Thursday, October 20, 2016

DI TẢN

RFA * 30-4-75


Hồi ức tuần lễ cuối cùng ở Sài Gòn, 30/4/1975 kết thúc chiến tranh VN

Ngày 30 tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh VN kéo dài 21 năm đã kết thúc, hai triệu ngưới Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc thiệt mạng, bên cạnh đó là sự hy sinh của 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ, đồng minh chính yếu của quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Nam Nguyên, phóng viên đài RFA
2008-04-30
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Phi trường Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn hôm 30-4-1975.
Phi trường Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn hôm 30-4-1975.
AFP PHOTO
Bấm vào đây để nghe bài tường trình này
Download phần âm thanh này

   Tháng 3/75 sau khi ra lệnh rút quân khỏi Pleiku Kontum, một quyết định dẫn tới sự sụp đổ hỗn loạn ở vùng cao nguyên trung phần và các tỉnh phía bắc VNCH, chạy dài từ Huế vào  tới Phan Rang.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức

Ngày 21/4/1975 TT Nguyễn Văn Thiệu chịu áp lực từ nhiều phía và quyết định từ chức.
Ông nói: “Thưa đồng bào anh chị em chiến sĩ cán bộ các cấp, tôi tuyên bố từ chức tổng thống và theo hiến pháp phó tổng thống Trần Văn Hương sẽ đảm nhận chức tổng thống.”
Thưa đồng bào anh chị em chiến sĩ cán bộ các cấp, tôi tuyên bố từ chức tổng thống và theo hiến pháp phó tổng thống Trần Văn Hương sẽ đảm nhận chức tổng thống.
Khi nhà giáo Trần Văn Hương lên nắm giềng mối quốc gia, thì lúc đó 6 sư đoàn quân cộng sản Bắc Việt đang khép chặt vòng vây thủ đô Saigon, nơi có 3 triệu ngừơi sinh sống.
Làm thế nào cho dân được sống yên…làm thế nào cho máu đừng đổ thịt đừng rơi thì công của đại tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời, dầu thế nào tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của đại tướng.
Tổng thống Trần Văn Hương
Nhận nhiệm vụ được 5 ngày, tới ngày 26/4 Ông Trần Văn Hương yêu cầu quốc hội tìm người thay thế mình, một người mà theo ông có đủ khả năng tìm giải pháp vãn hồi hoà bình hoà giải dân tộc.
Quốc hội ra nghị quyết chỉ định đại tướng Dương Văn Minh vào chức vụ tổng thống.
Chiều ngày 28/4/1975 Lễ Bàn Giao giữa hai ông Trần Văn Hương và Dương Văn Minh được tổ chức tại Dinh Độc Lập.
Lời tổng thống Hương liên tục với tường thuật của phóng viên: “ …Làm thế nào cho dân được sống yên…làm thế nào cho máu đừng đổ thịt đừng rơi thì công của đại tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời, dầu thế nào tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của đại tướng….(vỗ tay)….(tường thuật)
Sau khi nguyên tổng thống Trần Văn Hương đọc xong bài diễn văn trao nhiệm, chúng tôi nhận thấy một sĩ quan đã gỡ huy hiệu tổng thống hai con rồng bay xuống…và thay thế bằng một huy hiệu tổng thống mới…với hình một hoa mai năm cánh…
Đây là phóng viên Hệ Thống Truyền Thanh VN, quí thính giả đang theo dõi trực tiếp truyền thanh lễ trao nhiệm chức tổng thống VNCH giữa ông Trần Văn Hương và cựu đại tướng Dương Văn Minh…
Xe tăng quân đội miền Bắc tiến vào dinh Ðộc Lập trưa ngày 30-4-1975. AFP PHOTO
Xe tăng quân đội miền Bắc tiến vào dinh Ðộc Lập trưa ngày 30-4-1975. AFP PHOTO
…Làm thế nào cho dân được sống yên…làm thế nào cho máu đừng đổ thịt đừng rơi thì công của đại tướng đối với hậu thế sẽ lưu lại đời đời, dầu thế nào tôi thiết nghĩ đất nước này không bao giờ quên công lao đó của đại tướng…. Thưa quí thính vào lúc này bên ngoài dinh Dộc Lập chúng tôi nhận thấy trời đã bắt đầu mưa nhỏ và Saigon đang trải qua một buổi chiều u ám như hoàn cảnh hiện tại của đất nước… ”
Những lời quí thính giả vừa nghe là của phóng viên Nguyễn Mạnh Tiến thuộc Hệ Thống Truyền Thanh VN. Như một sự tình cờ, phóng viên này đang làm việc cho Đài Á Châu Tự Do. Anh chính là Nam Nguyên của Ban Việt Ngữ.
Nam Nguyên: “Vâng ngày ấy tôi còn trẻ lắm 29 tuổi, bây giờ nghe lại hết sức xúc động. Không ngờ còn có người giữ được những đoạn băng đáng lẽ đã đi vào quên lãng.”
Thưa quí thính giả cho đến 30 năm sau, vẫn chưa có lời giải đáp là tại sao Nam Việt Nam lại tan rã nhanh chóng như vậy. Tuy nhiên theo nhiều nhà phân tích thời cuộc, thì kể từ lúc tổng thống Thiệu từ chức ngày 21/4 và vội vã ra đi 2 ngày sau đó, sự kiện chế độ VNCH cáo chung chỉ còn là vấn đề thủ tục.

Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng

Đại Tướng Dương Văn Minh được xem là người thích hợp nhất để nhận trách nhiệm ra lệnh đầu hàng. Mời quí vị nghe lại tuyên bố của tổng thống Dương Văn Minh được phát đi trên Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia vào lúc 10 giờ sáng ngày 30/4/1975:
“Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam…vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó."
Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng, vì chúng tôi ở đây chờ gặp chính phủ CMLTCHMNVN để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự…tránh sự đổ máu vô ích cho đồng bào…”
Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam…vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng...
Tổng thống Dương Văn Minh
Sau khi Đài Phát Thanh Saigon lập lại nhiều lần lệnh buông súng của Tổng thống Dương Văn Minh, cũng như nhật lệnh tương tự của thiếu tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người được bổ nhiệm làm phụ tá cho tổng tham mưu trưởng sau cùng là Trung Tướng Vĩnh Lộc. Quân đội đã thi hành lệnh giao nạp vũ khí cho những người chủ mới của đất nước.

Xe tăng quân đội miền Bắc tiến vào dinh độc lập

Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam…vì lẽ đó tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sĩ VNCH hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và ở đâu ở đó.
Xe Tăng Cộng Sản Bắc Việt tiến vào khuôn viên Dinh Độc Lập lúc 10g45 phút sáng ngày 30/4, đánh dấu sự cáo chung của chế độ VNCH. Một chế độ được xây dựng bởi những người không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Chế độ ấy trải qua hai nền cộng hoà tồn tại được 21 năm.
Cuộc chiến quốc cộng huynh đệ tương tàn làm thiệt mạng hơn hai triệu người Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc. Phía đồng minh của VNCH, 58 ngàn quân nhân Mỹ tử trận cùng hàng ngàn binh sĩ của các nước Nam Hàn, Thái Lan, Úc và Tân Tây Lan.
Thưa quí thính giả, cũng là một tình cờ lịch sử, khi cờ Mặt Trận Giải Phóng đã tung bay trên Dinh Độc Lập, thì các đại diện chính trị của bên cộng sản chưa vào Saigon để tiếp nhận chính quyền.
Do vậy Đại tá Bùi Tín, một nhà báo quân đội BV đi theo cánh quân làm phóng sự, lúc đó đã được bộ đội uỷ quyền vào dinh gặp chính quyền Dương Văn Minh. Ông Bùi Tín hiện nay tỵ nạn chính trị ở Pháp. Từ Paris ông Bùi Tín kể lại giây phút lịch sử khi ông giáp mặt ông Dương Văn Minh:
“ Tôi là người đầu tiên tiếp xúc, ông Dương Văn Minh và tất cả đứng dậy…ông Minh nói là chúng tôi chờ quí vị tới từ sáng nay, đặng chuyển giao chính quyền… tôi có trả lời rằng là, tất cả chính quyền các ông không còn nữa qua cuộc tấn công của chúng tôi…cho nên không thể bàn giao cái gì đã không còn nữa…”

Ðại sứ Marin không muốn rời Sài Gòn

Vào những thời khắc sau cùng của chế độ VNCH, chuyện gì xảy ra ở Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ? Câu hỏi này đã được chúng tôi đặt ra với ông Robert Funsett, người vào thời điểm đó đang là Người Phát Ngôn cho Bộ Ngoại Giao Mỹ. Ông Funsett kể lại với Ban Việt Ngữ chúng tôi như sau. (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)
Ðúng giờ này, tức là vào chiều ngày 29 tháng Tư năm 1975, giờ Washington, Sài Gòn bắt đầu sụp đổ. Từ Trung Tâm Ðiều Hành ở Bộ Ngoại Giao, ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Phillip Habib và tôi nói chuyện lần cuối cùng với ông Ðại Sứ Graham Martin.
Ðại Sứ Martin không muốn rời Việt Nam, vì ông ta muốn kéo dài thì giờ để có thể cứu thêm những người khác. Cuối cùng, chúng tôi phải chỉ thị bắt ông đại sứ phải rời nhiệm sở. Ông đại sứ Martin nói chuyện với chúng tôi và tôi còn nhớ là ông ta bảo là sẽ lên sân thượng của Tòa Ðại Sứ, dùng trực thăng để ra hạm đội, và chúng tôi nói lời từ giã với nhau.
Không đầy một giờ đồng hồ sau đó, đại sứ Martin gọi điện lại báo đã ra tới hạm đội bình yên.
Người VN đã phải trả giá cho chiến thắng 30/4/75 bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Nhiều gia đình người dân miền Nam theo lời ông Kiệt, rơi vào hoàn cảnh có ngừơi thân vừa ở phía bên này, vừa ở phiá bên kia. 30/4 khi nhắc lại, vẫn theo ông Kiệt có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt

Quan điểm của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt

Ông Võ Văn Kiệt, cựu thủ tướng nhà nước CHXHCN Việt Nam, vào thời điểm tháng Tư năm 75 là người phụ trách thành uỷ Saigon cùng với ông Mai Chí Thọ. Tháng Tư năm nay ông Võ Văn Kiệt khi trả lời báo chí nhà nước, đã nhận định về quyết định gọi là sáng suốt của ông Dương Văn Minh.
Chúng tôi xin trích dẫn báo Quốc Tế, ông Võ Văn Kiệt cho rằng đại tướng Dương Văn Minh nhậm chức ngày 28/4/1975, ngày mà một nhà quân sự như ông Minh có thể đoán được sự thất thủ của Saigon.
Theo ông Võ Văn Kiệt, giả dụ ông Minh để cho các tướng lãnh dưới quyền tử thủ thì quân Bắc Việt sẽ vẫn chiến thắng, nhưng Saigon khó mà nguyên vẹn, chưa kể biết bao sinh mạng và tài sản của ngừơi dân nữa. Nhà cựu lãnh đạo của chính phủ Hà Nội nhấn mạnh rằng, không thể quên vai trò của đại tướng Dương Văn Minh trong việc giữ cho Saigon được nguyên vẹn.
Thưa quí thính giả lần đầu tiên, một cựu lãnh đạo cộng sản nói rằng, người VN đã phải trả giá cho chiến thắng 30/4/75 bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Nhiều gia đình người dân miền Nam theo lời ông Kiệt, rơi vào hoàn cảnh có ngừơi thân vừa ở phía bên này, vừa ở phiá bên kia. 30/4 khi nhắc lại, vẫn theo ông Kiệt có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn.
Ông Kiệt cho rằng đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu. Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt còn nói là ông muốn lưu ý mọi người rằng, làm được một chiến thắng kỳ vỹ như 30/4/1975 mà say sưa, như tự mãn nguyện thì cũng đã từng phải trả giá. Theo ông thế giới đã đi rất xa, Việt Nam phải nhanh chân chứ đừng tự ru ngủ mình để rồi sẽ còn bị bỏ xa hơn nữa.
© 2005 Radio Free Asia
http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/April30-1975/Memories_April30_NNguyen-20050430.html-10122007023241.html

CON TÀU VIỆT NAM THƯƠNG TÍN

CON TÀU VIỆTNAM THƯƠNG TÍN
Số phận của những người trở về
LGT : 17 giờ ngày 29/04/1975, cuộc "thương thuyết" giữa chính phủ đầy ngây thơ và ảo tưởng mệnh danh "thành phần thứ ba" với quân Cộng Sản Việt Nam đã hoàn toàn tan vỡ..Quân đội Cộng Sản tập trung hoả lực và cơ giới tiến thẳng vào thủ đô Sài Gòn. 10:30 sáng ngày 30/04/1975, với danh nghĩa Tổng Thống, cựu Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Trước đó không đầy 24 giờ, Dương Văn Minh ký cho Nguyễn Hữu Chung một Sự vụ lệnh đưa chiếc tàu Việt Nam Thương Tín đi, và một Sự vụ lệnh cho Nguyễn Hữu Chung đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam đưa một số vàng tồn trữ ở Ngân hàng này xuống tàu Việt Nam Thương Tín để khỏi lọt vào tay Cộng Sản.
Nguyễn Hữu Chung đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam định lấy vàng đem đi, Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo và Thống Đốc Lê Quang Uyển nhất định không chịu trao, vì muốn giữ lại trao cho VC để lấy điểm.


Bàn cãi nhau trong vòng 1 tiếng đồng hồ, Nguyễn Hữu Chung không thuyết phục được Nguyễn Văn Hảo và Lê Quang Uyển, nên Nguyễn Hữu Chung phải lật đật xuống tàu Việt Nam Thương Tín để ra đi.
Tàu Việt Nam Thương Tín ra đến sông Lòng Tảo bị Cộng quân nã B-40 vào hông tàu, làm thủng một mảng lớn. Nhà Văn Chu Tử, Chủ Nhiệm Nhật báo Sống ở Sàigòn đã bị đạn B-40 của Cộng Sản Việt Nam giết chết trên tàu Việt Nam Thương Tín. Vậy mà khi cập bến Guam, phần do nội tuyến VC tuyên truyền, phần vì ly biệt người thân, 1652 người đã chấp nhận lên tàu Việt Nam Thương Tín quay trở lại Việt Nam, vào tháng 10/1975, dưới sự điều khiển của HQ/Trung ta' Trần Đình Trụ.
Sau khi cập bến, tất cả những người trở về đã bị cầm tù ngoại trừ một bé trai 7 tuổi.
Cựu Trung Tá Trụ đã bị tù 13 năm. Cuối cùng ông được trả tự do và ông cùng với gia đình đã được định cư tại Hoa Kỳ qua diện HO năm 1990.
Kể từ khi cộng sản chiếm đóng miền Nam, nhiều người đã hậm hực tiếc rẻ không chạy thoát trước ngày 30/04, ra ngoại quốc. Vì thế, mọi người đã sững sờ khi nghe tin hơn 1600 người "đòi về" với chế độ cộng sản chứ không thèm ở trên xứ tự do!
Người Mỹ trên đảo lúc đó đã tìm đủ mọi cách để dỗ dành, chiều chuộng họ để họ ở lại nhưng không được. Họ nhất quyết tin tưởng nếu "thành tâm" về với cộng sản như vậy, họ sẽ được cộng sản đãi ngộ tử tế và coi như anh hùng ! Lúc đó, người nào cũng hy vọng là sự trở về của họ sẽ được cộng sản thích thú chấp nhận và đãi ngộ tử tế. Người Mỹ thì biết những người trở về sẽ vô cùng cực khổ vì thiếu thốn nên đã trang bị cho họ đủ thứ mùng mền, chăn gối, lương thực ê hề. Có người đã phải nói người Mỹ cho nhiều đồ như cho con gái về nhà chồng!
Nào ngờ đâu khi tàu Việt Nam Thương Tín cập bến Nha Trang, Việt Cộng đã cho lột sạch sẽ quần áo và của cải trước khi đưa tất cả vào trại giam.
Mỗi người phải trút bỏ hết quần áo và được cấp phát 2 bộ quần áo cũ hay quần áo tù. Cộng sản làm như vậy để tiện lục soát trong quần áo và tịch thu toàn bộ của cải, kể cả những bộ quần áo của người tỵ nạn.
Kết quả là mỗi người được cộng sản đón bằng cái còng số 8, bất kể đàn bà trẻ con ! Tất cả phải lột sạch quần áo để công an khám người, khám tóc tìm cái gì có thể giấu được. Quần áo bị tịch thu để công an có thời giờ lục soát kỹ càng và lấy luôn. Trong số những người về có tới 400 sĩ quan cảnh sát, và mấy trăm sĩ quan quân đội. Đàn bà và trẻ con bị giam tối thiểu 9 tháng, những người khác từ 5 năm trở lên, tuỳ theo thành phần, lý lịch. Một số lớn bị tình nghi do CIA "cài" về để làm gián điệp, tình báo thì còn bị giam lâu hơn!
Thân nhân gia đình của những sĩ quan trở về đã thất vọng và nguyền rủa chồng họ không tiếc lời. Báo hại những người vợ nghèo nàn này còn phải lo tiền bạc đồ ăn đi thăm nuôi. Nhiều bà đã quá giận bỏ chồng khiến cho gia đình tan nát. Các "nạn nhân" chỉ còn cúi đầu sống trong sự tiếc hận, tủi hổ với lương tâm và với mọi người, và tiếc nuối một dịp may đã mất đi vĩnh viễn.
Nhưng trong số những người trở về VN trên tàu Việt Nam Thương Tín cũng có nhiều hoàn cảnh thương tâm. Thí dụ như Trường Sa. Trả lời phỏng vấn của Thy Nga, ông cho biết: Khi đó, tôi là Chỉ huy trưởng cái đoàn hộ tống công-voa các thương thuyền của các nước đi tiếp tế cho chính quyền Lon Nol tại Campuchia. Ngày 29 thì tôi ở Vàm An Long trên sông Cửu Long. 


Khi mà tôi liên lạc với các cấp chỉ huy của tôi thì người ta đi hết rồi, thành ra đêm hôm đó, tôi dùng một chiếc tàu nhỏ trở về Sài Gòn nhưng không vô được bên trong nữa. Và từ đó, tôi gặp chiến hạm từ Sài Gòn đi ra, tôi lên chiến hạm, đi tới đảo Guam luôn. Khi lên tàu, tôi tìm khắp trên các chiến hạm đang di tản, không có gia đình tôi. Không liên lạc được với gia đình, vợ con tôi ở Sài Gòn. Tôi không bỏ rơi gia đình trong cảnh khó khăn như thế. Khi đến đảo Guam thì tôi xin Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc can thiệp cho tôi trở về Việt Nam. Hoàn cảnh nào, tôi cũng chấp nhận hết. Vì vậy, tôi theo tàu Việt Nam Thương Tín trở về Việt Nam. 


Khi tàu tới Nha Trang, VC bắt tôi lên Ty Cảnh Sát cũ tại Nha Trang ở đó
2 tháng, rồi chuyển ra trại A 20 Phú Khánh. Một thời gian ngắn sau thì chuyển ra Bắc, trại Nghệ Tĩnh đến năm 1984, mất cả thảy 9 năm ! Chỉ vì đã ra đi, rồi lại trở về. Năm 1986 thì tôi vượt biên, bị bắt. Từ cửa biển vào Mỹ Tho, dọc đường tôi bị đánh dữ lắm. Họ giam tôi 45 ngày trong xà-lim tối, sau đó, họ cho ra lao động. 2 năm sau thì thả tôi về.
Đến tháng 04/1989, tôi tiếp tục đi nữa. Lần này thành công, tôi cùng 3 con đến Pulau Bidong, phải chờ 28 tháng, mới được Canada nhận vào.


Giống như nhạc sĩ Trường Sa, ông M Ngọc Phan cũng vì vợ con còn kẹt lại ở Việt Nam, nên đã từ đảo Guam trở lại VN trên tàu VN Thương Tín để rồi trải qua 6 năm tù đầy trong trại tù cải tạo của CS và 12 năm sau, ông và gia đình mới vượt biên thành công, đến được Hoa Kỳ. Sau đây là đoạn hồi ký của ông.

* * * * *
Thằng Quốc ngả người về phía bố, mặt nhăn nhó vì ù tai khi chiếc Boeing
747 hạ thấp để chuẩn bị đáp xuống phi trường San Francisco .
- Ba ơi, lỗ tai con bị nhức quá.



- Ráng chút đi con, mình sắp tới nơi rồi. Máy bay xuống tới phi đạo là hết ngay ấy mà. Coi mẹ và các chị em con có ai than thở gì đâu.
Nói xong, tôi lấy tay day day hai bên lỗ tai thằng nhỏ, giúp nó làm giảm áp lực không khí cho dễ chịu.
Rồi máy bay cũng đã hạ cánh an toàn. Bên ngoài nắng nhạt cuối ngày trải dài lên hai tấm thảm cỏ màu xanh lá mạ chạy dài tít tắp hai bên phi đạo. 

Tôi thở dài nhẹ nhõm:
- Thế là cuối cùng mình đã đến nơi, muộn hơn những 12 năm.
Máy bay vừa ngừng, đèn an toàn chưa tắt thì mọi người đã ào ào đứng dậy, báo hại nhân viên phi hành phải la ơi ới, yêu cầu bà con ngồi xuống lại.




Chuyến máy bay này do Cao Uỷ thuê bao để chở người tỵ nạn, mà phe ta phần đông không rành tiếng Anh và luật lệ trên máy bay mới ra nông nỗi.
Riêng tôi nghĩ mình chờ đã bao năm nay, thì có chờ thêm vài chục phút nào có sá gì, nên nói với vợ con cứ từ từ, chờ cho mọi người xuống hết rồi mới đứng dậy lấy hành lý.
Hoàn thành xong thủ tục Quan Thuế, người đại diện Hội Bảo Trợ hướng dẫn gia đình tôi đến... Cổng Thiên Đàng.




Thật đúng như vậy, bao nhiêu là người thân ăn mặc đẹp đẽ, đang náo nức chờ đợi đón rước gia đình tôi vào miền đất hứa mà tôi đã trót một lần từ bỏ.
Sau những niềm vui và choáng váng với hạnh phúc chan hoà giữa đại gia đình anh chị em trong bữa tiệc đoàn tụ, nằm trên giường đã lâu mà tôi vẫn còn thao thức mãi. Vì khác biệt múi giờ cũng có, mà cái chính là đầu óc vẫn còn quay cuồng, với quá khứ sau bao năm rồi mà vẫn còn hiển hiện như mới ngày hôm qua.



* * * * *
    Vào đầu tháng 04/1975, căn cứ Hải Quân Phú Quốc cấm trại 100 % vì tình hình đất nước càng lúc càng mịt mờ, tôi đưa vợ con lên tàu vào đất liền để rảnh tay lo nhiệm vụ của một Sĩ Quan luôn luôn chấp hành lệnh cấp trên.
    Bé Dương mới hơn 2 tuổi và vợ lại gần sanh, nên tôi nghĩ không gì tốt và an toàn hơn là gửi cả về bên Ngoại ở Rạch Giá, để có người giúp đỡ lúc sanh nở.
Ngày 29/04 thì tình hình đã rối beng lên, tất cả tàu trong căn cứ được lệnh nhổ neo, tôi đi theo chiếc Tuần Duyên Hạm HQ 600.





    Mặc dầu đã cố gắng liên lạc về Rạch Giá với gia đình, nhưng làm sao mà kịp được nữa! Lệnh đầu hàng của tướng Dương Văn Minh như nhát gươm cuối cùng cắt đứt hy vọng của mọi người. Ngồi trên boong tàu nhìn về quê hương mà nước mắt tôi chan hoà. Thôi thế là hết! Thế là tán gia vong quốc.
    Trước đấy hơn một tháng, đã có biết bao công chức, lính tráng di tản về hòn đảo cuối vùng đất nước này, nên HQ cố gắng hết sức để đưa họ ra khơi, mà lúc này cũng chưa ai biết sẽ đi về đâu.
Tàu tôi đã chuyển rất nhiều chuyến ra Tuần Dương Hạm. Tôi chứng kiến bao cảnh thương tâm vợ chồng con cái la khóc vì lạc nhau, thảm cảnh tai nạn khi chuyển lên tàu lớn, có người rớt xuống biển mà không thể nào vớt được.





    Trong hoàn cảnh hỗn quan hỗn quân ấy, tôi đã hết lòng giúp đỡ mọi người, những ghe nhỏ từ đảo Phú Quốc hay từ Rạch Giá chạy ra chở đầy người, nhưng vợ con mình thì lại không thấy đâu!
    Hạm Trưởng ra lệnh chạy về hướng Singapore, ba ngày sau tàu cặp bến thì tôi chuyển qua chiếc HQ 229 để đi Subic Bay- Philippines. Nơi đây tôi đã đứng nghiêm, đau lòng tham dự lễ hạ quốc kỳ VNCH trên con tàu, tháo cặp lon trên vai áo bạc màu, làm thủ tục ở đây 20 ngày rồi lên máy bay qua đảo Guam.
Suốt những ngày ở trại Asan, tôi thẫn thờ như kẻ không hồn, lạc lõng giữa những người đồng số phận lưu vong. Chỉ có một số người may mắn đầy đủ gia đình, họ mau mắn tiến hành thủ tục định cư càng sớm càng tốt.




    Nhìn cảnh gia đình họ mà tôi thèm thuồng và tủi cho thân phận mình. Tuy nhiên tôi vẫn lo làm giấy tờ để đi định cư mà lòng thì ngao ngán. Rồi đây trên xứ người, trơ trọi một thân một mình, không cha mẹ anh em, vợ con thì mình sẽ sống ra sao. Càng nghĩ càng buồn.




    Đêm đêm tôi ra ngồi sát bãi biển, mắt đăm đắm nhìn về hướng quê nhà, nơi có người cha già yếu, vợ dại con thơ đang lo lắng không biết tôi sống chết ra sao. Tôi nhớ đến miền quê nghèo mà mình đã sống từ nhỏ, có bà con lối xóm đầy ấp tình người, luôn luôn thuận hoà và bảo bọc nhau trong mọi hoàn cảnh ngặt nghèo. Nhất là bây giờ không biết vợ tôi sanh nở có mẹ tròn con vuông hay không. Mình đi rồi thì mẹ con nó lấy gì sanh sống và tồn tại đây.




    Tôi nhớ tới cuộc di cư mà cha mẹ mình đã trải qua 20 năm về trước mà lòng não nề. Trong một nước mà còn không thể gặp nhau, huống hồ bây giờ tôi ra nước ngoài thì biết bao giờ gặp lại.
    Đến cuối tháng Sáu, trong trại có tin đồn là nếu ai muốn về VN thì chính phủ Mỹ sẽ cho về. Tôi nghe một cách lơ là vì cho rằng khó có chuyện đó xẩy ra, nhưng càng lúc tin đồn càng lớn mạnh, một người quen nói với tôi là rất nhiều người đã ghi danh để trở về.
    Cùng lúc ấy, có một nhóm khá đông hàng ngày tụ tập trước Văn phòng Đại diện, biểu tình yêu sách "được mau trở về VN vì nước nhà đã được độc lập, đã hết chiến tranh rồi. Hoà bình đến thì nước nhà cần bàn tay của mọi công dân"?. Cho đến lúc này, việc định cư của tôi vẫn còn mù mờ, không có tin tức gì cả. Tinh thần tôi dao động, khủng hoảng, đắn đo không biết tính sao.




    Nếu đi định cư thì chắc chắn là phần vật chất thì no ấm rồi đó, nhưng về tinh thần thì có gì bù đắp được, khi không có gia đình và một người thân nào ở bên cạnh. Nhưng trở về thì sẽ ra sao? Họ có bắt bớ tra tấn tù đày gì không? Tôi trằn trọc thao thức nhiều đêm để quyết định cho hướng đi của cuộc đời mình.
Người xưa đã nói : Thà chết một đống, còn hơn sống một người. Cả gia đình tôi còn ở miền quê hương ấy, tôi lại là con trai cả, có nhiệm vụ với nguyên một đại gia đình và với vợ con. Nhất định mình phải trở về, không lẽ bây giờ họ thắng rồi, mà lại "Đánh kẻ chạy lại". Cùng lắm là sau vài tuần điều tra, thấy chẳng có gì là họ cho về với gia đình chứ cơm đâu mà nuôi mãi.



    Đọc lịch sử thế giới ai cũng thấy rằng người thắng trận bao giờ cũng mã thượng, như cuộc chiến Nam Bắc ở Hoa Kỳ 1861-1865, Bắc Quân thắng trận nhưng lính Nam Quân vẫn an lành trở về nhà, cả hai miền đều chung sức làm nên nước Mỹ ngày càng cường thịnh.
    Rồi như nước Nhật, nước Đức kia, thua trận thê thảm năm 1945 mà được cựu thù Hoa Kỳ giúp đỡ, nên chỉ chừng một thập niên sau là trở thành những cường quốc ngay. Việt Nam chắc hẳn cũng thấy ra điều đó. Nhất định là mình phải trở về. Nghĩ vậy nên khi tôi bước lên tàu VNTT mà lòng khấp khởi.
    Sau hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín đã vào hải phận Vũng Tàu. Hôm đó là ngày 29/09/1975 có trên dưới 1450 hành khách, với rất nhiều lương thực và hành lý do chính Phủ Hoa kỳ trao tặng gồm chăn màn, quần áo và thuốc men như những món quà của người đi xa mang về cho gia đình ...



    Không biết tại sao mà liên lạc từ trước rồi, mà mãi ngày hôm sau mới thấy hai chiếc tàu Hải Quân bây giờ trương cờ đỏ sao vàng ra đậu cách đó khoảng 200 m, rồi họ bắc ống dòm nhìn sang chăm chú. Mấy tiếng đồng hồ sau mới ra hiệu hướng dẫn chiếc VNTT chạy ngược ra phía miền Trung. Bây giờ thì nỗi lo lắng đã hiện lên nét mặt nhiều người, nhưng ai cũng nán lòng chờ đợi vì chưa biết rồi ra sẽ như thế nào. Ngày hôm sau thì tàu cập bến Nha Trang. Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân nơi tôi theo học còn đây, mà sao phố phường im vắng như thành phố chết?



    Tất cả mọi người lớn bé đều bị dồn lên xe bít bùng mà chở về Trung Tâm Thẩm Vấn của Quân đoàn II cũ. Lúc này thì ai cũng lờ mờ nhận thấy rằng khốn nạn đến nơi rồi!
    Mọi người phải trút bỏ hết quần áo, bị khám xét rất nhiều lần từ đầu đến chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng thình, một chiếc chiếu rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào những căn barrack.



    Nhớ mới đây, thực phẩm ở trại Mỹ ê hề thịt trứng, nho, cam mà bây giờ chỉ có cá mối ươn kho mặn là chính, thỉnh thoảng mới được ca canh nấu bằng rau muống hoặc rau cải già. Mỗi ngày một nhóm phải đi khai báo lý lịch trên Phòng Chấp Pháp: trước đây làm chức vụ gì trong Nguỵ Quyền, hoạt động ra sao, trong bao nhiêu năm ... Mỗi người được phát một số tờ sơ yếu lý lịch và ít tờ giấy trắng để viết lời khai. Cán bộ thì ông nào ông nấy mặt lạnh như tiền, cặp mắt thò lỏ ra như mắt chuột và hàm răng thuốc lào thì cứ vẩu tướng mãi lên, họ luôn luôn nói lải nhải câu: "Nếu các anh thành thật khai báo, thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho về".



    Bây giờ thì cái câu ông Thiệu nói, nó hiển hiện lên trí óc mọi người: "Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm."
    Về sau này ai cũng hiểu rằng đám cán bộ này thuộc Cục Tình Báo Nước Ngoài thuộc Bộ Công An. Suốt 2 tháng trời, tinh thần mọi người trở về đều bị khủng bố, ép cung, còn về vật chất thì quá thiếu thốn, cực khổ. Những giòng nước mắt hối hận đêm đêm ứa ra mà không ai dám than với ai, chỉ thầm đấm ngực ăn năn "Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng".



    Họ chụp mũ mọi người là CIA, Mỹ gài lại VN phá hoại, chống phá nhà nước. Không biết bao nhiêu lần tôi phải giải thích tại sao tôi lại trở về. Tôi kể về nỗi nhớ nước thương nhà, lưu luyến vợ con và gia đình, nhưng những con người không có trái tim đó họ không chịu hiểu. Điều phiền muộn nhất cho mọi người là về đến nước nhà rồi mà không ai được liên lạc với gia đình. Chúng tôi cũng biết chắc rằng người thân cũng lo lắng rất nhiều vì mình biệt vô âm tín.
    Vài tháng sau thì đàn bà con nít đã được thả ra, nhưng hơn 500 Sĩ Quan, Cảnh Sát hoặc những người làm bên ngành An Ninh bị tách riêng ra.
    Đến đầu năm 1976 thì tôi bị chuyển đến trại A-30 Xuân Phước ở gần Tuy Hoà để "Cải tạo lao động" với câu quen thuộc cũ : "Nếu các anh cải tạo tốt, lao động tốt, học tập tốt thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho các anh về".



    Chẳng còn ai tin những lời hứa hẹn này và câu sau của ông Thiệu lại vang vọng: "hãy nhìn kỹ những gì VC chúng làm".
    Tôi nghe nói những người từ cấp Đại Uý trở lên đã bị chở ra ngoài Bắc, riêng những người thuộc Ban Đại Diện tàu này thì đã bị đưa về khám Chí Hoà từ những ngày đầu. Chắc chắn là họ thê thảm rồi chứ không được tưởng thưởng vì đã đem về cho VC một con tàu đâu.
    Thời gian tù đày càng ngày càng vô vọng vì tù mà không có án, thân thể hao mòn vì thiếu thốn. Sự đói khát, kiểm thảo, phê bình, lao khổ trong tù thì đã có quá nhiều người nói đến, kể ra chỉ rườm lời. Tôi xuống tinh thần rồi đổ bệnh tưởng không qua khỏi.



    Sự hối hận này so với những người khác cũng chưa thấm vào đâu, nhất là những người vì ngây thơ, đã chia tay với gia đình khi ở bên trại mà trở về một mình. Còn những ông khi biểu tình đòi về VN to mồm thế nào, thì sự hối hận càng tăng thêm độ nặng chừng đó. Họ không dám nhìn ánh mắt những bạn đồng tù.
Rồi cũng không ai hiểu tại sao đội của tôi lại được tuyên dương là có thành tích lao động nên được cho phép viết thư về nhà. Dĩ nhiên với nội dung là ca tụng đảng và nhà nước chăm sóc cho mình rất chu đáo. Mấy tháng sau thì vợ và đứa em trai ra thăm, nhưng tôi vì không đi lao động nổi nên bị phạt không cho gặp mặt gia đình, cũng không được nhận quà thăm nuôi!



    Sau này tôi mới biết được mùa nước năm ấy, quê tôi bị nước lũ tràn về, lúa chưa chín đã bị chìm trong làn nước lụt, mất trắng. Thế mà gia đình chỉ còn con heo độc nhất đành phải bán đi mà ra thăm nuôi tôi.
Thời điểm ấy đi đâu cũng phải trình báo, xe cộ khó khăn, nếu không phải là công nhân viên, cán bộ thì chỉ còn có nước mua vé chợ đen mà thôi. Từ miền quê Rạch Giá ra đến Tuy Hoà biết bao vất vả tốn hao, thế mà không được nhìn mặt nhau cho dù là qua một hàng rào kẽm gai.



    Rồi qua một năm dài đằng đẵng nữa, tôi mới được phép thăm nuôi. Lần này vợ tôi bồng thằng Quốc đi theo. Hai người ngồi 2 bên mép bàn, tên quản giáo với ánh mắt cú vọ ngồi đầu bàn. Cả hai đều không nói nên lời khi thấy nhau ốm yếu như que tăm, một người trong nhà tù nhỏ còn người kia trong tù lớn rộng ra cả nước. 15 phút trôi qua thật nhanh, biết bao tâm tình muốn nói mà cả hai không thể thốt nên lời, cuối cùng tôi gắng gượng bảo:



- Mình cố ráng săn sóc gia đình thay anh, còn anh thì không cần đi thăm nuôi nữa đâu nghen.
Tôi lủi thủi trở vào bên trong dẫy trại giam, không dám quay lại nhìn vợ con đang giọt ngắn giọt dài. Tưởng là về để giúp đỡ vợ con, ai ngờ mình lại trở nên gánh nặng cho cả gia đình.
Cả đời nào có biết văn chương là gì, thế mà hôm ấy tôi cũng viết được một bài thơ


 :Hết chiến tranh rồi phước hoạ ai
Đợi mong mòn mỏi tháng năm dài
Lặn lội thăm chồng đi khắp chốn
Đường xa vạn dặm trĩu đôi vai
Viếng thăm chưa thoả niềm thương nhớ
Chia ly thêm nặng nỗi u hoài
Lỡ bước sa cơ đời đen tối
Thương người thiếu phụ lắm chông gai


    Xuân qua hè tới, thấm thoát mà đã hơn sáu năm trời mang thân tù tội, nhìn những hàng cây xoài, cây nhãn do chính tay mình trồng đã đâm hoa kết trái, mà mình vẫn còn ở nơi đây chúng tôi càng hối hận. Nhưng cuối cùng đến giữa năm 81 thì họ thả tôi ra.

    Tôi phải mất ba bốn ngày trời mới từ miền Trung lần mò về đến quê nhà. Những người tài xế xe đò, những người buôn gánh bán bưng, bà già bán cơm ... khi biết tôi là tù được tha đều tỏ lòng quí mến mà giúp đỡ trên quãng đường qui hồi cố hương. Lòng tôi nao nao. À thì ra lòng con người Việt Nam vẫn còn đây chứ không phải đã bị nhuộm màu đỏ hết.


    Dọc đường về, nhìn đâu cũng thấy cảnh u ám, người người đói khát, da mặt ai cũng đen đúa xấu xí. Từ đường lộ về đến nhà gần ba cây số, tôi tự hỏi sao hàng cây xanh tươi ngày xưa bây giờ lại xơ xác quạnh hiu, không còn sinh khí như vậy.


    Đến nhà, con chó vàng xồ ra sủa rồi vẫy đuôi mừng rỡ. Cha tôi lọm khọm buông gậy mà chạy ra đón con. Vợ và 2 đứa nhỏ tíu tít quấn quít mà sao căn nhà coi bộ vắng vẻ hơn xưa nhiều quá. Thì ra các em tôi đã lần lượt theo nhau vượt biên hết rồi. Bà con xóm ngõ cũng đang tiếp tục âm thầm ra đi mỗi ngày một nhiều.
    Tôi thẩn thơ ra vào trong căn nhà vắng hẳn tiếng cười, lo lắng như con chim đã một lần bị tên, thấy cành cây cong cũng sợ, nên dù có nhiều người đề nghị đi vượt biên lắm mà tôi chưa biết tính sao. Tôi đã một lần quyết định sai lầm, lần này nếu ra đi mà bị bắt thì chắc là ở tù lâu lắm.
    Rồi tôi cũng phải ra đi mà thôi, nhưng phải mất đến 6 năm sau, với bao lần thất bại vì bể bãi, rồi cả gia đình tôi mới đến được bến bờ tự do.


    Hôm nay, những người bà con đến chung vui, có ông bạn trẻ Đinh Đoan tặng cho bài thơ


 "Đố Ai":Người ơi có nhớ năm nao
Cái ngày tan tác ba đào thương đau
Đố xem kẻ kẹt trên tàu
Đảo Guam phải đến dạ sầu nhớ ai
Mênh mông với nỗi u hoài
Theo tàu Thương Tín đưa ngài về quê
Gian nan khổ ải chẳng nề
Ai ngờ bóc lịch ê chề thảm thương
Ra tù với nỗi sầu vương
Ngược xuôi dẫn vợ tìm đường vượt biên
Trời cao cũng độ kẻ hiền
Giúp ông tìm được đến miền tự do
Thiên đàng kia vẫn còn chờ
Gia đình hạnh phúc ước mơ đã thành.
Hỏi em hỏi chị hỏi anh
Xin cho tôi biết quí danh của ngài?

Mục Đồng ở New York có bài thơ "Ông Là ..." hoạ lại:Tôi còn nhớ chuyện năm xưa.
Cái ngày tan tác như vừa hôm qua
Tuần duyên vượt sóng hải hà
Đưa chàng chiến sĩ rời xa quê mình
Nhưng sau vì nghĩa vì tình
Nên đành chấp nhận hy sinh trở về
Bao nhiêu gian khổ chẳng nề
Dù cho bóc lịch ê chề thảm thương
Cuộc đời dâu bể khôn lường
Bao đêm dắt vợ tìm đường ra khơi
Hình như cũng thuận ý trời
Qua cơn bĩ cực đến thời thái lai
Ông là : bác Ngọc chứ ai
Đêm đen bỏ lại, tương lai đang chờ
Mừng vui hai chữ tự do
Gia đình đoàn tụ giấc mơ đây rồi


    Phải ! Giấc mơ đây rồi. Giấc mơ này tôi đã ao ước từ 12 năm trước, mong được đoàn tụ với mọi người trong gia đình. Đến nay mới đạt được, và tôi đã phải trả một giá quá đắt.
    Hơn 15 năm ở xứ Huê Kỳ trôi qua thật nhanh, bây giờ mái tóc đã muối nhiều hơn tiêu, mà trên chỏm đầu tóc đã đi chơi hết trơn nên trọc boong như cái hột vịt lộn, tôi ngồi vò đầu ngẫm nghĩ lại thì mình đúng là ở hiền gặp lành, chung tình với vợ con nên bây giờ được vợ cưng như cái trứng mỏng, con cái ngoan ngoãn.
Tôi tuy đến muộn, nhưng biết thân biết phận mình, vợ chồng cố ráng làm ăn, nên nay cũng "đi xe hơi, ở nhà lầu, nhà có TV tủ lạnh đủ cả; cơm ăn ngày 3 bữa, quần áo mặc cả ngày" (just kidding). Giá mà hồi đó không trở về, có khi mình đã lấy một cô vợ Mễ, và nay thì cô ta đã xay mình nát ra như cám, "tiêu diêu nơi miền cực nhọc" rồi, mà vợ con mình cho đến bây giờ không biết ở nơi nao.
    Người ta nói trâu chậm uống nước đục, mà tôi sao lại cứ được uống sữa tươi thế này ? Hoàng thiên đối với tôi như vậy nghĩ cũng là quá hậu đãi.


LÝ VIÊN MÃN * TÀU VIỆT NAM THƯƠNG TÍN

Tàu Việt Nam Thương Tín và việt gian Nhữ văn Uý



Vụ tàu Việt Nam Thương Tín tại Orote Point / Guam, tháng 5 năm 1975 và Nhữ văn Úy được Phòng A22 Tình báo Người Nước Ngoài (việt gian Cộng Sản ) gài qua Pháp cách nào ? Nhữ văn Úy hoạt động ra sao .

Có nhiều nhân chứng vụ tàu Việt Nam Thương Tín đòi trở về lại Saigon , qua cuộc xách động của nhóm Nhữ văn Úy ( vào tháng 5 năm 1975 ). Nhân chứng quan trọng thường xuyên viết Yahoogroups là Lý viên Mãn ( email address là : lyvienman@yahoo.com ), ông Lý viên mãn chửi Nhữ văn Úy không tiếc lời về vụ tàu Việt Nam Thương Tín.
Nhưng Lý viên mãn không biết tại sao Nhữ văn Úy được VN cho trở qua Pháp...mà không qua Hoaky ( nơi có nhiều Hội đoàn và Cộng Đồng Chống Cộng ) ? Tại sao Nhữ văn Úy cư ngụ tại thị xã Colmar / France , gần biên giới Đức , cách xa thủ đô Paris hàng trăm dặm ?
Colamar là thị xã ít người Việt , dân cư đa số sống về trồng nho ,chế biến ra rượu vang loại Alsace...

Sau đây một ván bài lật tẩy Nghị viên Nhữ văn Úy , người cầm đầu trở về VN với tàu Vệt Nam Thương Tín , được Phòng A 22 Tình báo Người nước ngoài cấp giấy tờ giả cho Úy xâm nhập , phá hoại cùng vạch mặt chỉ tên những người Chống Cộng có uy tín trong Cộng đồng tại Hoaky...
Cánh tả biên tại San Jose là Ngô túy Phượng ( email address là : tuyphuongngo56@yahoo.com ). Bà Ngô túy Phượng sanh năm 1956 , con gái của Trung tướng Ngô Dzu ( cựu Tư Lệnh Quân Đoàn II , Quân Khu 2 VNCH ) vô tình hay hữu ý mà tiếp tay với Nhữ văn Úy tại Colmar/ France đánh phá tơi bời những members tại Dien63 đàn yahoogroups rất tích cực.
Người ta cho rằng Ngô túy Phượng ( cư ngụ tại san Jose ) là tay trong cho đảng Việt Tân ( trước đó là đảng VNQPH của Phó Đô Đốc Hoàng cơ Minh...bị bại lộ từ tay trong báo về Phòng A 22 TNBNNN ( Tình Báo Người Nước Ngoài ).

Xin đọc thật kỷ như sau :
Tàu Việt Nam Thương Tín và Nhữ văn Uý .
việt gian cựu dân biểu VNCH
Bạn kiểm chứng lại với nạn nhân vụ nầy là Lý viên Mãn lật tẩy Nhữ văn Uý là điệp viên CSBV tại Pháp….xin gởi email Lý viên Mãn như sau : lyvienman@gmail.com.
Chúng tôi không phải là Lý viên Mãn , nhưng chúng tôi cư ngụ gần Colmar / France nên biết Nhữ văn Uý rất rỏ…
Ai mà tiếp xúc với Nhữ văn Uý và tỏ thái độ Chống Cộng Sản thì 24 giờ sau sẽ có tên trong Toà Đại Sứ VN tại Paris lập tức.
Xin coi chừng lão già lùn mập nầy…
……..
Nhắc lại chuyện cũ :
30-4-1975 Dinh Độc Lập bị xe tăng BV mang cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cán bung ra.
Tổng thống 3 ngày Dương văn Minh tuyên bố trao quyền Tổng thống VNCH cho CSBV.
.....
.
Chúng tôi đến đão Guam vào đầu tháng 5 năm 1975….Trong trại tị nạn tại ven rìa đão Guam ( Orote Point )…chen chúc với đủ thành phẩn người Việt.
Nghe tin Chiếc tàu Việt nam Thương Tín có nhiều người đòi về lại Việt Nam.
Lấy làm tiếc lắm , nghe tin có một số người muốn về lại VN , trong trại đó họ dùng dao hăm doạ nhiều người trong láng trại đó , cưỡng ép bắt buộc tất cả những người trong láng trại đó phải về Việt Nam cho bằng được.
Sau đó họ đốt thùng rác , cô lập ra vào. Khí thế hung hản khó lường…trong số đó có nghị viên Như văn Uý.
Ngay cả đài phát thanh Saigon loan báo là Tàu Việt Nam Thương Tín bị Mỹ bắt đi qua Mỹ…
Thế là người Mỹ họ dựng hàng rào bảo vệ tất cà những người trong láng trại đó…
Mỗi người lần lượt đi vào hàng lang . Nếu gật đầu muốn ở lại Mỹ thì người Mỹ kéo người nầy sang một bên , và cho đi ra ngỏ khác.
Còn nếu người nào muốn về Việt nam thì họ cho đi thẳng ra nơi tàu VN Thương Tín.
Một số trên dưới 500 người chịu đi về lại Việt Nam ,cầm đầu là Nghị viên Nhữ văn Uý và 12 người khác ( trong đó có 4 lính hải quân VNCH ).
Hoaky cung cấp lương thực và săng nhớt đầy đủ cho Tàu Việt nam Thương Tín , cùng 500 đô la cho mỗi người và giấy tờ ghi là tình nguyện trở về lại VN .
Trên tàu Việt Nam Thương Tín thì Nhữ văn Uý ra sáng kiến bắt tất cả những người đòi về Việt nam , phải nộp hết tất cả tiền bạc hay giấy tờ trong túi ra cho họ giữ.
Thì tại Saigon , lúc đó Saigon chưa đổi tên…
CSBV tổ chức lễ đón nhận những đứa con nước Việt bị Nguỵ quyền và đế quốc Mỹ cưỡng ép di tản.
Sau đó đoàn tàu VN Thương Tín đến bến tàu tại Saigon ,được tiếp đón trọng thể. Nào kèn trống , hoa và mấy cô gái đến trao tay….Biểu ngữ hân hoan đón những người trở về lại đất mẹ.
Nghị viên Nhữ văn Uý ra đọc diển văn , chửi là Mỹ cưởng ép họ ra khơi , đi sang Mỹ , chớ thật sự họ không muốn…vì hoảng loạn nên khi tới đão Guam …họ phải làm dử thì Mỹ nó mới chịu trả về lại Việt Nam….Đã đão đế quốc Mỹ , Việt Nam thống nhất trường tồn…
Có nhiều xe bus đang đợi sẳn.
Đám chỉ huy đoàn tàu Việt nam Thương Tín trở về tổ quốc…thì Nhữ văn Uý củng 12 tên hung hản lên xe bus đầu tiên…các người khác lên lần lượt xe sau.
Đoàn xe bus đi mất biệt ,thân nhân đón tại bến tàu chỉ thấy con cái họ vẩy tay tại bến tàu Saigon….thế thôi !
Tất cả đều chở đi vào tù hết….
Chỉ trừ đám Nhữ văn Uý thì 7 ngày sau được về lại đoàn tụ với gia đình…
Những người đòi về lại Việt nam , tất cả đều chở ra ngoài Bắc .
Cô lập riêng , không cho thân nhân đến thăm hỏi .
Tin tức không lộ ra ngoài.
Ngay cả đài BBC theo dỏi rất kỷ vụ nầy cũng không biết luôn là họ đi đâu.
Chỉ biết là họ chưa về sum họp lại gia đình.
Saigon đổi tên mất từ lâu thành Thành phố Hồ chí Minh …thì Nhữ văn Uý
10 năm sau ( 1985) do sự ưng thuận giửa Hà Nội và Hoaky ký kết với nhau ( Ngoại trưởng Hoaky George P. Shutlz ) … Gọi là ODP (Orderly Departure Program ) ( Trong chương trình H.O = Humanitarian Operation ) thì những quân nhân nào ở tù gọi là Cải Tạo đúng 3 năm thì xin đi Mỹ thì được chấp thuận.
Không hiểu lý do gì mà Nhữ văn Uý được giấy ở tù cải tạo 5 năm ( ghi là từ 1975 đến 1980 )…
Hồ sợ nộp tại Saigon , chuyển ra Hà Nội….xong hết 99 %....
Nhưng không dè Hoaky biết được là Nhữ văn Uý cầm đầu nhóm đòi về lại Việt nam và chửi Mỹ sát ván trên đài phát thanh Saigon.
Hoaky từ chối nhận hồ sơ Nhữ văn Uý.
Nhữ văn Uý được Hà Nội cho nộp đơn xin đi Canada….Canada từ chối…Nhữ văn Uý được Hà Nội cho đút đơn đi Pháp….Pháp từ chối.
Sau cùng có một cựu đảng viên lão thành Đảng Cộng sản Pháp , tên Jacques Dupois đứng ra nhận lảnh trách nhiệm hành vi của Nhữ văn Uý.
Sau cùng Như văn Uý sang Pháp , sống tại tỉnh Colmar / France , gần Alsace ( nơi nổi tiếng về rượu vang ., sát biên giới Đức….
Nhữ văn Uý im hơi lặng tiếng thời gian…
Nhữ văn Uý xin cải đạo thành đạo Catholic , mang tên thánh là Mathieu Nhữ văn Uý…
Thế là Nhữ văn Uý gột sạch tung tích là diệp viên Hà Nội.
Vì với nhãn hiệu nghị viên Nhữ văn Uý , nên nhiều đồng bào Việt kiều tại Paris không biết sự việc Nhữ văn Uý và tàu Việt nam Thương Tín cùng số tiền 500 độ la Hoaky x 500 người = 250 000 ( hai trăm năm chục nghìn đô la USD ) cùng tiền bạc quý kim của nhiều người đòi về Việt Nam qua tàu VN Thương Tín…
Nay tới thời cơ Nhữ văn Uý ra mặt hoạt động…
Nhữ văn Uý chửi Cộng sản tới tấp , chửi nhiều hơn những người Chống Cộng tại Hoaky và tại Pháp.
Chửi Cộng sãn thậm tệ…ngay cả những điều Cộng sản không làm thì Nhữ văn Uý dựng lên chửi tuốt.
Nhữ văn Uý cho là Nguyễn văn Thiệu nói 4 không , Nhữ văn Uý nói 5 không…
Ai mà nói đến Hà Nội ngày xưa…thì Nhữ văn Uý mạt sát là thân cộng , là gián điệp cho Cộng sản VN….
Trong nhà Nhữ văn Uý treo cờ VNCH rất trang trọng….
Nhiều người Việt đến nhà ưng thuận theo đường lối chống Cộng của Nhữ văn Uý ….thì 24 giờ sau Toà đại Sứ VN tại Paris có tên những người nầy..
Sau đây mời bạn đọc một người là nạn nhân cũa Nhữ văn Uý ( họ được thả sau 10 năm tại trại tù ngoài Bắc….họ vượt biên….và đòi Nhữ văn Uý tiền của họ mà Nhữ văn Uý tịch thu trên tàu Việt Nam Thương Tín ngày xưa…
Đó là nick Lý Viên Mãn ghi trên Yahoogroups vừa qua… ( Bạn có thể email cho Lý viên Mãn hỏi tự sự ra sao...)
.....
From: Ly Vien Man

ĐỖ XUÂN TẾ * NGƯỜI VỀ TỪ ĐẢO GUAM

Người về từ đảo Guam

Posted: 18/03/2012 in Truyện Ngắn, Đỗ Xuân Tê
Đỗ Xuân Tê


Anh H. người quê Phan Thiết, tuổi chưa đầy ba mươi khi miền Nam vào tháng tư đen. Lớn lên như các thanh niên trong thời chiến, anh chọn nghiệp bay. Được huấn luyện và check out taị Mỹ, anh trở thành phi công khu trục cho Sư đoàn 3 Không Quân, bản doanh đóng taị Biên Hòa. Là đứa con một, mẹ anh có phần lo, nhưng ý con đã quyết nên bà chỉ  biết nguyện cầu cho con được bình yên và  mong một ngày quê hương sớm hết chiến tranh.

Chiến tranh mãi không dứt, mẹ bắt anh về quê lấy vợ.  Phần anh vốn sống nay chết mai, chẳng muốn ai trở thành góa phụ. Nhưng vẫn có ngươì muốn anh làm ‘khổ’, do cuộc tình gắn bó từ thuở học trò, lại nữa gia đình hai bên cũng đã biết nhau. Họ thành vợ chồng rồi có một bé gái. Vợ anh ở với mẹ nuôi con, anh tiếp tục sống với đơn vị lo nghề bay bổng. Hai vợ chồng ít có dịp gặp nhau, nếu có chỉ qua những kỳ phép ngắn.

Đầu 75, tình hình đất nước biến chuyển quá nhanh. Tây nguyên di tản, Phan Rang thất thủ.  Biên giơí phía nam, quê anh trở thành tuyến địa đầu. Anh vẫn bay, mà còn bay nhiều hơn, do tính cách ác liệt của chiến trường, mấy lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc vỉ hỏa tiễn tầm nhiệt của đôí phương.  Phi đoàn cấm traị liên tục, anh chẳng có dịp về thăm vợ thăm con. Chuyện di tản, bỏ nước ra đi cũng chẳng hề vướng mắc trong tâm tư ngươì phi công trẻ. 
Nhưng đêm 29, trong khung cảnh  hỗn loạn của Saigòn thất thủ, sợ cảnh tắm máu, anh cùng đồng đôị cất cánh từ Tân Sơn Nhất trực chỉ căn cứ Không  quân của Mỹ  trên đất Thái. Từ đây anh được bốc thẳng qua đảo Guam. Ra đi trong sự vôị vã, tức tưởi khộng một lời từ biệt người thân.
Tới Guam, biết là thoát chết khi nhìn laị thân phận mình.  Nhưng mẹ, vợ và con thì giờ đây nghìn trùng xa cách. Lòng anh ray rứt, lắm lúc muốn khùng. Biết không còn lựa chọn nào hơn, anh đành lo thủ tục vào đất Mỹ.  Anh vẫn còn giữ địa chỉ của một viên cố vấn cho phi đoàn tên John K.  John là ngươì có tình, và là đồng minh đáng tin cậy.

Anh ta cho H. cái địa chỉ chẳng phaỉ để một ngày nào đó sử dụng trong hòan cảnh eó le này, mà là một cử chỉ hiếu khách của ngươì Mỹ muốn H. thăm gia đình John nếu có dịp nào đi chuyên tu taị Mỹ. Nhận được tin của H. qua giới chức Mỹ phụ trách di tản taị Guam, bằng một thái độ sốt sắng, John bảo lãnh ngay cho H. vào đất Mỹ.  Về định cư tai một thị trấn nhỏ thuộc bang Montana, một vùng đất chăn nuôi và có xưởng sản xuất thịt bò, John tạm thời xin cho H. một chân vác và xẻ thịt, lương khoảng 8 đô một giờ.
Ngày đi làm, đêm về một mình thui thuỉ trong căn apartment gần xưởng. Lòng buồn rười rượi, hình ảnh mang nhiều trăn trở vẫn là mẹ, vợ, con. Thực sự những năm tháng chiến tranh, anh chẳng có nhiều thơì gian để nghĩ đến vợ con, nếu có thì cũng chỉ là những khoảnh khắc ít oỉ.  Đôi lúc có nghĩ đến ông cậu tập kết ra miền Bắc hồi đất nước chia đôi, một hình ảnh được mẹ nhắc nhiều lúc tuôỉ thơ. Có điều lạ là từ nay, nôĩ ám ảnh về chiến tranh và niềm đam mê bay bổng một thời dường như đã khép laị…
Tình cờ đọc trên tuần báo TIME, thấy hình tướng Đảo (Lê Minh Đảo, Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh) mặc thường phục đi trên đường Catinat, vơí lời chú giải như một con người được tự do đi laị sau ngày mất nước.  Baì viết của ký giả Mỹ thường trú taị Bangkok còn cho biết thêm về số phận các quân nhân, công nhân viên chức chế độ cũ. Các hạ sĩ quan học tập 7 ngày đã xong.


 Sĩ quan cấp uý (10 ngày), sĩ quan cấp tá (1 tháng) đang chuẩn bị trình diện học tập.  Học xong họ cũng được quay về sinh sống làm ăn.  Chính sách khoan hồng của Mặt Trận Giaỉ Phóng là trước sau như một, chuyện tắm máu như Kampuchia là không hề có.Viên ký giả Mỹ đang túng tin sau ngày Sàigòn đổi chủ như vớ được của đăng nguyên văn những gì mấy ông cộng sản cần nói cần rao.
Nhưng bài báo lại có sức thuyết phục làm cho H. băn khoăn. Tâm tư anh như ngọn gió muốn đôỉ chiều. Một câu hỏi tự phát trong tiềm thức “taị sao ta không về?”  Thương cho mẹ già chưa một lần báo hiếu. Sống làm gì khi vĩnh viễn xa vợ xa con. Chưa nói đến quê hương, dòng sông, đụn cát. Ký ức tuôỉ thơ sống laị trong anh.  Sau nhiều đêm trăn trở, anh quyết định tìm cách trở về.

Nơi đất lạ xứ ngươì, không còn ai thân thiết ngoài John.  Anh goị ngay cho John và bộc bạch ý nguyện của mình.  Sau phút kinh ngạc, John khuyên anh suy nghĩ laị. Lúc này các giới chức Mỹ đang bận lo cho người mới đến, hơi đâu bận tâm cho kẻ đòi về. Nhưng vì thương bạn, laị có sự đồng cảm về môí liên hệ gia đình sâu đậm theo truyền thống văn hóa Việt mà John có dịp giao lưu qua chuyến phục vụ taị Việt nam, anh mầy mò thế nào rôì cũng kiếm được một cơ quan thiện nguyện chuyên lo vụ “trở về xứ cũ” (repatriation).
Trùng hợp vào thơì điểm này, một số ngươì di tản hiện đang ở Guam vì hốt hoảng tháo chạy, nay hoàn hồn nhớ laị ngươì thân kẹt laị, cũng cha, mẹ, vợ, con như H.. Họ tranh đấu đòi về.  Nước Mỹ vốn là xứ tự do, người Mỹ vốn có truyền thống nhân đạo, nên khuyên mãi chẳng được, họ đành sắp xếp cho một chuyến tàu để đưa các người Việt muốn quay về.

  Con tàu Việt Nam Thương Tín dùng để chở người di tản tơí Guam hôì cuôí tháng 4, nay được đaị tu chuẩn bị cho chuyến khứ hôì xuyên đaị dương đầu tháng 8.   H. được cơ quan thiện nguyện cho ‘ráp’ vào chuyến hải hành này. Anh là người duy nhất từ đất liền ra laị đảo và từ đảo lên tàu quay về cố hương. Cũng cần nói thêm hành trang trở về từ quần áo, thuốc men, lương thực, thực phẩm đến việc chọn lựa thủy thủ đoàn, diễn tập qui trình an ninh xuyên đaị dương v.v…đã được các giơí chức Mỹ trên đảo cùng các cơ quan thiện nguyện chuẩn bị khá chu đáo nhằm đảm bảo là các người hôì hương được an toàn tôí đa.
Lênh đênh gần một tháng xuyên Thái bình dương, tàu cập bến Nha Trang vào một sáng trơì quang mây tạnh. Nhưng sao hôm nay không khí trên cảng có vẻ căng thẳng, không hồ hơỉ như mọi ngươì mong đơị. Các hành khách chuẩn bị rời tàu để làm thủ tục hải quan. Phụ nữ, trẻ em xếp hàng một bên; đàn ông, thanh niên một phía; hành lý có người phụ trách.

  Xong phần thủ tục kéo daì nhiều giờ, anh H. và đoàn người thuộc diện quân nhân, viên chức chế độ cũ, kể cả viên hạm trưởng HQ trung tá lái tàu về, cùng ông trưởng đoàn được phân công phụ trách đọc diễn từ cám ơn Nhà nước, từng cặp hai người chung một chiếc còng số 8 lên xe bít bùng trực chỉ hướng Đèo Cả. Sau này mới biết đó là một traị giam tù hình sự thuộc tỉnh Tuy hòa. Dù cách dàn chào có phần cay đắng, nặng tính hình sự, nhưng H. vẫn không tủi cho thân anh, mà anh tiếc chiếc cà rá đã mua cho vợ bằng số tiền dành dụm trong mấy tháng làm ở xưởng thịt.  Kỷ vật nhỏ bé này trở thành ‘tang vật’ bị tịch thu ngay khi lên bờ.
Nay bước chân vào tù, anh coi mình là kẻ thua cuộc nhưng vẫn chưa chịu… bỏ cuộc. Con người tuy có dáng vẻ hào hoa, dễ mến nhưng laị ẩn chứa một tính cách gan lì, nhẫn naị, không chịu khuất phục. Bề ngoaì thuần phục theo nôị qui của Trại bảo gì làm nấy, nhưng bên trong đang thai nghén một ý đồ khá táo bạo… trốn traị! Vì có thể lực khỏe, trẻ, laị biết cách mưu sinh thoát hiểm đã được dạy khi phải bung dù trong vùng địch, anh liều chọn con đường tắt về gặp vợ, gặp con bằng một ý thức tuy nông cạn nhưng vơí ý chí không gì ngăn cản nôỉ.
Chẳng đoán thì cũng hiểu là ý đồ thất bại sau hai ngày hai đêm.  Bị giải về traị, biệt giam mấy tuần liền, laị còn bị gán cho caí tên ‘giặc lái ngoan cố’. Ba tháng sau, để chặt đường trốn chạy, anh đựợc chuyển ra Bắc về ‘sinh hoạt’ vơí đám tù chúng tôi taị traị Nam Hà.

 Điều  nực cươì là các bạn anh vì “kẹt” mơí chịu cảnh chim vào lồng biết thuở nào ra, còn anh là chim đã bay xa, nay về tổ “mẹ”, mẹ không cho bú mẹ còn… bắt giam.  Nên từ đó nhóm bạn đồng tù mới đặt cho anh caí tên thân thương Người về từ đảo Guam, nhái theo caí tựa phim “Ngươì về từ đỉnh nuí” rất ăn khách trước 75. Ấy vậy mà cũng có mấy ông sĩ quan già gốc di cư lạị chửi anh thằng ngu nhất hành tinh. Goị gì thì goị, anh chỉ cười, vì vốn dĩ anh là ngươì dễ tin. Lại nữa đảng ta chẳng hay tuyên truyền giống các cụ mình hay nói “đánh kẻ chạy đi, chứ ai đánh kẻ chạy…về”!
Ra Bắc tuy có lý lịch đen vì trốn traị, nhưng nhờ được ông cậu bảo lãnh, nên H. thuờng được giao các chân lao động tự giác tương đôí dễ thở. Chả là sau chiến tranh, ông cậu về làm bí thư huyện ủy một huyện quê anh. Ít lâu sau vì lớn tuôỉ, sức khoẻ yếu, ông nghỉ hưu.  Rất tiếc quá trình chiến đấu và thâm niên trong Đảng không cứu được thằng cháu khỏi cảnh tù tôị vì đảng nghi cháu ông được CIA “gaì” cho về Việt nam chờ thời hoạt động.

Ông không trách đảng vì ông hiểu qui luật sống còn của người cộng sản là ‘bắt lầm còn hơn bỏ sót’, thậm chí cảnh giác vơí cả chính đồng chí của mình. Nhưng ông đồng cảm vơí tâm trạng cháu ông, nó về laị quê hương động cơ thúc đẩy cũng chỉ vì nhớ mẹ, nhớ vợ nhớ con.  Ngay như ông, dù thoát ly đi theo lý tưởng, nhưng sau 2 năm ra Bắc, mắc kẹt không được về Nam, nôĩ nhớ mong đã gậm nhấm tim ông suốt 20 năm. Điều khổ tâm vì không gỡ được chuyện thằng cháu, nên bà chị yêu quí có phần trách móc, lạnh nhạt dù chính ông đã nhiệt tình làm giấy bảo lãnh cho cháu, mà tác haị của môí quan hệ này có làm ‘hoen ố’ lý lịch trong sáng của cả đơì ông.
oOo
Chuyện 12 năm sau…
Thơì thế đã xoay vần, chính sách có đôỉ thay, chúng tôi và cháu ông cũng có ngày về. Xuống ga Phan thiết, H.về gặp laị vợ con. Kiểm laị ngươì thân: mẹ còn nhưng cậu mất, vợ còn chung thủy, con đã lớn khôn. Cảnh nhà xác xơ, hiu quạnh vì lâu ngày không có bóng dáng đàn ông. Ở nhà ân ái với vợ qua đêm, ngay sáng hôm sau, được phép của công an xã, anh đạp xe về thăm mẹ cách đó 15 cây số. Mấy chục năm mới đạp laị chiếc xe cũ, thong dong trên đường quê quen thuộc, được hít thở không khí đồng nội, anh cảm thấy nhẹ nhõm và thấy quí cái giá của hạnh phúc. Nhưng họa vô đơn chí, số phận nghiệt ngã dường như vẫn rình rập bước chân anh.
Ngay chiều hôm đó, chị X., vợ anh được cấp báo lên gấp bệnh viện huyện. Tới nơi, được mấy ngươì kể laị chiếc xe đạp của H. bị gãy ghi đông làm anh té sấp xuống chỗ hố nông cạnh Đồng Ông Tố (chỗ lở xụp này hay xảy ra tai nạn, nhưng giao thông xã chưa kịp vá).

Máu ra nhiều ở chân, xem ra không nguy hiểm, nhưng có điều anh bất tỉnh.  Sau này khi đưa lên tỉnh, mới vỡ lẽ là anh bị gãy cổ. Các y tá dưới thôn khi cấp cứu chỉ lo băng bó vết thương ở chân, không hề để ý chỗ chấn thương nặng là trung tâm thần kinh sau gáy. Anh  được chuyển về bệnh viện Chợ Rẫy (Saigòn) trong tình trạng bị liệt tứ thân. Dù có sự tận tình cuả bác sĩ, y tá, nhưng việc phục hôì chức năng của trung tâm cột sống hầu như vô phương.  Bệnh viện khuyên chị H. đưa anh trở laị quê. Ít lâu sau chuyện gì tới nó phaỉ tới, anh trở về lòng đất mẹ, lần này thì vĩnh viễn.
oOo
Bẵng đi cả mười năm. Một hôm tôi nhận được cú điện thoaị từ San Jose. Đầu giây bên kia là một giọng nữ mang âm sắc miền nam Trung bộ.
“Cho em xin gặp anh T.”
“Tôi đây, xin lôĩ ai đầu giây?”
“Em là Kim X., vợ của anh H. đây. Anh có nhận ra em không? (cô không dè qua điện thoaị làm sao nhận được). Cô nói tiếp:
“Em vẫn biết ơn anh chị thương tuị em nhiều lúc anh H. nằm ở Chợ Rẫy.  Sang đây maĩ không liên lạc được, nay anh Giàu mới cho số của anh.” (Giàu bạn thân của H., cùng traị với tôi). Qua câu chuyện được biết anh H. mặc dầu không chết trong traị, nhưng vì tù đã trên 12 năm, các giơí chức Mỹ ở Bangkok vẫn xét cho mẹ con cô được định cư taị Mỹ theo diện nhân đạo H.O.. Có điều lạ là qua cuộc phỏng vấn họ không hề đả động gì đến chuyện anh bỏ Mỹ về laị Việt nam hôì 75. Điều này đánh tan môí quan ngaị của hai mẹ con trước khi đi phỏng vấn vì tin đồn Mỹ không nhận laị những người đã theo tàu Việt Nam Thương Tín về từ đảo Guam.

Sang tới Mỹ, được các bạn tù thân thiết giúp đỡ, đùm bọc nên cô và cháu gái như có chỗ dựa tinh thần.  Hết trợ cấp, cô cũng bương chaỉ làm đủ nghề: may khoán, trông con nít, làm thợ assembly… vừa lo cho cháu gái để nó tập trung vào việc học.  Cháu đã khôn trước tuôỉ, biết thương mẹ, hiểu hoàn cảnh của cha, quyết chí làm vui lòng mẹ.  Cháu đã xong bằng B.S. về môn Hóa và được nhận vào khoa Dược của Đaị học Nebraska. Sau khi ra trường cháu quay laị với mẹ ở Cali.
Cuối cuộc điện đàm, thấy cô vui, tự nhiên như một ngươì anh, tôi bỗng hỏi cô về chuyện riêng tư, ‘Sao, chuyện riêng tư của cô X. có gì thay đôỉ không? Tôi muốn nói thế nào chẳng có ngươì làm phiền?’ Cô cười qua điện thoaị, giọng cươì rất hồn nhiên của một góa phụ như biết mình còn nhan sắc nhưng thỏa lòng không muốn đi bước nữa.

Cô trả lời tôi, ‘Em già rôì anh ơi! em làm phiền ngươì ta thì có.  Thưa thiệt vơí anh, thấy anh H. thương em quá, nên tim em khó để ai chen vô được nữa. Anh nhớ anh K. không? cả anh B. nữa (hai ngươì này bạn của H., một còn độc thân lúc ra trại, một vợ bỏ khi cô vợ vượt biên qua Mỹ trước)…Nói cho ngay, maỉ lo cho cháu em không còn thì giờ để nghĩ đến ai…(lại cười)…Hay anh chị ‘làm mai’ cho em đi!’ Tôi biết câu nói vuốt chỉ là câu nói vui.  Tôi nhắc laị hôì đó H. đâu muốn làm khổ ai, taị cô tình nguyện chịu khổ thì bây giờ ráng chịu (laị có tiếng cười đầu giây bên kia).
Kết thúc câu chuyện điện thoaị, vợ chồng tôi cảm thấy mừng vì ở chi H. như có sự thay đôỉ lạ kỳ.  Nhớ laị hôì H. nằm ở nhà thương Chợ Rẫy, tuị tôi có dịp vô thăm thường xuyên và có một ấn tượng khá sâu sắc về ngươì vợ trẻ của anh.  Khác với những người vợ, ngươì yêu của các phi công thường mang nét sắc sảo, pha chút tinh nghịch lãng mạn của các cô gái thành phố. Người thiếu phụ này có khuôn mặt dù không trang điểm, laị trải qua những năm tháng đợi chờ, vừa chân chất như các cô gái miền quê cát trắng, vừa kín đáo trong ánh mắt ẩn buồn, âm thầm chấp nhận những ngang trái đổ xuống đời mình.
Nhưng quả Trời không để ai phải chịu đựng quá sức. Thời gian như một liều thuốc chữa lành các vết thương lòng, bôi xóa đi các nghịch cảnh của cuộc sống.  Tôi như hình dung được gương mặt hôì sinh của chị, người đàn bà sinh ra để làm vợ, luôn sống có thủy có chung, biết trân quý các môí quan hệ, giúp đỡ của bạn bè trong đó có cả lòng nhân đạo hào hiệp của người Mỹ.
Đỗ Xuân Tê

M. NGỌC PHAN * CON TÀU VIỆT NAM THƯƠNG TÍN

Những Số Phận Trên Tàu VN Thương TínM Ngọc Phan, Cập Nhựt 2009/09

LGT : 17 giờ ngày 29/04/1975, cuộc « thương thuyết » giữa chính phủ đầy ngây thơ và ảo tưởng mệnh danh « thành phần thứ ba » với quân Cộng Sản Việt Nam đã hoàn toàn tan vỡ ... Quân đội Cộng Sản tập trung hoả lực và cơ giới tiến thẳng vào thủ đô Sài Gòn. 1030 sáng ngày 30/04/1975, với danh nghĩa Tổng Thống, cựu Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Trước đó không đầy 24 giờ, Dương Văn Minh ký cho Nguyễn Hữu Chung một Sự Vụ Lịnh đưa chiếc tàu Việt Nam Thương Tín đi, và một SVL cho Nguyễn Hữu Chung đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam đưa một số vàng tồn trữ ở Ngân Hàng này xuống tàu Việt Nam Thương Tín để khỏi lọt vào tay Cộng Sản. Nguyễn Hữu Chung đến Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam định lấy vàng đem đi, Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo và Thống Đốc Lê Quang Uyển nhất định không chịu trao, vì muốn giữ lại trao cho VC để lấy điểm. Bàn cãi nhau trong vòng 1 tiếng đồng hồ, Nguyễn Hữu Chung không thuyết phục được Nguyễn Văn Hảo và Lê Quang Uyển, nên Nguyễn Hữu Chung phải lật đật xuống tàu Việt Nam Thương Tín để ra đi.

Tàu Việt Nam Thương Tín ra đến sông Lòng Tảo bị Cộng quân nã B-40 vào hông tàu, làm thủng một mảng lớn. Nhà Văn Chu Tử, Chủ Nhiệm Nhật báo Sống ở Sài Gòn đã bị đạn B-40 của Cộng Sản Việt Nam giết chết trên tàu Việt Nam Thương Tín. Vậy mà khi cập bến Guam, phần do nội tuyến VC tuyên truyền, phần vì ly biệt người thân, 1652 người đã chấp nhận lên tàu Việt Nam Thương Tín quay trở lại Việt Nam, vào tháng 10/1975, dưới sự điều khiển của Trung Tá Hải Quân Trần Đình Trụ. Sau khi cập bến, tất cả những người trở về đã bị cầm tù ngoại trừ một bé trai 7 tuổi. Cựu Trung Tá Trụ đã bị tù 13 năm. Cuối cùng ông được trả tự do và ông cùng với gia đình đã được định cư tại Hoa Kỳ qua diện HO năm 1990.

Kể từ khi cộng sản chiếm đóng miền Nam, nhiều người đã hậm hực tiếc rẻ không chạy thoát trước ngày 30/04, ra nước ngoài. Vì thế, mọi người đã sững sờ khi nghe tin hơn 1600 người « đòi về » với chế độ cộng sản chứ không thèm ở trên xứ tự do ! Người Mỹ trên đảo lúc đó đã tìm đủ mọi cách để dỗ dành, chiều chuộng họ để họ ở lại nhưng không được. Họ nhất quyết tin tưởng nếu « thành tâm » về với cộng sản như vậy, họ sẽ được cộng sản đãi ngộ tử tế và coi như anh hùng ! Lúc đó, người nào cũng hy vọng là sự trở về của họ sẽ được cộng sản thích thú chấp nhận và đãi ngộ tử tế. Người Mỹ thì biết những người trở về sẽ vô cùng cực khổ vì thiếu thốn nên đã trang bị cho họ đủ thứ mùng mền, chăn gối, lương thực ê hề. Có người đã phải nói người Mỹ cho nhiều đồ như cho con gái về nhà chồng !

Nào ngờ đâu khi tàu Việt Nam Thương Tín cập bến Nha Trang, Việt Cộng đã cho lột sạch sẽ quần áo và của cải trước khi đưa tất cả vào trại giam. Mỗi người phải trút bỏ hết quần áo và được cấp phát 2 bộ quần áo cũ hay quần áo tù. Cộng sản làm như vậy để tiện lục soát trong quần áo và tịch thu toàn bộ của cải, kể cả những bộ quần áo của người tỵ nạn.

Kết quả là mỗi người được cộng sản đón bằng cái còng số 8, bất kể đàn bà trẻ con ! Tất cả phải lột sạch quần áo để công an khám người, khám tóc tìm cái gì có thể giấu được. Quần áo bị tịch thu để công an có thời giờ lục soát kỹ càng và lấy luôn. Trong số những người về có tới 400 sĩ quan cảnh sát, và mấy trăm sĩ quan quân đội. Đàn bà và trẻ con bị giam tối thiểu 9 tháng, những người khác từ 5 năm trở lên, tuỳ theo thành phần, lý lịch. Một số lớn bị tình nghi do CIA "cài" về để làm gián điệp, tình báo thì còn bị giam lâu hơn !

Thân nhân gia đình của những sĩ quan trở về đã thất vọng và nguyền rủa chồng họ không tiếc lời. Báo hại những người vợ nghèo nàn này còn phải lo tiền bạc đồ ăn đi thăm nuôi. Nhiều bà đã quá giận bỏ chồng khiến cho gia đình tan nát. Các "nạn nhân" chỉ còn cúi đầu sống trong sự tiếc hận, tủi hổ với lương tâm và với mọi người, và tiếc nuối một dịp may đã mất đi vĩnh viễn. Nhưng trong số những người trở về VN trên tàu Việt Nam Thương Tín cũng có nhiều hoàn cảnh thương tâm. Thí dụ như Trường Sa. Trả lời phỏng vấn của Thy Nga, ông cho biết : Khi đó, tôi là Chỉ huy trưởng cái đoàn hộ tống công-voa các thương thuyền của các nước đi tiếp tế cho chính quyền Lon Nol tại Campuchia. Ngày 29 thì tôi ở Vàm An Long trên sông Cửu Long. Khi mà tôi liên lạc với các cấp chỉ huy của tôi thì người ta đi hết rồi, thành ra đêm hôm đó, tôi dùng một chiếc tàu nhỏ trở về Sài Gòn nhưng không vô được bên trong nữa. Và từ đó, tôi gặp chiến hạm từ Sài Gòn đi ra, tôi lên chiến hạm, đi tới đảo Guam luôn. Khi lên tàu, tôi tìm khắp trên các chiến hạm đang di tản, không có gia đình tôi. Không liên lạc được với gia đình, vợ con tôi ở Sài Gòn. Tôi không bỏ rơi gia đình trong cảnh khó khăn như thế. Khi đến đảo Guam thì tôi xin Cao Uỷ Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc can thiệp cho tôi trở về Việt Nam. Hoàn cảnh nào, tôi cũng chấp nhận hết. Vì vậy, tôi theo tàu Việt Nam Thương Tín trở về Việt Nam. Khi tàu tới Nha Trang, VC bắt tôi lên Ty Cảnh Sát cũ tại Nha Trang ở đó 2 tháng, rồi chuyển ra trại A 20 Phú Khánh. Một thời gian ngắn sau thì chuyển ra Bắc, trại Nghệ Tĩnh đến năm 1984, mất cả thảy 9 năm ! Chỉ vì đã ra đi, rồi lại trở về. Năm 1986 thì tôi vượt biên, bị bắt. Từ cửa biển vào Mỹ Tho, dọc đường tôi bị đánh dữ lắm. Họ giam tôi 45 ngày trong xà-lim tối, sau đó, họ cho ra lao động. 2 năm sau thì thả tôi về. Đến tháng 04/1989, tôi tiếp tục đi nữa. Lần này thành công, tôi cùng 3 con đến Pulau Bidong, phải chờ 28 tháng, mới được Canada nhận vào.

Giống như nhạc sĩ Trường Sa, ông M Ngọc Phan cũng vì vợ con còn kẹt lại ở Việt Nam, nên đã từ đảo Guam trở lại VN trên tàu VN Thương Tín để rồi trải qua 6 năm tù đầy trong trại tù cải tạo của CS và 12 năm sau, ông và gia đình mới vượt biên thành công, đến được Hoa Kỳ. Sau đây là đoạn hồi ký của ông.
* * * * *
Thằng Quốc ngả người về phía bố, mặt nhăn nhó vì ù tai khi chiếc Boeing 747 hạ thấp để chuẩn bị đáp xuống phi trường San Francisco.
- Ba ơi, lỗ tai con bị nhức quá.
- Ráng chút đi con, mình sắp tới nơi rồi. Máy bay xuống tới phi đạo là hết ngay ấy mà. Coi mẹ và các chị em con có ai than thở gì đâu.

Nói xong, tôi lấy tay day day hai bên lỗ tai thằng nhỏ, giúp nó làm giảm áp lực không khí cho dễ chịu.

Rồi máy bay cũng đã hạ cánh an toàn. Bên ngoài nắng nhạt cuối ngày trải dài lên hai tấm thảm cỏ màu xanh lá mạ chạy dài tít tắp hai bên phi đạo. Tôi thở dài nhẹ nhõm :
- Thế là cuối cùng mình đã đến nơi, muộn hơn những 12 năm.

Máy bay vừa ngừng, đèn an toàn chưa tắt thì mọi người đã ào ào đứng dậy, báo hại nhân viên phi hành phải la ơi ới, yêu cầu bà con ngồi xuống lại.

Chuyến máy bay này do Cao Uỷ thuê bao để chở người tỵ nạn, mà phe ta phần đông không rành tiếng Anh và luật lệ trên máy bay mới ra nông nỗi. Riêng tôi nghĩ mình chờ đã bao năm nay, thì có chờ thêm vài chục phút nào có sá gì, nên nói với vợ con cứ từ từ, chờ cho mọi người xuống hết rồi mới đứng dậy lấy hành lý.

Hoàn thành xong thủ tục Quan Thuế, người đại diện Hội Bảo Trợ hướng dẫn gia đình tôi đến ... Cổng Thiên Đàng. Thật đúng như vậy, bao nhiêu là người thân ăn mặc đẹp đẽ, đang náo nức chờ đợi đón rước gia đình tôi vào miền đất hứa mà tôi đã trót một lần từ bỏ.
Sau những niềm vui và choáng váng với hạnh phúc chan hoà giữa đại gia đình anh chị em trong bữa tiệc đoàn tụ, nằm trên giường đã lâu mà tôi vẫn còn thao thức mãi. Vì khác biệt múi giờ cũng có, mà cái chính là đầu óc vẫn còn quay cuồng, với quá khứ sau bao năm rồi mà vẫn còn hiển hiện như mới ngày hôm qua.
* * * * *
Vào đầu tháng 04/1975, căn cứ Hải Quân Phú Quốc cấm trại 100 % vì tình hình đất nước càng lúc càng mịt mờ, tôi đưa vợ con lên tàu vào đất liền để rảnh tay lo nhiệm vụ của một Sĩ Quan luôn luôn chấp hành lệnh cấp trên.

Bé Dương mới hơn 2 tuổi và vợ lại gần sanh, nên tôi nghĩ không gì tốt và an toàn hơn là gửi cả về bên Ngoại ở Rạch Giá, để có người giúp đỡ lúc sanh nở.

Ngày 29/04 thì tình hình đã rối beng lên, tất cả tàu trong căn cứ được lệnh nhổ neo, tôi đi theo chiếc Tuần Duyên Hạm HQ 600.

Mặc dầu đã cố gắng liên lạc về Rạch Giá với gia đình, nhưng làm sao mà kịp được nữa !

Lệnh đầu hàng của tướng Dương Văn Minh như nhát chém cuối cùng cắt đứt hy vọng của mọi người. Ngồi trên boong tàu nhìn về quê hương mà nước mắt tôi chan hoà. Thôi thế là hết ! Thế là tán gia vong quốc.

Trước đấy hơn một tháng, đã có biết bao công chức, lính tráng di tản về hòn đảo cuối vùng đất nước này, nên HQ cố gắng hết sức để đưa họ ra khơi, mà lúc này cũng chưa ai biết sẽ đi về đâu.

Tàu tôi đã chuyển rất nhiều chuyến ra Tuần Dương Hạm. Tôi chứng kiến bao cảnh thương tâm vợ chồng con cái la khóc vì lạc nhau, thảm cảnh tai nạn khi chuyển lên tàu lớn, có người rớt xuống biển mà không thể nào vớt được. Trong hoàn cảnh hỗn quan hỗn quân ấy, tôi đã hết lòng giúp đỡ mọi người, những ghe nhỏ từ đảo Phú Quốc hay từ Rạch Giá chạy ra chở đầy người, nhưng vợ con mình thì lại không thấy đâu !

Hạm Trưởng ra lệnh chạy về hướng Singapore, ba ngày sau tàu cặp bến thì tôi chuyển qua chiếc HQ 229 để đi Subic Bay- Philippines. Nơi đây tôi đã đứng nghiêm, đau lòng tham dự lễ hạ quốc kỳ VNCH trên con tàu, tháo cặp lon trên vai áo bạc màu, làm thủ tục ở đây 20 ngày rồi lên máy bay qua đảo Guam.

Suốt những này ở trại Asan, tôi thẫn thờ như kẻ không hồn, lạc lõng giữa những người đồng số phận lưu vong. Chỉ có một số người may mắn đầy đủ gia đình, họ mau mắn tiến hành thủ tục định cư càng sớm càng tốt.

Nhìn cảnh gia đình họ mà tôi thèm thuồng và tủi cho thân phận mình. Tuy nhiên tôi vẫn lo làm giấy tờ để đi định cư mà lòng thì ngao ngán. Rồi đây trên xứ người, trơ trọi một thân một mình, không cha mẹ anh em, vợ con thì mình sẽ sống ra sao. Càng nghĩ càng buồn.
Đêm đêm tôi ra ngồi sát bãi biển, mắt đăm đắm nhìn về hướng quê nhà, nơi có người cha già yếu, vợ dại con thơ
đang lo lắng không biết tôi sống chết ra sao. Tôi nhớ đến miền quê nghèo mà mình đã sống từ nhỏ, có bà con lối xóm đầy ấp tình người, luôn luôn thuận hoà và bảo bọc nhau trong mọi hoàn cảnh ngặt nghèo. Nhất là bây giờ không biết vợ tôi sanh nở có mẹ tròn con vuông hay không. Mình đi rồi thì mẹ con nó lấy gì sanh sống và tồn tại đây.

Tôi nhớ tới cuộc di cư mà cha mẹ mình đã trải qua 20 năm về trước mà lòng não nề. Trong một nước mà còn không thể gặp nhau, huống hồ bây giờ tôi ra nước ngoài thì biết bao giờ gặp lại.

Đến cuối tháng Sáu, trong trại có tin đồn là nếu ai muốn về VN thì chính phủ Mỹ sẽ cho về. Tôi nghe một cách lơ là vì cho rằng khó có chuyện đó xẩy ra, nhưng càng lúc tin đồn càng lớn mạnh, một người quen nói với tôi là rất nhiều người đã ghi danh để trở về.

Cùng lúc ấy, có một nhóm khá đông hàng ngày tụ tập trước Văn phòng Đại diện, biểu tình yêu sách "được mau trở về VN vì nước nhà đã được độc lập, đã hết chiến tranh rồi. Hoà bình đến thì nước nhà cần bàn tay của mọi công dân". Cho đến lúc này, việc định cư của tôi vẫn còn mù mờ, không có tin tức gì cả. Tinh thần tôi dao động, khủng hoảng, đắn đo không biết tính sao.

Nếu đi định cư thì chắc chắn là phần vật chất thì no ấm rồi đó, nhưng về tinh thần thì có gì bù đắp được, khi không có gia đình và một người thân nào ở bên cạnh. Nhưng trở về thì sẽ ra sao ? Họ có bắt bớ tra tấn tù đày gì không ? Tôi trằn trọc thao thức nhiều đêm để quyết định cho hướng đi của cuộc đời mình.

Người xưa đã nói : Thà chết một đống, còn hơn sống một người. Cả gia đình tôi còn ở miền quê hương ấy, tôi lại là con trai cả, có nhiệm vụ với nguyên một đại gia đình và với vợ con. Nhất định mình phải trở về, không lẽ bây giờ họ thắng rồi, mà lại "Đánh kẻ chạy lại". Cùng lắm là sau vài tuần điều tra, thấy chẳng có gì là họ cho về với gia đình chứ cơm đâu mà nuôi mãi.

Đọc lịch sử thế giới ai cũng thấy rằng người thắng trận bao giờ cũng mã thượng, như cuộc chiến Nam Bắc ở Hoa Kỳ 1861-1865, Bắc Quân thắng trận nhưng lính Nam Quân vẫn an lành trở về nhà, cả hai miền đều chung sức làm nên nước Mỹ ngày càng cường thịnh. Rồi như nước Nhật, nước Đức kia, thua trận thê thảm năm 1945 mà được cựu thù giúp đỡ, nên chỉ chừng một thập niên sau là trở thành những cường quốc ngay. Việt Nam chắc hẳn cũng thấy ra điều đó. Nhất định là mình phải trở về. Nghĩ vậy nên khi tôi bước lên tàu VNTT mà lòng khấp khởi.

Sau hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín đã vào hải phận Vũng Tàu. Hôm đó là ngày 29/09/1975 có trên dưới 1450 hành khách, với rất nhiều lương thực và hành lý do chính Phủ Hoa kỳ trao tặng gồm chăn màn, quần áo và thuốc men như những món quà của người đi xa mang về cho gia đình ...

Không biết tại sao mà liên lạc từ trước rồi, mà mãi ngày hôm sau mới thấy hai chiếc tàu Hải Quân bây giờ trương cờ đỏ sao vàng ra đậu cách đó khoảng 200 m, rồi họ bắc ống dòm nhìn sang chăm chú. Mấy tiếng đồng hồ sau mới ra hiệu hướng dẫn chiếc VNTT chạy ngược ra phía miền Trung.

Bây giờ thì nỗi lo lắng đã hiện lên nét mặt nhiều người, nhưng ai cũng nán lòng chờ đợi vì chưa biết rồi ra sẽ như thế nào.

Ngày hôm sau thì tàu cập bến Nha Trang. Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân nơi tôi theo học còn đây, mà sao phố phường im vắng như thành phố chết ? Tất cả mọi người lớn bé đều bị dồn lên xe bít bùng mà chở về Trung Tâm Thẩm Vấn của Quân đoàn II cũ. Lúc này thì ai cũng lờ mờ nhận thấy rằng khốn nạn đến nơi rồi !

Mọi người phải trút bỏ hết quần áo, bị khám xét rất nhiều lần từ đầu đến chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng thình, một chiếc chiếu rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào những căn barrack.

Nhớ mới đây, thực phẩm ở trại Mỹ ê hề thịt trứng, nho cam mà bây giờ chỉ có cá mối ươn kho mặn là chính, thỉnh thoảng mới được ca canh nấu bằng rau muống hoặc rau cải già. Mỗi ngày một nhóm phải đi khai báo lý lịch trên Phòng Chấp Pháp : trước đây làm chức vụ gì trong Nguỵ Quyền, hoạt động ra sao, trong bao nhiêu năm ... Mỗi người được phát một số tờ sơ yếu lý lịch và ít tờ giấy trắng để viết lời khai. Cán bộ thì ông nào ông nấy mặt lạnh như tiền, cặp mắt thò lỏ ra như mắt chuột và hàm răng thuốc lào thì cứ vẩu tướng mãi lên, họ luôn luôn nói lải nhải câu : "Nếu các anh thành thật khai báo, thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho về".

Bây giờ thì cái câu ông Thiệu nói, nó hiển hiện lên trí óc mọi người : "Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm." Về sau này ai cũng hiểu rằng đám cán bộ này thuộc Cục Tình Báo Nước Ngoài thuộc Bộ Công An.

Suốt 2 tháng trời, tinh thần mọi người trở về đều bị khủng bố, ép cung, còn về vật chất thì quá thiếu thốn, cực khổ. Những giòng nước mắt hối hận đêm đêm ứa ra mà không ai dám than với ai, chỉ thầm đấm ngực ăn năn "Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng".

Họ chụp mũ mọi người là CIA, Mỹ gài lại VN phá hoại, chống phá nhà nước. Không biết bao nhiêu lần tôi phải giải thích tại sao tôi lại trở về.

Tôi kể về nỗi nhớ nước thương nhà, lưu luyến vợ con và gia đình, nhưng những con người không có trái tim đó họ không chịu hiểu. Điều phiền muộn nhất cho mọi người là về đến nước nhà rồi mà không ai được liên lạc với gia đình. Chúng tôi cũng biết chắc rằng người thân cũng lo lắng rất nhiều vì mình biệt vô âm tín.

Vài tháng sau thì đàn bà con nít đã được thả ra, nhưng hơn 500 Sĩ Quan, Cảnh Sát hoặc những người làm bên ngành An Ninh bị tách riêng ra. Đến đầu năm 1976 thì tôi bị chuyển đến trại A-30 Xuân Phước ở gần Tuy Hoà để "Cải tạo lao động" với câu quen thuộc cũ : "Nếu các anh cải tạo tốt, lao động tốt, học tập tốt thì đảng và nhà nước sẽ khoan hồng cho các anh về". Chẳng còn ai tin những lời hứa hẹn này và câu sau của ông Thiệu lại vang vọng : "hãy nhìn kỹ những gì VC chúng làm".

Tôi nghe nói những người từ cấp Đại Uý trở lên đã bị chở ra ngoài Bắc, riêng những người thuộc Ban Đại Diện tàu này thì đã bị đưa về khám Chí Hoà từ những ngày đầu. Chắc chắn là họ thê thảm rồi chứ không được tưởng thưởng vì đã đem về cho VC một con tàu đâu.

Thời gian tù đày càng ngày càng vô vọng vì tù mà không có án, thân thể hao mòn vì thiếu thốn. Sự đói khát, kiểm thảo, phê bình, lao khổ trong tù thì đã có quá nhiều người nói đến, kể ra chỉ rườm lời. Tôi xuống tinh thần rồi đổ bệnh tưởng không qua khỏi.

Sự hối hận này so với những người khác cũng chưa thấm vào đâu, nhất là những người vì ngây thơ, đã chia tay với gia đình khi ở bên trại mà trở về một mình. Càng những ông khi biểu tình đòi về to mồm thế nào, thì sự hối hận càng tăng thêm độ nặng chừng đó. Họ không dám nhìn ánh mắt những bạn đồng tù.

Rồi cũng không ai hiểu tại sao đội của tôi lại được tuyên dương là có thành tích lao động nên được cho phép viết thư về nhà. Dĩ nhiên với nội dung là ca tụng đảng và nhà nước chăm sóc cho mình rất chu đáo.

Mấy tháng sau thì vợ và đứa em trai ra thăm, nhưng tôi vì không đi lao động nổi nên bị phạt không cho gặp mặt gia đình, cũng không được nhận quà thăm nuôi !

Sau này tôi mới biết được mùa nước năm ấy, quê tôi bị nước lũ tràn về, lúa chưa chín đã bị chìm trong làn nước lụt, mất trắng. Thế mà gia đình chỉ còn con heo độc nhất đành phải bán đi mà ra thăm nuôi tôi.

Thời điểm ấy đi đâu cũng phải trình báo, xe cộ khó khăn, nếu không phải là công nhân viên, cán bộ thì chỉ còn có nước mua vé chợ đen mà thôi. Từ miền quê Rạch Giá ra đến Tuy Hoà biết bao vất vả tốn hao, thế mà không được nhìn mặt nhau cho dù là qua một hàng rào kẽm gai.

Rồi qua một năm dài đằng đẵng nữa, tôi mới được phép thăm nuôi. Lần này vợ tôi bồng thằng Quốc đi theo. Hai người ngồi 2 bên mép bàn, tên quản giáo với ánh mắt cú vọ ngồi đầu bàn. Cả hai đều không nói nên lời khi thấy nhau ốm yếu như que tăm, một người trong nhà tù nhỏ còn người kia trong tù lớn rộng ra cả nước.

15 phút trôi qua thật nhanh, biết bao tâm tình muốn nói mà cả hai không thể thốt nên lời, cuối cùng tôi gắng gượng bảo :
- Mình cố ráng săn sóc gia đình thay anh, còn anh thì không cần đi thăm nuôi nữa đâu nghen.

Tôi lủi thủi trở vào bên trong dẫy trại giam, không dám quay lại nhìn vợ con đang giọt ngắn giọt dài. Tưởng là về để giúp đỡ vợ con, ai ngờ mình lại trở nên gánh nặng cho cả gia đình.

Cả đời nào có biết văn chương là gì, thế mà hôm ấy tôi cũng viết được một bài thơ :
Hết chiến tranh rồi phước hoạ ai
Đợi mong mòn mỏi tháng năm dài
Lặn lội thăm chồng đi khắp chốn
Đường xa vạn dặm trĩu đôi vai

Viếng thăm chưa thoả niềm thương nhớ
Chia ly thêm nặng nỗi u hoài
Lỡ bước sa cơ đời đen tối
Thương người thiếu phụ lắm chông gai.

Xuân qua hè tới, thấm thoát mà đã hơn sáu năm trời mang thân tù tội, nhìn những hàng cây xoài, cây nhãn do chính tay mình trồng đã đâm hoa kết trái, mà mình vẫn còn ở nơi đây chúng tôi càng hối hận. Nhưng cuối cùng đến giữa năm 81 thì họ thả tôi ra.

Tôi phải mất ba bốn ngày trời mới từ miền Trung lần mò về đến quê nhà. Những người tài xế xe đò, những người buôn gánh bán bưng, bà già bán cơm ... khi biết tôi là tù được tha đều tỏ lòng quí mến mà giúp đỡ trên quãng đường qui hồi cố hương. Lòng tôi nao nao. À thì ra lòng con người Việt Nam vẫn còn đây chứ không phải đã bị nhuộm màu đỏ hết.

Dọc đường về, nhìn đâu cũng thấy cảnh u ám, người người đói khát, da mặt ai cũng đen đúa xấu xí. Từ đường lộ về đến nhà gần ba cây số, tôi tự hỏi sao hàng cây xanh tươi ngày xưa bây giờ lại xơ xác quạnh hiu, không còn sinh khí như vậy.

Đến nhà, con chó vàng xồ ra sủa rồi vẫy đuôi mừng rỡ. Cha tôi lọm khọm buông gậy mà chạy ra đón con. Vợ và 2 đứa nhỏ tíu tít quấn quít mà sao căn nhà coi bộ vắng vẻ hơn xưa nhiều quá. Thì ra các em tôi đã lần lượt theo nhau vượt biên hết rồi. Bà con xóm ngõ cũng đang tiếp tục âm thầm ra đi mỗi ngày một nhiều.

Tôi thẩn thơ ra vào trong căn nhà vắng hẳn tiếng cười, lo lắng như con chim đã một lần bị tên, thấy cành cây cong cũng sợ, nên dù có nhiều người đề nghị đi vượt biên lắm mà tôi chưa biết tính sao. Tôi đã một lần quyết định sai lầm, lần này nếu ra đi mà bị bắt thì chắc là ở tù lâu lắm.

Rồi tôi cũng phải ra đi mà thôi, nhưng phải mất đến 6 năm sau, với bao lần thất bại vì bể bãi, rồi cả gia đình tôi mới đến được bến bờ tự do.

Hôm nay, những người bà con đến chung vui, có ông bạn trẻ Đinh Đoan tặng cho bài thơ « Đố Ai » :
Người ơi có nhớ năm nao
Cái ngày tan tác ba đào thương đau
Đố xem kẻ kẹt trên tàu
Đảo Guam phải đến dạ sầu nhớ ai
Mênh mông với nỗi u hoài
Theo tàu Thương Tín đưa ngài về quê
Gian nan khổ ải chẳng nề
Ai ngờ bóc lịch ê chề thảm thương
Ra tù với nỗi sầu vương
Ngược xuôi dẫn vợ tìm đường vượt biên
Trời cao cũng độ kẻ hiền
Giúp ông tìm được đến miền tự do
Thiên đàng kia vẫn còn chờ
Gia đình hạnh phúc ước mơ đã thành.
Hỏi em hỏi chị hỏi anh
Xin cho tôi biết quí danh của ngài ?

Mục Đồng ở New York có bài thơ « Ông Là ... » hoạ lại :
Tôi còn nhớ chuyện năm xưa.
Cái ngày tan tác như vừa hôm qua
Tuần duyên vượt sóng hải hà
Đưa chàng chiến sĩ rời xa quê mình
Nhưng sau vì nghĩa vì tình
Nên đành chấp nhận hy sinh trở về
Bao nhiêu gian khổ chẳng nề
Dù cho bóc lịch ê chề thảm thương
Cuộc đời dâu bể khôn lường
Bao đêm dắt vợ tìm đường ra khơi
Hình như cũng thuận ý trời
Qua cơn bĩ cực đến thời thái lai
Ông là : bác Ngọc chứ ai
Đêm đen bỏ lại, tương lai đang chờ
Mừng vui hai chữ tự do
Gia đình đoàn tụ giấc mơ đây rồi

Phải ! Giấc mơ đây rồi. Giấc mơ này tôi đã ao ước từ 12 năm trước, mong được đoàn tụ với mọi người trong gia đình. Đến nay mới đạt được, và tôi đã phải trả một giá quá đắt.

Hơn 15 năm ở xứ Huê Kỳ trôi qua thật nhanh, bây giờ mái tóc đã muối nhiều hơn tiêu, mà trên chỏm đầu tóc đã đi chơi hết trơn nên trọc boong như cái hột vịt lộn, tôi ngồi vò đầu ngẫm nghĩ lại thì mình đúng là ở hiền gặp lành, chung tình với vợ con nên bây giờ được vợ cưng như cái trứng mỏng, con cái ngoan ngoãn.

Tôi tuy đến muộn, nhưng biết thân biết phận mình, vợ chồng cố ráng làm ăn, nên nay cũng « đi xe hơi, ở nhà lầu, nhà có TV tủ lạnh đủ cả ; cơm ăn ngày 3 bữa, quần áo mặc cả ngày » (just kidding). Giá mà hồi đó không trở về, có khi mình đã lấy một cô vợ Mễ, và nay thì cô ta đã xay mình nát ra như cám, "tiêu diêu nơi miền cực nhọc" rồi, mà vợ con mình cho đến bây giờ không biết ở nơi nao.

Người ta nói trâu chậm uống nước đục, mà tôi sao lại cứ được uống sữa tươi thế này ? Hoàng thiên đối với tôi như vậy nghĩ cũng là quá hậu đãi.
M Ngọc Phan, VanTuyenNet 2009/05/04

No comments: