NGUYỄN VĂN SỞ * GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Một Phương Cách Mới Để
Xây Dựng Cuộc Sống Vui Tươi
Phải nói ngay đầu đề ở trên có thể gây hiểu
lầm đây là bài thuyết giảng
của một vị lãnh đạo tôn giáo hay những lời khuyên răn của một vị cố vấn hôn
nhân nào đó. Thực ra hoàn toàn không phải như vậy, mà chỉ là tên của một cuốn
sách mới xuất bản hồi tháng Tư năm 2012, của hai vị kỹ sư: Manel Baucells, giáo
sư Kinh tế và Doanh thương tại Đại học Pompeu Fabra, Barcelona, Tây ban nha, và
Rakesh Sarin, giáo sư môn Quản trị tại UCLA, thuộc hệ thống Đại học California ở
Los Angeles. Tên cuốn sách bằng tiếng
Anh trên trang bìa là:
engineering happiness
a new approach for building a joyful life
Trước đây đã có nhiều sách viết về chủ đề hạnh phúc, nhưng có thể nói
đây là cuốn đầu tiên do hai vị kỹ sư viết ra. Theo như hai tác giả cho biết
trong lời tựa, trước khi trở thành những giáo sư dạy Kinh tế và Quản trị, họ xuất
thân là những kỹ sư, mà nhiệm vụ chính của kỹ sư là ứng dụng kiến thức về khoa
học kỹ thuật vào việc thiết kế, xây dựng, cũng như điều hành những công trình
cung ứng tiện nghi cho xã hội hay sản xuất những máy móc nhằm nâng cao giá trị
cuộc sống. Cầu cống, xa lộ, trường học, bệnh viện, nhà cao tầng, v.v…và các loại
phương tiện chuyên chở như xe hơi, tàu thủy, máy bay, hoặc các loại máy móc như
truyền hình, máy điện toán, điện thoại cầm tay… đều
thuộc trách nhiệm của kỹ sư. Tóm lại,
kỹ sư là người thích tìm tòi, giải đáp những vấn nạn, những câu hỏi hiểm hóc đầy
thách thức, nhờ đó mà ngành kỹ sư đã đạt được những thành tựu tốt đẹp về kỹ thuật như ta đã thấy.
Cách đây hơn mười năm, hai vị giáo sư tác giả cuốn sách cũng đã tự thách
thức mình với vấn đề kiến tạo hạnh phúc. Liệu người kỹ sư có thể vận dụng
kiến thức của mình cùng những điều kiện cụ thể, có thực trong cuộc sống để giải
quyết một vấn đề khó nắm bắt như hạnh phúc không? Trước hết là tìm hiểu thế
nào là hạnh phúc, cái gì tạo nên hạnh phúc, và sau đó là làm thế nào đánh giá hạnh
phúc của người này so với hạnh phúc của người kia. Nói cách khác, mục đích của hai
tác giả khi tự đặt cho mình câu hỏi trên là làm sao khám phá được những đặc
tính của hạnh phúc qua những phân tích có hệ thống và có thể định nghĩa được.
Cuốn sách vừa xuất bản là thành quả công trình nghiên cứu của họ, nhằm chia sẻ với chúng ta nhiều khám phá lý thú, quan trọng
nhất là điều khẳng định “hạnh phúc có thể kiến tạo được”. Họ đã minh chứng điều
này bằng một phương trình căn bản khởi đầu như sau:
HẠNH PHÚC = THỰC TẠI – KỲ VỌNG
“Thực tại” ở đây gồm hoàn cảnh thực tế quanh ta, những điều kiện, cơ sở
vật chất cũng như tinh thần đang tồn tại trong cuộc sống của chính ta, thân thế,
sự nghiệp, địa vị xã hội của ta vào một giai đoạn nhất định nào đó trong cuộc đời,
kể cả tuổi tác, sức khoẻ, trình độ, khả năng, mức sống, v.v… Còn “kỳ vọng” là
những gì ta mong mỏi, hy vọng, trông chờ, hay mong đợi.
Từ phương trình trên, ta có thể hiểu mức độ hạnh phúc ta có thể có được
tùy thuộc vào hai biến số trong vế thứ hai. Kỳ vọng càng cao so với thực tại
thì mức độ hạnh phúc càng thấp, có khi là số âm, hoặc
ở một mức độ
làm ta cảm thấy đau khổ, hay
thiệt thòi. Trái lại, kỳ vọng càng thực tế thì mức độ hạnh phúc càng dễ đạt được,
cảm nhận được.
Phương trình trên đây mới chỉ là phần căn bản. Muốn tạo hạnh phúc, hai
tác giả cuốn sách còn lần lượt phân tích những liên hệ tất yếu và phức tạp giữa
các hiện tượng nội tâm và sắp xếp chúng thành 6 quy luật hạnh phúc làm thay đổi hai vế
trong phương trình trên, giúp ta hiểu chính xác hơn và có thể áp dụng phương
trình đó sao cho có hiệu quả trong các lựa chọn của đời sống.
Hạnh phúc thường được ví von như một quả lắc, hết quay qua trái lại quay
qua phải, và trước sau gì cũng sẽ trở về vị trí ở giữa, ngụ ý là ta không thể
làm gì khác hơn được. Như vậy là sau những xao xuyến ban đầu, ta sẽ quen dần với một
mức độ hạnh phúc nào đó và không còn thấy có gì đặc biệt, khác lạ nữa. Nhưng
hai tác giả cuốn sách không nghĩ như vậy. Họ so sánh hạnh phúc như một chiếc
thuyền buồm trên biển mà gió bão cũng như các dòng nước ngầm có thể gây tác động
và ảnh hưởng đến hướng đi của con thuyền, nhưng người ở trên thuyền vẫn làm chủ
được tay lái nếu biết khéo léo kiểm soát, điều khiển nó. Những qui luật mà hai
tác giả đưa ra có thể được hiểu như là tay lái trên thuyền sẽ giúp hướng dẫn
con thuyền đến bến bờ hạnh phúc.
Chung qui có được cuộc sống an lạc hay không chỉ là một vấn đề chọn lựa.
Nếu hiểu thế nào là hạnh phúc và nắm vững những qui luật được giải thích trong
sách, người ta sẽ có đủ cơ sở để có những
quyết định đúng đắn trong chọn lựa hầu có được một cuộc sống an lành, vui vẻ,
như ý.
HẠNH PHÚC LÀ GÌ?
Trước hết hai tác giả phân tích một kinh nghiệm đã được
báo chí tường thuật trước đây để trả lời câu hỏi “Tiền có mua được hạnh phúc
không?” Chắc nhiều người còn nhớ câu chuyện Andrew Jackson Whittaker, Jr. trúng
số Powerball jackpot $315 triệu vào ngày Giáng Sinh 2002. Andrew lớn lên trong
một gia đình nghèo ở West Virginia và phải bắt đầu làm việc từ lúc mới 14 tuổi,
nhưng nhờ chuyên cần làm việc nên sau này anh
thành lập được một công ty lắp đặt hệ thống ống nước khá thành công. Nếu
vẫn tiếp tục sống và làm việc như bình thường, chắc
hẳn anh và gia đình đã có những
thăng tiến càng ngày càng tốt đẹp hơn. Nhưng anh lại trúng số độc đắc, và cuộc
đời anh đã thay đổi.
Thay đổi như thế nào? Hai vợ chồng anh đã chọn cách lãnh một lần $170 triệu thay vì lãnh trong nhiều năm. Sau khi trừ thuế, họ còn được khoảng $112 triệu. Anh biếu các nhà thờ ở West Virginia 10% số tiền đó, mua cho người phụ nữ đã bán cho anh tấm vé số may mắn một căn nhà, và mướn lại 25 nhân viên mà anh đã phải cho nghỉ việc trước đó. Tất cả đều nghe như trong chuyện thần tiên.
Nhưng chuyện gì đã xảy ra hai năm sau? Tên tuổi anh lại
được nhắc đến hằng ngày trên báo, cũng như các đài truyền thanh, truyền hình, nhưng lần này thì toàn những tin
tức không hay. Anh đã bị cảnh sát bắt hai lần vì tội lái xe lúc đang say rượu
và anh phải chữa trị trong một trung tâm phục hồi. Ngoài ra anh còn bị
liên can đến nhiều rắc rối khác như cờ bạc và gái điếm. Năm năm sau, vợ anh bỏ
anh, và tiếp theo là cô cháu yêu quý của anh chết vì nghiện ngập do chơi với
bạn xấu.
Tại sao cuộc đời của một người tương đối thành công và
giàu có như anh, ngay cả trước khi trúng số, lại xuống dốc đến như vậy? Có lẽ
là do vận may bất ngờ anh được thừa hưởng một món tiền quá lớn mà không biết
cách sử dụng đúng đắn nên anh đã có những quyết định thiếu chính chắn, nhất là
anh không được chuẩn bị chu đáo, khôn ngoan trong cách ứng xử.
Hạnh phúc hoá ra là một vấn đề không đơn giản. Có thể
hình dung nó như một trò chơi lắp ghép hình phức tạp với nhiều mảnh nhỏ hình
thù khác nhau, dài ngắn khác nhau phải tìm cách chắp lại thành một khuôn mẫu
nào đó theo ý muốn. Làm được hay không tuỳ thuộc vào khả năng thiên phú và tài
khéo léo của người chơi.
Nếu hỏi hạnh phúc là gì thì chắc ai cũng nghĩ là mình
hiểu vì đã nghe, đã sử dụng danh từ này khá nhiều lần trong các dịp đám cưới,
đám hỏi, lễ bạc, lễ vàng, hay trong những ngày Tết, mừng Xuân Mới, v.v… Thông
thường ai cũng nghĩ hạnh phúc phải là những tình cảm, xúc động, tâm trạng, cùng
nhận thức có tính cách tích cực như sự sung sướng về vật chất cũng như tinh thần,
sự thích thú, vui vẻ, hài lòng, vừa ý, hay thoả mãn…
Tuy nhiên, hai tác giả không hoàn toàn đồng ý như vậy.
Sau khi nghiên cứu một khối lượng lớn sách báo đã xuất
bản về các phương pháp đánh giá hạnh phúc (cao/thấp, nhiều/ít) và tìm hiểu những
yếu tố thường được xem là có ảnh hưởng đến hạnh phúc như văn hoá, lương bổng,
tuổi tác, trình độ giáo dục, tỷ lệ tự sát, và các thay đổi của tế bào thần kinh
trong não bộ tuỳ theo tâm trạng vui hay buồn, họ tiếp cận vấn đề một cách khác,
coi hạnh phúc như một tổng thể các sự vui buồn, sướng khổ trong một thời gian nhất định nào
đó, chứ không chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi.
Họ triển khai hai khái niệm liên quan đến định nghĩa
danh từ hạnh phúc mà họ đã sử dụng khi nghiên cứu vấn đề này. Thứ nhất là hạnh
phúc tức thời (moment happiness), là niềm vui hay nỗi buồn, sự sung sướng hay
điều đau khổ mà ta cảm nhận được cường độ của nó vào một thời điểm nhất định. Thứ hai là hạnh phúc thật sự (total
happiness), được kể như là kết số của tất cả những tình cảm tích cực trừ đi những
tình cảm tiêu cực sau một thời gian.
Hãy lấy ví dụ về Skydiving (một nhóm sinh viên tham
gia môn thể thao nhảy từ trên máy bay và rơi tự do cho đến khi có thể an toàn mở
dù) để hiểu cụ thể hơn. Họ sử dụng một
biểu đồ thăm dò hạnh phúc gồm hai trục tung và hoành. Trục tung chỉ cường độ của
cảm xúc trước khi nhảy, trong khi nhảy, và sau khi nhảy, từ -10 (cực đau khổ) đến
+10 (cực sung sướng), được tính bằng “happidons”, đơn vị đo lường hạnh phúc do
chính họ nghĩ ra. Trục hoành chỉ thời gian, trên đó ghi những xúc cảm có tính
tích cực như: háo hức/hưng phấn, thiết tha/nhiệt tình, nhẹ nhõm/hết lo âu, hãnh
diện, vui vẻ... có lẫn cả những xúc cảm trái ngược
có tính tiêu cực như: căng
thẳng, bứt rứt/bối rối, lo lắng, sợ hải, kinh hoảng. Theo dõi và ghi nhận những
tín hiệu biến chuyển trong tâm trạng người tham dự từ những giờ phút chuẩn bị
và chờ đợi đầy lo lắng cũng như háo hức ban đầu, qua những thay đổi của tình cảm
theo trục thời gian, cho đến những cảm giác nhẹ nhõm hay ngây ngất sau khi hoàn
tất, họ mới tính ra số
“happidons” từ kinh nghiệm
Skydiving của nhóm sinh viên nói trên, nghĩa là hạnh phúc nhiều hay ít.
QUY LUẬT 1: SO SÁNH TƯƠNG ĐỐI
Rõ ràng là từ nhỏ đã có cái khuynh hướng so sánh mình với người khác cạnh
mình. Hạnh phúc hay đau khổ cũng từ đó mà khởi sinh. Một ví dụ thực
tế: Một cô học sinh 17 tuổi nhận được điểm cuối năm 8/10, coi
như là điểm tốt, nhưng cô vẫn khóc sụt sùi, có vẻ không bằng lòng. Khi hỏi tại
sao, cô trả lời: “Mấy bạn con được điểm 9 hoặc 9.50.”
Bất cứ một sự so sánh nào cũng có hai điểm đối chiếu: Thực tại khách
quan và kỳ vọng (điều mình mong đợi). Trong ví dụ trên, điều cô gái mong đợi và
lấy đó làm cơ sở để so sánh là số điểm của các bạn cô. Nếu các bạn cô đều được
điểm 7 thay vì điểm 9, hẳn là cô đã thấy sung sướng với điểm 8 của cô rồi.
Từ ví dụ trên, họ đề ra Quy luật 1 mà họ cho là quan trọng nhất:
Quy luật 1: Có hạnh phúc hay không có
hạnh phúc đều do so sánh mà ra.
Vì có so sánh, phương trình hạnh phúc được giản lược như sau:
HẠNH PHÚC = NHỮNG GÌ TA CÓ – NHỮNG GÌ NGƯỜI KHÁC CÓ
Tình cảm ở trong ta thường được khởi động khi thực tại
bên ngoài không ngang tầm với điều ta mong đợi. Nếu mức độ khác biệt có chiều
nghiêng về hướng tích cực, nghĩa là thực tại ta đang sống phong phú hơn, dồi
dào, nặng ký hơn thì trong tâm trí ta sẽ khởi phát những tình cảm như vui mừng,
hãnh diện, dễ chịu, thích thú… Ví dụ như khi máy bay của chúng ta đến sớm hơn
giờ đã ghi thì ta thấy vui. Trái lại, nếu máy bay đến trể, ta sẽ cảm thấy khó
chịu, bực bội.
So sánh về mặt xã hội thường là so sánh với những người
cùng trang lứa, cùng ngành nghề, cùng giai tầng xã hội. Ít khi ta so sánh với
những người thuộc các tầng lớp trên ta. Vậy có khi nào ta so sánh với những người kém may mắn hơn
để thấy ta sung sướng hơn không? Tom Gilovich và các đồng nghiệp trong một nghiên
cứu có liên quan đến các vận động viên được huy chương ở Olympics đã giúp trả lời
điều đó. Họ nhận thấy rằng trong khi các vận động viên được huy chương bạc thường
hối tiếc đã đến gần mức thắng mà lại không thắng thì các vận động viên được huy
chương đồng lại thấy rộn ràng vui vì được huy chương trong khi bao nhiêu vận động
viên khác cùng tham dự cuộc tranh tài lại không được gì cả.
Có 4 phương sách có thể kiềm chế được khuynh hướng muốn
so sánh mình với người khác:
1.
Chọn bạn
trong cùng một giới ngang tầm với mình.2. Biết so sánh có chọn lọc, đừng ghen tị.
3. Nên sống tử tế và sẵn sàng giúp đỡ người kém may mắn.
4. Tập khen ngợi người hay chuyện đáng khen.
QUY LUẬT 2: KỲ VỌNG THAY ĐỔI
Quy luật
2: Kỳ vọng thay đổi theo chiều hướng của thực tại mới.
Trở lại với phương trình hạnh phúc, một khi thực tại thay đổi thì kỳ vọng cũng thay đổi theo. Ví dụ rõ rệt nhất là khi được tăng lương thì cũng mong được hưởng thụ nhiều hơn. Hay khi còn là sinh viên đi học bằng chiếc xe cũ cũng không sao vì chung quanh hầu như ai cũng thế. Nhưng sau khi tốt nghiệp và làm việc một thời gian, khi đồng nghiệp cùng sở lái xe nhập cảng kiểu mới loại BMW hay Mercedes-Benz mà ta vẫn tiếp tục chạy chiếc xe cũ ấy thì chẳng còn hợp với lối sống mới tí nào, làm sao vui được. Tại sao? Vì cuộc đời đã khác nên kỳ vọng cũng phải khác đi, nhất là khi nhìn chung quanh, ta thấy muốn có những gì bạn bè và đồng nghiệp đã có. Do đó, phương trình hạnh phúc có thể viết lại như sau:
HẠNH PHÚC = NHỮNG GÌ CÓ BÂY GIỜ - NHỮNG GÌ CÓ TRƯỚC ĐÂY
Nhưng con người vốn có một khả năng đặc biệt là dễ thích ứng, thuận lợi hay khó khăn, hoàn cảnh tốt hay xấu, rồi cũng quen dần. Bởi vậy khi kỳ vọng và thực tại không còn chênh lệch nhau nữa thì những tình cảm ban đầu, tích cực hay tiệu cực, cũng mờ nhạt đi, không còn được cảm nhận ở cường độ đáng kể nữa. Phương trình hạnh phúc, do đó, cũng có thể trình bày lại như sau:
HẠNH PHÚC = THỰC TẠI – KỲ VỌNG ĐÃ THAY ĐỔI
Điều quan trọng cần phân biệt là ta có thể thích ứng với những gì ta có, nhưng tùy loại mà mức độ thích ứng có khác nhau. Khi nói đến những tiện ích căn bản như thực phẩm, nghỉ ngơi, quan hệ tình dục, sức khoẻ, thể dục, liên hệ với bạn bè, gia đình… thì mức độ cảm khoái của ta ít có dấu hiệu thay đổi, vì đó là những nhu cầu thiết yếu. Nhưng với những thứ tiện ích không căn bản như đồ đạc trang trí trong nhà, máy móc, áo quần, nữ trang mới thì sự háo hức ban đầu suy giảm đi rất nhanh. Nếu biết như vậy việc chọn lựa sẽ dễ dàng hơn, không phải chạy theo những sản phẩm tiêu dùng mà trước sau gì rồi cũng chán.
QUY LUẬT 3: SỢ THUA THIỆT
Khuynh hướng tự nhiên của con người là sợ thua thiệt,
không bao giờ muốn thấy mình thiệt thòi hơn người khác. Vì vậy mà cường đô cảm
thấy vui khi “được” $10.00, nếu tính bằng happidons, sẽ thấp hơn cường độ cảm
thấy “buồn” vì mất cũng số tiền đó.
Quy luật
3: Nỗi sợ bị thua lỗ sâu đậm hơn niềm vui khi được cùng
một vật sở hữu có giá trị tương đương.
Khuynh hướng này khá phổ biến và đã được ghi nhận cũng như khai thác
trong nhiều lãnh vực như thể thao, cờ bạc, hay kinh doanh. Chính khuynh hướng
này đã ảnh hưởng đến quá trình lựa chọn và cách hành xử trong cuộc sống. Xin kể
thêm vài ví dụ.
Hai Giáo sư Ian Ayres và
Dean Karlan thuộc Đại học Yale đã đề ra một phương cách giúp người mập giảm cân
rất hiệu nghiệm dựa trên khái niệm sơ khởi là “ai cũng cố gắng tối đa để khỏi mất
$500.00, hơn là được $500.00”, sau khi tự nguyện bỏ số tiền đó vào một chương mục
của một cơ quan trung gian quản lý và bắt đầu tập theo một chế độ ăn kiêng. Nếu
đạt mục đích giảm cân sau thời gian quy định, số tiền ký gởi sẽ được hoàn trả
nguyên vẹn. Ngược lại, số tiền đó sẽ được tặng cho một cơ quan từ thiện.
Về chuyện cai thuốc lá
thì ứng dụng như sau. Người nghiện ký gởi số tiền vẫn chi dung cho thuốc lá vào
một chương mục tiết kiệm. Sau sáu tháng, nếu thử nghiệm máu cho thấy không còn
chất nicotine, số tiền tiết kiệm sẽ còn nguyên. Nếu không, số tiền đó sẽ được
biếu cho một cơ quan từ thiện. Chương trình cai nghiện này cũng rất thành công
vì không ai muốn mất đi số tiền tiết kiệm của mình.
Hiểu rõ cách vận hành của
quy luật thứ ba về nỗi sợ này trong cách hành xử hằng ngày cũng sẽ giúp đạt được
những quyết định và lựa chọn đúng đắn.
QUY LUẬT 4: CƯỜNG ĐỘ CẢM THỤ GIẢM THAY VÌ TĂNG
Trúng số thì hẳn là vui rồi. Nhưng vấn đề mà hai Giáo sư muốn gỉải thích bằng toán học ở đây là khi trúng $100,000.00 thì nỗi vui có tăng gấp 10 lần so với khi chỉ trúng có $10,000.00 không? Đặt vấn đề như vậy là để chứng minh rằng khi bàn về có hạnh phúc hay không có hạnh phúc, không nên hiểu tâm lý chuyển biến theo một đường thẳng, do đó mới cần nói thêm với Quy luật thứ tư:
Quy luật 4: Mức độ hạnh phúc không
tương ứng với sự khác biệt giữa thực tại và kỳ vọng vì lý do cường độ cảm thụ
giảm, thay vì tăng, do đó mà khi thực tại vượt quá xa kỳ vọng thì mức độ hạnh
phúc cảm nhận không tăng theo cùng một nhịp độ như ta tưởng.
Quy luật này cho thấy rằng
nhân đôi nguồn kích thích không hẳn sẽ gây ra một phản ứng cũng gấp đôi trong
xúc cảm. Chính vì vậy mà miếng kem lạnh đầu tiên vào một ngày nóng bức mới thiệt
là ngon, trong khi miếng thứ hai tuy cũng còn ngon nhưng ít hơn một chút, và miếng
thứ ba sẽ ít ngon hơn miếng thứ hai. Ăn hết kem vẫn thấy ngon, nhưng mức độ cảm
nhận cái ngon giảm dần.
Mức độ cảm nhận còn tùy thuộc vào nhịp độ thích ứng của
từng người trong từng sinh hoạt khác nhau, nhanh hay chậm, khi thực tại và kỳ vọng
thay đổi.
Vận dụng thêm những yếu tố
mới này vào phương trình hạnh phúc bằng toán học, hai tác giả đã đưa ra ‘công
thức dự đoán hạnh phúc’ (formula for happiness) và cho biết bí quyết bảo đảm
đưa đến hạnh phúc là chiến lược tiệm tiến (crescendo strategy), ngăn không cho
tạo ra thói quen làm giảm đi những thích thú trong cuộc sống, mà trái lại phải
luôn luôn gia tăng và thay đổi các sinh hoạt trong đời sống để lúc nào cũng nhận
thấy hôm nay khác hôm qua, và dành phần tốt nhất cho giai đoạn cuối (saving the
best for last).
QUY LUẬT 5: CẢM GIÁC BẢO HOÀ
Con người là một sinh vật
có khuynh hướng sống theo thói quen. Muốn có hạnh phúc phải vượt ra khỏi vòng
kiềm tỏa của thói quen qua việc khai thác chiến lược tiệm tiến nói trên với những
sinh hoạt mới mẻ, đa dạng. Chính đây mới
là những gì mang lại hương vị cho cuộc đời và cũng là nội dung của Quy luật 5:
Quy luật
5: Vì lý do bảo hoà, những cảm nhận thích thú có được
khi mới thụ hưởng sẽ càng lúc càng giảm với thời gian; ngược lại, những cảm nhận
khó chịu khi mới kiêng nhịn sẽ làm tăng mức độ thích thú khi sắp được thụ hưởng.
Ứng dụng vào thực tế ta sẽ thấy ngay. Nếu mới từ
Bahamas trở về Arizona sau một tuần nghỉ ngơi, tắm biển bên đó mà lại được mời
về một thành phố trên bờ biển Nam California nghỉ cuối tuần thì chắc chắn là
không hấp dẫn lắm. Hay cụ thể hơn, mới ăn cưới ở một nhà hàng quen thuộc, hôm
sau phải tham dự họp bạn cũng tại nhà hàng đó và thực đơn của nhóm tổ chức cũng
y như đêm trước thì hương vị ăn uống chắc không còn mấy đậm đà.
Chúng ta đã thấy nhịp độ
thích ứng của từng người có khác nhau. Nhịp độ bảo hoà cũng vậy, nhưng tuỳ thuộc
loại tiện ích. Có thể nói rằng một khi thói quen đã hình thành thì sự thích ứng
sẽ làm giảm đi cảm giác bảo hòa. Ví dụ ai thích nhạc cổ điển thì có thể nghe suốt
ngày mà không thấy chán, vì đã quen như vậy. Ngược lại thì chỉ năm, mười phút
là đã muốn chuyển qua một loại hình thưởng ngoạn khác.
Trong các mục hưởng thụ
như hội hè, ăn uống, du lịch, v.v… cũng cần có tính toán, chừng mực, làm sao để
hiện tượng bảo hòa không làm mất đi sự háo hức, chờ đợi đầy thích thú trong cuộc
sống hằng ngày.
QUY LUẬT 6: MA LỰC HIỆN TẠI
Gọi là ma lực hiện tại
hay tính đương thời (presentism) vi cái cảm tưởng nhất thời, như sự sung sướng,
lạc quan vì mới trúng số sẽ tạo kỳ vọng lệch lạc là sẽ tiếp tục được sung sướng,
lạc quan như thế nữa. Nhưng trong thực tế, tâm trạng hồ hởi, phấn khởi đó không
kéo dài như ta tưởng. Đó là nôi dung của Điều luật 6.
Điều luật 6: Vì ma lực hiện tại, ta dự
đoán là những gì ta thích hay tình cảm của ta trong tương lai sẽ tương tự như
những gì ta thích hay tình cảm của ta trong lúc này.
Câu cuối cùng trong những câu chuyện thần tiên mà ta
đã đọc hồi còn nhỏ thường là “…và từ đó về sau họ sống hạnh phúc bên
nhau.” Thực tế có như vậy không? Làm sao
dự báo được tương lai một cách lạc quan như vậy? Hãy tưởng tượng nếu Romeo và
Juliet còn sống và thành vợ chồng như bao nhiêu cặp tình nhân khác, liệu cuộc đời
họ sẽ chỉ có toàn những yêu thương, hay cũng có những vui buồn, những xung đột
thường tình như bao nhiêu gia đình khác?
Nhưng đó là một lỗi lầm rất
phổ biến, được gọi là thiên kiến về thích ứng (adaptation bias), cho rằng những
gì ta kỳ vọng sẽ không thay đổi mà quên mất trên thực tế, kỳ vọng của ta cũng sẽ
thay đổi. Phương trình hạnh phúc, do đó, phải được biểu thị như sau:
HẠNH PHÚC THẬT SỰ = THỰC TẠI TRONG TƯƠNG LAI – KỲ VỌNG
TRONG TƯƠNG LAI
Ngoài
ra còn phải nói đến vấn đề thiên kiến về bảo hòa (satiation bias), thường khiến
ta nghĩ lầm rằng mức độ bảo hòa mà ta đang cảm nhận sẽ không thay đổi. Vì hiểu
rõ tâm lý này nên ngành tiếp thị kinh doanh đã khai thác khách hàng một cách có
hệ thống. Ví dụ như tại các trung tâm thể dục thường có các chiêu dụ vào dịp
Giáng Sinh hay Năm Mới với lệ phí hội viên hằng tháng thật thấp rất hấp dẫn.
Nhiều người ký hợp đồng dài hạn vì nghĩ mình được lợi và hăm hở tham gia. Đi tập
được một hoặc hai tháng thì sự hăng hái, chuyên cần giảm sút dần, cuối cùng chỉ
có trung tâm thể dục là được lợi vì hội viên vẫn phải tiếp tục đóng lệ phí dù
không còn đi tập thường xuyên nữa.
Trên
đây là phần tóm lược những nét chính trong công trình nghiên cứu của hai vị
Giáo sư Đại học mà người viết đã giới thiệu. Phần còn lại nói về cách ứng dụng
phương trình hạnh phúc cũng như 6 Quy luật hạnh phúc mà họ đã phân tích, để làm
sao thiết thực tạo được hạnh phúc tối đa trong cuộc sống. Đây là một cuốn sách
nặng tính hàn lâm nhưng đọc rất thích, vì hai tác giả đã khéo sử dụng rất nhiều
ví dụ cụ thể, lấy ra từ các bài giảng trong lớp, từ nhiều giai thoại lý thú
trong công trình nghiên cứu của các nhà chuyên môn khác, cùng những chuyện kể hấp
dẫn, những câu trích dẫn uyên thâm của các danh nhân về vấn đề hạnh phúc, hay
những huyền thoại đầy tính ẩn dụ sâu sắc từ kho tàng văn hoá thế giới.
Đề
cập đến hạnh phúc là một điều không dễ, vì khó có được sự đồng thuận do mỗi người
mỗi quan niệm khác nhau, nhưng nội dung cuốn sách phản ảnh một lối tiếp cận vấn
đề rất độc đáo và hiện đại. Hạnh phúc, như hai tác giả nhận định, là “một sự cố
gắng làm đầy ly từng chút một, chứ không phải có được do thừa hưởng một cái ly
đầy”. Và họ đã kết thúc như sau:
“Hạnh
phúc là một trạng thái tâm lý khởi sinh từ cảm nhận rằng mình không còn thèm
khát một nhu cầu nào chưa được thỏa mãn. Tuy nhiên chúng ta lại có khuynh hướng
tự tạo cho mình những nhu cầu mới dù mình có tích lũy đến bao nhiêu đi nữa. Bởi
vậy, muốn cho hạnh phúc ‘nở hoa’, chúng ta cần nhìn bầu trời và xem như đang có
một phần bị mây che phủ, nhìn cái ly trước mặt và xem như ly đang đầy một nửa,
nhìn cuộc đời chúng ta và xem như đang thập phần sung túc.”
Xin
trân trọng giới thiệu cùng quý thân hữu.
Nguyễn
Văn Sở.
No comments:
Post a Comment