GM. PHAOLO NGUYỄN THÁI HỢP * GIÁO HỘI VÀ CỘNG SẢN VIỆT NAM
Tương quan giữa Giáo hội
và Nhà nước tại Việt Nam
Kitô giáo tự bản chất là một tôn giáo
nhập thể và nhập thế.
Theo giáo huấn của Đức Kitô, Giáo Hội không thể đứng bên lề
lịch sử hay ngoài trần gian, mà cũng chẳng có thể đồng hóa với bất cứ một chế
độ chính trị, một hệ thống kinh tế hay một nền văn hóa nào. Nhưng suốt dọc hơn
2000 năm lịch sử, Kitô giáo đã giới thiệu nhiều cách thể sống, hình thức diễn
tả và mô hình Giáo Hội khác nhau. Có thể nói mỗi mô hình là một cố gắng cụ thể
của người tín hữu để thể hiện chương trình của Thiên Chúa, trong những bối cảnh
văn hoá, chính trị, xã hội kinh tế nhất định nào đó. Từ các mô hình này sẽ nẩy
sinh những khác biệt trong lãnh vực thần học và mục vụ, cũng như cơ cấu tổ chức
và tương quan với xã hội trần thế.
Những dòng dưới đây là một vài nét sơ thảo về mối tương
quan giữa Giáo Hội Công giáo và Nhà nước tại Việt Nam từ giữa thế kỷ XX đến nay.
I. Giáo Hội mở cửa ra thế giới
Chủ trương “canh tân và thích nghi” nói chung và đường
hướng đối thoại với thời đại nói riêng đã khai mở một giai đoạn mới trong tương
quan giữa Giáo Hội Công giáo với thực tại trần thế. Tất cả được khơi nguồn nhờ
một con người đặc biệt: Đức chân phước Gioan XXIII. Sau triều đại dài của đức
Piô XII, một số người nghĩ rằng Đức Gioan XXIII sẽ chỉ là một giáo chủ “tạm
thời” và không gây nhiều chuyện cho giáo triều. Nào ngờ ngày 25 tháng giêng năm
1959, nghĩa là chỉ gần 90 ngày sau khi đảm nhận trọng trách kế vị thánh Phêrô,
vị “giáo chủ chuyển tiếp 78 tuổi” này đã bất ngờ công bố một quyết định quan
trọng: triệu tập Công đồng Vatican II. Quyết định này gây ngạc nhiên cho rất
nhiều người, đặc biệt là hồng y đoàn.[1]
Bất chấp mọi chướng ngại vật. Đức Gioan XXIII luôn lạc quan
và tin tưởng, nhất quyết thực hiện công cuộc canh tân và cải tổ Giáo Hội. Trong
bài giảng ngày khai mạc sứ vụ, ngài đã bộc lộ “quyết tâm đảm nhận một cách
nghiêm chỉnh sứ vụ giám mục Roma, giám mục của một Giáo Hội địa phương, anh em
của tất cả giám mục hoàn vũ”. Ngài ý thức sâu xa là Giáo Hội lúc đó quá xa lạ
với con người và thế giới hiện đại. Nhiều dân tộc và nhiều vùng văn hóa đang ở
ngoài tầm nhìn cũng như tầm ngắm của giáo triều. Ngài đặc biệt quan tâm đến các
Giáo Hội và các tôn giáo ngoài Công giáo, các nước đang phát triển, cũng như
các nước cựu thuộc địa.
Trong diễn văn khai mạc Công đồng ngày 11 tháng 10 năm
1962, ngài yêu cầu các Kitô hữu cần can đảm và sáng suốt khám phá sự hiện diện
nhiệm mầu của Đấng Quan phòng giữa những thăng trầm và biến đổi của xã hội nhân
loại. Theo ngài, nếu trong quá khứ, Giáo Hội không ngừng chống lại những sai
lầm và “đã thường xuyên khắt khe kết án chúng. Hôm nay, Hiền thê của Đức Kitô
thích sử dụng phương thuốc của lòng từ bi nhân hậu hơn là biện pháp hà khắc.
Giáo Hội nghĩ rằng sẽ trả lời tốt hơn cho những những nhu cầu của thời đại bằng
cách làm sáng tỏ các giá trị phong phú nơi đạo lý của mình hơn là kết án”.[2]
Khi bế mạc khóa I của Công đồng, ngài đã long trọng lặp lại
một lần nữa ước vọng thâm sâu của ngài: “Công đồng sẽ đích thực là “lễ Hiện
Xuống mới’”, làm cho Giáo Hội được triển nở trong nguồn năng lực nội tại và mở
rộng ra tất cả mọi lãnh vực của hoạt động nhân loại”.[3]
Ngày 11.4.1963, Đức Gioan XXIII công bố thông điệp “Hoà
bình trên trái đất”. Đây là thông điệp đầu tiên không những gửi đến các giám
mục và người Công giáo, mà còn gửi đến tất cả “những người thành tâm thiện
chí”, trong một thế giới đa văn hóa và đa tôn giáo. Thông điệp mở đầu với xác
tín tâm linh: “Hòa bình trên thế giới, ước nguyện thâm sâu của tất cả nhân loại
trải dài qua đời lịch sử, chỉ có thể thiết lập và củng cố khi người ta nghiêm
chỉnh tôn trọng trật tự thiết định bởi Thiên Chúa”.[4]
Ở giai đoạn chiến tranh lạnh đó, người ta vẫn nghĩ rằng
“hòa bình chỉ có thể thực hiện được dựa trên sự quân bình về vũ trang”. Đối với
thông điệp, chính cái “lôgíc chạy đua vũ trang” sẽ đẩy nhân loại vào ngõ cụt
“đau thương tàn khốc”. Vì vậy, Đức Gioan XXIII kêu gọi nhân loại “khẩn cấp
ngưng các cuộc chạy đua vũ trang, và các nước hiện đang sở hữu võ khí cần giải
trừ binh bị và hủy bỏ võ khí nguyên tử”.[5] Nhưng nhân loại chỉ thực sự giải
trừ vũ khí này, khi thực hiện được “cuộc giải giới toàn diện, nghĩa là một cuộc
giải giới trong tâm hồn”. Nói rõ hơn cần thay thế quan niệm về “xây dựng hòa
bình dựa trên sự quân bình vũ khí để xây dựng hòa bình dựa trên lòng tin tưởng
lẫn nhau”.[6]
Mối tương quan giữa người Công giáo với những người thuộc
các ý thức hệ và các tôn giáo khác cũng được cải thiện một cách đặc biệt nhờ
thái độ ngôn sứ của Đức Gioan XXIII. Thông điệp “Hòa bình trên thế giới” đề
nghị chấm dứt “giai đoạn đối đầu, thù hận” để khai mở cuộc đối thoại giữa Công
giáo với Cộng sản. Nơi thông điệp, chúng ta tìm gặp hai biện phân quan trọng về
lý thuyết, mang tính khai mở và định hướng cho hoạt động chính trị – xã hội của
người Công giáo:
Nguyên tắc thứ nhất, đòi hỏi phải biện phân sáng suốt “giữa
sai lầm với người sai lầm (…). Bởi vì, mặc dù sai lầm, con người không phải vì
thế bị tước bỏ điều kiện làm người, và cũng chẳng bao giờ tự động bị tước mất
phẩm giá con người”[7].
Nguyên tắc thứ hai là biện phân sáng suốt giữa lý thuyết
triết học với các trào lưu lịch sử trong lãnh vực chính trị – xã hội. Thông
điệp viết: “Cũng rất cần thiết phân biệt giữa các lý thuyết triết học sai lầm
về bản tính, nguồn gốc, cùng đích của thế giới và con người với những trào lưu
kinh tế và xã hội, văn hóa hoặc chính trị, mặc dù các trào lưu này bắt nguồn và
gợi hứng từ các lý thuyết triết học nói trên.
Một học thuyết khi đã được kiến tạo và xác định thì không
còn thay đổi nữa. Trái lại, các trào lưu nói trên, vì phát triển giữa những
điều kiện đổi thay, do đó đương nhiên lệ thuộc vào sự biến thiên không ngừng.
Ngoài ra, ai có thể phủ nhận rằng trong mức độ mà các trào lưu này cố gắng
thích ứng với tiếng nói của lý trí và phản ánh một cách trung thực nguyện vọng
chính đáng của con người, có thể chứa đựng những yếu tố tích cực đáng được chấp
nhận?”.[8]
Công đồng Vatican II cố gắng thể hiện đường hướng đối thoại
này qua hiến chế “Giáo Hội trong thế giới hôm nay”. Dưới ánh sáng Tin Mừng,
Công đồng đặc biệt tìm hiểu “thuyết vô thần” và coi đó là “một trong những sự
kiện quan trọng nhất ở thời đại chúng ta”. Theo Công đồng “vô thần hiện đại” là
một hiện tượng phức tạp và đa dạng: “Có người minh nhiên phủ nhận Thiên Chúa,
có người lại nghĩ rằng con người không thể quả quyết gì về Thiên Chúa. Một số
người khác trình bày vấn đề Thiên Chúa theo cách thức làm cho nó như mất hẳn ý
nghĩa. Nhiều người đã vượt quá giới hạn khoa học thực nghiệm để chủ trương rằng
chỉ duy lý luận khoa học giải thích tất cả, hoặc trái lại, cho rằng không có
chân lý nào là tuyệt đối. Có người lại quá đề cao con người đến nỗi làm cho
niềm tin nơi con người trở nên vô nghĩa, hình như họ muốn đề cao con người hơn
là chối từ Thiên Chúa. Một số khác tự vẽ lên một hình ảnh về Thiên Chúa, để rồi
Đấng mà họ bác bỏ chẳng liên hệ gì với Thiên Chúa của Tin Mừng… Chủ nghĩa vô
thần nói chung không phát sinh do một nguyên nhân duy nhất, nhưng do nhiều
nguyên nhân, trong đó phải kể đến phản kháng chống lại các tôn giáo, và đặc
biệt ở một vài nơi, phê phán chính Kitô giáo. Vì thế, các tín hữu có thể chịu
phần trách nhiệm không nhỏ trong việc khai sinh vô thần, hoặc bởi sao lãng việc
giáo dục đức tin, hoặc trình bày sai lạc về giáo lý, hoặc do những thiếu sót
trong đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội”.[9]
Khi phân tích vô thần có hệ thống, Công đồng đặc biệt để ý
đến chủ nghĩa Cộng sản: “Trong số những hình thức vô thần hiện nay, người ta
không thế bỏ qua hình thức vô thần nhằm giải phóng con người, nhất là về phương
diện kinh tế và xã hội. Hình thức vô thần này cho rằng tôn giáo, tự bản chất,
cản trở công cuộc giải phóng nói trên, bởi vì khi hướng tâm trí con người về
niềm hy vọng ở cuộc sống vị lai và hão huyền, tôn giáo đã làm cho họ xao lãng
việc xây dựng xã hội trần thế. Do đó, khi những người chủ trương lý thuyết vô
thần này nắm quyền, họ sẽ kịch liệt chống lại tôn giáo, sử dụng tất cả mọi thứ
áp lực của công quyền, đặc biệt trong lãnh vực giáo dục thanh thiếu niên, để
truyền bá lý thuyết vô thần”.[10]
Trung thành với Thiên Chúa cũng như với con người, Công
đồng không thể không tiếp tục lên án chủ nghĩa vô thần với tất cả sự cương
quyết, như đã từng lên án trước đây.[11] Nhưng đồng thời Công đồng tha thiết
kêu mời mọi người, có tín ngưỡng hay vô thần, phải cộng tác với nhau để xây
dựng một thế giới tiến bộ và nhân bản hơn. Đặc biệt, đối với các tín hữu, Công
đồng nhắc lại rằng cần phải “tôn trọng và yêu thương ngay cả những người không
cùng cảm nghĩ hoặc đường hướng hành động với chúng ta trong lãnh vực xã hội,
chính trị hay tôn giáo nữa. Thực vậy, càng cố gắng tìm hiểu cảm nghĩ của họ với
nhân ái và yêu thương, chúng ta càng dễ dàng để thiết lập một cuộc đối thoại
với họ”.[12]
Sau khi lặp lại biện phân lịch sử của Đức Gioan XXIII và áp
dụng vào các trào lưu lịch sử nói chung và trào lưu xã hội nói riêng. Đức
Phaolô VI yêu cầu các Kitô hữu cần có một nhận định sáng suốt, bởi vì dưới danh
xưng trào lưu xã hội chứa đựng nhiều phong trào và mô hình xã hội rất khác
biệt. Chủ nghĩa Mác là một trong các dạng thức của phong trào xã hội và ngay
trong lòng chủ nghĩa Mác cũng có nhiều khuynh hướng hay phe nhóm khác nhau. Trên
thực tế, có người coi chủ nghĩa Mác là một chủ trương triệt để đấu tranh giai
cấp; có người lại nhìn nó như một hình thức “dân chủ tập trung”, dưới quyền
lãnh đạo của một Đảng duy nhất; một số người đề cao chủ nghĩa Mác như một
phương pháp phân tích xã hội có khả năng đưa ra một phê phán có tính khoa học
về thực trạng xã hội; nhiều người khác lại quan niệm chủ nghĩa Mác như một ý
thức hệ vô thần, xây dựng trên chủ nghĩa duy vật lịch sử và phủ nhận mọi chiều
kích siêu việt.
Vào giai đoạn đó, một số người Công giáo dấn thân trong
lãnh vực xã hội thường đề cao giá trị phân tích của chủ nghĩa Mác và cho rằng
có thể tách rời phương pháp phân tích xã hội này khỏi những yếu tố cấu trúc
khác, như quan niệm về con người, chủ trương vô thần, đấu tranh giai cấp… Đức Phaolô
VI sáng suốt cảnh báo: “Nếu trong chủ nghĩa Mác hiện thực có thể phân biệt các
chiều kích khác nhau đó, những chiều kích đang đặt ra cho các Kitô hữu nhiều
nghi vấn để suy nghĩ và hành động, thì quả là ảo tưởng và nguy hiểm lãng quên
mối tương quan chặt chẽ nối kết chung với nhau”.[13]
Nói chung, cuộc canh tân và thích nghi của Vatican II đã
khai mở một mùa xuân cho Giáo Hội Công giáo, đồng thời đã tháo gỡ nhiều rào cản
trong hoạt động chung giữa người Công giáo với những người thuộc các tôn giáo
và ý thức hệ khác. Giáo Hội Công giáo tích cực dấn thân vào con đuờng phục vụ
vừa mang tính Tin Mừng, vừa thấm đượm tình người. Ngoại trừ một số nhỏ Giáo Hội
địa phương vẫn luyến tiếc cơ chế cũ, đại đa số các Giáo Hội đã hăng hái dấn
thân xây dựng một thế giới công bằng, phát triển, nhân ái và an hòa hơn.
Đây cũng cũng là giai đoạn năng động và nhiều sáng kiến
nhất trong lãnh vực tư tưởng, với nhiều cuộc gặp gỡ, đối thoại, tọa đàm, hội
nghị giữa Công giáo với Cộng sản.[14] Những cuộc đối thoại này như thổi thêm sinh
khí vào một số hoạt động chung nhằm kiến tạo hòa bình và tranh đấu cho công
bằng xã hội vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70. Nhưng chẳng bao lâu
những khó khăn ập tới và niềm lạc quan ban đầu giảm dần theo năm tháng. Theo
nhiều chuyên viên, để cuộc đối thoại này thực sự triển nở, cần thiết một “canh
tân & thích nghi” khác trong lòng các phong trào Cộng sản thế giới. Cho dù
đã chuyển từ một “stalinisme cứng rắn” sang một “stalinisme ôn hòa”, các Đảng
Cộng sản cầm quyền ở giai đoạn đó vẫn quá giáo điều, độc tài, khép kín. Chính
vì vậy, những cuộc đối thoại nói trên cuối cùng cũng chẳng đi tới đâu, vì chỉ
là những trao đổi bên lề giữa các trí thức Công giáo cấp tiến với các trí thức
tân mác-xít hay mác-xít phi truyền thống.
II. Biến chuyển về nhận thức nơi người Công giáo Việt Nam
Do vòng xoáy của lịch sử và điều kiện nghiệt ngã của thời
cuộc, nhiều lần trong quá khứ mối tương quan giữa Giáo Hội và Nhà nước ở Việt Nam đã rơi vào tình trạng bế tắc, căng
thẳng, xung đột, bạo động… Đôi lúc người Công giáo Việt Nam hầu như không còn cơ hội để chọn cái
tốt hơn, mà đành phải chọn cái ít xấu hơn giữa những giải pháp nghiệt ngã. Có
những lần hoàn cảnh cũng không cho phép người Công giáo đảm nhận đồng thời vai
trò “công dân tốt” và “Công giáo tốt”, mà hầu như bó buộc phải chọn lựa một
trong hai. Với ước nguyện “ôn cố tri tân”, chúng ta cùng nhau nhìn lại một cách
sơ lược vấn đề phức tạp này.
Ngày 7 tháng 5 năm 1954. Điện Biên Phủ thất thủ và giấc
mộng bá chủ của thực dân Pháp tan vỡ thê thảm. Cùng với các đồn bốt cuối cùng
của Pháp, các làng tự trị Công giáo cũng theo nhau hạ súng. Nhưng hiệp định
Genève đã chia đôi đất nước và lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới cho hai Nhà nước
và hai ý thức hệ đối kháng. Cơn lốc chính trị mới xuất hiện, kéo theo một cuộc
di cư vĩ đại chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Hơn một triệu người Công giáo
bỏ miền Bắc di cư vào miềnNam với
2/3 số linh mục và 6/10 giám mục miền Bắc vĩ tuyến 17.
Sau cuộc di cư, Giáo Hội miền Bắc mất quá nhiều nhân lực và
sinh lực. Tiếp đến, trong cuộc cải cách ruộng đất, đầy nước mắt và máu, rất
nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân bị tù tội, trong khi đó ruộng đất của Giáo
Hội bị tịch thu. Thế rồi, khi nhà nước Việt Nam quyết định xâv dựng Xã hội chủ nghĩa
theo mô hình Liên Xô và Trung quốc thì các tín đồ Công giáo càng bị khinh miệt
và loại trừ. Người Công giáo không những không được làm công nhân viên Nhà
nước, mà cũng chẳng được vào cao đẳng hay đại học. Ngay cả việc thi hành nghĩa
vụ quân sự cũng không được phép, mà chỉ được làm dân công tải lương thực và đạn
dược cho chiến trường. Mãi đến giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến tranh chống
Mỹ, mới có sự hiện diện của thanh niên Công giáo trong quân đội.
Giáo Hội miền Bắc trở thành một Giáo Hội thầm lặng và bị cô
lập với thế giới bên ngoài, cũng như với đồng bào và xã hội chung quanh. Các
giám mục hoàn toàn bị cắt đứt mọi liên lạc với Tòa Thánh. Chẳng có giám mục nào
tham dự Công đồng Vatican II và mãi đến sau năm 1975 các văn kiện của Công đồng
mới bắt đầu được phổ biến ở miền Bắc. Trong suốt thời chiến tranh lạnh, Công
đồng chẳng có ảnh hưởng gì trên người Công giáo miền Bắc.
Giáo Hội miền Nam, trái lại,
được tăng nhân lực và khí thế do hàng giáo sĩ và giáo dân di cư thổi vào. Chiêu
bài “bất cộng đái thiên” (không đội trời chung với Cộng sản) được triệt để khai
thác. Sự hiện diện của tổng thống Công giáo càng làm cho nhiều người xác tín
nơi lí tưởng xây dựng một Việt Nam tiến bộ, độc lập, tự do và hữu thần.
Nhiều giáo sĩ và giáo dân có vị thế quan trọng trong chính quyền miền Nam. Một số làng Công giáo di cư
được xây dựng như một thứ “pháo đài chống Cộng”.
Thư chung 1960 của các giám mục miền Nam tiếp tục nói về
vấn đề “Cộng sản vô thần” để giúp người tín hữu “thấu hiểu nó nguy hại và nham
hiểm đến mức nào trong việc tiêu diệt đức tin của chúng ta”. Sau khi khẳng định
giữa học thuyết Công giáo và Cộng sản “không thể đi đôi với nhau”, Thư chung
kết luận: “Muốn cho Đạo thánh được nguyên vẹn, người Công giáo phải phủ nhận lý
thuyết Cộng sản và những áp dụng của nó đến tận cùng”. Để củng cố cho lập luận
ở trên, Thư chung 1960 trích dẫn nhiều khoản của Thư chung 1951.[15]
Giáo Hội Công giáo được ưu đãi, có nhiều ảnh hưởng và muốn
góp phần vào việc tìm một giải pháp cho Việt Nam. Người Công
giáo hăng say dấn thân vào tất cả các lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa, giáo dục, y tế, bác ái, từ thiện… Nhưng sau cuộc đảo chính 1963 và cái
chết bi thảm của ba anh em gia đình họ Ngô, một số người đã ngỡ ngàng nhận ra
cái ảo tưởng và cái giá của con đường độc lập – tự do theo “mô hình Mỹ”. Sau
một thời gian chao đảo vì cuộc đảo chính 1963, Giáo Hội đã tái lập mối lương
quan với nhà nước của Đệ II Cộng hòa và tiếp tục ủng hộ “chủ nghĩa Quốc gia”.
Vì thế, có thể nói Giáo Hội cũng chia sẻ phần nào những ưu và khuyết điểm của
chế độ này!
Công đồng Vatican II, hướng đi của Đức Gioan XXIII và Đức
Phaolô VI đã giúp một số tín hữu Công giáo miền Nam Việt Nam thức tỉnh và thay
đổi quan điểm về chiến tranh và hòa bình. Xuất hiện “Phong trào Công giáo”
chống chiến tranh và kêu gọi hòa bình. Họ không chấp nhận chống Cộng sản bằng
bất cứ giá nào và cho đến người cuối cùng. Nổi bật nhất là những người mệnh
danh “Công giáo tiến bộ”, gồm cả linh mục lẫn giáo dân, thuộc nhiều phong trào
và nhóm khác nhau. Một số sự kiện nổi bật nhất của “Phong trào” này là: Lá thư
của “Một số linh mục Việt Nam trước vấn đề hòa bình của dân tộc”(l .1.1966);
việc thành lập “Phong trào Công giáo xây dựng hòa bình” (24.11.1970); Thỉnh
nguyện thư gửi Giáo quyền của 10 linh mục Việt Nam và 2 linh mục người Mỹ
(1.10.1971) yêu cầu xét lại tinh thần Thư chung 1951, v.v.
Trong thực tại lịch sử của giới Công giáo miền Nam lúc bấy giờ, “Phong trào Công giáo
tiến bộ” chẳng có ảnh hưởng bao nhiêu trên đại chúng. Nhiều người còn cho rằng
họ ảo tưởng, ngây thơ và làm lợi cho Cộng sản hay thuộc loại Cộng sản nằm vùng.
Trên thực tế, các diễn biến sau 1975 hình như đã kiểm chứng một số dư luận
trước đây về một số thành viên của phong trào này.
Nhiều người đã nhận ra thế kẹt của người Miền Nam nói chung và giới Công giáo nói riêng
trước gọng kìm của các thế lực quốc tế và cơn lốc thời đại. Một mặt, chủ nghĩa
Mác cổ điển vẫn chủ trương “đấu tranh giai cấp”, “chuyên chính vô sản”, “duy
vật biện chứng” và coi “tôn giáo là thuốc phiện”, vì vậy nhiều thành phần khác
của dân tộc tiên thiên bị loại trừ hay bị liệt vào “công dân hạng hai hay hạng
ba”. Mặt khác, nhiều vị lãnh đạo ở miền Nam vẫn nhất quyết lấy cuộc chiến vì lý do
ý thức hệ để biện minh cho tất cả. Thêm vào đó, các thế lực chính trị đã khéo
léo lợi dụng sự đối kháng này để phục vụ cho ý đồ riêng.
Trong rất nhiều trường hợp, câu nói “giữa Quốc gia và Cộng
sán, không thể đội trời chung” hình như đã trở thành một thứ nguyên tắc! Đối
diện với sự đối kháng nghiệt ngã này, hầu như không còn giải pháp thứ ba, chỉ
có thể một mất một còn và hệ luận tất nhiên của nó là phải chiến đấu cho đển
viên đạn cuối cùng. Hòa bình, nếu có, chỉ có thể thực hiện khi hoàn toàn tiêu
diệt hay đè bẹp đối phương.[16]
Nguy hiểm nhất là các thế lực ngoại bang đều biết khai
thác, lợi dụng chiêu bài chống Cộng. Một số người, vì nhiều lý do, đã trở thành
lực lượng hậu thuẫn cho họ. Những thân phận ấy bị hút vào cơn lốc “giống như
những chiếc lá mà giông bão cuốn lên, tan tác mọi ngã, rồi tự rơi xuống”.
Tuy nhiên, cuối cùng quan điểm của Vatican II, của Đức
Gioan XXIII và nhất là của Đức Phaolô VI đã ảnh hưởng tích cực trên nhận thức
và thái độ của các giám mục Việt Nam đối với cuộc chiến. Đối diện với cuộc
chiến tranh ngày càng tàn khốc tại Việt Nam, Đức Phaolô VI tuyên bố, với tư
cách một người lãnh đạo tôn giáo, ngài không thể không lên tiếng. Kể từ lễ Giáng
sinh năm 1964, ngài đã đưa ra nhiều đề nghị và sáng kiến hòa bình cho Việt Nam bằng con đường thương thảo. Ngày
13.2.1965, ngài gửi thư cho các giám mục Việt Nam để
chia sẻ những nỗ lực vận động của ngài cho hòa bình Việt Nam. Trong cuộc triều yết ngày
29.11.1965, ngài cho biết “hằng mong ước cùng cầu nguyện để được thấy ngày mà
tiếng súng sẽ im bặt và nền hòa bình thực sự sẽ chiếu dọi trên đất nước Việt
Nam, trong niềm hân hoan và hòa hợp dân tộc”.[17] Qua Thông điệp Mân Côi, ngày
15.9.1966, ngài lại kêu gọi hai miền Nam Bắc chấm dứt chiến tranh và thương
thuyết.
Hơn thế nữa, ngài đã gửi đặc sứ là TGM Sergio Pignedoli tới
Sài Gòn để gặp gỡ các giám mục Việt Nam từ ngày 30/9 đến ngày 6.10.1966 nhằm
thúc đẩy tinh thần hòa bình và hòa giải. Nhờ cuộc gặp gỡ và trao đổi này, các
giám mục Việt Nam đã hoàn toàn hiệp nhất với Đức giáo
hoàng để lặp lại lời kêu gọi thiết tha: “Nhân danh Chúa, xin hãy dừng lại. Hãy
gặp gỡ nhau, hãy đi tới bàn hội nghị, hãy thành thật thương thuyết. Ngay bây
giờ hãy giải quyết các mối bất hòa tranh chấp, dù có phải chịu thiệt thòi chút
ít, vì thế nào rồi cũng phải hòa giải, nhưng có lẽ với nhiều tai họa thảm khốc
hơn, mà hiện nay không ai lường được”.[18]
Cũng chính Đức Phaolô VI đã tiếp kiến phái đoàn của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, do ông Xuân Thủy dẫn đầu, mà từ chối tiếp kiến ông Nguyễn
Văn Thiệu, tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Sự kiện này khiến cho nhiều người ờ
miền Nam lúc đó rất ngỡ ngàng và bất bình với Vatican.
Nhưng đã bắt đầu hình thành một số biến chuyển ngày càng rõ
nét trong nhận thức của hàng giáo sĩ về chiến tranh và hòa bình. Thông cáo ngày
5.1.1968 được xem như một lời kêu gọi hòa bình, thúc giục người Công giáo hành
động cho hòa bình, trước hết bằng cách thực thi một đời sống tốt lành, phù hợp
với Tin Mừng, bằng lời cầu nguyện và bằng học hỏi về hòa bình chân chính. Đây
cũng là lần đầu tiên, các giám mục miền Nam nhắc
đến nhà cầm quyền miền Bắc: “Chúng tôi khẩn thiết kêu gọi thiện chí của chính
quyền hai miền Nam và Bắc, hãy cùng nhau kiến tạo hòa
bình. Nhân danh Thiên Chúa, xin hãy dừng lại! Hãy gặp nhau, hãy đi đến bàn hội
nghị, hãy thành thật thương thuyết”.[19]
Thư luân lưu 1969, nhân dịp cuộc họp thường niên của Hội
đồng Giám mục miền Nam, tiếp tục suy tư, nghiên cứu và thảo luận về vấn đề “làm
sao góp phần xây dựng hòa bình”. Từ viễn quan Kitô giáo, các giám mục nhận
định: “Hòa bình phải là thăng tiến nhân quyền. Hòa bình là trật tự trong công
lý và khôn ngoan, là sự hòa hợp của cộng đồng dân tộc để cùng nhau mưu cầu công
ích, là kết quả của tình thương quảng đại bao dung, xóa bỏ hận thù, là nỗ lực
không ngừng để cải thiện đời sống xã hội và đem ích chung cho mọi tầng lớp
người dân”.[20]
Trong Thông cáo tháng 7 năm 1971, các giám mục ý thức rằng
Việt Nam đang rơi vào cơn lốc của lịch sử và
vòng xoáy của cuộc chiến tranh bi thảm do Hoa Kỳ và Liên Xô lãnh đạo: “Cả Bắc
lẫn Nam,
Việt Nam đang bị giằng co giữa hai thế lực
tranh giành ảnh hưởng. Người Việt Nam đang là nạn nhân của tình trạng quốc
tế chúng tôi vừa phác họa trên đây”. Với tư cách mục tử, các giám mục “muốn cho
đất nước này được tự do, dân chủ, trong đó, mọi tự do – nhất là tự do tôn giáo,
tự do tín ngưỡng – được bảo đảm chắc chắn”.[21]
Trong Thư chung ngày 3.2.1973, công bố một tuần lễ sau Hiệp
định Paris về “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”, các giám mục
nhắc lại những nỗ lực vận động cho hòa bình của Đức Phaolô VI và của Hội đồng
Giám mục Việt Nam, đồng thời cũng lặp lại quan niệm Kitô giáo về một nền hòa
bình đích thực. Lại một lần nữa các giám mục miền Nam trực tiếp đề cập đến chủ nghĩa duy vật
vô thần. Các vị cũng dự đoán rằng trong tương lai “sẽ diễn ra cuộc xung đột ý
thức hệ rút gọn nằm trong cuộc tranh chấp đại quy mô hết sức gây cấn trên khắp
toàn cầu, giữa hai quan niệm về đời sống: một bên là vô thần và duy vật dưới
mọi hình thức và một bên là Thiên Chúa, Đức Kitô, Phúc âm, Giáo Hội, với tất cả
những giá trị thiêng liêng của con người”.[22]
Ngày 10.1.1974, nhân dịp kỷ niệm một năm Hiệp định Paris,
nhưng đất nước vẫn chìm ngập trong khói lửa, các giám mục miền Nam “tha thiết
yêu cầu chánh phủ hai miền Nam – Bắc, cùng một lượt và song phương, trong tình
thương dân tộc, ngưng hẳn mọi họat động chiến tranh (…), trao trả hết tù binh,
quân sự và dân sự”. Đối với chính phủ miền Nam, các giám mục xin “một đàng mở
rộng thêm tự do dân chủ trong sinh hoạt chính trị, một đàng từ bỏ đàn áp đối
lập bằng võ lực (…) ân xá và hủy án tất cả các chính trị phạm (…) giao hoàn tài
sản lại cho nhũng người bị tịch thu (…), đàng khác, thẳng tay diệt trừ những tệ
đoan xã hội, nhất là nạn tham nhũng hối lộ, và hết sức nâng đỡ giới lao động
khó nghèo”.
Đối với chính phủ miền Bắc, các giám mục xin “ban hành mọi
tự do dân chủ, nhất là tự do tôn giáo thực sự cho bất cứ tôn giáo nào trên đất
Bắc”. Riêng đối với Công giáo, các vị xin “cho giáo dân có những điều kiện
thuận lợi để họ thực hiện tín ngưỡng của mình; cho các linh mục tu sĩ được tự
do thi hành sứ mệnh mục vụ của họ; cho tất cả chủng viện được mở cửa lại (…);
cho các Đức giám mục, anh em đáng kính của chúng tôi, được năng gặp gỡ nhau bàn
về giáo sự, được liên lạc với chúng tôi và nhất là được liên lạc với Tòa Thánh
Roma”. Cuối cùng, các giám mục xin tất cả mọi người “xóa bỏ những hiềm khích
bất hòa, sẵn sàng chấp nhận những dị biệt và chánh kiến, sẵn sàng tha thứ”.[23]
III. Một biến cố, nhiều ý nghĩa tương phản
Những ai theo dõi tin tức đầy đủ sẽ dễ dàng nhận thấy số
phận của chế độ Sàigòn đã được quyết định tại Hội nghị Paris vào tháng Giêng
năm 1973.[24] Tuy nhiên, ở miền Nam Việt Nam lúc đó, một số người hình như vẫn
cố ôm ghì niềm hy vọng hão huyền về một giải pháp chính trị hay một quyền lực
vạn năng nào đó có khả năng đảo ngược tình thế. Và nói chung, biến cố 30/4 đã
thực sự gây bàng hoàng cho nhiều người ở miền Nam.
Tuy nhiên, khác với cuộc di cư 1954, lần này không một giám
mục nào bỏ giáo phận của mình để di tản ra nước ngoài. Hàng giáo phẩm Công giáo
Việt Nam đã nhất quyết ở lại trên quê hương.
Nhiều giám mục, linh mục và tu sĩ có phương tiện để ra đi, nhưng đã từ chối để
được đồng hành với đồng bào mình. Các dòng tu cũng quyết định ở lại Việt Nam và không chủ trương tổ chức di tản.
Ngày 1.4.1975, nghĩa là chỉ một tuần sau khi tiếng súng im
bặt trên thành phố Huế, Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền đã gửi cho các tín hữu
một bức tâm thư, vừa thấm đậm tinh thần Tin Mừng, vừa chứa chan tình dân tộc:
“Chiến tranh đã chấm dứt trên giáo phận Huế (…). Chúng ta hãy cùng nhau cảm tạ
Thiên Chúa về hồng ân quý giá này (…) Giờ đây, đã đến lúc chúng ta hoan hỉ, sẵn
sàng và hăng say cộng tác với mọi người thiện chí, dưới sự chỉ đạo của chính
quyền cách mạng, để xây dựng lại quê hương sau bao đổ vỡ tang tóc, hầu đem lại
tự do, hạnh phúc cho đồng bào ruột thịt. Hơn bao giờ hết, đây là lúc chúng ta
cần đoàn kết, yêu thương và phục vụ người khác(…). Giờ đây, chúng ta hãy khoan
dung tha thứ mọi lỗi lầm, đừng nghi ngờ, thù hận ai và gây sợ hãi cho ai”.[25]
Một tuần sau, ngày 9.4.1975, tại lễ ra mắt của Ủy ban Mặt
trận Dân tộc Giải phóng thành phố Huế, Tổng giám mục lại bộc lộ những cảm nghĩ
chân thành, thâm thúy, đầy ắp tình người lẫn chiều kích tâm linh: “Ở đời này,
không có gì quý hơn mạng sống con người, không có gì quý hơn độc lập tự do. Bao
nhiêu mạng sống con người được bảo tồn, nếu chiến tranh chấm dứt sớm đi một
ngày. Chiến tranh đã chấm dứt trên một phần lớn quê hương chúng ta. Độc lập hôm
nay là một sự thực cho cố đô Húê. Còn tự do thì Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam đã long trọng bảo đảm cho toàn thể
đồng bào, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng cho đồng bào các tôn giáo.
Mạng sống của con người, độc lập của đất nước, tự do của
nhân quyền được đảm bảo, như vậy niềm vui mừng của chúng tôi, của những người
công dân Công giáo Việt Nam yêu nước, được trọn hảo. Như vậy, đồng bào Công
giáo nguyện tích cực góp phần với tất cả đồng bào ruột thịt để cùng với Mặt
trận Dân tộc Giải phóng xây dựng một xã hội đầy tình thương, tự do, dân chủ,
thịnh vượng, hòa bình, trong đó chúng tôi được chu toàn bản phận đối với Tổ
quốc và đối với Thiên Chúa”.
Rất tiếc, những khó khăn, hiểu lầm và thái độ giáo điều, kỳ
thị tôn giáo… hầu như cắt đứt mọi nhịp cầu đối thoại.[26] Chỉ một thời gian
sau, những căng thẳng, khó khăn và xung đột đã hiện rõ trong cuộc sống. Trong
cuộc họp do UBMTTQ-VN Bình Trị Thiên tổ chức ngày 15 tháng 4 (về vụ Phật giáo
Ấn Quang) và ngày 22.4.1977 để góp ý với báo cáo Đại hội Đảng bộ Bình Trị
Thiên, Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền khẳng khái phát biểu đại khái như sau: “Vì
chỉ có tự do tín ngưỡng trên văn bản, chứ không có trong thực hành, nên mới có
sự chống đối như trong vụ nhà thờ Vinh Sơn và vụ phản động trong giới Phật giáo
Ấn Quang”.
Các phát biểu này và một phát biểu khác của ngài đã được
phổ biến ngầm trong giới Công giáo và cả Phật giáo. Ở hải ngoại, người ta tặng
cho ngài danh hiệu “Tổng giám mục dũng cảm” và nhiều phe nhóm chính trị đã
triệt để khai thác các bài phát biểu cũa ngài để đả kích Nhà nước. Quan hệ giữa
ngài với chính quyền ngày càng gay gắt hơn. Ngài phải làm việc nhiều lần với
công an và bị quản thúc. Tuy vậy. trong thư ngày 15.12.1986 gửi ông Chủ tịch
UBMTTQ VN Bình Trị Thiên, một lần nữa, ngài đã nhắc lại một phát biểu vào năm
1967 tại Roma, để xác định lập trường cố hữu của mình: “Là giám mục Công giáo,
tôi không thể theo chủ nghĩa Cộng sản, nhưng người Cộng sản Việt Nam là anh em
của tôi”. Và khẳng định thêm: “Hiện nay tôi vẫn một lòng yêu mến Tổ quốc Việt
Nam của tôi và trong phạm vi bổn phận của mình, cùng đồng bào cả nước góp phần
xây dựng một đất nước an bình, thịnh vượng, hạnh phúc”. Đối với ‘‘những vướng
mắc trên thực tế với chính quyền về mặt tôn giáo”, ngài cho rằng “lý do là vì
chưa đủ hiểu nhau để có thể xóa được mọi khoảng cách tồn tại”.[27]
Tại Sàigòn, 5 ngày sau khi thủ đô Việt Nam Cộng hòa thất
thủ, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cảm tạ Thiên Chúa vì “chiến tranh đã chấm
dứt, từ nay không còn bom đạn, tang tóc, hận thù, phân ly (…). Đây là niềm vui
chung của cả một dân tộc, và với cái nhìn theo đức tin của người tín hữu, đây
cũng là một hồng ân của Thiên Chúa”. Ngài kêu gọi người Công giáo “nỗ lực tối
đa góp phần vào công cuộc hòa giải và hòa hợp dân tộc, phát động tình thương,
sự hiểu biết, lòng tha thứ và quảng đại (…). Quan trọng là biết hướng về tương
lai, xây dựng một Việt Nam thịnh vượng, một xã hội tiến bộ, công
bình, giàu tình thương”.[28]
Ngày 12.6.1975, ngài gửi Thư luân lưu về bổn phận của người
Công giáo đối với Đất nước và Giáo Hội. Sau nhắc lại quan điểm truyền thống của
Giáo Hội về bổn phận đối với quyền bính dân sự, ngài kêu gọi người Công giáo
“tham gia vào việc xây dựng quốc gia và hợp tác với chính quyền trong mọi công
cuộc ích quốc lợi dân (…). Điều cần là, theo ánh sáng đức tin, mỗi người tùy
theo khả năng hãy tích cực tham gia vào các họat động chính trị, quân sự, kinh
tế, văn hóa vv… để góp phần xây dựng hòa bình, củng cố độc lập, tái thiết quê
hương”.[29]
Bất chấp những khó khăn với chính quyền Cách mạng như đa số
cơ sở tôn giáo bị trưng thu, Tổng giám mục phó Nguyễn Văn Thuận bị bắt, Đức
khâm sứ Tòa Thánh bị trục xuất…, Đức Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình vẫn kiên trì
đi theo con đường Canh tân, đối thoại, hòa giải và hợp tác. Ngài đem hết tâm
lực để trả lời và giải quyết hai câu hỏi căn bản: Chỗ đứng nào cho người Công
giáo trong cộng đồng dân tộc? Phải sống đạo như thế nào trong xã hội mới do
đảng Cộng sản lãnh đạo?[30]
Có những người không đồng tình với chọn lựa này đã gán cho
ngài danh hiệu “Giám mục đỏ”. Trong thực tế, đây là một chọn lựa can đảm, phù
hợp với hoàn cảnh và đã góp phần hình thành đường hướng mục vụ được phản ảnh
qua Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam. TGM Nguyễn
Văn Bình biểu lộ diện mạo một mục tử nhân hậu, can đảm, sinh động và đã đem lại
nhiều khởi sắc cho Tổng giáo phận Sài Gòn. Nhưng, trong một bài phỏng vấn được
thực hiện 2 tháng trước khi từ trần, chính ngài đã bộc bạch. “Thú thật, trước
đây vì nghe và đọc thấy là ở Liên Xô và Đông Âu cũ cũng như ở Trung Quốc và
miền Bắc xưa kia Công giáo gặp khó khăn, tôi tự nhiên cũng rất sợ Cộng sản”. Và
khi được hỏi “sau 20 năm họat động dưới chế độ Cộng sản, cụ còn sợ Cộng sản nữa
không?”, ngài thẳng thắn tra lời: “Vẫn còn sợ”. Thế rồi, ngài cho biết nguyên
nhân của nỗi sợ này là do: lời nói và việc làm không đi đôi, có nhiều điều thấy
dễ ở cấp cao nhưng khó ở cấp dưới, một số vụ việc “được xử lý quá mức cần
thiết”.
Trên bình diện Giáo Hội Công giáo Việt Nam, phải đợi chờ 20
năm sau khi thiết lập Hàng giáo phẩm, lần đầu tiên các giám mục Việt Nam mới có
cuộc họp chính thức với danh nghĩa Hội đồng Giám mục Việt Nam, từ ngày 24/4 đến
ngày 1.5.1980. Qua “Thư Mục vụ 1980”, Hội đồng Giám mục Việt Nam long trọng cam
kết: “Hội Thánh vì loài người” và “Hội Thánh trong lòng Dân tộc”. Đường hướng
mục vụ được lựa chọn chính là “sống Phúc Âm giữa lòng Dân tộc để phục vụ hạnh
phúc của đồng bào” (số 14) và để “xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một
lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống Dân tộc” (số 11). Người Công giáo
quyết tâm “cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng Tổ quốc” (số 10), vì quê
hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để làm con của Người, Đất
nước này là lòng Mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con
Thiên Chúa, Dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với
tính cách vừa là công dân vừa là thành phần Dân Chúa.
Trong hoàn cảnh khó khăn của Giáo Hội vào thời điểm đó, Thư
Mục vụ đã đưa ra một đường hướng mục vụ sáng suốt, thích hợp với tinh thần tha
thứ, lòng yêu thương, thái độ dấn thân và phục vụ của Tin Mừng. Trong Hội thảo
kỷ niệm 25 năm Thư Mục vụ này, ông Trần Bạch Đằng phát biểu một câu rất ý
nghĩa: “Người Công giáo Việt Nam có thể tự hào về lá Thư chung 1980 vì tinh
thần đổi mới của nó đã góp phần thúc đẩy quyết tâm đổi mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam năm 1986”.[31]
Rất tiếc những hy vọng và náo nức ban đầu không kéo dài bao
nhiêu. Chế độ bao cấp, óc giáo điều, bệnh chủ quan, say men chiến thắng ở thời
hậu giải phóng đã đẩy nền kinh tế Việt Nam đến chỗ phá sản, cuộc sống vật chất
cực kỳ khó khăn. Thêm vào đó, việc cải tạo các sĩ quan và công chức chế độ cũ,
chính sách hợp tác hóa nông nghiệp, các biện pháp ép dân thành thị đi kinh tế
mới, chiến dịch đánh tư sản, chế độ hộ khẩu, lý lịch, phương thức quản lý tôn
giáo quá cứng ngắc và bất công… làm cho hàng triệu người, đặc biệt những người
có tôn giáo, hầu như không còn đất sống. Nhiều người đã khố sở, đắn đo cân nhắc
và hầu như đã nhìn thấy cái chết trước mặt, nhưng rồi cũng phải “liều mình nhắm
mắt đưa chân”. Làn sóng tị nạn ồ ạt này khiến nhiều người phải nghiêm chỉnh suy
nghĩ về mối tương quan giữa chính trị với nhân quyền, giữa vai trò của nhà nước
với quyền lợi của người dân, giữa tôn giáo với chế độ.
Giáo sư Đặng Phong đã nghiên cứu tỉ mỉ giai đoạn khủng
hoảng trầm trọng 1976-1985 này. Nghị quyết Trung ương về cải tạo nông nghiệp
quyết định “đưa nông nghiệp tiến nhanh lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa”. Nhà
nước đã cưỡng bức nhiều dân thành phố về nông thôn, đưa những người buôn bán,
phi sản xuất cũng như nhiều nghệ sĩ, kỹ sư, bác sĩ, công nhân viên chế độ cũ…
về các vùng kinh tế mới. Tuy nhiên, về kinh tế, “năm 1976, sản lượng lúa cả năm
là 11.827,2 nghìn tấn. Kế hoạch 5 năm định là năm 1980 sẽ nâng lên gấp đôi, tức
là 21 triệu tấn, nhưng trong thực tế, đến năm 1980 chỉ đạt được 11.647,4 triệu
tấn, tức là còn chưa bằng điểm xuất năm 1976. Còn sản lượng bình quân đầu người
thì giảm sút ngoài sức tưởng tượng: từ 211kg năm 1976 xuống còn 157kg năm 1980.
Mức huy động lương thực của nhà nước năm 1976 là 2,04 triệu tấn, năm 1979 chỉ
còn 1,45 triệu tấn. Miền Nam là vựa lúa của cả nước thì mức giảm sút còn nặng
hơn: Từ 1,1 triệu tấn năm 1976 còn hơn 800 ngàn tấn năm 1979, tức là giảm
khoảng một nửa”.[32]
Nhìn lại giai đoạn khủng hoảng này, sau khi liệt kê những
sai lầm trầm trọng về kinh tế-xã hội-chính trị, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện kết
luận: “Dân chúng ngày càng bất mãn và tính hợp pháp của chế độ bắt đầu bị xói
mòn (…) Chỉ trong mấy năm, một triệu rưỡi người bỏ nước ra đi, cộng đồng hải
ngoại tạo thành một yếu tố đích thực mới lạ trong lịch sử dân tộc Việt
Nam”.[33]
Đây là một vấn đề xã hội lớn lao và trách nhiệm trước tiên
nằm trong tay những người đang lãnh đạo đất nước. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày
Tuyên bố Độc lập, cố thủ tướng Võ Văn Kiệt đã thẳng thắn đề cập đến vấn đề sinh
tử và rất nhạy cảm: Đoàn kết dân tộc. Ông cho rằng, sau ngày 30.4.1975, nhà cầm
quyền đã đánh mất một cơ hội ngàn vàng để thể hiện đại đoàn kết dân tộc “bởi
bệnh chủ quan và say sưa vì chiến thắng, bởi những cách nhìn hẹp hòi, biệt
phái, bởi chuyện phân biệt thắng-thua, bởi những kỳ thị ta-ngụy… Tiếp đó, cuộc
cải tạo công thương nghiệp tư nhân ở miền Nam và việc hợp tác hóa nông nghiệp
một cách rập khuôn, mà sau này Đại hội Đảng lần thứ VI đã rút kinh nghiệm, là
vừa đụng chạm tới cả những người đã từng có công đóng góp cho cách mạng, vừa
triệt tiêu đi một nguồn lực kinh tế rất quan trọng. Kinh tế khó khăn, đời sống
bế tắc, cộng với những phương thức quản lý xã hội quá cứng nhắc và tình trạng
kỳ thị thành phần… đã làm cho cả một số người yêu nước, muốn đóng góp cho đất
nước cũng đành dứt áo ra đi”.[34]
Những đợt di tản ồ ạt. cộng thêm chương trình HO và ODP đã
củng cố các cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Không nói mọi người đều rõ,
thái độ chính trị của hầu hết cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại là chống
Cộng. Tâm lý và ý thức hệ của họ gắn liền với màu cờ sắc áo của chế độ VNCH
ngày xưa. Lá cờ “vàng ba sọc đỏ” vẫn là lá cờ của đại đa số người Việt di tản.
Cho đến nay, đối với nhiều người Việt hải ngoại, ngày 30 tháng Tư vẫn là ngày
“quốc hận” hay “ngày mất nước”. Ngoài ra, sống tại những nước phát triển và tự
do, họ không thể chấp nhận chế độ độc đảng và đường lối chính trị của nhà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay.[35]
Cộng đồng Công giáo Việt Nam hải ngoại cũng cùng chung tâm thức và
quan điểm chính trị nói trên. So với các nhóm khác, có lẽ khối Công giáo hải
ngoại còn chống Cộng hơn, vì gắn bó nhiều hơn với chế độ cũ và đối kháng kịch
liệt hơn với ý thức hệ vô thần. Vì bất đồng quan điểm với Nhà nước Việt Nam có những người đã đi đến chỗ “giận cá
chém thớt”: Tẩy chay hàng hóa Việt Nam, hô hào cấm vận, chống bang giao, chống tự
do mậu dịch giữa Việt Nam với thế giới và chụp mũ Cộng sản cho
những ai không chống Cộng như họ.
Trong những năm qua, cộng đồng hải ngoại đã giúp đỡ Giáo
Hội Việt Nam rất nhiều trong việc tái thiết và phát
triển. Nhưng một số người luôn muốn lôi kéo Hội đồng Giám mục về phía của họ.
Để không trở thành công cụ cho một thế lực chính trị nào, các giám mục thường
thận trọng trong các tuyên bố hay giữ im lặng. Mối tương quan giữa Hội đồng
Giám mục với Nhà nước và với cộng đồng Dân Chúa càng trở nên phức tạp.
IV. Mở cửa kinh tế, nhưng chưa đổi mới chính trị!
Nhờ chủ trương “đổi mới”, Việt Nam tăng trưởng mạnh về kinh tế và đang
dần dần ra khỏi tình trạng nghèo đói, lạc hậu. Rất tiếc là chúng ta chỉ mở cửa
về kinh tế, mà chưa thực sự đổi mới tư duy và mở cửa về xã hội, chính trị. Kết
quả là cơ chế chính trị, luật pháp và xã hội của Việt Nam vẫn chưa cập nhật với thời đại. Xã hội
dân sự chưa xuất hiện và hệ thống giáo dục vẫn bị khống chế bởi “cơ chế bao
cấp”, nên giống như một ngôi nhà cổ lỗ, chẳng theo qui tắc thông thường, càng
phát triển, cơi nới và sửa chữa thì càng dị dạng.
Nhiều tín đồ thắc mắc: Tại sao Nhà nước khuyến khích “tổ
chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân
nước ngoài đầu tư cho giáo dục” thế mà lại không cho phép các tôn giáo trong
nước tham gia trực tiếp vào lãnh vực Y tế và Giáo dục? Bao giờ các tu sĩ chuyên
môn về giáo dục và đã đạt được nhiều kết quả khả quan trên bình diện quốc nội,
cũng như quốc tế, mới có cơ hội đóng góp tim – óc cho giới trẻ Việt Nam?
Về phương diện tôn giáo, nói chung Hiến pháp, Nghị quyết
của Quốc hội, Pháp lệnh, Sắc lệnh, Nghị quyết của chính phủ… đều tuyên bố bảo
đảm quyền tự do tôn giáo. Tuy nhiên, mặc dù sau Đối mới, vẫn còn nhiều hạn chế,
phân biệt đối xử và ngăn cản… trong sinh hoạt tôn giáo. Trên thực tế, vẫn còn
nhiều quy định coi thẻ đảng viên là tiêu chuẩn đầu tiên cho nhiều chức vụ và
nhiệm vụ trong xã hội Việt Nam hôm nay, vẫn còn những luật lệ thành văn và nhất
là bất thành văn giới hạn quyền công dân của các tín đồ tôn giáo.
Đặc biệt, Luật đất đai và nhất là Nghị quyết số
23/2003/QH11 ngày 26.11.2003 về nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng
trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo
xã hội chủ nghĩa trước ngày 1.7.1991… đã tăng thêm sự căng thẳng giữa Nhà nước
với tôn giáo ở một số địa phương. Vì tính chất bất hợp lý và giáo điều của Luật
đất đai cho nên trong những năm qua đất đai là lãnh vực có nhiều vụ án tham
nhũng, nhiều khiếu kiện và xung đột nhất tại ViệtNam. Việc căng thăng về đất
đai và cơ sở tôn giáo cũng nằm trong điểm nhạy cảm này.
Cơ chế “xin-cho” trong thực tế đã biến thành cơ chế
“cho-cho”. Đây là một cơ chế bất hợp lý, tạo nên tham nhũng và bất công. Trong
Thư ngỏ (tháng 10 năm 2002), gửi Quốc hội và các Hội đồng Nhân dân, các giám
mục Việt Nam nhận định sâu sắc: “Cơ chế xin-cho biến những quyền tự do của công
dân thành những thứ quyền mà Nhà nước nắm trong tay và ban bố lại cho người dân
dưới dạng những cái phép, đồng thời biến Nhà nước từ một tổ chức có chức năng
phục vụ công ích trở thành một chủ nhân ông nắm các quyền tự do của người dân
và ban phát các phép tự do lại cho họ thường theo sự tùy tiện chủ quan hơn là
theo những tiêu chuẩn khách quan. Như thế cơ chế xin-cho vừa đi ngược lại công
ích và xóa đi các quyền tự do của người dân, vừa bôi đen hình ảnh của một Nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Đó là điều làm tha hóa con người.
Theo thông tin của báo chí, cơ chế xin-cho còn là nguyên
nhân làm thất thóat 50% các nguồn thu vào công quỹ và làm thất thoát 50% còn
lại khi chi ra công ích. Điều này có nghĩa là 5% hoặc 7% dân số là những người
có thế lực thì hưởng 75% từ công quỹ quốc gia (…), phần còn lại của dân số là
hơn 70 triệu dân chỉ hưởng được 25%. Thực tế này tạo ra một tình trạng bất công
trầm trọng trong xã hội và không ngừng làm gia tăng hố sâu cách biệt giàu nghèo
trong lòng một dân tộc…”.[36]
Một vấn đề bức xúc khác là tính nhân vân trong cách giải
quyết tranh chấp và sự thiếu trung thực về thông tin đại chúng. Trong văn thư
số 10/GHVN, ngày 25.9.2008, gửi UBND/TP Hà Nội, các giám mục đã thẳng thắn nêu
vấn đề: “Trong tiến trình giải quyết tranh chấp, một số phương tiện truyền
thông thay vì là nhịp cầu liên kết và cảm thông thì lại gieo rắc hoang mang và
nghi kỵ (…). Ngày nay, một trong những điều gây nhức nhối lương tâm là sự gian
dối trong nhiều lãnh vực, kể cả trong môi trường cần đến sự thật nhiều nhất là
giáo dục học đường”. Đối với việc sử dụng bạo lực, văn bản viết thêm: “Cũng
trong tiến trình giải quyết những xung đột nêu trên và nhiều vụ việc khác, một
số người có khuynh hướng sử dụng bạo lực, và như thế, tạo thêm bất công trong
xã hội. Điều này đang có chiều hướng gia tăng, không những trong các vấn đề lớn
của xã hội mà ngay cả trong đời sống gia đình cũng như tại học đường”.
Những lấn cấn đó làm cho mối tương quan giữa Giáo Hội với
Nhà nước tại một địa phương trở nên căng thẳng trong thời gian vừa qua. Nhưng
bất chấp những khó khăn và giới hạn nói trên, Giáo Hội Công giáo đã biểu lộ sức
sống và tính năng động như chưa từng thấy. Thật vậy, chưa bao giờ Giáo Hội Việt Nam có con số giám mục, linh mục, chủng
sinh, tu sĩ, giáo lý viên… nhiều như hiện nay. Hầu hết các thánh đường và cơ sở
cũ đã được trùng tu. Nhiều thánh đường và cơ sở mới đang tiếp tục mọc lên. Các
khó khăn và giới hạn về việc tuyển sinh của các Dòng, các Đại chủng viện cũng như
việc thụ phong linh mục… trên cơ bản đang được giải quyết. Các Đại chủng viện,
các Học viện của các Dòng tu, cũng như các Trung tâm Mục vụ của Giáo phận đang
sinh hoạt bình thường.
V. Đối thoại thẳng thắn, cộng tác chân thành
Hiện nay, mặc dù vẫn tồn tại một số lấn cấn và bất hợp lý
của thời bao cấp, gây bức xúc cho nhiều người và cũng thường xuyên bị phê phán,
nhưng phải công nhận rằng Nhà nước đã cố gắng mở rộng hơn cánh cửa ra thế giới
bên ngoài: Việt Nam đã thiết lập bang giao với hầu hết các nước trên thế giới,
chính thức gia nhập ASEAN, APEC, WTO và đang hòa nhập vào dòng chảy chung của
nhân loại. So sánh với các nước phát triển và một số nước trong khu vực về cơ
chế pháp lý, thì ViệtNam cần phải
cải cách nhanh và nhiều hơn nữa mới đáp ứng nhu cầu của thời đại. Tuy nhiên,
đây là cả một tiến trình nhiêu khê và khách quan mà nói, Việt Nam cũng đã bắt đầu những bước đi cần
thiết trên con đuờng dài thăm thẳm này.
Đứng trên phương diện ý thức hệ, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chính thức công nhận “tôn giáo là
vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân và sẽ tồn tại trong tiến trình xây dựng XHCN”. Còn Công đồng
Vatican II lại nhắn nhủ các tín hữu cần ý thức rằng vô thần là một hiện tượng
rất phức tạp. Song song với “ý thức hệ vô thần” của chủ nghĩa Mác thiết tưởng
cần quan tâm nhiều hơn đến “vô thần thực hành” của tư bản chủ nghĩa và của con
người thời nay. Ngoài ra cũng đừng quên rằng vô thần đã khai sinh từ lòng Kitô
giáo. Hơn nữa cần phân biệt giữa “chủ nghĩa vô thần” và các phong trào lịch sử
phát xuất từ đó.[37]
Về phương diện ngoại giao, Đức giáo hoàng Bênêdicto XVI đã
tiếp kiến thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào đầu năm 2007 và chủ tịch Nguyễn Minh
Triết vào cuối năm 2009. Rất có thể vào đầu năm 2013 sẽ có cuộc hội kiến giữa
Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Việc thiết lập
bang giao giữa Vatican và Việt Nam có thể sẽ được thực hiện trong một tương lai
gần.
Theo Giáo huấn Xã hội của Giáo Hội Công giáo, cộng đồng
chính trị và Giáo Hội độc lập và tự trị trong lãnh vực riêng của mình, nhưng cả
hai đều phục vụ con người. Chính vì vậy, “sự tự trị giữa Giáo Hội và cộng đồng
chính trị không dần tới chỗ hai bên ly khai nhau, loại bỏ việc hợp tác. Thật
vậy, Giáo Hội và cộng đồng chính trị được biểu hiện qua các cơ cấu mang tính tổ
chức và các cơ cấu này không có mục đích tự tại, mà nhằm phục vụ con người,
giúp con người thi hành các quyền của mình cách trọn vẹn, những quyền được gắn
liền với bản chất của con người vừa là công dân và vừa là Kitô hữu, đồng thời
giúp con người chu toàn các nghĩa vụ tương ứng. Giáo Hội và cộng đồng chính trị
có thể làm cho việc phục vụ này hữu hiệu hơn “để mọi người cùng có lợi, nếu mỗi
bên nỗ lực hơn nữa để hợp tác lành mạnh với nhau theo cách thế phù hợp với hoàn
cảnh không gian và thời gian”.[38]
Chính trong viễn tượng đó, Tòa Thánh đã đề nghị con đường
đối thoại và hợp tác giữa Giáo Hội với Nhà nước Việt Nam. Ngỏ lời với các giám mục Việt Nam nhân
dịp đến viếng mộ hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô Ad limina 2002. Đức Gioan
Phaolo II đề nghị một định hướng mục vụ theo tinh thần đối thoại của Vatican
II: “Đối thoại thẳng thắn và cộng tác chân thành”. Trong Ad limina 2009, Đức Bênêđictô XVI tiếp tục kêu gọi Giáo Hội Việt Nam “đóng
góp vào việc phát triển nhân bản và tâm linh của con người, nhưng đồng thời
cũng đóng góp cho việc phát triển đất nước. Việc tham gia vào tiến trình này là
một bổn phận và một đóng góp quan trọng, nhất là lúc Việt Nam cũng
đang từ từ mở cửa về phía cộng đồng quốc tế”.
Hơn thế nữa, Đức giáo hoàng đã đi thẳng vào trọng tâm của
một vấn đề gai góc, nhức nhối và nhạy cảm nhất, từng gây chia rẽ và tranh luận
gay gắt trong lòng Giáo Hội Công giáo Việt Mam suốt nhiều thập niên vừa qua
Ngài tuyên bổ: “Chư huynh cũng như tôi đều biết rằng một sự hợp tác lành mạnh
giữa Giáo Hội và cộng đồng chính trị có thể thực hiện được. Về điểm này, Giáo
Hội mời gọi các phần tử của mình dấn thân một cách lương thiện để xây dựng một
xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng. Giáo Hội không đòi hỏi phải thay thế
trách nhiệm của các nhà cầm quyền, nhưng chỉ mong muốn có thể góp phần chính
đáng vào đời sống quốc gia, để phục vụ toàn dân, trong tinh thần đối thoại và
hợp tác, tôn trọng lần nhau”.
Trong bài diễn văn này, Đức giáo hoàng yêu cầu chấm dứt
thái độ “đối đầu” để tích cực dấn thân vào “con đường đối thoại”. Ngài công
khai nhắc đến “Thư Mục vụ 1980” của Hội đồng Giám mục Việt Nam. Hơn nữa, chủ đề “Giáo Hội Chúa
Kitô giữa lòng Dân tộc” của Thư Mục vụ được triển khai, cập nhật hóa và nâng
cấp cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Ý thức sâu xa tính đối kháng giữa Nhà nước
thuộc khối XHCN với tôn giáo, ngài nói thêm: “Tôi thấy điều này là quan trọng
là phải nhấn mạnh rằng các tôn giáo không gây ra một mối nguy hiểm cho tình
đoàn kết quốc gia, bởi vì tôn giáo nhằm giúp đỡ cá nhân thánh hóa chính mình
và, qua các cơ chế, các tôn giáo quảng đại tự đặt mình phục vụ tha nhân trong
cách thế hoàn toàn vô vị lợi”.
Phải coi đây là định hướng mục vụ tổng quát cho cộng đông
Dân Chúa không những ở Việt Nam mà còn tại nhiều nước châu Á. Sứ điệp Hội nghị
lần 10 của Liên Hội đồng Giám mục Á châu chọn đối thoại như một phương cách
sống và thi hành sứ vụ: “Công cuộc Tân Phúc âm hóa kêu gọi lấy tinh thần đối
thoại thúc đẩy cuộc sống hằng ngày và chọn tương quan hòa hợp chứ không đối
đầu. Đối thoại phải là tiêu chí cho mọi hình thức thực thi sứ vụ và phục vụ tại
châu Á. Đặc trưng của đối thoại là khiêm tốn nhận ra sự hiện diện kín đáo của
Thiên Chúa trong cuộc tranh đấu của người nghèo, trong sự phong phú về văn hóa
của nhân dân, trong sự đa dạng về truyền thống tôn giáo và trong thẳm sâu cõi
lòng mỗi người. Đối thoại như thế là lối sống và phương cách truyền giáo của
chúng ta. Đối thoại trở thành nền tảng cho nền linh đạo hiệp thông nhằm canh
tân sứ giả Tin Mừng”.[39]
Tuy nhiên đối thoại không đồng nghĩa với thỏa hiệp, nhất là
thỏa hiệp với bất cứ giá nào. Niềm tin tôn giáo và chân lý không thể mặc cả hay
dễ dàng nhượng bộ. Rất nhiều lần người Kitô hữu được mời gọi chấp nhận trả giá.
Vào dịp Giáng sinh 2012 vừa qua, Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI đã đưa ra một
nhận định sâu sắc trong mối tương quan giữa Giáo Hội với Nhà nước. Theo ngài,
“việc hợp tác sinh hoa kết quả giữa các Kitô hữu và những người khác là điều có
thể thực hiện được. Thế nhưng người Kitô hữu chỉ trả lại cho César những gì
thuộc về César, chứ không phải những gì thuộc về Thiên Chúa. Trong lịch sử, đôi
khi người Kitô hữu không thể tuân thủ những đòi hỏi của César. Từ thói tôn thờ
hoàng để thời cổ đại Rôma đến những chế độ toàn trị trong thế kỷ vừa qua, các
César đã cố chiếm đoạt vị trí của Thiên Chúa. Khi người Kitô hữu từ chối cúi
mình trước các thần ngụy tạo được đề xuất thời nay, thì điều đó không xuất phát
từ một thế giới quan cũ mèm. Sở dĩ như vậy là vì họ hoàn toàn tự do thoát khỏi
những kiềm tỏa của ý thức hệ và được linh hứng bởi tầm nhìn về vận mệnh con
người, cao quý đến nỗi họ không thể nào thỏa hiệp với bất kỳ điều gì đe dọa tầm
nhìn đó”.
VI. Thay lời kết
Ngay từ ngày 10.11.1659, khi bổ nhiệm hai giám mục tiên
khởi đến Đàng Trong và Đàng Ngoài. Bộ Truyền giáo đã đưa ra định hướng rõ rệt
về đối thoại và hội nhập văn hóa: “Chư huynh đừng tìm cách, đừng tìm lý lẽ để
thuyết phục các dân tộc thay đổi nghi thức của họ, tập tục và phong hóa của họ,
trừ khi tất cả những cái đó hiển nhiên mâu thuẫn với đạo thánh và luân lý.
Không có gì bất hợp lý bằng đem nước Pháp, nước Tây Ban Nha hay nước Italia
hoặc một nước châu Âu nào khác vào Trung Quốc. Đừng đem đến các dân tộc ấy xứ
sở của các vị, mà chỉ đem đến đức tin, một đức tin không từ chối cũng không làm
tổn thương các nghi thức, các tập tục của bất cứ dân tộc nào, miễn là tất cả đó
không có gì xấu, mà trái lại, đức tin của chúng ta muốn người ta cứ giữ và bảo
vệ các thứ đó”.
Trong tương quan đối với nhà cầm quyền, Bộ Truyền giáo căn
dặn: “Nếu được vua chúa có cảm tình và rộng lượng, chư huynh hãy tỏ lòng biết
ơn. Để tránh mọi ganh tị có thể xảy ra, chư huynh đừng xin đặc ân, miễn trừ đối
với luật lệ trong nước… Hãy tránh tất cả những hành động có liên can đến chính
trị, kể cả những hành động có thể khiến người ta nghi ngờ chư huynh dính líu
vào chính trị. Hãy rao giảng cho tín hữu bổn phận trung thành với Nhà nước, dù
các nhà cầm quyền là những người không cùng tín ngưỡng”[40].
Dĩ nhiên, theo thần học luân lý, khi công quyền không còn
phục vụ công thiện công ích hay vượt quá quyền hạn của mình để đàn áp người
dân, lúc đó các công dân được phép sử dụng những biện pháp cần thiết để bênh
vực công lý và nhân quyền. Tuy nhiên khi nhà cầm quyền phục vụ công ích thì họ
có thẩm quyền đòi hỏi người dân phải tuân thủ pháp luật và lương tâm cũng đòi
buộc các công dân phải chấp hành pháp luật. Theo Công đồng Vatican II, “cộng
đồng chính trị và Giáo hội, mỗi bên trong lãnh vực riêng của mình, đều độc lập
và tự trị. Tuy nhiên, dù dưới danh nghĩa khác nhau, cả hai đều cùng phục vụ ơn
gọi cá nhân và xã hội của con người. Việc phục vụ đó sẽ hữu hiệu hơn cho thiện
ích của nhân loại, nếu cả hai duy trì đuợc sự cộng tác tốt đẹp với nhau, thích
ứng với từng thời điểm và từng địa phương”.[41]
Thư chung Hậu Đại hội Dân Chúa 2010 ý thức rõ rệt rằng Giáo
hội đang đứng trước một giai đoạn lịch sử mới mẻ và đặc biệt. Thiên Chúa đang
mời gọi các tín hữu bày tỏ khuôn mặt đầy yêu thương của Ngài cho mọi người, vừa
với tính cách công dân trong một đất nước đang biến đổi, vừa với tính cách
người Công giáo có nhiệm vụ đóng góp cho quê hương với tinh thần Tin Mừng: “Là
công dân trong một đất nước, người Công Giáo Việt Nam có bổn phận yêu mến và
xây dựng quê hương. Đồng thời, chúng ta thi hành bổn phận này với tinh thần
Phúc Âm, khi thể hiện chức năng tiên tri bằng tiếng nói chân thành và có trách
nhiệm, thực thi yêu thương trong chân lý và thực thi chân lý trong yêu
thương”.[42]
Gm. Phaolô Nguyễn Thái Hợp Conggiao.info5/20/2013 8:19:18 AM
Nguồn: Hiệp Thông Bản tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam số
75 (tháng 3&4 năm 2013)
________________________________________
[1] Xem G. Alberigo (dir.),
Histoire du Concile Vatican II, Cerf, Paris, 1997: Y. Congar, Le Concile de
Vatican II, Paris, 1984; G. Caprile, Saggio di bibliografia sul Concilio
Vaticano II, 3 vol., 1963—1965; A. Ricardi, II potere del papa. Da Pio II a
Paolo VI, Rome-Bari, 1988; G. Zizola, L ‘Utopie du pape Jean XXIII, Paris,
1978; Giovanni XXIII. Lafede e la polilica, Rome-Bari, 1988; H.Duquaire, Jean
XXIII.Problème actuels à la lumière de
l’Evangile, Paris, 1964;
E.E.Hales, Pope John and his revolution, Londres, 1965.
[2]
Gioan XXIII, Diễn văn khai mạc Công đồng, số 8 & 16.
[3]
Gioan XXIII, Diễn văn bế mạc khóa 1 của Công đồng, số 22.
[4]
Gioan XXIII, Hòa bình trên trái đất, số 1.
[5] Ibidem, số 110-112.
[6] Ibidem, số 113.
[7] 7 Ibidem, số 158.
[8] Ibidem, 159.
[9] Vatican II. Gaudium et Spes, số
19.
[10] Ibidem, 20.
[11] Ibidem, 21.
[12] Ibidem, 28.
[13] 13 Ibidem, 34. Chính V. Lénin,
Rose Luxemburg và hầu hết các lý thuyết gia Mác xít khác cũng không chấp nhận
bất cứ sự phân chia tuyệt đối nào giữa các yếu tố nói trên.
[14] Xem chẳng hạn Marxistes et
Chrétiens. Entretiens de Salzbourg en 1965, Mame, 1968; L’homme chrétien et
l’homme marxiste, La Palatine, 1964; D. Dubarle, Pour une dialogue avec le marxisme,
Cerf, 1964; G. Girardi, Marxisme et christianisme, Paris, 1968; R. Garaudy, De
l’anathème au dialogue, Paris, 1965.
[15]
Các giám mục miền Nam, Thư chung,
ngày 2.3.1960.
[16]
Xem Hoàng Phương, Cộng sản và tôn giáo tại Việt Nam, Sàigòn, 1966: UBKHXH Việt Nam –
Ban Tôn giáo Chính phủ. Một số vấn đề lịch sử Đạo Thiên Chúa trong lịch sử Dân
tộc Việt Nam, Tp HCM, 1988; Nguyễn Văn Đông, Tìm hiếu chính sách của Đảng và
Nhà Nước đối với Đạo Thiên Chú,. Tp. HCM, 1988; Trần Tam Tỉnh, Thập giá và lưỡi
gươm, Nxb Tp HCM, 1988; Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công giáo ở Việt Nam, Calgary-
Canada, 2002; Đỗ Quang Hưng (Chủ biên). Bước đấu tìm hiểu về mốii quan hệ giữa
Nhà Nước & Giáo Hội, NXB Tôn giáo, 2003; Đỗ Quang Hưng, Vấn đề tôn giáo
trong cách mạng, NXB Tôn giáo, 2006 ; Stephen Denney, “The Catholic Church in
Vietnam”, trong Sabrina Ramet & Pedro Ramet, Catholicism and Politics m
Communist Societies, Duke Univ. Press, 1990.
[17] 17
Truơng Bá Cần, 50 năm nhìn lại, Tp. HCM, 2008, tr. 36.
[18]
HGPCGVN, Thông cáo của HGPCGVN 1966, trong Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam
1960-1995, Đắc Lộ Tùng thư, Paris 1996,tr. 186.
[19]
Trần Anh Dũng, Hàng Giáo phẩm Việt Nam 1960-1995, Không NXB, tr. 194.
[20] Ibidem, tr. 204.
[21] Ibidem, tr. 224.
[22] Ibidem, tr. 231.
[23] Giám mục miền Nam, Tuyên ngôn
ngày 1.1.1974.
[24] Những gì Nguyễn Tiến Hưng kể
lại trong cuốn “Khi đồng minh tháo chạy ”, California, 2005, chỉ xác nhận thêm
cho những gì mà nhiều người đã biết.
[25] Tạp chí Đứng Dậy, số 70, ngày
4.7.1975, tr. 37-38.
[26] Trong văn thư ngày 6.8.1977
gửi TGM Nguyễn Văn Bình, liên quan đến ĐứcTGM Nguyễn Kim Điền, UBMTTQVN/TP.HCM
đã nhận định rằng: “Những tồn tại trên đây có nguyên nhân chủ quan và khách
quan của nó. Một số cán bộ cách mạng do trình độ còn non kém hoặc do chưa hết
thành kiến mà làm sai đường lối chính sách. Mặt khác, phải thấy một thực tế nữa
là hố sâu ngăn cách, chia rẽ, thành kiến lương giáo do bọn đế quốc và tay sai
phản động tạo ra hơn 100 năm nay không thể một sớm một chiều xóa bỏ ngay được
(…) về phía mình, cho đến nay do bị ảnh hưởng tuyên truyền xuyên tạc của địch
nên trong Thiên Chúa giáo, cũng như trong các tôn giáo khác, số người còn thành
kiến với cách mạng không phải là ít, nhất là trong hàng chức sắc, giáo phẩm.
Thậm chí có một số người có những thái độ cực đoan, đi tới những chống đối
quyết liệt”.
[27] Người Tín hữu, “Về Đức Tổng
giám mục Nguyễn Kim Điền”, CGvDt số 668, ngày 3.7.1988, tr. 8.
[28] Tạp chí Đứng Dậy, số 70, ngày
4.7.1975, tr. 39-40.
[29] Phụ bản CGvDT, Đức Tổng giám
mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, 1995, tr. 56.
[30] Xem Nguyễn Hồng Giáo. Một
chặng đường Giáo Hội Việt Nam, 2008, tr. 139-198.
[31] Xem Trương Bá Cần và mội số
tác giả khác, Công giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm (1945- 1995), Tp. HCM,
1996.
[32] Đặng Phong, Tư duy kinh tế
Việt Nam. Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975-1989, Nxb Tri Thức, 2008, tr.
124. Xem thêm Huy Đức, Bên thắng cuộc, 2 tập, Osinbook 2012-2013.
[33] Nguyễn Khắc Viện, Vietnam, une
longue histoire, Thế Giới, Hà Nội, 1993, tr. 436.
[34] Võ Văn Kiệt, “Đại đoàn kết dân
tộc – Cội nguồn sức mạnh của chúng ta”, Tuổi Trẻ, ngày 29.8.2005.
[35] Xin coi Nguyễn An Tôn, Công
giáo miền Nam Việt Nam sau 30.4.1975, Lousiana, 1988; Tôn Thất Thiện, Nguyễn
Gia Kiểng, Vũ Quốc Thúc, Võ Long Triều, Lê Đình Thông…, Những vấn đề cấp thiết
của Việt Nam, Paris, 1995: Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945-1995. Chiến tranh, Tị
nạn, Bài học lịch sử, Tập.I, Tiên Rồng, 2004; Trần Ngọc Báu, Nguyễn Tiến Cảnh,
Mặc Giao, Đỗ Hữu Nghiêm, Bửu Sao, Đỗ Mạnh Tri, Ba mươi năm Công giáo Việt Nam
dưới chế độ Cộng Sản 1975-2005, California, 2005.
[36] HĐGMVN, Thư ngỏ gửi Quốc hội
và các Hội đồng Nhân dân, 12.10.2002.
[37] Xem Gaudium et Spes, số 19-21.
[38] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý
& Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo, số 425.
[39] Sứ điệp Hội nghị toàn thể lần
thứ X của Liên Hội đồng Giám mục Á châu, số 5.
[40] Xem Gaudium el Spes, số 73-76.
[41] Ibidem, số76.
[42] Thư chung Hậu Đại hội Dân Chúa
2010.
Mục Lục Thoáng Suy Tư
Friday, July 5, 2013
DÂN LÀM BÁO * THƯ ĐỖ THỊ MINH HẠNH
Đỗ Thị Minh Hạnh gửi thư kể về việc bị đánh đập trong tù
Danlambao -
Hồi tháng 5 vừa qua, tù nhân lương tâm Đỗ Thị Minh Hạnh đã bị chuyển về
giam giữ tại trại giam Z30A – Xuân Lộc (Đồng Nai). Tại trại giam mới,
vì không khuất phục trước bạo quyền nên Hạnh đã bị CA trại giam chỉ đạo
cho các tù nhân khác đánh đập thô bạo nhiều lần.
Đỗ Thị Minh Hạnh năm nay 28 tuổi, hiện đang bị kết án 7 năm tù vì đấu
tranh bảo vệ quyền lợi công nhân. Đây không phải là lần đầu tiên Hạnh bị
bạo hành trong tù. Trước đó, khi còn bị giam giữ tại trại giam CA tỉnh
Trà Vinh, các đợt khảo cung và tra tấn dã man của CA nơi đây đã khiến
phần tai bên trái của Hạnh bị điếc hoàn toàn.
Sau khi bị đánh đập, Đỗ Thị Minh Hạnh đã viết thư kể lại toàn bộ sự việc
cho gia đình. Vì nhiều lý do, phải đến 2 tháng sau bức thư mới được phổ
biến, tuy nhiên nội dung bức thư vẫn mang tính thời sự, nhất là sau
cuộc nổi dậy của tù nhân Xuân Lộc hôm 30/6.
Qua bức thư, từng giòng chữ của Hạnh đều là những bằng chứng mạnh mẽ tố cáo chế độ lao tù cộng sản độc ác, phi nhân.
Cũng qua bức thư, chúng ta thấy được dáng đứng dũng cảm, trái tim nhân ái và cao cả của Đỗ Thị Minh Hạnh...
Danlambao xin được gửi đến tất cả bạn đọc trong thôn bức thư Đỗ Thị Minh Hạnh gửi đến ba mẹ.
*
Ba kính yêu của con!
Đã nhiều lần con viết thư về cho ba nhưng có lẽ thất bại. Con biết hiện
giờ ba đang rất lo lắng cho con nên con nghĩ thêm lần nữa viết thư cho
ba. Hy vọng mười lá thì cũng phải có một lá.
Ba kính yêu của con!
Con đang cố diễn đạt làm sao cho ba hiểu con và hoàn cảnh trong này.
Chắc ba và anh chị không hiểu lý do tại sao con không chịu lao động phải
không? Vậy thì con sẽ nói rõ cho ba và anh chị hiểu.
Ở Hàm Tân, con thoải mái, làm việc theo ý thức, không bị ép buộc gò bó.
Việc chuyển trại là dự đoán từ trước từ chị em bạn tù vì con biết quá
nhiều chuyện của trại. Nay bị chuyển lên đây lao động vất vả. Không phải
con sợ vất vả mà sức con yếu, đau ốm, phần con không phục cách làm việc
nơi này và không khuất phục bức ép nào.
Và điều này còn liên quan đến danh dự người đấu tranh. Tất cả công việc
họ áp đặt con làm đều liên quan va chạm với tập thể. Nếu có sơ sót gì
thì tập thể có thể trì triết, hạ nhục, có khi dẫn đến... vũ lực.
Thật lòng, con không nghĩ rằng mình lại được chứng kiến phương thức sử
dụng tù trị tù, tù xử tù mà con còn trở thành một minh chứng.
Ngay bữa đầu tiên gặp tại phòng giáo dục, một cán bộ tỏ vẻ áp đảo nhưng
con đâu ngại, họ chỉ làm thế với người yếu bóng vía mà thôi.
Trong mấy ngày đầu, con không ra điểm danh buổi sáng. Họ không nói gì,
cũng không ai đả động đến. Thì hôm 3/5, sau thăm gặp (2/5), họ bắt chị
em phơi nắng nếu con không ra. Cán bộ (CB) trực trại cầm còng số tám
xông vào nhà tắm lôi con ra không mảnh vải. Con chống lại hành động đó,
họ quát nạt và giao còng cho một phạm nhân vào giơ còng đòi đánh con.
Con la lớn “Trại giam sử dụng tù đánh tù”. Sau đó, con ra ngoài, mọi người bức xúc cho là tại con mà họ bị phơi nắng nên chửi con: “Đồ con đ..., con quỉ”... Các cán bộ đứng đó nhếch mép cười. Con la lớn: “trại giam sử dụng tù xử tù”.
Sau đó đám đông xông vào buồng giam đánh con nhưng một cô trật tự cản
lại. Mấy CB nhìn lại ngó, bỏ đi mặc con la to bất mãn. Chiều hôm đó, CB
an ninh tên Giang (người coi thăm gặp hôm đó) gặp con, thái độ khó ưa.
Mẹ Dương Thị Tròn khuyên con nên ra điểm danh, nên hôm 4/5 con ra và la
lớn: “Tôi ra đây không phải vì sợ các người mà tôi không muốn vì tôi
mà chị em bị cộng sản bắt phơi nắng, bị hành hạ. Việc sử dụng tù xử tù
là hành động đê hèn, bỉ ổi, vô liêm xỉ đối với một cô gái nhỏ bé như
tôi, thật đáng khinh bỉ”.
Vài ngày sau, con bể đội, vào đội 2 - đội đạp điều. Nhưng được gởi tại
buồng giam 25+26 là hai đội có nhiều tiền án tiền sự và án cao. Và chị
em ai cũng hiểu mục đích của họ đưa con vào đó.
Khi con vào buồng giam, con được xếp ở trên lầu với chỗ nằm 6 tấc 2, vừa
để đồ, vừa nằm, sinh hoạt, ăn uống. Lại không đủ thước tấc mắc mùng và
múc nước. Con lên gặp CB yêu cầu đúng quy định 2m2. Con yêu cầu chuyển
buồng và có sự cãi vã. Một lát sau CB vào phòng yêu cầu chị em nằm chật
lại chừa chỗ rộng hơn cho con. Sao con có thể chịu vậy. Con không thể để
vì con rộng mà họ chật hơn 6 tấc. Vì vậy con chấp nhận nằm chật.
Qua hôm sau, CBQG đội 2 (Phương) đến gặp con. CB nói con hiện ở nhà. Con
nói con không nhận công việc trực sinh (chà toa let, quét dọn buồng,
canh giờ cơm nước, lấy quần áo cho hơn 50 người), trách nhiệm cao, con
không nhận. Con cũng không đạp điều.
Thì chiều 9/5, tự quản kêu con sáng mai đi làm. Con chỉ cười và con nhất
định sẽ không nhận công việc này. Sáng hôm sau, con ăn mặc đàng hoàng,
cầm theo tô chén xuất cổng. Nhưng con nghe là ban bảo CBQG làm bàn đạp
điều cho con ra làm. Chị em bảo là liệu nó có làm không? Ban trả lời: “chẳng lẽ tập thể lại thua con bé đó”.
Đó là những gì họ kể với nhau con nghe lỏm được. Thế là con yêu cầu làm
việc. CB kêu chị trật tự bảo con đi làm. Con bỏ vào thay quần áo ở nhà.
CBQG Phương vào gọi con, con nói không đi và đòi gặp ban. CB đó bảo nếu
con không ra thì đội không được xuất cổng. Và nếu không xuất cổng sớm
thì họ không hoàn thành mức khoán. Điều đó khiến họ bức xúc. Trong giờ
xuất cổng, họ để mặc chị em chạy đổ vào khu sau vào phòng lôi con đi.
Con không thể để họ sử dụng tập thể khống chế con lần nữa nên con nằm lì
và nói với chị em:
“Em chỉ có thể nói lời xin lỗi các chị, em không thể làm khác, các
chị hãy đấu tranh với CB, không thể vì em mà bị liên lụy. Đây là cách
thức của CB”. Thế là trong đám đông, có một chị đạp mạnh vào đầu con
đập mạnh xuống nền, một chị đạp vào lưng và vai, một chị đạp vào mông
làm con đau phần dưới. Con choáng váng và không hề đánh trả. Vì con hiểu
vì họ bức xúc, vì nhận thức chưa cao, bị sử dụng. Các CB không hề có
mặt trong khu. Và chẳng ai làm chứng. Đầu con ê buốt nhưng tinh thần con
càng mạnh mẽ. Sau đó 2 người vào buồng kéo con, con vẫn nằm, một trong
hai cầm gầu múc nước đập vào đầu con làm bể nát cái gầu. Sau đó kéo con
rớt xuống đập mạnh vào cầu thang. Ra đến cửa buồng, một đám người kéo xe
đẩy xuống, bế con lên xe đẩy, trật tự đóng cửa nhốt con lại, đẩy con ra
như một con thú bị nhốt trong chuồng trước tập thể chị em. Ra đến trước
cổng, họ đành để con ở nhà làm việc.
Chiều hôm đó, mấy chị đội 25+26 đi làm về kéo qua buồng Đ2 la những
người đánh con. Rất nhiều chị em đến quan tâm hỏi han, xem đầu con bị
đau ra sao và xin thuốc cho con. Họ vô cùng bất mãn việc đối xử với con
như vậy. Qua họ con biết tên người đánh con là ai.
Ngày thứ 7 họp đội. Đây là cơ hội cho kẻ lập công thay CB mổ xẻ. Nhưng
tất nhiên, con lên tiếng phản đối và yêu cầu việc của tôi, tôi chịu
trách nhiệm, đừng để chị em vì tôi mà bị ảnh hưởng. Chưa kể sáng đó, CB
lại tiếp tục dùng cách đó để ép con đi làm lần nữa nhưng thất bại, chị
em lên tiếng phản đối. Việc đánh con, CBQG có nói là chị cứng đầu thì để
tập thể xử lý chị. CB Giang thì nói, việc giáo dục phạm nhân dưa trên
GD tập thể. Sau đó họ đề xuất kỉ luật nhốt con 7 ngày. Các chị em trong
buồng lo lắng cho con.
Họ quan tâm khiến con cảm động. Sau đó họ đọc kỉ luật cảnh cáo.
Họ lại ép con làm trực sinh và con không làm. Con đã quyết và không thay
đổi. Sau hành động của họ, con nhất quyết không làm gì. Tuy nhiên con
vẫn giúp người già yếu bằng tình cảm và khả năng của con. CB Giang xúc
phạm điều đó là “bố thí”.
Mẹ Tròn, PGHH và chị Dung lo cho con nhiều. Cô Hồng thì phải đạp điều
vất vả. Cô Hồng khổ, chẳng ai thăm nuôi. Vì vậy nên hiền, họ bảo sao
nghe vậy. Giờ con ổn định, không lao động.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment