Saturday, September 8, 2012

TS MAI THANH TRUYET * TRUNG QUỐC

Huyền Thoại về Phát Triển &ø Hiểm Họa Trung Quốc
The Myth of China’s Development & the Consequences of Application of its Model
TS MAI THANH TRUYET
Nền kinh tế quốc gia Trung Quốc (TQ) đã bắt đầu được vực dậy qua chương trình hiện đại hóa của Đặng Tiểu Bình từ một phần tư thế kỷ vừa qua. Và trong vòng 10 năm trở lại đây, mức phát triển của TQ vẫn ở mức 8 – 9% hàng năm. Điều nầy đã làm thế giới nhạc nhiên nhất là qua các cuộc khủng hoãng tiền tệ ảnh hưởng lên các nước trong vùng mà TQ vẫn tiếp tục phát triển chứ không bị suy thoái. Trong những tháng gần đây, báo chí trên hầu hết khắp nơi đều đặt vấn đề và xem đây là một hiện tượng “con rồng TQ” bắt đầu trở mình và một đất nước “Thiên Tử” đang hồi sinh.
Chỉ trong vòng 10 năm, TQ đã kéo 300 triệu người dân thoát khỏi cảnh nghèo đói theo định nghĩa của LHQ (lợi tức dưới 1 Mỹ kim/ngày). TQ cũng đã vô hình chung tiếp tay với thế giơí trong việc xóa đói giảm nghèo cho nhân loa.i. Sự phát triển của TQ đã là một hiện thực ngày nay và chắc chắn sẽ tiếp diễn trong những năm sắp đến.
Nhưng qua các thành tựu trên, chúng ta có thực sự thấy những gì đang diễn ra ở TQ qua các thành quả đã đạt được ngày hôm nay? Mô hình phát triển của TQ có phải là mẩu mực lý tưởng cho cho các quốc gia đang phát triển, nhất là Việt Nam, một nước “anh em” với TQ, rập khuôn theo đuổi hay không? Hay đây chỉ là một hiện tượng biểu kiến, lẫn khuất trong những “con số’ để tạo nên huyền thoại TQ?
Cũng có nhiều ý kiến cho rằng những chỉ số phát triển đã được công bố chỉ là những con số giả định, che đậy một tình trạng lạm phát nội tại và sự bùng nổ do quá nhiều căng thẳng sẽ xảy ra trong tương lai mà TQ sẽ phải đối mặt với một cơn khủng hoãng xã hội không xa?
Bài viết nầy có mục đích trình bày vài nét phát triển tiêu biểu của TQ và những hệ lụy trong phát triển, để rồi từ đó, mỗi người trong chúng ta sẽ chiêm nghiệm và nghĩ tìm câu trả lời cho huyền thoại của quốc gia nầy.
Đất Nước Trung Quốc
Căn cứ vào thông tin của cia.gov trên mạng lưới toàn cầu, các số liệu sau đây nói lên tình trạng phát triển chung của TQ:
Trung Quốc là một nước lớn chiếm diện tích 9.326.410 Km2, có dân số là 1.298.847.624 tính đến tháng 4/2004. Mức gia tăng dân số là 0,57% (2004). Số tuổi trung bình là 31,8 tuổi. Lực lượng lao động của TQ lớn nhất thế giới với 778 triệu (2003), trong đó tỷ lệ lao động được chia ra như sau: Lao động nông nghiệp, 50% (2001), lao động kỹ nghệ, 22% (2001) và lao động dịch vụ, 28%. Trung bình mức lạm phát vào khoảng 1 đến 2%. Lợi tức đầu người là 900 Mỹ kim (2004). Mãi lực tòan quốc (Purchasing power parity) năm 2003 là 6.449 tỷ Mỹ kim đưa đến mãi lực đầu người là 5.000 Mỹ kim (2003).
Cho đến nay, định mức sự phát triển của một quốc gia vẫn còn căn cứ vào thuyết “tam khu” của Colin Clarke, trong đó gồm khu nông nghiệp, khu công nghiệp, và khu dịch vụ. Từ đó qua sự phát triển, và qua từng giai đoạn, chỉ số phát triển của một quốc gia được tính toán qua tỷ lệ của từng khu vư.c.
Tiến trình phát triển quốc gia nói chung được ghi nhận vào các giai đoạn sau đây: 1- Trước hết, TQ chọn nông nghiệp làm chính cho giai đoạn ban đầu; 2- Khi mức sản xuất nông nghiệp đáp ứng được cán cân cung cầu trong nước, từ đấy sẽ đẩy mạnh công nghiệp sản xuất; 3- Và sau giai đoạn công nghiệp, dịch vụ sẽ là trọng tâm phát triển. Do đó, đối với một quốc gia một khi tỷ lệ dịch vụ và công nghiệp sản xuất càng cao, sự phát triển của quốc gia đó càng tăng thêm mức bền vững và giảm thiểu được nguy cơ khủng hoãng.
Như đã nói ở phần trên, TQ đã đi đôi hia “bảy dặm” bằng cách mở cửa giao tiếp với thế giới bên ngoài từ năm 1979 dưới thời Đặng Tiểu Bình với một phương châm bất hủ là:” Dù mèo trắng hay mèo đen cũng chẳng sao, chỉ cần biết bắt chuột là được”. Trong tinh thần thực dụng trên, TQ đã thành công và đưa đất nước ra khỏi tụt hậu chỉ trong một thời gian không dài.
Ngay cả trong khi mở cửa, TQ đã vận dụng được thị trường nội địa (1,3 tỷ) để đẩy mạnh kỹ nghệ sản xuất hàng tiêu dùng. Chính nhờ kỹ nghệ nầy, TQ đã chuyển dịch được một số lớn lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ từ 70% (1970) xuống còn 50% (2001). Cho đến hôm nay, mức đói nghèo của TQ đã giảm xuống còn 16%, và mức dự trữ ngoại tệ nặng của TQ trong năm 2004 là 414 tỷ Mỹ kim.
Một yếu tố quan trọng trong vấn đề phát triển của TQ cần phải nêu ra ở dây là lực lượng lao đô.ng. Với chính sách hạn chế sinh sản hiện tại, TQ trong tương lai sẽ đối mặt với cơn khủng hoảng lao động và lao động già nua. Có lẽ vì nhận thức được điều trên cho nên quốc hội TQ vào tháng 10/04 đã có đề nghị tái xét lại chính sách một con cho mỗi cặp vợ chồng ở TQ.
Nguyên do phát triển của TQ
Trong những năm trở lại đây, TQ đã phát triển vượt bực, cao hơn mức dự tính của thế giới. Vào năm 2004, Ngân hàng Phát triển Á châu đã dự tính TQ sẽ tăng 7,9%. Nhưng trên thực tế TQ đã gia tăng 9,3%. Có nhiều lý do đúc kết sự thành công vượt bực của TQ cho những năm gần đây là:
1 – Đất nước TQ không phải chịu những tai ương thiên nhiên ảnh hưởng đến phát triển như những quốc gia trong vùng. Cuộc khủng hoãng dầu hỏa gần đây đã được TQ kiểm soát và điều tiết chừng mực do đó không tạo ra khủng hoảng năng lượng như những năm 1979-1980.
2 – Phát triển kinh tế ở TQ hiện tại vẫn còn trong giai đoạn xử dụng ít năng lượng hơn so với các quốc gia kỹ nghệ tiên tiến;
3 – Qua vốn đầu tư ngoại quốc, TQ đã cân bằng được mức phát triển qua những dịch vụ thâm thủng trong cán cân thương mại xuất nhập nguyên liệu và thành phẩm. Thí dụ trong năm 2004, đối với thuốc nhuộm và sản phẩm màu, TQ nhập cảng 2.957 triệu Mỹ kim và xuất cảng 1.841 triệu Mỹ kim. Về phân bón, TQ nhập 2.239 triệu so với xuất là 1.075 triệu; về các hóa chất hữu cơ, TQ nhập 23.072 triệu, so với 6.713 triệu xuất cảng. Trong lúc đó, về hóa chất vô cơ, TQ nhập 1.870 triệu, và xuất 4.386 triệu; và về các sản phậm dược liệu, xuất cảng chiếm 3.133 trong đó nhập cảng chỉ là 1.829 triệu Mỹ kim mà thôi. Trong bảng xếp hạng 50 Đại công ty tòan cầu năm 2004, Cty China Petroleum & Chemical của TQ được xếp vàp hạng 9 với số thương vụ là 16,7 tỷ Mỹ kim, tăng 39% so với năm 2003, chỉ đứng sau các công ty Dow Chemical, BASF, Du Pont, Exxon, Total v.v...
4 – Phát triển TQ hiện nay đang dựa vào đầu tư ngoại quốc, do đó sự gia tăng giá dầu thô đã được mức ngoại tệ đầu tư trên bổ xung vào mức thiếu hu.t.
5 – Quan trọng hơn cả là 1,3 tỷ nhân khẩu nội đi.a. Hiện tại người dân TQ còn cần quá nhiều nhu cầu để phục vụ tối thiểu cho đời sống của người dân ở một quốc gia tân tiến, do đó kỹ nghệ TQ chỉ cần tập trung vào những mũi dùi phát triển là có thể làm cho kinh tế cất cánh mau. Những mũi dùi phát triển đó là những mặt hàng thông dụng như xe cộ, tủ lạnh, microwave, máy giặt, máy sấy, truyền thanh, truyền hình, xây dựng, và những mặt hàng gia dụng khác v.v...
Do đó, dù muốn dù không, sự phát triển kinh tế của TQ ngày hôm nay chỉ là một quá trình chuyển tiếp mục đích để phục vụ nhu cầu cần thiết cho người dân của nước nầy, hầu có được một đời sống vật chất “tử tế”. Một khi mức sống tối thiểu của người dân đã được bảo hòa, vấn đề phát triển kinh tế của TQ sẽ chuyển qua một tiến trình khó khăn hơn nữa mà lãnh đạo TQ cần phải tiên liệu cho tương lai, nếu muốn ngăn chặn những cơn khủng hoãng xã hội có thể xảy ra sau đó. Đó là việc chuyển lực lượng lao động qua công nghiệp và dịch vụ. Ở các quốc gia đã phát triển như Tây Âu và Bắc Mỹ, lực lượng lao động nông nghiệp không quá 15%. Riêng tại Hoa kỳ, lực lượng nầy chỉ còn dưới 2 triệu, so với gần 300 triệu dân mà vẫn có đầy đủ lương thực cho nước Mỹ cũng như viện trợ cho hầu hết các nước nghèo trên thế giới.
Nhìn chung, TQ đã biết tận dụng lực lượng tiêu dùng qua thị trường nội địa để từ đó đẩy mạnh công nghệ sản xuất song hành cùng với dịch vụ. Từ sự chuyển dịch lao động nầy, TQ đã giảm dần tỷ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp; đề rồi tăng trưởng kinh tế đã thể hiện những bước nhảy vọt, và dĩ nhiên, phúc lợi cũng như lợi tức của ngưới dân được cải thiện đồng biến với sự tăng trưởng kinh tế.
Đâu là sự thật?
Qua những nhận xét và phân tích ở phần trên, chúng ta thấy TQ đang có những bước phát triển “nhanh” trong tiến trình hiện đại hóa quốc gia. Nhưng những bước phát triển nhanh đó có thực sự là một thực tế hay không? Hay đó chỉ là những chỉ số biểu kiến và tương đối so với tình trạng kinh tế và xã hội của TQ hiện ta.i.
Gọi là biểu kiến vì trong quá trình phát triển quốc gia, TQ đã để lại biết bao vấn nạn môi trường với ảnh hưởng và hậu quả nghiêm trọng chắc chắn sẽ xảy ra trong một vài thập niên tới. TQ không có chính sách cân bằng phát triển và quản lý môi trường. Do đó, tình trạng môi trường ngày càng xuống cấp: không khí đầy bụi bậm chưá các kim loại độc hại như chì (lead) và thủy ngân (mercury) cùng nhiều hợp chất hữu cơ nhẹ, nguồn nước ở nhiều nơi không còn sự hiện diện của tôm cá và đã là những “dòng sông đen”, đặc biệt là trong các phụ lưu của sông Hoàng Hà và Dương Tử. Ngay cả dòng chảy của sông Hoàng Hà đã chậm dần so với trước kia, và không còn chảy ra biển nữa. Thành phố Vân Nam đã biến thành khu đại kỹ nghệ hóa chất và khi gió đổi chiều, khói và bụi thành phố đã di chuyển đến tận...Hoa Kỳ. Thành phố Thượng Hải và thềm lục địa chung quanh đang bị báo động về ô nhiễm.
Nóí chung, tình trạng môi trường ngày càng tệ hại và người dân đã bắt đầu phản kháng, nói lên tiếng nói chống đối chính quyền về tệ trạng nầy. Như gần đây nhất, hàng ngàn dân làng ở Zhejiang, phía Nam Thượng Hải (Shanghai) đã phản đối việc xây hàng loạt 13 nhà máy hoá chất từ năm 2001 ở Huaxi. Cuộc phản kháng đã bắt đầu từ ngày 24/3/2005, do dân làng đứng ra ngăn chận tất cả giao lộï tiến về làng nầy. Đến ngày 10/4, cuộc phản kháng trở thành bạo động và đã có người chết và hàng trăm cảnh sát bị thương. Đây là chỉ dấu đầu tiên sự phản kháng của người dân mà chính quyền phải chịu trách nhiệm trong việc giải quyết vấn nạn ô nhiễm nguồn nước mặt tạo nên tình trạng xáo trộn đời sống dân chúng vì thiếu nước sa.ch.
Thêm nữa, hàng năm Tổ chức Tư vấn về Rủi ro Chính trị và Kinh tế (PERC) đều làm bảng thống kê và tính tóan về chỉ số trên. Năm 2004, TQ, Việt Nam, và Indonesia đều có chỉ số trên 8 trên định mức từ 1 đến 10, đứng gần cuối bảng của các quốc gia Á châu trong lãnh vực pháp luâ.t. Điều nầy chứng tỏ rằng tình trạng kinh tế-chính tri.-phát triển ở các quốc gia nầy rất bất ổn, không thuận lợi cho một sự phát triển bền vững.
Gần đây nhất, vào ngày 19/6/2005, Ông Pan Yue, Phó Giám đốc Cơ quan Bảo vệ Môi trường Quốc gia TQ đã đặt câu hỏi như sau:” Liệu Trung Quốc có nên vui mừng mang danh “công xưởng của thế giới” hay không? Và ông cũng cảnh báo nghiêm khắc rằng:” TQ sẽ trả giá đắt về môi trường trong 20 năm tới cho việc phát triển kinh tế quá nhanh, và cuộc xáo trộn xã hội sẽ đi kèm tiếp theo sau cuộc khủng hoảng môi trường nầy”. Cũng cần nên biết thêm, hiện tại TQ ä đang đứng đầu thế giới về mức tiêu thụ nước và phóng thích nước thải, đứng thứ hai về mức tiêu dùng năng lương, và thải hồi khí carbonic vào khí quyển (17,3% , sau Hoa Kỳ với 31% theo nghiên cứu mới nhất của Cơ quan Thông tin Năng lượng HK năm 2004), tác nhân chính của sự hâm nóng tòan cầu.
Gọi là tương đối, vì sự phát triển của TQ chỉ tương đối so với nhu cầu của 1,3 tỷ dân chúng và thị trường nhân công rẻ ma.t. Các chương trình hiện đại hóa điển hình của TQ sau đây thể hiện rõ nét của tính tương đối trong phát triển của TQ. Theo một báo cáo của Hàn Lâm Viện TQ (Chinese Academy of Sciences, 2004) thì TQ đã phát triển chậm hơn so với Hoa Kỳ 100 năm, với Đức Quốc 70 năm, và 60 năm so với Nhật Bản.
Vào năm 2001, mãi lực tính theo đầu người của một người TQ là 3.583 Mỹ kim (năm 2004 lên đến $5.000), trong lúc đó thời điểm một người Hoa Kỳ có mãi lực trên là vào năm 1892 , tức 109 năm trước đó. Vào năm 2002, lợi tức người dân HK là 35.400 Mỹ kim, tăng 4% so với năm trước đó, tức tăng 1.416 Mỹ kim. Trong lúc đó, lợi tức của một người TQ ở thời điểm trên là 900 Mỹ kim, tăng 8% so với năm trước, tức 72 Mỹ kim. Qua các số liệu trên, chứng tỏ rằng dù mức tăng trường hàng năm của TQ có là 15%, thì khoảng cách lợi tức so với HK cũng ngày càng cách xa dùHK chỉ tăng trưởng 3-4% mỗi năm.
Thêm nữa, theo một báo cáo của Chương trình Môi trường LHQ vào năm 2002, hậu quả của việc phát triển ồ ạt ở TQ và lơ là trong việc bảo vệ môi trường làm cho chi phí ước tính cho việc giải quyết vấn nạn ô nhiễm môi trường có thể lên đến 7% tổng sản lượng quốc gia. Nói như thế, có nghĩa là với mức tăng trưởng trung bình hàng năm là 8 – 9%, nhưng trên thực tế, mức tăng trưởng thực sự chỉ vào khoảng 2% mà thôi, cộng thêm sự di hại môi trường ảnh hưởng đến các thế hệ về sau nữa.
Do đó, TQ vẫn còn là một quốc gia đang phát triển dù hiện đang thúc đẩy rất mạnh tiến trình hiện đại hóa và khó có thể hình dung được một hình ảnh TQ vượt trội lên hàng quốc gia phát triển trong vòng 30 – 40 năm tới.
Cũng theo tài liệu của Hàn Lâm Viện Khoa học TQ, TQ sẽ vươn lên thứ hạng 39 về kinh tế so với các quốc gia trên thế giới vào năm 2080, và hiện nay (2005), TQ đang được xếp vào hạng 69.
Ngay tại Hội thảo “Tổng kết 20 năm đổi mới” ở Hà Nội ngày 1/7/2005, TS Carlyle Thayer (Úc) nhấn mạnh rằng:” Sau một phần tư thế kỷ cải cách, mô hình TQ không thể giải quyết được những vấn đề cấp bách như cấu trúc ngân hàng và tài chánh yếu kém, quốc doanh bị nợ nặng nề, tham nhũng tràn lan. Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều vần đề tương tự, và việc học tập mô hình TQ không thể giúp Việt Nam giải quyết được”.
Để kết luận cho trường hợp TQ là quốc gia nầy sẽ không bao giời trở thành một huyền thoại trong tiến trình hiện đại hóa theo chiều hướng hiện tại, trừ phi có một sự thay đổi não trạng và quan điểm đúng đắn về việc bảo vệ môi trường, vấn đề cần phải được đặt ưu tiên hàng đầu trong phát triển quốc gia.
Và cho trường hợp Việt Nam là, mô hình hiện đại hóa của TQ sau ¼ thế kỷ đã mang lại cho Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm về các mâu thuẫn trong phát triển hơn là một khuôn mẩu để phát triển. Nhưng tiếc thay, cho đến hôm nay, Việt Nam vẫn còn rập khuôn theo tiến trình trên, một tiến trình chắc chắn sẽ đưa đất nước vào ngõ cu.t.
Mai Thanh Truyết
Hội KH&KT Việt Nam (VAST)


/2005

No comments: