còn tồn tại trong khi đối phương gần như bị tận diệt dân số.

Bài Học Tiêu Biểu

Ðể minh chứng cho nhận định trên, chúng tôi xin đưa ra đây một số trường hợp cụ thể tiêu biểu:

a) Khủng Bố: Câu nói để đời với những ai quen với chính trị là thế này: “Kẻ thù của kẻ thù ta là bạn ta”. Như vậy Tàu xác định rõ kẻ thù tối hậu của họ là Hoa Kỳ, mà Hoa Kỳ là kẻ thù của các nhóm cực đoan trong thế giới Hồi Giáo. Vậy Hồi Giáo cực đoan là bạn thân của Bắc Kinh. Vì vậy, Bắc Kinh đứng đằng sau vụ 9-11 tại Hoa Kỳ là không sai!

Chúng ta hãy xem cuốn “Unrestricted Warfare” của hai đại tá Trung cộng là Qiao Liang (Dao Lương) và Wang Xiangsui (Vương Sơn Thủy), viết 3 năm trước khi vụ 9-11 xảy ra ở New York thì rõ (cuốn sách Unrestricted Warfare của nhà xuất bản Pan American Publishing Company, Introduction by Ai Santoli – Al Santoli hiện là thứ trưởng quốc phnòg Hoa Kỳ). Giang Trạch Dân rất thích thú và cho thâu lại thành băng (tape) để Giang xem đi xem lại nhiều lần cảnh toà Tháp Ðôi tại New York bị khủng bố tấn công và sập đổ, (người ta đếm được là họ Giang đã xem đi xem lại tổng cộng 32 lần trong 1 ngày).

Chúng tôi cũng xin nói rõ là: Tung ra vũ khí hóa học, sinh vật học để khủng bố thế giới cũng là do bàn tay của Bắc Kinh, cho dù kẻ xử dụng vũ khí này là bọn khủng bố cực đoan Hồi giáo (Bắc Kinh chơi trò ném đá dấu tay, đưa vũ khí sinh hóa học, vi trùng học cho bọn Hồi giáo quá khích để giết Mỹ và Phương Tây). Nếu cần xử dụng bom bẩn hay vũ khí nguyên tử khi tình hình thực sự bất lợi cho Tàu thì Tàu sẵn sàng làm ngay. Mao Trạch Ðông đã từng tuyên bố: “Nếu chết 500 triệu người Trung Hoa để chiếm cả thế giới thì Trung Hoa sẵn sàng làm”.

Trung Cộng nghĩ rằng: Nếu thảm cảnh này xảy ra thì xã hội Tây Phương-Mỹ sẽ dễ bị suy sụp vì họ không có nền “kinh tế quốc dân” (kinh tế dân sinh tự túc) theo kiểu tự cung cấp để có thể tồn tại được khi tình hình cực xấu xảy ra và vì sức chịu đựng cực khổ, căng thẳng tinh thần của Mỹ và Tây Phương không được mạnh lắm nếu so với dân Tàu.

b) Bài Học Từ Các Lân Bang Của Tàu: Chiến thuật “dương đông kích tây” luôn được Tàu xử dụng. Theo nhận định này thì Ðài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên là “dương đông” để Trung cộng lấy tiền và hàng hóa, âm thầm thôn tính Miến Ðiện, Việt Nam, Lào, Campuchia, Nepal, Bhutan là “kích tây” để chiếm đất đai và tài nguyên. Kế tiếp sẽ là Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân và xa hơn nữa là Úc, Tân Tây Lan, Hawaii, Iran, Iraq, Pakistan, Ả Rập Saudi và các nước Hồi giáo thuộc Liên Xô cũ (Trung Á). Khi các vùng này thuộc về Tàu thì Ấn Ðộ phải quy hàng, Nga phải xếp giáo, Âu Châu phải quỳ gối và Hoa Kỳ phải gãy cánh. Kết quả, thế giới chỉ có Tàu và Tàu làm chủ mà thôi.

Chúng tôi muốn nêu vấn đề này lên để cảnh tỉnh thế giới không phải vì quyền lợi của đất nước Việt Nam chúng tôi không thôi, mà vì là Hiểm Họa Liên Hệ Ðến Toàn Cầu Ðang Tiến Tới Gần Kề Do Bắc Kinh Gây Ra. Trường hợp Việt Nam hiện nay chỉ là điển hình cho sách lược thâm hiểm này thôi. Âm mưu thôn tính Việt Nam và các nước Ðông Nam Á của Bắc Kinh:

Năm 1978 khi Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ theo Liên Xô và hăm he xuất cảng cách mạng đỏ sang Ðông Nam Á, đe dọa an ninh của các đồng minh Mỹ và quyền lợi của Mỹ tại đó, thì Ðặng Tiểu Bình coi đó là hành động đe dọa an ninh của Tàu và sau đó xua quân sang đánh Việt Nam gọi là dạy cho Việt Nam 1 bài học (Ðặng bắn 1 mũi tên mà giết chết 2 con chim: Tỏ ra nhiệt tình với Mỹ, nhưng cũng là cách để diệt nhóm Tứ Nhân Bang và những người theo Giang Thanh). Khi Liên Xô sụp đổ thì đảng Cộng sản Việt Nam bị bơ vơ, thế là Tàu lôi kéo cộng sản Việt Nam quay về với Tàu với lời nói đường mật là “Mỹ luôn luôn muốn lật đổ các đồng chí đấy”. Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, v.v.v. vì đầu óc hẹp hòi và thiển cận, chỉ lo đặt quyền lợi của đảng họ mà quên quyền lợi của dân tộc, cho đến năm 1990 họ vẫn không biết được “tối hậu địch nhân, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc ta là Tàu chứ không phải Mỹ”. Vì vậy, sợi dây thòng lọng của Trung cộng cứ thế mà xiết cổ đảng Cộng sản Hà Nội ngày càng chặt để đến nay, sau 15 năm bị Trung cộng chi phối, toàn dân Việt Nam đã trở thành nô lệ cho Tàu, giang sơn gấm vóc Việt Nam đã bị Tàu chiếm đất, nền kinh tế èo uột của Việt Nam hiện nay đang bị Tàu chi phối toàn diện, văn hóa Việt Nam nay đang bị Hán hóa trên mọi mặt, mọi cấp chính quyền từ trung ương tới địa phương đều có cán bộ tình báo người Tàu gài vào điều khiển. Như vậy, trên thực tế, Việt Nam đã trở thành một tỉnh của Tàu. Nước Việt Nam đã mất vào bàn tay tham lam của Bắc Kinh. Người Tàu nay được quyền đi lại tự do trên khắp lãnh thổ Việt Nam . Số người Tàu hiện nay tại Việt Nam được ước tính là khoảng trên 3 triệu người đang có mặt thường trực và đang nhập “hộ khẩu” ào ạt vào Việt Nam để hợp thức hóa tình trạng cư trú. Trong vòng 5 năm tới, số này có thể lên đến 10 triệu người. Chợ Lớn nay đã thành một thành phố Tàu, đảo Phú Quốc chỉ trong vòng 10 năm nữa có thể trở thành một Singapore thứ hai. Tình hình này không những đang xảy ra tại Việt Nam, Lào, Campuchia mà còn đang xảy ra tại Miến Ðiện, Nepal, Bhutan, Kyrgystan, Bắc Hàn, Phi Luật Tân và các hòn đảo tại Thái Bình Dương nữa.

Song song với nỗ lực biến Phú Quốc thành một Singapore thông qua bàn tay người Tàu ở Hong Kong, Thái Lan hay Singapore, thậm chí cả từ Ðài Loan, thì nay Bắc Kinh cũng đang thực hiện một nỗ lực vô cùng quan trọng khác là: “Sẽ tìm cách chiếm lưu vực sông Hồng Hà ở Bắc Việt Nam và khu vực Biển Hồ của Campuchia”. Với đà lấn chiếm này thì chỉ trong vòng 15 năm nữa thôi Trung cộng sẽ kiểm soát 2 vùng quan trọng này ở Ðông Dương. Tại sao chúng tôi tiên đoán như vậy ? Xin thưa: Về phương diện phong thủy thì đảo Hải Nam của Tàu và Biển Hồ có vị trí đối xứng, vùng châu thổ sông Hồng có thể trấn áp vùng Hoa Nam của Tàu (có nguồn gốc từ dãy Hy Mã Lạp Sơn) và toàn thể nước Tàu. Vì vậy, Bắc Kinh tìm mọi cách phải chiếm Bắc Việt đầu tiên để phá thế phong thủy nguy hiểm cho nước Tàu, sau đó sẽ từng bước chiếm toàn thể Việt Nam và cả vùng Ðông Nam Á, theo đúng như những điều Cụ Lý Ðông A đã tiên đoán cách đây hơn 60 năm.

Một vài hòn đảo của Campuchia dành cho Tàu xử dụng, dự án làm kinh đào ở Nam Thái Lan ký kết với Tàu và một số hòn đảo của Miến Ðiện hiện đang được Tàu cho xây cất các công sự hạ tầng về kinh tế, quân sự, tiếp vận, phòng thủ, tất cả đều nằm trong ý đồ chiến lược đen tối xâm chiếm Á Châu của Bắc Kinh.

Con đường muôn thuở của sách lược Hán hóa của lãnh đạo Tàu là như thế này “kết hợp kinh tế, quân sự, ngoại giao, di dân”, để ép buộc các lân bang phải tương nhượng một vùng lãnh thổ chiến lược nào đó, rồi đưa thêm dân Tàu tới đó để biến các vùng đó thành các vùng do người Tàu thống trị, trong tường kỳ hủy diệt văn hóa của người bản xứ, biến vùng ấy, nước ấy thành một tỉnh của Trung Hoa.

Tất cả điều đó, Trung cộng đang dốc toàn lực tiến hành trên quy mô lớn nhờ Bắc Kinh có nhiều tiền do thặng dư mậu dịch của Tàu với thế giới đang gia tăng từng ngày, đến khi thế giới nhìn thấy thì đã trễ. Tàu đang tuôn hàng hóa ồ ạt sang Việt Nam, Lào, Campuchia, Miến Ðiện, Nepal, Bắc Hàn, Krygystan qua đường biên giới với giá rẻ mạt nhằm hủy diệt nền “kinh tế quốc dân” của các lân bang, đồng thời gây bất ổn trong vùng biên giới, nắm chặt các nhóm lãnh đạo thân Tàu tại các nước này, nhằm gây sức ép buộc các chính quyền thân Tàu này cắt đất, dâng biển cho Tàu và phải mở cửa biên giới để người Tàu có quyền đi lại tự do trên lãnh thổ các nước này. Ðây là sách lược “trộn lẫn một số nhỏ với khối lớn là 1 tỷ 3 người Tàu” nên chẳng bao lâu nữa, các quốc gia ấy sẽ trở thành tỉnh lỵ của Tàu là vậy.

Nếu xét về phương diện chiến lược thì: Tàu rất hãnh diện là đã kết hợp mọi cách đánh cao siêu nhất mà không phải nổ súng, không phải gây chú ý nơi dư luận quốc tế. Ta có thể gọi sách lược này của Tàu là “lấy nông thôn bao vây thành thị (Phương Tây-Mỹ) bằng kinh tế, dân số, kết hợp với quân sự, ngoại giao”.

Nhưng Bắc Kinh đã lầm lớn!

Thái Ðộ Của Chúng Ta Với Tàu

Không một dân tộc nào trên thế giới hiểu rõ dã tâm thâm độc của Tàu bằng chính người Việt Nam và cũng chẳng có dân tộc nào trên thế giới có nhiều kinh nghiệm xương máu với Tàu hơn dân Việt. Cho nên Tàu rất úy kỵ và muốn tiêu diệt Việt Nam là lẽ tất nhiên.

Với tư cách là một nạn nhân lâu đời của Tàu và trước thảm cảnh là đất nước chúng tôi đang bị Tàu chiếm đóng thông qua nhóm bù nhìn tay sai của Tàu là đảng Cộng sản Hà Nội đang thi hành mọi chỉ đạo từ Bắc Kinh, chúng tôi long trọng lên tiếng cảnh tỉnh toàn thế giới về các âm mưu thâm độc của Bắc Kinh đối với toàn thể nhân loại.

1) Ðối với các nước Ðông Nam Á: Chúng tôi phải nhấn mạnh rằng: “Chúng ta đều là dân Bách Việt cả”. Nay Việt Nam đang bị Tàu xâm lấn thì chẳng mấy chốc cả Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Úc, Tân Tây Lan, Ấn Ðộ, v.v.v. cũng sẽ rơi vào bàn tay tham lam của Bắc Kinh mà thôi. Vì thế, các quốc gia nằm trong vùng Ðông Nam Á, Nam Á hãy nhớ một điều là: Quý vị đang là mục tiêu kế tiếp trong tiến trình nô dịch toàn cầu của Bắc Kinh. Vậy quý vị cần xác định “tối hậu địch nhân của quý vị và của dân tộc Việt Nam chúng tôi chính là giới lãnh đạo Bắc Kinh”. Do đó, các bạn phải hợp tác với Hoa Kỳ, để kiên quyết và nhất định chống lại chủ nghĩa bành trướng Hán tộc do Bắc Kinh chủ trương.

2) Ðối với thế giới Hồi Giáo: Chúng tôi cần phải nói thế này: Nói chung, tôn giáo là để phục vụ con người, cho nên quý vị đừng để tôn giáo hoặc những kẻ lợi dụng tôn giáo cấu kết với Trung cộng, để giúp Bắc Kinh thực hiện được ý đồ bành trướng Hán tộc đi khắp nơi trên thế giới, để rồi chính các quốc gia của quý vị, tôn giáo của quý vị sẽ là mục tiêu thôn tính kế tiếp của Bắc Kinh. Chuyện này chắc chắn sẽ xảy ra vì Trung cộng đang rất đói khát về năng lượng dầu hỏa và Bắc Kinh rất muốn chiếm các mỏ dầu hoả trên đất nước của quý vị khi thời cơ đến (nhất là chiếm các mỏ dầu của Iran ). Vì thế, chúng tôi kêu gọi khối Ả Rập hãy cảnh tỉnh trước âm mưu thâm độc của Bắc Kinh và đừng để mình phải làm con vật tế thần của Bắc Kinh trong công cuộc chống Mỹ. Nếu mất Hoa Kỳ thì mưu đồ thôn tính toàn cầu của Trung Cộng coi như đã hoàn tất.

3) Ðối với Âu Châu: Chúng tôi cần nhấn mạnh thế này: Nếu Trung cộng thống trị thế giới thì cả Âu Châu sẽ bị Tàu chiếm đoạt cho bằng hết, ngọn cỏ cũng chẳng còn chứ nói gì đến giá trị văn hóa La-Hy, chủ nghĩa cá nhân hưởng thụ. Vì thế, Âu Châu cần hợp tác mật thiết với Hoa Kỳ trong việc ổn định thế giới mới. Nhất là Pháp quý vị đừng vì một chút tư lợi nho nhỏ trước mắt do Bắc Kinh đem đến cho quý vị, để rồi quý vị trở thành công cụ cho Bắc Kinh hủy diệt nhân loại và cả quý vị nữa trong tương lai rất gần.

4) Với toàn thể nhân loại: Chúng tôi cần phải nói thế này: Hoa Kỳ không phải là quốc gia đế quốc như nhiều người lầm tưởng, quá khứ và hiện tại đã chứng minh như vậy và tương lai “Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ là một nước Tiền Duy Dân đang dẫn loài người tiến lên nền Nhân Chủ Pháp Trị”. Nếu quyền lợi của Hoa Kỳ và của quốc gia quý vị có mâu thuẫn thì đó cũng chỉ là mâu thuẫn tạm thời. Tối hậu địch nhân của nhân loại chính là giới lãnh đạo tham lam, tàn ác Bắc Kinh. Vì thế, chúng tôi kêu gọi toàn thể loài người văn minh tiến bộ trên thế giới, không phân biệt màu da, tôn giáo, chủng tộc, tất cả hãy sát cánh cùng Hoa Kỳ trong sứ mệnh cao cả – “tiêu diệt âm mưu nô lệ hoá con người” của Bắc Kinh hầu đưa nhân loại tiến vào thời kỳ Nhân Chủ Pháp Trị đầy tốt đẹp.

* Chúng tôi cũng kêu gọi dân chúng hiện nay đang sống dưới các chế độ độc tài, độc đảng các bạn hãy can đảm, mạnh mẽ đứng lên lật đổ các chế độ độc tài, độc đảng, tham lam, tham nhũng, phản dân hại nước ấy, nhằm thiết lập một chế độ dân chủ tự do thật sự trên quê hương của các bạn. Không ai có thể làm việc này thay cho các bạn được. Các bạn phải làm trước rồi sự trợ giúp mới tới sau. Dân Chủ – Tự Do là sản phẩm tư tưởng và quyền căn bản của con người chứ không phải của riêng ai, nó cũng không phải là của riêng Âu Châu hay Mỹ Châu. Chỉ có các chế độ độc tài, độc đảng, tàn ác, tham lam, tham nhũng mới sợ tiếng nói Tự Do – Dân Chủ. Cho nên các chế độ độc tài, độc đảng, tham lam, tham nhũng này đang là đồng minh hay tay sai thân tín của chủ nghĩa bành trướng Ðại Hán của Bắc Kinh.

5) Ðối với lãnh đạo đảng Cộng sản Trung cộng ở Bắc Kinh: Hôm nay đây, chúng tôi gởi đến cho các ông một tính hiệu rất rõ ràng. Ðó là: Các ông đừng tưởng rằng dã tâm nham hiểm của các ông đã lừa bịp được hơn 80 triệu người Việt tại Việt Nam và hơn 2 triệu người Việt tại hải ngọai. Các ông đã lầm to! Ðã có một nhóm người Việt Nam với trí tuệ siêu quần họ thấy dã tâm ấy của các ông từ hơn 60 năm trước. Ngày nay, lực lượng bí mật ấy ngày càng lớn mạnh và đang kết hợp với Trung Tâm Quyền Lực Hoa Kỳ trong cuộc chiến tối hậu, hầu đem lại sự tốt đẹp cho nhân loại mà các ông đang tìm cách phá hủy đi để thỏa mãn tham vọng điên cuồng, không tưởng của các ông là: Khống chế thế giới.

Hôm nay đây chúng tôi thành thật nói với nhóm lãnh đạo Bắc Kinh rằng (nhân dân Trung Hoa với dân số 1 tỷ 3, nếu kể thêm người Tàu hải ngoại thì khoảng 1 tỷ 360 triệu): Các anh không sợ sức mạnh của Hoa Kỳ à ? Các anh nghĩ rằng Hoa Kỳ không biết gì về các ý đồ thâm độc của các anh sao ? Các anh quá lầm lẫn! Nếu các anh không biết hoặc cố tình không biết, chúng tôi sẽ nói cho các anh biết: Khi cuộc chiến nổ ra thì không một chiếc máy bay, hỏa tiễn nào của các anh có thể cất cánh hay phóng lên được cả. Cũng chẳng có chiếc tàu ngầm, tàu nổi nào của “Hồng Quân” các anh có thể rời khỏi cái hồ nhỏ ở vùng biển Hoàng Hải hay Nam Hải được đâu. Và tệ hại hơn nữa, nếu cần thiết để cứu nhân loại này thì “người ta” cũng sẽ sẵn sàng cho nổ tung đập Tam Khẩu ngay lập tức. Lúc đó các anh sẽ chết ít nhất cũng hàng trăm triệu người. Các anh nên biết người biết ta mà liệu sức mình! Các anh muốn chết 500 triệu thì “Người Ta” sẽ cho các anh chết 700 triệu mà họ chẳng hối hận gì cả, vì các anh muốn đánh chiếm và thống trị toàn thế giới. Chúng tôi cũng nói thật cho các anh rõ: Hiện tại sách lược đã có vấn đề chỉ còn là cân nhắc về mặt đạo đức đấy thôi. Không ai muốn chiến tranh, vì chiến tranh đem đến cho con người quá nhiều tang thương, chết chóc hẳn nhiên là những người có lương tâm trong sáng không ai muốn chiến tranh xảy ra, nhưng nếu lấy chiến tranh để giải quyết chiến tranh hầu đem đến một nền hòa bình muôn thuở cho nhân loại này, cho thế giới này không bị diệt vong, thì Hoa Kỳ sẽ phải đi vào chiến tranh bằng tất cả sức mạnh và sự khôn ngoan của họ vậy

Chúng tôi cũng nói rõ với hai ông Giang-Hồ (Giang Trạch Dân-Hồ Cẩm Đào) và toàn ban lãnh đạo của đảng cộng sản Trung cộng là: Khi chúng tôi đã vạch mặt chỉ tên kẻ thù thì không còn gì để khoan nhượng nữa. Bắc Kinh mới chỉ hiểu và nắm Việt Nam thông qua những đám Cộng sản Hà Nội tự nhận là lãnh đạo Việt Nam đang làm tay sai bù nhìn cho Bắc Kinh mà thôi. Ngoài ra, tuyệt đại đa số người dân Việt Nam vô cùng phẫn nộ trước hành động bán nước, làm tay sai cho Trung cộng của nhóm Việt gian Cộng sản Hà Nội! Người dân Việt Nam nguyện đem hết sức mình để chống lại đường lối xâm chiếm, xâm lăng đồng hóa Việt Nam của Bắc Kinh. Chúng tôi rất hiểu nhân dân Việt Nam chúng tôi. Bình thường thì người Việt Nam rất hiền hoà và hiếu khách, rất bền bĩ và chịu đựng, nhưng một khi đã phải phản ứng, thì họ phản ứng rất mãnh liệt đến độ không ai có thể ngờ được. Lịch sử đã chứng minh: Tôn Sĩ Nghị đem hơn hai trăm ngàn quân (200 ngàn) vào xâm lăng Việt Nam nhưng khi thất bại, trốn chạy về Tàu chỉ còn chừng 200 quân còn sống sót. Thoát Hoan cũng đem cả trên mấy trăm ngàn quân thôn tính Việt Nam nhưng thua trận tả tơi, trốn thoát về Tàu với chừng 100 quân còn sống. Ngày hôm nay đây, tình báo (và hồng quân) Trung cộng đang giả dạng làm người Việt Nam để chiếm đất Việt Nam, lấy vợ Việt Nam, tiêu tiền giả Việt Nam và dùng chất độc để đầu độc người dân Việt Nam, để lần hồi biến Việt Nam thành một tỉnh của Trung Hoa. Chúng tôi xin nói rõ: Khi nhân dân Việt Nam chúng tôi đã phản ứng thì dù có 10 triệu người Tàu đến Việt Nam cũng sẽ bị diệt sạch. Lúc đó người dân Việt chúng tôi chẳng có lỗi lầm gì cả, vì chính Trung cộng là kẻ xâm lăng và muốn tiêu diệt dân tộc chúng tôi, vì sự sống còn buộc lòng chúng tôi phải tự vệ.

6) Chúng tôi kêu gọi nhân dân Trung Hoa: Chỉ có các bạn mới cứu được chính các bạn và con cháu các bạn. Cuộc chiến tranhh toàn diện này (một bên là thế giới tự do do Hoa Kỳ lãnh đạo và bên kia là tập đoàn Cộng sản và khủng bố do Bắc Kinh lãnh đạo) không phải là “không thể tránh được”. Nếu các bạn biết đứng lên lật đổ tiêu diệt chế độ Cộng sản Bắc Kinh, thì các bạn sẽ tiết kiệm được xương máu của chính các bạn và con cháu các bạn rất nhiều, nếu không thì hậu quả sẽ không sao lường được cho dân tộc và cho đất nước các bạn.

* Ðặc biệt với các dân tộc Hoa Nam : Các bạn và dân tộc Việt Nam chúng tôi và các dân tộc ở vùng Ðông Nam Á, chúng ta có chung một nguồn gốc tổ tiên là Bách Việt. Sự sung mãn của Hoa Nam sẽ biến mất mau chóng với những tàn phá, mất mát vô cùng lớn lao, khi chiến tranh toàn diện giữa thế giới và Bắc Kinh xảy ra. Vì thế các bạn phải tự cứu mình trước, đừng tin hay trở thành vật thí thân cho giới lãnh đạo Bắc Kinh nòi Hán tộc. Lãnh đạo Bắc Kinh chỉ luôn luôn tìm cách đồng hóa và tiêu diệt dòng Bách Việt chúng ta mà thôi. Vậy các bạn hãy đứng lên, sát cánh cùng nhân loại trên thế giới nhằm tách rời khỏi bàn tay thâm độc của Bắc Kinh và thiết lập một chính phủ Hoa Nam – Bách Việt, tách biệt ra khỏi bàn tay cai trị tàn ác của Hán tộc phương Bắc.

7) Với Hoa Kỳ: Trước dã tâm thâm độc, tàn ác của giới lãnh đạo Bắc Kinh đối với nhân loại, hôm nay đây chúng tôi chính thức yêu cầu: Hoa Kỳ xử dụng tất cả sức mạnh kinh tế, kỹ thuật, quân sự của mình để ngăn chặn các âm mưu thâm hiểm này của Bắc Kinh trong ý đồ xâm lược thế giới, đồng hóa các nước nhỏ, tiêu diệt các nền văn minh khác và Hán hóa toàn cầu. Nếu vạn bất đắc dĩ không thể tránh được, thì Hoa Kỳ cần phải xử dụng sức mạnh quân sự tối ưu của mình để đập tan chế độ độc tài, tham lam, tàn ác của Bắc Kinh để cứu chính dân Trung Hoa và cứu loài người yếu. Tội ác chống nhân loại của nhóm lãnh đạo Bắc Kinh đã đến thời điểm cực kỳ nghiêm trọng. Nó tội lỗi và tàn độc hơn bất cứ chế độ độc tài, tàn ác nào từ xưa tới nay trong lịch sử nhân loại.

8) Ðối với nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước: Chúng tôi kêu gọi mọi người cần ý thức thật rõ ràng về việc Trung cộng đã thực sự chiếm lĩnh Việt Nam qua bọn tay sai, bù nhìn, tội đồ của dân tộc Việt Nam là đảng Cộng sản Hà Nội, do đó đảng Cộng sản Hà Nội chỉ còn là công cụ để cho Bắc Kinh thao túng Việt Nam và đồng hóa dân ta một cách âm thầm mà thôi. Trong tình huống này, sắp tới đây, Bắc Kinh sẽ kiểm soát quân đội Cộng sản Việt Nam từ cấp trung đội trở lên. Mọi người Việt Nam bất cứ ở đâu, cũng sẽ bị Bắc Kinh khống chế chặt chẽ. Nguồn sống của dân ta sẽ bị tước đoạt hết. Dân ta chỉ còn là những kẻ nô lệ trên chính quê hương mình, phục vụ cho những ông chủ mới là những người Tàu trá hình làm người Việt Nam , đang “lãnh đạo” đất nước Việt Nam . Lịch sử đã dạy cho chúng ta thấy, gần 700 năm trước đất nước chúng đã gần như bị tiêu diệt bởi nhà Minh. Vậy chúng ta có thể nào an tâm hưởng thụ, bịt mắt che tai ngồi im nhìn thảm cảnh đau thương này xảy ra cho chúng ta và dân tộc chúng ta một lần nữa hay không? Không! Ngàn lần không phải không các bạn ?

Vì vậy, chúng tôi kêu gọi tất cả mọi người Việt Nam trong và ngoài nước: Không phân biệt đảng phái, chính kiến, tôn giáo

Chúng ta có bất cứ thứ vũ khí gì thì xử dụng vũ khí ấy, để tiêu diệt hết mọi thành phần làm tình báo, gián điệp, tay sai cho Trung cộng, được Bắc Kinh gài vào trá hình làm người Việt sinh sống tại Việt Nam, để thực hiện ý đồ bành trướng Hán tộc và tiêu diệt văn hóa cũng như đồng hóa dân tộc Việt Nam.

Chúng ta nhất định không để chuyện Trọng Thủy – Mỵ Châu tái diễn một lần nữa trên đất nước Việt Nam của chúng ta. Tiêu diệt nhóm tình báo, gián điệp và làm tay sai bán nước cho Bắc Kinh chúng ta không có lỗi gì cả, vì sự tồn vong của dân tộc buộc lòng chúng ta phải hành động, để cứu lấy quê hương thoát khỏi ách nô lệ của người Tàu và dân tộc chúng ta không bị diệt chủng bởi họa Bắc Phương.

Nhưng trước hết, nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước, chúng ta phải nhanh tay kết hợp nhau lại để lật đổ bọn cầm quyền bán nước nguy hiểm là nhóm Cộng sản Hà Nội hiện đang làm tay sai cho Bắc Kinh để thực hiện các đường lối Hán hóa Việt Nam của Bắc Kinh.

Thế giới sẽ cứu giúp chúng ta nhưng chúng ta phải tự cứu mình trước đã. Do đó chỉ có chúng ta mới cứu dân tộc chúng ta được. Hoa Kỳ sẽ sát cánh cùng dân tộc Việt Nam và các dân tộc khác trong cuộc chiến tranh thần thánh này để “đập tan âm mưu bành trướng để thống trị toàn thế giới của Hán tộc của Bắc Kinh” hầu đem lại vinh quang, hạnh phúc, ấm no cho xứ sở Việt Nam và cho cả loài người nữa.


Lê Văn Xương
Viethoc

http://www.diendannguoidanvietnam.com/index.php?option=com_content&view=article&id=3803:ti-ac-ca-lanh-eo-tau-ei-vi-nhan-loi-va-am-mu-thon-tinh-vit-nam&catid=2:chinh-tri-va-kinh-te&Itemid=4

*