Sunday, April 21, 2013
VIÊN LINH * 30-4-1975 CHU TỬ
Kỷ Niệm 30 tháng 4, Nhớ Chuyện 75 Di Tản Buồn
Xin mời quý bạn đọc về nhà văn Chu Tử...
Nhà văn Chu Tử ra đi năm 1975 vào những giờ cuối của VNCH, và những
ngày Tháng Tư nghiệt ngã ấy, tàu tôi đi bị mắc cạn tại đoạn gần ngã ba
sông Nhà Bè, mà một hướng nước chảy về Cát Lái, một ngã nước xuôi dòng
ra sông Lòng Tảo, nhưng rồi được tàu bạn cứu bồ kéo ra để đi tiếp, mặc
dù súng của địch quân bắn xa xa nghe vọng trên đường chúng tiến quân
đánh chiếm Sài gòn. Cũng trên con sông Lòng Tảo ấy, nhà văn HQ Lê Bá
Thông kể chuyện di tản xưa về Chuyến Hải Trình Định Mệnh:
http://thuvien.maivoo.com/Hoi-Ky-Tuy-But-c21/Chuyen-Hai-Trinh-Dinh-Menh-d2587
http://thuvien.maivoo.com/Hoi-Ky-Tuy-But-c21/Chuyen-Hai-Trinh-Dinh-Menh-d2587
Trên đường di tản, nhà văn Chu Tử chẳng may lâm nạn và đã qua đời, xin quý ACE xem bài viết của hay nhà văn Hoàng Hải Thủy và Viên Linh kể chuyện về Chu Tử...
Nhà văn Chu Tử chết và sống, Hoàng Hải Thủy: http://hoanghaithuy.wordpress.com/2009/11/30/chu-tu-chet-va-song/
Viên Linh ghi nhận:
Trong giới văn nghệ sĩ, 30 Tháng Tư mở đầu bằng một cái tang, cái tang đúng ngày 30 Tháng Tư: đó là cái chết của nhà văn Chu Tử. Ðúng 58 năm trước, anh ra đời cũng vào Tháng Tư, ngày 17.
Trong giới văn nghệ sĩ, 30 Tháng Tư mở đầu bằng một cái tang, cái tang đúng ngày 30 Tháng Tư: đó là cái chết của nhà văn Chu Tử. Ðúng 58 năm trước, anh ra đời cũng vào Tháng Tư, ngày 17.
Nhà văn Chu Tử (17.4.1917-30.4.1975).
Vào ngày 16 Tháng Tư 1966, nhà văn Chu Tử bị ám sát bằng 4 viên đạn xuyên qua cổ, răng, miệng, nhưng đã không chết, có thể vì đối với ông, đạn súng lục quá nhỏ. Chín năm sau, 30 Tháng Tư 1975, ông chết vì một viên đạn lớn hơn, một viên B40 từ bờ bắn lên tàu Việt Nam Thương Tín, khi con tàu này đang từ sông Lòng Tảo, Vũng Tàu, chạy ra khơi.
Nhiều thế lực ở đằng sau mũi súng không thích những Sự Thật do Chu Tử
viết ra trên báo Sống hay các báo do ông chủ trương. Ở lần ông bị bắn
năm 1966, chúng tôi đã viết một bài ngắn đăng trên Tuần báo Nghệ Thuật
mà sau này được ông trích đăng lại trong cuốn Không Hận Thù, như sau:
"Ðối với bản thân tác giả Yêu, hẳn nhiên những sự đưa đến cái chết, và
chính cái chết là một vấn đề Sống. Sống theo quan niệm của một người trí
thức hành động. Người trí thức hành động Chu Tử đã đối đầu với những
vấn đề nguy hiểm, nhưng đó là những vấn đề ông có thể kiểm soát nổi. Nếu
ông tin rằng người ta không thể giết ông vì những điều ấy, thì
niềm-tin-chu-tử không phải niềm tin của một tâm hồn thơ ngây, nhưng là
của một tâm hồn tràn trề hy vọng ở một cuộc sống tốt đẹp, cuộc sống ao
ước. Ao ước và hy vọng dĩ nhiên lại là những gì mà chúng ta không có
cách kiểm soát được..." (1)
Nhà văn Chu Tử có tên khai sinh là Chu Văn Bình, ra đời ngày 17 Tháng Tư năm 1917 tại làng Mía, Sơn Tây, miền Bắc Việt Nam. Theo lời tự thuật của ông, vì bạn bè trong lớp sỉ nhục, sau khi đậu tiểu học, ông chỉ mất có ba năm thì thi đậu tú tài. Mất thêm mấy năm nữa, ông học Luật tới năm thứ ba, rồi nghỉ một thời gian, không rõ vì sao. Sau nghe ông đậu cử nhân Luật và trở thành một trong vài người đậu cử nhân hồi những năm cuối thập niên ba mươi, đầu thập niên bốn mươi tại tỉnh Sơn Tây. Tham gia sinh hoạt đấu tranh từ nhỏ, trong khi còn học lớp nhất trường Hưng Hóa, Chu Tử, vào đêm nổi dậy của Việt Nam Quốc Dân Ðảng năm 1930, đã theo đàn anh Nguyễn Khắc Nhu, biệt danh Xứ Nhu, phó đảng trưởng, đi hạ đồn Hưng Hóa. Thất bại, bơi qua sông trên đường rút lui, tới được bờ thì quá mệt, và quá vui, nhà cách mạng 13 tuổi ngủ một giấc, và từ đó mất liên lạc với Xứ Nhu. Ông bị tù thời Pháp, sau đó còn bị tù thời Nhật, thời Ngô Ðình Diệm, như ông viết. Tuy vậy thời Việt Minh, ông có lần ngồi xử án một vài phiên tòa địa phương.
Hồi thanh niên Chu Tử mở trường dạy học, học trò rất đông. Nhưng lòng ông không ở đó. Ông dừng lại ở văn chương, ở báo chí, văn, ông đã cho xuất bản một loạt các truyện dài mà nhan đề chỉ có một chữ: Yêu (Ðường Sáng, Saigon, 1963, tái bản 3 lần trong một năm), Sống, tức Loạn I (Ðường Sáng, 1963), Loạn (Ðông Bắc, 1964). Cuốn nào cũng là truyện dài, và truyện nào cũng đăng báo trước khi in thành sách. Thường là đăng báo của ông, như tờ Sống, hay báo do ông chủ trương, như Dân Việt, Ðời, Sóng Thần, vì với ngòi bút công phá tàn khốc, Chu Tử không còn được phép đứng tên làm chủ nhiệm một tờ báo nào nữa, sau tờ Sống.
Trong sinh hoạt báo chí, tôi ít có dịp làm việc với Chu Tử, trừ một thời gian ngắn phụ trách phần điện ảnh cho báo Sống của anh, và thời gian viết truyện dài Gió Thấp cho báo Sóng Thần do anh chủ trương. Tờ báo sau cũng gây nhiều sóng gió, và là mục tiêu của một cuộc xung đột nghề nghiệp, hay xung đột chủ trương, đến mức tàn khốc. Một trong những chuyện xảy ra, làm rung chuyển giới truyền thông lúc ấy, là vụ bắn bỏ Vân Sơn Phan Mỹ Trúc, chủ nhiệm tờ Ðông Phương. Lúc ấy tôi cũng đang viết một truyện dài cho Ðông Phương. Hai tờ báo ở cùng một con đường Võ Tánh, tờ bên số lẻ, tờ bên số chẵn, đi bộ chỉ vài phút. Hai tờ báo ấy lại đang bút chiến với nhau. Ðến Ðông Phương ngồi viết xong đoạn truyện đủ in cho báo ngày hôm sau, tôi đi qua Sóng Thần ngồi làm việc tương tự, ở cái bàn ngay cửa phòng sắp chữ. Bao giờ tôi cũng lại Sóng Thần sau, vì thích cà kê ở đây lâu hơn. Ở quãng giữa hai tờ báo là phở Hà Nội, nơi các ký giả gặp nhau, cũng là nơi tôi ghé vào bảo họ lát nữa mang lên Sóng Thần cho tôi một chai bia Larue có hình trái dứa và một ly đá. Lùi về phía sau là nhà thờ Huyện Sĩ, nơi có một quán cà phê bí tất, chéo góc với quán xôi lạp xưởng của mấy mẹ con một bà người Bắc.
Một hôm đang ngồi ăn nhậu trong quán cà phê bí tất với bạn bè, Vân Sơn Phan Mỹ Trúc bị dí súng vào đầu. Một tiếng nổ. Kẻ lạ mặt, do đồng bọn chở bằng Honda hai bánh từ ngoài bước vào, giữa ban ngày, rút súng xử tử chủ nhiệm Ðông Phương, rồi rảo cẳng đi ra, leo lên sau xe Honda, mất dạng. Cái tin gây lặng ngắt trong chỗ tôi ngồi uống bia. Tôi không đi đưa đám Vân Sơn, nhìn vành khăn trắng trên đầu một phụ nữ não nùng, tôi thù ghét tên mặt tái. Theo mô tả, đó là kẻ sát nhân. Tôi nghĩ tôi đã gặp y nhiều lần. (2)
Nhà văn Chu Tử có tên khai sinh là Chu Văn Bình, ra đời ngày 17 Tháng Tư năm 1917 tại làng Mía, Sơn Tây, miền Bắc Việt Nam. Theo lời tự thuật của ông, vì bạn bè trong lớp sỉ nhục, sau khi đậu tiểu học, ông chỉ mất có ba năm thì thi đậu tú tài. Mất thêm mấy năm nữa, ông học Luật tới năm thứ ba, rồi nghỉ một thời gian, không rõ vì sao. Sau nghe ông đậu cử nhân Luật và trở thành một trong vài người đậu cử nhân hồi những năm cuối thập niên ba mươi, đầu thập niên bốn mươi tại tỉnh Sơn Tây. Tham gia sinh hoạt đấu tranh từ nhỏ, trong khi còn học lớp nhất trường Hưng Hóa, Chu Tử, vào đêm nổi dậy của Việt Nam Quốc Dân Ðảng năm 1930, đã theo đàn anh Nguyễn Khắc Nhu, biệt danh Xứ Nhu, phó đảng trưởng, đi hạ đồn Hưng Hóa. Thất bại, bơi qua sông trên đường rút lui, tới được bờ thì quá mệt, và quá vui, nhà cách mạng 13 tuổi ngủ một giấc, và từ đó mất liên lạc với Xứ Nhu. Ông bị tù thời Pháp, sau đó còn bị tù thời Nhật, thời Ngô Ðình Diệm, như ông viết. Tuy vậy thời Việt Minh, ông có lần ngồi xử án một vài phiên tòa địa phương.
Hồi thanh niên Chu Tử mở trường dạy học, học trò rất đông. Nhưng lòng ông không ở đó. Ông dừng lại ở văn chương, ở báo chí, văn, ông đã cho xuất bản một loạt các truyện dài mà nhan đề chỉ có một chữ: Yêu (Ðường Sáng, Saigon, 1963, tái bản 3 lần trong một năm), Sống, tức Loạn I (Ðường Sáng, 1963), Loạn (Ðông Bắc, 1964). Cuốn nào cũng là truyện dài, và truyện nào cũng đăng báo trước khi in thành sách. Thường là đăng báo của ông, như tờ Sống, hay báo do ông chủ trương, như Dân Việt, Ðời, Sóng Thần, vì với ngòi bút công phá tàn khốc, Chu Tử không còn được phép đứng tên làm chủ nhiệm một tờ báo nào nữa, sau tờ Sống.
Trong sinh hoạt báo chí, tôi ít có dịp làm việc với Chu Tử, trừ một thời gian ngắn phụ trách phần điện ảnh cho báo Sống của anh, và thời gian viết truyện dài Gió Thấp cho báo Sóng Thần do anh chủ trương. Tờ báo sau cũng gây nhiều sóng gió, và là mục tiêu của một cuộc xung đột nghề nghiệp, hay xung đột chủ trương, đến mức tàn khốc. Một trong những chuyện xảy ra, làm rung chuyển giới truyền thông lúc ấy, là vụ bắn bỏ Vân Sơn Phan Mỹ Trúc, chủ nhiệm tờ Ðông Phương. Lúc ấy tôi cũng đang viết một truyện dài cho Ðông Phương. Hai tờ báo ở cùng một con đường Võ Tánh, tờ bên số lẻ, tờ bên số chẵn, đi bộ chỉ vài phút. Hai tờ báo ấy lại đang bút chiến với nhau. Ðến Ðông Phương ngồi viết xong đoạn truyện đủ in cho báo ngày hôm sau, tôi đi qua Sóng Thần ngồi làm việc tương tự, ở cái bàn ngay cửa phòng sắp chữ. Bao giờ tôi cũng lại Sóng Thần sau, vì thích cà kê ở đây lâu hơn. Ở quãng giữa hai tờ báo là phở Hà Nội, nơi các ký giả gặp nhau, cũng là nơi tôi ghé vào bảo họ lát nữa mang lên Sóng Thần cho tôi một chai bia Larue có hình trái dứa và một ly đá. Lùi về phía sau là nhà thờ Huyện Sĩ, nơi có một quán cà phê bí tất, chéo góc với quán xôi lạp xưởng của mấy mẹ con một bà người Bắc.
Một hôm đang ngồi ăn nhậu trong quán cà phê bí tất với bạn bè, Vân Sơn Phan Mỹ Trúc bị dí súng vào đầu. Một tiếng nổ. Kẻ lạ mặt, do đồng bọn chở bằng Honda hai bánh từ ngoài bước vào, giữa ban ngày, rút súng xử tử chủ nhiệm Ðông Phương, rồi rảo cẳng đi ra, leo lên sau xe Honda, mất dạng. Cái tin gây lặng ngắt trong chỗ tôi ngồi uống bia. Tôi không đi đưa đám Vân Sơn, nhìn vành khăn trắng trên đầu một phụ nữ não nùng, tôi thù ghét tên mặt tái. Theo mô tả, đó là kẻ sát nhân. Tôi nghĩ tôi đã gặp y nhiều lần. (2)
Trong không khí đó, những cuộc xung đột trong làng báo không còn là
những bài báo xuông nữa. Ngay trong nội bộ cũng gay cấn. Anh Chu Tử, tuy
là người đứng chủ trương nhật báo Sóng Thần, nhưng lại không thoải mái
khi tới tòa soạn. Rồi chẳng bao giờ anh tới nữa, nằm nhà lãnh lương, rút
xì phé. Có khi chỉ có ba người, chúng tôi cũng vẫn rút, cho anh đỡ
buồn. Nhất là khi trong ba người lại có một anh Việt Cộng hồi chánh như
Kim Nhật - tác giả cuốn Cục R - cò gỗ mổ cò thật như hôm đó, thì chán
biết nhường nào? Anh nhắc tôi kể chuyện phim ráng viết cho dài, như một
cái truyện ngắn, vì tôi thường viết ngắn, chủ trương đủ ăn thì thôi, hôm
nay đong gạo hôm nay, chuyện mai mai tính.
Một hôm anh bảo tôi, khi tôi đã leo lên cái xe Lambretta định đi. "Này cái chuyện phim hôm rồi cậu viết dài hơn nửa trang như thế là được, tuy nhiên cậu lại không viết nhan đề. Tôi thấy tên phim là La Chevauchée, tôi đặt là Ðoàn Kỵ Mã đấy. Ðược không?" Dĩ nhiên là được. Chị Gilberte Nguyễn Văn Lợi, chủ hãng phim Columbia tại Sài Gòn đưa cho tôi tờ Ciné-Revue, trong có thuật chuyện phim này, sắp chiếu ở Eden hay Ðại Nam gì đó, tôi phải chuyển ra Việt ngữ, tôi đã xem phim đó đâu mà nói được hay không được. Tôi cũng chẳng nhớ nội dung câu chuyện như thế nào, vì tài tử cưỡi ngựa bắn súng cỡ Randolphe Scott là tài tử tôi chỉ xem qua một lần rồi bỏ.
Nhà văn Chu Tử lìa đời trên sông Lòng Tảo, trên thuyền Việt Nam Thương Tín. Hôm đó là ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Khi chiếc thương thuyền đang hướng ra hải phận quốc tế thì bị trúng một trái đạn pháo từ trong bờ bắn ra. Trong mấy ngàn người, Chỉ có Chu Tử thiệt mạng. Cháu Chu Sơn, con trai anh, mà cũng là phóng viên trang 3 của chúng tôi trong tờ nhật báo Tiền Tuyến, đứng bên bố nhưng không nguy hại gì. Theo Trung Tá Phạm Hậu kể lại: "Có tiếng pháo kích từ bên bờ sông mé phải bắn qua. Ðạn đại bác của xe tăng hay đạn B40, B41 quái quỉ gì đó... rơi lõm bõm trên sông. Một viên đạn bay qua đầu chúng tôi, rơi trúng vào chiếc tầu to lớn - tầu Việt Nam Thương Tín chở hàng hóa và hành khách dân sự - đang vùn vụt chạy rất nhanh ở phía trái chúng tôi. Khói bốc lên nghi ngút trong chốc lát. Sau mới biết chính quả đạn này đã sát hại nhà văn Chu Tử..." (3)
Theo cháu Chu Sơn kể lại với tôi, thi hài Chu Tử được bó vải, thả xuống Thái Bình Dương ngày hôm sau. Anh là thuyền nhân đầu tiên được thủy táng. Anh là nhà văn lưu vong đầu tiên vẫn trong hải phận quê hương. Và như thế, có bao giờ anh rời xa Ðất Nước? Từ lúc viết văn đến khi từ trần, anh hoàn tất ý niệm ban đầu của một người cầm bút, mấy ai có thể làm được như anh?
Tháng 4, 1997 (Trong Chiêu Niệm Văn Chương, chưa in) Chú thích:
1. Viên Linh, nhà văn Chu Tử, vấn đề sống, Tuần báo Nghệ Thuật, số 28, tháng 4, 1966, trang 5.
Một hôm anh bảo tôi, khi tôi đã leo lên cái xe Lambretta định đi. "Này cái chuyện phim hôm rồi cậu viết dài hơn nửa trang như thế là được, tuy nhiên cậu lại không viết nhan đề. Tôi thấy tên phim là La Chevauchée, tôi đặt là Ðoàn Kỵ Mã đấy. Ðược không?" Dĩ nhiên là được. Chị Gilberte Nguyễn Văn Lợi, chủ hãng phim Columbia tại Sài Gòn đưa cho tôi tờ Ciné-Revue, trong có thuật chuyện phim này, sắp chiếu ở Eden hay Ðại Nam gì đó, tôi phải chuyển ra Việt ngữ, tôi đã xem phim đó đâu mà nói được hay không được. Tôi cũng chẳng nhớ nội dung câu chuyện như thế nào, vì tài tử cưỡi ngựa bắn súng cỡ Randolphe Scott là tài tử tôi chỉ xem qua một lần rồi bỏ.
Nhà văn Chu Tử lìa đời trên sông Lòng Tảo, trên thuyền Việt Nam Thương Tín. Hôm đó là ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Khi chiếc thương thuyền đang hướng ra hải phận quốc tế thì bị trúng một trái đạn pháo từ trong bờ bắn ra. Trong mấy ngàn người, Chỉ có Chu Tử thiệt mạng. Cháu Chu Sơn, con trai anh, mà cũng là phóng viên trang 3 của chúng tôi trong tờ nhật báo Tiền Tuyến, đứng bên bố nhưng không nguy hại gì. Theo Trung Tá Phạm Hậu kể lại: "Có tiếng pháo kích từ bên bờ sông mé phải bắn qua. Ðạn đại bác của xe tăng hay đạn B40, B41 quái quỉ gì đó... rơi lõm bõm trên sông. Một viên đạn bay qua đầu chúng tôi, rơi trúng vào chiếc tầu to lớn - tầu Việt Nam Thương Tín chở hàng hóa và hành khách dân sự - đang vùn vụt chạy rất nhanh ở phía trái chúng tôi. Khói bốc lên nghi ngút trong chốc lát. Sau mới biết chính quả đạn này đã sát hại nhà văn Chu Tử..." (3)
Theo cháu Chu Sơn kể lại với tôi, thi hài Chu Tử được bó vải, thả xuống Thái Bình Dương ngày hôm sau. Anh là thuyền nhân đầu tiên được thủy táng. Anh là nhà văn lưu vong đầu tiên vẫn trong hải phận quê hương. Và như thế, có bao giờ anh rời xa Ðất Nước? Từ lúc viết văn đến khi từ trần, anh hoàn tất ý niệm ban đầu của một người cầm bút, mấy ai có thể làm được như anh?
Tháng 4, 1997 (Trong Chiêu Niệm Văn Chương, chưa in) Chú thích:
1. Viên Linh, nhà văn Chu Tử, vấn đề sống, Tuần báo Nghệ Thuật, số 28, tháng 4, 1966, trang 5.
2. Duyên Anh viết rất rõ về vụ ám hại này trong hồi ký của ông, đã xuất bản.
3. Phạm Hậu, 30.4.75, Từ sông Lòng Tảo tới Subic Bay, (theo Khởi Hành số 42, 4.2000, trang 9). Viên Linh
VƯƠNG HỒNG ANH * TỬ THỦ SAIGON
Tử Thủ Sau Lệnh Đầu
Hàng: Giết 1,000 VC, Diệt 32 Xe Tăng CS
Viet Bao -Vương Hồng Anh
30/4/1975: LỰC LƯỢNG VNCH TỬ CHIẾN TẠI
THỦ ĐÔ SÀI GÒN
Lờøi tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm "Ngày 30-4-1975", nhìn lại cuộc diện Việt Nam 30 năm về trước, VB trân trọng giới thiệu loạt bài tổng hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra từ ngày 10/3/1975 đến cuối tháng 4/1975. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; hồi ký của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt Báo.
Lờøi tòa soạn: Trong tinh thần tưởng niệm "Ngày 30-4-1975", nhìn lại cuộc diện Việt Nam 30 năm về trước, VB trân trọng giới thiệu loạt bài tổng hợp về một số sự kiện quan trọng xảy ra từ ngày 10/3/1975 đến cuối tháng 4/1975. Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; hồi ký của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt Báo.
* Hơn 1 ngàn Cộng quân tử trận, 32 chiến xa
CSBV bị bắn cháy trong trận chiến sáng ngày 30-4-1975
tại phòng tuyến Sài Gòn
Vào những ngày cuối cùng của tháng 4/1975, trong khi
những người lãnh đạo tối cao của
quốc gia và quân đội tìm mọi cách để ra
đi, thì tại mặt trận vòng đai Sài Gòn và ngay
trong Thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, người
lính Quân lực VNCH từ anh binh nhì cho đến các trung
đoàn trưởng, lữ đoàn trưởng...
thuộc các binh đoàn bộ chiến, vẫn giữ
vững tay súng tử chiến với Cộng quân đến
phút cuối cùng.
Từ 0 giờ sáng đến 10 giờ ngày 30/4/1975, trên
các cửa ngõ vào thủ đô Sài Gòn, những người
lính Bộ binh, Nhảy Dù, Biệt kích Nhảy Dù, Biệt
động quân, Thiết giáp, Thủy quân Lục
chiến... đã đánh trận cuối cùng trong đời
lính của họ: 32 chiến xa và gần 30 quân xa Cộng
quân bị bắn cháy, hơn 1,000 Cộng quân tan xác...
Đó là chiến tích của người lính VNCH tại
mặt trận Thủ Đô Sài Gòn trong buổi sáng
cuối cùng của cuộc chiến, trước khi ông Dương
Văn Minh ra lệnh Quân lực VNCH buông súng vào lúc 10
giờ 15 phút ngày 30/4/1975. Trong những giờ phút cuối
cùng này, tại Sài Gòn, trái tim của Việt Nam Cộng Hòa,
có rất nhiều sự kiện diễn ra dồn dập,
những trận đánh hào hùng và bi tráng của một
số đơn vị Nhảy Dù, Biệt Cách Nhảy Dù...
trước giờ G.
* Bộ Tổng Tham Mưu QL/VNCH, những giờ cuối
cùng:
Trưa ngày 29 tháng 4/1975, các vị tướng có
thẩmquyền tại Bộ Tổng tham mưu Quân
lực VNCH đã ra đi. Đại tướng Viên
rời Việt Nam từ chiều 28/4/1975 cùng với
Chuẩn tướng Thọ (trưởng phòng 3); Trung tướng
Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng Liên quân
Bộ Tổng tham mưu kiêm Tổng cục trưởng
Tiếp vận ra đi vào lúc 11 giờ 30 ngày 29/4/1975. Trung
tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Biệtkhu
Thủ đô cũng đã "chia tay" với các
cộng sự viên của mình từ sáng ngày 29/4/1975. Để
có tướng lãnh chỉ huy Quân đội, tân Tổng
thống Dương Văn Minh đã cử một số tướng
lãnh và cựu tướng lãnh giữ các chức vụ
trọng yếu: Trung tướng Vĩnh Lộc giữ
chức Tổng Tham mưu trưởng; Nguyễn Hữu
Hạnh, Chuẩn tướng, đã về hưu từ tháng4/1974,
làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng; cựu
Thiếu tướng Lâm Văn Phát, được cử
làm Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô; chuẩn tướng
Lê Văn Thân, nguyên Tư lệnh phó Quân khu 2,làm Tư
lệnh phó phụ giúp Tướng Phát; Chuẩn tướng
Nguyễn Văn Chức, nguyên Cục trưởng Công
binh, Thứ trưởng Định cư trong Nội các
Nguyễn Bá Cẩn, giữ chức Tổng cụctrưởng
Tiếp vận.
Sau khi nhận chức Tổng tham mưu trưởng,
chiều 29/4/1975, Trung tướng Vĩnh Lộc đã
triệu tập một cuộc họp với các tướng
lãnh và sĩ quan cao cấp đang còn ở lại Sài Gòn
tại phòng họp bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu
"mọi người đừng bỏ đi, hãy ở
lại để làm việc vớitất cả trách
nhiệm".
* Trận chiến tại các cửa ngõ vào Sài Gòn:
Tại phòng tuyến Củ Chi, tối 29/4/1975, toàn
bộ quân trú phòng và bộ Tư lệnh Sư đoàn 25
Bộ binh mở đường máu về Hóc Môn. Riêng
Chuẩn tướng Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư đoàn
và một Thượng sĩ cận vệ tên Ngọc
đã phải thay nhau làm khinh binh với chiến thuật
cá nhân để thoát khỏi vòng vây của Cộng quân.
Cuối cùng vị tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh
bị lọt vào tay địch khi ông và người
cận về gần đến Hóc Môn.
Tại mặt Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28/4/1975,
bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô không còn quân
trừ bị để giải tỏa áp lực của
Cộng quân. Một liên đoàn Biệt động quân
đang hành quân dọc theo quốc lộ 4 phía nam Bến
Tranh đã được điều động về
quận lỵ Cần Đước theo liên tỉnh
lộ 5A vào buổi trưa và đặt dưới
quyền điều động của bộ Tư
lệnh Biệt khu Thủ đô. Liên tỉnh lộ
nối liền Chợ Lớn và Cần Đước cũng
bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng
VNCH không thể phá vỡ được các chốt
chận của Cộng quân tại cầu Nhị Thiên
Đường (khu vực này bị Cộng quân chiếm
từ rạng sáng ngày 29/4/1975).
Trong khi trận chiến xảy ra tại nhiều nơi
thì kho đạn Thành Tuy Hạ lại bị pháo kích
nặng nề nên phát nổ nhiều nơi. Hệ
thống truyền tin liên lạc với bộ chỉ huy
Kho đạn bị mất vào lúc 1 giờ chiều. Xe tăng
Cộng quân xuất hiện tại Cát Lái và bắn vào
cầu tàu chất đạn chưa được
bốc dỡ.
Tại cụm phòng tuyến khu vực từ ngã tư Quân
Vận (gần trung tâm huấn luyện Quang Trung) đến
cầu Tham Lươn Bà Quẹo; Bình Thới-Ngã ba Bà
Quẹo; Bảy Hiền-Lăng Cha Cả, đơn vị
Nhảy Dù phòng ngự tại đây đã nỗ lực
ngăn chận Cộng quân. Những người lính Dù không
hề nao núng, bình tĩnh chuẩn bị cho trận đánh
giờ thứ 25.
Tại vòng đai Bộ Tổng Tham Mưu, một
chiến đoàn thuộc Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù do
thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy đã dàn quân
chận địch, từ 8 giờ sáng đến 10
giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn cháy 6
chiến xa Cộng quân và nỗ lực đánh bật
địch ra khỏi trậnđịa.
* Những trận đánh trước giờ G...
Từ sáng sớm ngày 30 tháng 4, tại các mặt
trận quanh Sài Gòn và Biên Hòa, các đơn vị của
Sư đoàn 5BB, Sư đoàn 18BB, Lữ đoàn 3
Thiết kỵ, các đơn vị Dù, Thủy quân
Lục chiến, Biệt động quân... đều đặt
trong tình trạng sẵn sàng ứng chiến để
chận đánh Cộng quân. Tại bộ Tư lệnh
Biệt khu Thủ đô, Thiếu tướng Lâm Văn Phát
từ sáng sớm đã dùng trực thăng bay quan sát tình
hình, vừa đáp xuống bộ Tư lệnh ông
gọi máy liên lạc với Chuẩn tướng Tần,
sĩ quan cao cấp nhất của Không quân vào lúc đó.
Tướng Phát yêu cầu Tướng Tần cho các phi
tuần khu trục liên tục oanh kích Cộng quân đang
chuyển quân dọc theo con đường từ ngả tư
Bảy Hiền lên đến Hóc Môn.
Trong khi các đơn vị VNCH đang nỗ lực
đẩy lùi Cộng quân ra khỏi bộ Tổng tham mưu,
thì vào 10 giờ 15 phút, tân Tổng thống Dương Văn
Minh ra lệnh cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngưng
chiến. Trước đó vài phút, chiến đoàn
Biệt Cách Dù đang tung các đợt phản công để
đánh bật địch quanh vòng đai Bộ Tổng
Tham Mưu. Khi nhận được lệnh ngưng
bắn, Thiếu tá Phạm Châu Tài, chiến đoàn trưởng
Biệt Cách Dù đã lấy xe jeep vào Bộ Tổng Tham Mưu,
ông được anh em binh sĩ gác cổng cho biết là
Trung tướng Vĩnh Lộc, Tân Tổng Tham mưu trưởng,
đã ra đi lúc 6 giờ sáng, tất cả tướng
lãnh và các đại tá đã họp với Thiếu tá Tài
về kế hoạch phòng thủ Tổng hành dinh bộ
Tổng Tham mưu trong đêm 29/4/1975, cũng không còn ai.
Trước tình hình đó, Thiếu tá Tài đã
bốc điện thoại quay số gọi về văn
phòng Tổng Tổng phủ, gặp Chuẩn tướng
Nguyễn Hữu Hạnh ở đầu giây. Ông Hạnh
hỏi Thiếu tá Tài là ai? Vị chiến đoàn trưởng
đã trả lời: "Tôi là chiến đoàn trưởng
Biệt cách Nhảy Dù đang trách nhiệm bảo vệ
bộ Tổng tham mưu, tôi xin được gặp
Tổng thống". Vài giây sau, thiếu tá Tài nghe
tiến ông Dương Văn Minh nói ở đầu máy:
"Đại tướng Dương Văn Minh nghe đây,
có chuyện gì đó?" Thiếu tá Tài trình bày:
"Tôi
đang chỉ huy cánh quân tử chiến với Cộng quân
ở Bộ Tổng Tham mưu thì có lệnh ngưng
bắn, nhưng Cộng quân vẫn tiến vào, tôi đã
liên lạc với bộ Tổng Tham mưu nhưng không có
ai, nên muốn nói chuyện với Tổng thống là
Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội
để xin quyết định." Tướng Minh
trả lời: "Các em chuẩn bị bàn giao đi!".
Thiếu tá Tài ngạc nhiên hỏi lại: "Bàn giao là
như thế nào thưa Đại tướng, có
phải là đầu hàng không?", Tướng Minh đáp:
Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng Việt Cộng
đang tiến vào Dinh Độc Lập. Nghe tướng
Minh cho biết như vậy, Thiếu tá Tài nói ngay:
"Nếu xe tăng Việt Cộng tiến vào dinh Độc
Lập, chúng tôi sẽ đến cứu Tổng
thống". Tướng Minh suy nghĩ, Thiếu tá Tài nói
tiếp: "Tổng thống phải chịu trách
nhiệm trước 2 ngàn cảm tử quân đang tử
chiến với Cộng quân ở bộ Tổng tham mưu."
Tướng Minh trả lời: "Tùy các anh em".
Theo lời Thiếu tá Tài, sau này, khi bị CQ giam trong
trại tù, ông đã găp trung tá Võ Ngọc Lan, Liên
đoàn trưởng Liên đoàn phòng vệ Tổng
thống Phủ. Trung tá Lan nói với Thiếu tá Tài:
"Lúc đó, moa đứng cạnh ông tướng Minh,
moa nghe toa nói vào cứu Tổng thống."Thiếu tá Tài
giải thích: "Tổng thống là vị lãnh đạo
tối cao của Quân lực, phải cứu ông ra để
có người chỉ huy Quân đội."
PHẠM CƠ THẦN * QUÂN ĐOÀN IV
Những giờ phút cuối cùng của Quân Ðoàn IV
Phạm Cơ Thần
Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV + Quân Khu 4
30 tháng 4 1975
Sau những hốt hoảng hoang mang sau lịnh đầu hàng của tổng thống
Dương Văn Minh Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV Quân Khu 4, đã trãi qua những giờ
phút cuối cùng yên lặng và chờ đợi những gì sẽ xảy đến.
Lúc 10.30 giờsáng một buổi họp tham mưu của Quân Ðoàn tại Bộ Tư
Lệnh Quân Ðoàn IV Quân Khu 4, tại trại Lê Lợi nằm ngày trung tâm thành
phố Cần Thơ trên đại lộ Hoà Bình, với sự có mặt của các sĩ-quan tham-mưu
, các trưởng phòng và trưởng ban còn ở lại và với sự hiện diện đầy đủ
của các vị tư-lệnh của 3 sư-đoàn bộ binh 7, 9 và 21 cùng với các chỉ-huy
trưởng của các quân binh chủng nằm trong Vùng 4 chiến thuật.
Thiếu tướng Tư-lệnh Nguyễn Khoa Nam đã lặp lại những gì tổng thống mới nhận chức Dương Văn Minh đã nói :" Các anh giữ yên vị trí và chờ bàn giao".Xong buổi họp các sĩ-quan trở về đơn vị của mình ra lệnh lại cho đơn vị trực thuộc thi hành lệnh trên.
Riêng tại BTL/QÐIV các công vào bộ tư lệnh vẫn còn lính quân cảnh đứng gác và các yếu điểm phòng thủ xung quanh Quân Đoàn do sĩ-quan , HSQ và binh sĩ thuộc quân đoàn vẫn còn giữ nguyên vị trí, một số anh em thuộc dưới quyền của tôi từ iền đồn Xóm Chày bên kia bờ sông Cần thơ gọi về xin lịnh được trở về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn nhưng lênh của Trung tá Chánh Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh Quân đoàn bắt các quân nhân này phải ở yên vị trí; tôi thấy rất vô lý vì đã đầu hàng rồi còn ở tiền đồn để làm gì nữa nên tội liên -lạc với gia-đình của quân nhân liên hệ để lo mướn ghe đò để đưa các anh về.
Thiếu tướng Tư-lệnh Nguyễn Khoa Nam đã lặp lại những gì tổng thống mới nhận chức Dương Văn Minh đã nói :" Các anh giữ yên vị trí và chờ bàn giao".Xong buổi họp các sĩ-quan trở về đơn vị của mình ra lệnh lại cho đơn vị trực thuộc thi hành lệnh trên.
Riêng tại BTL/QÐIV các công vào bộ tư lệnh vẫn còn lính quân cảnh đứng gác và các yếu điểm phòng thủ xung quanh Quân Đoàn do sĩ-quan , HSQ và binh sĩ thuộc quân đoàn vẫn còn giữ nguyên vị trí, một số anh em thuộc dưới quyền của tôi từ iền đồn Xóm Chày bên kia bờ sông Cần thơ gọi về xin lịnh được trở về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn nhưng lênh của Trung tá Chánh Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh Quân đoàn bắt các quân nhân này phải ở yên vị trí; tôi thấy rất vô lý vì đã đầu hàng rồi còn ở tiền đồn để làm gì nữa nên tội liên -lạc với gia-đình của quân nhân liên hệ để lo mướn ghe đò để đưa các anh về.
Cách vài tháng trước tháng 4 1975 thiếu tướng Nam đã cho thành lập
Bộ tư lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn do đại tá Nguyễn Thành Vinh chỉ huy
đồng thời tăng cường quân số thêm 1 trung-đoàn bộ binh cho mỗi sư đoàn,
quân số này được lấy từ các đơn vị địa phương quân của 16 tiểu-khu thuộc
vùng 4 chiên-thuật; lý do tăng cường thêm quân số cho các Sư Ðoàn vì với
tính chất lưu động của Sư Ðoàn bộ binh đánh địch rất hiệu quả hơn là đơn
vị cố định địa-phương.
Bộ tư lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn IV được tạm thời đăt tại tư dinh cũ của chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh cạnh Quân Ðoàn IV. Ngoài ra, tướng Nam còn chỉ thị xây lại các công sự phòng thủ kiên cố tại trại Cữu Long cạnh Sân Vận động Cần Thơ, doanh trại này trước đây của quân đội Mỹ để lại; ưu điềm của doanh trại này là kế cận sân Vận động có nhiều bải đáp cho máy bay trực thăng và gần bộ tư lệnh Quân đoàn và quân y Phan Thanh Giản.
Trong một buổi họp mật của Bộ Tham Mưu Quân Đoàn , tướng Nam cho biết trại Cữu Long sẽ là điểm di tản của Quân Đoàn nếu vì tình hình chiến sự chính quyền trung ương phải rút về Cần Thơ ; tất cả sẽ di tản đến một nơi khác, chưa được tiếc lộ; môt số người dự đoán sẽ là môt nơi nào đó ở Thái Lan; Tướng Nam còn chỉ thị Tiểu-Đoàn Truyền Tin Quân Ðoàn IV làm một lá cờ trắng và phòng 4 lo một máy phát thanh di động nhỏ, tôi được giao lo phần kỹ thuật của máy này để sẳn-sàn xử dụng phát sóng khi đài phát thanh Sài-gòn mất về tay địch.
Bộ tư lệnh Tiền Phương của Quân Ðoàn IV được tạm thời đăt tại tư dinh cũ của chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh cạnh Quân Ðoàn IV. Ngoài ra, tướng Nam còn chỉ thị xây lại các công sự phòng thủ kiên cố tại trại Cữu Long cạnh Sân Vận động Cần Thơ, doanh trại này trước đây của quân đội Mỹ để lại; ưu điềm của doanh trại này là kế cận sân Vận động có nhiều bải đáp cho máy bay trực thăng và gần bộ tư lệnh Quân đoàn và quân y Phan Thanh Giản.
Trong một buổi họp mật của Bộ Tham Mưu Quân Đoàn , tướng Nam cho biết trại Cữu Long sẽ là điểm di tản của Quân Đoàn nếu vì tình hình chiến sự chính quyền trung ương phải rút về Cần Thơ ; tất cả sẽ di tản đến một nơi khác, chưa được tiếc lộ; môt số người dự đoán sẽ là môt nơi nào đó ở Thái Lan; Tướng Nam còn chỉ thị Tiểu-Đoàn Truyền Tin Quân Ðoàn IV làm một lá cờ trắng và phòng 4 lo một máy phát thanh di động nhỏ, tôi được giao lo phần kỹ thuật của máy này để sẳn-sàn xử dụng phát sóng khi đài phát thanh Sài-gòn mất về tay địch.
Lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh buộc Tướng Nam thì hành theo. Sau
buổi họp Quân Ðoàn mọi người nhốn nháo chạy ngượi chạy xuôi hoang mang
đến cùng cực ; riêng tôi cũng như một số sĩ quan khác chấp nhận ở lại
đến giờ phút cuối cùng tại Bộ Tư Lệnh Quân đoàn IV; thật ra một tuần
trước đó tôi có ý định ra đi , đi theo số nhân-viên dân sự của Toà Tổng
Lảnh Sự Hoa-Kỳ tại Cần Thơ, trong những ngày sắp ra đi nghĩ đến phải
bỏ lại đồng-đội, gia-đình, cha mẹ anh chị em và thân quyến mà không
biết ngày nào gặp lại làm tôi lòng đau như cắt, đó là chưa kể nếu Miền
Nam không mất thì mình bị mang tội đào ngũ !
Trước 30-4 vài ngày có một số sĩ quan Quân đoàn trốn đi bằng phi
cơ di tản của Hoa kỳ tại Saigon, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam trong một
buổi họp tham mưu ông nói : Tôi biết có một số anh đã ra đi, một
số có ý định sẽ đi nhưng tôi hỏi các anh các anh ra nước ngoài các anh
làm được gì? Không ai lột vỏ sống đời ! thì tại sao không
chọn ở lại với viên đạn cuối cùng để bảo vệ quê hương. lời tướng
Nam đã giúp cho tôi dứt khoát bỏ ý định ra đi.
Sáng ngày 29-4 1975 Toà tổng lảnh sự Cần thơ với ông Tổng lảnh sự
Francis Terry Macnamara đã không theo lệnh di tản bằng trực thăng của
tòa Ðại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn,, ông này đã gan dạ tự tổ chức di tản bẳng
đường sông, theo dòng sông Bacsac để đi ra biển bắt tay với Hạm đội Hoa
Kỳ bằng ghe chở lúa và một tàu LCM cũ chứa một số nhân-viên Hoa-Kỳ và
hơn 300 nhân viên và gia-đình người Việt thoát đi từ Cần Thơ.
Ðêm 29-4 tôi ngũ tại chổ làm , doanh trại Quân Ðoàn IV, khoảng 9
giờ đêm chuông điện-thoại reo lên một người bạn học cũ của tôi Nguyễn
Văn Duyệt vừa cho hay :
-Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 4 Sông Ngòi sắp đi mày hảy về mang vợ
xuống đây cùng đi với tao , hiện tao thấy có nhiều sĩ quan quân đoàn 4
có mặt tại đây có cả ông Tư lệnh của mày nữa.
Tôi trả lời :
- Tao không tin có ông tướng Tư lệnh đi , mày check kỹ lại xem.
Duyệt trả lời :
Ông Tướng này đeo có 1 sao và to con.
Tôi biết ra ngày là ai :Chuẩn Tướng Chếch Dzềnh Quay Tham mưu
Trưỡng Quân Ðoàn 4; tôi trả lời Duyệt là tôi đã dứt khoát ở lại không
đi; và rồi Duyệt cũng không xuống tàu đi lại vì vợ con còn kẹt lại ở
Miền Trung.
Khoảng 4 gìờ chiều ngày 30 tháng 4 1975 tối thấy Chuẩn tướng Tư Lệnh
Phó Lê Văn Hưng đi tới đi lui trước các văn phòng của Phòng 1, Phòng 6
và Trung Tâm Truyền Tin Quân Ðoàn; vài phút sau toán quân canh gát của
Tổng Hành Dinh tập họp lại và chuẩn bị làm lể hạ quốc kỳ xuống. Buổi lể
này giống buổi lể hạ quốc kỳ hàng ngày vào buổi chiều, thông thường buổi
hạ quốc kỳ vào buổi chiều không có các sĩ quan nào muốn tham dự, nhưng
chiều nay mọi người hiện diện tại quân đoàn bây giờ đều linh cảm đây là
buổi chào cờ lần cuối cùng sẽ không bao giờ có dịp nhìn thấy lá quốc kỳ
thân yêu một lần nữa.
Tất cả không hẹn đều tự động đến sắp hàng tham dự , Tướng Hưng đứng ngay giữa sân đối diện với cột cờ các sĩ-quan và hạ-sĩ quan cùng binh sĩ đứng hai hàng hai bên .Lá Quốc Kỳ từ từ được hạ xuống trên gương mặt mọi người đều rưng rưng nước mắt
Tư-lệnh và Tư-lệnh Phó ở lại , các sĩ-quan Tham Mưu tuy một số đã ra đi nhưng đa số còn ở lại; phòng 6 Quân đoàn các sĩ quan Truyền Tin ở lại đầy đủ; phòng 3 , phòng 2 , phòng 1 tôi thấy khá đông sĩ quan còn ở lại.
Ngay lúc đó nếu tướng Nam muốn di tản chiến thuất cả quân đoàn như kế-hoạch di tản đã chuẩn bị trước đây vẫn còn kịp vì sư hiện diện đầy đủ của 3 Sư Ðoàn Bộ Binh và các quân binh chủng . Vùng 4 với 16 tiểu khu và một đặc khu Phú quốc vẫn còn nguyên vẹn lảnh thổ, ngay cả tiểu khu Chương Thiện kế cận mật khu U Minh của cộng-sản vẩn chưa làm gì được.Về Truyền Tin , Phòng 6 cho biết các hệ thống liên lạc đến các Sư đoàn và tiểu khu vẫn hoạt đồng điều hòa tính đến chiều tối ngày 30-4.
Trong hồi ký " Sự Thật về Cái Chết Của tướng Lê Văn Hưng "của bà Phạm thi Kim Hoàng phu-nhân của chuẩn tướng Lê Văn Hưng trong đó bà kể vì sự phản bội của 1 đại tá An Ninh Quân đội đã mang theo kế hoạch hành quân di tản của Quân đoàn 4 với phóng đồ hành quân và đặc lệnh Truyền Tin nên nên tướng Nam và tướng Hưng không thể hành quân được ! .
Theo tôi nghĩ việc này không đúng vì An Ninh Quân Ðội không thể là cơ quan phụ trách làm kế-hoạch hành quân; mọi cuộc hành quân được quyết định bởi tư lệnh của cấp đơn vị đó như trong trường này cuộc hành quân cấp Quân Ðòan phải do Tư Lệnh Quân Ðoàn quyết đinh sau khi có y-kiến của Bô tham mưu:Phòng 3 nắm rỏ tình hình các đơn vị bạn Phòng 2 báo cáo tình hình và vị trí địch, Phòng 4 phụ trách tiếp vận, phòng 6 lo về liên-lạc truyền tin . Phòng 3 làm lịnh hành quân ban hành ra trên giấy tờ mật với phóng đồ hành quân và nhiệm vụ của từng đơn vị tham dự, phòng 6 làm đặc lệnh tuyèn tin .Thông thường lịnh miệng được đưa ra trước tư-lệnh quân đoàn ra lệnh miệng trực tiếp với các tư lệnh sư-đoàn và quân binh chủng tham dự, các phòng ban liên hệ của Quân Ðoàn và Sư Ðoàn cũng lạc liên-lạc bằng điện-thoại nhanh chóng thông báo cuộc hành bằng những ám hiệu mật trước khi gửi giấy hay công điện xác nhân sau.
Xin mở một dấu ngoặc ở đây về tin tức khởi đầu cuộc hành quân được tuyệt đối giữ bí mật, ở cấp Quân Ðoàn và Sư Ðoàn, các tư-lệnh được trang bị một máy điên thoại Bảo Mật do Hoa-kỳ cung cấp điện thoại này dùng như điện thoại thông thường khác nhưng có thêm một bộ phân đặc biệt có một nút mật trên máy .Khi cần nói chuyện mật thì ấn nút này xuống tiếng nói được mã-hoá (encoding) trước khi chuyển đi qua các đường liên-lạc , nếú có bị địch chận đường dây để nghe lén thì không nghe được gì cả , vì âm thanh đã bị trộn lẩn lộn cao thấp nghe như tiếng hú . Máy bảo mật ở người nhận sẽ làm nhiệm vụ bạch-hoá (decoding) đổi âm thanh nhận được thành tiếng nói nghe được như bình thường.
Tóm lại tướng Nam muốn làm một cuôc hành quân di-tản ngay trong ngày 30-4 1975 vẫn còn kịp và nếu ông mang cả cánh quân thuộc Quân Đoàn IV với 3 Sư-đoàn mà quân số còn nguyện vẹn và còn bao đơn vị tinh nhuệ khác để di tản ra Phú Quốc hay đi qua Thái Lan (qua ngỏ Châu-đốc tiến lên tỉnh Kampot , khoảng 120 km, của Cambodia, để đến các tỉnh Thái Lan nằm cạnh Vịnh Thái Lan hay biên giới Thai Cambodia). Nếu điều này xảy ra Chiến tranh Việt Nam chắc sẽ còn kéo dài và chuyện gì sẽ xảy ra với hơn 100 ngàn quân của VNCH tử thủ tại đảo Phú Quốc hoặc biên thùy Thái Miên? và rồi liệu người ban đồng minh Hoa kỳ có nhỏ giọt viện trợ như họ đã từng làm trong quá khứ hay không ?: bất cứ chổ nào có cuốc nổi dậy thật sự để chống cộng-sản đều có được Hoa Kỳ có họ trợ giúp.
6 giờ tối ngày 30-4-75.
Tôi và một số quân nhân ngồi tại câu lạc bộ Quân Ðoàn, giờ này câu lạc bộ vẫn còn đông người như thường lệ mỗi ngày. Khoảng 1 giờ sau đó có người vào báo tin quân Việt cộng đã vào đến Dinh tỉnh trưởng, gần Bộ tư lệnh Quân đoàn, tôi vội thay thường phục và láy xe về nhà dọc đường phố bắt đầu có vài biểu ngư hoan-hô Việt Cộng.
Tất cả không hẹn đều tự động đến sắp hàng tham dự , Tướng Hưng đứng ngay giữa sân đối diện với cột cờ các sĩ-quan và hạ-sĩ quan cùng binh sĩ đứng hai hàng hai bên .Lá Quốc Kỳ từ từ được hạ xuống trên gương mặt mọi người đều rưng rưng nước mắt
Tư-lệnh và Tư-lệnh Phó ở lại , các sĩ-quan Tham Mưu tuy một số đã ra đi nhưng đa số còn ở lại; phòng 6 Quân đoàn các sĩ quan Truyền Tin ở lại đầy đủ; phòng 3 , phòng 2 , phòng 1 tôi thấy khá đông sĩ quan còn ở lại.
Ngay lúc đó nếu tướng Nam muốn di tản chiến thuất cả quân đoàn như kế-hoạch di tản đã chuẩn bị trước đây vẫn còn kịp vì sư hiện diện đầy đủ của 3 Sư Ðoàn Bộ Binh và các quân binh chủng . Vùng 4 với 16 tiểu khu và một đặc khu Phú quốc vẫn còn nguyên vẹn lảnh thổ, ngay cả tiểu khu Chương Thiện kế cận mật khu U Minh của cộng-sản vẩn chưa làm gì được.Về Truyền Tin , Phòng 6 cho biết các hệ thống liên lạc đến các Sư đoàn và tiểu khu vẫn hoạt đồng điều hòa tính đến chiều tối ngày 30-4.
Trong hồi ký " Sự Thật về Cái Chết Của tướng Lê Văn Hưng "của bà Phạm thi Kim Hoàng phu-nhân của chuẩn tướng Lê Văn Hưng trong đó bà kể vì sự phản bội của 1 đại tá An Ninh Quân đội đã mang theo kế hoạch hành quân di tản của Quân đoàn 4 với phóng đồ hành quân và đặc lệnh Truyền Tin nên nên tướng Nam và tướng Hưng không thể hành quân được ! .
Theo tôi nghĩ việc này không đúng vì An Ninh Quân Ðội không thể là cơ quan phụ trách làm kế-hoạch hành quân; mọi cuộc hành quân được quyết định bởi tư lệnh của cấp đơn vị đó như trong trường này cuộc hành quân cấp Quân Ðòan phải do Tư Lệnh Quân Ðoàn quyết đinh sau khi có y-kiến của Bô tham mưu:Phòng 3 nắm rỏ tình hình các đơn vị bạn Phòng 2 báo cáo tình hình và vị trí địch, Phòng 4 phụ trách tiếp vận, phòng 6 lo về liên-lạc truyền tin . Phòng 3 làm lịnh hành quân ban hành ra trên giấy tờ mật với phóng đồ hành quân và nhiệm vụ của từng đơn vị tham dự, phòng 6 làm đặc lệnh tuyèn tin .Thông thường lịnh miệng được đưa ra trước tư-lệnh quân đoàn ra lệnh miệng trực tiếp với các tư lệnh sư-đoàn và quân binh chủng tham dự, các phòng ban liên hệ của Quân Ðoàn và Sư Ðoàn cũng lạc liên-lạc bằng điện-thoại nhanh chóng thông báo cuộc hành bằng những ám hiệu mật trước khi gửi giấy hay công điện xác nhân sau.
Xin mở một dấu ngoặc ở đây về tin tức khởi đầu cuộc hành quân được tuyệt đối giữ bí mật, ở cấp Quân Ðoàn và Sư Ðoàn, các tư-lệnh được trang bị một máy điên thoại Bảo Mật do Hoa-kỳ cung cấp điện thoại này dùng như điện thoại thông thường khác nhưng có thêm một bộ phân đặc biệt có một nút mật trên máy .Khi cần nói chuyện mật thì ấn nút này xuống tiếng nói được mã-hoá (encoding) trước khi chuyển đi qua các đường liên-lạc , nếú có bị địch chận đường dây để nghe lén thì không nghe được gì cả , vì âm thanh đã bị trộn lẩn lộn cao thấp nghe như tiếng hú . Máy bảo mật ở người nhận sẽ làm nhiệm vụ bạch-hoá (decoding) đổi âm thanh nhận được thành tiếng nói nghe được như bình thường.
Tóm lại tướng Nam muốn làm một cuôc hành quân di-tản ngay trong ngày 30-4 1975 vẫn còn kịp và nếu ông mang cả cánh quân thuộc Quân Đoàn IV với 3 Sư-đoàn mà quân số còn nguyện vẹn và còn bao đơn vị tinh nhuệ khác để di tản ra Phú Quốc hay đi qua Thái Lan (qua ngỏ Châu-đốc tiến lên tỉnh Kampot , khoảng 120 km, của Cambodia, để đến các tỉnh Thái Lan nằm cạnh Vịnh Thái Lan hay biên giới Thai Cambodia). Nếu điều này xảy ra Chiến tranh Việt Nam chắc sẽ còn kéo dài và chuyện gì sẽ xảy ra với hơn 100 ngàn quân của VNCH tử thủ tại đảo Phú Quốc hoặc biên thùy Thái Miên? và rồi liệu người ban đồng minh Hoa kỳ có nhỏ giọt viện trợ như họ đã từng làm trong quá khứ hay không ?: bất cứ chổ nào có cuốc nổi dậy thật sự để chống cộng-sản đều có được Hoa Kỳ có họ trợ giúp.
6 giờ tối ngày 30-4-75.
Tôi và một số quân nhân ngồi tại câu lạc bộ Quân Ðoàn, giờ này câu lạc bộ vẫn còn đông người như thường lệ mỗi ngày. Khoảng 1 giờ sau đó có người vào báo tin quân Việt cộng đã vào đến Dinh tỉnh trưởng, gần Bộ tư lệnh Quân đoàn, tôi vội thay thường phục và láy xe về nhà dọc đường phố bắt đầu có vài biểu ngư hoan-hô Việt Cộng.
Chuẩn tướng
Lê Văn Hưng Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam
Tư
Lệnh Quân Ðoàn 4 Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam và Tư lệnh Phó chuẩn tướng
Lê Văn Hưng đã tự sát trong đêm 30-4-75, những Phan Thanh Giản của
thế kỷ 20, đã nằm xuống với khí phách anh dũng, bất khuất và kiên
cường của người chiến sĩ Công-Hoà thề chết để bảo vệ quê hương . Miền
Nam mất, tự-do , dân chủ và dân quyền , ngục tù của quỹ đỏ cộng sản
bắt đầu trùm lên đầu nhân dân từ đây.
Sau 30 năm nhớ lại Quân Ðoàn IV, nơi mà tôi đã phục vụ hơn 9 năm, không
khỏi bùi ngùi thương nhớ bạn bè, đơn vị và Cần thơ yêu dấu, thương tiếc
và tưởng niệm những anh hùng tử sĩ đã bỏ mình để bảo vệ quê hương Việt
Nam, bảo vệ tiền đồn của thế giới tư do ngăn chận làn sóng đỏ tàn bạo
tràn xuống các nước Ðông Nam Á. Nếu không có tiền đồn Việt Nam
Cộng Hòa thì các nước lận cận như Thái Lan, Mã Lai và Indonesia sẽ khó
tránh khỏi thảm họa cộng sản xâm chiếm trong những thập niên 50 -60.
Ngày nay Ðế quốc đỏ Liên-sô đã bị tan rả mà không một ai có thể đoán trước, Chũ-nghĩa Cộng-sản bị đại bại nhanh chóng khắp nơi, các nước Ðông Âu đã mau chóng cởi bỏ chũ nghĩa độc tài tàn bạo cộng sản để trở về thế giới tự-do. Các nước này đã nhanh chóng từ bỏ chế độ cộng-sản vì khi cộng-sản Liên sô tiến chiếm đến đâu bắt họ phải theo nên khi Liên sô tan rả thì họ quay mặt rất nhanh khác với nước cộng sản còn sót lại như Cuba , Trung cộng và Việt Nam đã tự động đem chủ nghĩa này về áp đặt lên đất nước của mình.
Cầu mong rồi đây Cộng-sản Trung quốc , Việt Nam và Cuba cũng tan rả luôn .Tự-do,dân chủ và nhân quyền sẽ sớm trở lại cho nhân dân Viêt nam.
Ngày nay Ðế quốc đỏ Liên-sô đã bị tan rả mà không một ai có thể đoán trước, Chũ-nghĩa Cộng-sản bị đại bại nhanh chóng khắp nơi, các nước Ðông Âu đã mau chóng cởi bỏ chũ nghĩa độc tài tàn bạo cộng sản để trở về thế giới tự-do. Các nước này đã nhanh chóng từ bỏ chế độ cộng-sản vì khi cộng-sản Liên sô tiến chiếm đến đâu bắt họ phải theo nên khi Liên sô tan rả thì họ quay mặt rất nhanh khác với nước cộng sản còn sót lại như Cuba , Trung cộng và Việt Nam đã tự động đem chủ nghĩa này về áp đặt lên đất nước của mình.
Cầu mong rồi đây Cộng-sản Trung quốc , Việt Nam và Cuba cũng tan rả luôn .Tự-do,dân chủ và nhân quyền sẽ sớm trở lại cho nhân dân Viêt nam.
Phạm Cơ Thần
20-4-2005
20-4-2005
Chi tiết về cái chết oai hùng của tướng Nam và
tướng Hưng xin đọc trong những websites sau đây :
Hồi Ký Của Một Tùy Viên của Lê Ngọc Danh
Sự Thật Về Cái Chết Của Tướng Hưng của bà
Lê Văn Hưng http://www.generalhieu.com/lvhung-u.htm
KHUYẾT DANH * HỒI KÝ MỘT KHÁNG CHIẾN QUÂN
Hồi Ký 1 Kháng Chiến Quân Sau 30-04-75 Tại Việt Nam.
21/06/2012 by: hh75
|
VIỆT BÁO * NGUYỄN CAO KỲ
Ông Nguyễn Cao Kỳ nói về những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn
Tags: Sài Gòn, Bắc Việt, Ông Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Cao Kỳ, Việt Cộng, Hà Nội, bộ tổng tham mưu, ngày cuối cùng, Trần Văn Hương, như thế nào, tổng thống, Miền Nam, chế độ, di tản, nói về, tướng
Những năm đầu sau khi di tản sống ở Mỹ, ông Nguyễn Cao Kỳ đã viết cuốn hồi ký : “Chúng ta đã thất bại ở miền Nam như thế nào?”
Sau đây là một phần nhỏ của quyển sách ông Kỳ nói về
những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn – bắt đầu từ sau khi thất thủ
Buôn Ma Thuột.
Tôi đã định làm đảo chính
Sau khi Buôn Ma Thuột thất thủ, tôi đề nghị tướng Cao
Văn Viên (Tổng Tham mưu trưởng – NV) tập trung pháo binh, không quân
cùng hai trung đoàn dù, hoặc biệt động quân thiện chiến, và tôi tình
nguyện chỉ huy chiến dịch tái chiếm này.
Tướng Viên đồng tình với tôi, nhưng nó đã bị Tổng thống
Thiệu bác bỏ. Nguyên nhân của sự thất bại này là sự bất đồng giữa Bộ
Tổng Tham mưu và Tổng thống Thiệu.
Nhưng sai lầm của Thiệu là biến một cuộc rút lui chiến
thuật thành một cuộc tháo chạy tán loạn, kết cục là một sự tan rã của
một đạo quân có hơn 1 triệu người được trang bị hiện đại. Không bao lâu
sau khi Quân khu 2 – Quân đoàn 2 rút khỏi Tây Nguyên cùng với hàng chục
vạn người tị nạn trong cảnh hoảng loạn, cuộc bại trận cuối cùng ở miền
Nam đã bắt đầu.
Kể từ đó tình trạng hoang mang, dao động, mất tin tưởng
lan tràn trong quân lực và lây lan nhanh như một cơn dịch. Mất Tây
Nguyên đến lúc tướng Ngô Quang Trưởng (Tư lệnh Quân khu 1, Quân đoàn 1)
tập trung lực lượng về co cụm giữa Đà Nẵng) và một số trọng điểm ven
biển, nhưng binh lính không còn biết mình chiến đấu cho ai, để làm gì ?
Sĩ quan thì miệng kêu gọi lính tử chiến, nhưng lại thúc
giục gia đình di tản. Rốt cuộc cả Quân khu 1 – Quân đoàn 1 nơi có lực
lượng mạnh nhất gồm 3 sư đoàn lính dù, lính thủy đánh bộ và bộ binh, với
xe tăng thiết giáp, không quân hùng hậu nhất đã vỡ trận và thất bại
thảm hại. Tướng Trưởng đào thoát ra biển để tháo chạy trước khi Việt
Cộng chiếm Đà Nẵng.
Sau đó người Mỹ đến mua chuộc, thuyết phục tôi. Họ bảo
nếu tôi nghe họ thì dù miền Nam có thua trận, họ vẫn bảo đảm cho cả gia
đình tôi ra nước ngoài và chu cấp suốt đời. Vào giữa tháng 4/1975 Martin
và tướng CIA Timmes đã đến gặp tôi tiếp tục thuyết phục trong hai giờ
liền.
Nhưng tôi vẫn giấu Martin về ý định của mình – nếu có lực lượng, tôi sẽ dùng không quân và lính dù làm đảo chính lật đổ Thiệu.
Đến ngày 20/4, nhiều tin đưa về Bộ Tổng Tham mưu nói
rằng có tới 15 sư đoàn Bắc Việt đã áp tới gần vành đai phòng thủ bên
ngoài Sài Gòn, một số đơn vị đặc công đã tiến vào khống chế sân bay Biên
Hòa – lớn thứ hai ở miền Nam, ngoài ra còn 3 sư đoàn Bắc Việt cũng đã
tới gần phía Tây Nam Sài Gòn.
am, đồng thời trấn an nội các Sài Gòn rằng cứ bình tĩnh, thủ
đô (Sài Gòn) không hề lâm nguy. Rồi Timmes lại bất ngờ đến gặp tôi để
thăm dò việc Mỹ đưa Dương Văn Minh (Minh lớn) ra thay Thiệu để làm bình
phong thương lượng với Hà Nội. Tôi nghĩ nước cờ quái gở này là một phần
trong chính sách của Nhà trắng đã được vạch sẵn – thể hiện đã tới hồi Mỹ
bỏ rơi miền Nam. Martin đã buộc Thiệu phải từ chức hôm 21/4.
Nhớ lại, tôi không quên khi đó Thiệu – 52 tuổi, tuyên bố trong bài diễn văn thật thống thiết rằng Thiệu bị buộc phải từ chức, đồng thời cùng lúc ấy từ dinh Độc lập chúng tôi đã nghe thấy tiếng đại bác của Việt Cộng đã nổ ở ngoại ô Sài Gòn. Kế vị Thiệu là Phó Tổng thống Trần Văn Hương; một ông già chân tình nhưng không sáng suốt, thiếu bản lĩnh.
Sự cáo chung
Tiếp theo đó là một tuần lễ cuối cùng kinh hoàng và hỗn
loạn. Đến ngày 26/4, quân đội Bắc Việt đã cắt đứt Sài Gòn với đồng bằng
Sông Cửu Long – nơi cung cấp nguồn lương thực, thực phẩm chính và nằm
trong kế hoạch quân đội Sài Gòn sẽ lui về giữ đồng bằng miền Tây một khi
Sài Gòn thất thủ. Thế là Sài Gòn bị cô lập.
Tiếp theo, chiều 28/4 Việt Cộng đã dùng máy bay phản
lực A37 của Mỹ dội bom vào căn cứ Tân Sơn Nhất, càng gây nên sự hỗn loạn
không thể nào vãn hồi được trật tự. Tới lúc này tôi cảm thấy những tai
họa khủng khiếp sẽ xảy ra nếu chúng tôi không đầu hàng.
Song dẫu tuyệt vọng, tôi vẫn nuôi hy vọng thuyết phục
Trần Văn Hương – tân Tổng thống bổ nhiệm tôi nắm lấy và chỉ huy quân đội
để cứu vãn tình thế. Nhưng ông ta không chấp nhận.
Điều này cũng có nghĩa là trong hàng ngũ tướng lĩnh
chúng tôi không ai có thể làm gì được nữa. Và rồi sau một tuần làm Tổng
thống, với áp lực của người Mỹ, Trần Văn Hương lại phải giao chức lại
cho Dương Văn Minh, 59 tuổi, người được đại sứ Martin che chở và yêu cầu
lưỡng viện Quốc hội ủng hộ.
Sài Gòn chính thức phê chuẩn Minh lớn làm tổng thống
ngày 28/4. Cùng ngày, lúc gần 10 giờ đêm, quân đội Bắc Việt bắt đầu nã
đại bác và tên lửa vào nhiều nơi trong thành phố Sài Gòn.
Tiếp theo sáng 29/4 quân đội Bắc Việt lại nã pháo dữ
dội vào đường băng chính của sân bay Tân Sơn Nhất và trúng kho nhiên
liệu bùng phát những đám lửa và cột khói lớn, nhiều máy bay trên đường
băng nổ tung.
Không nghi ngờ gì nữa, đợt tấn công cuối cùng đánh
chiếm Sài Gòn đã mở màn, giờ cáo chung của chế độ Cộng hòa Nam Việt Nam
đã điểm, không cách gì ngăn cản nổi. Lúc này tôi chợt nghĩ và tự hỏi –
phải chăng người Mỹ ngây thơ tin rằng Minh lớn “có giá” để Hà Nội chấp
nhận thương lượng!
Trước tình thế quá quẫn bách không còn biết làm cách
nào để đối phó hãm đà tấn công của Cộng sản lại, tôi vội vã đánh xe lao
ngay tới Đại sứ quán Mỹ – thì bên ngoài một cảnh hỗn loạn, nhốn nháo,
hốt hoảng chưa từng có trước một sứ quán của một quốc gia hùng mạnh nhất
thế giới - mà đội quân bảo vệ sứ quán – những tay súng thủy quân lục
chiến Mỹ hộ pháp với khẩu M16 lăm lăm trên tay vẫn đành bất lực.
Lúc này là cuối ngày 29/4, mặc dù hết sức cố trấn tĩnh
để trấn an nội các mới của tướng Minh lớn, nhưng đại sứ Martin đã không
giấu nổi cảnh tuyệt vọng đang diễn ra ngay trước sứ quán của ông – người
đại diện cao nhất của Hoa Kỳ ở Sài Gòn lúc này.
Được biết Martin còn cố nán lại để chờ thông tin từ
trại David xem có hy vọng gì về sự chấp nhận thương lượng của Bắc Việt
không. Nhưng rồi tất cả đều đã muộn và đổ vỡ. Hà Nội tiếp tục lệnh cho
các cánh quân thần tốc đánh vào nội đô, và mờ sáng hôm sau Martin đành
phải lao lên trực thăng trên sân thượng của sứ quán Mỹ để ra tàu của hạm
đội 7 đang neo đậu chờ ngoài khơi theo lệnh của tổng thống Ford từ Nhà
trắng.
Tôi lại đánh xe đến Bộ Tổng tham mưu, nhưng lúc này,
tướng ba sao Đồng Văn Khuyên, Tổng tham mưu trưởng chính thức vừa được
Minh lớn bỏ nhiệm thay tướng bốn sao Cao Văn Viên – cũng đã bổ nhiệm Sở
tháo chạy và rời Sài Gòn ít giờ trước đó. Lúc này cả ngày 29 và đêm sáng
30/4 trên bầu trời Sài Gòn đầy rẫy từng đàn trực thăng Mỹ lao vào, lao
ra như con thoi để chở các quan chức Mỹ di tản, nhưng cao xạ của Việt
Cộng không cần bắn vào những kẻ đã bỏ chạy.
Đến lúc này tôi thực sự cảm nhận một cách cay đắng rằng
mọi hy vọng đều đã tiêu tan. Và, tôi tự lái chiếc trực thăng riêng của
mình ra chiếc tàu của hạm đội 7 để cùng di tản với ông Martin sáng hôm
30/4, còn gia đình tôi thì đã rời Nam Việt Nam trước đó mấy ngày.
Bùi Đình Nguyên tóm lược
|
||||||
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
|
TIÊU NHƠN LẠC * MỘT KỶ NIỆM KHÓ QUÊN ĐÊM 30/4/1975
Hồi Ký của Tiêu Nhơn Lạc (MĐC67)
Tôi và bà xã đang ăn cơm, lúc đó khoảng 7 giờ tối ngày 30/4/75, thì có một toán VC mặc đồ đen,dép râu, nón tai bèo, mang súng AK và M16, cổ quấn khăn rằn màu TQLC.
Tôi nghe bước chân họ nện trên sàn cement, vừa đi vừa nói chuyện lung tung (sau khi đã "tiếp thu" xong thị xã An Xuyên Cà Mau vào buổi trưa), đi ngang qua nhà tôi đang trú ngụ (Tôi mướn nhà của thương phế binh VNCH). Tôi vội ngừng đũa và ngẩng mặt nhìn ra phía cửa, vừa lúc đó một anh "giải phóng quân" nhìn ngoái lại phía tôi, rồi vội vã bước vào trong nhà tôị. Anh ta mỉm cười thật tươi, như mừng rỡ khi gặp lại người thân quen, anh ta ấp úng:
- Ông... Thiếu úy Lạc phải hông? Tôi thoáng chút ái ngại và đề phòng thận trọng.
- Dạ, phải! Tôi đây. (Người này không biết tôi đã thăng cấp bậc Trung úy từ năm 1972 rồi)
- Thiếu úy không nhận ra em hả? Em là Hấu ở Đại đội 473 năm Th/úy làm Đại đội phó đó
Tôi lấy lại chút bình tĩnh khi nghe người "giải phóng quân" tự xưng là em. Tôi liền cho bộ não của tôi "phản hồi" dòng ký ức thật nhanh về những ngày tháng cũ khi tôi làm ÐĐP/ÐĐ473 thuộc CK/ Hải Yến Cà Mau. Tôi tự tin khi nhớ chính xác ra ngay tên Lê văn Hấu là một âm thoại viên thuộc Trung đội 1 của Chuẩn úy Khánh đã đào ngũ trong một phiên gác đêm tại tiền đồn ở CK/ Hải Yến cách nay đã 3,4 năm rồi... Đêm hôm đó, vị trí Hấu từng gác mỗi đêm bị bỏ trống khi anh Trung Sĩ Nhu đi tuần tra phát hiện được. Lục lọi, hỏi han trong trung đội chẳng thấy bóng dáng Hấu đâu, thì ra Hấu đã "chuồn" ra khỏi trung đội qua lối cửa hậu (không có gài lựu đạn và trái sáng) mà không ai hay biết Hấu đã ra đi từ lúc nào trong phiên gác của Hấụ. Kiểm điểm lại thì thấy máy PRC25 vẫn còn nằm phía trên giường ngủ của Hấu và của Ch/úy Khánh, chỉ mất một M16 với 2 cấp số đạn cùng vàì trái lựu đạn cá nhân của Hấu mang thôi.
Trước măt tôi bây giờ, Hấu vẫn còn mang dáng nét của một người lính nông dân, mộc mạc, thật thà. Hấu lại mỉm cười lần nữa như muốn nhắc nhở tôi một sự việc đã xảy ra cách nay vài năm, trong lúc tôi vừa nhận ra Hấu trong tức khắc.
À! Tôi nhận ra Hấu rồi... Tôi dã lã bước tới vỗ vai Hấu, ỡm ờ như thân thich. Liền khi dó, hai người "giải phóng quân" trẻ khác từ ngoài sân bước vào trong nhà tôi, nhỉn thấy cảnh 2 người tôi như thân mật. Họ gật đầu chào tôi. Lúc này, tôi đang mặc bộ đồ bà ba đen của Xây Dựng Nông Thôn trông cũng giống đồ lính giải phóng quân lắm, tôi gật đầu chào lại. Họ mà trong lòng quá ư hồi hộp vì không biết việc gì sẽ đến với tôi đêm nay. Thình lình, Hấu quay qua 2 người giải phóng quân giới thiệu tôi:
- Ông.. Thiếu úy Lạc, đai đội phó đại đội 473 của tao hồi trước đó. Nghe qua lời giới thiệu của Hấu xong, tôi thoáng "lạnh xương sống". Phải chi, giữa ba quân của ta mà được giới thiệu như vậy thì cũng không có gì để nóí; đàng này, ngay giữa đêm 30/4/75 trong lúc "trắng đen, vàng thau" lẫn lộn, mình lại là kẻ "sa cơ" mà nghe qua lời giới thiệu thật "rùng mình", cơ hồ như mồ hồi đang "rịn" ra . Tôi còn nhớ, lúc đó tôi nhăn nhó khó chịu lắm và cảm thấy không chút thiện cảm, ân cần nào khi bỗng nhiên phải giáp mặt với những người anh, em phía bên kia; trong lúc tôi chưa kịp chuẩn bị tinh thần để đối phó. Màn giới thiệu của Hấu xong, Hấu giục tôi đừng ăn cơm nữa, "đi chơi" với Hấu đêm nay, vừa nói với tôi mà cũng vừa nói để bà xã tôi nghe. Tôi nhìn qua thấy bà xã tôi đứng thẫn thờ như kẻ mất hồn mà không mở miệng được lời nàọ. Tôi quay bước định vào buồng trong lấy ít tiền đem theo, Hấu nhanh nhẩu lên tiếng:
- Thiếu úy đừng lấy gì theo hết, em có tiền mà...! Tôi đành quay phắt trở lại và nói với bà xã tôi vài lời trước khi theo mấy anh, em phía bên kia "đi chơi".
Vừa đi song song với Hấu qua các dãy phố đêm trong thị xã Cà Mau dưới ánh đèn điện vàng nhạt không đủ sáng,sau lưng là 2 anh lính giải phóng quân; tôi ngỡ như mình đang bị "áp tải" đến một cơ quan nào trong đêm nay vậy. Tôi đi như người bị "mộng du". Thật ra, tôi cũng chưa biết được ý định của Hấu như thế nào đối với tôi - một cấp chỉ huy cũ - khác chiến tuyến với Hấu. Trong lúc nàỵ tôi tự xét lòng mình thấy không có gì "phiền phức, buồn lòng" với người anh em phía bên kia khi tôi còn là ĐÐP/ĐÐ473; giữa 2 chúng tôi khi xưa cũng không xảy ra chuyện gì để phải lưu tâm, hận thù. Tôi yên chí đi bên Hấu, nhưng cũng không làm sao "trấn an" được lòng mình. Hấu dẫn tôi cùng 2 người bạn phía bên kia đi lòng vòng qua nhiều khu phố mà đêm nay nhộn nhịp như hội chợ. Các hàng quán còn bán buôn "ỳ xèo" như cùng mừng "trong ngày vui đại thắng". Tôi cũng không dám hỏi Hấu nguyên nhân tại sao Hấu bỏ đơn vị ra đi theo phía bên kia, ngược lại, Hấu hỏi han tôi rất nhiều về các anh, em trong ĐÐ473 và Hấu nói cũng dã từng theo dõi "bước hành quân" của ĐÐ473. Hấu nói nhiều như để lấp đầy khoảng trống "ngột ngạt" của buổi tao ngộ bất đắc dĩ này... Tôi được Hấu đưa đi ăn uống no nê mà Hấu cứ giục tôi ăn thêm gì nữa đi: Thiếu úy đừng lo, em có tiền mà!! Cứ mỗi câu nói: Thiếu úy đừng lo, em có tiền mà ... làm tôi thêm "ngượng ngùng". Dần dà, tôi lấy lại được chút bình tĩnh, khi tôi tạm đánh giá đêm hội ngộ này là không có vấn đề "ân oán", mà tôi luôn nhủ rằng Hấu là "bạn" của tôi xa nhau lâu ngày mới gặp lại. Hấu đưa tôi vào một tiệm chụp hình. Tôi hết sức lưỡng lự mà không sao từ chối được. Tiệm chụp hình đêm nay cũng "hốt bạc", vì người anh em phía bên kia vào, ra chụp hình như đi trẩy hội...
Vào khoảng gần 12 giờ đêm, Hấu đưa tôi trở về nhà. Tội nghiệp bà xã tôi ở nhà trông đợi mỏi mòn, lòng bà xã như lửa đốt, đứng, ngồi không yên. Thấy tôi trở về an toàn với Hấu, bà xã lặng thinh rướm nước mắt.
- Thiếu úy ở nhà nghỉ. Đừng đi ra ngoài nghe. Sợ nhóm khác tụi nó làm ẩu
Nghe qua lời căn dặn ân cần của Hấu, thực tình tôi biết ơn tấm lòng của Hấu lắm. Nghĩ cho cùng ,Hấu đối với tôi đêm nay rất chân tình như huynh đê chi binh... Lời dặn dò của Hấu như muốn bảo vệ, che chở cho tôi trong cái "quyền hữu hạn" của một người lính giải phóng quân hèn mọn trong ngày "tiếp thu" thị xã Cà Mau còn biết thương, yêu một cấp chỉ huy cũ của mình nay đã "xuống ngựa". Bắt tay tôi từ giã Hấu nói thòng thêm một câu:" Nếu ngày mai em còn ở lại thị xã, em ghé qua thăm Thiếu úy lần nữa."
Tôi quay trở vào trong nhà mà lòng nghe bối rối, tôi bàn với bà xã là sáng sớm ngày mai (1/5/75), Tôi phải tức tốc rời khỏi thị xã Cà Mau về quê quán của tôi là Trà Vinh trước, bà xã tôi ở lại lo thu xếp đồ đạc gởi nhà bà con bên vợ tại Cà Mau rồi về Trà Vinh sau. Vài ngày sau bà xã tôi về đến Trà Vinh với gương mặt hốc hác như người bị bịnh lâu ngàỵ. Tôi đươc biết, từ sau ngày tôi rời Thị xã Cà Mau, thì Hấu cũng không đến nữa; trong khi đó ban quân quản ra lệnh đuổi tất cả những gia đình trú ngụ trong các dãy nhà thương phế binh trong vòng 1 tuần lễ, nên bà xã tôi tất tả "di tản" bỏ lại tài sản của tôi tại dãy nhà TPB cho "kách mạng".
TIÊU NHƠN LẠC
Cuu SVSQ K6/68/TB/TD
Newyork City
No comments:
Post a Comment