Friday, October 21, 2016

ĐẶNG TẤN HẬU - HUỲNH NGỌC TUẤN - HỒVĨNH THUỶ - VĂN QUANG

onday, June 3, 2013

ĐẶNG TẤN HẬU * ĐẢNG CỘNG SẢN PHẢI CHẾT


The Vietnamese communist regime from the beginning to 2013:
a "growing to maturity" approach
Dang Tan Hau
In this article, Mr. Dang Tan Hau applied the "growing to maturity approach" to study the success and downturn of the Vietnamese communist regime. During the World War II, Stalin cooperated with Hitler of Nazi to have time to liquidate those comrades who weren’t trusted by him. But Hitler still invaded the Soviet Union. Finally Hitler failed and collapsed in 1945. President Roosevelt agreed for the Soviet Union to become the US’s ally. The consequence was Eastern Europe falling into the hand of the Soviet Union and becoming communist countries. The U.S. helped the French in Indochina, but the supports were not enough then the French were defeated in the Dien Bien Phu battle. Vietnam was divided into two countries: Democratic Republic of Vietnam in the North and Republic of VN in the South, divided by the 17th Parallel. The first Republic of VN (1954-1963) was led by President Ngo Dinh Diem and the second Republic (1963-1975) was led by President Nguyen Van Thieu (1967-1975), with a transitional period of 1963-1967 during which a number of generals were taking charge as heads of state and PMs. The Republic of VN collapsed on April 30, 1975 (the Northern communists occupied the South) and the country unified in 1976. The communists failed to build a strong economy and the country was moving to a near collapse in 1986. They had to open the economy (called "Renovation") in 1986. The economy recovered until 2008, with growth rates gradually getting better to more than 7% in 2007. But the trend was going down from 2008 to 2013, and the growth rate was less than 6% in 2012 and is expected to reduce to 5% in 2013. Both economic and political prospects are dark for 2013 as state firms were on the verge of bankruptcy (Vinashin, Vinalines) and China’s domination is a matter of time. The CPV is launching a campaign of getting the people’s ideas for Constitutional Amendments; but the people want the abolition of Article 4 of the Constitution which stated that the CPV is leading the society. The future is dark for the CPV.

UNICODE
"THÀNH TRỤ HOẠI DIỆT": CHẾ ĐỘ VC SẼ PHẢI CHẾT THÔI!

Đặng Tấn Hậu

Còn vài ngày nữa là đến ngày quốc hận 30.4 đánh dấu 38 năm miền nam tự do rơi vào tay độc tài CSVN. Tập đoàn này là tay sai của đế quốc Hán tộc. Chúng ta thử lần lượt ôn lại chuyện quá khứ lấy dấu mốc 1954-1975 và tiên đoán vận nước VN sau năm 1975.
Dù là chiến tranh giữa người Việt cộng sản miền bắc giết chết người Việt miền nam tự do trước ngày 30.4.1975, dù là chiến tranh có tên gọi gì đi nữa, chúng ta phải nhìn nhận đây là trận chiến giữa tư bản tự do HK và cộng sản độc tài Liên Sô/Trung Cộng (LS/TC). Do đó, bài viết có khi đề cập đến tên của các vị lãnh đạo miền nam hay miền bắc, xin độc giả hiểu đây là sự đấu trí giữa HK và LS/TC. Thí dụ, Lê Duẫn xin phép LS/TC đánh vào miền nam năm 1955, nhưng LS/TC không cho phép vì sợ đụng đến HK thì Hồ Chí Minh và Lê Duẫn cũng đành chịu. CSBV chỉ có thể đưa quân và khí giới vào miền nam qua đường mòn Hồ Chí Minh dọc theo biên giới Lào và Khờ me sau khi LS/TC bật đèn xanh vào năm 1959. Nhờ đó, người dân miền nam được sống thanh bình trong mấy năm đầu trước 1959 chính nhờ không có sự phá hoại, giết người của CSBV.
Bài viết thường đề cập đến CSBV, VC hay CSVN, xin hiểu các danh từ này đồng nghĩa vì Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cũng do CSBV tổ chức và giật dây, CSVN hay CSBV không khác. Bài viết dựa trên 4 giai đoạn "thành, trụ, hoại, diệt" để phân tích thời cuộc. Để dễ hiểu về 4 giai đoạn, chúng ta hình dung 4 mùa "xuân, hạ, thu, đông", còn được hiểu là 4 giai đoạn "bắt đầu, phát triển, bão hòa, suy thoái".

TÌNH HÌNH CHUNG (trước 1954)
Stalin bắt tay với Hitler để có thời giờ thanh toán các đồng chí mà ông không tin; nhưng Hitler vẫn đem quân tiêu diệt LS vì đa số người dân Liên Sô là giống dân Slaves mà Hitler coi là dân hạ tiện, thấp hèn. Stalin phải xin làm đồng minh với HK (Roosevelt) và hứa với HK là không xâm chiếm các quốc gia khác vào trong quỹ đạo cộng sản sau khi chiến tranh kết thúc (đệ nhị thế chiến).
TT Roosevelt (HK) đã đồng ý cho LS làm đồng minh và cho LS trở thành hội viên có quyền phủ quyết tại Liên Hiệp Quốc sau đệ nhị thế chiến vì sự quá tin tưởng vào lời hứa của Stalin của TT Roosevelt (HK). Cuối cùng, LS cho quân đánh chiếm các quốc gia Đông Âu và ra lệnh cho các điệp viên khát máu như Hồ Chí Minh đưa các quốc gia chậm tiến vào vòng quỹ đạo cộng sản. TT Truman (HK) phải đưa ra chiến lược "ngăn ngừa" (containment) chống lại làn sóng đỏ trên thế giới.
HK ủng hộ Pháp trở lại VN (ngăn chận làn sóng cộng sản) và cho VN độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp (tưởng cần nhớ, các quốc gia thuộc địa của Anh Quốc cũng được độc lập và nằm trong Liên Hiệp Anh sau đệ nhị thế chiến). Hồ Chí Minh được LS/TC chỉ thị quyết tử với Pháp đưa tới trận Điện Biên Phủ, nhưng vì HK phản bội Pháp (không tăng viện phi cơ) nên Pháp đã thua trận. Hiệp định Genève được ký vào ngày 21.7.1954 chia đôi đất nước VN.

ĐÊ NHẤT CỘNG HÒA (1954-1963)
Tổng Quát
LS/TC ủng hộ Hồ Chí Minh, điệp viên LS, lên cầm quyền miền bắc VN. LS/TC vừa tăng viện trợ, vừa cho CSBV vay tiền để mua thêm khí giới và thực phẩm. CSBV tiêu diệt mầm móng chống đối tại miền bắc qua chương trình "cải cách ruộng đất", "trăm hoa đua nở" với phương châm "tri, phú, địa, hào, đào tận gốc, tróc tận rễ". CSVN áp dụng chế độ "tem phiếu", bãi bỏ quyền tư hữu và kiểm soát thông tin qua chế độ hộ khẩu, không cho người dân được tự do đi lại từ làng này sang làng khác.
HK ủng hộ nhà chí sĩ Ngô Đình Diệm lên làm tổng thống miền nam, viện trợ thực phẩm thặng dư như phó mát, khí giới cũ thời kỳ đệ nhị thế chiến và gởi 300 cố vấn quân sự cho quân đội VNCH qua tổ chức quân sự MAAG (military assistance advisory group). TT Ngô Đình Diệm củng cố lực lượng qua sự tiêu diệt nhà thổ, khu đánh bài Đại Thế Giới và đặt quân đội của các "giáo phái" vào quân đội quốc gia.
Tưởng cần nhắc lại, dưới thời Pháp thuộc, Pháp thành lập Đông Dương gồm có 5 xứ là Khờ me, Lào, miền nam, miền trung và miền bắc VN. Sau ngày hiệp định Genève, Đông Dương bị chia ra làm 4 xứ độc lập gồm có Khờ me, Lào, CSBV, VNCH. Mặc dù Khờ me giữ vị thế trung lập, nhưng thiên CSBV vì sợ VNCH và Thái Lan xâm lấn. Thái tử Lào Souvanna Phouma theo tự do vì sợ CSBV lấn áp.

Bắt Đầu
LS/TC bật đèn xanh cho CSBV đem quân xâm chiếm miền nam vào năm 1959 nên CSBV bắt đầu thành lập cơ cấu, nền tảng chuẩn bị cho chiến tranh tiến chiếm miền nam tự do như:
• dựng lên tổ chức Lào cộng sản (Pathet Lào)
• dựng lên tổ chức Khờ me cộng sản có tên Khờ me Issarak (thân CSBV) khác với nhóm Khờ me đỏ Pol Pot thân TC thành hình về sau.
• đưa người và vũ khí vào miền nam qua đường mòn Hồ Chí Minh dọc theo biên giới Lào và Khờ me.
• động viên miền bắc để đưa quân vào miền nam với khẩu hiệu "sinh bắc, tử nam".
CSBV bắt đầu thành lập tổ kháng chiến, đánh du kích, ám sát các viên chức VNCH; đối lại, HK tăng viện cố vấn quân sự lên gấp đôi. Đảng phái thấy nguy cơ cộng sản xâm chiếm miền nam, cảnh cáo chính phủ VNCH cần cải tổ nội các nên đưa tới đảo chánh ngày 11.11.1960, nhưng không thành công.

Phát Triển
CSBV thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam vào tháng 12, 1960 để lường gạt thế giới và dân miền nam với lý do "người dân miền nam nổi lên chống chính phủ VNCH". TT Ngô Đình Diệm đối phó lại bằng cách lập "ấp chiến lược", cô lập hóa CSBV ra khỏi dân chúng miền nam. Kết quả, CSBV bị cô lập và điêu đứng.
Cố vấn quân sự HK tăng lên từ 600 đến 4,000 người vào tháng 2, 1962. Tổ chức MAAG đổi tên thành MACV (military assistance command) dưới quyền tướng Paul Harkins. Chiến cuộc phá hoại của CSBV càng ngày càng gia tăng nên 4 tháng sau, con số quân đội HK tăng lên tới 12,000 cố vấn.
Nhu cầu cải tổ chính phủ cấp bách đưa tới hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử thả bom tại dinh Độc Lập ngày 27.2.1962, nhưng tổng thống Ngô Đình Diệm và gia đình đều thoát hiểm. Phi công Phạm Phú Quốc bị bắt vì máy bay bị trúng đạn và phi công Nguyễn Văn Cử chạy thoát qua xứ Khờ me.

Suy Thoái
CSBV bắt đầu đánh lớn với quân số cấp tiểu đoàn như trận Ấp Bắc (2.1.1963) với khí giới tối tân; trong khi quân đội VNCH vẫn còn xử dụng súng ống thặng dư từ thời kỳ đệ nhị thế chiến. Sự phối hợp giữa các cấp chỉ huy VNCH và các binh chủng chưa ăn nhịp. Lần đầu tiên, quân đội VNCH dùng kỹ thuật trực thăng vận. Trận Ấp Bắc thiếu yếu tố bất ngờ vì VNCH không có đủ trực thăng chuyển quân nhanh chóng nên chiến công VNCH bị phản tuyên truyền do báo chí HK đưa tin là quân đội VNCH sợ chết.
Tổng thống HK mất tin tưởng khả năng chiến đấu của quân đội VNCH và tài lãnh đạo của TT Ngô Đình Diệm, cộng thêm Phật giáo biểu tình với lý do kỳ thị tôn giáo (dù có hay không) nên đưa tới đảo chánh ngày 1.11.1963. Hai anh em tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu bị giết chết vào sáng ngày 2.11.1963. Hai mươi ngày sau (22.11.1963), tổng thống Kennedy bị bắn chết tại Dallas, Texas.

ĐÊ NHỊ CÔNG HÒA (1963-1975)
Tổng Quát
Phó tổng thống Johnson lên làm tổng thống HK. Ngày 30.1.1964, tướng Nguyễn Khánh làm chỉnh lý, lật đổ tướng Dương Văn Minh. Thời gian 1963-65 là giai đoạn quân đội VNCH bị đóng chấu tại các thành phố lớn vì các vụ đảo chánh, chỉnh lý, biểu tình. Hệ thống ấp chiến lược thời TT Diệm bị giải tán nên quân CSBV có lợi thế lẫn trốn vào nông dân và làng mạc. Có thể nói là CSBV đang trên đà chiến thắng miền nam vì VNCH bỏ ngỏ nông thôn. CSBV dùng nông thôn bao vây thành thị đang bị xáo trộn vì chính trị.

Bắt Đầu (lùng & diệt)
Tổng thống Johnson gởi tướng Westmoreland thay thế tướng Harkins chỉ huy cố vấn quân sự MACV vào giữa năm 1964. Đầu tháng 8, 1964, HK lấy cớ CSBV bắn vào hai chiến hạm HK Maddox và Turney Joy trong hải phận quốc tế tại Biển Đông nên HK tự cho phép "tìm và diệt CSBV" trên đất miền nam VN và miền bắc CSBV.
Quân số HK tăng lên 23,000 quân cuối năm 1964, 50,000 vào giữa năm 1965, 180,000 cuối năm 1965 và 400,000 cuối năm 1966 . Tổng thống Johnson ra lệnh máy bay B-52 thả bom miền bắc VN. Quân đôị HK có nhiệm vụ "truy lùng & diệt địch" tại miền nam VN để cho chính phủ miền nam có thời giờ ổn định tình hình chính trị.

Phát Triển (bình định)
Quân đội HK tăng quân số lên 436,000 người vào năm 1967. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống sau ngày bầu cử 3.9.1967. Tình hình chính trị tại miền nam ổn định. Quân đội HK bắt đầu từ "diệt địch" sang trao trách nhiệm cho quân đội VNCH "bình định" với các cán bộ xây dựng nông thôn đã được chuẩn bị đào tạo từ năm 1966 nhằm mục đích thay thế chương trình "ấp chiến lược".
Với sự trợ giúp và cho vay của LS/TC, CSBV gia tăng ào ạt chuyển vũ khí tối tân và quân đội vào chiến trường miền nam, kể cả xe tăng và trọng pháo. CSBV chính thức đánh các trận lớn đối đầu với quân đội HK như Côn Thiện, Khe Sanh bằng cách tử thủ như cho lính CSBV uống thuốc say và trói lính CSBV vào công sự hay vũ khí lớn để không cho tháo chạy hay đầu hàng.
CSBV "tổng tấn công" miền nam VN để gây tiếng vang trên chính trường quốc tế, nhất là làm mất tinh thần người dân HK có tinh thần phản chiến. CSBV giả vờ đánh Khê Sanh, đình chiến trong 10 ngày Tết Mậu Thân (1968), rồi bất thần "tổng tấn công" vào các thành phố lớn và các tỉnh lỵ miền nam.
Mặc dù CSBV có súng ống tối tân như AK, đại pháo, xe tăng, mặc dù quân đội VNCH bị đánh do yếu tố bất ngờ (vì nghỉ ba ngày Tết đình chiến), mặc dù khí giới VNCH thô sơ, nhưng lính VNCH đã anh dũng đẩy lui CSBV ra khỏi các thành phố và tỉnh lỵ, nhất là giết chết nhiều binh lính CSBV và bắt được nhiều cán bộ CSVN nằm vùng. Từ bây giờ, HK mới bắt đầu viện trợ vũ khí khá hơn cho quân đội VNCH như M16.

Bão Hòa (VN Hóa)
Tổng thống Johnson tuyên bố không tranh cử tổng thống vì người dân HK nghĩ chính sách HK thất bại tại VN (chứng cớ là CSBV có thể đánh ngay vào tòa đại sứ HK ở Saigon). TT Johnson ra lệnh ngưng thả bom Bắc Việt và kêu gọi CSBV thương thuyết chấm dứt chiến tranh vào ngày 3.5.1968. Mười ngày sau, hai bên gặp nhau tại Paris. Tướng Abrams thay thế tướng Westmoreland. Nixon lên làm tổng thống bắt đầu chương trình VN hóa. Quân số HK tại VN lên đến 536,000 người vào cuối năm 1968.

Rút Lui (HK rút quân)
Nixon vừa thương thuyết với CSBV, vừa áp dụng chính sách "rút quân" để "chạy ra khỏi VN" (y như tình hình A phú hãn ngày nay). Biểu tình lớn tại Washington chống chiến tranh vào cuối năm 1969. Thủ tướng Lào quốc gia là ông Souvana Phouma lên tiếng là ông sẽ làm ngơ về các hoạt động của CSBV trên đường mòn Hồ Chí Minh vì ông tin CSBV sẽ chiến thắng HK tại VN.
Ngày 20.2.1967, Lê Đức Thọ và Kissinger họp bí mật tại Paris. HK ủng hộ tướng Lon Nol làm đảo chánh lật đổ vua Sihanouk là người chủ trương "trung lập thân CSBV". Tướng Lon Nol lên làm thủ tướng để cho quân đội VNCH có thể đem quân qua Khờ me đánh phá hậu cứ CSBV trên đường mòn Hồ Chí Minh.
100,000 người biểu tình tại Washington chống chiến tranh và 4 sinh viên phản chiến HK bị bắn chết tại đại học Kent State University. Quân đôị HK giảm xuống còn lại 335,000 quân tại miền nam VN vào cuối năm 1970.
Lần đầu tiên, quân đôị VNCH tấn công qua Lào (Hạ Lào) để phá đường mòn Hồ Chí Minh mà không có sự tham gia của quân đôị HK. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tái trúng cử vào tháng 10.1971. Quân đội đồng minh (Úc, Tân Tây Lan, Đại Hàn v.v) rút hết quân ra khỏi miền nam (ngoại trừ HK) vì họ biết HK sắp bỏ rơi VNCH.
Đầu năm 1972, CSBV ngưng thương thuyết với HK, tổng thống Nixon vừa cho rút quân HK ra khỏi VN (như đã hứa với cử tri HK), vừa không kích "tận tình" nền trời Bắc Việt. CSBV đánh chiếm An Lộc và Quảng Trị, nhưng bị tổn thất nặng và thua trận vì quân đội VNCH đã anh dũng tái chiếm An Lộc và Quảng Trị.
Hiệp định Paris được ký kết vào ngày 15.1.1973 hoàn toàn bất lợi cho VNCH. HK rút hết binh sĩ ra khỏi miền VN vào cuối tháng 3, 1973. Quân đội VNCH rút ra khỏi xứ Khờ me. Lào Cộng chiếm ưu thế trong chính phủ Lào. CSBV tiếp tục vay tiền LS/TC để mua thêm vũ khí chuyển về miền nam qua đường mòn Hồ Chí Minh mà không có sự đe dọa nào từ quân đội Khờ me, Lào hay Hoa Kỳ (là quốc gia phản bội VNCH).
HK để lại vũ khí, công sự không xử dụng được cho VNCH như súng không có đạn, máy bay thiếu bộ phận, bom bị tháo ngòi. Người lính VNCH chiến đấu trong đơn độc cho tự do, không có viện trợ đến từ HK hay bất cứ quốc gia tây phương nào như tiền bạc, thực phẩm hay súng ống. Ngày 1.1.1975, Khờ me đỏ chiếm Nam Vang. Ngày 30.4.1975, Saigon thất thủ. Ngày 24.8.1975, Lào cộng chính thức cầm quyền.

Bình Luận
Chiến tranh nam bắc VN xảy ra chỉ vì tổng thống HK Roosevelt ngây thơ tin lời đường mật của Stalin, cho Stalin (LS) nhiều lợi thế sau đệ nhị thế chiến nên LS cho quân đội xâm chiếm các quốc gia trên thế giới và cho tay chân bộ hạ (Hồ Chí Minh) đưa các quốc gia chậm tiến (miền bắc VN) vào trong quỹ đạo cộng sản.
Dù có hay không có nhà chí sĩ Ngô Đình Diệm, HK cũng có thể dựng lên một nhân vật để chống lại cộng sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo dưới chính sách "containment" (ngăn chận). Cái may mắn là người dân miền nam không bị chết thảm do đấu tố, cải cách ruộng đất, trăm hoa đua nở hay chết đói do cộng sản miền bắc VN gây ra từ 1954 đến 1975. Người dân miền nam có ít nhất 21 năm sống trong tự do (dù là tự do giới hạn trong tình trạng chiến tranh do CSBV gây ra).
Nền đệ nhất cộng hòa không lợi dụng thời cơ của chính sách chống cộng sản của tổng thống Truman (ngăn ngừa làn sóng đỏ) và tổng thống Eisenhower (con cờ domino) để loại trừ nhanh chóng cộng sản nằm vùng ra khỏi miền nam tự do và cho phát triển kinh tế mau lẹ để thoát khỏi sự "lệ thuộc" vào viện trợ của HK, nhất là vũ khí và đạn dược tối tân.
Nền đệ nhị cộng hòa không làm chủ được vận mạng trước 500,000 quân HK và hàng vạn quân bắc Việt với vũ khí tối tân, cộng thêm TC gởi trên 300,000 lính Tầu phù yểm trợ cho CSBV (1). Quân đôị VNCH còn cầm cự được đến ngày 30.4.1975 nằm ngoài sức tưởng tượng của các nhà quân sử thế giới. Điều đáng tiếc, VNCH không có con đường nào khác, ngoài sự lệ thuộc đường lối HK. Saigon bị thất thủ là tự nhiên sau khi HK ký hiệp định Paris rút quân và chấm dứt viện trợ quân sự và kinh tế cho miền nam.

CSVN (1975-2013)
Tổng Quát
1972-1975 là thời gian CSBV bước từ giai đoạn "giải phóng" đến giai đoạn "bão hòa". CSBV thua các trận chiến "mùa hè đỏ lửa" với quân lực VNCH, nhưng chiến thắng HK tại bàn hội nghị Paris để cho quân đội HK có cơ hội rút quân ra khỏi miền nam VN và tạo cơ hội cho HK phản bội đồng minh của họ; điển hình, Cố Vấn An Ninh quốc Gia của HK là ông Kissinger phải chui đầu vào cốp xe hơi để đi họp kín với CSBV.
Mặc dù chiến thắng quân sự, nhưng thời gian 1975-1985 là giai đoạn suy thoái của CSBV vì CSBV không có khả năng điều hoạt phát triển kinh tế. Chiếm đất thì dễ, nhưng giữ đất rất khó, nhất là lòng dân không thuận. CSBV bước tới giai đoạn "suy thoái" khi áp dụng kinh tế "bao cấp" đưa tới "thiên đàng CS" (hay còn gọi là địa ngục trần gian). Tình hình chung tại VN sau 1975 như sau:
• CSBV giải tán Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là con cờ để lường gạt thế giới từ thập niên 60. Sự giải thể MTGPMN là hành động chưởi thẳng vào mặt về sự ngây thơ của sinh viên phản chiến HK
• Thế giới tẩy chay, không bang giao với CSBV, chỉ trừ Liên Sô. TC ủng hộ Khờ me đỏ (Pol Pot) chống lại CSBV.
• CSBV lộ bộ mặt thật của chế độ cộng sản, đổi tên nước Dân Chủ Cộng Hòa thành Xã Hội Chủ Nghĩa, đảng Lao Động thành đảng Cộng Sản.
• CSBV áp dụng kinh tế bao cấp, ban hành luật cướp "tài sản tư bản -- động sản & bất động sản" của người dân miền nam v.v (người dân miền bắc đã bị CSBV cướp đoạt từ năm 1954).
Nạn đói xảy ra tại cả ba miền VN. Nhằm kềm chế Khờ me đỏ (Pol Pot) và tiêu diệt con cháu của người lính VNCH vì CSBV chủ trương "nhổ cỏ phải nhổ tận gốc", CSBV xua quân đánh Khờ me đỏ với chiến thuật đưa con cháu của người lính VNCH đi đầu làm khiên đở đạn. TC bảo vệ đàn em Khờ me đỏ nên TC vừa lên tiếng chống đối CSBV tại Liên Hiệp Quốc, vừa đem quân dạy cho CSBV tại miền bắc VN.
Mặc dù Liên Hiệp Quốc chỉ lên tiếng lấy lệ chống CSBV vì Khờ me đỏ phạm tội diệt chủng trên 2 triệu người, mặc dù TC không chiến thắng (vì TC thiếu kinh nghiệm chiến đấu so với CSBV có nhiều năm chiến trận với vũ khí tối tân do LS viện trợ), nhưng CSBV vẫn lo sợ "tù binh VNCH" và thân nhân của họ nổi loạn nên CSBV mới có chương trình "thả tù cải tạo" để xoa dịu người dân miền nam.
TC dựng đại sứ CSBV ở Bắc Kinh là ông Hoàng Văn Hoan lên làm lãnh tụ CSVN để chống lại CSBV. Thế giới tẩy chay sự háo chiến CSBV. Dân chúng miền nam bất mãn vì bộ đội CSBV và công an vào miền nam theo chính sách "vào, vơ, vét, về" (vào miền nam, vơ của, vét của và đem của về miền bắc). Chế độ cộng sản có nhiều nguy cơ sụp đổ tại VN (nếu không có gì thay đổi).

Bắt Đầu (1985-1990)
Mặc dù Brejnev chủ trương "sống chung hòa bình" với HK, nhưng không kiểm soát được chi phí quá cao của quân đội. LS lại bị sa lầy tại A phú hãn nên chủ tịch Gorbachev (thay thế Brejnev) quyết định rút quân "rất có trật tự" ra khỏi A phú hãn (không như HK chạy hổn loạn tại miền nam VN). Tưởng cần nhắc lại, các quốc gia trên thế giới thán phục LS khi thấy người lính LS cuối cùng rời khỏi A phú hãn là vị tướng Liên Sô.
Gorbachev nhận thấy chi phí quân đội cao vì "không trong sáng", "sổ sách không phân minh" nên ông đưa ra chính sách "Perestroika" (tái cấu trúc), "Glasnost" (trong sáng) và cho phép tư nhân có quyền buôn bán kiếm lời. Ông Gorbachev gặp sự chống đối của quân đội (vì họ mất quyền lợi) nên đưa tới đảo chánh và người cứu nguy cho Gorbachev là Yeltsin, chủ tịch Nga Sô. (Nga Sô là một tiểu bang -- state -- của LS).
CSBV làm tay sai cho LS, chống lại ảnh hưởng của TC nên bị TC đem quân đánh cho một trận gọi là "dạy cho bài học"; đồng thời CSBV bị sa lầy tại xứ Khờ me. Do đó, CSBV phải rút quân ra khỏi Khờ me, dựng Hun Sen lên làm thủ tướng Khờ me đỏ thân CSBV với quốc trưởng Sihanouk. Hiện nay, ông Hun Sen vẫn còn đang làm thủ tướng cho nhiệm kỳ thứ 7 tại xứ Khờ me.
Thủ tướng Hun Sen đã bị TC mua chuộc, nhất là Hun Sen biết CSVN đang làm tay sai cho TC thì ông ta không còn lo sợ CSVN bức bách. Hun Sen bắt tay thẳng với TC chống lại CSVN/Thái Lan, điển hình là hội nghị ASEAN năm 2012, Hun Sen đã theo chỉ thị TC bác đơn của CSVN xin đưa vấn đề Biển Đông vào trong chương trình nghị sự và cho TC đóng quân để có thể cắt đứt VN ra làm hai (nếu có chiến sự).
CSBV bắt chước theo LS (hay được LS bật đèn xanh), CSBV áp dụng chính sách "đổi mới" mà TC đã áp dụng sau khi TC bang giao với HK. Các nhân vật "bảo thủ", giáo điều miền bắc như Đổ Mười bị thay thế bởi nhân vật cấp tiến miền nam là Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt. CSBV thoát hiểm, nhất là tổng thống HK Clinton quyết định bang giao với CSBV. Người HK gốc Việt bắt đầu gởi tiền về VN gần $4 tỷ mỹ kim mỗi năm vào đầu thập niên 90 để nuôi chế độ CSVN tại VN. Đó là điều nghịch lý, nhưng là sự thật đau lòng trong lịch sử VN thời cận đại.

Phát Triển ( 1990-2000)
Liên Sô bị sụp đổ. Thế giới chỉ còn lại 2 cường quốc là TC với dân số trên 1 tỷ người và HK đứng đầu thế giới về kinh tế. HK cho CSBV gia nhập Mậu Dịch Thế Giới(WTO) và giao thương với CSBV. Kinh tế CSBV phát triển, lạm phát gia tăng tại VN. Đảng viên và quan chức CSVN không những được phép làm kinh doanh, lại còn được độc quyền các kỹ nghệ/thương mại chủ yếu (key industries) để làm giàu như hàng hải, hàng không, điện lực, dầu hỏa v.v.
Không còn LS, CSBV phải xin trở lại làm tay sai cho TC qua việc dâng lãnh thổ, lãnh hải, khai thác bauxite v.v và nhằm mục đích xóa đói giảm nghèo cũng như tăng ngoại tệ, CSBV cho các tòa đại sứ CSBV làm ma cô, tú bà xuất cảng gái VN ra hải ngoại hành nghề mãi dâm để kiếm tiền nuôi chế độ (thí dụ, tòa đại sứ CSBV tại Mạc Tư Khoa). Kết quả, kinh tế VN có tăng trưởng, lạm phát vẫn gia tăng, tham nhũng không tránh khỏi và áp dụng luật rừng vì độc đảng, độc tài CSVN.

Bão Hòa (2000-2010)
Thông thường kinh tế phát triển sau thời hậu chiến là 25%/năm, rồi giảm dần ví như con bệnh cần khoẻ mạnh sớm để lấy lại sức và trở lại đời sống bình thường. Kinh tế CSVN không những bị lùi lại sau khi thống nhất đất nước, sự tăng trưởng không nhanh vì chờ đợi đàn anh TC bật đèn xanh như gia nhập vào tổ chức Mậu Dịch Thế Giới sau khi TC đã gia nhập v.v (làm sao CSVN dám chạy qua mặt ông chủ TC?).
Ngoài ra, thế giới bị kinh tế khủng hoảng, đầu tư thế giới vào VN bị chậm lại dù nhân công VN rẻ. Điều đáng để ý là tổng sản lượng đầu người có gia tăng từ $200 mỹ kim/năm năm 2000 lên đến $1,500 mỹ kim/năm năm 2010, nhưng vẫn còn kém xa các quốc gia trong tổ chức Hiệp Hội Đông Nam Á (ASEAN). CSVN chỉ khá hơn chút đỉnh hai quốc gia kém nhất thế giới là Khờ me và Lào. Ngược lại, người dân sống trong hai quốc gia này có đời sống tự do hơn người dân VN dưới chế độ CSVN.

Suy Thoái (2010-2013)
Nhìn chung, chính sách "đổi mới" còn có tên là "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" đã cứu nguy CSBV thoát khỏi "địa ngục cộng sản"; nhưng chính CS (TC/CSVN) hay Tư Bản (HK) cũng không biết hướng đi kinh tế đích thực của sự đổi mới là gì? CSVN/TC muốn lợi dụng kinh tế thị trường để phục vụ cho đảng viên cộng sản làm giàu; hay là Tư Bản (HK) muốn lợi dụng CS để phục vụ kinh tế tự do (bóc lột nhân công rẻ tại các quốc gia CS?).
Đảng viên CSVN càng ngày càng giàu vì quen biết, tham nhũng, cướp đất của dân. Tư bản ngoại quốc mở hãng xưởng bóc lột nhân công nên không lấy làm lạ nạn lạm phát tại HK rất thấp. Ngân hàng CSVN bị phá sản vì nợ xấu cao (con nợ không có tiền trả và không có tiền bảo chứng). Hãng công chiếm 90% thị trường lại không có khả năng trả nợ vì viên chức lấy tiền bỏ túi hay mua bán sai lầm như Vinashin.
Dân oan bị cướp đất lên tiếng khiếu kiện hay đòi hỏi công bằng thì bị công an đánh đập hay bỏ tù. CSVN muốn kéo dài mạng sống của chế độ, TBT đảng CSVN phải lên tiếng về "đồng chí X" và cho dân đề nghị "sửa đổi hiến pháp". Đồng chí X phản ứng bằng cách thăng chức đồng bọn (nhóm lợi ích) sau khi họ phá nát ngân hàng, tham nhũng hay biển thủ. Công việc sửa đổi hiến pháp chỉ chiếu lệ, rồi đâu vào đó, trong khi CSBV gia tăng khủng bố, xử tội dân oan hay các nhà đối kháng tại VN.

KẾT LUẬN

Cuộc đời vô thường. Vạn vật bốn mùa thay đổi. Xuân hạ thu đông nên cái gì cũng phải qua 4 giai đoạn "thành, trụ, hoại, diệt" hay còn gọi là "bắt đầu, phát triển, bão hòa và suy thoái". Mỗi thời kỳ đòi hỏi nhân sự, chương trình làm việc khác nhau. Thí dụ,
• thời kỳ "bắt đầu" đòi hỏi người làm việc có can đảm quyết định như chí sĩ Ngô Đình Diệm có gan truất phế vua Bảo Đại, triệt hạ Bình Xuyên và các giáo phái v.v
• thời kỳ phát triển đòi hỏi khả năng điều hành nhân viên và chọn địa điểm tấn công như du kích chiến
• thời kỳ bão hòa đòi hỏi khả năng tổ chức bảo vệ thành trì và chọn thế chủ động cho chiến trường
• thời kỳ suy thoái đòi hỏi cấp chỉ huy chuẩn bị rút lui hay kéo dài giai đoạn bão hòa để tránh tổn thất.
Thông thường, chiến lược gia đang ở vị thế "bão hòa" lo chuẩn bị đưa ra "chương trình mới" để không bị rơi vào tình trạng suy thoái. Thí dụ, thời kỳ "hậu đảo chánh 1963" đưa tới suy thoái, HK liền đưa quân vào VN để ngăn chận sự tấn công CSBV. Hay là CSBV đang trong thời kỳ suy thoái năm 2013 nên họ gia tăng đàn áp để kéo dài mạng sống của chế độ độc tài bán nước hại dân.
Quốc gia yểm trợ cho VNCH trong Chiếùn Tranh Việt Nam là HK luôn luôn ở thế thụ động như cung cấp cho VNCH khí giới cũ so với khí giới tối tân của CSBV hay để cho CSBV chuyển quân và vũ khí vào miền nam thì mới nghĩ đến việc lập "ấp chiến lược" hoặc thả bom miền bắc; do đó, HK ít có cơ hội chiến thắng vì thắng cái gì? (chiếm lại đất miền nam đã bị mất vào tay CSBV tại chính đất của đồng minh (miền nam)?)
CSBV có sáng kiến chủ động đem quân xâm chiếm miền nam nhưng phạm phải 2 lỗi lầm: Thứ nhất là vay nợ TC và LS nên sau 1975, CSBV phải lo trả nợ cho LS/TC; đồng thời bán nước cho TC để trừ nợ (cái đau nhất là mất lãnh hải do Phạm Văn Đồng dưới thời Hồ Chí Minh dâng cho TC). Thứ hai, CSBV không nhắm thời cơ TC/LS đổi mới để đoàn kết dân tộc và áp dụng tự do dân chủ để phát triển.
Hiện nay, CSBV đang trong giai đoạn "suy thoái". CSBV chỉ có hai con đường: Thứ nhất là tiếp tục đàn áp, độc tài để kéo dài mạng sống cho chế độ càng ngày càng bị suy thoái cho đến ngày toàn dân VN nổi dậy tiêu diệt CSBV và đem họ ra trước tòa án quốc tế về tội "diệt chủng". Thứ hai là sửa đổi hiến pháp, bãi bỏ điều 4 hiến pháp trong tinh thần tự do dân chủ thật sự thì CSBV có thể từ kẻ có tội trở thành kẻ được chuộc tộiù đối với dân tộc VN.
Lòng dân đã kiên nhẫn quá lâu trên 38 năm ở miền nam và 59 năm ở miền bắc. Mặc dù CSBV đã làm cho dân Việt sơ cứng về họa mất nước và trở thành các con thú đã "bị điều kiện hóa" như dân Bắc Hàn; dân tộc VN sẽ không như người dân Bắc Hàn, họ sẽ vùng dậy đòi lại tự do của chính họ thì khi đó CSBV sẽ không còn chổ nương thân, nhất là nhóm công an và quân đội có nhiệm vụ "trung thành" với mấy tên chóp bu của đảng CSVN, thay vì trung thành với Tổ Quốc.
Còn vài ngày nữa là đến ngày quốc hận 30.4.2013, chúng tôi nguyện cầu anh linh của các bậc tiền nhân dựng nước và giữ nước phù hộ cho dân tộc Việt Nam sớm có được ngày "tự do, dân chủ, nhân quyền" trong năm 2014 và tiêu diệt chế độ CSVN độc tài bán nước hại dân tại Việt Nam.
15.4.2013

Ghi chú:

1. ngoài khí giới tối tân, TC còn gởi hơn 300,000 quân vào miền bắc VN để giúp CSBV trong hai lãnh vực công binh và phòng không. Theo báo chí, lính TC đã bắn hạ 1,707 máy bay HK trên vùng trời miền bắc VN trong khoảng thời gian 1965-1972.

HUỲNH NGỌC TUẦN * NHÂN QUYỀN

Nhận định về
đối thoại Nhân Quyền Việt - Mỹ 
HUỲNH NGỌC TUẤN 
    
N hân quyền là giá trị nền tảng của nước Mỹ cho nên trong quan hệ với những nhà nước độc tài toàn trị đây là một điều tế nhị có khi làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến mối bang giao.
Không phải lúc nào nước Mỹ cũng coi nhân quyền là mục đích tối thượng trong chiến lược của mình nhưng nhân quyền vẫn là những ràng buộc mà nước Mỹ phải tôn trọng và giải quyết để nước Mỹ đạt được mục đích ngoại giao mà không làm tổn thương hình ảnh của mình với tư cách là một siêu cường lãnh đạo thế giới và không phản bội lại niềm tin khai sáng và nhân bản khi hình thành Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ.
Giá trị nhân quyền thăng trầm tùy nhu cầu của thời cuộc và quan điểm của từng chính phủ.
Tổng thống Obama và đảng Dân chủ đặt nhân quyền vào một vị thế khá cao trong chính sách ngoại giao của mình tuy nước Mỹ phải bước vào cuộc cạnh tranh toàn cầu với những cường quốc đang trên đà trỗi dậy như Trung cộng, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản.
Những quốc gia này không theo đuổi giá trị nhân quyền, bảo vệ và thăng tiến nhân quyền trên thế giới không phải là mục tiêu của họ nên trong quan hệ với các chế độ độc tài họ luôn có nhiều lợi thế so với Hoa Kỳ. Điều này đặt ra cho nước Mỹ sự lựa chọn ngày càng khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của nước Mỹ và trung thành với giá trị nền tảng mà Hoa Kỳ thiết lập.
Chính vì biết được điều này nên các chế độ độc tài đã khai dụng tối đa để thủ lợi trong quan hệ với Mỹ, tranh thủ được đầu tư, hợp tác, viện trợ mà không nhượng bộ hoặc nhượng bộ rất ít trong hồ sơ nhân quyền mà Mỹ đòi hỏi khi thiết lập bang giao. CSVN là một điển hình nổi trội.
Năm 2012 với sự vi phạm nhân quyền nghiêm trọng và có hệ thống của Đảng CSVN, chính phủ Hoa Kỳ buộc phải hủy bỏ cuộc đối thoại nhân quyền thường niên với Hà Nội để phản đối.
Nhưng chính phủ Mỹ biết rằng cắt đứt hoàn toàn kênh đối thoại nhân quyền với Hà Nội không phải là thượng sách để giúp thăng tiến nhân quyền tại VN và bảo vệ quyền lợi của Mỹ. Nước Mỹ coi đối thoại nhân quyền là một cơ hội để Mỹ áp lực với chế độ CSVN, và với sự kêu gọi từ Hà Nội chính phủ Mỹ quyết định tiến hành vòng đối thoại nhân quyền vào ngày 12/04/2013.
Trước khi vòng đối thoại nhân quyền mở ra, tờ Quân Đội Nhân Dân đã có bài chỉ trích nặng nề ông Daniel Bear - phó phụ tá Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặc trách nhân quyền và lao động, một nhân vật mà Hà Nội phải đối thoại.
Nhiều người cảm thấy khó hiểu việc làm của đảng CSVN, ai lại đi chỉ trích người mà mình yêu cầu đối thoại?.
Tiếp theo những chỉ trích ông Bear và chính phủ Hoa Kỳ, nhà cầm quyền cộng sản đã tiến hành một đợt tấn công các nhà dân chủ, các blogger cổ xúy nhân quyền, các tôn giáo bị Hà Nội đặt ra ngoài vòng pháp luật. Như việc tấn công tư gia của blogger Huỳnh Thục Vy bằng nước cá và phân thối như đã từng làm trước đây với cụ Hoàng Minh Chính, bà Trần khải Thanh Thủy, bà Bùi Minh Hằng; tấn công và làm bị thương anh Nguyễn Chí Đức một cựu đảng viên CS, hành hung và sách nhiễu Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, vào chùa Giác Hoa thuộc giáo hội Phật giáo VN thống nhất do Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa đạo Thích Viên Định trụ trì để gây rối.
Ngay trong ngày đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ đang diễn ra công an CSVN đã hành hung và xúc phạm bà Trần Thị Hồng, vợ Mục sư Nguyễn Công Chính, người đang chịu 11 năm tù vì lý do tôn giáo và chính trị, ngăn cản không cho Bác sĩ Phạm Hồng Sơn và Luật sư Nguyễn Văn Đài đến gặp phái đoàn Ngoại giao Hoa Kỳ theo lời mời của phái bộ Ngoại giao Mỹ.
Dư luận trong và ngoài nước và cả Tòa Đại sứ Hoa Kỳ bất bình vì thái độ bất nhất của nhà cầm quyền Hà Nội.
Thái độ bất nhất và khinh thường công luận cũng như cách hành xử phản văn minh theo tập quán quốc tế của đảng CSVN đã dẫn đến những nhận định khác nhau. Có quan điểm cho rằng đây là kế hoạch phá bỉnh của cánh bảo thủ thân Trung cộng không muốn vòng đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ thành công để đạt được sự xích lại gần nhau hơn giữa Hà Nội và Washington, trong bối cảnh an ninh khu vực và toàn cầu đang có nhiều chuyển biến phân cực mạnh và nguy hiểm. Trong bối cảnh đó Mỹ đang mở rộng vòng tay để đón nhận Hà Nội vào một chiến lược bao vây và kềm chế Trung cộng.
Trước mắt là việc Mỹ mở cửa để Việt Nam bước vào Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương TPP và sau đó là một sự hợp tác sâu rộng hơn về an ninh và quân sự giữa hai cựu thù.
Nhưng theo quan điểm của cá nhân tôi thì đây là sở trường của đảng CSVN: “Vừa đánh vừa đàm” là một chiến thuật được xử dụng rộng rãi và liên tục của các đảng CS từ CS Trung Hoa đến CS Việt Nam, “đánh cứ đánh, đàm cứ đàm”, “vừa đánh vừa đàm”.
Với chiến thuật này Hà Nội không buông bỏ cơ hội quan hệ đối tác với Mỹ để đẩy mạnh thương mại và đầu tư giúp chế độ sống còn và phát triển, nhưng cũng không tiến tới một thỏa hiệp nào cả để Hà Nội phải làm những gì mà Mỹ yêu cầu bằng văn bản giấy trắng mực đen.
Theo tôi đây là chính sách xuyên suốt của Hà Nội từ lâu nay để đối phó với những đòi hỏi mở rộng dân chủ và tôn trọng nhân quyền của Mỹ. Vừa đánh vừa đàm giúp Hà Nội tiếp tục duy trì quan hệ đối thoại và hợp tác với Mỹ nhưng cũng không làm họ suy yếu quyền lực hoặc không rơi vào quỹ đạo của Mỹ.
Đây là sách lược của CSVN trong mọi giai đoạn, mọi tình huống.
Tập đoàn CSVN là một, họ có một quan điểm nhất quán đó là chống Mỹ và Khối Tự do, chống lại giá trị Dân chủ- nhân quyền giữ vững sự độc tôn cai trị không chia sẻ quyền lực với bất cứ ai để làm cho quyền lực tuyệt đối bị suy thoái dẫn đến sụp đổ chế độ. Một khi chế độ độc tài sụp đổ thì với tội ác cao như núi khó lòng thoát khỏi sự trừng phạt của Luật pháp và khối tài sản khổng lồ mà họ tích tụ được trong thời gian cầm quyền sẽ bị tịch thu sung công quỹ. Đây là một cơn ác mộng với họ và gia đình cho dù họ biết rằng con đường Dân chủ hóa sẽ đưa đất nước đến văn minh tiến bộ vượt bậc như các nước Đông Âu.
Với đảng CSVN chỉ có một chọn lựa duy nhất là trung thành với đàn anh Trung cộng, tìm sự hậu thuẫn từ đàn anh để duy trì quyền lực và tài sản cho dù kết quả là đưa đất nước và dân tộc vào vòng nô lệ Trung Hoa một lần nữa. CSVN bất chấp mọi hậu quả xấu đối với dân tộc miễn sao họ được an toàn và tiếp tục hưởng đặc quyền đặc lợi.
Những nhân vật lãnh đạo CSVN như những thuyền trưởng thà chết cùng con thuyền chứ không bỏ thuyền vì quyền lực và tài sản kếch xù do ăn cướp mà có được cùng tính mạng của họ chung chia số phận với con thuyền chế độ. Họ có lý do để liều mạng chỉ tội nghiệp cho những đảng viên CS cấp trung và cấp thấp phải chịu chết oan cùng họ.
Tại đây chúng ta thấy rõ mâu thuẫn giữa giới lãnh đạo chóp bu của đảng CS và những đảng viên cấp dưới. Những đảng viên cấp trung và cấp thấp không có lý do gì để liều thân bảo vệ giới lãnh đạo chóp bu. Họ không bị đe dọa sự trừng phạt của luật pháp và nhân dân một khi chế độ sụp đổ, họ cũng không nhận được những quyền lợi to lớn, kếch xù để phải hy sinh vì nó.
Họ chỉ là những công cụ được giới lãnh đạo chóp bu sữ dụng để tiếp tục duy trì quyền lực và tài sản, họ chỉ là những viên đá lót đường, những viên gạch xây nên đài “vinh quang” và tội ác cho giới lãnh đạo chóp bu của Bộ chính trị và Trung ương đảng.
Mâu thuẫn này sẽ bùng nổ khi thế giới và khu vực có biến động lớn như chiến tranh Trung- Nhật chẳng hạn.
Ai dám đoan chắc là chiến tranh Trung- Nhật không xảy ra kéo theo sự tham chiến của Mỹ?
Thế giới và vạn vật luôn vận động và quá trình vận động này tạo ra mâu thuẫn giữa các thế lực, làm sự quân bình và trật tự vốn có không còn phù hợp nữa tiến tới một sự thay đổi để tạo lập một thế quân bình mới, một trật tự mới. Quy luật này đúng với cục diện  hiện nay tại khu vực Đông Á –Thái Bình Dương khi Trung cộng trỗi dậy như vũ bão phá vỡ trật tự hiện có và chiến tranh là để xác lập một trật tự mới.
Nhưng cái thiện luôn thắng cái ác, tham vọng thay đổi trật tự thế giới của Trung cộng sẽ đẩy Trung cộng vào hố thẳm và bị phân liệt từng mảnh.
Những người CS cấp trung và cấp thấp phải biết điều này để tự cứu mình trước khi quá trễ, đừng để mình bị hy sinh, bị lợi dụng như một quân cờ trong tay Bộ chính trị và Trung ương đảng CSVN. (HNT)

 
 

HỒ VĨNH THỦY * DIỆT CỘNG SẢN


Cuộc cách mạng
tiêu diệt Cộng Sản!


HỒ VĨNH THỦY

Thưa quí vị,
Cụ Huỳnh văn Lang, một nhân sĩ, một chính trị gia nặng tầm vóc vào năm 2009 có phát biểu :
.. Tuy nhiên, tôi còn hy vọng, dù mong manh đi nữa, sẽ có ngày quần chúng miền Nam nói chung và Nam kỳ lục tỉnh nói riệng sẽ đứng lên làm một cuộc Cách mạng nữa. Và lần nầy là một cuộc Cách mạng vô cùng thiết yếu cho sự sống còn của cả dân tộc VN, không riêng gì cho miền Nam hay Nam kỳ lục tỉnh. Đó là sứ mạng của lịch sử giao phó cho dân miền Nam, không riêng gì người trong nước hay ở hải ngoại.
Bà Dương Thu Hương, một người yêu nước, đã trả thẻ đảng, đang viết sách đấu tranh cho nhân quyền, tự do của Việt Nam, đã lột trần tội bán Nước, gian manh, trí xảo của đảng cọng sản Việt Nam, mới đây trong một cuộc phỏng vấn cũng đã nói : Tôi tin là sẽ có một cuộc cách mạng toàn diện, Dân Tộc tự cứu, để VN khỏi phải là Quãng Nam của Tàu hay rơi vào trường hợp đau thương của nước Tây Tạng.
Kính thưa quí vị, người Quốc Gia chân chính, ngày 30 tháng Tư muôn thuớ vẫn là ngày Quốc Hận của Dân Tộc Việt Nam. Đây là ngày dòng Sử Việt đã bẻ ngoặc một cách nghiệt ngã đưa cả một dân tộc vào cảnh đọa đày, tang thương chưa từng có. Đất nước bị phá sán mọi mặt và hiện tại đang chênh vênh bên bờ vực thẩm " vĩnh viễn Bắc thuộâc ". Xin gởi đến quí vị một bài viết trong tinh thần " Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách " :

* * *
Tiếng Gọi Hồn Thiêng !! ( 1 )
Miết mộng nghìn năm chưa thỏa giấc,
Hồn Nước tang thương có xót đau?!!

Từ núi cả đến vực sâu, rừng thẳm,
Tiếng Hồn Thiêng thúc dục dậy mà đi,
Đừng ngủ nữa, Quốc Gia giờ nghiêng ngữa !
Dãy Sơn Hà, lúc nhúc lũ man di.
* * *
Toàn dân ơi ! đứng lên làm cách mạng,
Diệt tham tàn, nắm quyền chủ Quê Hương,
Mang đất nước ra khỏi cảnh tang thương,
Đưa dân tộc thoát khỏi vòng sầu thảm,
Dù tặc đảng, có giặc ngoài hậu thuẫn,
Ta cùng nhau quyết lấy lại quê hương,
Thế Nhân Dân sẽ đẩy Nước xuôi đường,
Di chuyển lại, đúng theo dòng Sử cũ.
Dầu máu đổ, có đỏ lòng sông Cửu,
Hay xương chồng, có trắng ải Nam Quan,
Cuộc chiến này, phải đi đến vinh quang,
Cho nước Việt thoát khỏi vòng nô dịch,
Thế hệ trẻ còn có đường đi tới,
Dân không còn tức tưởi nỗi oan khiên.
Hỡi !! bạn trẻ, những hùng -thư nước Việt,
Máu Quang Trung, Thường Kiệt, chí Trưng Vương,
Mau đứng lên đốt bỏ lá cờ hồng,
Đã biểu tượng cho gông cùm nô lệ,
Đã hũy diệt bao nhân tài thế hệ,
Đẩy dân lành vào tủi nhục lao lung,
Đưa Quốc Gia đến ngõ tối bần cùng.
Chận Dân Tộc không lối đường tiến bước.
Hỡi !! già, trẻ, toàn dân mau cứu Nước,
Diệt Cộng đồ mang mầm móng Việt gian,
Cho nước nhà thấy lại ánh vinh quang,
Theo Thế Giới đến văn minh, thịnh vượng.
* * *
Toàn dân ơi !!, mau đứng lên cứu nước !!.
Thời đã đến, đừng ngại ngùng chùn bước.
Hỡi !!, bạn sinh viên, tiền đồ Dân Tộc !!,
PHONG TRÀO QUẦN CHÚNG đánh gục Cộng nô
Dẹp Hiến Pháp ma, xây dựng cơ đồ,
Hãy hãnh diện đứng lên làm lịch sử,
Nước Việt tự do, bước vào dân chủ
"Đảng cử dân bầu" đi chổ khác chơi!
Dứt bạo tàn cho Dân Tộc an cư,
Gìn Quốc Gia triệt tiêu vòng Cộng Sản.
Trao Con Cháu, vùng trời mai sáng lạng.
Hỡi, toàn dân !, hãy dũng mãnh tràn lên
Đấu tranh này phải chiến thắng liệt oanh,
Cách mạng mới vùng hào quang rực rỡ ,
Đưa nước Việt đến bình minh sáng tỏ.
Người ấm no trong Dân Chủ, Tự Do,
Bỏ đi ngày sầu thảm nặng âu lo,
Trong cùm kẹp, đoạ đày, phường " vong bản ".
* * *
Toàn Dân ơi !!, mau đứng lên cứu Nước,
Siết tay nhau, dậy sóng thần tới trước,
Xoá Cộng nô, cho Đất Nước huy hoàng,
Đi tiếp dòng lịch sử bốn ngàn năm,
Lòng kiêu hãnh là con dân nước Việt ./.

19 tháng tư / 2013
Hồ Vĩnh Thủy

VĂN QUANG * THƯỢNG BẤT CHÍNH

Văn Quang – 

Viết từ Sài Gòn: Thượng bất chính, hạ tắc loạn


Trong khi Quốc hội VN đang thảo luận sôi nổi về các vấn đề lớn và chuyện lấy phiếu tín nhiệm chưa diễn ra, người dân vẫn lặng lẽ chờ đợi xem cái gì sẽ xảy ra với những chuyện ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi thiết thân của mình như nhà đất của mình có thật sự là của mình không hay chỉ là của… nhà nước, chuyện hộ khẩu và nhập cư vào thành phố được giải quyết ra sao, chuyện tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do báo chí là những quyền căn bản của con người sẽ được quy định rõ ràng như thế nào…

Những buổi họp quan trọng của các ông bà đại biểu sẽ được truyền hình trực tiếp cho dân chứng kiến, chắc chắn sẽ có nhiều ông bà “nghị” phát biểu rất hăng, rất “hùng hồn” để chứng tỏ năng lực và tài “kinh bang tế thế” của mình. Tuy nhiên những ý kiến “hùng hồn” đó có được thực hiện hay không lại là việc khác, phải chờ đến cuối kỳ họp mới biết được. Người dân bây giờ khôn lắm, họ tin vào kết quả chứ không tin vào lời hứa dù cho có “hùng hồn” đến đâu cũng cần phải xem sự thực hiện thế nào.


Trong khi đó, hiện tượng xã hội có quá nhiều thứ để người dân hãi hùng, trước hết là chuyện thực phẩm nào cũng bị tẩm chất độc, điều đáng nói là những thứ hàng độc đó không chỉ là hàng của Trung Quốc mà là của chính bà con ta sản xuất ra, buôn bán tràn lan từ thành phố đến đồng quê. Đó chính là thứ bà con ta đầu độc lẫn nhau, mình tự hại mình.

Những chuyện đó xin để nói sau. Có một chuyện tưởng như là “chuyện tất nhiên”, người dân ai cũng biết, nhưng… may quá, mãi đến nay mới thấy một “cơ quan nghiên cứu” công bố rộng rãi cho nhân dân được biết! Thôi thì “có còn hơn không”, hãy tạm căn cứ vào những số liệu này để thấy được tình hình quan chức và doanh nghiệp (DN) bắt tay nhau “chặt chẽ” như thế nào.

Những mối “quan hệ đen”

Lần đầu tiên Ủy ban Kiểm tra Trung ương xây dựng đề tài nghiên cứu khoa học về mối quan hệ không bình thường của cán bộ, đảng viên có chức quyền với doanh nghiệp để trục lợi. Những cú bắt tay đó được gọi là “quan hệ đen”.

Theo thống kê, từ năm 1986 đến nay, nạn tham nhũng của quan chức tăng lên rất nhanh, trong đó có hơn 31,5% liên quan đến doanh nghiệp (DN). Chuyển sang kinh tế thị trường, hội nhập, tình trạng quan chức thông đồng với DN vụ lợi xuất hiện ngày càng nhiều, có dấu hiệu ngày càng trầm trọng hơn trong tất cả các lĩnh vực.

Các ông chủ DN tạo quan hệ 2 chiều trong việc quan chức dàn xếp để DN nhận được ưu đãi. Ngược lại, DN đóng góp vào sự phát triển của địa phương để làm nổi bật thành tích của quan chức hoặc là cung cấp cho bản thân quan chức các phương tiện để có thể leo cao hơn hoặc để lo lót, chạy chọt khi DN phạm sai lầm và cung phụng cho những người thân thiết của quan chức.

Kết quả khảo sát của Thanh tra nhà nước trong năm 2012 cho thấy:

Những con số đáng giật mình

- 24,7% cán bộ công chức được hỏi thừa nhận có hiện tượng quan chức nhận tiền hoặc quà biếu để giải quyết công việc có lợi cho người đưa tiền, quà.
- 20,3% thừa nhận có chuyện DN mời quan chức đi du lịch, vui chơi, ăn uống để vụ lợi.
- 13,6% thừa nhận có hiện tượng bao che, bảo lãnh cho người có hành vi sai phạm để vụ lợi.

Ngoài ra, theo kết quả khảo sát xã hội học do Thanh tra Chính phủ chủ trì trong năm 2012, có sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới, 50% DN được hỏi cho rằng nhóm các DN có quan hệ với quan chức có ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ đến hoạch định chính sách. Nói rõ hơn là DN bàn kế để quan chức có quyền lực ban hành những chính sách, những nghị định, lệnh lạc có lợi cho DN và nhóm cùng làm ăn với mình.

Cuộc khảo sát năm 2012 của Thanh tra Chính phủ cũng cho thấy khi được hỏi trong 12 tháng qua, DN có nhận được các dạng yêu cầu vụ lợi của cán bộ công chức hay không, 5% số DN thừa nhận là có nhận được đề nghị bán, cho thuê và chi tiêu cá nhân; 15% DN gặp tình trạng cán bộ công chức lợi dụng quyền lực để gợi ý DN tặng quà.

Đó là những con số đã được “kiểm chứng”, tất nhiên còn những con số chưa được kiểm chứng bằng các cuộc “nghiên cứu”, “hội thảo” nằm ở phía sau, con số chắc còn cao hơn nữa.

Bảo kê và buôn lậu

Bảo kê của những người có chức, có quyền cho DN buôn lậu cũng khá phát triển trong thời gian qua thể hiện không chỉ qua các vụ án đã xét xử (như vụ Tân Trường Sanh, vụ án hang Dơi, vụ án Nguyễn Thị Ngọc Liên ở Công ty Thiên Lợi Hòa...) mà còn chứng minh bằng thực tế hàng lậu được bày bán trong nước. Việc bảo kê có khi rất công nhiên (như trường hợp Nguyễn Ngọc Kiên, nguyên phó chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Lào Cai, ký 14 văn bản cho phép các DN nhập khẩu thuốc lá lậu vào Việt Nam), có khi rất tinh vi như che giấu dưới hình thức tạm nhập tái xuất. Theo cơ quan phòng chống buôn lậu, hằng năm, Việt Nam thất thu ngân sách Nhà nước hàng ngàn tỉ đồng do nạn buôn lậu. Đây là một thí dụ điển hình:


Xe biển xanh chở hàng ngàn gói thuốc lá lậu của VP tỉnh ủy Bến Tre
Mới trong tuần này, ngày 28-5 vừa qua, Công an TP. Cao Lãnh (tỉnh Đồng Tháp) đã tạm giữ hình sự tài xế lái chiếc xe biển xanh (số xe của nhà nước) chở thuốc lá lậu.

Công an TP. Cao Lãnh phối hợp cùng lực lượng CSGT trên QL30, đoạn đi qua xã Mỹ Tân, (TP. Cao Lãnh) đã kiểm soát chiếc xe hơi mang bảng số: 71A – 000.13 do tài xế Trần Trúc Lâm (SN 1983, ở tại xã Sơn Phú, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre) lái xe.

Trên xe, CA đã phát hiện chở hơn 6.000 gói thuốc lá ngoại nhập lậu. Ngay trong đêm, cảnh sát đã lập biên bản tạm giữ toàn bộ số tang vật nói trên. Tài xế Lâm đã thừa nhận vận chuyển thuê số thuốc lá lậu này từ Thị xã Hồng Ngự về tỉnh Bến Tre tiêu thụ.

Sáng 28-5 vừa qua, xác nhận với PV báo chí, cán bộ Văn phòng Tỉnh ủy Bến Tre cho biết, chiếc xe biển xanh 71A – 000.13 bị Công an Đồng Tháp bắt giữ khi chở thuốc lá lậu có nguồn gốc từ cơ quan này. Tất nhiên anh tài xế chỉ là người lái thuê hoặc thừa lệnh một quan chức nào đó trong VP tỉnh ủy. Cho đến giờ này chúng ta chưa biết vị quan chức nào sử dụng chiếc xe này hoặc có quyền ra lệnh cho chiếc xe này “đi công vụ”.

Có lẽ nhiều bạn nghĩ rằng quan chức nào chơi bạo như thế. Thật ra chuyện này không phải là chuyện lạ, nó có thể xảy ra ở nhiều nơi nên nó trở thành “chuyện bình thường”.

Nhưng lại cũng có thể anh tài xế hoặc một anh cấp lằng nhằng nào đó sẽ trở thành “kẻ hy sinh” cho “chính chủ”. Đó cũng là “kịch bản” vẫn thường xảy ra. Cho nên chúng ta thường chỉ thấy mấy anh “vớ vẩn” phạm trọng tội chứ ít khi thấy quan lớn phạm tội.

Một thí dụ khác ngày 30-5 vừa có thông tin: Trần Thị To ở Tiền Giang lừa đảo 11 tỷ đồng của 13 người cùng tỉnh. Các nạn nhân đã trình báo: “Trong hầu hết các vụ lừa đảo của Trần Thị To bao giờ cũng có sự xuất hiện của một vị cán bộ lãnh đạo cao cấp tỉnh Tiền Giang. Vì tin tưởng vào uy tín của người này, nhiều người dân đã giao tiền và tài sản của mình cho To vay mượn để rồi lâm vào cảnh “tiền mất tật mang”. Chưa biết rõ danh tính vị “lãnh đạo” này. Chỉ cần quan to có mặt đã đủ cho bà chủ DN lừa được rồi. Thế mới biết quen quan to có lợi như thế nào.

Trên đây là vài hình ảnh điển hình cho những vụ quan buôn lậu lẻ tẻ, chưa nói tới những vụ hợp tác làm ăn quy mô lớn với các tay tổ DN kết thành những “nhóm lợi ích” ăn chia còn đậm hơn.

Ba nhóm lợi ích phá hoại kinh tế 

Ông Nguyễn Thế Bình, Vụ trưởng Ban Nội chính Trung ương, cho rằng tác hại của “mối quan hệ không bình thường” là vô cùng lớn, nó không chỉ làm chậm phát triển kinh tế, làm giảm sút lòng tin mà còn là cội nguồn, là cái gốc của tham nhũng. Ông Bình cũng chỉ ra 3 nhóm “quan hệ không bình thường” mà ông cho rằng rất nguy hiểm.

- Thứ nhất là nhóm chung lợi ích. Nhóm này thực chất họ đã bắt tay với DN để biến lợi ích của Nhà nước, nhân dân thành lợi ích của nhóm. Nhóm này gây ra tác hại vô cùng lớn, sẵn sàng bỏ đi hàng chục ngàn tỉ đồng để mua tàu cũ nát như trong vụ án Vinashin, Vinalines...

- Nhóm thứ 2 là nhóm nhũng nhiễu, gây khó cho DN để trục lợi, buộc DN phải bôi trơn, đưa hối lộ như vụ án Huỳnh Ngọc Sĩ trong dự án đại lộ Đông Tây.

- Nhóm thứ 3 là nhóm đe dọa trắng trợn, có tính chất cưỡng đoạt tài sản của DN. Tài sản tuy không lớn bằng 2 nhóm trên nhưng nó gây phẫn uất của DN và xã hội.

Những chuyện này không xa lạ với người dân Việt và cả với bạn đọc ở nước ngoài. Nó chỉ “mới” khi một “Ủy Ban ” bây giờ mới “nghiên cứu” và công bố những con số cụ thể, người dân chẳng có cách nào thống kê được tuy rằng họ biết từ lâu và biết rất rõ. Biết mà chẳng làm gì được, những cảnh ấy vẫn ngang nhiên tái diễn.

Thế nên “thượng bất chính, hạ tắc loạn” là chuyện tất nhiên. Quan tham buôn lậu, kết bè kết nhóm thì dân buôn bán cũng “học tập” theo đó mà lộng hành.

Chúng ta đang giết lẫn nhau

Trong phần này, tôi chưa nói đến những mưu kế cùng sản phẩm độc hại của Trung Quốc ồ ạt tung vào thị trường VN trong thời gian vừa qua, không từ một thủ đoạn nào họ không dám làm. Đó chính là một cuộc xâm lăng, từ việc dùng tàu sắt đâm thẳng vào tàu đánh cá của ngư dân đến việc xuất sang VN những thứ đồ chơi của trẻ em nhiễm độc gây ung thư… Phải một bài dài mới phân tích hết được thủ đoạn ngày càng tàn độc của “người bạn láng giềng bốn không tốt, 16 chữ đen xì” này, chúng ta sẽ bàn đến vào một bài khác.

Ở đây tôi chỉ nói đến những thủ đoạn của chính đồng bào chúng ta hạ độc người dân VN mình.

Các cụ ta đã dạy “thượng bất chính hạ tắc loạn”, nôm na là người trên không liêm chính thì người dưới tất phải loạn. Loạn ở đây có nghĩa là loạn về đạo đức, về nhân cách. Cho nên những con buôn bất lương ở VN ngày càng nhiều cũng vì thế. Tôi không dám nói tất cả con buôn đều như vậy, nhưng sự thật là ngày càng nhiều người buôn bán có muốn lương thiện cũng không được, bởi lương thiện lấy tiền đâu “bôi trơn”, lấy gì “cống nộp” cho các quan hàng tháng chỉ để kiếm một chỗ ngồi, chỉ mong được yên thân, chưa nói đến chuyện được buôn gian bán lận. Vả lại nhà anh hàng xóm bỗng chốc xây lên bốn năm tầng, con đi xe hơi, du học Mỹ, Úc, Canada. thế mà nhà mình cứ cái xe gắn máy cà tàng đi miết, không đủ tiền đóng học phí cho con. Và hàng trăm thứ xa hoa khác xung quanh quyến rũ mời gọi. Tất cả những thứ đó bào mòn sự lương thiện của con người. Một người buôn gian bán lận rồi mười người, hai mươi người không hoặc chưa bị trừng phạt, nên cấp số cứ nhân lên thành một xã hội loạn. Người ta thản nhiên dùng mọi cách để kiếm tiền, không từ một thủ đoạn gian manh nào không làm, dù làm để hại ngay bà con anh em mình. Một phần cũng do anh bạn láng giềng làm cho hư thân mất nết, chỉ cho chúng ta cách giết lẫn nhau mộc cách “ngọt ngào”.

Ăn gì cũng có thể chết

Những ngày gần đây, người dân Sài Gòn trở nên hoảng sợ với những tin tức hàng ngày về đồ ăn thức uống, cái gì cũng có độc. Người ta tưởng như ăn cái gì cũng có thể lăn đùng ra, không chết cũng ngắc ngư giống như hàng trăm công nhân ngộ độc nằm lăn lóc trong bệnh viện. Chính tôi và gia đình tôi và nhà hàng xóm cũng phát hoảng khi đọc hàng tin trên hầu hết các báo VN với cái tiêu đề “Người Hà Nội: Sáng phở thịt thối, trưa bún chả hóa chất”.

Như thế người Sài Gòn và các tỉnh thành cũng “được thừa hưởng” phở và bún chả chẳng khác gì dân Hà Nội. Mời bạn xem qua cách chế biến món ăn của thời đại ngày nay:

- Nước phở chế biến từ thịt ôi thiu

Khi ăn những bát phở thởm ngon, ít người biết rằng nhiều quán phở, quán bún tại Hà Nội chỉ cần bỏ ra 50.000 là có vài chục lít nước phở chế sẵn từ nước luộc và ép các loại thịt ôi thiu làm ruốc.

Nước phở loại này được lấy từ nước luộc các loại thịt ôi, thối được chế làm ruốc. Các loại thịt ôi, thối được đưa vào luôc, rồi ép để lấy bã làm ruốc, các loại nước ép luộc thịt, nước ép thịt, thậm chí là loại nước rửa chảo xào thịt được tận dụng đế bán làm nước phở.

Cuối mỗi ngày, các loại thịt nhập về chế biến, hầu hết là các loại thịt ế, ôi thiu tại các chợ lớn nhỏ tại Hà Nội, rồi thịt lợn xề, lợn bột, lợn ốm, lợn chết được mang về, luộc lên là có các loại thịt trắng muốt, làm ruốc trông rất bắt mắt. Loại nước luộc chỉ cần để lắng, gạn ra là có thể bán cho các cửa hàng phở ngon lành.

Thậm chí, những hôm khách đông tiệm bán phở còn không có hàng để bán, họ phải pha với đường hóa học, thêm gia vị để tạo mùi vị.

- Bún chả vàng thơm nhờ tẩm hóa chất

Tại khu vực quầy hương liệu trong chợ Đồng Xuân, Hà Nội có thể dễ dàng để mua được loại hương liệu mà các hàng bún chả thường dùng để để tạo mùi, tạo màu cho món chả nướng giúp chả có màu đẹp và thơm ngon, cuốn hút. (Ở Sài Gòn và tỉnh lân cận có thể tìm mua các loại hóa chất này ở chợ Kim Biên)

Để làm món nướng như vịt nướng, thịt nướng các hàng quán không thể thiếu 2 loại phụ gia đó là một lọ hỗn hợp như dạng sa tế và một gọi bột màu trắng. Những lọ phụ gia như thế chi chít chữ Trung Quốc, không có lấy một dòng phụ đề nào bằng tiếng Anh hay tiếng Việt, chất bột trắng được đựng trong túi nilon, không nhãn mác. Mỗi lọ có thể dùng cho 30kg thịt. Chỉ cần ướp qua thịt trước khi nướng là chả có màu vàng ngon, thay vì màu trắng nhờ nhờ. Hầu hết các quán bún chả đều phải dùng đến loại này vì thịt họ dùng để làm chả toàn là thịt ế, thịt ôi từ hôm trước hoặc thịt lợn bệnh và chất này sẽ loại bỏ hết mùi ôi, thiu của thịt”.

Chưa hết, còn vô số nhửng tin tức “lặt vặt” cũng kinh hoàng không kém như:
Nem chua Thanh Hóa làm từ bì heo bẩn; biến thịt thối thành thịt tươi; heo bệnh thành thịt quay;
thịt thối thành lạp xưởng; trứng bẩn trứng thối tràn ngập các chợ.
Ngay cả những loại trái cây hàng ngày người dân thường dùng cũng bị tẩm độc.

Đu đủ tẩm hóa chất Trung Quốc chín nhanh rất đẹp

Đu đủ sau khi hái xuống, được nhỏ một chút dung dịch của Trung Quốc vào phần cuống, chỉ sau 1 ngày quả chín vàng, ruột đỏ rất bắt mắt đánh lừa hầu hết mọi gia đình bình dân VN.

Loại thuốc có khả năng “phù phép” này có giá bán 5.000 đồng/1 lọ 5ml. Trên bao bì ghi hạn dùng 2 năm, nhưng không ghi ngày sản xuất và chỉ có vài dòng chữ tiếng Trung Quốc. Tìm mua loại hóa chất này rất khó, chỉ những chủ buôn hoa quả lớn hoặc dựa vào mối quen mới mua được. Loại hóa chất Trung Quốc này ban đầu các chủ buôn dùng cho chuối, nhưng giờ được sử dụng cho cả đu đủ.

Những chủ buôn sau khi thu mua đu đủ về sẽ dùng hóa chất nhỏ trực tiếp lên phần cuống của quả, việc nhỏ phải hết sức tỉ mỉ, nếu không đúng phần cuống thì quả sẽ héo quắt hoặc thối nhũn. Đu đủ sẽ chín 1 ngày sau khi dùng hóa chất nên sau khi được nhỏ thuốc, đu đủ được bọc báo và đặt vào trong thùng xốp dán kín băng dính rồi chở đi tiêu thụ. Chuối cũng được “chế biến” tương tự nên trái nào cũng chín mọng, vàng ươm.

- Dừa tẩy trắng độc hại

Hóa chất tẩy trắng dừa có thể là một loại axít gốc phốt pho và lưu huỳnh, chỉ được dùng với liều lượng phù hợp. Nếu sử dụng vô tội vạ sẽ rất nguy hiểm cho người tiêu dùng.

Chị Tiên, chủ một vựa dừa, cho biết chỉ cần ra chợ Kim Biên, ghé vào bất cứ tiệm hóa chất nào hỏi mua chất tẩy trắng dừa sẽ được giới thiệu 2 loại bột màu trắng, không bao bì, nhãn mác với giá bán khoảng 125.000 đồng/kg. Mỗi thùng nước khoảng 20 lít pha trộn với 6 muỗng bột (3 muỗng loại này, 3 muỗng loại kia) rồi ngâm dừa vào, chờ nước thấm hết vào là xong.

Một bác sĩ chuyên về an toàn vệ sinh thực phẩm cho biết hóa chất tẩy trắng dừa có thể là một loại axít gốc phốt pho cộng với lưu huỳnh, chỉ được dùng với liều lượng phù hợp, có kiểm soát. “Sử dụng chất tẩy trắng vô tội vạ rất nguy hiểm cho người tiêu dùng. Chỉ cần thường xuyên chạm tay vào lớp vỏ bên ngoài cũng đã có hại rồi, nói gì đến việc hóa chất đó thấm vào ruột và nước dừa. Dùng hóa chất này rất dễ dẫn đến các bệnh liên quan đường tiêu hóa, hô hấp, nếu tích trữ trong người nhiều và lâu dài sẽ gây ra các bệnh lý khó lường.

Rượu pha bằng... thuốc sâu và phân lân bán khắp Hà Nội

Tại hầu hết các quán cơm bình dân, quán nhậu trên địa bàn các quận Long Biên, Cầu Giấy, Thanh Trì, Hoàng Mai, Từ Liêm (Hà Nội)… rượu độc sau khi được đưa về sẽ được giới thiệu là “rượu quê cực êm, cực phê”, bày bán tràn lan giá 20 - 30 ngàn đồng/lít.

Khi tìm hiểu từ một số nhân viên chuyên chở rượu, chất mà người phụ nữ trên dùng để pha với rượu là… thuốc sâu và phân lân. Vậy là rượu cồn đã độc, lại càng “phê” thêm vì thuốc trừ sâu và phân bón. Theo một nhân viên, mỗi ngày quán này tiêu thụ hết khoảng bốn thùng phuy rượu độc.

Do uống phải rượu độc, không ít “đệ tử Lưu Linh” đã hôn mê bất tỉnh nhập viện, thậm chí phải vào bệnh viện tâm thần điều trị. Theo thống kê từ bệnh viện tâm thần Hà Nội, mỗi tháng có ít nhất 40 người loạn thần nhập viện. Người điều trị nhanh nhất cũng mất 2 tháng, nhiều người phải nằm viện điều trị cả năm. Nguyên nhân lớn do các bệnh nhân uống quá nhiều rượu có độc.


Chơi cũng chết

Đồ chơi Trung Quốc đang tràn ngập thị trường VN bởi mẫu mã đa dạng, màu sắc rực rỡ và trên hết là giá rẻ. Những loại đồ chơi bằng nhựa dành cho trẻ nhỏ , khi sản xuất thường không thể thiếu phthalates - chất được dùng làm phụ gia tăng độ dẻo cho nhựa. Theo Tiến sĩ Nguyễn Duy Thịnh - Viện Công nghệ sinh học và thực phẩm, Đại học Bách khoa Hà Nội - nếu chất phthalates theo đường tiêu hóa vào cơ thể sẽ làm rối loạn hoạt động của các tuyến nội tiết như: Bé gái bị dậy thì sớm, còn nam thì cơ quan sinh dục bị teo lại... Đặc biệt, nếu trẻ ngậm đồ nhựa trong miệng, phthalatses nhanh chóng hòa tan trong nước bọt và chất này sẽ trực tiếp đi vào cơ thể.

Ngoài ra, theo một số kết quả giám định gần đây của Viện Khoa học vật liệu ứng dụng và Viện Công nghệ hóa học kiểm tra, hầu hết đồ chơi bằng nhựa của Trung Quốc như: Súng gươm, lựu đạn, kể cả lồng đèn... đều sản xuất bằng các loại nhựa tái chế, trong đó có chứa chất cadimi (Cd) cao gấp nhiều lần mức cho phép. Đây là một trong ba kim loại độc hại đối với cơ thể con người, có thể gây ung thư tuyến tiền liệt, ung thư phổi, dị tật thai nhi...


Không liều thì… sang Tây mà sống

Thưa bạn đọc, tôi không kể hết những đồ ăn thức uống có pha “hóa chất độc hại” hiện nay đang có mặt ở hầu hết các tiệm ăn, quán nước khắp các tỉnh thành cho đến quận huyện tại VN. Toàn là những thứ bà con mình hại nhau. Kể nhiều quá e rằng có nhiều vị về VN phải mang sẵn các thứ đồ hộp từ nước ngoài về. Chắc có vị thắc mắc tại sao dân VN vẫn ăn mà không chết? Xin thưa là chết nhiều rồi nhưng chết vì các loại bệnh lâu ngày tích tụ lại nên không thể kết luận là tại đồ ăn. Chất độc âm thầm tàn phá cơ thể sinh ra đủ loại bệnh. Vì thế, bệnh viện ở VN lúc nào cũng đầy ắp, phải nằm 3-4 người 1 giường và nằm cả dưới gầm giường là chuyện tất nhiên.

Vả lại là dân VN sống ở thời này là phải liều mới sống được. Không liều thì… sang Tây mà sống!



Văn Quang – 31-5-2013


MUA BÁN VISA ĐI MỸ


Michael Sestak- nguyên Trưởng Văn phòng cấp visa không di trú

 

Nhân viên lãnh sự Mỹ ở TP.HCM bị bắt vì "bán" thị thực

Nhân viên lãnh sự ở TP.HCM bị bắt vì nhận hối lộ
Website hướng dẫn xin cấp thị thực của tòa tổng lãnh sự Mỹ ở TP.HCM - Ảnh: Chụp màn hình

(TNO) Một nhân viên Bộ Ngoại giao Mỹ đã “nhận hàng triệu USD hối lộ” từ người Việt Nam muốn xin cấp thị thực, theo hồ sơ tòa án mới được công bố.

Trong cáo trạng hình sự, cựu nhân viên ngoại giao Michael T. Sestak đối mặt với các cáo buộc về tội gian lận thị thực và nhận hối lộ trong một âm mưu diễn ra ở nhiều nước.
Trong một số vụ, các nhà điều tra cho biết có người Việt Nam đã trả đến 70.000 USD để được cấp thị thực hợp lệ vào nước Mỹ, theo tờ News Observer hôm 23.5.
Những người đồng mưu đã quảng cáo cần phải nộp từ 50.000 USD đến 70.000 USD để lấy thị thực song có lúc họ lấy ít hơn, theo điều tra viên Bộ Ngoại giao Mỹ Simon Dinits trong bản khai.
“Họ cũng khuyến khích những người dắt mối tăng giá tiền và giữ lại tiền dôi ra như là hoa hồng”, bản khai viết.




                                     Trụ sở Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại TP Hồ Chí Minh

Các nhà điều tra nói âm mưu bắt đầu từ khi Sestak được giao phụ trách xử lý thị thực không di dân tại Tòa Tổng lãnh sự Mỹ ở TP.HCM.
Sestak làm việc tại tòa tổng lãnh sự Mỹ ở TP.HCM đến tháng 9 năm ngoái, khi ông ta rời đi để chuẩn bị phục vụ trong hải quân. Vào lúc đó, một nguồn tin đã báo cho các nhà điều tra về âm mưu bán thị thực.
Luật sư của ông Seatak không bình luận về vụ án này hôm 23.5, theo tờ News Observer.
Ông Sestak, 42 tuổi, bị bắt một cách lặng lẽ tại Nam California cách đây khoảng một tuần. Lấy lý do bị can có nguy cơ bỏ trốn, nhà chức trách đã xin tòa án cấp lệnh giam giữ Sestak mà không cho tại ngoại cho đến khi chuyển ông ta đến Washington để truy tố.
Dù hồ sơ đã được công khai, người phát ngôn của Văn phòng Chưởng lý Mỹ ở Washington đã từ chối bình luận về vụ án cho đến khi Sestak được chuyển đến đây.
Ông Dinits, đặc vụ thuộc Cục An ninh Ngoại giao của Bộ Ngoại giao Mỹ, tường trình các cáo buộc chống lại Sestak và 5 kẻ đồng mưu giấu tên trong một bản khai 28 trang gửi kèm cáo trạng.
Cáo trạng mô tả chi tiết cách Sestak chuyển số tiền bất chính qua biên giới.
“Ông ta rốt cuộc đã chuyển số tiền ra khỏi Việt Nam bằng cách sử dụng những kẻ rửa tiền trong các ngân hàng nước ngoài, chủ yếu ở Trung Quốc, đến một tài khoản ngân hàng ở Thái Lan mà ông ta mở hồi tháng 5.2012. Sau đó, ông ta sử dụng số tiền để mua bất động sản ở Phuket và Bangkok, Thái Lan”, ông Dinits viết.
Sestak bắt đầu làm việc tại Tòa Tổng lãnh sự Mỹ ở TP.HCM vào tháng 8.2010 và đứng đầu văn phòng cấp thị thực không di dân. Đây là một văn phòng nhộn nhịp và Sestak tỏ ra dễ dãi khác thường trong việc cấp thị thực, theo ông Dinits.
Từ ngày 1.5.2012 đến ngày 6.9.2012, tòa lãnh sự nhận 31.386 hồ sơ xin cấp thị thực và từ chối 35,1% trong số đó. Trong cùng thời gian, Sestak xử lý 5.489 hồ sơ và chỉ từ chối 8,2% số đó, theo các nhà điều tra.
Tỷ lệ từ chối thị thực của Seatak giảm xuống còn 3,8% trong tháng 8, không lâu trước khi ông rời khỏi tòa lãnh sự.
Theo ông Dinits, một trong những kẻ đồng mưu với Sestak là “tổng giám đốc văn phòng tại Việt Nam của một công ty đa quốc gia”. Bốn người còn lại là bạn bè hoặc bà con của người này. Tất cả đều sống ở Việt Nam.
Ông Dinits nói một kẻ đồng mưu đã tiếp cận những người ở Việt Nam và ở Mỹ, quảng cáo rằng mình có thể bảo đảm xin cấp thị thực Mỹ, kể cả những người có ít cơ hội. Những người khác giúp chuẩn bị hồ sơ và Sestak sẽ xem xét hồ sơ đó, theo ông Dinits.
Vào tháng 7 năm ngoái, một nguồn tin đã báo với các quan chức tòa lãnh sự Mỹ rằng có từ 50 đến 70 người từ một ngôi làng ở Việt Nam đã trả tiền mua thị thực. Tin tức này giúp các nhà điều tra lần ra dấu vết việc các hồ sơ xin cấp thị thực trên mạng thông qua địa chỉ IP.
Người phát ngôn tòa đại sứ Mỹ tại Việt Nam Christopher W. Hodges không phát biểu cụ thể về trường hợp của ông Sestak vào hôm nay, 25.5, và chuyển câu hỏi đến Bộ Tư pháp Mỹ khi được Thanh Niên Online liên hệ.
Tuy nhiên, ông Hodges nói với Thanh Niên Online rằng “việc bảo vệ tính toàn vẹn của thị thực Mỹ là ưu tiên hàng đầu của chính phủ Mỹ” và “chúng tôi sẽ không dung thứ cho hành động phi pháp”.
“Chúng tôi sẽ hợp tác chặt chẽ với các đối tác thực thi luật để điều tra tường tận mọi cáo giác gian lận. Khi chứng minh được (các cáo giác), chúng tôi sẽ theo đuổi việc truy tố và trừng phạt đến cùng những người liên quan theo đúng luật”, ông Hodges nói.
 
Former APD cop charged in Vietnam visa scandal

Hundreds of visas sold for millions paid in bribes
By Brendan J. Lyon, Times Unionhttp://analytics.apnewsregistry.com/analytics/v2/image.svc/albanytimes/RWS/timesunion.com/CVI/9/CAI/4567556/E/prod/AT/A

Updated 8:54 am, Saturday, June 1, 2013

Michael T. Sestak, a Navy intelligence officer and former Albany police officer, is charged in a multi-million dollar bribery scheme related to his work at a U.S. consulate in Vietnam. ()




A former Albany police officer, who is also a Navy intelligence officer, has been charged in a multimillion-dollar bribery case in which he allegedly sold tourist visas to Vietnamese citizens while working as a foreign service officer at a U.S. Consulate in Ho Chi Minh City, the former Saigon.
The charges against Michael T. Sestak, 41, who joined the Albany police force in August 1992, are outlined in a federal complaint filed in U.S. District Court in Washington, D.C. Sestak was arrested May 13 in California.
The federal complaint accuses Sestak of conspiring with at least five people, including the director of a multinational company in Vietnam, to sell tourist visas to possibly hundreds of Vietnamese citizens who paid as much as $50,000 to $70,000 each to enter the United States. One of the alleged conspirators, Hong Vo, is the sister of the unidentified man who runs the multinational company in Ho Chi Minh City. Vo is a 27-year-old U.S. citizen who was born and raised in Colorado and is a 2008 graduate of the University of Denver, according to court records.
Vo was arrested May 8 in Denver and is being held in federal custody without bond. Her attorney, Sandi Rhee, filed a motion Friday in Washington, D.C., requesting a hearing to have her client released. The government has opposed Vo's release, claiming she is a flight risk.
The conspirators recruited customers through advertisements and a small network of U.S. and Vietnamese residents, targeting people who "generally would not be able to get visas on their own, such as people who had been previously refused visas, people who resided in the countryside, (and) people who had not traveled outside of Vietnam," according to the criminal complaints.
In an email exchange last July, Vo and an acquaintance discussed recruiting customers willing to pay "about $50,000" to get the United States. "It's only for a tourist Visa (not citizenship) but once you go ... you can disappear (get married) or return back to Vietnam and get the green light to go whenever you apply for another Visa to go to the States," she wrote, according to the complaint.
U.S. Department of State investigators allege Sestak became an acquaintance of Vo's family members in Vietnam at a time when he was personally responsible for approving U.S. travel visas. Sestak's rate of approving the highly coveted documents increased significantly a year ago, around the time the bribery conspiracy began, according to the federal complaint.
"Sestak received several million dollars in bribes for approving the visas," according to the federal complaint that charges him with conspiracy to commit visa fraud and bribery. "He ultimately moved the money out of Vietnam by using money launderers through off-shore banks, primarily based in China, to move funds to a bank account in Thailand that he opened in May 2012."
Sestak left the Albany police force in 1999 to become a U.S. marshal, according to police officers who know him. He joined the Navy in 2001, rising to the rank of lieutenant commander and serving as an intelligence officer during tours that included assignments in the Pacific, Europe and Washington, D.C., according to military records.
Court records indicate Sestak was employed at the consulate in Vietnam from August 2010 until September 2012, when he left Vietnam for a Navy active-duty tour. He was arrested two weeks ago in California, where he was on a Navy detail. A federal magistrate determined Sestak is a flight risk and ordered him held without bond pending an appearance in U.S. District Court in Washington, D.C.
Federal agents with the Department of State's Diplomatic Security Service said their criminal investigation began in July 2012. That's when the U.S. Consulate where Sestak worked received a letter from a confidential source claiming that more than 50 people in a Vietnam village had paid around $55,000 each to obtain "guaranteed" tourist visas to the United States. The letter included names, dates of birth and photographs of seven people who purchased the visas, including five whose applications were approved by Sestak.
Four of the five conspirators in the scheme live in Vietnam. They include the Vietnamese businessman and his wife, Vo, Vo's "significant other," and a cousin of the unidentified businessman. The group allegedly submitted visa applications, arranged appointments at the consulate for the applicant and helped them prepare for visa interviews by providing sample questions and answers.
"Soon after submitting the visa application — in typically 3 days or less — the customer would receive an appointment at the consulate, be interviewed by Sestak, and be approved for a visa," states an affidavit by Simon Dinits, a DSS special agent.
Many of the electronically approved visas were traced to a computer and scanner used by Sestak at his consulate office.
The investigators also used search warrants to review emails attributed to Sestak and his alleged conspirators, who in some cases communicated through a "virtual private network" managed by Black Oak Computers Inc., a California computer service company. A VPN is an encryption system that provides Internet browsers with anonymity, including access to websites that may have been blocked in Vietnam.
A series of emails between the alleged conspirators include conversations describing how they came in contact with Sestak last June.
In an email attributed to Vo, she described Sestak as "this single guy who wants to find someone to be with."
"This guy who works for the U.S. Consulate here came out and joined us for dinner," Vo wrote, according to the complaint. "He's the guy that approves visas for Vietnamese people to go to the United States so he's a really good connection to have. ... He just like to people watch — he does this with the consulate guy (Mike) and they check out girls."
Federal investigators say that in order to receive his bribery money Sestak opened an account at a commercial bank in Bangkok, Thailand, in May 2012. His account, they said, received 35 wire transfers totaling $3.23 million from an account at the Bank of China in Beijing. The Beijing account was linked to a real estate company tied to the conspirators. The money received by Sestak was far beyond the approximately $7,500 that he earned monthly, after taxes, from his jobs as a foreign service officer and member of Navy Reserve, authorities said.
Sestak, who emails indicate was worried about foreign tax liability, drained the $3.23 million from his Thailand bank account by January and used it to purchase at least nine properties, with furnishings, in Thailand.
According to the criminal complaint, Sestak did not disclose his Thailand bank account on a U.S. intelligence financial disclosure form that he filled out last September in preparation for a military assignment. In addition, he allegedly lied to federal investigators during an interview on Oct. 19 when they asked him if he was "aware of any Americans that came into a lot of money when you were there, kind of unexpectedly, not in line with their regular salary?"
"I can't think of anybody that had anything," Sestak answered.
Sestak grew up in Voorheesville and still has parents there, records show.
The complaint also alleges that Sestak arranged for $150,000 to be wired last August to his 40-year-old sister in Yulee, Fla. The money was wired from a Beijing account to a bank in Texas by the wife of the Vietnamese businessman implicated in the conspiracy. The funds were then transferred from Texas to a bank account controlled by Sestak's sister, Jennifer, according to the federal complaint.
"At this point I have no comment," Jennifer Sestak said Friday. She is not accused of wrongdoing in the federal complaint.






NHÂN VIÊN LÃNH SỰ MỸ Ở SÀI GÒN ĂN HỐI LỘ CẢ TRIỆU USD VỪA BỊ BẮT ?

Lời bàn của Hai xe Ôm: Ông này bị lây nhiễm bệnh ăn tiền của đám quan chức Việt Nam ?

(McClatchy) – Một nhân viên ngoại giao Mỹ từng làm việc ở Tòa Tổng Lãnh Sự ở Sài Gòn vừa bị truy tố tội ăn hối lộ cả triệu đô la từ người dân Việt Nam muốn có visa vào Mỹ.
Theo hồ sơ vừa được công bố, ông Michael Sestak, 42 tuổi, đã đứng đầu một đường dây gian lận visa và ăn hối lộ từ $50 ngàn đến $70 ngàn cho những ai muốn có visa vào Mỹ hợp pháp.
Ông Sestak bị bắt một cách êm thắm ở vùng Nam California hồi tuần qua. Lấy lý do là nghi can có thể bỏ trốn, giới hữu trách xin tòa cho giữ ông ta mà không để đóng tiền thế chân cho đến khi đưa về Washington và chính thức truy tố nhưng hồ sơ giữ kín.

Ông Sestak từng làm việc ở tòa tổng lãnh sự Mỹ ở Sài Gòn từ Tháng Tám năm 2010 và đứng đầu phòng cấp visa không di trú. Đến tháng 9 năm 2012, ông rời khỏi chức vụ để chuẩn bị tái ngũ trong Hải Quân Mỹ.
Trong vụ truy tố không được công bố trước đây, nhân viên Ngoại Giao Michael T. Sestak bị truy tố các tội toa rập gian lận visa và hối lộ, trong vụ án mà theo các nhân viên điều tra đã diễn ra ở vài quốc gia.
Trong một số trường hợp, người ta đã phải trả tới $70,000 để có visa vào Mỹ hợp pháp.
Những người đồng lõa với nghi can Sestak khi đi kiếm mối đã quảng cáo chi phí từ $50,000 đến $70,000 nhưng cũng có khi lấy rẻ hơn, theo điều tra viên Simon Dinits của Bộ Ngoại Giao Mỹ.
“Họ cũng khuyến khích người môi giới hãy tăng giá và giữ phần tiền trên giá ấn định này lại cho riêng mình,” theo hồ sơ điều tra.
Điều tra viên Denits cho hay đường dây bán visa này gồm ông Sestak và năm đồng lõa khác. Ông Sestak chuyển tiền ra khỏi Việt Nam bằng những ngân hàng ngoại quốc, phần lớn ở Trung Quốc, về một trương mục ở Thái Lan mà ông đã mở ra hồi Tháng Năm 2012.
Bản tường trình của ông Dinits nói rằng ông Sestak sau đó dùng tiền này để đầu tư vào địa ốc ở Phuket và Bangkok, Thái Lan.
Sestak đến làm việc ở tòa lãnh sự Sài Gòn hồi Tháng Tám năm 2010 và đứng đầu phòng cấp visa không di trú (non-immigrant visa).
Hồ sơ lưu trữ cho thấy từ Tháng Năm 2012 đến Tháng Chín 2012, tòa lãnh sự ở Sài Gòn nhận được 31,386 đơn loại này và bác khoảng 35.1%. Trong khi đó, cá nhân ông Sestak xem xét 5,489 hồ sơ và bác bỏ khoảng 8.2%. Con số này còn tụt xuống tới mức 3.8% vào Tháng Tám, ngay trước khi ông Sestak rời khỏi nơi đây.
Theo ông Dinits, một trong những đồng lõa với ông Sestak là một tổng giám đốc văn phòng Việt Nam của một công ty đa quốc gia, bốn người kia là họ hàng hay bè bạn của người này.
Ông Dinits nói rằng hồi Tháng Bảy năm ngoái có người báo cho tòa lãnh sự biết rằng chỉ trong một làng ở Việt Nam đã có tới 50 đến 70 người trả tiền để có visa vào Mỹ.
(Người Việt)


No comments: