Thursday, June 20, 2013
LƯU DIỆU VÂN * NGUYỄN THỊ HỢP
Nguyễn Thị Hợp: nỗi sợ hãi của một họa sỹ là sự lập lại chính mình
(Thứ Tư, 18 Tháng Bảy-2012) (Xem: 32840)
Họa sĩ Nguyễn Thị Hợp
Tiểu sử Họa Sỹ Nguyễn Thị Hợp
Tốt nghiệp trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn năm 1964. Triển lãm
cá nhân lần đầu tiên năm 1966 ở Taipei, Taiwan. Từ 1968, tham dự và
triển lãm đều đặn với nhóm Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam, Sài Gòn. Từ 1979,
triển lãm ở Bonn, Stuttgart, Munich và nhiều thành phố khác ở Đức. Từ
1982, triển lãm hằng năm tại Paris. Sang Mỹ năm 1985, đã bày tranh tại
Orange Coast College, đại học UCLA, đại học Minnesota, CSU Long Beach,
Pacific Asia Museum, L.A. Artcore, dự triển lãm lưu động "An Ocean
Apart" qua một số bảo tàng viện trong nước Mỹ do Viện Smithsonian tổ
chức, và tham dự hằng năm các triển lãm chung tại Người Việt, Việt Báo,
Viễn Đông ở Little Saigon. Mới đây dự triển lãm "On Being Human" do
Picture Art Foundation tổ chức tại Cal State Dominguez Hills. Đặc biệt
chuyên về tranh lụa. Đã minh họa nhiều sách xuất bản ở Việt Nam, Nhật
Bản, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Pháp, Đức, Anh và Hoa Kỳ. Có hai tác phẩm
trong sưu tập của Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật Hà Nội.
Hội họa đánh tiếng với Nguyễn Thị Hợp trước hay chính Nguyễn Thị Hợp đã phải lòng hội họa ngay từ cái liếc nhìn đầu tiên?
Đúng ra thì tôi có thích vẽ từ nhỏ. Thời đó trong lớp các nữ sinh được chọn giữa hai môn vẽ và nữ công gia chánh thì tôi luôn luôn chọn môn vẽ thay vì môn sau như đa số các bạn gái khác. Tôi thích vẽ và vẽ liên miên đầy các tập vở chứ không chỉ chờ đến giờ học vẽ (môn vẽ vẫn là môn có ít giờ nhất trong toàn bộ chương trình giáo khoa). Tôi vẽ lung tung, thích gì vẽ nấy, bắt chước những minh họa trong sách báo, bắt chước các truyện tranh (thích nhất là tranh vẽ của Mạnh Quỳnh), nhiều khi là những sterotypes như Lý Toét, Xã Xệ, Zorro, Tarzan, cô tiên trong các truyện cổ tích…
Xong trung học không hiểu sao tôi lại muốn xin vào trường mỹ thuật và điều này quả thật là hoàn toàn ngoài ý muốn của gia đình! Cuối cùng tôi cũng may mắn được sự đồng ý của cha tôi (cha tôi còn đưa tôi vào gặp họa sĩ Lê Văn Đệ lúc đó là Giám Đốc Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật và được trả lời tường tận về ngành học “vẽ” này) với điều kiện sau bốn năm chuyên môn, tôi sẽ phải học thêm một năm sư phạm mỹ thuật để ít ra bảo đảm nghề dạy hội họa sau khi ra trường.
Khi vào trường mỹ thuật, tôi và các bạn cùng khóa may mắn được Thầy Lê Văn Đệ hướng dẫn những môn chính: vẽ khỏa thân, tranh sơn dầu, tranh lụa. Hồi còn ở lớp dự bị thì chỉ được vẽ người mẫu bằng bút chì đen. Lên năm thứ nhất thì bắt đầu dùng chì than. Năm thứ hai được tập vẽ màu nước. Rồi lên năm thứ ba được tập vẽ sơn dầu, lụa và sơn mài. Cả ba thể loại tôi đều thích, và vẽ thử nhiều lần, nhưng cuối cùng tôi chọn vẽ tranh lụa, và lúc ấy tôi mới thực sự tìm ra kỹ thuật và đường lối phù hợp với mình, bắt đầu thấy thích thú tự tìm cho mình một bút pháp riêng và hăng say sáng tác từ đó.
Cảm tình ảnh hưởng đến chúng ta một cách vô thức, âm thầm, nhưng khá mãnh liệt. Có hoặc không có sự hiện diện của tình yêu lớn – Nguyễn Đồng – tranh Nguyễn Thị Hợp sẽ mang những khác biệt, tích cực và tiêu cực, nào về đề tài, màu sắc và cung bậc thấu cảm?
Tôi và anh Đồng gặp nhau khi cùng làm việc cho chương trình truyền hình giáo dục, lúc đó có tên gọi là Ủy Ban Vô Tuyến Truyền Hình Giáo Dục, mà lúc bắt đầu chỉ có một chương trình hằng tuần thôi, đó là chương trình “Đố Vui Để Học”. Chúng tôi chia sẻ nhiều sở thích về mỹ thuật đã đành, mà còn trong nhiều loại hình nghệ thuật khác nữa, đặc biệt chúng tôi cùng thích nghe âm nhạc cổ điển tây phương cũng như ca nhạc truyền thống dân gian Việt Nam. Chúng tôi trở thành vợ chồng vào năm 1968, ít lâu sau biến cố Mậu Thân. Vì sống chung nên khi làm việc đương nhiên có cơ hội trao đổi ý kiến qua lại, có thể phê bình lẫn nhau, và có những bức vẽ chỉ có tính cách minh họa hay trang trí thì chúng tôi cùng vẽ chung. Những tác phẩm vẽ chung này tự nhiên có một bút pháp khác, không mang sắc thái riêng biệt của Nguyễn Thị Hợp hay của Nguyễn Đồng. Có thể có nhiều điểm chung giữa chúng tôi trong quan niệm sống, trong cách nghĩ, trong nguồn cảm hứng… nhưng về đề tài, bút pháp, kỹ thuật, sự tìm tòi… thì bắt buộc mỗi họa sĩ phải rất riêng biệt. Bút pháp trong hội họa, giống như tuồng chữ viết của mỗi người, sinh ra là như thế, có thể tập luyện cho nhuần nhuyễn tinh vi hơn, nhưng khó có thể thay đổi vì những yếu tố khác.
Bằng cách nào đó, những phác họa khỏa thân trong tranh Nguyễn Thị Hợp chuyển tải đậm nét Á Đông truyền thống mà không hề là những biểu tượng dung tục? Đây có phải là chất tố đặc trưng của một nghệ sỹ tinh tế: khả năng cảm nhận mức độ cân bằng giữa khai phá nét mới và gìn giữ nét cổ?
Khỏa thân, cũng như một thí dụ khác – tĩnh vật, là một đề tài quen thuộc trong hội họa. Khi mình vẽ tranh gọi là “khỏa thân”, hay “tĩnh vật”, hay “phong cảnh”, hay “bố cục”, thì phần nào trong đầu mình không coi đề tài là quan trọng, mà chỉ chú ý tới đường nét, sự phối hợp đường nét, hình thể và màu sắc. Renoir, Matisse, Maillol, Henri Moore… đã có những khai thác rất thành công hình tượng người phụ nữ tây phương. Tại sao mình không thử tìm tòi khai thác từ hình tượng người đàn bà Việt Nam? Đặt vấn đề như vậy, nhưng thật ra tôi không hề vẽ theo người mẫu. Hình tượng người đàn bà Việt Nam trong tranh tôi thật ra chỉ là một hình thức hồi niệm, một cái cớ để bắt đầu sáng tạo. Khi mình vạch một nét trên giấy, rất nhiều yếu tố đưa đẩy mình đi, từ những bài học vẽ khỏa thân ở trường, những bài tập ký họa mà Thầy Lê Văn Đệ bắt phải nộp mỗi ngày, tới bao nhiêu những tranh khỏa thân từ thời cổ điển tới hiện đại, và nhất là một cái gì sâu kín trong tâm tưởng, tất cả những yếu tố đó đưa đẩy mình đi tới một bố cục nào đó, phần nào có tính cách tưởng như là tự phát. Còn về cảm giác dung tục hoặc truyền thống mà người thưởng ngoạn cảm nhận được ở tranh tôi, tôi thật sự khó phát biểu thay cho họ.
Phụ nữ là đề tài lớn trong tranh Nguyễn Thị Hợp, thường giữ vai trò “mẫu nghi” và đôi khi còn được “thánh hóa,” nhưng luôn luôn là sự dịu dàng, mềm mại pha lẫn nỗi yên phận, cam chịu. Họa sỹ có bao giờ cảm thấy cần thay đổi đôi chút để thích ứng với hình ảnh phụ nữ hiện đại? Sẽ có giày cao gót, tóc xoắn và váy ngắn trong tương lai không?
Hồi xưa, mẹ tôi thường theo mùa mà gọi những người đàn bà bán hàng rong vào nhà để mua hàng của họ. Mùa sen, mẹ tôi mua sen để lấy nhụy ướp trà, mùa cà cuống, mùa cốm, mùa sắn dây… Có lần tôi thấy có bà tự nhiên vạch vú cho con bú bên cạnh gánh hàng, hình tượng rất đẹp và tạo nên nhiều xúc cảm. Hình tượng người mẹ, hình tượng những người đàn bà nhà quê nằm trong những gì đã tạo ấn tượng trong tôi từ thời thơ ấu, và có lẽ cũng như ở đa số mọi người, những ấn tượng từ thời thơ ấu là luôn luôn bền lâu và khó quên nhất. Những ấn tượng này lúc nào cũng sẵn trong tiềm thức. Nhưng như đã nói trong phần trả lời câu hỏi trên đây, đó chỉ là một cái cớ để bắt đầu hay một cái gì ngấm ngầm ảnh hưởng đến nét vẽ của mình, Vì tranh của tôi không phải là tranh “tả thật”, vẽ theo sự hiện diện của người mẫu sống, mà chỉ là những hình tượng nhằm thể hiện cách nhìn của mình, quan niệm của mình về cái đẹp trong bố cục hình thể, đường nét và màu sắc.
Vì sao người nam có vẻ thiếu vắng trong tranh Nguyễn Thị Hợp so với hình tượng người nữ?
Thật ra tôi cũng có vẽ đàn ông, thí dụ bức Tranh lụa Chàng Trai Việt vẽ theo một truyện kể của Thầy Nhất Hạnh (Hương vị của đất, Lá Bối – A taste of Earth, Parallax Press). Tranh màu nước Kiều chia tay với Thúc Sinh, những minh họa cho cuốn Augen lachen, Lippen blühen (Thơ Hồ Xuân Hương do giáo sư Tiến Hữu dịch sang tiếng Đức, Verlag Simon & Magiera), tranh Chinh
Phụ Ngâm vẽ đặc biệt cho Đêm Chinh Phụ Ngâm của nhạc sĩ Cung Tiến…Vâng, tôi thường hay dùng hình tượng người đàn bà có lẽ chỉ là một thói quen giống như thói quen của rất nhiều họa sĩ “tiền bối”.
Nếu tranh Nguyễn Thị Hợp là âm nhạc chuyển thể thì đó sẽ là một bài ca dao ru êm đềm. Con-người-ngoại-nghệ-thuật của Nguyễn Thị Hợp sẽ mang âm hưởng nào?
Nếu tính tới những ấn tượng sâu xa thời thơ ấu như đã nói trên đây thì “bài ca dao êm đềm” có lẽ không sai để nói về tranh của tôi cũng như con người tôi. Cách đây khá lâu, trường Irvine Valley College có tổ chức một cuộc triển lãm cho tôi và anh Đồng, sau nhiều tuần lễ trò truyện và chọn tranh, họ đã đặt tên cho cuộc triển lãm là “Images of Peace” – “Những Hình Ảnh An Lành” – có lẽ họ cũng có cái nhìn giống như thế. Trong đời thường, dù rất hay đi dự những buổi hòa nhạc cổ điển, ballet và opera, tôi vẫn luôn luôn cảm thấy xúc động mạnh mẽ nhất với ca dao, với dân ca Bắc Ninh, ca Huế, giọng hò miền Nam…
Viết là vẽ một bức tranh bằng ngữ từ sắp đặt và vẽ là viết một truyện ngắn bằng độ màu tương phản. Những tác phẩm và tác giả nào là nguồn cảm hứng cho Nguyễn Thị Hợp khi viết bằng sắc màu?
Nói về những tác phẩm và tác giả văn chương mình thích thì có lẽ quá mông lung. Trong thực tế, cho tới bây giờ, tôi có lấy nguồn cảm hứng và đã vẽ một số tranh minh họa từ sách của thầy Nhất Hạnh: Đường xưa mây trắng, Hương vị của Đất, Am mây ngủ. Rồi tới Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, thơ Hồ Xuân Hương và một vài truyện cổ tích Việt Nam trong loạt sách Folk Tales From Asia vẽ cho trung tâm văn hóa Á châu thuộc UNESCO ở Tokyo.
Người thưởng ngoạn tranh của những thời đại trước thường đóng vai trò thụ động trước các tác phẩm hội họa. Nghệ thuật đương đại lại đòi hỏi người thưởng ngoạn phải đi cùng lộ trình sáng tạo với họa sỹ. Một ví dụ cụ thể hơn, trong cuộc triển nghệ thuật gần đây trưng bày một cuốn sổ được điêu khắc, cắt đán bằng chính tay người nghệ sỹ. Bên trong cuốn sổ là những tờ giấy trắng và người thưởng ngoạn được khuyến khích viết hoặc vẽ lên những trang giấy đó để tạo nên một tác phẩm nghệ thuật trọn vẹn. Họa sỹ Nguyễn Thị Hợp có cái nhìn thế nào với hai phương cách thưởng ngoạn có vẻ trái ngược này? Hay thật ra chúng cũng chỉ là một?
Tôi còn nhớ cách đây khoảng 30 năm, khi mới sang định cư ở Đức (lúc đó là Tây Đức) tôi và anh Đồng có đi xem triển lãm Documenta. Lúc đó chúng tôi mới dọn về Bonn, mới sau hơn một năm được nhận định cư ở Đức. Documenta là triển lãm quan trọng hàng đầu của nghệ thuật Đức và có lẽ của thế giới nữa. Suốt cuộc triển lãm này, chúng tôi đã “thấy” đủ thứ, ngoại trừ tranh, theo như thói quen của chúng ta vẫn gọi “tranh” ở phòng triển lãm.
Hội họa đánh tiếng với Nguyễn Thị Hợp trước hay chính Nguyễn Thị Hợp đã phải lòng hội họa ngay từ cái liếc nhìn đầu tiên?
Đúng ra thì tôi có thích vẽ từ nhỏ. Thời đó trong lớp các nữ sinh được chọn giữa hai môn vẽ và nữ công gia chánh thì tôi luôn luôn chọn môn vẽ thay vì môn sau như đa số các bạn gái khác. Tôi thích vẽ và vẽ liên miên đầy các tập vở chứ không chỉ chờ đến giờ học vẽ (môn vẽ vẫn là môn có ít giờ nhất trong toàn bộ chương trình giáo khoa). Tôi vẽ lung tung, thích gì vẽ nấy, bắt chước những minh họa trong sách báo, bắt chước các truyện tranh (thích nhất là tranh vẽ của Mạnh Quỳnh), nhiều khi là những sterotypes như Lý Toét, Xã Xệ, Zorro, Tarzan, cô tiên trong các truyện cổ tích…
Xong trung học không hiểu sao tôi lại muốn xin vào trường mỹ thuật và điều này quả thật là hoàn toàn ngoài ý muốn của gia đình! Cuối cùng tôi cũng may mắn được sự đồng ý của cha tôi (cha tôi còn đưa tôi vào gặp họa sĩ Lê Văn Đệ lúc đó là Giám Đốc Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật và được trả lời tường tận về ngành học “vẽ” này) với điều kiện sau bốn năm chuyên môn, tôi sẽ phải học thêm một năm sư phạm mỹ thuật để ít ra bảo đảm nghề dạy hội họa sau khi ra trường.
Khi vào trường mỹ thuật, tôi và các bạn cùng khóa may mắn được Thầy Lê Văn Đệ hướng dẫn những môn chính: vẽ khỏa thân, tranh sơn dầu, tranh lụa. Hồi còn ở lớp dự bị thì chỉ được vẽ người mẫu bằng bút chì đen. Lên năm thứ nhất thì bắt đầu dùng chì than. Năm thứ hai được tập vẽ màu nước. Rồi lên năm thứ ba được tập vẽ sơn dầu, lụa và sơn mài. Cả ba thể loại tôi đều thích, và vẽ thử nhiều lần, nhưng cuối cùng tôi chọn vẽ tranh lụa, và lúc ấy tôi mới thực sự tìm ra kỹ thuật và đường lối phù hợp với mình, bắt đầu thấy thích thú tự tìm cho mình một bút pháp riêng và hăng say sáng tác từ đó.
Cảm tình ảnh hưởng đến chúng ta một cách vô thức, âm thầm, nhưng khá mãnh liệt. Có hoặc không có sự hiện diện của tình yêu lớn – Nguyễn Đồng – tranh Nguyễn Thị Hợp sẽ mang những khác biệt, tích cực và tiêu cực, nào về đề tài, màu sắc và cung bậc thấu cảm?
Tôi và anh Đồng gặp nhau khi cùng làm việc cho chương trình truyền hình giáo dục, lúc đó có tên gọi là Ủy Ban Vô Tuyến Truyền Hình Giáo Dục, mà lúc bắt đầu chỉ có một chương trình hằng tuần thôi, đó là chương trình “Đố Vui Để Học”. Chúng tôi chia sẻ nhiều sở thích về mỹ thuật đã đành, mà còn trong nhiều loại hình nghệ thuật khác nữa, đặc biệt chúng tôi cùng thích nghe âm nhạc cổ điển tây phương cũng như ca nhạc truyền thống dân gian Việt Nam. Chúng tôi trở thành vợ chồng vào năm 1968, ít lâu sau biến cố Mậu Thân. Vì sống chung nên khi làm việc đương nhiên có cơ hội trao đổi ý kiến qua lại, có thể phê bình lẫn nhau, và có những bức vẽ chỉ có tính cách minh họa hay trang trí thì chúng tôi cùng vẽ chung. Những tác phẩm vẽ chung này tự nhiên có một bút pháp khác, không mang sắc thái riêng biệt của Nguyễn Thị Hợp hay của Nguyễn Đồng. Có thể có nhiều điểm chung giữa chúng tôi trong quan niệm sống, trong cách nghĩ, trong nguồn cảm hứng… nhưng về đề tài, bút pháp, kỹ thuật, sự tìm tòi… thì bắt buộc mỗi họa sĩ phải rất riêng biệt. Bút pháp trong hội họa, giống như tuồng chữ viết của mỗi người, sinh ra là như thế, có thể tập luyện cho nhuần nhuyễn tinh vi hơn, nhưng khó có thể thay đổi vì những yếu tố khác.
Bằng cách nào đó, những phác họa khỏa thân trong tranh Nguyễn Thị Hợp chuyển tải đậm nét Á Đông truyền thống mà không hề là những biểu tượng dung tục? Đây có phải là chất tố đặc trưng của một nghệ sỹ tinh tế: khả năng cảm nhận mức độ cân bằng giữa khai phá nét mới và gìn giữ nét cổ?
Khỏa thân, cũng như một thí dụ khác – tĩnh vật, là một đề tài quen thuộc trong hội họa. Khi mình vẽ tranh gọi là “khỏa thân”, hay “tĩnh vật”, hay “phong cảnh”, hay “bố cục”, thì phần nào trong đầu mình không coi đề tài là quan trọng, mà chỉ chú ý tới đường nét, sự phối hợp đường nét, hình thể và màu sắc. Renoir, Matisse, Maillol, Henri Moore… đã có những khai thác rất thành công hình tượng người phụ nữ tây phương. Tại sao mình không thử tìm tòi khai thác từ hình tượng người đàn bà Việt Nam? Đặt vấn đề như vậy, nhưng thật ra tôi không hề vẽ theo người mẫu. Hình tượng người đàn bà Việt Nam trong tranh tôi thật ra chỉ là một hình thức hồi niệm, một cái cớ để bắt đầu sáng tạo. Khi mình vạch một nét trên giấy, rất nhiều yếu tố đưa đẩy mình đi, từ những bài học vẽ khỏa thân ở trường, những bài tập ký họa mà Thầy Lê Văn Đệ bắt phải nộp mỗi ngày, tới bao nhiêu những tranh khỏa thân từ thời cổ điển tới hiện đại, và nhất là một cái gì sâu kín trong tâm tưởng, tất cả những yếu tố đó đưa đẩy mình đi tới một bố cục nào đó, phần nào có tính cách tưởng như là tự phát. Còn về cảm giác dung tục hoặc truyền thống mà người thưởng ngoạn cảm nhận được ở tranh tôi, tôi thật sự khó phát biểu thay cho họ.
Phụ nữ là đề tài lớn trong tranh Nguyễn Thị Hợp, thường giữ vai trò “mẫu nghi” và đôi khi còn được “thánh hóa,” nhưng luôn luôn là sự dịu dàng, mềm mại pha lẫn nỗi yên phận, cam chịu. Họa sỹ có bao giờ cảm thấy cần thay đổi đôi chút để thích ứng với hình ảnh phụ nữ hiện đại? Sẽ có giày cao gót, tóc xoắn và váy ngắn trong tương lai không?
Hồi xưa, mẹ tôi thường theo mùa mà gọi những người đàn bà bán hàng rong vào nhà để mua hàng của họ. Mùa sen, mẹ tôi mua sen để lấy nhụy ướp trà, mùa cà cuống, mùa cốm, mùa sắn dây… Có lần tôi thấy có bà tự nhiên vạch vú cho con bú bên cạnh gánh hàng, hình tượng rất đẹp và tạo nên nhiều xúc cảm. Hình tượng người mẹ, hình tượng những người đàn bà nhà quê nằm trong những gì đã tạo ấn tượng trong tôi từ thời thơ ấu, và có lẽ cũng như ở đa số mọi người, những ấn tượng từ thời thơ ấu là luôn luôn bền lâu và khó quên nhất. Những ấn tượng này lúc nào cũng sẵn trong tiềm thức. Nhưng như đã nói trong phần trả lời câu hỏi trên đây, đó chỉ là một cái cớ để bắt đầu hay một cái gì ngấm ngầm ảnh hưởng đến nét vẽ của mình, Vì tranh của tôi không phải là tranh “tả thật”, vẽ theo sự hiện diện của người mẫu sống, mà chỉ là những hình tượng nhằm thể hiện cách nhìn của mình, quan niệm của mình về cái đẹp trong bố cục hình thể, đường nét và màu sắc.
Vì sao người nam có vẻ thiếu vắng trong tranh Nguyễn Thị Hợp so với hình tượng người nữ?
Thật ra tôi cũng có vẽ đàn ông, thí dụ bức Tranh lụa Chàng Trai Việt vẽ theo một truyện kể của Thầy Nhất Hạnh (Hương vị của đất, Lá Bối – A taste of Earth, Parallax Press). Tranh màu nước Kiều chia tay với Thúc Sinh, những minh họa cho cuốn Augen lachen, Lippen blühen (Thơ Hồ Xuân Hương do giáo sư Tiến Hữu dịch sang tiếng Đức, Verlag Simon & Magiera), tranh Chinh
Phụ Ngâm vẽ đặc biệt cho Đêm Chinh Phụ Ngâm của nhạc sĩ Cung Tiến…Vâng, tôi thường hay dùng hình tượng người đàn bà có lẽ chỉ là một thói quen giống như thói quen của rất nhiều họa sĩ “tiền bối”.
Nếu tranh Nguyễn Thị Hợp là âm nhạc chuyển thể thì đó sẽ là một bài ca dao ru êm đềm. Con-người-ngoại-nghệ-thuật của Nguyễn Thị Hợp sẽ mang âm hưởng nào?
Nếu tính tới những ấn tượng sâu xa thời thơ ấu như đã nói trên đây thì “bài ca dao êm đềm” có lẽ không sai để nói về tranh của tôi cũng như con người tôi. Cách đây khá lâu, trường Irvine Valley College có tổ chức một cuộc triển lãm cho tôi và anh Đồng, sau nhiều tuần lễ trò truyện và chọn tranh, họ đã đặt tên cho cuộc triển lãm là “Images of Peace” – “Những Hình Ảnh An Lành” – có lẽ họ cũng có cái nhìn giống như thế. Trong đời thường, dù rất hay đi dự những buổi hòa nhạc cổ điển, ballet và opera, tôi vẫn luôn luôn cảm thấy xúc động mạnh mẽ nhất với ca dao, với dân ca Bắc Ninh, ca Huế, giọng hò miền Nam…
Viết là vẽ một bức tranh bằng ngữ từ sắp đặt và vẽ là viết một truyện ngắn bằng độ màu tương phản. Những tác phẩm và tác giả nào là nguồn cảm hứng cho Nguyễn Thị Hợp khi viết bằng sắc màu?
Nói về những tác phẩm và tác giả văn chương mình thích thì có lẽ quá mông lung. Trong thực tế, cho tới bây giờ, tôi có lấy nguồn cảm hứng và đã vẽ một số tranh minh họa từ sách của thầy Nhất Hạnh: Đường xưa mây trắng, Hương vị của Đất, Am mây ngủ. Rồi tới Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, thơ Hồ Xuân Hương và một vài truyện cổ tích Việt Nam trong loạt sách Folk Tales From Asia vẽ cho trung tâm văn hóa Á châu thuộc UNESCO ở Tokyo.
Người thưởng ngoạn tranh của những thời đại trước thường đóng vai trò thụ động trước các tác phẩm hội họa. Nghệ thuật đương đại lại đòi hỏi người thưởng ngoạn phải đi cùng lộ trình sáng tạo với họa sỹ. Một ví dụ cụ thể hơn, trong cuộc triển nghệ thuật gần đây trưng bày một cuốn sổ được điêu khắc, cắt đán bằng chính tay người nghệ sỹ. Bên trong cuốn sổ là những tờ giấy trắng và người thưởng ngoạn được khuyến khích viết hoặc vẽ lên những trang giấy đó để tạo nên một tác phẩm nghệ thuật trọn vẹn. Họa sỹ Nguyễn Thị Hợp có cái nhìn thế nào với hai phương cách thưởng ngoạn có vẻ trái ngược này? Hay thật ra chúng cũng chỉ là một?
Tôi còn nhớ cách đây khoảng 30 năm, khi mới sang định cư ở Đức (lúc đó là Tây Đức) tôi và anh Đồng có đi xem triển lãm Documenta. Lúc đó chúng tôi mới dọn về Bonn, mới sau hơn một năm được nhận định cư ở Đức. Documenta là triển lãm quan trọng hàng đầu của nghệ thuật Đức và có lẽ của thế giới nữa. Suốt cuộc triển lãm này, chúng tôi đã “thấy” đủ thứ, ngoại trừ tranh, theo như thói quen của chúng ta vẫn gọi “tranh” ở phòng triển lãm.
Tác phẩm của Joseph Beuys – đã mất, lúc đó thường được giới phê bình gọi
là Picasso của Đức – là một đống 2,000 khối đá dàn trải ở mặt tiền. Có
một họa sĩ rất nổi tiếng được mời từ Pháp sang tham dự, đã cầm theo một
thùng sơn nhỏ búng mấy cái để thực hiện hai tác phẩm “lớn”: “Acrylic
Trên Cửa Sổ” và “Acrylic Trên Lò Sưởi”. Chúng tôi, cũng như hầu hết
người đi xem, nếu không coi catalog và bảng ghi tên tác phẩm, đều tưởng
là người lau nhà đã bỏ sót! Chuyện không lạ, nếu ta đã theo dõi phong
trào Dada, đã thấy chẳng hạn cái yên và cái ghi-đông xe đạp của Picasso,
hay những thứ “readymade” của Duchamp… Phân tích kỹ ra thì cách thức
thưởng ngoạn trong trường hợp này hay trường hợp kia có lẽ cũng chỉ là
“một”, nếu mà mình “thưởng ngoạn” được. Theo tôi, một phần tùy quan niệm
và sở thích của người sáng tác, nhưng phần lớn có lẽ là tùy toàn cảnh
sinh hoạt văn hóa xã hội mà người đó đang sống. “Gặp thời thế” thế thì
sáng tác “phải thế”… Còn nếu không phải lúc “thời thế” thì rất dễ bị coi
là lập dị…
Nỗi sợ hãi lớn nhất của một nhà văn là sự lạm phát của chữ nghĩa theo thời gian, còn nỗi sợ hãi của một họa sĩ?
Lạm phát màu sắc chăng? Cũng dám như thế lắm, vì nhiều “màu mè” quá thì còn gì là tranh nữa! Theo tôi nỗi sợ hãi của một họa sĩ, cũng như ở các ngành hoạt động nghệ thuật khác, là sự lập lại chính mình.
Một bài thơ có thể chất chứa nhiều hồi ức, trải nghiệm riêng tư của tác giả. Có nhiều bí mật thấp thoáng trong tranh Nguyễn Thị Hợp không? Làm cách nào để khám phá được những bí ẩn đó?
Có lẽ tới đây, những gì đã nói trên đây đã phần nào trả lời cho câu hỏi này rồi. Tuy nhiên tôi cũng muốn chia sẽ một dự án đang thực hiện, nếu có thể cho đó là một sự bật mí. Họa sĩ Nguyễn Quỳnh dự trù viết điểm cho chúng tôi mỗi người mười bức tranh. Nay anh đã viết xong được bảy bức. Chúng tôi cũng đang chuẩn bị cho một buổi triển lãm tranh bên Đức vào năm 2013 tại một thành phố nhỏ thuộc Hamburg-Harburg. Đây là dịp sau hơn 30 năm trở lại thăm những người bạn Đức đã đón tiếp và giúp đỡ chúng tôi trong những ngày đầu nơi xứ lạ và giới thiệu cho họ những sáng tác mới của chúng tôi như một lời cảm ơn.
HỢP LƯU
Nỗi sợ hãi lớn nhất của một nhà văn là sự lạm phát của chữ nghĩa theo thời gian, còn nỗi sợ hãi của một họa sĩ?
Lạm phát màu sắc chăng? Cũng dám như thế lắm, vì nhiều “màu mè” quá thì còn gì là tranh nữa! Theo tôi nỗi sợ hãi của một họa sĩ, cũng như ở các ngành hoạt động nghệ thuật khác, là sự lập lại chính mình.
Một bài thơ có thể chất chứa nhiều hồi ức, trải nghiệm riêng tư của tác giả. Có nhiều bí mật thấp thoáng trong tranh Nguyễn Thị Hợp không? Làm cách nào để khám phá được những bí ẩn đó?
Có lẽ tới đây, những gì đã nói trên đây đã phần nào trả lời cho câu hỏi này rồi. Tuy nhiên tôi cũng muốn chia sẽ một dự án đang thực hiện, nếu có thể cho đó là một sự bật mí. Họa sĩ Nguyễn Quỳnh dự trù viết điểm cho chúng tôi mỗi người mười bức tranh. Nay anh đã viết xong được bảy bức. Chúng tôi cũng đang chuẩn bị cho một buổi triển lãm tranh bên Đức vào năm 2013 tại một thành phố nhỏ thuộc Hamburg-Harburg. Đây là dịp sau hơn 30 năm trở lại thăm những người bạn Đức đã đón tiếp và giúp đỡ chúng tôi trong những ngày đầu nơi xứ lạ và giới thiệu cho họ những sáng tác mới của chúng tôi như một lời cảm ơn.
HỢP LƯU
MINH VĂN * NHỮNG MÀN KỊCH
Những màn kịch cuối cùng
Minh Văn
Khi
con người sống giả dối và không thực lòng với nhau thì người ta gọi là
đóng kịch. Nhiều người cùng đóng kịch để tự dối mình dối người thì gọi
là diễn kịch. Công lý và sự thật đã không còn, niềm tin đã thực sự mất
đi trong mỗi con người, đó là hiện thực xã hội Việt Nam ngày nay. Cả đất
nước giờ đây đang sống những tháng ngày thê thảm nhất, dưới lừa trên,
trên dối dưới – tất cả ngập chìm trong mê cung của sự lừa dối không có
lối ra. Nói văn hoa hơn, thì cả xã hội Việt nam là một màn kịch lớn, và
đó là những màn kịch tăm tối cuối cùng trước khi ánh bình minh xuất
hiện.
Tại
một kịch trường lớn nhất nước mà người ta vẫn thường gọi là “Hội trường
Quốc Hội”. Ở đây họ bàn bạc những vấn đề đại sự quốc gia, có đến hàng
ngàn con người từ khắp nơi tụ họp. Căn phòng được trang hoàng lộng lẫy
tựa một sân khấu kịch với đủ màu sắc đỏ vàng chói mắt. Các diễn viên
chính thì ngồi những hàng ghế phía trên, bên dưới là các diễn viên phụ
với đủ giọng 3 miền. Đôi khi họ tranh cãi nhau chí chóe theo kịch bản để
đánh lừa người dân về tính dân chủ. Diễn viên nào quên mà đi quá tính
“dân chủ” cho phép thì lập tức bị ông trùm sò (chủ tọa) nhắc nhở là hết
giờ và đi lạc chủ đề chính, vị diễn viên này liền lập tức ngoan ngoãn
ngồi xuống. Thấp thoáng trong đám diễn viên chúng ta có thể thấy vài ba
vị sư mặc áo cà sa, mấy vị sắc phục quân đội, một ít người mặc trang
phục dân tộc thiểu số…; tất cả đều được tập duyệt và tổng duyệt trước
khi diễn kịch để truyền hình trực tiếp lên ti vi.
Tuy
người ta chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy, nhưng nếu để ý một chút trong cách
xưng hô thì chúng ta sẽ biết là họ đang diễn kịch. Ấy là việc họ gọi
nhau là “đồng chí”. Từ trùm sò cho tới diễn viên, hay người bị chất vấn
đều gọi nhau một duộc như vậy cả. Ai cũng hiểu rằng Quốc Hội là nơi tập
trung đại diện cho nhiều chính kiến, tầng lớp, địa phương khác nhau. Vì
thế mà quyền và lợi ích khác nhau, dẫn đến những quan điểm và mục đích
khác nhau. Không thể nào có chuyện cùng một quan điểm và ý chí được. Có
thế thì người ta mới cần họp bàn và tranh luận để phát triển tính dân
chủ đất nước. Ấy nhưng chỉ với một từ “đồng chí” mà họ xưng hô với nhau
đã thực sự giết chết tính “dân chủ” của người dân Việt Nam. Nó để lộ ra
rằng tất cả những người có mặt đều đang diễn kịch để lừa dối nhân dân,
rằng họ chính là những con rối do đảng Cộng Sản tạo ra.
Cũng
không khó để đoán ra là Quốc Hội đang diễn kịch, vì vị trùm sò cũng là
người của đảng, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước.
Và lâu lâu để tạo cho người dân quên đi cái cảm giác là mình đang xem
kịch, đảng lại nghĩ ra vài trò mới để thay đổi khẩu vị.
Lần
này họ lại có một trò mới để thu hút sự quan tâm của người dân, ấy là
việc “bỏ phiếu tín nhiệm”. Cái trò xưa như trái đất này ở các nước người
ta làm cả thế kỷ nay, bây giờ đảng ta mới thực hiện. Rồi họ lu loa khắp
cả nước rằng “Đó là một sự cách mạng lớn”, lần đầu tiên trong lịch sử
Quốc Hội bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh lãnh đạo. Theo đó thì các đại
biểu (diễn viên) Quốc Hội đi quanh một thùng phiếu để bỏ phiếu tín nhiệm
theo danh sách định sẵn. Sau đó người ta công bố kết quả kiểm phiếu,
đại khái là đa phần vẫn nhận được sự tín nhiệm cao, chỉ vài người hơi
thấp nhưng vẫn bình chân như vại và giữ nguyên chức vụ. Cuối buổi, vị
trùm sò đeo cặp kính lão vào và trịnh trọng đứng dậy tuyên bố:
-
Thưa các đồng chí, kết quả kiểm phiếu cho thấy đa phần các đồng chí
lãnh đạo đảng và nhà nước vẫn nhận được sự tín nhiệm cao. Điều đó cho
thấy Quốc Hội đã làm việc nghiêm túc và dân chủ, sự nỗ lực phi thường
của các đồng chí lãnh đạo đảng và nhà nước trong sự nghiệp phục vụ đất
nước, phục vụ nhân dân…
Rồi
ngài liếc nhìn chiếc đồng hồ điện tử đắt giá mới tậu từ mẫu quốc “Trung
Hoa” được treo trang trọng chính giữa kịch trường mà tuyên bố:
- Bây giờ đã đến giờ giải lao, mời các đồng chí tạm nghỉ…
Hết
giờ giải lao, đám diễn viên quần chúng bên dưới lại rục rịch vào ổn
định chỗ ngồi. Lần này dân chúng xem truyền hình thích thú thấy màn khẩu
chiến sinh tử của các diễn viên gà nhà. Có vị phát biểu đến sùi cả bọt
mép để chứng tỏ tâm huyết một lòng vì nước vì dân. Ấy thế nhưng vẫn
không công hiệu, người dân vẫn lắc đầu nói với nhau: “Nói nhiều rồi, nhưng rồi đâu vẫn hoàn đấy, chẳng thấy thay đổi gì cả”.
Màn
cuối và cũng là đòn quyết định để tạo lòng tin nơi người dân, đảm bảo
sự tồn vong của chế độ. Đó là việc họ tung ra vài đào kép mới, những
người này được ăn mặc chải chuốt cầu kỳ theo kiểu những anh hùng thời
đại. Theo đó thì họ sẽ đóng vai anh hùng dẹp bỏ tiêu cực, gánh vác trọng
trách non sông trong giai đoạn mới. Qua cách họ phát biểu hùng hồn,
chém mạnh tay vào không khí để đoạn tuyệt với tham nhũng, tiêu cực thì
người dân đã có vẻ xuôi xuôi mà theo dõi tiếp kịch bản.
Trong
khi người dân say sưa theo dõi những anh hùng mới xuất trận và đang mơ
về một tương lai tốt đẹp, thì vị trùm sò lại uể oải đứng dậy cất giọng
thều thào:
- Đã kết thúc buổi họp ngày hôm nay. Mời các đồng chí chuẩn bị đi ăn cỗ…
Người dân thở dài ngao ngán, họ biết rằng đó là những màn kịch cuối cùng của chế độ trước khi lùi vào bóng tối của lịch sử.
(20/6/2013)
CHUYỂN HÓA
About these ads
CHÍNH TRỊ VIỆT CỘNG
Sự thật sức mạnh của ĐCSVN hiện nay
Trong lịch sử chính trị Việt Nam, đảng CSVN là một đảng chính trị giữ vị trí hàng đầu, về cả chiều dầy lịch sử, thành tích và quy mô. Do cơ chế độc đảng, với số lượng trên 3 triệu đảng viên chiếm khoảng 3% dân số, có mặt ở mọi nơi, trong mọi tổ chức của đời sống xã hội dễ tạo cho người ta cảm giác đảng CSVN có một sức mạnh vô địch. Sự thật sức mạnh của đảng CSVN hiện nay thế nào, thông tín viên Anh Vũ đã có cuộc trò chuyện cùng Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng, một cựu cán bộ an ninh, hiện là đảng viên đảng CSVN, hiện đang sống ở Sài gòn về vấn đề này.
Anh Vũ: Thưa Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng, hiện nay số lượng đảng viên đảng CS Việt Nam là khoảng 3,6 triệu người. Nhưng trên thực tế, có khoảng 50% là các đảng viên cao tuổi đã nghỉ hưu và một số đông đảng viên trên danh nghĩa đã không tham gia sinh hoạt đảng sau khi chuyển công tác. Số đảng viên không chức quyền thì chả ai quan tâm đến việc bảo vệ đảng, duy chỉ có số còn lại có chức, có quyền hoặc lớp trẻ trong lực lượng vũ trang bị nhồi sọ thì mới có ý thức về việc này. Ông đánh giá lực lượng đảng viên có ý thức bảo vệ đảng là khoảng bao nhiêu người?
TS Phạm Chí Dũng: Tất nhiên, không phải ai cũng mang ý thức bảo vệ Đảng với cùng một động cơ. Mà có những động lực khác nhau, thậm chí khác biệt hoàn toàn giữa những người được coi là cùng chung một chiến hào.
Từ nhiều năm qua, tôi thấy báo cáo của các cơ quan Đảng thường chỉ thừa nhận một số đảng viên nào đó là “không tốt”. Nhưng những năm gần đây, trước tình hình tham nhũng đã đến mức quá manh động và trầm trọng, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phải cảm thán là tham nhũng và suy thoái đạo đức có thể “đe dọa đến sự tồn vong của chế độ”. Sau đó các báo cáo của Đảng mới chuyển dần từ “một bộ phận” đến “một bộ phận không nhỏ” đối với đối tượng đảng viên biến chất.
Tham nhũng trên thực tế đang trở thành quốc nạn và có nguy cơ kéo tất cả xuống hố, mà Vinashin và Vinalines là những ví dụ điển hình.Tuy nhiên cách đánh giá này thường bị dư luận người dân và ngay trong cán bộ đảng viên xem là thiếu tương hợp và cố tình che giấu sự thật.
-TS Phạm Chí Dũng
Chỉ vài năm gần đây, có báo cáo của một số cơ quan Đảng thừa nhận khoảng 30% số đảng viên về hưu không sinh hoạt đảng.
Ở một góc độ khác, nhận định của giới quan sát và phân tích chính trị độc lập là có phần trái ngược và khác biệt lớn so với các báo cáo của đảng. Tức là có đến ít nhất 50% số đảng viên về hưu không sinh hoạt đảng, 30% đảng viên đã nhận thức về hiện trạng quá nhiều bất cập, mâu thuẫn và cả xung đột xã hội. Về việc lãnh đạo đảng xa rời thực tế, yếu kém trong công tác điều hành chính quyền - tỷ lệ này phải lên đến ít nhất 70% theo dư luận.
Hiện chỉ còn khoảng 30% đảng viên thuộc về “nhóm thủ cựu” (tức nhóm cách mạng lão thành, nhóm giáo điều, nhóm đặc quyền đặc lợi, nhóm kém năng lực không muốn ra khỏi biên chế…). Khá chua chát nhưng lại cần phải trần thuật một cách hài hước, điều được xem là “một bộ phận không nhỏ” của những nhóm này lại mang tâm lý “còn đảng còn mình”.
Đảng CS Trung Quốc - cho rằng chỉ cần giữ lại 30 triệu tấm thẻ đảng trong tổng số 80 triệu đảng viên như hiện nay. Như vậy, có thể xem rằng Trung Quốc đã gián tiếp thừa nhận trên thực tế chỉ có 30/80 triệu, chiếm khoảng 37%, là đảng viên thuộc loại “trung thành”.
Trung Quốc và Việt Nam lại có nhiều đặc thù giống nhau, đặc biệt là nền chính trị và tâm lý xã hội.
Qua đó có thể thấy, tỷ lệ trung thành với đảng ở Việt Nam vào khoảng
30% trên tổng số đảng viên hiện thời, tức chỉ khoảng 1,2 triệu người.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tỷ lệ 30% trung thành với đảng đã được giới
quan sát độc lập ước tính từ những năm 2006-2007, tới nay con số đó có
thể thấp hơn. Tuy nhiên, vẫn không hề có một số liệu thống kê chính thức
nào từ phía các cơ quan đảng về tình trạng đảng viên xa rời đảng, hay
dân gian còn gọi là “thoái đảng”.
Chất lượng đảng viên
Anh Vũ: Về chất lượng đảng viên của đảng là một vấn đề phải
bàn. Đặc biệt là động cơ vào đảng của tuyệt đại đa số hiện nay là vì
lợi ích cá nhân, đó là tham nhũng. Lãnh đạo Đảng CS Việt Nam cũng thừa
nhận đây là một quốc nạn và là một trong những nguy cơ nghiêm trọng nhất
đe doạ sự tồn vong của Đảng. Ông có đánh giá và nhận xét gì về vấn đề này?
TS Phạm Chí Dũng: Trong các báo cáo của đảng, thường tổng kết về biểu hiện 5 suy thoái về đạo đức, lối sống của đảng viên là:
Thứ nhất là suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên có xu hướng tăng cả về số lượng và phạm vi.
Thứ hai là bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, đó là chạy chức, chạy
quyền, chạy chỗ, chạy lợi và chạy tội cho bản thân cho người thân.
Thứ ba, nói nhiều làm ít; nói nhưng không làm.
Thứ tư, quan liêu, xa dân, thích nghe thành tích, ngại nghe sự thật,
việc nhận xét cán bộ chung chung, thậm chí sai lệch với mức “vô trách
nhiệm”. Ví dụ vụ tham nhũng và tha hóa đạo đức, lối sống của một số cán
bộ đảng viên ở PMU 18 nghiêm trọng vậy mà Phó bí thư đảng ủy cơ quan Bộ
Giao thông vận tải vẫn khẳng định: “Trước khi bị khởi tố, họ đều là đảng
viên tốt”.
Thứ năm, tham nhũng, nhũng nhiễu dân gây hậu quả nặng nề trên nhiều mặt, không
chỉ làm thất thoát tài sản, tiền vốn của nhà nước, của nhân dân mà còn
dẫn tới sự hư hỏng của “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên.
Đảng cần bổ sung hai vấn đề đang diễn ra trong đảng và chính quyền, đó là sự lộng hành của Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu.
Đáng chú ý có các biểu hiện tàn bạo và manh động của Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu trong việc trưng thu đất đai ở nông thôn Việt Nam.
-TS Phạm Chí Dũng
Tham nhũng trên thực tế đang trở thành quốc nạn và có nguy cơ kéo tất
cả xuống hố, mà Vinashin và Vinalines là những ví dụ điển hình. Chúng
ta đang nói về vấn đề lượng và chất và mối quan hệ giữa hai phạm trù
này, vì thế tôi cũng nêu ra một đối sánh mới là nợ tính theo đầu đảng
viên so với nợ theo đầu người dân.
Chẳng hạn, cho đến thời điểm đổ vỡ, Vinashin có 6.000 đảng viên nhưng
lại nợ đến 80.000 tỷ đồng, tức mỗi đảng viên nợ 13,3 tỷ đồng, tương
đương 665.000 USD, gấp hơn 800 lần nợ công trên đầu người ở Việt Nam là
800 USD. So sánh như thế để mọi người thấy rằng những người được gọi là
“công bộc của dân” có thể mang tính đại diện đến thế nào về đặc quyền,
đặc lợi và tất nhiên không thể thiếu cái bị gọi là “nghiệp chướng”.
Dẫn chứng trên cũng chứng minh một nghịch lý về chất lượng đảng viên
đương thời: không phải mọi đảng viên đều cùng chung một “dòng máu”,
không phải đảng viên nào cũng mang tư tưởng bảo vệ đảng xuất phát từ
một động cơ, cho dù rằng trên danh nghĩa toàn bộ 3,6 triệu đảng viên đều
cùng chung một chiến hào.
Sự ủng hộ của quần chúng
Anh Vũ: Sức mạnh của một tổ chức đảng chính trị dựa trên
hai yếu tố cơ bản, đó là số lượng cũng như chất lượng của đảng viên.
Nhưng yếu tố thứ hai không kém quan trọng là sự ủng hộ của quần chúng.
Việc đảng CSVN xa rời nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Marx-Lenin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là việc lấy ruộng của người cày cho các nhà
tư bản. Ông đánh giá vấn đề này thế nào?
TS Phạm Chí Dũng: Đây là vấn đề lớn nhất, nóng nhất ở Việt Nam
hiện nay. Đang có một sự phân hóa rất lớn trong nội bộ Đảng, thể hiện
ít nhất qua việc những đảng viên thuộc Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu,
giữa nhóm doanh nghiệp và giới chức chính quyền địa phương, đã cấu kết
chặt chẽ với nhau để sẵn lòng bóc lột nông dân và phủ nhận chính những
đồng chí đáng tuổi cha mẹ của họ.
Đáng chú ý có các biểu hiện tàn bạo và manh động của Nhóm lợi ích và
Nhóm thân hữu trong việc trưng thu đất đai ở nông thôn Việt Nam.
Từ những năm 2006-2007 đến nay, khoảng 70% trong tổng số đơn thư
khiếu tố thuộc về lĩnh vực đất đai. Trong số đó, khoảng 70% đơn thứ
khiếu tố lại chỉ mặt điểm tên nhiều vụ việc, nhiều cán bộ địa phương ăn
chặn tiền đền bù.
Khi bị thu hồi đất, người dân không chỉ phải chịu mức bồi thường thấp
mà còn mất nguồn thu nhập thường xuyên, thất nghiệp, sinh hoạt đảo lộn
(giao thông, học hành, y tế…), không có chỗ tái định cư. Trên hết, những
trường hợp dân oan đã mất niềm tin vào chế độ…
Nhưng hậu quả ghê gớm mà Nhóm lợi ích và Nhóm thân hữu gây ra không
chỉ đè lên đầu dân thường mà còn áp chế với cả những cán bộ đảng viên
ngay trong nội bộ.
Theo tôi những vấn đề đó là vấn đề đáng báo động, có ảnh hưởng đến ý
chí, tư tưởng của các đảng viên và sự tồn vong của đảng, mà hậu quả cuối
cùng là đảng CS Việt Nam cũng khó tránh khỏi đổ vỡ. Do vậy, đảng cần
phải nhanh chóng xem xét và điều chỉnh cho phù hợp trước khi quá muộn.
Anh Vũ: Xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Kinh tế Phạm Chí Dũng đã dành cho đài chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
Phạm Chí Dũng : Dự cảm chính trường Việt Nam từ vụ bắt ba blogger
DR
Chính trường Việt Nam sắp tới liệu sẽ có những biến động gì
khác ? Chúng tôi đã mời nhà báo tự do Phạm Chí Dũng hiện ở Thành phố Hồ
Chí Minh, cũng là tiến sĩ về kinh tế, bình luận về vấn đề này. Nhà báo
Phạm Chí Dũng cũng đã từng bị bắt vào tháng 7/2012 với cáo buộc lật đổ
chính quyền.
RFI : Thân chào nhà báo Phạm Chí Dũng, rất cám ơn anh đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của RFI. Thưa anh, vụ bắt ba blogger vừa qua có thể cho thấy những dấu hiệu mới nào về chính trị?
Nhà báo Phạm Chí Dũng :
Giới phân tích quốc tế và trong nước có thể đã có được vài ba cơ sở nào
đó cho việc dự báo triển vọng chính trị Việt Nam trong thời gian tới.
Không khí chính trường trong nửa cuối năm 2013 được hứa hẹn sẽ không quá thâm trầm. Thậm chí là ngược lại.
Và thậm chí, vụ bắt giữ blogger và cũng là nhà văn Phạm Viết Đào cùng bloger Đinh Nhật Uy đã xảy đến khi kỳ họp lần thứ 5 Quốc hội khóa XIII còn chưa kết thúc, tiếp nối cho sự việc bắt giữ blogger Trương Duy Nhất khi kỳ họp này mới chỉ bắt đầu.
Vụ bắt giữ nhà văn Phạm Viết Đào lại xảy ra chỉ hai ngày sau khi có kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh chủ chốt, trong đó phần lớn tỷ lệ phiếu “tín nhiệm thấp” được dành cho quan chức khối chính phủ, và phần lớn bình luận cho điều bị xem là “thất bại” đã được giới truyền thông quốc tế dành cho Thủ tướng chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Một chuyển động đáng chú ý không kém là có vẻ gần giống với hoạt động thăm Bắc Kinh của tân ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Thiện Nhân khi Hội nghị trung ương 7 của Đảng vào tháng 5/2013 còn chưa kết thúc, thông tin về chuyến đi Trung Quốc của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã được mở ra vào những ngày cuối cùng của kỳ họp quốc hội lần này.
Biển Đông lại vẫn là nguyên cớ nổi sóng trong quan hệ giữa hai quốc gia - nếu nhìn từ Bắc Kinh xuống Hà Nội theo một đường kinh tuyến.
RFI : Anh có đọc nhận định của giáo sư Carlyle A.Thayer, giảng viên bộ môn Chính trị học tại Đại học New South Wales thuộc Học viện Quốc phòng Úc, về chuyện “triều cống” ? Anh bình luận như thế nào về nhận định này ?
Tôi nhớ là có đọc, không những đọc mà còn đọc kỹ nhận định của giáo sư Thayer trên RFI và một số đài khác. Theo tôi thấy thì có thể, lá cờ “Mười sáu chữ vàng” chính là lý do để giáo sư Thayer nêu ra một nhận định rằng việc bắt bớ các blogger là chiến lược phục vụ quan hệ cho chuyến đi của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trước khi sang Trung Quốc, như một món quà dâng tiến về cam kết trung thành giữ vững đường lối chủ nghĩa xã hội theo nước bạn.
Tất nhiên lập luận của giáo sư Thayer sẽ phần nào có lý, với điều kiện cả ba blogger bị bắt vừa qua đều liên quan đến luồng tư tưởng và bài viết chống Trung Quốc. Tuy nhiên với trường hợp Trương Duy Nhất, sự khác biệt lớn của blogger này với hai người kia là những bài viết của Nhất ít đề cập đến vấn đề chủ quyền Việt Nam ở khu vực Biển Đông, trong khi lại thường nhấn mạnh đến những vấn đề nội chính quốc gia và đánh giá thẳng thắn một cách đáng kinh ngạc về uy tín không vẹn toàn của một số lãnh đạo cao cấp như Tổng bí thư và Thủ tướng.
Mà như vậy, chúng ta có thể thấy là chân đứng trong nhận định của giáo sư Thayer có thể không chắc chắn lắm.
RFI : Thưa anh, đã có nhiều bài phân tích sau vụ bắt giữ ba blogger vừa rồi, anh nhận xét như thế nào về những bài phân tích này?
Tôi đọc khá nhiều. Nhưng mà cho tới thời điểm này, tôi cho rằng bài bình luận có tiêu đề “Cảm nhận trong ba vụ bắt người liên tiếp vừa qua?” của blogger Người Buôn Gió vào 15/6/2013 chứa đựng những phân tích và đánh giá sâu sắc nhất. Người Buôn Gió có nêu ra một số điểm tương đồng giữa các vụ bắt giữ đã được tác giả nêu bật và so sánh, đối chiếu, gợi cho bạn đọc cái nhìn đa chiều, đa dạng và không kém ẩn ý về những mâu thuẫn nào đó trong “nội bộ”.
Nhưng chúng ta cần lưu ý rằng yếu tố “nội bộ” cũng là điểm tương đồng lớn giữa nội dung thể hiện của hai blogger Phạm Viết Đào và Trương Duy Nhất, trong khi với blogger Đinh Nhật Uy lại không phải như vậy.
Vì thế câu hỏi đặt ra đối với bạn đọc và dư luận là nếu để phục vụ quan hệ “bốn tốt”, người ta chỉ cần bắt hai blogger Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy là đủ. Nhưng vì sao lại bắt cả blogger Trương Duy Nhất ? Mà việc bắt Trương Duy Nhất đã khiến cho dư luận quốc tế phải đặc tả về điều bị xem là “Nhà nước Việt Nam ghi điểm xấu về nhân quyền”?
Một câu hỏi khác không thể không nghĩ đến là liệu một chính khách nhiều kinh nghiệm ở đất Bắc Hà như ông Trương Tấn Sang lại có thể thiếu khôn ngoan đến nỗi, thay vì gia tăng lấy lòng dân trong bối cảnh người dân bị suy thoái khôn tả niềm tin đối với chế độ như hiện nay, thì lại tăng cường bắt bớ những người chống sự can thiệp của Trung Quốc ngay trước chuyến đi Bắc Kinh của mình - một hành động chắc hẳn càng làm cho lòng dân thêm phẫn nộ?
Nhưng nếu dấu hỏi về ông Trương Tấn Sang là thiếu cơ sở, trở nên vô lý và vô nghĩa thì liệu còn câu hỏi nào khác, hay những gì vừa xảy ra chỉ thuần túy mang một sắc màu nào đó của “nội bộ” ?
RFI : Như vậy theo anh, có dấu hiệu nào khác từ động thái được xem là “nội bộ”?
Theo tôi là có. Tính logic và phản logic của những câu hỏi mà tôi vừa đặt ra lại càng trở nên phức hợp vì có một dấu hiệu rất đáng lưu tâm và cần được “truy xét” cặn kẽ.
Vì nếu mà bạn đọc, dư luận theo dõi thường xuyên thì thấy là không hề diễn ra một chiến dịch “phản tuyên truyền” nào trên các báo Đảng. Không xuất hiện bài chính luận hay xã luận nào về các đối tượng bị bắt giữ, tính từ thời điểm blogger Trương Duy Nhất bị bắt cho đến nay. Như vậy là đã có một sự im lặng.
Sự im lặng bất thường của các báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và của cả vài ba tờ báo nhỏ mang trên mình tư cách “dư luận viên” - những tờ báo khá thường lên tiếng về vấn đề “phòng, chống diễn biến hòa bình” và những vụ bắt giữ, xét xử các nhân vật dân chủ - lóe lên tín hiệu gì?
Với nhiều trường hợp lên tiếng trước đây của báo Đảng, hiển nhiên hành động tuyên truyền này được thực hiện theo chỉ đạo của Ban Tuyên giáo trung ương và từ cả những cấp cao hơn nữa trong những vụ việc đặc biệt, thể hiện một “chủ trương nhất quán trong tập thể lãnh đạo”. Nhưng ứng với vụ bắt giữ ba blogger vừa qua, sự kín tiếng của báo Đảng lẽ nào cho thấy những tờ báo này đã không nhận được một sự chỉ đạo nào? Mà nếu không có chỉ đạo thì cũng có thể không có sự thống nhất giữa các lãnh đạo chăng? Nếu điều này xảy ra, động thái đơn lẻ trong chỉ đạo “chiến dịch” bắt giữ đã đến từ phía nào và từ những ai, nhằm mục đích gì? Đó là những câu hỏi để chúng ta suy xét.
RFI : Thưa anh trong phần trả lời phỏng vấn RFI vào tuần trước, anh có nêu lên vấn đề nguồn tin như là một yếu tố chính trong vụ blogger Phạm Viết Đào bị bắt . Vấn đề anh vừa nêu có liên quan đến “nguồn tin” không và liệu từ đó có thể có những hệ quả nào khác?
Vấn đề nguồn tin vẫn được tôi bảo lưu, và có thể phát triển sang một vài hệ quả khác. Theo những gì mà tôi đã trải nghiệm, thì câu hỏi “Từ ai?” gần như chắc chắn là câu hỏi mà hai blogger Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào đang phải tìm cách thỏa mãn cho các điều tra viên trong quá trình điều tra, xung quanh chủ đề những tin tức rất nhạy cảm của hai blogger này đã thể hiện và khả năng về nguồn tin mà họ nhận được.
Nếu quả những tin tức của hai blogger này là từ nguồn nội bộ và có tính xác thực, vụ việc của họ sẽ là một vấn đề lớn, thậm chí rất nghiêm trọng - theo cách nhìn của những người chỉ đạo bắt giữ. Khi đó, sau công đoạn truy xét nguồn tin sẽ là một lộ trình nào đó dẫn đến người hoặc những người cung cấp nguồn tin, liên quan đến vi phạm đảng viên và có thể cả trách nhiệm pháp lý. Tin tức càng có giá trị nội bộ thì nguồn tin càng có phẩm hạng và có thể càng liên đới những nhân vật cao cấp hơn.
Thực tế an ninh điều tra ở Việt Nam trong một số năm qua đã cho thấy có những vụ việc được xếp vào dạng “quốc gia đại sự”, xuất phát từ những tin tức và nguồn tin quá nhạy cảm trong nội bộ.
RFI : Xin phép được đặt cho anh một câu hỏi « nhạy cảm » : Anh có thể cho biết một ít kinh nghiệm của mình khi bị bắt giam vào năm ngoái ?
Có thể được… Bản thân tôi đã từng có một chứng nghiệm về những rắc rối và nguy hiểm liên quan đến vấn đề nguồn tin. Sự việc xảy ra vào tháng 7/2012, khi tôi bị cơ quan an ninh điều tra bắt khẩn cấp. Tất nhiên, nguồn tin là một trọng tâm trong rất nhiều câu hỏi của điều tra viên đối với tôi. Với rất nhiều câu và cả chữ nghĩa trong vài chục bài viết của mình, tôi đã phải cố gắng chứng minh là không có mối liên hệ nào với một nguồn tin nào.
Thật may mắn, tất cả đã kết thúc với tôi một cách trong sáng, nghĩa là những thông tin trong bài viết của tôi chẳng dính dáng và cũng chẳng liên quan đến bất cứ một quan chức nào trong nội bộ, dù ở cấp thấp nhất. Vấn đề của tôi cũng vì thế có phần lắng đọng hơn.
Vô tình hay hữu ý, chỉ vài tháng sau vụ bắt giữ tôi, chính trường Việt Nam đã “nổi sóng” với quá nhiều dư luận về những đồng chí nào đó bằng mặt không bằng lòng. Hình như mọi chuyện đang phải đi đến điểm thắt nút.
Trong cảm nhận cá nhân, tôi đang tự hỏi là liệu vào năm nay, một kịch bản “nổi sóng” như năm ngoái có lặp lại, sau vụ bắt giữ ba blogger?
RFI : Thưa anh, đặt giả thiết nếu kịch bản này tái hiện thì nó có thể ảnh hưởng như thế nào đối với chính trường và những người hoạt động nhân quyền ở Việt Nam?
Chắc chắn là có ảnh hưởng. Theo tôi nếu kịch bản này lặp lại vào năm 2013, còn có thể đậm đà tố chất bi tráng hơn với biên độ sóng mạnh hơn cả “cơn hồng thủy” năm ngoái, song lại có thể biến động theo chiều ngược lại với gia tốc biến động khá nhanh trong nửa cuối năm nay.
Nếu kịch bản này lặp lại, có thể giáo sư Thayer của Australia sẽ không hoàn toàn đúng. Tức theo cảm nhận của tôi, những gì liên quan đến chính kiến Bắc Kinh có thể chỉ chiếm tối đa 20% trong những hàm ý bắt giữ các blogger.
Nhưng 80% còn lại cũng không hẳn dành trọn vẹn cho những người dân chủ. Những gì mà tôi hình dung về tác động tiêu cực đối với phong trào dân chủ phản biện ở Việt Nam có lẽ chỉ chiếm khoảng 30% trong số 80% này.
Những người dân chủ như Người Buôn Gió có lẽ cũng không phải quá bận lòng về chuyện phong trào dân chủ phản biện sẽ bị “diệt từ trong trứng nước” trong thời gian tới. Cho dù có thể còn thêm ai đó sẽ bị bắt giữ bởi điều 258 - một phạm trù thường liên quan mật thiết đến các vấn đề đấu tranh nội bộ.
Đơn giản vì người ta còn đang quá bận rộn với câu hỏi “Ai là người cung cấp tin này cho anh ?”.
RFI : Như vậy theo anh giới trí thức Việt Nam nên giữ một thế đứng như thế nào trong tình hình hiện nay?
Tình hình hiện nay theo tôi là một bối cảnh nhập nhoạng như hiện thời, có lẽ câu hỏi “Ai là người cung cấp tin này cho anh?” sẽ gián tiếp giúp giới nhân sĩ trí thức Việt Nam - những người có thực tâm dân chủ - cảm nghiệm rõ hơn về chân đứng độc lập cần xác lập của mình. Đó là : Không nên bị lệ thuộc vào bất cứ phe phái “nội bộ” nào, mà chỉ phản biện và tranh đấu cho tất cả những gì thuộc về quyền lợi của nhân dân - dĩ nhiên là nhân dân bao gồm người nghèo và theo nghĩa đa số.
RFI : Chúng tôi xin chân thành cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng đã dành thì giờ trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ, đặc biệt là trong bối cảnh có thể nói là khá căng thẳng hiện nay tại Việt Nam.
RFI : Thân chào nhà báo Phạm Chí Dũng, rất cám ơn anh đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của RFI. Thưa anh, vụ bắt ba blogger vừa qua có thể cho thấy những dấu hiệu mới nào về chính trị?
Không khí chính trường trong nửa cuối năm 2013 được hứa hẹn sẽ không quá thâm trầm. Thậm chí là ngược lại.
Và thậm chí, vụ bắt giữ blogger và cũng là nhà văn Phạm Viết Đào cùng bloger Đinh Nhật Uy đã xảy đến khi kỳ họp lần thứ 5 Quốc hội khóa XIII còn chưa kết thúc, tiếp nối cho sự việc bắt giữ blogger Trương Duy Nhất khi kỳ họp này mới chỉ bắt đầu.
Vụ bắt giữ nhà văn Phạm Viết Đào lại xảy ra chỉ hai ngày sau khi có kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh chủ chốt, trong đó phần lớn tỷ lệ phiếu “tín nhiệm thấp” được dành cho quan chức khối chính phủ, và phần lớn bình luận cho điều bị xem là “thất bại” đã được giới truyền thông quốc tế dành cho Thủ tướng chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Một chuyển động đáng chú ý không kém là có vẻ gần giống với hoạt động thăm Bắc Kinh của tân ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Thiện Nhân khi Hội nghị trung ương 7 của Đảng vào tháng 5/2013 còn chưa kết thúc, thông tin về chuyến đi Trung Quốc của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã được mở ra vào những ngày cuối cùng của kỳ họp quốc hội lần này.
Biển Đông lại vẫn là nguyên cớ nổi sóng trong quan hệ giữa hai quốc gia - nếu nhìn từ Bắc Kinh xuống Hà Nội theo một đường kinh tuyến.
RFI : Anh có đọc nhận định của giáo sư Carlyle A.Thayer, giảng viên bộ môn Chính trị học tại Đại học New South Wales thuộc Học viện Quốc phòng Úc, về chuyện “triều cống” ? Anh bình luận như thế nào về nhận định này ?
Tôi nhớ là có đọc, không những đọc mà còn đọc kỹ nhận định của giáo sư Thayer trên RFI và một số đài khác. Theo tôi thấy thì có thể, lá cờ “Mười sáu chữ vàng” chính là lý do để giáo sư Thayer nêu ra một nhận định rằng việc bắt bớ các blogger là chiến lược phục vụ quan hệ cho chuyến đi của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trước khi sang Trung Quốc, như một món quà dâng tiến về cam kết trung thành giữ vững đường lối chủ nghĩa xã hội theo nước bạn.
Tất nhiên lập luận của giáo sư Thayer sẽ phần nào có lý, với điều kiện cả ba blogger bị bắt vừa qua đều liên quan đến luồng tư tưởng và bài viết chống Trung Quốc. Tuy nhiên với trường hợp Trương Duy Nhất, sự khác biệt lớn của blogger này với hai người kia là những bài viết của Nhất ít đề cập đến vấn đề chủ quyền Việt Nam ở khu vực Biển Đông, trong khi lại thường nhấn mạnh đến những vấn đề nội chính quốc gia và đánh giá thẳng thắn một cách đáng kinh ngạc về uy tín không vẹn toàn của một số lãnh đạo cao cấp như Tổng bí thư và Thủ tướng.
Mà như vậy, chúng ta có thể thấy là chân đứng trong nhận định của giáo sư Thayer có thể không chắc chắn lắm.
RFI : Thưa anh, đã có nhiều bài phân tích sau vụ bắt giữ ba blogger vừa rồi, anh nhận xét như thế nào về những bài phân tích này?
Tôi đọc khá nhiều. Nhưng mà cho tới thời điểm này, tôi cho rằng bài bình luận có tiêu đề “Cảm nhận trong ba vụ bắt người liên tiếp vừa qua?” của blogger Người Buôn Gió vào 15/6/2013 chứa đựng những phân tích và đánh giá sâu sắc nhất. Người Buôn Gió có nêu ra một số điểm tương đồng giữa các vụ bắt giữ đã được tác giả nêu bật và so sánh, đối chiếu, gợi cho bạn đọc cái nhìn đa chiều, đa dạng và không kém ẩn ý về những mâu thuẫn nào đó trong “nội bộ”.
Nhưng chúng ta cần lưu ý rằng yếu tố “nội bộ” cũng là điểm tương đồng lớn giữa nội dung thể hiện của hai blogger Phạm Viết Đào và Trương Duy Nhất, trong khi với blogger Đinh Nhật Uy lại không phải như vậy.
Vì thế câu hỏi đặt ra đối với bạn đọc và dư luận là nếu để phục vụ quan hệ “bốn tốt”, người ta chỉ cần bắt hai blogger Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy là đủ. Nhưng vì sao lại bắt cả blogger Trương Duy Nhất ? Mà việc bắt Trương Duy Nhất đã khiến cho dư luận quốc tế phải đặc tả về điều bị xem là “Nhà nước Việt Nam ghi điểm xấu về nhân quyền”?
Một câu hỏi khác không thể không nghĩ đến là liệu một chính khách nhiều kinh nghiệm ở đất Bắc Hà như ông Trương Tấn Sang lại có thể thiếu khôn ngoan đến nỗi, thay vì gia tăng lấy lòng dân trong bối cảnh người dân bị suy thoái khôn tả niềm tin đối với chế độ như hiện nay, thì lại tăng cường bắt bớ những người chống sự can thiệp của Trung Quốc ngay trước chuyến đi Bắc Kinh của mình - một hành động chắc hẳn càng làm cho lòng dân thêm phẫn nộ?
Nhưng nếu dấu hỏi về ông Trương Tấn Sang là thiếu cơ sở, trở nên vô lý và vô nghĩa thì liệu còn câu hỏi nào khác, hay những gì vừa xảy ra chỉ thuần túy mang một sắc màu nào đó của “nội bộ” ?
RFI : Như vậy theo anh, có dấu hiệu nào khác từ động thái được xem là “nội bộ”?
Theo tôi là có. Tính logic và phản logic của những câu hỏi mà tôi vừa đặt ra lại càng trở nên phức hợp vì có một dấu hiệu rất đáng lưu tâm và cần được “truy xét” cặn kẽ.
Vì nếu mà bạn đọc, dư luận theo dõi thường xuyên thì thấy là không hề diễn ra một chiến dịch “phản tuyên truyền” nào trên các báo Đảng. Không xuất hiện bài chính luận hay xã luận nào về các đối tượng bị bắt giữ, tính từ thời điểm blogger Trương Duy Nhất bị bắt cho đến nay. Như vậy là đã có một sự im lặng.
Sự im lặng bất thường của các báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và của cả vài ba tờ báo nhỏ mang trên mình tư cách “dư luận viên” - những tờ báo khá thường lên tiếng về vấn đề “phòng, chống diễn biến hòa bình” và những vụ bắt giữ, xét xử các nhân vật dân chủ - lóe lên tín hiệu gì?
Với nhiều trường hợp lên tiếng trước đây của báo Đảng, hiển nhiên hành động tuyên truyền này được thực hiện theo chỉ đạo của Ban Tuyên giáo trung ương và từ cả những cấp cao hơn nữa trong những vụ việc đặc biệt, thể hiện một “chủ trương nhất quán trong tập thể lãnh đạo”. Nhưng ứng với vụ bắt giữ ba blogger vừa qua, sự kín tiếng của báo Đảng lẽ nào cho thấy những tờ báo này đã không nhận được một sự chỉ đạo nào? Mà nếu không có chỉ đạo thì cũng có thể không có sự thống nhất giữa các lãnh đạo chăng? Nếu điều này xảy ra, động thái đơn lẻ trong chỉ đạo “chiến dịch” bắt giữ đã đến từ phía nào và từ những ai, nhằm mục đích gì? Đó là những câu hỏi để chúng ta suy xét.
RFI : Thưa anh trong phần trả lời phỏng vấn RFI vào tuần trước, anh có nêu lên vấn đề nguồn tin như là một yếu tố chính trong vụ blogger Phạm Viết Đào bị bắt . Vấn đề anh vừa nêu có liên quan đến “nguồn tin” không và liệu từ đó có thể có những hệ quả nào khác?
Vấn đề nguồn tin vẫn được tôi bảo lưu, và có thể phát triển sang một vài hệ quả khác. Theo những gì mà tôi đã trải nghiệm, thì câu hỏi “Từ ai?” gần như chắc chắn là câu hỏi mà hai blogger Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào đang phải tìm cách thỏa mãn cho các điều tra viên trong quá trình điều tra, xung quanh chủ đề những tin tức rất nhạy cảm của hai blogger này đã thể hiện và khả năng về nguồn tin mà họ nhận được.
Nếu quả những tin tức của hai blogger này là từ nguồn nội bộ và có tính xác thực, vụ việc của họ sẽ là một vấn đề lớn, thậm chí rất nghiêm trọng - theo cách nhìn của những người chỉ đạo bắt giữ. Khi đó, sau công đoạn truy xét nguồn tin sẽ là một lộ trình nào đó dẫn đến người hoặc những người cung cấp nguồn tin, liên quan đến vi phạm đảng viên và có thể cả trách nhiệm pháp lý. Tin tức càng có giá trị nội bộ thì nguồn tin càng có phẩm hạng và có thể càng liên đới những nhân vật cao cấp hơn.
Thực tế an ninh điều tra ở Việt Nam trong một số năm qua đã cho thấy có những vụ việc được xếp vào dạng “quốc gia đại sự”, xuất phát từ những tin tức và nguồn tin quá nhạy cảm trong nội bộ.
RFI : Xin phép được đặt cho anh một câu hỏi « nhạy cảm » : Anh có thể cho biết một ít kinh nghiệm của mình khi bị bắt giam vào năm ngoái ?
Có thể được… Bản thân tôi đã từng có một chứng nghiệm về những rắc rối và nguy hiểm liên quan đến vấn đề nguồn tin. Sự việc xảy ra vào tháng 7/2012, khi tôi bị cơ quan an ninh điều tra bắt khẩn cấp. Tất nhiên, nguồn tin là một trọng tâm trong rất nhiều câu hỏi của điều tra viên đối với tôi. Với rất nhiều câu và cả chữ nghĩa trong vài chục bài viết của mình, tôi đã phải cố gắng chứng minh là không có mối liên hệ nào với một nguồn tin nào.
Thật may mắn, tất cả đã kết thúc với tôi một cách trong sáng, nghĩa là những thông tin trong bài viết của tôi chẳng dính dáng và cũng chẳng liên quan đến bất cứ một quan chức nào trong nội bộ, dù ở cấp thấp nhất. Vấn đề của tôi cũng vì thế có phần lắng đọng hơn.
Vô tình hay hữu ý, chỉ vài tháng sau vụ bắt giữ tôi, chính trường Việt Nam đã “nổi sóng” với quá nhiều dư luận về những đồng chí nào đó bằng mặt không bằng lòng. Hình như mọi chuyện đang phải đi đến điểm thắt nút.
Trong cảm nhận cá nhân, tôi đang tự hỏi là liệu vào năm nay, một kịch bản “nổi sóng” như năm ngoái có lặp lại, sau vụ bắt giữ ba blogger?
RFI : Thưa anh, đặt giả thiết nếu kịch bản này tái hiện thì nó có thể ảnh hưởng như thế nào đối với chính trường và những người hoạt động nhân quyền ở Việt Nam?
Chắc chắn là có ảnh hưởng. Theo tôi nếu kịch bản này lặp lại vào năm 2013, còn có thể đậm đà tố chất bi tráng hơn với biên độ sóng mạnh hơn cả “cơn hồng thủy” năm ngoái, song lại có thể biến động theo chiều ngược lại với gia tốc biến động khá nhanh trong nửa cuối năm nay.
Nếu kịch bản này lặp lại, có thể giáo sư Thayer của Australia sẽ không hoàn toàn đúng. Tức theo cảm nhận của tôi, những gì liên quan đến chính kiến Bắc Kinh có thể chỉ chiếm tối đa 20% trong những hàm ý bắt giữ các blogger.
Nhưng 80% còn lại cũng không hẳn dành trọn vẹn cho những người dân chủ. Những gì mà tôi hình dung về tác động tiêu cực đối với phong trào dân chủ phản biện ở Việt Nam có lẽ chỉ chiếm khoảng 30% trong số 80% này.
Những người dân chủ như Người Buôn Gió có lẽ cũng không phải quá bận lòng về chuyện phong trào dân chủ phản biện sẽ bị “diệt từ trong trứng nước” trong thời gian tới. Cho dù có thể còn thêm ai đó sẽ bị bắt giữ bởi điều 258 - một phạm trù thường liên quan mật thiết đến các vấn đề đấu tranh nội bộ.
Đơn giản vì người ta còn đang quá bận rộn với câu hỏi “Ai là người cung cấp tin này cho anh ?”.
RFI : Như vậy theo anh giới trí thức Việt Nam nên giữ một thế đứng như thế nào trong tình hình hiện nay?
Tình hình hiện nay theo tôi là một bối cảnh nhập nhoạng như hiện thời, có lẽ câu hỏi “Ai là người cung cấp tin này cho anh?” sẽ gián tiếp giúp giới nhân sĩ trí thức Việt Nam - những người có thực tâm dân chủ - cảm nghiệm rõ hơn về chân đứng độc lập cần xác lập của mình. Đó là : Không nên bị lệ thuộc vào bất cứ phe phái “nội bộ” nào, mà chỉ phản biện và tranh đấu cho tất cả những gì thuộc về quyền lợi của nhân dân - dĩ nhiên là nhân dân bao gồm người nghèo và theo nghĩa đa số.
RFI : Chúng tôi xin chân thành cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng đã dành thì giờ trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ, đặc biệt là trong bối cảnh có thể nói là khá căng thẳng hiện nay tại Việt Nam.
Wednesday, June 19, 2013
ĐẶNG CHÍ HÙNG * QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA
Tôi gọi họ là Anh Hùng
Đặng Chí Hùng (Danlambao) -
Trong cuộc chiến mà Bên thắng cuộc (theo cách gọi của tác giả Huy Đức) đã được đặt vào thế “tất nhiên phải thắng” như tôi từng chứng minh trong 2 bài “Những sự thật cần phải biết - phần 1” thì không thể đem thành bại ra mà luận anh hùng...
Cứ mỗi độ xuân về, những ngày tháng 3 cho đến cuối tháng 4, đã gần 40 năm qua chúng ta thường được nghe những luận điệu lặp lại của những người cộng sản chuyên nghề ngậm máu phun người và làm thí ít mà báo cáo láo thì nhiều về cái gọi là “Chiến thắng lẫy lừng” thì tôi lại phải xuống bút.
Có lẽ tôi không cần phải nói lại về bản thân tôi vì tôi chẳng có cái gốc “Ngụy” để mà đi “chống phá” cách mạng. Nhưng tôi thấy cần phải luận anh hùng với đôi dòng để bạn đọc thấy trong cuộc chiến mà Bên thắng cuộc đã được đặt vào thế “tất nhiên phải thắng” thì không thể đem thành bại ra mà luận anh hùng...
Tại sao tôi nói như vậy? Vì trong cuộc chiến phi nghĩa mà cộng sản gây ra khiến nhân dân điêu linh (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 13”) thì kẻ thắng đã được đặt vào thế “được thắng”, còn người “thua” thì thực tế họ không thua mà họ đang thắng trong lòng chúng tôi, những người dù sinh sau đẻ muộn.
Một chế độ nào cũng có những khuyết điểm, Việt Nam Cộng Hòa không là ngoại lệ, nhưng ở chế độ đó con người đúng nghĩa là con người, ở đó con người không phải con vật, con thú cho nhà cầm quyền muốn làm gì thì làm như chế độ tôi đang phải sống. Điều này tôi đã chứng minh ở “Những sự thật cần phải biết - phần 2”. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng tôi không có ý ca ngợi VNCH một cách vô lý. Trong con mắt của tôi, đó là một chế độ đáng sống hơn vạn lần so với cộng sản ngày nay. Và nếu được cho lựa chọn thì tôi sẽ quay ngược thời gian về làm người lính VNCH – vì với tôi họ là “Anh Hùng”!
Đã cuối tháng 3 gãy súng (theo lời tác giả Cao Xuân Huy) của gần 40 năm sau cuộc chiến mà ở đó những người anh hùng đã gục xuống vì chính nghĩa. Họ đã gãy súng nhưng họ thực sự là anh hùng. Hãy bình tĩnh nhìn lại họ để xem những gì tôi gọi họ - những người lính VNCH là anh hùng có gì sai không?
Thứ nhất, trong khuôn khổ bài 1,2 “Những sự thật cần phải biết” tôi đã chứng minh rằng: VNCH không phải là “ngụy” và những người lính VNCH phải gục ngã vì họ bị ép phải thua và không còn khả năng để chiến đấu. Họ không thể dùng tay không đánh nhau với đoàn quân đông đảo có vũ khí, đạn dược áp đảo đang tiến theo thế cờ chính trị. Như vậy họ không phải là những người bại trận. Trên thực tế họ bị ép phải “thua”.
Thứ hai, với khẩu hiệu “tổ quốc – danh dự - trách nhiệm” thì quân lực VNCH đã chiến đấu cho tự do miền nam hơn 20 năm trời. Họ không phải là những kẻ đi gây chiến, xâm lược nước khác, khủng bố như cộng sản (Xin xem thêm “những sự thật cần phải biết - phần 3,4”). Vậy cớ sao họ vì an ninh, vì quốc gia mà chiến đấu không thể gọi họ là anh hùng?
Thứ ba, nhìn lại cuộc chiến VNCH và VNDCCH thì ai cũng thấy gương của những ông tướng dám tuẫn tiết theo thành như trường hợp của tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng... Vậy ai còn có thể nói quân lực có những người anh hùng đó không anh hùng? Dám chết cho lý tưởng của mình, dám chết vì thấy rằng mình dù bị ép thua nhưng cũng có trách nhiệm trong nỗi đau đó có thể gọi là anh hùng không? Có! Rất xứng đáng gọi họ là những anh hùng.
Thứ tư, khi so sánh với quân đội nhân dân VN hiện nay tôi càng thấy sự khác biệt của những người anh anh hùng và những kẻ “tự phong anh hùng”. Nếu quân lực VNCH có Ngụy Văn Thà và đồng đội sẵn sàng hi sinh vì biển đảo tổ quốc thì quân đội nhân dân cộng sản không dám “ho” một tiếng với Trung cộng bắn ngư dân và con “tri ân” giặc như một đứa con nít đang xu nịnh đám giang hồ mất nết. Vậy ai là anh hùng các bạn cũng đã biết rồi chứ?
Thứ năm, sau khi cuộc chiến kết thúc, hàng triệu người lính VNCH còn kẹt lại ở VN chịu thương tật, không ai giúp đỡ, không có lương hưu nhưng họ vẫn sống thẳng thắn và điềm đạm. Trong khi đó quân đội cộng sản tự cho mình là anh hùng thì lại vì cái sổ hưu mà đang cố bám lấy cái đảng khủng bố, độc tài và chịu làm thân nô lệ cho Tàu. Vậy ai là anh hùng? Xin giành sự suy ngẫm này cho chính các vị tướng già quân đội cộng sản.
Còn rất nhiều bằng chứng nhưng tôi xin chỉ nêu 5 điều chính cho thấy những người mà tôi gọi là anh hùng – những người lính VNCH là hoàn toàn có cơ sở. Cuộc chiến mà họ phải thua dù họ có chính nghĩa không có ý nghĩa. Điều ý nghĩa đọng lại cho mãi sau này đó là họ đã từng là những người anh hùng, họ xứng đáng được tôn vinh và quan trọng hơn họ đang thắng trong cuộc chiến trong lòng con dân Việt Nam!
Xin ngả mũ tri ân những người lính VNCH - Những người anh hùng - Những người đã đặt nền móng cho ý chí không chịu khuất phục cộng sản khát máu!
28/03/2012
TRƯƠNG TẤN SANG ĐI TRIỀU CỐNG
Chủ tịch Trương Tấn Sang thỏa thuận gì với TQ?
Khi Chủ tịch Trương Tấn Sang hội đàm với Chủ tịch Tập Cận Bình tại
Bắc Kinh hôm 19/6 thì cũng là lúc một cơn bão hình thành trên Biển Đông.
Nhưng điều mà nhà lãnh đạo Việt Nam nhắm tới là hóa giải một cơn bão
khác trong quan hệ với Trung Quốc đó là tranh chấp Biển Đông.
Mong muốn duy trì hòa bình
Trả lời Nam Nguyên vào tối 20/6/2013, Thạc sĩ Hoàng Việt chuyên gia
về Luật Quốc tế Trường Đại học Luật TP.HCM cho rằng, những thỏa thuận mà
hai phía Việt Trung đạt được, qua chuyến công du của Chủ tịch Trương
Tấn Sang, là một tín hiệu cho thấy nỗ lực của cả hai bên trong việc cam
kết duy trì hòa bình an ninh khu vực, trong đó có cả Biển Đông. Thạc sĩ
Hoàng Việt nhắc lại sự kiện báo chí ngày 20/6 đưa ra việc hai bên thống
nhất thỏa thuận khai thác chung về dầu khí trên Vịnh Bắc bộ, mà trước
đây đã có hiệp định phân định. Thạc sĩ Hoàng Việt nhấn mạnh:
“Theo tôi, đấy cũng là một tín hiệu đáp lại việc trước đây đại
diện nhóm diều hâu Trung Quốc kêu gọi dùng biện pháp quân sự, tôi cho
rằng cuộc gặp này cũng khẳng định một điều: lãnh đạo cả hai nước mong
muốn duy trì hòa bình trên khu này trong đó có cả Biển Đông đặc biệt
giữa hai quốc gia, đó cũng là điều đáng ghi nhận.
Tuy nhiên tôi thiên về một ý khác, thông thường lãnh đạo Trung Quốc bao giờ cũng mềm mỏng nhẹ nhàng và bao giờ cũng đưa ra những bài phát biểu rất hòa bình, trong khi các lực lượng khác của họ lại luôn luôn có những hành động rất cứng rắn. Vấn đề quan trọng nhất theo tôi, không biết nhà lãnh đạo Việt Nam có thể cùng bàn bạc với lãnh đạo Trung Quốc để cùng chỉ đạo và thống nhất từ trên xuống dưới của cả hai bên là phải tuân thủ những thỏa thuận đạt được, thì điều đó mới thực sự đem lại hiệu quả và duy trì hòa bình trên vùng Biển Đông.”Theo tôi, đấy cũng là một tín hiệu đáp lại việc trước đây đại diện nhóm diều hâu Trung Quốc kêu gọi dùng biện pháp quân sự.-Thạc sĩ Hoàng Việt
Trước sự chứng kiến của ông Trương Tấn Sang và ông Tập Cận Bình, hai phía Việt-Trung đã ký kết 10 văn kiện hợp tác nhiều mặt. Trong đó đáng chú nhất là mở rộng diện tích thỏa thuận trên Vịnh Bắc Bộ về thăm dò tìm kiếm các mỏ dầu khí.
Theo báo điện tử Chính phủ Việt Nam, thỏa thuận được ký kết với nội dung: mở rộng khu vực xác định từ 1541km2 lên thành 4076km2, bao gồm hai phần tương đương nhau từ mỗi bên; và tiếp tục gia hạn hiệu lực của Thỏa thuận thăm dò chung đến hết năm 2016.
Theo VietnamNet, ông Đỗ Văn Hậu Tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí Việt Nam xác định thỏa thuận này không ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia mỗi nước trên Vịnh Bắc Bộ. Vì đây chỉ là hợp tác thuần túy về kinh tế, cùng nhau thăm dò, khai thác nếu phát hiện ra dầu khí. Theo cách giải thích của ông Đỗ Văn Hậu thì trong khu vực thỏa thuận mở rộng 4.076km2 trên vùng chồng lấn ở Vịnh Bắc Bộ, việc thăm dò và khai thác sẽ phải là hợp tác giữa hai Tổng công ty Dầu khí của hai quốc gia Việt-Trung.
Hai bên cũng thỏa thuận việc thiết lập đường dây nóng để giải quyết những va chạm trong hoạt động nghề cá trên Biển Đông. Ngoài ra Việt Nam cũng nhận được 2 khoản tín dụng ưu đãi từ phía Trung Quốc, khoản thứ nhất trị giá 320 triệu nhân dân tệ cho dự án hệ thống thông tin đường sắt và khoản thứ hai trị giá 45 triệu USD liên quan tới dự án nhà máy Đạm than Ninh Bình.
TS Sử học Nguyễn Nhã một nhà nghiên cứu Biển Đông hiện sống và làm việc tại Saigon nhận định:
“Mọi người đều biết rõ ý đồ Trung Quốc hiện nay như thế nào ở Biển Đông cũng như trên thế giới. Dĩ nhiên Việt Nam là một nước nhỏ và ở bên cạnh Trung Quốc. Tôi nghĩ những hoạt động của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, cũng như tất cả các hoạt động ngoại giao thì chắc chắn sẽ góp phần làm cho căng thẳng ngày càng giảm đi, nhưng trong thực tế chính trị là vấn đề rất phức tạp.”
Nói một đàng làm một nẻo?
Theo Saigon Tiếp Thị Online, chiều ngày 19/6 tại Bắc Kinh trước sự chứng kiến của hai nhà lãnh đạo Việt-Trung, đại diện Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc đã ký thỏa thuận về việc ‘Thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá.’ Trong khi đó hãng tin Pháp AFP trích tờ Trung Quốc Nhật báo cho biết, với việc thiết lập đường dây nóng, hai phía Việt Nam và Trung Quốc sẽ thông báo cho nhau mọi hoạt động bắt giữ xử lý tàu cá và ngư dân của phía bên kia trong vòng 48 giờ.Được yêu cầu đánh giá về thỏa thuận thiết lập đường dây nóng về va chạm trong hoạt động nghề cá trên Biển Đông, Thạc sĩ luật quốc tế Hoàng Việt từ Saigon nhận định:
Khi mà mình có đường dây nóng, là một sự tích cực, nhưng việc chúng ta luôn luôn phải đối phó là nói một đàng làm một nẻo, thì cái đó quả thực là thực tế sẽ có câu trả lời thôi.“Trước mắt chúng ta ghi nhận thiện chí của cả hai bên Việt-Trung về việc này. Thông thường về phía ngư dân Việt Nam thì luôn luôn gặp khó khăn từ phía các lực lượng Trung Quốc và là lực lượng xuất phát của họ. Với việc thiết lập đường dây nóng này thì cũng là cách để lập một kênh để Việt Nam chính thức phản hồi và nó nhanh hơn. Và có lẽ nó giúp cho việc minh bạch hóa khi người lãnh đạo Trung Quốc hay đổ thừa rằng, do các địa phương làm và họ không kiểm soát hết. Tôi cho rằng đây chỉ là một tín hiệu thôi chứ còn khẳng định là nó có hiệu quả hay không thì chắc chúng ta phải chờ đợi.”
-Tiến sĩ Nguyễn Nhã
Cùng về vấn đề này, trả lời Nam Nguyên vào tối 20/6, Tiến sĩ Sử học Nguyễn Nhã từ Saigon nhận định:
“Khi tôi tham dự Hội thảo Biển Đông ở Quảng Ngãi, các học giả trong đó có cả học giả nước ngoài đã đi thăm tàu đánh cá của ngư dân bị bắn cháy, tàu của ông Bùi Văn Phải. Với việc thiết lập đường dây nóng thì thực tế những sự kiện xảy ra có thể không đến nỗi nặng nề như vậy, khi mà mình có đường dây nóng. Làm được là một sự tích cực, nhưng việc chúng ta luôn luôn phải đối phó là nói một đàng làm một nẻo, thì cái đó quả thực là thực tế sẽ có câu trả lời thôi.”
Trung Quốc công bố chủ quyền hầu hết khu vực Biển Đông Việt Nam mà họ
gọi là Nam Hải, dựa theo một bản đồ công bố trong những năm 1940. Việt
Nam cũng công bố những bằng chứng lịch sử cho thấy mình có chủ quyền rõ
rệt trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn dĩ bị Trung Quốc dùng
vũ lực lấn chiếm trong thập niên 1970 và 1980. Biển Đông Việt Nam là
đường vận chuyển hàng hải quan trọng và khu vực có trữ lượng dầu mỏ rất
phong phú. Ngoài Trung Quốc và Việt Nam còn một số quốc gia khác cũng
công bố chủ quyền một số đảo và bãi đá trên vùng biển Trường Sa.
Tranh chấp trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc gần đây rất
căng thẳng sau rất nhiều vụ phía Trung Quốc bắt giữ tàu đánh cá bắt giam
ngư dân Việt Nam đòi tiền chuộc. Hoặc những vụ tàu lạ đâm chìm tàu đánh
cá Việt Nam hay vụ tàu Trung Quốc bắn cháy tàu cá Quảng Ngãi hồi tháng 3
vừa qua. Đó chỉ là những vụ việc liên quan đến ngư dân ở lãnh vực dầu
khí phía Trung Quốc từng vài lần phá hủy cáp thăm dò địa chất đáy biển
của phía Petro Vietnam. Sự lộng hành nước lớn của Trung Quốc đã làm dấy
lên làn sóng phẫn nộ của người dân Việt Nam, với hàng chục cuộc biểu
tình chống Trung Quốc xảy ra trong thời gian qua. Nhưng chính quyền Việt
Nam đã thẳng tay đàn áp bắt giữ những người tham gia biểu tình, sự kiện
này càng làm cho lòng dân nghi ngờ mất tin tưởng vào Nhà nước.
Một ngày trước khi lên đường viếng thăm Trung Quốc, Chủ tịch Trương
Tấn Sang trả lời báo chí rằng “Việc giải quyết vấn đề Biển Đông là hết
sức hệ trọng vì liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, đến tâm tư tình cảm
thiêng liêng của dân tộc, của người dân.”
Các chuyên gia mà chúng tôi tiếp xúc cùng chung quan điểm là, Chủ
tịch Trương Tấn Sang qua chuyến đi của ông có thể cho thấy các nổ lực
làm giảm căng thẳng, nhưng làm thế nào để vừa khẳng định bang giao hòa
bình, nhận viện trợ Trung Quốc lại muốn bảo vệ ngư dân trên biển, giải
quyết đa phương về vấn đề Biển Đông, ít nhất là từ phía nam quần đảo
Hoàng Sa đến khu vực Trường Sa, đây thực sự là một câu hỏi rất khó trả
lời.
Việc giải quyết vấn đề Biển Đông là hết sức hệ trọng vì liên quan đến
chủ quyền lãnh thổ, đến tâm tư tình cảm thiêng liêng của dân tộc, của
người dân.” sang nói.Thật là vô liêm sĩ,tụi mafia đỏ csvn không còn một
chút lương tri của con người VN mà tổ tiên đã dạy bảo qua bao thời đại
chống giặc tàu.Tên mafia đỏ này qua tàu nhận lênh v
Biển Đông : Bắc Kinh sẽ tăng sức ép trên Việt Nam nhân chuyến thăm của ông Trương Tấn Sang
Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang (phía sau, ở giữa) và chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình (phía sau, phải) chứng kiến lễ ký kết hợp tác quân sự tại Đại
Lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh. Ảnh chụp ngày 19/06/2013.
REUTERS/Mark Ralston/Pool
Tuy nhiên, theo nhận định của giáo sư Carl Thayer thuộc Học
viện Quốc phòng Úc (trường Đại học New South Wales), hồ sơ Biển Đông tuy
quan trọng, nhưng chỉ chiếm một vị trí thứ yếu trong các
cuộc thảo luận so với các vấn đề kinh tế. Bắc Kinh, theo ông Thayer, sẽ lợi dụng thế yếu của Việt Nam, cần đến Trung Quốc về mặt kinh tế để gia tăng áp lực trên một trong những nước phản đối mạnh mẽ nhất các đòi hỏi chủ quyền quá mức của Trung Quốc tại Biển Đông.
Trả lời phỏng vấn của RFI qua thư điện tử, giáo sư Thayer trước hết
xác định rằng bất chấp các sự cố liên quan đến Biển Đông trong thời gian
qua, nhân chuyến công du Trung Quốc của chủ tịch nước Việt Nam, hai bên
sẽ cố cho thấy là tranh chấp Biển Đông không hề tác hại đến quan hệ
song phương.
« Biển Đông sẽ nằm trong chương trình nghị sự nhưng sẽ không chi
phối các cuộc thảo luận... Mặc dù đã có một vài sự cố ngoài Biển Đông
được công khai hóa (trong thời gian qua), nhưng Trung Quốc và Việt Nam
đang « quản lý » tranh chấp lãnh thổ song phương.
Một nhóm làm việc cấp chính phủ vẫn tiếp tục gặp nhau để thảo
luận về các vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Việt Nam đã thúc đẩy một
thỏa thuận về việc « không sử dụng võ lực trước » tại Biển Đông. Hai bên
cũng đã đồng ý thiết lập một đường dây nóng quốc phòng.
Chuyến thăm của Chủ tịch Trương Tấn Sang có nhiều mục tiêu. Thứ
nhất, Việt Nam là nước đi bước đầu tiên trong một chuyến thăm cấp cao.
Điều này cho thấy thái độ tôn trọng (respect), nếu không muốn nói là
cung kính (deference) đối với Trung Quốc. Các vấn đề kinh tế sẽ rất quan
trọng vì lẽ Việt Nam bị thâm hụt thương mại nặng nề trước Trung Quốc...
và sẽ phải tìm kiếm thêm đầu tư từ Trung Quốc.
Tóm lại, cả hai bên đều không để cho tranh chấp Biển Đông dâng trào, ảnh hưởng đến quan hệ song phương rộng lớn hơn ».
Theo giáo sư Thayer, trong toàn cảnh như vậy, trên hồ sơ Biển Đông,
Việt Nam chỉ có thể nhắc lại những gì đã từng được hai bên đồng ý từ
trước đến nay, và tránh gây thêm rắc rối – như tuyên bố ủng hộ vụ
Philippines kiện đường lưỡi bò của Trung Quốc chẳng hạn :
« Một lần nữa, Việt Nam và Trung Quốc sẽ ghi nhận là tranh chấp
nên được giải quyết song phương (khi không liên quan đến một bên thứ
ba), tránh dùng võ lực đồng thời tuân thủ luật quốc tế trong đó có Công
ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS. Cả hai sẽ cam kết thực hiện bản
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC, và ủng hộ đàm phán về
một Quy tắc Ứng xử COC.
Việt Nam sẽ tiếp tục thể hiện sự cung kính Trung Quốc bằng cách
không công khai ủng hộ Philippines và vụ nước này kiện (Trung Quốc) ra
trước Tòa án Trọng tài của Liên Hiệp Quốc. Việt Nam sẽ tiếp tục giữ một
thái độ kín đáo trên vấn đề Biển Đông, ngoại trừ khi phải đối phó với
những sự cố cụ thể. Trong các trường hợp đó, Việt Nam sẽ phản đối theo
các kênh chính thức ».
Chuyến công du Trung Quốc của ông Trương Tấn Sang diễn ra vào lúc
toàn khối ASEAN chuẩn bị Hội nghị Ngoại trưởng thường niên tại Brunei –
từ ngày 27/06 đến 02/07/2013 - trong đó vấn đề Biển Đông chắc chắn sẽ
được đề cập tới. Theo giáo sư Thayer, Chủ tịch nước Việt Nam có thể sẽ
gặp áp lực trên một số vấn đề :
« Trung Quốc sẽ gây mọi áp lực về mặt ngoại giao để ngăn không
cho vấn đề Biển Đông bị các cường quốc « bên ngoài » quốc tế hóa hơn
nữa. Trung Quốc sẽ nêu bật thiện chí bắt đầu đàm phán về một Quy tắc Ứng
xử, nhưng với lời đe dọa ngấm ngầm là tất cả các nước đang tranh chấp
với Trung Quốc phải tránh không được chỉ trích Trung Quốc.
Chủ tịch Trương Tấn Sang sẽ tương đối dễ dàng trong việc tán đồng
ý kiến của Trung Quốc trong bản thông cáo chung. Các cuộc thảo luận
được dự kiến về một bộ Quy tắc Ứng xử là một chuyển biến tích cực mà mọi
bên đều mong muốn ».
Trong phần trả lời phỏng vấn của hãng tin Mỹ Bloomberg vào hôm qua,
giáo sư Thayer còn nêu bật một trong những mục tiêu không được nói ra
của chủ tịch nước Việt Nam nhân chuyến công du Trung Quốc : Tìm hiểu rõ
hơn về quan hệ Mỹ - Trung sau cuộc gặp thượng đỉnh Obama-Tập Cận Bình
hồi đầu tháng tại California.
Dẫu sao thì Việt Nam, theo nhà nghiên cứu Úc, không thể « nổ súng tiến lên » trên hồ sơ Biển Đông, và phải rất thận trọng trong việc « chọn mặt trận nào » với Trung Quốc.
No comments:
Post a Comment