Sunday, September 9, 2012

GS.TẠ VĂN TÀI *" KHI ĐỒNG MINH THÁO CHẠY CỦA G.S. NGUYỄN TIẾN HƯNG

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM " KHI ĐỒNG MINH THÁO CHẠY" CỦA G.S. NGUYỄN TIẾN HƯNG VÀ BÀN THÊM VỀ CUỘC CHIẾN TRANH VN

TẠ VĂN TÀI Harward Law School



II . Bàn thêm về chiến tranh Việt Nam.
Ôn lại những biến cố nói đến trong cuốn sách KĐMTC và cả cuốn HSMDĐL của Giáo sư Hưng, chúng ta rút được các nhận định sau về những năm sau cùng của cuộc Chiến Tranh Việt Nam và hậu quả của nó . Nếu độc gỉa cho rằng rút bài học sau khi việc sảy ra rồi (hindsights) thì "dễ qúa mà", thì chúng tôi cũng đồng ý trong sự khiêm tốn của một người nghiên cứu. Nhưng điều chúng tôi muốn nói là, nếu những nhà làm chinh sách, ngay trong khi biến cố đang sảy ra, chịu khó tham khảo những học gỉa hay cố vấn đã dâỳ công nghiên cứu bài học tiền nhân để lại trong chiều dài của lịch sử, thì cũng có thể thấy ngay những điều nên làm, vào lúc đang phải gỉai quyết vấn đề, và bớt được nhiều sai lầm. Chẳng khác gì các vị anh quân ngày xưa nghe theo những lời bàn của các vị thâm nho hay các quan ngự sử, chiếu các nguyên tắc trị nước khôn ngoan truyền lại từ các tiền nhân (Khổng Tử, Tôn Tử, Aristotle v.v.) hay từ các triều đại cực thịnh hay cực rối ren tại Á Châu (chẳng hạn các thế liên minh thay đổi của thời Đông Chu Liệt Quốc). Cũng chẳng khác gì các chính phủ Âu Mỹ trong thời hiện đại dùng đến các kinh nghiệm và ký ức lịch sử chứa trong các định chế (institutional memory) như các đại học hay các cơ quan tư duy cố vấn (think tank). Ông N.V. Thiệu là một quân nhân làm chính trị, nhưng chưa đủ tầm vóc một statesman (chính khách), vì tính đa nghi , hẹp hòi, sợ ngừơi dưới quyền vượt mình và có thể hại mình (như trong cách xử tệ với Phụ Tá Nguyễn Văn Ngân, người đã có công xây dựng Đảng Dân Chủ và tổ chức bầu cử Tổng Thống "chắc ăn" năm 1971 cho ông ,không cho Ông Nguyễn Cao Kỳ ra chia phiếu của ông khi đối đầu với Đại tướng Dương Văn Minh) (Gíao sư Nguyễn Ngọc Huy riễu cợt với tôi khi tả tính đa nghi của Ông Thiệu: "Ông ấy bắt tay người ta rồi về nhà ngó bàn tay mình xem còn đủ năm ngón không") . Ông Thiệu theo lối phân công từng mảng việc cho từng người , không cho người này biết việc của người kia, theo lối "phân gian", nghĩ rằng như vậy dễ kiềm chế từng người, do đó không tụ hội trong một hội đồng tham mưu gồm nhiều bộ óc cố vấn giỏi cùng bàn chung việc nước (brain trust), và không đi dến viễn kiến xa rộng và khôn ngoan được. Việc hòa đàm Paris, mà các vấn đề ngọai giao, quân sự, kinh tế, tình hình chinh trị ở Mỹ, tình hình và chính sách Đảng Cộâng Sản ở Miền Bắc, liên hệ chằng chịt và ảnh hưởng đến diễn tiến thương nghị và nội dung hòa đàm, thì ông Thiệu giao cho nhữõng ngươì sau đây, mỗi người một mẩu vấn đề: Gíao sư N.T.Hưng, Đại sứ Phạm Đăng Lâm, các ông Nguyễn Xuân Phong, Nguyễn Phú Đức, Nguyễn Ngọc Huy, Nguyễn Cao Kỳ. Gíáo sư Hưng nói trong sách là ông chỉ được giao việc về chuyện liên lạc với Mỹ, còn ông không được cho biết về tình hình quân sự cho dến phút chót và ngay cả gần 30 mật thư của hai Tổng Thống Hoa Kỳ mà cuối cùng Ông Thiệu giao cho Gíáo sư Hưng đi cầu viện thì cũng đưa cho xem vài lá thư vào lúc bắt đầu nguy kịch mà thôi.
Khi bàn trên đây về cá tính của ông Thiệu và sau đây về Chiến Tranh Việt Nam, chúng tôi đều có tài liệu và nhân chứng còn sống và có thể cung cấp chi tiết và điện thoại cho độc gỉa nào muốn phối kiểm lại . Nhưng chúng tôi không ghi ra trong bài tham luận này để đỡ làm mệt độc giả .
1. Như một chính khách Anh đã nói về chính trị, "không có bạn trừơng cửu, mà chỉ có quyền lợi trừơng cửu thôi" (no permanent friends, only permanent interests). Trong cuộc nội chiến Quốc Cộng tương tàn giữa hai Miền Nam Bắc Việt Nam, cũng là chiến tranh quốc tế do hai khối cường quốc uỷ nhiệm ,trong đó cả hai Miền của tiểu quốc Việt Nam được phong là tiền đồn của Xã Hội Chủ Nghĩa và của Thế Giới Tự Do, cả hai Miền đều lệ thuộc hoàn toàn vào cường quốc bảo trợ, cho nên một khi mà cường quốc Mỹ đã bắt tay được với cừơng quốc đối phương là Trung Quốc sau khi Kissinger và Nixon đi Tàu, và không còn quyền lợi là phải lo ngăn chặn bành trướng của khối Cộng Sản xuống Đông Nam Á bằng cách yểm trợ Nam Việt Nam nữa, thì Mỹ bỏ rơi Miền Nam, nhượng bộ tối đa trong Hiệp Định Đình Chiến, đồng y' cho Bắc Việt để lại quân đội tại Miền Nam, chỉ cốt đem được tù binh Mỹ về,không còn yểm trợ võ khí theo nguyên tắc "mất một thì đổi một" đã cam kết, bác cả việc Miền Nam dùng Quỹ Đối Gía (Viện trợ) để trả lương quân đội và cảnh sát, dù đóan trứơc là Miền Nam chỉ sống sót được chừng một năm rưỡi sau Hiệp Định Paris tháng 1/1973 (lời Kissinger) . Đến khi tình hình tại Nam Việt Nam suy sụp trước sự tiến công của quân đội Miền Bắc vào năm 1975, thì Ngoại trưởng Kissinger cố y' dấu Quốc Hội Mỹ lời cam kết của Tổng Thống Nixon yểm trợ bằng không lực và giúp võ khí, và cả Quốc Hội lẫn Hành Pháp Mỹ chỉ bàn chuyện di tản khỏi Việt Nam.
Đáng lẽ ra, các ngừơi lãnh đạo Miền Nam Việt Nam phải nhận ra khuynh hướng giải kết của Mỹ từ lâu rồi chứ! Khi thấy dân chúng Mỹ bắt đầu mệt mỏi vì chiến tranh và phong trào phản chiến ngày càng mạnh từ năm 1968, và ngay chính Tổng Thống Johnson cũng nản chí không ra tranh cử năm 1968 mà dành tòan thời gian vào việc giải quyết chiến tranh Việt Nam, thì phải tiên liệu là Mỹ sẽ tìm cách tháo gỡ. Dù không hề làm việc gì trong chính quyền Miền Nam Việt Nam và chỉ đóng vai giáo sư/nghiên cứu gia, chúng tôi đã viết, vào năm 1970,bài"Tiền Mỹ, Máu Việt" trong Tập San Quốc Phòng của Trường Cao Đẳng Quốc Phòng, Saigon, về chương trình Việt Nam hóa chiến tranh của Tổng Thống Nixon và trong khi thuyết trình tại Trường, có tiên liệu là khi người Mỹ không còn con cái của họ thương vong ở Việt Nam, họ sẽ kém rộng lượng về viện trợ. Và nếu không có "xương sống" Mỹ, thì tổ chức chống cộng Liên Phòng Đông Nam Á (Southeast Asia Treaty Organization) cũng chỉ là "con hổ giấy", và máu Việt có đổ ra thì chưa chắc tiền Mỹ sẽ có để có đủ quân trang quân dụng. Có lẽ các vị tướng tá trong Trường, là nhũng quân nhân cao cấp nhiều hiểu biết, cũng đồng ý với chúng tôi như vậy, mặc dù họ và chúng tôi đã có dịp đi thăm hàng không mẫu hạm trong lực lượng hùng hậu của Hạm Đội 7 của Mỹ và nghe Trung Tướng Ngô Quang Trưởng thuyết trình về vị thế Quân Đòan I chặn ngang đường tiến quân có thể có của quân đội Miền Bắc.
Việc thay đổi các thế liên minh tại các quốc gia Âu Mỹ trong hai thế kỷ vừa qua cũng cho thấy chẳng có gì trường tồn, hay chắc chắn trong bang giao quốc . Quyền lợi của mỗi quốc gia, ngay cả cường quốc, thay đổi theo mỗi giai đọan.
Về vấn đề cuộc chiến Việt Nam là nội chiến hay chiến tranh do các phe quốc tế ủy nhiệm, thì có thể nói lúc Pháp trở lại Việt Nam, và Hồ Chí Minh ôm lấy cụ Nguyễn Hải Thần yêu cầu các đảng quốc gia cùng gánh vác trách nhiệm chung và sau đó lập Chính phủ Liên Hiệp với các đại diện các đảng quốc gia như Vũ Hồng Khanh (Việt Nam Quốc Dân Đảng, VNQĐĐ), Nguyễn Tường Tam (Đại Việt, ĐV), Nguyễn Hải Thần (Việt nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, VNCMĐMH), thì lẽ ra đã không có cuc nội chiến. Sở dĩ có thể tin như vậy là vì Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh đã có công cứu mạng Hồ Chí Minh ở bên Liễu Châu, Trung Quốc . Theo lời Ông Vũ Hồng Khanh kể lại trong trại học tập sau 1975 cho người cùng phòng giam trong trại học tập là Đại Tá Buì Thế Dung (hiện ở Massachusetts), thứ trrưởng quốc phòng trong chính phủ Dương Văn Minh, mà Ông Khanh đối xử như hàng con cháu, thì ông Khanh cho biết rằng vào đầu thập kỷ 1940, Hồ Chí Minh, lúc đó lấy tên là Lý Thụy, gỉa đò như một cụ gìa mù, đi với hai người trẻ tuổi từ Pac Pó qua Liễu Châu, thì bị quân đội Quốc Dân Đảng Tàu bắt, hai người trẻ tuổi chạy mau nên thóat (ông Khanh sau này đóan đó là Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp). Có người Việt Nam tên là Lý Sanh đến nhờ hai Ông Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần trong Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (VNCMĐMH) can thiệp với tỉnh trưởng Tàu là tướng Trương Phát Khuê. Tuy tướng Khuê nói : "Anh này là Cộng Sản, sẽ chặt làm đôi.", nhưng rồi cũng thả Lý Thụy ra và cho về ở với các ông Khanh, Hải Thần và Lý Sanh. Ông Khanh cho biết ông Hải Thần mê ông cụ gìa Việt nam họat bát đó và ông cụ này cũng được Tướng Khuê tin, giao công việc này nọ . Năm 1943, trong buổi họp VNCMĐMH đưa vấn đề cử người về nước đặt cơ sở cho Cách Mạng thì ông Lý Thụy xung phong. Sau này, khi Việt Minh cướp chính quyền vào năm 1945 và Chủ Tịch Hồ Chí Minh mời ông Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải thần vô Chính phủ Liên Hiệp, ngồi ăn cơm với nhau trên chiếu trong Phủ Chủ Tịch ở Hà Nội, thì các ông mới nhìn ra Hồ Chí Minh chính là ông gìa Lý Thuỵ và ông Hoàng Văn Hoan chính là Lý Sanh vào năm 1943. Sau 1975 , khi ông Vũ Hồng Khanh bị bắt và đưa ra ở trong trại học tập ở Miền Bắc, thì Bộ Trưởng Công An Trần Quốc Hoàn vào thăm và cho ra trại sớm vào năm 1977, để về ở với người con gái lớn 53 tuổi ở lại Miền Bắc sau 1954, tại quê cũ ở Vĩnh Phúc Yên. Nếu Đảng Cộng Sản , vào thời điểm 1945-46, tiếp tục đối xử tương kính đối với các lãnh tụ phe quốc gia như tả trên, mà không ám sát hàng lọat những người quốc gia như nói sau đây, thì chưa chắc đã có cuộc nội chiến.
Và lẽ ra không có cuộc nội chiến và Chính Phủ Liên Hiệp mà Hồ Chí Minh lập ngày 2/3/1946 đã có thể tiếp tục với sự chia xẻ quyền lực quốc-cộng , nếu cường quốc Hoa Kỳ đã không bỏ mặc Viêt Nam cho Pháp và đã can thiệp sớm hơn và can thiệp đúng hơn theo chính sách của Tổng Thống Roosevelt là không cho thực dân Pháp trở lại Việt Nam. Sau khi Roosevelt qua đời, và Truman lên thay, Mỹ đã lờ đi không trả lời tám bức thư Hồ Chí Minh liên tiếp gủi cho Tổng Thống và Bộ Trưởng Ngọai Giao Mỹ để xin ủng hộ nền độc lập Việt nam trước việc Pháp đem quân trở lại Việt nam, vì cho rằng Mỹ cần Pháp như đồng minh trong cuộc Chiến Tranh Lạnh với Liên Sô đã bắt đầu. Pháp đã được quân đội Anh ở trong Nam (tước khí giới quân đội Nhật đầu hàng) cho đổ bộ tái chiếm thuộc điạ. Theo Thỏa Ước Trùng Khánh Pháp ký ngày 28/2/1946 với Trung Hoa Dân Quốc (mà quân đội do Lư Hán và Tiêu Văn chỉ huy, sang Miền Bắc Việt nam tước khí giới quân đội Nhật đầu hàng) , Pháp đem quân trở lại Miền Bắc. Tại cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam, tàu chiến Mỹ chở quân đội Pháp vào Sàigon và Hải Phòng.
Và Pháp đã tiếp tay cho Việt Minh trong việc tiêu diệt các thành phần quốc gia (nói sau đây) vì cho là họ có lâp trường cực đoan, phản đối kịch liệt Hiệp Định Sơ Bộ ký ngày 6/3/1946 (Bộ Trưởng Ngọai Giao Nguyễn tường Tam không tham dự), và chỉ trích Hồ Chí Minh rất nặng là "bán nước cho Pháp” . (Sainteny và Leon Pignon gặp Nguyễn Tường Tam và Nguyễn Hải Thần, nhưng không đạt được thỏa hiệp). Hiệp Định Sơ Bộ này nhìn nhận Việt nam là một nước "tự do" trong Liên Hiệp Pháp và chỉ có một phần quyền cai trị. Hồ Chí Minh phải gỉai thích tại Nhà Hát Lớn Hà Nội và thề : "Tôi thà chết chứ không bao giờ bán nước".
Ngay từ tháng 9/1945, đã có sự nghi kỵ, kèn cựa giữa các đảng quốc gia và Việt Minh: quốc gia tố cáo Việt Minh là cộng sản; Việt Minh tố cáo Việt Cách (VNCMĐMH) và Việt Quốc (VNQĐD) là phản động. Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, các đảng quốc gia dự tính dựa vào sự ủng hộ vẫn có của Quốc Dân Đảng Trung Hoa từ khi họ lưu vong ở bên Tàu (sau biến cố Khởi nghĩa Yen Bái của Nguyễn Thái Học 1930), đểû lật đổ chính phủ lâm thời đầu tiên do Hồ Chí Minh lập, tuy đã có vài đại diện của họ. Nhưng các đảng quốc gia không đoàn kết, thiếu cơ sở quần chúng trong nước vì lưu vong lâu, tính dựa vào mấy tướng Tàu tham nhũng, cho nên khi họ tổ chức biểu tình, và chỉ trích Việt Minh, họ thua Việt Minh đã tổ chức quần chúng trong nước từ khi Tướng Tàu Trương Phát Khuê cho Hồ Chí Minh về nước năm 1941 trong tư cách VNCMĐMH mà Việt Minh là một thành viên, mà lại có sự ủng hộ của Đệ Tam Quốc Tế, Quốc Dân Đảng Trung Hoa (sau khi Việt Minh đút lót cho Lư Hán vă Tiêu Văn vàng--do tuần lễ vàng quyên trong đồng bào-- và thuốc phiện, Trung Hoa bắt các đảng quốc gia theo giải pháp liên hiệp, dù miễn cưỡng ) và của Cơ Quan Tình Báo Office of Strategic Services OSS cuả Mỹ. Việt Minh cũng tổ chức biểu tình, và trưng hình cán bộ bị phe quốc gia giết.
Khi một đảng viên cộng sản hỏi Hồ Chí Minh : "Thưa Bác, tại sao phải để cho bọn phản quốc giết người ấy sống làm gì ? Chỉ cần Bác ra lệnh là tuị cháu sẽ tiêu diệt hết chúng nó nội trong một đêm", thì Hồ Chí Minh mỉm cười: " Có con chuột chạy vào phòng này thì chú lấy đá ném nó hay tìm cách bắt nó ? Ném đá thì vỡ đồ quý trong phòng. Muốn làm chuyện lớn thì phải biết tiên liệu ."
Nhưng khi Hồ Chí Minh đi dự Hội Nghị Fontaineblau tại Pháp, và cố gắng thuyết phục các trí thức quốc gia ở Pháp về nước cộng tác thì ở trong nứơc, các người lãnh đạo Đảng Cộng Sản có mặt trong nước đã ra lệnh các trưởng ban ám sát triệt hạ trụ sở, chiến khu và giết hại các đảng viên các đảng quốc gia nội trong vòng vài tháng, lúc đó không còn được các tướng Tàu ủng hộ nữa: ở ngoài Bắc , bị giết hay mất tich là các nhà ái quốc Trương Tử Anh (một lãnh tụ nêu gương sống đạm bạc, nằm ngủ trên chiếc giường vốn là một tấm cửa sổ, theo lời Gíáo Sư Bùi Tường Huân) , Lý Đông A, Khái Hưng, còn Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh phải trốn sang Tàu; ở trong Nam, ngoài các lãnh tụ Đệ Tứ Quốc Tế bị giết hay mất tích như Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Lương Đức Thiệp, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch, thì các lãnh tụ không cộng sản cũng bị thủ tiêu, như Hồ Văn Ngà, Huỳnh Văn Phương, Dương Văn Giáo, Hồ Vĩnh Ký, Bùi Quang Chiêu, Huỳnh Phú Sổ và các chức sắc Cao Đài và Hòa Hảo. Quốc Hội Lập Hiến họp ngày 28/10/1946 thì chỉ có 291 người có mặt trong số 444 đại biểu ; 70 ghế đại biểu dành cho VNQĐD và VNCMĐMH thì chỉ có 37 người có mặt, còn những người kia bị bắt trước rồi, rồi sau đó 34 người còn lại cũng biến mất. .Do đó các đảng quốc gia phải theo con đường chống cộng ; một số theo con đường "chùm chăn", tức lủi tránh không hoạt động nưã; và sau này, họ theo gỉai pháp Bảo Đại .
Khía cạnh nội chiến, người Việt giết hại người Việt, cũng rõ rệt trong cuộc cải cách ruộng đất tàn ác 1953-54 ở Miền Bắc, khiến một triệu đồng bào Việt Nam bỏ chạy Miền Bắc di cư vô Miền Nam, và cũng rõ sau này trong việc sát hại oan uổng những người dân ở Huế trong Tết Mậu Thân 1968 (xin xem cuốn " Giải Khăn Sô cho Huế" của Nhã Ca).
Hồi đầu cuộc chiến tranh Việt Pháp không phải là cuộc chiến tranh ủy nbiệm, vì khi Việt Minh chống cự lại Pháp tái chiếm đất nước, để gìanh độc lập, thì đó là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mà tất cả những người Việt Nam yêu nước đều ủng hộ, không có Liên Sô hay Trung Cộng ủy nhiệm người Việt đánh Ph'ap vào lúc đầu (Stalin còn xử tệ với Hồ Chi Minh--như Kruschev viết hồi ký sau này cho biết--và Mao Trạch Đông còn đang chiến đấu với Quốc Dân Đảng Trung Hoa, chưa đi tới biên giới Việt Nam) . Tổng Thống Mitterand sau này sang thăm Việt Nam thống nhất , đứng trước Điện Biên Phủ, cũng tỏ ý hối tiếc là Pháp đãlầm lẫn trở lại định tái chiếm thuộc địaViệt Nam trong cuộc chiến cho độc lâp của người Việt . Bên phe quốc gia trong Giải Pháp Bảo Đại cũng chỉ được uỷ nhiệm một phần nhỏ, và chỉ ở giai đọan sau của cuộc chiến, khi Tướng De Lattre thấy rằng 280,000 quân đi viễn chinh Pháp đánh nhau lấy không xong, phải uỷ nhiệm một phần nhỏ cho người Việt Nam với 70,000 quân đôi người Việt do Pháp lập ra với chế độ đông viên. Còn trước đó, thực dân Pháp muốn đánh lấy một mình; năm 1946 đưa Vua Duy Tân đang đi đầy về Paris nhưng nửa đường đến Algeria thì máy bay trục trặc rớt, rất đáng ngờ vực, sau đó Pháp bàn là không nên dùng Bảo Đại mà đưa Nam Phương Hoàng Hậu làm phụ chính (Regent), cuối cùng mới đi đến chỗ dùng Bảo Đạị.
Sau naỳ khi Mỹ thay thế Pháp ở Miền Nam Việt Nam để yểm trợ cho Ngô Đình Diệm, thì cuộc chiến tranh Việt Nam mang nhiều tính chất nội chiến hơn, vì mỗi miền đã có phần lãnh thổ và chính phủ riêng biệt. Nhưng tính chất uỷ nhiệm quốc tế cũng rõ hơn. Miền Bắc lãnh nhiệm vụ quốc tế bành trướng chủ nghĩa cộng sản với sự trợ giúp mạnh mẽ của Liên Sô và Trung Quốc trong việc đồng thời đấu tranh thống nhất đất nước cho dân tộc. Miền Nam được Mỹ mênh danh là tiền đồn của Thế Giới Tự Do, được Mỹ uỷ nhiệm một phần thứ yếu trong cuộc chiến trong giai đọan sôi nổi nhất, người Việt chỉ phòng vệ diện địa. Còn phiá Mỹ thì leo thang tham chiến ngày càng nhiều: chính phủ Mỹ lúc đầu được báo chí và công luận ủng hộ mạnh việc tham chiến , người Mỹ khởi sự với vai trò cố vấn, rồi đem vào lực lượng đặc biệt , sau cùng đem đại quân tác chiến (combat troops) để thi hành phương pháp hành quân "tìm diệt địch" (search and destroy); ở thời cao điểm, Mỹ tung nửa triệu quân vào chiến trường (nếu kể số binh sĩ Mỹ luân lưu tham gia chiến trường Việt Nam, thì số người Mỹ tham chiến ở Việt Nam là 3 triệu người), chưa kể không quân , hải quân yểm trợ từ Hạm Đội 7 và từ Thái Lan.. Ông Bùi Diễm, cựu Đại Sứ Miền Nam Việt Nam tại Mỹ, đã tả trong hồi ký của ông cách thức người Mỹ tự mời họ tham chiến với đại quân vào năm 1965 : Sau khi Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara và Chủ tịch Uỷ Ban Tham Mưu Liên Quân thám sát chiến trường, họ yêu cầu ông Bùi Diễm sọan văn bản "mời" Mỹ đem đại quân qua Việt Nam (tức là Mỹ hóa --Americanization--chiến tranh), mà không có sự thảo luận trong quốc hội và nhân dân Mỹ. Mỹ tự mời Mỹ qua, nhưng để cho ông Buì Diễm, lúc đó là Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hoà, sọan thảo thông cáo chung để cứu thể diện Nam Việt Nam. Chính Đại sứ Mỹ ở Việt Nam là Tướng Taylor cũng ngạc nhiên . Hầu như tất cả các lãnh đạo dân, quân sự Miền Nam Việt nam hồi đó đều chống dối việc Mỹ hóa chiến tranh (Xin ghi là ông Ngô Đình Diệm cũng dã chống việc đem quân tác chiến Mỹ qua Việt Nam).
Sau khi số thương vong Mỹ lên cao, cảnh chết chóc đẫm máu trên màn truyền hình màu ở Mỹ đem chiến tranh đến tận từng nhà người Mỹ mỗi bữa cơm chiều, và phong trào phản chiến bắt đầu trong giới trẻ rồi lan sang các giới quần chúng khác, đưa ra ý muốn rút khỏi chiến tranh Việt Nam và tìm cách đem tù binh Mỹ về, thì T.T. Nixon Việt nam hóa chiến tranh. Vai trò quân đội người Việt ở Miền Nam lúc đó mới tăng cường nhiệm vụ chiến đấu nhiều hơn. Nhưng rồi sau đó, vì phong trào phản chiến đã xẹp xuống do việc bỏ chế độ động viên và việc thanh niên Mỹ không sợ chết tại Việt nam nưã, thì vấn đề Nam Việt Nam sống còn hay không, không còn là mối lo cho của Mỹ nữa, và ngay cả việc uỷ nhiệm cho Miền Nam Việt Nam dùng khí giới Mỹ giữ "tiền đồn thế giới tự do" cũng bị Mỹ từ bỏ luôn sau khi ký Hiệp Định Paris và rút đuợc tù binh và quân đội Mỹ về nước, và đã giao hảo tốt đẹp được với đại cường Trung Quốc và giảm căng thẳng với địch thủ chính là Liên Sô . Ngược lại, lãnh đạo Miền Bắc Việt Nam vẫn tự cho là tiền đồn của cuộc cách mạng cộng sản ở Đông Nam Á, và có ý định không những thống nhất Việt Nam mà còn giúp các đảng cộng sản Cam Bốt, Lào, Thái Lan và các nơi khác nữa (theo taì liệu văn khố Sô Viết, giải mật sau khi Liên Sô sụp đổ).
Xét theo quan diểm quyền lợi của Mỹ, thì việc Mỹ đã mắc lỗi lầm chiến lược là tự đem đại quân tác chiến vào Việt Nam rồi sau đó lại bất trung, bỏ cuộc tại Việt Nam nhữõng năm sau cùng cuả cuộc chiến , dẫn đến sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam, cũng có hại cho chính nứơc Mỹ. Tuy sau các nước Đông Dương, không có nước khác tại Đông Nam Á rơi vào khối Cộng sản, theo ly' thuyết domino (tức là không có geographical domino,giây chuyền điạ dư) nhưng đã có các cuộc tấn công có vẻ coi thường nước Mỹ tại Angola và Iran chẳng hạn (psychological domino, giây chuyền tâm ly'). Nghe nói sinh viên Iran bắt nhân viên Tòa Đại sứ Mỹ làm con tin là bắt chước chiến thuật bám sát địch cuả Cộng sản Việt Nam.
Nhưng là cường quốc, cho nên Mỹ vẫn vững trên trường quốc tế, lại có thể " ăn miếng trả miếng", cô lập hóa Việt Nam với chính sách cấm vận hai chục năm trời, làm điêu đứng Việt Nam và khi hai nước tái lập bang giao, Việt Nam lại là nứơc muốn và cần giao hảo tốt đẹp với Mỹ hơn là ngược lại.
Cái thế thù thành bạn dã rõ trong lời tuyên bố trong bài thuyết trình đầu năm 2005 của Đại sứ Mỹ ở Việt Nam là Marine. Theo ông, mặc dầu liên hệ hai nước trong quá khứ không vui vẻ gì, "rõ ràng là bây giờ Việt Nam và Hoa Kỳ không có bất đồng về chiến lược (no strategic differences)" và " Hoa Kỳ tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và dứt khóat chống mọi âm mưu phân ly hay các đe dọa khác tại biên giới Việt Nam. Chúng tôi có nhiều lãnh vực chung quyền lợi về an ninh vùng và an ninh thế giới . Sự hợp tác về quốc phòng hiện nay là bước đầu để cùng đương đầu với các thử thách về an ninh trong thế kỷ 21."

2. Với thân phận tiểu quốc, có một cường quốc bảo trợ là MỹÏ nay đã thành "con hổ giấy" vì không muốÙn hy sinh thêm xÜương máu và tài nguyên tại Á Châu, mà Nam Việt Nam lại có một Tổng Thống thiếu thực tế,cứ nóí khẩu hiệu "Bốn Không" (không chung sống với cộng sản v.v..) mãi, không nhớ là có chánh nghĩa như Đức Giáo Hoàng mà thiếu lực lượng quân sự cũng bị Stalin hỏi "Giáo Hoàng có mấy sư đoàn?", không thấy là mọi cuộc chiến phải kết thúc bằng giải pháp chính trị,vì chiến lược chính trị mới là giải pháp toàn bộ mà bộ máy quân sự là phương tiện (war is politics by other means).
Nếu Ông Ngô Đình Diệm đồng y' với Miền Bắc tổ chức tổng tuyển cử vào năm 1956 theo Hiệp Định Geneva, thì có thể có một quốc hội toàn quốc, trong đó Miền Nam Việt Nam ít ra cũng có gần nửa số đại biểu và chưa chắc đã có nội chiến trong một nước Việt Nam thống nhứt. Đầu năm 1975, Trưỏng Phái Đòan Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại Paris là Ông Nguyễn Văn Hiếu nhờ tướng Trần Văn Đôn nói giùm vơí ông Thiệu và thúc ông Thiệu đưa Mặt Trận vào chính phủ Saigon như một thành phần chính phủ liên hiệp để chống lại sự thống trị của Hà Nội. Ông Thiệu bảo hỏi Mỹ, và Ông Đôn cho biết người Mỹ nói không thích theo đuổi đề nghị của MTGPMN. Như vậy là ông Thiệu không giám tiến hành sáng kiến giải pháp chính trị. Trước đó, năm 1971,theo lời khuyên của Thứ trưởng Quốc Phòng Mỹ Nutter, là giáo sư cũ của Giáo sư Hưng, là Miền Nam nên có sáng kiến độc lập, thì Giáo sư Hưng đã đề nghị ông Thiệu đưa ra đề nghị taí lập giao thương giữa hai Miền Nam và Bắc Việt Nam, tuy là hai nước nhưng cùng chung một thị trường, và tái lập đường hỏa xa Nam Bắc và phát triển Sông Cửu Long. Ông Thiệu có nói đến mấy điểm đó trong bài diễn văn tranh cử của ông ngày 1/10/1971. Nhưng Ông Thiệu vẫn lo ngại và yêu cầu "thăm dò Mỹ". Bộ Ngoại Giao Mỹ trả lời là đã quá muộn và Kissinger điện cho Đại Sứ Martin nói rằng điều đình nào cũng phải là giữa Mỹ và Bắc Việt và tiến hành tại Paris.
Không thoát ra khỏi đương lối cứng rắn "Bốn Không" để đi tìm giải pháp hòa bình thương nghị, chỉ chọn giải pháp quân sự là nhờ Mỹ yểm trợ di bom B52 nếu bị tấÕn công, rồi khi yêu cầu yễm trợ Mỹ không tới mà còn bị Mỹ áp lực từ chức, Ông Thiệu lên đài truyền hình ngày 21/4/1975 để từ chức, đồng thời chưỉ Mỹ là đã không thắng nổi Bắc Việt, tìm đường tháo lui mà lại vô nhân đạo,không trợ giúp cho quân đội Miền Nam. Quân đội Miền Nam lại càng mất tinh thần hơn. Trong tháng 4/1975 này, vì lo là"dân" du học ở Mỹ về, tôi chắc sẽ gặp khó khăn trong chế độ mới và có lẽ "tẩu vi thượng sách", cho nên ngày nào tôi cũng điện thoại cho Đai Tá Nguyễn Mộng Hùng, Trưởng Phòng 5, Hành Quân, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, để hỏi tin tức xác thực (mà tôi nghĩ ông sẽ nói thực với tôi, vì tôi là ngừơi bà con) , và ông ấy nói và ông ấy nói giọng mệt mỏi, yếu ớt , đầy vẻ nản chí: " Tài ơi !Lính nó không đánh nưã !": (mặc dầu trước đó, Quân Đội Miền nam đã can đảm chiến đấu, đẩy lui nhiễu cuộc tấn công của quân đội Miền Bắc, thí dụ trong Tết Mậu Thân hay trong Trận Quảng Trị) . Hỏi người quen trong Tòa Đại Sứ Mỹ, họ nói quân xa và chiến xa của Quân đội Bắc Việt ở bên kia vĩ tuyến, theo không ảnh, chạy nối đuôi nhau (bumper-to-bumper) công khai. Chắc hẳn họ biết là Mỹ đã bỏ cuộc, sẽ không trả đũa, ném bom.
Lẽ ra, Ông Thiệu phải có lề lối độc lập hơn với Mỹ và, chiếu chủ quyền quốc gia và quyền lợi dân tộc mà sáng kiến mạnh bạo hơn, đặt Mỹ trước sự đã rồi về việc điều đình trực tiếp giữa Miền Nam và Miền Bắc Việt Nam, qua trung gian của Pháp chẳng hạn. Tâm ly' sợ Mỹ như quan thày không có lợi cho dân tộc. Thiết nghĩ, nếu đặt Mỹ trước sự đã rồi về phương cách điều đình, có thể rồi Mỹ cũng phải theo. Vì cứ so sánh với trường hợp Iraq hiện nay, năm 2005: Mỹ có quân đội hiện đại ở lỳ lại, ngòai ra có Tổng Thống Bush cương quyết hơn , mà Mỹ cũng nhấn mạnh đến giải pháp chính trị là bầu cử để giải kết, và hơn nữa bầu cử để có một chế độ liên hiệp giữa các phe Kurd, Sunni và Shiite thì mới hy vọng có hoà bình, và nếu phe Sunni không tham gia, cũng phải làm tới và hứa cho phe Sunni một số ghế trong chính phủ tương lai.
Ông Thiệu lo ngại sẽ bị đảo chính và gặp nạn như Ông Ngô Đình Diệm khi Mỹ ám chỉ nếu không chịu nghe theo quan điểm Mỹ thì "có thể có biến cố như 1963". Nhưng thiết tưởng nếu ông Thiệu không giữ khư khư lấy mấy mật thư của Tổng Thống Mỹ như bùa hộ mệnh (mà bùa đó cũng chẳng ích gì vì Tổng Thống Nixon, người đua ra lời hứa, đang bị khủng hoảng rồi từ chức trong vụ Watergate), mà đem công khai hóa việc Mỹ làm áp lực về những nhượng b ộ thiếu công bình và an ninh cho Miền Nam Việt Nam, và đồng thời đưa ra công khai cho dư luận dân chúng Mỹ và dư luận quốc tế (qua báo chi, truyền thông) biết về cái lập trường thương nghị hoà bình trực tiếp với Miền Bắc, thì chắc Mỹ cũng không dám mưu hại ông, và Quốc Hội Mỹ sau này cũng không thể nói là Miền Nam có hoà bình rồi mà cứ bàn về chiến tranh và xin quân viện.
Cứ cố trung thành với, hay e sợ, hay nghe theo cường quốc thì cũng không bảo đảm gì được tình bạn lâu dài hay không có lợi cho tiểu quốc. Điều này cũng đúng với chế độ ở Miền Bắc Việt Nam khi xưa, đã nghe theo lời cố vấn của cán bộ Trung Quốc thực hiện cuộc cải các điền địa tàn ác, bất công cho nhiều nông dân vô tội, đến nỗi sau này phải sửa sai và công nhận là sai lầm . Và cũng đúng với chế độ hiện nay của nước Việt Nam thống nhất. Một hai người lãnh đạo cấp cao ở Việt Nam đã nghe theo Trung Quốc bảo chờ Trung Quốc ký Hiệp Định Thương Mại Trung Quốc-Mỹ trước, cho nên đã yêu cầu để chậm hơn 1 năm trời việc ky' Hiệp Định Thương Mại Việt-Mỹ, làm thiệt cho Việt Nam là đã bị Trung Quốc đi trước vô thị trường vô biên của Mỹ để cạnh tranh bán cùng một lọại sản phẩm. Và đã ngả theo áp lực của Trung Quốc mà ký Hiệp Định Vịnh Bắc Bộ (nghe nói, không biết tin này có đúng hay không, trong chuyến du hành sang Tàu,một lãnh đạo cao cấp của Đảng muốn dựa Tàu dể củng cố quyền lực cá nhân trong Đảng Viêt Nam, nên đãõ ký Hiệp Định ấy), khiến ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc bắn chết, vu cáo cho là cướp biển, ngay trong vùng hải phận Việt Nam mà xưa nay dân chài Việt Nam đã quen thuộc là của Việt Nam. Trong khi đó thì các nhà ngọai giao Việt Nam ở cấp dưới, sáng suốt vì đã diều nghiên kỹ , rất ghét và đa nghi mỗi khi thương lượng với đại diện Trung Quốc về chi tiết các vấn đề, mà họ tả là Trung QuốÙc hay có thói bắt nạt của cường quốc bá quyền. Có lẽ họ và nhân dân Việt Nam chỉ còn cách là yêu cầu Quốc Hội Viêt Nam, nhân danh dân tộc, chiếu diều 84 đọan 13 của Hiến Pháp Việt Nam và quyền lợi tối cao của dân tộc, nhất là của những người dân chài cùng khổ, mà huỷ bỏ Hiệp Định Vịnh Bắc Bộ, theo nguyên tắc luật quốc tế rebus sic stantibus (nguyên trạng không còn thì hủy bỏ).
3. Chiến tranh trong thời hiện đại là chiến tranh toàn diện, lôi kéo toàn dân, và làm nguy hiểm đến toàn dân. Nhứt là trong một nước dân chủ có chế độ động viên như Mỹ hồi Chiến tranh Việt Nam, mỗi gia đình đều có thể có chồng,con sắp sửa bị động viên (chứ không phải chỉ có quân đội nhà nghề, nhưÜ hiŒện nay) và vào mỗi bưã cơm chiều trong gia đình đều chứng kiến cảnh chết chóc trên truyền hình , thì cuộc chiến phải được quảng đại quần chúng và đại diện của họ tại quốc hội ủng hộ (chứ không còn chuyện "giãi thây trăm họ nêu công một người" mà không ai phản đối được). Hiến Pháp Mỹ đã đặt nguyên tắc là Quốc hội giữ quyền tuyên chiến và trong chính sách ngọai giao, Thượng Viện có vai trò cố vấn và phê chuẩn (advise and consent). Vào thời kỳ đầu trong Chiến tranh Việt Nam, Tổng Thống Johnson đã xin Quốc Hội thông qua Nghị Quyết Vịnh Bắc Việt (Tonkin Gulf Resolution) cho trả đũa về quân sự ở Việt Nam khi có tin tàu Mỹ bị tàu Bắc Việt tấn công (sau này mới biết là phóng đại),và do đó, việc tăng quân số Mỹ và tăng quân viện dễ dàng. Đến thời gian sau cùng của cuộc chiến, khi việc ủng hộ Chiến Tranh Việt Nam giảm sút, Quốc Hội Mỹ lại thông qua luật về quyền chiến tranh (War Power ) để hạn chế quyền Tổng Thống.
Tổng Thống Thiệu đã quên cái quy luật "Y' dân là ý trời" trong việc điều hành chiến tranh ở một nước dân chủ như Mỹ, cho nên cứ giữ khư khư các mật thư cam kết yểm trợ của Tổng Thống Nixon, đến những ngày cuối cùng mới đưa các thư ấy cho Giáo sư Hưng đi cầu viện ở Mỹ. Trước đó, các người lãnh đạo khác như Chủ tịch Thượng Viện Trần Văn Lắm, Chủ tịch Hạ Viện Nguyễn Bá Cẩn và Ngọai trưởng Vương Văn Bắc đã khuyên là không nên la lối om xòm vội, sợ là Mỹ họ nói là can thiệp vào nội bộ Mỹ. Họ đã không hiểu hệ thống chính trị Mỹ, và không thấy là các văn thư mật cam kết của Tổng Thống Mỹ--đại diện nước Mỹ trong chính sách ngọai giao--là những văn thư có gía trị, cần phải công bố cho Quốc Hội,để có sự phê chuẩn và ủng hộ của đại diện nhân dân,theo diễn trình hiến định (constitutional process) đã ghi trong Hiến Pháp Mỹ.
Để có thế nhân dân tại Việt Nam, lẽ ra Ông Thiệu cũng đã nên đưa các thư mật cho Quốc Hội Việt Nam từ lâu, để đại diện nhân dân Việt Nam vận động với Quốc Hội Mỹ, theo lối giao hảo giữa hai dân tộc (people-to-people diplomacy).
Không làm những việc trên kịp thời, Miền Nam Việt Nam trở thành nạn nhân của hành vi làm ngọai giao theo lối 'anh hùng cá nhân' của Kissinger, là ngươì thán phục và làm việc theo lối các nhà ngoại giao đầu thế kỷ 19: Metternich và Talleyrand, những ngọai trưởng nhiều quyền đã chuyên độc sắp xếp lại bàn cờ bang giao giữa các quốc gia Âu châu sau khi Napoleon thất trận năm 1815, mà chẳng hỏi y' kiến nhân dân hay đại diện nhân dân các nứơc liên hệ.
Ngay chế độ Cộng Sản trong đó Đảng quyết định chiến tranh hay hòa bình, có vài người khôn ngoan cũng thấy nên hỏi ý dân về vấn đề đó. Ông Nguyễn Cơ Thạch, ngoại trưởng Việt Nam, có nói là sau cuộc phiêu lưu sang Kampuchea (nó kéo theo hậu quả là Trung Quốc đánh sang Việt Nam để "dạy cho Việt Nam một bài học" --Lời Đặng Tiểu Bình, và do đó gây ra thương vong nhiều) thì từ nay, Việt nam sẽ không bao giờ gửi thanh niên ra ngọai quốc nữa.
(Còn tiếp)

No comments: