CÁC CHÙA DANH TIẾNG TẠI TRUNG QUỐC
Thiên Đường Trên Đỉnh Nga Mi
Nga Mi sơn là một trong Tứ đại Phật giáo danh sơn. Vị Bồ Tát bảo trợ của Nga Mi sơn là Samantabhadra, trong tiếng Việt còn được gọi là Phổ Hiền bồ tát.
Chùa Mặt Trời Và Mặt Trăng
Nằm bên hồ Banyu, chùa Mặt Trời và Mặt Trăng là một trong những điểm tham quan nổi tiếng nhất của tỉnh Quế Lâm
Chùa Yellow Crane
Chùa Yellow Crane là một trong những tòa bảo tháp nổi tiếng nhất ở phía Nam sông Dương Tử và là một biểu tượng của thành phố Vũ Hán
Chùa Tianning
Ngôi chùa Tianning thuộc địa phận thành phố Thường Châu, tỉnh Giang Tô, miền Đông, Trung Quốc gồm 13 tầng làm bằng gỗ quý hiếm.
Chùa Big Wild Goose
Nằm ở Tây An, một trong bốn thủ đô cổ đại của Trung Quốc, chùa Big Wild Goose là một biểu tượng của văn hóa Trung Quốc
Chùa Sakayamuni
Ngôi chùa cổ xưa nhất được làm hoàn toàn bằng gỗ ở Trung Quốc
Chùa Liuhe
Theo nghĩa đen có nghĩa là "Chùa 6 nốt nhạc hoà âm", kỳ quan kiến trúc này nằm ở chân đồi Yuelun ở Hàng Châu, Trung Quốc
Chùa Bạch Mã: Ngôi chùa Phật giáo đầu tiên ở Trung Quốc
Chùa Bạch Mã, ngôi chùa cổ nhất Trung Quốc, nằm cách thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, miền đông Trung Quốc 6 dặm
Hàn Sơn Tự
Trung Quốc là đất nước mà chùa chiền có mặt ở khắp mọi nơi. Trong đó có nhiều thiền tự đã trở thành những di tích linh thiêng níu chân phật tử
CÁC CHÙA DANH TIẾNG TẠI NHẬT BẢN
Các Chùa danh tiếng ở Nhật Bản
Ma Cốc Cổ Tự
01-02-2013 23:00:53 | lượt xem : 178Ma Cốc Cổ Tự (Magoksa) tọa lạc tại 966, Thôn magoksa-ro, Phường myeon Sagok, Thành phố Công Châu (Gongju-si), tỉnh Thanh Trung Nam đạo (Chungcheongnam-do).
Chiêm ngưỡng ngôi chùa được công nhận là Di sản văn hóa cố đô Kyoto, Chùa Kiyomizudera
27-02-2013 05:53:35 | lượt xem : 383Tên chùa Kiyomizudera trong tiếng Nhật có nghĩa “Chùa nước thiêng -Thanh Thủy Tự”. Chùa thờ Phật Quan Âm nghìn tay, được công nhận là Di sản văn hóa cố đô Kyoto và từng là ứng viên bầu chọn Bảy kỳ quan thế giới mới năm 2007.
Chùa Hòa Lạc
20-03-2013 05:05:50 | lượt xem : 200Chùa Hòa Lạc là ngôi chùa đầu tiên của người Việt Nam sống ở miền Tây, Kansai, Nhật Bản.
Royal Grand Hall
20-03-2013 05:24:20 | lượt xem : 331Royal Grand Hall - Hùng Nghiêm Đại Điện Phật Giáo ở Quận hạt Hyogo, Nhật Bản dường như sẽ phá nhiều kỷ lục trên thế giới. Hyogo, Japan
Chùa Đông Đại
20-03-2013 05:29:58 | lượt xem : 186Chùa Đông Đại, tiếng Nhật là Todai-ji (Đông Đại tự - 東大寺), là một trong những ngôi chùa cổ nổi tiếng ở Nhật Bản
Asakusa - Ngôi chùa to và nổi tiếng nhất Tokyo
20-03-2013 05:46:45 | lượt xem : 203Chùa Hòa Lạc là ngôi chùa đầu tiên của người Việt Nam sống ở miền Tây, Kansai, Nhật Bản
Chùa gỗ cổ nhất Nhật Bản
20-03-2013 05:51:33 | lượt xem : 261Không chỉ nổi tiếng với mùa hoa anh đào nở hay tự hào là đất nước của Mặt trời mọc, Nhật Bản còn nổi tiếng với những công trình kiến trúc chùa cổ
Hōryū Gakumonji - Ngôi chùa nổi tiếng ở Nhật Bản
20-03-2013 05:57:08 | lượt xem : 257NTO - Hōryū-ji (kanji: 法隆寺, romaji: Hōryū-ji, phiên âm Hán-Việt: Pháp Long Tự) là một ngôi chùa Phật giáo ở Ikaruga, tỉnh Nara, Nhật Bản
Chùa vàng Kinkakuji nổi tiếng ở Nhật Bản
20-03-2013 06:01:00 | lượt xem : 407Ngôi chùa Kinkakuji ở Kyoto, thường được mệnh danh là Tây Kinh của nước Nhật.
CÁC NGÔI CHÙA DANH TIẾNG TẠI THÁI LAN
10 ngôi chùa nổi tiếng và đẹp nhất Thái Lan
Nếu nói đến du lịch Thái Lan, không thể không nhắc đến những ngôi chùa hoành tráng, quy mô và lộng lẫy, là niềm tự hào của “đất nước của những nụ cười” này. Thái Lan còn được đặt thêm một một cái tên nữa là “Đất nước của những chiếc áo cà sa”, đặc tả về một tôn giáo lớn mà khoảng 95% người dân Thái tôn thờ đó là Phật Giáo, được xem là Quốc giáo. Vì vậy, dulichcamthai xin gửi đến quý khách giới thiệu đôi nét về 10 ngôi chùa đẹp lộng lẫy nhất và nổi tiếng nhất Thái Lan để quý khách có thêm kiến thức về đất nước này.
Đặc biệt, trong chương trình du lịch Thái Lan tháng 2 và tháng 3/2013 ,
chúng tôi có chương trình khuyến mãi du lịch Thái Lan giá rẻ rất hấp dẫn
dành cho du khách book tour ngay hôm nay. Đừng chần chừ nữa, hãy gọi
ngay 0938 65 77 68 hoặc 0973 35 14 68 để được tư vấn tour Thái giá rẻ
ngay.
Nhắc đến Thái Lan người ta nghĩ ngay đến “đất nước của những nụ cười
,đất nước tự do,đất nước của những chiếc áo cà sa”. Tên gọi cuối cùng
này đã mô tả một cách sâu sắc về một tôn giáo lớn mà dân tộc Thái đang
tôn thờ đó là Phật giáo.Vì 95% dân số của Thái Lan theo đạo phật và được
xem như Quốc Giáo.Chính vì thế khi có dịp đến thăm đất nước Thái quý
khách không thể bỏ qua trong lịch trình của mình đó là tham quan những
ngôi chùa.Xin giới thiệu 10 cảnh chùa đẹp và nổi tiếng nhất đất nước
Thái Lan để quý khách tham khảo.
1. CHÙA CHIANG MAN
Chùa Chiang Man là một ngôi chùa tại thành phố Chiang
Mai, Thái Lan. Đây là ngôi chùa lâu đời nhất tại Chiang Mai, được xây
vào khoảng thế kỷ 13. Nó thậm chí còn nhiều tuổi hơn cả thành phố này.
Vua Mengrai đã đến sống tại đây trong khi chờ thủ phủ xây dựng xong.
Ngôi chùa nổi tiếng với bức tượng Phật pha lê Phra sae Tang
Kamani.Một bức tượng khác cũng làm nên sự nổi tiếng của ngôi chùa này là
tượng Phật bằng đá Phra Sila, chạm khắc vào năm 900 tại Ấn Độ.
Vẻ đẹp của ngôi chùa còn được khắc họa ở hình ảnh 15 con voi quay về
các hướng, ở tượng Phật đứng cao tuổi nhất vương quốc Lanan Thai (542
năm) và ở bản khắc đá gần cửa phòng lễ thụ chức. Bản khắc đá kể về lịch
sử của thành phố, về đế chế Lanna Thai và những người có công đóng góp
cho ngôi chùa.
2. CHÙA WAT PHRA KAEW CHIANG RAI VÀ BANGKOK
a.Wat phra Kaew Chiang RaiWat Phra Kaew là một quần thể chùa và tu viện Phật giáo ở Thanon Trairat tại Tambon Wiang, huyện Muueng, tỉnh Chiang Rai, Thái Lan.
Wat Phra Kaew đã được chỉ định làm ngôi chùa hoàng gia đầu tiên ở Chiang Rai ngày 31 tháng 5 năm 1978(năm 2521 Phật lịch).
Ngôi chùa từng được gọi là Pa Yeah (วัดป่าเยี้ยะ hay วัดป่าญะ – Chùa Rừng Tre) vì trên thực tế xung quanh chùa này có tre bao bọc cho đến năm 1434 khi chedi của nó bị sét đánh để lộ ra hình ảnh Phật ngọc bên trong. Sau thời điểm đó chùa được đổi tên thành Phra Kaew.
b. Wat Phra Kaew Bangkok - Chùa Phật Ngọc
Wat Phra Kaew hay còn gọi là Chùa Phật Ngọc ở Bangkok được xem là một trong những ngôi chùa linh thiêng nhất ở Thái Lan. Chùa tọa lạc tại trung tâm lịch sử Bangkok (quận Nakhon), bên trong khuôn viên củaCung điện Hoàng Gia Thái Lan
Việc xây dựng ngôi chùa này bắt đầu khi vua Phật Yodfa Chulaloke
(Rama I) dời kinh đô từ Thonburi đến Bangkok năm 1785 . Wat Phra Keo nằm
cạnh Cung điện Lớn và có tầm quan trọng bậc nhất trong các ngôi chùa
nổi tiếng của Thái Lan, được xem như nhà chùa của Hoàng gia, với diện
tích rộng đến 945.000 m², bao gồm hơn 100 tòa nhà cao tầng, và là ngôi
chùa duy nhất không có sư sãi. Chùa nổi tiếng không chỉ vì vẻ đẹp của
nhiều kiểu kiến trúc, mà còn vì bức tượng Phật bằng ngọc bích thiêng
liêng nhất trong hằng hà sa số tượng Phật trên vương quốc. Không giống
các ngôi chùa khác, chùa này không có khu nhà ở cho các vị sư mà chỉ có
các tòa nhà được trang trí các cảnh linh thiêng, các bức tượng.
3. CHÙA WAT PHRATHAT DOI SUTHEP
Chùa Phrathat Doi Suthep (tiếng Thái: วัดพระธาตุดอยสุเทพ Wat Phrathat Doi Suthep) là một trong những ngôi chùa thiêng liêng nhất tại Chiang Mai (Thái Lan) và được nhiều người Thái Lan tin sùng.
Người ta có câu “Chưa đến chùa Phrathat Doi Suthep là chưa đến Chiang
Mai”, ” Đây cũng là ngôi chùa linh thiêng ở Chiang Mai “. Suốt 600 năm
qua, chùa có nhiều thay đổi và được tu sửa nhiều lần. Trước đây để lên
được đỉnh núi phải mất 5 giờ qua một con đường hẹp, nhỏ và nhấp nhô được
xem là trở ngại lớn nhất để lên được đỉnh chùa.
Năm 1934, nhà sư Kruba Srivichai đến Chiang Mai để thực hiện dự án
xây dựng đường lên chùa. Tin tức lan truyền khắp nơi nên Phật tử khắp
nơi đổ về đây góp công sức, kể cả những người dân tộc thiểu số sống ở
vùng núi.
Chùa còn là điểm tham quan hấp dẫn của thành phố Chiang Mai, ngoài
việc thưởng ngoạn, viếng bái Phật, chùa còn là nơi có thể phóng tầm mắt
ngắm nhìn toàn thể thành phố Chiang Mai từ trên cao từ núi Doi Suthep.
4.CHÙA WAT RATCHANADDARAM
Wat Ratchanaddaram (tiếng Thái: วัดราชนัดดาราม , tiếng Việt: Chùa Ra- cha -nách -đa -ram)
là một ngôi chùa khá lớn nằm ngay giao lộ Ratchadamnoen Klang và
Mahachak Road, thuộc quận Phra Nakhon, Bangkok. Ngôi chùa này được xây
dựng vào năm 1846 theo lệnh của vua NangKlao, tức vua Rama III.
Nét đặc sắc nhất của chùa
Đằng sau Wat Ratchanaddaram có một kiến trúc đặc sắc và gây chú ý tại
Bangkok, đó chính là Loha Prasad. Đài kỷ niệm này do hoàng đế Rama III
xây dựng, một cao ốc có mái nhiều tầng chồng lên nhau, rập theo mô hình
kiến trúc tại Sri Lanka. Đền kỷ niệm vươn cao 36 m, những chóp nhọn bằng
thép bao phủ những tháp tua tủa lên không trung, mệnh danh là tháp kim
lọai. Có tất cả 37 tháp.
Đền kỷ niệm có tiếng tăm ấn tượng nhất trong vùng là PhuKhaoThung,
còn gọi là Núi Vàng. Đền kỷ niệm cao tới 78 m, chóp đỉnh kề thang gác
318 bậc quanh chân ngọn đồi. Tại đây trưng bày nhiều di vật của đức Phật
do Phó vương Ấn Độ tên là Lord Curzon trao cho quốc vương Chulalongkorn
vào năm 1877.
5. CHÙA WAT TRAIMIT - Chùa Phật Vàng
Wat Traimit (tiếng Thái:วัดไตรมิตร), còn có tên tiếng Việt là Chùa Phật Vàng, là một ngôi chùa nổi tiếng ở Bangkok, Thái Lan nhờ vẻ đẹp độc đáo, lịch sử của nó, và nhờ pho tượng Phật bằng vàng nguyên khối cao 3 mét đúc bằng vàng khối, nặng 5,5 tấn. Người địa phương cho rằng bức tượng lớn nhất thế giới này biểu thị cho sự thịnh vượng và thuần khiết cũng như sức mạnh và quyền năng. Chùa này tọa lạc ở cuối đường Yaowarat, gần ga Hualampong, thuộc quận Samphanthawong.
6. CHÙA WAT BOWONNIWET
Chùa Wat Bowonniwet Vihara (Tiếng Thái:วัดบวรนิเวศวิหาร) là ngôi chùa khá nổi tiếng nằm ở quận Phra Nakhon, Bangkok. Chùa này là trung tâm của phái Thammayut và là ngôi chùa được các triều vua Chakri thường xuyên lui tới. Chùa được xây dựng vào năm 1936, là nơi vua Rama IV lên ngôi và ban hành luật pháp. Hiện nay trong chùa còn phần mộ của vị quốc vương này.
7. CHÙA WAT PATHUM WANARAM
Wat Pathum Wanaram (Tiếng Thái: วัดปทุมวนาราม,phiên
âm kiểu tiếng Việt: Chùa Pa-thum -wa-na-ram) là ngôi chùa nằm ở quận
Pathum Wan , nằm giữa 2 trung tâm thương mại lớn của Bangkokchính là
Siam Paragon và Central world, nằm trên đường Siam Square. Ngôi chùa
được xây dựng vào năm 1857 bởi vua King Mongkut (Rama 4) là nơi tiến
hành các nghi lễ của hoàng tộc ,tôn giáo của vua gần Sa Pathum Palace.
8. CHÙA WAT RAJBOPIT
Wat Rạbopit (tiếng Thái:วัดราชบพิธสถิตมหาสีมารามราชวรวิหาร) là ngôi chùa nằm ở phía Nam của Wat Suthat thuộc quận Phara Nakhon, Bangkok. Ngôi chùa này được xây dựng vào thời vua Rama V (1868-1910 AD). Đây chính là điểm tham quan hấp dẫn của Bangkok cạnh Wat Suthat.
Điểm nổi bật nhất của công trình này chính là những khảm sành sứ 5 màu được khảm trên tháp đựng hài cốt chính. Kiến trúc của gian thờ chính mang phong cách Thái, còn phần trang trí nội thất lại có hơi hướng chịu ảnh hưởng của trường phái Châu Âu với một số chi tiết Gô-tích. Đặc biệt nhất và ấn tượng nhất vẫn là những mảng khảm trai trang nhã và những bức phù điêu tinh tế trên các tấm cửa sổ và cửa ra vào của gian thờ chính.
9. CHÙA WAT SUTHAT
Chùa Wat Suthat Thepwararam (tiếng Thái Lan: วัดสุทัศน์เทพวราราม) nằm trên đại lộ Bamrung Muang ở thủ đô Bangkok.
Chùa xây dựng năm 1807 do hoàng đế Rama I xây dựng và kéo dài tới
triều đại Rama III mới hoàn tất. Chùa lưu giữ nhiều tượng Phật mạ vàng
nhất và là ngôi chùa cao nhất tại Bangkok.
Toàn bộ khuôn viên chùa được lát bằng đá hoa cương sạch sẽ và bóng
lộn. Tượng thờ chính trong gian chính điện là bức tượng Phật mạ vàng (Phra Sisakayamuni) cổ nhất và là bức tượng Phật mạ vàng lớn nhất tại Thái Lan nặng 5,5 tấn.
Tòa thư viện sau chùa được xem là to nhất và là đẹp nhất trong loại
này tại Thái Lan. Thư viện này cao 72 m với 68 cây cột bao quanh. Bên
trong tòa nhà có bức tượng Phật tọa thiền bằng đồng mạ vàng
(PhraPutatrilokachet) khá sắc sảo cao 8,45 m và và bề ngang là 5,2m.
10. CHÙA WAT YAN NAWA
Wat Yan Nawa (Tiếng Thái: วัดยานนาวา, Tiếng Việt: Chùa Thuyền ) là ngôi chùa nằm ở đường Charoen Krung thuộc quận Sathon, Bangkok. Đây là ngôi chùa độc nhất vô nhị vì nó được xây dựng theo hình dáng một con thuyền được xây dựng bởi vua Rama III. Hình dáng chùa được xây dựng theo kiểu kiến trúc hình dáng con thuyền của người Trung Hoa cùng với kiến trúc Thái là các chedi cao vút mang đậm phong cách thời Ayuthaya. Đồng thời ngôi chùa còn là nơi lưu giữ nhiều xá lợi nhất.
Ngoài 10 cảnh chùa nêu trên Thái Lan còn rất nhiều ngôi chùa nổi tiếng khác.
Tìm kiếm trên Google:
- ngoi den noi tieng o thai lan
- hinh nen nguoi dep thai lan
- chùa thái lan
- hinh nen ngoi chua chu
- ung ngi chua dep nhat
- den chua o thai lan
- nhung ngoi chua dep
- nhung ngoi chua o thai lan
- nhung ngoi chua dep nhat thai lan
- nhung canh chua dep
Ý nghĩa các thủ ấn trong tượng Phật ở Thái Lan
Phật giáo hình thành ở Ấn Độ hơn hai ngàn năm trước đây. Từ Ấn Độ, Phật
giáo được truyền bá khắp nơi trên thế giới. Văn hóa Phật giáo được các
quốc gia hấp thu một cách uyển chuyển không hề áp đặt một cách cứng
nhắc. Vì vậy, Phật giáo Thái Lan không giống với Phật giáo Ấn Độ. Điều
này thể hiện rõ ở các thủ ấn (cử chỉ của tay) trên các pho tượng Phật ở
Thái Lan.
Phật giáo hình thành ở Ấn Độ hơn hai ngàn năm trước đây. Từ Ấn Độ, Phật
giáo được truyền bá khắp nơi trên thế giới. Văn hóa Phật giáo được các
quốc gia hấp thu một cách uyển chuyển không hề áp đặt một cách cứng
nhắc. Vì vậy, Phật giáo Thái Lan không giống với Phật giáo Ấn Độ. Điều
này thể hiện rõ ở các thủ ấn (cử chỉ của tay) trên các pho tượng Phật ở
Thái Lan. Có rất nhiều các thủ ấn khác nhau, nhưng có một thủ ấn rất đặc
biệt ở Thái Lan đó là thủ ấn tượng Phật nằm. Ngoài thủ ấn này, còn có 6
thủ ấn chính khác nữa ở tượng Phật Thái Lan.
1. Thiền ấn (pang sa-maa-ti hay dhyana mudra)
Cử chỉ này thường thấy ở các tượng Phật ngồi. Lòng bàn tay Phật ngửa lên đặt ngay ngắn trong lòng. Tư thế này cho thấy Phật đang tập trung tinh thần nhiếp phục thân tâm.
2. Thí vô úy ấn (pang bpra-taan a-pi hay abhaya mudra)
Khi bàn tay Phật thể hiện động tác này cho thấy Đức Phật không hề sợ hãi trước một kẻ thù hay nghịch cảnh. Tư thế này thường thấy ở cả tượng Phật đứng và tượng Phật ngồi. Có hai biến thể. Một trong các biến thể là cánh tay cong ở cả cổ tay và khuỷu tay. Các ngón tay chỉ lên trên và lòng bàn tay hướng ra ngoài. Trường hợp nếu là cánh tay phải thì có nghĩa là điều phục thú dữ. Nếu là cả hai tay thì có nghĩa là nghiêm cấm thân nhân.
3. Thí nguyện ấn (pang bpra-taa pon hay varada mudra)
Tay phải của Đức Phật chỉ xuống với lòng bàn tay phải hướng về phía trước và các ngón tay mở rộng. Tư thế này thường được thấy trên tượng Phật đứng khi đang cho hoặc nhận của bố thí.
4. Xúc địa ấn ( pang maa-ra-wi-chai hay bhumisparsa mudra)
Trong nghệ thuật tượng Phật Thái tư thế này được gọi là Đức Phật điều phục Mara (Ma vương). Mara là một con quỷ cám dỗ Đức Phật. Tay phải của Phật được đặt trên cẳng chân trong trạng thái chạm vào Trái đất, đôi khi chỉ là tượng trưng. Đây là tư thế thường thấy nhất.
5. Chuyển pháp luân ấn (dharmacakrapravartana mudra)
Ngón tay trỏ và ngón tay cái của mỗi bàn tay chạm vào nhau. Các ngón của bàn tay trái chạm vào lòng bàn tay phải. Đây là một tư thế rất hiếm gặp. Tư thế này nói lên việc Đức Phật chuyển bánh xe pháp với bài pháp đầu tiên của mình.
6. Giáo hóa ấn (vitarka mudra)
Ngón tay cái và ngón tay trỏ, thường là ở bàn tay phải chạm vào nhau, các ngón còn lại hướng lên trên. Cánh tay cong nơi khuỷu tay và cổ tay. Điều này được xem như lời kêu gọi hòa bình. Đức Phật đang nhằm kêu gọi mọi người hãy giải quyết các vấn đề thông qua tư duy lôgic và lý luận.
THÁNH TÍCH PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ
Những địa danh này đã lôi cuốn không biết bao nhiêu
khách thập phương đến chiêm bái, và nhiều ngôi đền, tháp, bia ký cũng
được xây dựng chung quanh những thánh địa này. Tuy nhiên, trong thời kỳ
đạo Phật suy tàn tại Ấn Độ, một vài thánh địa đã bị hoang phế tàn rụi
theo cát bụi và thời gian.
Lời giới thiệu:
Thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên là thế kỷ hoàng kim của các tôn
giáo Á Đông. Những biến cố mang tính cách lịch sử vĩ đại đã lần
lượt xảy ra tại các nước Đông Phương: Khổng Tử và Lão Tử tại
Trung Hoa, Zoroaster tại Iran (Ba Tư), Mahavira và Đức Phật Thích Ca
tại Ấn Độ.
Trong vùng lốc xoáy tôn giáo đó, đaọ Phật do Đức Thích Ca sáng
lập, đã đứng vững và tiếp tục lớn mạnh như một ngọn đuốc sáng để
đáp ứng nhu cầu tâm linh của loài người. Đaọ Phật đã đem đến cho
con người một đời sống tâm linh hoàn hảo. Lẽ dĩ nhiên, đaọ Phật
cũng không thoát ra ngoài qui luật chung của vũ trụ "thành, trụ,
hoại, không," và cũng đã trãi qua không biết bao nhiêu biến cố thăng
trầm của lịch sử các dân tộc và tôn giáo; nhưng đạo Phật vẫn tồn
tại và còn tồn tại mãi trong dòng sinh mệnh của các đất nước đạo
Phật đã đi qua và để lại dấu ấn.
Nói đến đạo Phật, thiết tưởng chúng ta phải nhắc đến vị giáo chủ đã sáng lập ra tôn giáo đó.
Vào thế kỷ thứ 6, năm 566 trước Công Nguyên, tại thành Ca Tỳ
La Vệ (Kapilavatsu) của một tiểu vương quốc tại Ấn Độ, Thái tử
Tất Đạt Đa (Siddhartha) đã giáng sanh trong sự chờ đón trọng thể
huy hoàng của hoàng gia và dân chúng. Thái tử là con của đức vua
Tịnh Phạn (Sudhodana) và hoàng hậu Ma Gia (Mayadevi). Thái tử ra đời
tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), gần sát biên giới Nepal và Ấn Độ.
Một đạo sĩ đã tiên đoán rằng "Thái tử, hoặc sẽ trở thành một
đaị vương cai trị tứ châu thiên hạ, hoặc sẽ xuất gia tu hành đắc
quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác." Vua cha nghe vậy, vội tìm
đủ mọi cách ngăn chận. Nhưng những phương cách đó đều vô hiệu,
ngay cả người vợ tài sắc của Thái tử là công nương Da Du Đà La
(Yasodhara) và đưá con mới chào đời La Hầu La (Rahula) cũng không thể
dẹp tan được ý nghĩ thoát ly mọi ràng buộc thế tục của Thái tử.
Thái tử đã nhìn thấy được cảnh sanh, lão, bệnh, tử của con người,
đã hiểu rõ sự vô thường thay đổi của vạn hữu hàm linh và Thái tử
muốn đi tìm phương pháp giải thoát khổ đau cho chính mình và
nhân loại. Không lâu sau đó, Thái tử đã thoát ly hoàng cung, rời
xa mái ấm gia đình, dấn thân vào cát bụi.
Sau 11 năm tầm sư học đaọ, khổ hạnh đủ mùi, tham bái cầu đạo
với nhiều danh sư, Bồ Tát Tất Đạt Đa vẫn không thấy thoả mãn.
Ngài nhận thấy phương cách tu tập, lý thuyết của các đạo sư vẫn
tiêu cực bế tắc. Ngài liền bỏ lối tu tập đó và một mình một bóng
đến ngồi tham thiền bên bờ sông Ni Liên Thiền (Uruvila). Qua 49
ngày đêm nhập định, Bồ Tát Tất Đạt Đa hoát nhiên đại ngộ, chứng thành
quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tôn hiệu là Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni. Sau khi chứng đắc chân lý, Đức Phật đã đến gặp năm
anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển. Bài thuyết pháp đầu tiên
của Đức Phật nói về pháp Tứ Đế được gọi là Chuyển Pháp Luân
(Dhamma - Chakrapravartana). Giáo lý Tứ Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo)
xuyên suốt Bát Thánh Đạo hay Bát Chánh Đạo (Chánh Kiến, Chánh Tư
Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh
Định, Chánh Niệm) đã hướng dẫn bao nhiêu người giải thoát từ dòng
sông đau khổ đến bến bờ cực lạc hạnh phúc.
Suốt 45 năm, Đức Phật và hàng đại đệ tử của Ngài đã đi khắp
lãnh thổ Ấn Độ, từ bờ sông Hằng đến những làng quê hẻo lánh, cốt
yếu để truyền bá chánh pháp giải thoát lầm mê cho chúng sanh. Ánh sáng
đạo Phật truyền đến đâu thì bóng tối vô minh tan đến đó. Hàng triệu
triệu người đã tìm thấy hạnh phúc và giải thoát. Đức Phật nhập
diệt tại thành Câu Thi Na (Kusinagara) năm 486 trước Công Nguyên. Năm
ấy, Ngài được 80 tuổi.
Đạo Phật đã phát triển rực rỡ tại Ấn Độ, nhất là tại thành Câu
Xá La (Kosala) và Ma Kiệt Đà (Magadha) còn được gọi là trung tâm
Phật Giáo. Nhưng sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 200 năm, đạo
Phật cũng theo những biến cố lịch sử mà có nhiều thăng trầm thay
đổi. Trong những biến cố lịch sử đó, trận chiến thảm khốc với
quân Kalinga của vua A Dục (Asoka) là bước ngoặt nổi tiếng trong lịch sử
Phật Giáo Ấn Độ.
Vua A Dục đã rùng mình tỉnh giấc mộng đế vương khi nhìn xác
người ngựa đẫm máu nằm chết la liệt ở chiến trường. Hình ảnh đẫm máu đó
đã khích động mãnh liệt lòng vị vua bạo tàn đó, khiến ông ta
hối hận đã gây ra cảnh tương tàn hủy diệt sanh linh. Từ đó, A
Dục Vương đã chuyển hoá tâm hồn, tìm hiểu đạo Phật và qua giáo lý, A
Dục Vương đã thuần hoá từ từ trở thành một vị vua nhân đức nhất
của lịch sử Ấn Độ.
Những thánh tích Phật Giáo còn sót lại trên lãnh thổ Ấn Độ đều
có dấu ấn trùng tu lại của vua A Dục; nhờ thế mà ngày nay chúng
ta có thể học và hiểu rõ thêm về những di tích lịch sử Phật Giáo
qua những bia ký và thánh địa.
Những Thánh Địa
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã để lại dấu chân Ngài trên toàn
lãnh thổ Ấn và hình bóng Ngài đã khắc sâu trong tâm tư nhân loại.
Trong thời kỳ chánh pháp hưng thịnh, các địa danh quan trọng đều
được nhắc tới. Bốn thánh địa nổi tiếng của Phật Giáo nói riêng
và của Ấn Độ nói chung là: Vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) nơi Đức Phật
giáng sanh, Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh-Gaya) nơi Đức Phật thành đạo, Lộc Uyển
(Sarnath) nơi Đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên, và Câu Thi Na
(Kusinagara) nơi Đức Phật nhập diệt.
Bốn địa danh quan trọng khác cũng được đề cập đến trong lịch
sử Phật Giáo là bốn nơi Đức Phật đã thi triển thần thông để giáo
hoá điều phục chúng sanh. Những địa danh đó là: Sravasti (thủ phủ của
Kosala) nơi Đức Phật đã thi triển thần thông điều phục Ca Diếp
(Puruna Kasyapa), người lãnh đạo phái Tirthika (đạo thờ thần
lửa). Nơi thứ hai là Sankasya, Đức Phật đã lên tầng trời thứ 33
để giáo hoá cho hoàng hậu Ma Gia (mẫu thân của Ngài). Nơi thứ ba
là Rajagriha (thủ phủ của Ma Kiệt Đà), nơi đây Đức Phật đã điều
phục con voi say do Đề Bà Đạt Đa sai khiến ra giết Đức Phật. Nơi thứ
tư là Vệ Sá Ly (Vaisali), nơi đây Đức Phật đã thọ dụng bát mật ong
do đàn khỉ dâng cúng.
Những địa danh nổi tiếng này và những biến cố trong cuộc đời
Đức Phật đã là đề tài cho hàng ngàn tác phẩm nghệ thuật Phật Giáo
từ xưa cho đến nay.
Những địa danh này đã lôi cuốn không biết bao nhiêu khách thập
phương đến chiêm bái, và nhiều ngôi đền, tháp, bia ký cũng được
xây dựng chung quanh những thánh địa này. Tuy nhiên, trong thời
kỳ đạo Phật suy tàn tại Ấn Độ, một vài thánh địa đã bị hoang phế tàn
rụi theo cát bụi và thời gian.
Ngày nay, các nhà khảo cổ Ấn Độ đang trên đường khai quật lại di tích và trùng tu lại các thánh địa.
Thánh địa thứ nhất:
Lâm Tỳ Ni (Lumbini)
Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi Đức Phật giáng sanh, là một thánh địa
ở vùng Rummindei, cách một dặm về phía Bắc vùng Paderia và hai
dặm phía Bắc vùng Bhagwanpur nước Nepal. Ngày nay các nhà khảo cổ
xác định Lâm Tỳ Ni nằm về phía Bắc quận Basti của xứ Uttar
Pradesh.
Theo tài liệu sử Phật Giáo, Lâm Tỳ Ni tọa lạc cách thành Ca Tỳ
La Vệ (Kapilavastu) 12 dặm. Sử chép rằng, "Theo tục lệ, Hoàng
Hậu Ma Gia phải trở về quê mẹ để sanh nở. Khi đến động hoa Lâm Tỳ
Ni, bà cảm thấy trong người sảng khoái lạ thường. Cảnh vật xinh
đẹp tươi mát chào đón, chim muông hót ríu rít trên cây, gió hiu
hiu thổi làm tâm hồn người dịu êm nhẹ nhàng, Hoàng Hậu thong thả dạo
bước ngắm nhìn thưởng thức cảnh trí thiên nhiên.
Khi đến tàng cây Sa La, Hoàng Hậu dơ tay vịn cành hoa sà thấp
trước mặt và kỳ lạ thay, Thái tử giáng trần trong tư thế đứng của
người mẹ. Chư Thiên tung hoa chào đón, bẩy con rồng phun nước
thơm tắm rửa Thái tử và Thái tử đi 7 bước dõng dạc tuyên bố rằng:
"Ta là đấng Vô Thượng Đạo Sư của Trời Người." (Thiên thượng
thiên hạ, duy Ngã độc tôn). Từ vườn Lâm Tỳ Ni, Thái tử được các cung
nô hầu hạ trở về thành Ca Tỳ La Vệ.
Quang cảnh giáng sanh của Thái tử Tất Đạt Đa là đề tài cho
hàng ngàn tác phẩm nghệ thuật Ấn mà ngày nay người ta đã tìm thấy
trong điêu khắc và tranh vẽ.
Nhận dạng được địa danh của Lâm Tỳ Ni, thiết tưởng chúng ta
phải nhớ đến công ơn của vua A Dục. Hai mươi năm sau ngày đăng
quang lên ngôi hoàng đế, Vua A Dục đã đích thân đi chiêm bái
đãnh lễ các thánh địa và chính Vua đã sai người đúc một cột trụ khắc
lên dòng chữ "Địa danh này là nơi Đức Phật giáng sanh." Vua A Dục
cũng đã giảm 5% thuế hằng năm cho dân chúng vùng này. Đó là một
đặc ân của vua A Dục đối với dân cư địa phương nơi Đức Phật giáng
sanh. Bên cạnh cột trụ này, người ta còn thấy một ngôi đền xưa cũ khắc
chạm hình ảnh quang cảnh giáng sanh của Đức Phật.
Lâm Tỳ Ni đã trở thành một thánh địa quan trọng hàng đầu đối
với người Phật tử. Ngàn năm trước, những du tăng Trung Quốc đều
lần lượt viếng thăm Lâm Tỳ Ni. Chung quanh cột trụ do vua A Dục
sai đúc, các vị du tăng cũng đã tự đắp lấy những bia đá lớn nhỏ
đánh dấu những cuộc viếng thăm cúng dường. Về sau, chính phủ Nepal
ra lệnh khai quật vùng này để tìm thêm tài liệu chứng cứ.
Thánh địa thứ hai:
Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh-Gaya)
Thánh địa nổi tiếng thứ hai trong lịch sử Phật Giáo là Bồ Đề
Đạo tràng, nơi Đức Phật thành đạo. Nơi đây Đức Phật đã tọa thiền
suốt 49 ngày đêm dưới tàng cây pipala, bên cạnh dòng sông Ni Liên
Thiền. Vì hiện tượng bất diệt đó, địa danh này đã trở thành Bồ
Đề Đạo Tràng, và cây cổ thụ pipala được đặt tên là cây Bồ Đề (có
nghĩa là "giác ngộ, bodhi tree").
Có thể nói, Bồ Đề Đạo Tràng đã trở thành một cái nôi của lịch
sử văn hoá Phật Giáo và các đệ tử Phật đều ao ước được ít nhất
một lần đến chiêm bái nơi này. Tòa cỏ Đức Phật ngồi thiền, cây Bồ
Đề đều được chăm sóc kỹ lưỡng. Những bia tháp và những cột đá
lớn nhỏ chung quanh Bồ Đề Đạo Tràng, do các du tăng Ấn Độ, Trung
Quốc và các nước khác tự đắp lấy cúng dường khi đến chiêm bái thánh địa
này, và tài liệu ghi chép của ngài Tam Tạng Huyền Trang, đã cho
chúng ta hình dung ra được quang cảnh sầm uất rực rỡ của địa danh
này trong quá khứ hơn 2500 năm trước. Cây Bồ Đề bây giờ là cây
cháu cây chắt của hàng ngàn cây Bồ Đề gốc, nhưng cành lá vẫn xum
xuê, thân cây to lớn rắn chắc.
Chính ngài Alexander Cunningham và một số các nhà bác học khác
là những người đầu tiên khai quật những bia ký và cột trụ tại Bồ
Đề Đạo Tràng này. Đại tháp Bồ Đề đã được trùng tu lại nhiều lần
với một kinh phí rất to lớn. Vua A Dục cũng đã xây dựng một ngôi
đền tại thánh địa này. Ngôi đền do vua A Dục xây đã được miêu tả
nhiều trong nghệ thuật Ấn; tuy nhiên di tích của ngôi đền này đã
không còn tìm thấy dấu vết nữa.
Ngôi đại tháp Bồ Đề chúng ta thấy hiện nay là ngôi tháp mới
được trùng tu lại sau này. Theo sự miêu tả của ngài Tam Tạng
Huyền Trang thì đại tháp Bồ Đề đã được xây dựng từ thế kỷ thứ 7
sau Công Nguyên theo mô hình của một đại bảo tháp tại Miến Điện (Burma).
Hiện nay, ngôi đại bảo tháp tại Bồ Đề Đạo Tràng cao gần 160
bộ và xây theo hình tứ giác. Trên đỉnh là một ngọn tháp nhọn.
Trong tháp, người ta khắc chạm hình tượng Đức Phật thành đạo. Phiá Bắc
của ngôi tháp là một con đường hẹp cách mặt đất 4 bộ.
Người ta
miêu tả đó là con đường nhỏ mà Đức Phật, sau khi thành đạo, đã đi thiền
hành qua lại trên con đường này. Ngoài ra, lại còn có nhiều hình
hoa sen được chạm trỗ trên con đường đó vì người ta tin rằng
mỗi bước chân Đức Phật đi đều có hoa sen nở tung ra đến đó.
Người ta còn thấy một mảng đá cát đỏ cạnh cây Bồ Đề, tượng trưng
cho đệm cỏ mà hơn 2540 năm trước, Đức Phật đã ngồi và chứng
đạo. Còn rất nhiều những kiến trúc chạm trỗ khác khắc ghi lại
hình ảnh của Đức Phật và các đại đệ tử, các Phạm Thiên. Những
kiến trúc thẩm mỹ đó đã hấp dẫn hàng triệu người đến chiêm bái Bồ
Đề Đạo Tràng mỗi năm càng ngày càng đông, tạo nên một luồng
sóng du lịch khổng lồ về quê Đức Phật giúp cho nền tài chánh quốc phòng
Ấn thêm một phần lợi tức đáng kể.
Thánh Địa thứ ba:
Sarnath
Một thánh địa đáng ghi nhớ nữa trong lịch sử Phật Giáo là
thánh địa Isipitana hay Sarnath. Nơi đây, trong sự tĩnh lặng của
vườn Lộc Uyển, Đức Phật đã khai giảng bài pháp đầu tiên cho 5 anh
em ông Kiều Trần Như trước kia cùng tu khổ hạnh với Ngài. Nội
dung bài thuyết pháp nói về những khổ đau của kiếp người và những phương
cách giải hóa những thống khổ đó. Sự kiện này đã được mệnh danh
là "Chuyển Pháp Luân," có nghĩa là Đức Phật chuyển bánh xe pháp
đầu tiên đánh dấu một kỷ nguyên huy hòang rực rỡ của một tôn giáo
kéo dài bền vững trên 2500 năm cho đến nay.
Sarnath là nơi xuất phát tôn giáo do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
sáng lập. Vì thế, Sarnath đã trở thành trung tâm Phật giáo lớn
nhất tồn tại trên 1500 năm. Trong những thế kỷ đầu tiên của thời
kỳ Phật giáo hưng thịnh, dưới triều đại vua A Dục, Sarnath đã
trở thành một nơi tranh luận nổi tiếng giữa các tông phái và đạo giáo.
Hai ngài Pháp Hiền và Trần Huyền Trang đã đến chiêm bái thánh tích này
vào thế kỷ thứ 5 và thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên. Hai ngài đã để
lại cho chúng ta nhiều tài liệu giá trị về lịch sử thánh địa
này. Nơi đây, vua A Dục cũng đã sai người xây dựng một cột trụ
đánh dấu khu vực ẩn cư trong nhiều tòa nhà lớn nhỏ khác nhau của
hơn 1500 vị tăng sĩ Phật giáo đến Sarnath. Trong những di tích
còn sót lại đó, người ta phải nhắc đến một ngôi đền tuyệt mỹ có
tượng Phật bằng đồng trong hình tướng chuyển Pháp luân, một ngôi
cổ tháp và một cột trụ bằng đá. Tất cả đều do vua A Dục xây
dựng. Thánh địa này đã phát triển rực rỡ trong nhiều triều đại
và cũng đã được trùng tu lại nhiều lần. Theo bia ký và những
chứng cứ khảo cổ, người ta biết rằng ngôi đền có tượng Đức Phật
Chuyển Pháp Luân đã được trùng tu lại theo lệnh của hòang hậu
Kumaradevi vào phân nửa đầu thế kỷ thứ 12 trước Công nguyên.
Chẳng bao lâu sau, địa danh này bị quân đội của Muhammad Ghori,
của đạo quân Huns và Mahmud Ghazni phá hủy hòan tòan, nhưng
Sarnath lại được trùng tu do công sức của các tín đồ Tăng Ni
Phật giáo khắp nơi. Tuy nhiên về sau, vì đạo Phật đã suy tàn tại
Ấn Độ, Sarnath, một địa danh lịch sử nổi tiếng và huy hòang một
thời đã bị tiêu hủy mất dấu trong đổ nát hoang tàn của cát bụi thời
gian.
Ngày nay, viện khảo cổ Ấn đã tổn phí sức lực và tài chánh
thật nhiều trong công cuộc khai quật và trùng tu lại thánh địa
Sarnath. Khi chúng ta đến Sarnath từ hướng Varanasi, chúng ta sẽ
thấy một mặt phẳng bát giác bằng gạch nung nhô lên khỏi mặt đất. Mặt
phẳng này là di tích còn sót lại của một ngôi tháp trước kia đánh dấu
nơi Đức Phật đến gặp 5 anh em ông Kiều Trần Như. Ngôi tháp bát
giác này được trùng tu lần sau cùng bởi tiểu vương Akbar năm
1588, thuộc triều đại Gupta.
Trong số những di tích tàn rụi còn sót lại không bị các đạo
quân tàn phá là ngôi tháp Dhamekh cao hơn mặt đất 150 bộ. Ngôi tháp này
được xây cất bằng nguyên liệu bền cứng, những khối đá khổng lồ
bằng gạch và mang hình dáng cột trụ. Những hình tượng khắc trên
mặt tháp cho chúng ta biết ngôi tháp Dhamekh được xây vào triều đại
Gupta thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. Danh từ "Dhamekh" phát xuất
từ nguyên từ Phạn ngữ "Dharmekh - chánh pháp". Cách ngôi tháp
này không xa về hướng Tây là một ngôi tháp nhỏ do vua A Dục xây
cất. Tháp vua A Dục xây, theo lời miêu tả của ngài Trần Huyền
Trang, có thể là nơi Đức Phật tọa thiền thuyết pháp cho 5 anh em
Kiều Trần Như. Xa hơn một tí về phía Bắc, là một côt trụ hình
đầu sư tử được khắc chạm rất công phu. Cột trụ sư tử này hiện nay được
trưng bày tại viện bảo tàng khảo cổ gần đó. Tại ngôi tháp này,
chúng ta còn thấy sót lại những mảnh đá lớn của nền nhà chánh
điện và những cột lớn nhỏ của một cổng chính dẫn lối vào chánh
điện ngôi tháp. Ngòai ra, chúng ta còn thấy rất nhiều mãnh vỡ
của các tượng Phật và Bồ tát mang dấu ấn điêu khắc của nhiều triều đại
khác nhau. Một bức tượng Phật đẹp nhất tạc bằng đá cát khắc hình
Đức Phật Chuyển Pháp Luân là bức tượng tuyệt mỹ mang dấu nghệ
thuật điêu khắc triều đại Gupta.
Tất cả những bức tượng điêu khắc vào thời đại này đều khắc
theo tám biến cố lịch sử của cuộc đời Đức Phật như Đức Phật giáng
sanh, thành đạo, chuyển Pháp luân, nhập Niết bàn, thi triển thần
thông, v.v. Đáng kể nữa là một bức tàn lọng bằng đá khắc trọn
vẹn bài pháp Tứ Đế bằng tiếng cổ Pàli.
Dù đã bị tàn phá nhiều theo thời gian, Sarnath vẫn còn hấp dẫn
du khách tìm về Ấn Độ để tưởng nhớ lại hình ảnh Đức Từ Phụ và
giáo âm của Ngài vẫn vang vọng bất diệt trong lòng người con
Phật.
Thánh địa thứ tư:
Kusinagara
Kusinagara hay Kusinara (Câu Thi na) là nơi Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni đã thâu thần tịch diệt năm Ngài 80 tuổi dưới hai tàng cây
Sa La. Địa danh này sau được các nhà khảo cổ nhận dạng là Kasia ở
quận Deoria của xứ Utta Pradesh.
Giống như các thánh địa khác liên quan đến những biến cố lịch
sử đời Đức Phật, Kusinagara đã trở thành một thánh địa quan trọng
để các Phật tử đến chiêm bái đãnh lễ.
Vào thời điểm đó, hàng ngàn tự viện và bảo tháp đã được xây
dựng lên chung quanh thánh địa này. Tuy nhiên, không rõ vì lý do
gì, có thể bị đạo quân Hồi giáo phá hủy hay do thời gian phai tàn
xóa dấu mà thánh địa này đã bị hoang phế tàn rụi. Hai ngài Pháp
Hiền và Huyền Trang, khi đến chiêm bái thánh địa này, cũng phải thốt
lên lời ta thán bi thiết khi nhìn cảnh vật hoang liêu đổ nát của
Kusinagara.
Qua những cuộc khai quật để tìm lại dấu vết, người ta đào được
một số những mảnh vỡ vụn của các tượng Phật, những cột trụ loang
lỗ. Tuy nhiên, căn cứ trên những dấu hiệu của các di tích còn
sót lại đó và những bia ký thì chắc chắn nơi đây là thánh địa
nhập Niết bàn của Đức Phật. Ngôi tháp Đại Bát Niết Bàn mà vua A Dục
xây cất cũng không có thể tìm thấy được nữa và có thể ngôi tháp này
đã bị chôn vùi dưới nền tinh xá Niết bàn xây dựng ở triều đại
Gupta.
Tượng Phật nhập Niết bàn
Trong số những di tích đó, người ta tìm được một bức tượng Đức
Phật trong tư thế nhập Niết bàn. Bức tượng này cũng bị vỡ vụn và
đã được nhà điêu khắc Carlleyle khéo léo hàn gắn chạm trỗ lại.
Ngôi đại bảo tháp Ramabhar được dựng ngay tại địa điểm làm lễ trà
tỳ kim thân Đức Phật và xá lợi Ngài được phân chia ra làm tám
phần đồng nhau cho tám vương quốc lớn mạnh nhất thời đó.
Nơi trà tỳ kim thân của đức Phật
Hiện nay các nhà khảo cổ vẫn còn tiếp tục công cuộc khai quật
thánh địa Kusinagara, mong sẽ tìm thêm tài liệu chứng cứ hơn nữa
để làm sáng tỏ thêm một địa danh linh thiêng đã được đón nhận kim
thân Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Thánh địa thứ năm:
Sravasti
Sravasti, thủ phủ của vương quốc Kosala ngày xưa, được các
Phật tử tôn sùng vì nơi đây hơn 2540 năm trước, Đức Phật đã thi
triển thần thông giáo hóa các đạo sư thờ thần lửa.
Theo các sử liệu ghi chép lại, Đức Phật đã thi triển các phép
lạ như trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, trên thân ra lửa,
dưới thân ra nước, hay mặt trời mặt trăng chiếu sáng cùng một lúc
trên bầu trời, và nhiều hóa thân của Đức Phật. Những phép lạ đó đã
là đề tài cho nhiều tác phẩm nghệ thuật Ấn từ các thời đại cổ xưa cho
đến nay.
Ngay trong thời Đức Phật, Sravasti đã là một trung tâm Phật
giáo sầm uất phồn thịnh. Chính nơi đây, trưởng giả Cấp Cô Độc đã
rãi vàng mua hết đất vườn hoa của Thái Tử Kỳ Đà để xây dựng tinh
xá cúng dường Đức Phật và chư tăng. Câu chuyện rãi vàng mua đất
của ông Cấp Cô Độc đã khích động mãnh liệt đến các tầng lớp quí
tộc vua chúa, khanh hầu, trưởng giả và đó cũng là đầu đề về lòng sùng
bái tuyệt đối của ông Cấp Cô Độc cũng như các tác phẩm nghệ thuật
Ấn sau này. Càng về sau, nhiều tinh xá, bảo tháp xây cất rải rác chung
quanh địa danh này khiến Sravasti thêm nổi tiếng và phồn vinh.
Các nhà khảo cổ tin rằng Sravasti thuộc địa phương Saheth -
Maheth nằm sát biên giới quận Gonda và Bahraich của xứ Utta -
Pradesh. Nơi đây họ đã tìm thấy vài bia ký liên quan đến tinh xá
Kỳ Viên ở Sravasti.
Địa danh Saheth - Maheth gồm có hai vùng riêng biệt. Vùng lớn
nhất, Maheth, rộng 400 mẫu, ngày xưa là một tỉnh lỵ trù phú.
Saheth thì chỉ rộng có 32 mẫu, nằm độ 0.25 dặm phía Tây Nam của
Kỳ Viên tinh xá. Những cuộc khai quật tại vùng Maheth đã cho
chúng ta biết được rằng xưa kia Maheth là một thành phố rất giàu có
đông đúc. Saheth, tuy nhỏ hơn, nhưng lại nổi tiếng hơn vì nơi đây
Đức Phật đã dừng chân để giáo hóa và còn sót lại nhiều nền nhà của
tinh xá, tự viện, bảo tháp; cho nên đa số các tăng sĩ, du khách
đều ghé tới Saheth để chiêm bái tham quan.
Những di tích trưng bày đó mang dấu hiệu thời đại Mauryan cho
đến những năm đạo Phật bắt đầu suy tàn tại Ấn Độ thế kỷ thứ 12
sau Công nguyên. Tại đây, người ta thấy một ngôi tháp cổ nhất
được xây cất từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, chứa đựng xá lợi Phật
và một tượng đầu Đức Phật tạc ở thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên
thuộc triều đại Bala. Tượng đầu Đức Phật này giờ được trưng bày
tại bảo tàng Ấn Độ ở Calcutta. Hòang hậu Kumaradevi, vợ vua
Govinda-Chandra là người cuối cùng bảo trợ tài chánh kinh phí xây
dựng trùng tu lại Kỳ Viên tinh xá năm 1128-29.
Đạo Phật bây giờ đã suy tàn nhiều tại Ấn Độ và địa danh
Sravasti, một thời nổi tiếng huy hòang trong lịch sử Phật giáo
Ấn, đã bị gót giầy đạo quân Hồi giáo tàn phá thiêu hủy thành bình
địa.
Thánh địa thứ sáu:
Sankasya
Một địa danh thiêng liêng khác có liên quan đến cuộc đời Đức
Phật là Sankasya, nơi Đức Phật thi triển thần thông lên cung trời
Đao Lợi thứ 33 thuyết pháp giáo hóa thân mẫu của Ngài là Hòang
hậu Ma Gia và chư Thiên. Đức Phật đã giảng A Tỳ Đạt Ma Luận trên
cung trời Phạm Thiên. Sự kiện này đã xảy ra sau khi Đức Phật thi
thố phép lạ ở Sravasti.
Sankasya, còn được gọi là Sankisa hay Sanisa Basantapur, thuộc
quận Farrukhabad của Utta Pradesh. Địa phương này được biết xác
thực là nhờ vào bia ký của vua A Dục khắc trên tượng một con voi
đánh dấu thánh địa này.
Không riêng chỉ có hai ngài Pháp Hiền và Huyền Trang đến
chiêm bái thánh địa Sankasya, mà có nhiều tăng sĩ Trung Hoa khác
cũng đến viếng thăm thánh địa này -- nhưng những tài liệu do họ
để lại cũng không còn đầy đủ chứng cứ để xác minh rõ hơn về địa danh
này. Ngôi làng hiện giờ ở thánh địa này nằm trên một ngọn đồi, cao độ
41 bộ và rộng cỡ 1,500 mét vuông. Cách đó về hướng Nam độ 0.25
dặm là một ngôi tháp do hòang hậu Devi ra lệnh xây cất. Rải rác
chung quanh ngọn đồi này là những đống gạch đá vỡ vụn và những di
tích sót lại của cổng thành, đòn ngang, xà nhà, v.v. Những tàn
tích này không đủ dữ kiện để chúng ta xác định lịch sử của thánh
địa Sankasya.
Tượng con voi do vua A Dục sai đúc là di tích quan trọng nhất
đánh dấu địa danh Sankasya và những cuộc khai quật trong tương
lai hy vọng sẽ đem lại cho chúng ta nhiều điều lý thú hơn về
Sankasya.
Hình bức tượng voi ở Sankasya do vua A Dục sai đúc đánh dấu địa danh này
Thánh địa thứ bảy:
Rajagriha
Rajagriha, thủ phủ của vương quốc Ma Kiệt Đà hùng mạnh, có thể
nói rất nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo vì nhiều nguyên do.
Không những Rajagriha là nơi Đức Phật đã dừng chân lại nhiều lần
trong cuộc đời hành đạo của Ngài, mà nơi đây cũng chính là nơi Đề
Bà Đạt Đa (Devadatta), em họ của Đức Phật, đã âm mưu nhiều lần để giết
Ngài. Hơn nữa, tại thủ phủ này, ở động Sattapanni trên ngọn đồi
Vaibhara, Đại Hội Kiết tập lần thứ I đã được tổ chức tại đây dưới
sự chủ tọa của ngài Ưu Bà Li (Upali) và ngài A Nan (Ananda).
Những điểm chính yếu của giáo lý và giới luật của Phật giáo đều
nêu lên trong kỳ Đại Hội Kiết Tập này. Vì thế, Rajagriha đã trở
thành một địa danh nổi tiếng và quan trọng trong sự thành lập và
phát triển Tăng đòan Phật giáo.
Là một thành phố nổi tiếng ngày xưa, Rajagriha bây giờ là một
phố thị trong quận Patna của xứ Bihar, bao bọc chung quanh là
những ngọn đồi núi chập chùng. Rajagriha còn được gọi là
Vaibhara, Vipula, Ratna, Chatha, Udayagiri và Sonagiri. Dưới chân
ngọn đồi về phía Bắc của phố thị Rajagriha ngày xưa là vương quốc của
vua A Xà Thế (Ajatasatru), con vua Bình Sa vương (Bimbisara). Sau
đời vua A Xà Thế, thái tử Udayin kế vị ngai vàng và dời kinh đô
Kusumapura đi nơi khác và đời vị vua kế tiếp là Kalasola lại dời
kinh đô về Pataliputra, do đó Rajagriha dần dần đã mất đi vai trò
quan trọng của nó trong vương quốc. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều
biến đổi thăng trầm trong chính trường và tôn giáo, Rajagriha vẫn
luôn được nhắc đến trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ và lịch sử các
đạo giáo khác.
Những di tích của thành phố cổ xưa Rajagriha còn sót lại rất
ít. Qua những di tích và bia ký vỡ vụn, các nhà khảo cổ tin rằng
thánh địa này đã từng là địa điểm sinh họat của nhiều tôn giáo
khác nhau. Ngay cả động Sattapanni, nơi kiết tập Đại Hội Phật
giáo lần thứ I, cũng mờ dấu vết. Theo kinh điển và sử liệu, động
Sattapanni, nằm về phía Bắc sườn đồi Baibhara và nhà bác học Stein có
lý khi ông cho rằng vị trí động đá này tọa lạc phía Bắc trên một
mảnh đất rất rộng có nhiều hang động nhỏ. Một kiến trúc đặc biệt
đáng kể, Jarasandha Ki Baithak, trên sườn đồi Vaibhara phía Đông,
có những hầm nhà lớn nhỏ không đồng đều nhau, được mô tả là nơi
ẩn cư của Đức Ma Ha Ca Diếp (Mahakasyapa), vị chủ tọa kỳ Đại Hội
Kiết Tập lần thứ I. Về sau, các hang động này đều là chỗ ở của
các đạo sĩ Kỳ Na giáo (Jainism) một thời.
Ngọn núi Gridhrakutta một thời là nơi ẩn cư tu hành của Đức
Phật, nằm gần sát bên thành phố Rajagriha và theo một số dữ kiện
lịch sử cũng như các dân địa phương cư ngụ tại vùng này, thì động
Sonbhandar phía Đông đồi Vaibhara có mỏ vàng chưa khai phá tại đây.
Rajagriha, bây giờ là một thắng cảnh hấp dẫn các du khách trong và ngòai nước đến viếng, không những là địa điểm nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo mà còn là một địa danh có nhiều ngọn suối nóng chữa bệnh và an dưỡng.
Thánh địa thứ tám:
Vaisali (Vệ Xá Ly)
Trong thời Phật giáo hưng thịnh, Vaisali, thành phố của vương
quốc Lichchhavi hùng cường, là cái nôi của nền văn hóa triết
thuyết Phật học.
Đức Phật đã từng dừng chân du thuyết của Ngài 3 lần nơi thành
phố này. Nơi đây Đức Phật đã thọ nhận bát mật ong do đàn khỉ
dâng cúng và nơi đây cũng là địa phận Đức Phật tuyên bố 3 tháng
nữa Ngài sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn. Hơn nữa, Vaisali cũng là nơi
kiết tập Đại Hội Phật Giáo lần II hơn 100 năm sau ngày Thế Tôn nhập
diệt. Đối với tín đồ Kỳ Na giáo, Vaisali cũng là một thánh địa vì Đức
Mahavira, vị đạo sư đời thứ 14 của Kỳ Na giáo ra đời.
Vaisali là một thành phố thuộc quận Muzaffarpur của Bihar. Vào
triều đại Gupta, Vaisali là một thủ phủ phồn vinh náo nhiệt.
Khách thương, tàu bè, hải cảng buôn bán tấp nập. Các cửa tiệm,
nhà băng, công sở, mở cửa suốt ngày đêm. Các kho chứa thóc gạo,
lụa là, v.v. của hòang cung đều đầy ngập. Vaisali, thời đó, đã
gíup cho triều đại Gupta một thế đứng vững vàng trên vũ đài chính
trị cho đến triều đại Mauryan, Vaisali vẫn còn là một thủ đô quan
trọng.
Bảo tháp và trụ đá vua A Dục
Hai ngài Pháp Hiền và Huyền Trang đã đến chiêm bái thánh địa
này. Theo lời của ngài Huyền Trang, Vaisali chỉ rộng cỡ 10, 12
dặm vuông. Chung quanh Vaisali có vô số những tháp, bia đá không
biết cơ man nào mà kể. Nhưng thời gian đã tàn nhẫn xóa sạch những
di tích ấy và chỉ còn sót lại ở khu Kolhua, cách 2 dặm về phía
Tây Bắc thành phố Raja Bisal Ka Garh, một trụ đá tạc tượng sư tử cao hơn
mặt đất 22 bộ.
Trụ đá sư tử này có vẻ giống các trụ đá vua A Dục sai xây đắp
nhưng không có một bút tích hay bia ký nào cho chúng ta xác định
rõ trụ đá này thuộc thời đại vua A Dục cả. Gần trụ đá này, về
phía Nam, có một hồ nước nhỏ, mà tương truyền rằng đó là vũng nước
mà hàng 2000 năm xưa, đàn khỉ đã đào để lấy nước dâng Đức Phật uống
mỗi ngày. Vì thế, hồ nước này có tên gọi là Rama-Kund hay là
Markata-Hraka, có nghĩa là "hồ nước của lòai khỉ." Về phía Tây Bắc,
một nền đất của một ngôi đền còn sót lại. Ngôi đền này ngày xưa
được vua A Dục sai xây cất bằng gạch nung và một ngôi tháp có dấu
hiệu vua A Dục xây còn sót lại trên mảnh đất hoang sơ một thời
trù phú và quan trọng này.
Thời gian đã làm phai mờ và rụi tàn bao nhiêu đền đài, bảo
tháp, nhưng những thánh địa Phật Giáo vẫn luôn luôn là quê hương
tìm về của những người con Phật.
Những Địa Danh Quan Trọng
Trong thời kỳ Phật giáo phát triển và hưng thịnh, ngoài những
thánh địa linh thiêng liên quan đến cuộc đời Đức Phật, những địa
danh quan trọng trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ như Sanchi, Nalanda
cũng góp phần không nhỏ cho sự huy hòang của Chánh Pháp.
Những tự viện, tinh xá ở Gandhara, Taxila, Purushapura, West
Pakistan, East Pakistan đều là những trung tâm văn hóa Phật giáo.
Ngòai những nét thẩm mỹ và kiến trúc độc đáo ra, các trung tâm
văn hóa Phât giáo này còn là nơi xuất phát những anh kiệt của
Phật giáo tạo nên những cuộc tranh luận triết lý văn học rất sôi nổi
phấn khởi hào hùng; tiêu biểu là trung tâm Phật giáo Sanchi,
Nalanda, Ajanta và Ellora.
Những địa danh này, cũng theo qui luật vô thường của vạn vật
mà biến thiên dời đổi. Những di tích còn sót lại đó không đủ đem
lại ánh sáng rọi vào quá khứ vàng son của những địa danh này. Tuy
nhiên, dù đã mờ nhạt đi trong lịch sử, những địa danh quan trọng
này vẫn còn đủ sức hấp dẫn những học giả, tăng ni, tín đồ Phật giáo
nối gót nhau lần dò về những miền xa xôi hẻo lánh để tìm lại một
chút dư âm thời cực thịnh của Phật Giáo Ấn Độ.
Sanchi
Sanchi là một trong những địa danh nổi tiếng quan trọng của
lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Địa danh này không có chút liên quan đến
cuộc đời Đức Phật, nhưng Sanchi là một trung tâm văn hóa Phật
giáo rất nổi tiếng và phồn thịnh thời Phật giáo cực thịnh. Theo
sử liệu và văn chương truyền thuyết Phật gíao, Sanchi là nơi hội
tụ các tinh hoa nghệ thuật của Ấn Độ, và có thể nói, Sanchi là
tác phẩm kiến trúc, điêu khắc tuyệt mỹ nhất của nước Ấn.
Theo sử liệuTích Lan, vua A Dục đã cưới con gái một thương
buôn giầu có và hạ sanh được một thái tử đặt tên là Mahinda. Thái
tử Mahinda là một người mộ đạo Phật và rất được Vua Cha và Hòang
Mẫu thương yêu. Khi vua A Dục già yếu, ngài muốn đưa hai người
con trai và con gái của ngài qua Tích Lan truyền đạo, và tháp
Sanchi đã được xây cất trên ngọn đồi vùng lân cận Vidisa, khi thái tử
Mahinda dừng chân lại nghỉ ngơi trên đường qua Tích Lan hoằng hóa
đạo Phật.
Dù tài liệu có đúng hay không thì những bia ký, tháp tự ở
Sanchi đều mang dấu ấn thời vua A Dục và người ta cũng tin rằng
chỉ có vua A Dục, vị đại thí chủ hòang gia đó mới đủ tài sức để
phát triển Sanchi thành một trung tâm văn hóa Phật giáo phồn vinh và nổi
tiếng.
Hầu hết các tháp tự ở Sanchi đều tọa lạc trên một ngọn đồi cao
bao bọc bởi một tường đá rắn chắc vào thế kỷ thứ 10 sau Công
nguyên. Những ngôi tháp, bia ký này đều có dấu ấn từ thế kỷ thứ 3
trước Công nguyên đến thế kỷ thứ 12 sau Công nguyên, tính từ đại
tháp Sanchi cao 50 bộ và đường kính của vòm tháp Sanchi là 100 bộ là
tháp lớn nhất đến ngôi tháp nhỏ nhất cao không quá 01 bộ, thì
những tháp tự lớn nhỏ này tạo cho ngọn đồi một thế đứng hùng mạnh
sừng sững.
Ngôi đại tháp ở Sanchi được xây cất bởi gạch đá thời vua A
Dục, gồm có những cột trụ cao bằng đá rắn chắc chạy dài bao
quanh ngôi tháp, và cổng chính của tháp được xây cất và chạm trỗ một
cách điêu luyện đầy thẫm mỹ độc đáo như hình bên cạnh. Hai cột trụ
đứng chạm kinh văn nguyên bản tiếng Phạn xưa. Đầu cột tạc 2 con
voi đỡ 3 xà ngang, có chỗ trạm chỗ hình voi, sư tử, kinh văn,
v.v. tượng trưng những sinh hoạt văn học triết lý của các thời
kỳ chánh pháp, tượng pháp Phật giáo Ấn Độ. Bốn mặt đại tháp có 4
cổng gồm 1 cổng lớn và 3 cổng nhỏ. Ba cổng nhỏ kia cũng xây cất
và chạm trỗ giống như cổng lớn với các hình tượng voi, sư tử,
nam nữ, ngựa, v.v. miêu tả theo những thần thọai về cuộc đời và
giáo pháp của Thế Tôn. Những thuyết thần thọai hóa cuộc đời Đức
Phật miêu tả trong kinh Bổn Sanh Bổn Sự được các nghệ nhân Ấn
đúc kết chạm trỗ điêu khắc trên các cổng thành và tường tháp. Đáng chú ý
nữa là hình tượng vua A Dục được chạm khắc trên một cổng thành,
miêu tả lại quang cảnh vua A Dục viếng thăm chiêm bái cây bồ đề ở Bồ
Đề Đạo Tràng.
Hình ảnh vua A Dục ở Sanchi là hình ảnh duy nhất
được chạm trỗ do các nghệ nhân và thần dân của Vua khắc lại để
tưởng nhớ đến công ơn của một vị đại thí chủ của Phật giáo đã
hết lòng ủng hộ công cuộc hoằng dương chánh pháp.
Những tác phẩm nghệ thuật này đều phản ảnh lòng nhiệt thành mộ
đạo của thần dân địa phương vùng Sanchi. Họ đã tổn phí rất nhiều
và phải mất nhiều năm mới hòan thành các tác phẩm kiến trúc
tuyệt mỹ này. Từng đường khắc, từng nét chạm, từng nét vẽ đều
mang trong nó tâm hồn yêu nghệ thuật, lòng sùng kính, dâng hiến và biết
ơn của người nghệ sĩ. Các nghệ nhân này làm công việc đó không
phải vì lợi danh, địa vị, cho nên tâm tư họ thỏai mái, an lạc
hướng trọn tâm hồn cho nghệ thuật. Vì thế, các tác phẩm đều tóat
lên một sức sống mãnh liệt khiến người xem cảm thấy rung động sâu
xa như đang sống trong ánh sáng Đạo Vàng Giải Thóat.
Trong số những tháp tự này, có 3 ngôi tháp được người ta chú ý nhiều nhất.
Tháp thứ nhất là ngôi tháp thứ 3, nằm về hướng Đông Bắc của
ngôi Đại Tháp, mặc dù là tháp nhỏ nhất nhưng là ngôi tháp kiểu
mẫu. Trong căn phòng tôn thờ xá lợi, Tướng Cunningham đã khám
phá ra những xá lợi của ngài Xá Lợi Phất và Đại Mục Kiền Liên, hai vị
đại đệ tử của Phật. Hai vị này rất nổi tiếng. Ngài Xá Lợi Phất
là "Trí Tuệ Đệ Nhất." Ngài Mục Kiền Liên là "Thần Thông Đệ Nhất."
Các xá lợi của hai vị đại đệ tử Phật được các nhóm khảo cổ mang về Anh
Quốc, trưng bày ở bảo tàng thành phố Luân Đôn, và sau đó mang trả
về lại tôn thờ ở Sanchi trong ngôi tháp số 3 này. Ngày xưa, ngôi
tháp số 3 này thường hay bị đào xới khai quật.
Ngôi tháp thứ 2, nằm trên sườn đồi phía Tây. Ngôi tháp này
không có xá lợi, không có cổng chính, nhưng còn lưu giữ lại một
số những đồ dùng của các nghệ nhân ngày xưa để quên lại, và những
đồ dùng vật liệu này giúp cho người ta biết được cách đây hơn
2500 năm, các nghệ nhân đã đúc tượng chạm vẽ thế nào. Các nét điêu
khắc ở ngôi tháp này có vẻ tân tiến hơn lối kiến trúc của Đại Tháp.
Ngôi tháp nhỏ cuối cùng gần chân đồi phía Tây là nơi tôn thờ
xá lợi của ngài Ca Diếp. Ngòai sự đặc biệt này, ngôi tháp còn đặc
biệt với những cột trụ, đầu cột, bức tường chạm khắc các hình
ảnh vô cùng tuyệt xảo độc đáo.
Nhiều tháp nhỏ rải rác chung quanh Đại Tháp được tìm thấy.
Trong đó, người ta đào được nhiều mảnh vụn vỡ của các tượng, bia
ký, v.v. Ở Sonari cách Sanchi vài dặm, nhiều di tích được tìm
thấy. Ở Satdhara, cách đó ba dặm, người ta lại tìm thấy xá lợi
của ngài Xá Lợi Phất trong 2 ngôi tháp nhỏ, giống như xá lợi tìm thấy
ở tháp vùng Sanchi. Còn rất nhiều tháp ở vùng Bhojpur, vùng Andher
mà các dấu ấn đều mờ nhạt không thể giúp chúng ta xác định được
các tháp xây cất vào triều đại Asoka hay sau thế kỷ thứ nhất sau
Công nguyên.
Trong số các tháp tự đó, đáng kể nhất là cột trụ đá vua A Dục
với tượng 4 sư tử đâu lưng vào nhau, gần cổng chính Đại Tháp
Sanchi phía Nam. Trên đầu cột trụ, có khắc hàng chữ tuyên bố lệnh
"Cấm phân rẽ, phá họai Tăng Đòan, sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc"
của vua A Dục. Ngòai ra, ngôi đền số 17, số 18 xây cất vào khỏang từ
thế kỷ thứ 7 đến thời kỳ thứ 12 sau Công nguyên, với những tượng
Phật, cột trụ đá, những bức tường chạm trỗ cũng góp phần vào công
trình tuyệt mỹ ở Sanchi.
Những tháp tự ở Sanchi đã được giữ gìn, phục hồi lại rất cẩn
thận và khéo léo bởi các nghệ nhân điêu khắc và các nhà khảo cổ
bác học. Người có công nhất trong cuộc trùng tu khai quật này là
ngài John Marshall, vị cựu tổng giám đốc Viện Khảo Cổ Quốc Gia Ấn
Độ. Ông đã tu bổ, sửa chữa, phục hồi lại các di tích và những du
khách khi đến Sanchi đều có thể tưởng tượng như đang trở về thời quá
khứ vàng son của Chánh Pháp với những ngôi tháp hùng vĩ sừng sững
một góc trời.
Ajanta và Ellora
Hai địa danh nổi tiếng đáng kể nữa là Ajanta và Ellora tọa lạc
ở vùng Maharashtra. Trong một thung lũng nhỏ hẹp là hang động
đẹp tuyệt vời Ajanta với những di tích của những ngôi đền và tự
viện.
Từ những tảng đá thiên nhiên, những nghệ nhân đã đẽo gọt, khắc
chạm thành những tượng Phật, Bồ Tát hay những tác phẩm nghệ
thuật vô cùng tinh xảo. Những bức tường, cột trụ đá, trần động
đều được chạm trỗ thật tinh vi xuất sắc mang dấu ấn nghệ thuật Phật
giáo kéo dài suốt 800 năm và không có một di tích nào ở Ấn Độ có thể
so sánh được với những tuyệt tác này.
Những hang động ở Ellora thì được khai quật và tìm thấy trên
một cao nguyên tòan đá rất rộng lớn. Không giống như Ajanta,
Ellora tượng trưng cho sự tổng hợp nghệ thuật của 3 nền tôn giáo
lớn ở Ấn Độ. Đó là: Phật giáo, Bà La Môn giáo, và Kỳ Na giáo.
Ngôi đền Kailasa nổi tiếng của đạo Bà La Môn là tiêu biểu xuất
sắc nhất của nền nghệ thuật thế giới với những trần nhà, hành lang thiết
kế mỹ thuật, những bức tường thần sống động qua những nét chạm
trỗ điêu khắc, những tranh ảnh họa theo những truyền thuyết, tất
cả những di tích đó đều được đẽo gọt từ những lòng đá mà ra,
khiến cho ngôi đền trong hang động Ellora thêm lừng danh nổi
tiếng.
Những hang động ở Ajanta mang dấu ấn những thế kỷ cuối cùng
của kỷ nguyên trước Thiên Chúa, và theo thứ tự niên đại, Ajanta
đã góp phần vào sự phát triển nghệ thuật, mỹ thuật, điêu khắc, xây
cất những kỳ tích. Hang động số 9 và số 10 là những hang động lâu
đời nhất nằm sâu tận trong lòng những dãy động đá ở Ajanta. Từ
những dãy động đá này suốt đến hang động thứ 19 và 26, người ta
thấy vô số những hình ảnh, tượng khắc Đức Phật theo nhiều cách
thiết họa khácnhau. Các tượng, tranh ảnh vẽ Đức Phật trong tư thế ngồi
kiết già thiền định hay trong dáng đứng Chuyển Pháp Luân. Những
nghệ nhân thời xưa đã dâng trọn trái tim nghệ thuật và sự tôn
kính sùng bái lên Thế Tôn qua nét vẽ và chạm khắc của họ.
Hang động thứ 16, 17, và 02 là những hang động quan trọng
nhất. Hang động thứ 16 và 17 được xây cất từ năm 500 sau Công
nguyên và hang động thứ 1 và thứ 2 được xây cất một thế kỷ sau
đó. Những hang động này rất đẹp nhờ những cột trụ đá chạm trỗ và sự
thóang mát của các dãy hành lang rộng lớn. Nhưng sự huy hòang tráng
lệ của Ajanta đúng ra là do số lượng khổng lồ của tranh vẽ. Những
họa sĩ nổi tiếng đã vẽ những sự tích đời Đức Phật theo kinh Bổn
Sanh Bổn Sự và thêm vào đó là những tranh ảnh vẽ chân dung Đức
Phật, các vị Bồ Tát và các Phạm Thiên.
Trong số những hang động trần thiết ở Ellora, 12 hang động
dọc theo hướng Nam được trần thiết theo những truyền thuyết Phật
giáo, ngòai ra là những hang động theo kiểu Bà La Môn giáo và
Kỳ Na giáo. Những di tích ở Ajanta và Ellora thường có dấu chân của
các nhà bác học, khảo cổ và nghệ nhân đến chiêm ngưỡng và học hỏi
hơn là các du khách, vì hang động này nằm ở vị trí sâu và cao hơn
trên rừng núi. Tuy nhiên, Ajanta và Ellora vẫn được liệt kê vào danh
sách các danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở Ấn Độ.
Nalanda
Tu viện Nalanda chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong
lịch sử Phật giáo cận đại. Theo truyền thống, Đức Phật đã viếng
thăm tu viện Nalanda vài lần và lịch sử ngôi tu viện này có thể
mang dấu ấn triều đại vua A Dục. Tuy nhiên, những cuộc khai quật
cũng chưa đủ chứng minh về thời gian xây dựng tu viện này và những
chứng cứ như bia ký, dấu ấn, vài di tích còn sót lại trùng hợp với
một số điển tích thì tu viện Nalanda phồn vinh và nổi tiếng từ
thế kỷ thứ 5 cho đến cuối thế kỷ thứ 12 sau Công nguyên.
Cũng
chính nơi đây, nhà du tăng nổi tiếng Trung Hoa, Trần Huyền
Trang, đã đến ở lại vài lần. Ngài đã ghi lại nhiều dữ kiện và sơ đồ của
nhiều kiến trúc khác nhau của tu viện Nalanda, một tu viện cũng
là học viện có sức chứa đựng hơn 10,000 tăng sĩ tu tập hàng năm
tại đây để tu hành, nghiên cứu kinh điển và tranh luận. Ngài
Tam Tạng Huyền Trang cũng ghi nhận sự cúng dường ủng hộ của vua
Harsha và nhiều vị vua các triều đại kế tiếp. Ngài Nghĩa Tịnh (I
Tsing), một nhà sư Trung Hoa, cũng đến tham quan tu viện Nalanda
và ghi nhận lại các tăng sĩ trụ xứ tại Nalanda đã được sự yểm trợ
ủng hộ của hơn 200 ngôi làng chung quanh và dưới sự tài trợ của
nhiều vị vua.
Nalanda được đi vào lịch sử Phật giáo thế giới vì nơi đây các
đạo sư Silabhadra, Santarakshita và Atisa Dipankara đã một thời
tu học và góp phần làm rạng danh tu học viện Nalanda.
Sự hoang tàn đổ nát của Nalanda đã khiến du khách đến xem phải
bàng hòang tiếc nuối cho một tu viện Phật giáo lừng danh một
thời, nay chỉ còn lại vài di tích của những điện thờ, tháp và
tăng phòng. Quang cảnh những di tích còn sót lại đó cũng cho chúng
ta biết là trước kia, những tháp và điện thờ chiếm chiều dài từ Bắc
đến Nam, những tăng xá cho chư Tăng trú ngụ thì trãi dài từ sườn
đồi phía Đông đến phía Tây của cả mấy dãy đồi to lớn. Dù bây giờ
Nalanda đã tàn rụi, nhưng vẫn cho chúng ta hình dung được quang
cảnh sầm uất, phồn thịnh đông đúc của sự sinh họat hàng chục ngàn
tăng sĩ cách đây mấy thế kỷ.
Ngôi tháp số 3 là một kiến trúc đồ sộ tọa lạc ở giữa sườn đồi
phía Tây Nam và được bao bọc chung quanh vô số những tháp nhỏ.
Ngôi tháp đầu tiên chỉ là một ngôi tháp nhỏ, nhưng dần dần được
xây cất lớn rộng ra. Ngôi tháp hiện giờ đã được xây rộng ra cả
đến 7 lần, mỗi lần xây to rộng ra và chạm trỗ điêu khắc thẫm mỹ hơn,
khác lạ hơn. Chân tháp vẫn là hình vuông theo kiến trúc của ngôi
tháp đầu tiên, nhưng đến khi xây cất lại lần thứ 5 thì các nghệ
nhân đã khắc chạm tô vẽ thêm 4 mặt tháp với những miếng gạch lớn
khắc kinh văn Phật giáo ở trên với bút tự ở thế kỷ thứ 6 sau Công
nguyên.
Về phía Bắc ngôi đại tháp này là những dãy tu viện đã được
trùng tu xây sửa lại nhiều lần. Ở đây du khách vẫn còn thấy dấu
vết của rất nhiều điện thờ, tháp nhỏ, v.v. Tại một bảo tàng viện
gần đó, rất nhiều di tích, mãnh vỡ các tượng Phật, Bồ tát được trưng
bày. Những di tích này được tìm thấy trong những cuộc khai quật tu
viện Nalanda.
Những tài liệu về bia ký tìm thấy ở Nalanda cũng không phải
là ít. Người ta tìm thấy những bia ký bằng đồng, bằng đá, bằng
gạch và những con dấu, những bút tự bằng đất nung. Những bia ký bằng
gạch khắc với những bài kinh hay giáo lý Thập Nhị Nhân Duyên và
những bài thần chú đà la ni, những bia ký này đều được tàng trữ
gìn giữ cẩn thận và trưng bày tại Bảo Tàng Khảo Cổ Ấn Độ.
Nalanda vẫn còn nổi tiếng nhờ sự yểm trợ ủng hộ của nhiều vị
vua chúa, hòang tộc như các vua Narasimhagupta, Kumaragupta đệ
nhị, Vainyagupta và Vishnugupta của triều đại hòang gia Gupta,
Sarvavarman và Avantivarman của triều đại Maukhari, Bhaskaravarman
của Kamarupa, Harshvardhana của Kanauj và rất nhiều thế hệ các vua
chúa khác đã liên tục cúng dường tài trợ tu viện Nalanda trong
suốt mấy thế kỷ. Người ta còn tìm thấy một bia ký bằng đá khắc tên
hòang tộc của vua Yasovarman của Kanauj, và một bia ký bằng đồng
có tên các Vua dòng Pala như vua Dharmapala, vua Devapala, vua
Balaputradeva của triều đại Sailendra. Trong đời các vị vua dòng
Pala, vua Mahipala đệ nhất là người cuối cùng tài trợ công cuộc
tu bổ lại tu viện Nalanda cùng sự góp sức của tu sĩ
Vipulasrimitra.
Giáo lý Nguyên Thủy và Đại Thừa Phật giáo được các cao tăng
truyền dạy tại Nalanda, nhưng về sau ảnh hưởng của Mật Tông Phật
giáo đã lan rộng ra trong giới tu sĩ, và có pha trộn những kỳ bí
của Mật Tông Bà La Môn giáo khiến cho nền giáo lý học thuật Phật giáo có
phần đổi thay bất lợi, không đúng. Sau này, vì sự chia rẽ mâu
thuẫn trong Tăng đoàn, Hồi giáo đã thừa dịp xâm lấn và phá hủy
những địa danh nổi tiếng của Phật giáo, và một tôn giáo chân
chính, lừng danh với triết thuyết của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni
đã bị phai tàn theo thời gian, mờ dấu vết ngay chính tại quê
hương Đức Phật.
Lời kết:
Phật giáo là một tôn giáo lớn ở Á Châu. Qua nhiều thăng trầm biến đổi
trong lịch sử, Phật giáo cũng bị nhiều tôn giáo khác lợi dụng
pha trộn tà thuyết sai lầm vào chánh đạo.
Tuy nhiên, những tirết lý về Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Bát
Nhã, Niết Bàn tịch tĩnh vẫn luôn đứng vững và sáng chói trên vòm
trời học thuật tôn giáo, và những thánh địa vẫn mãi mãi là nơi
tìm về nguồn suối Giải Thóat của những người con Phật trên khắp thế
giới.
Bí ẩn đại bảo tháp ngàn năm tuyệt đẹp
ở Ấn Độ
Được xây dựng trong khoảng từ thế kỷ II TCN đến thế XII, quần thể kiến trúc Đại bao tháp Sanchi đích thực là một trong những kiệt tác Phật môn của người Ấn Độ.
Quần thể di tích Sanchi nằm về phía Bắc của bang Madhya Pradesh chừng 68km. Nơi đây không chỉ là công trình được bảo quản gần như nguyên vẹn suốt hàng ngàn năm qua mà còn được đánh giá là một trong những kiến trúc Bảo tháp Phật môn hoàn hảo nhất.
Tại đây, những người hành hương có cơ hội để thưởng thức tất cả những gì đáng được gọi là nguồn gốc, tinh hoa của nghệ thuật và kiến trúc Phật môn trong khoảng thời gian chừng 1500 năm – gần như bao quát toàn bộ lịch sử của Phật giáo Ấn Độ.
Điều này thật đáng ngạc nhiên, bởi vì địa danh Sanchi không hề gắn với bất cứ sự kiện hay truyền thuyết nào của cuộc đời Đức Phật.
Trong suốt lịch sử tồn tại của mình, nơi đây cũng chưa từng diễn ra bất kỳ sự kiện quan trọng nào của Phật giáo phương Đông.
Người có công xây dựng nên tòa Đại bảo tháp này chính là quốc vương Ashoka Maurya (còn được biết đến là vua A Dục trong kinh Phật, 273-236 TCN).
Ông chính là vị vua nổi tiếng nhất trong lịch sử Ấn Độ, đồng thời cũng là người đóng góp nhiều công đức nhất cho Phật giáo.
Gần 10 năm sau khi bắt đầu triều đại của mình, vào khoảng năm 258 TCN, vua Ashoka Maurya cải đạo sang Phật giáo. Ông được sử sách lưu danh là một trong những vị vua anh minh và hùng mạnh nhất.
Đế chế của ông bao trùm toàn bộ lãnh thổ Ấn Độ và Afghanistan ngày nay. Vương triều của ông thậm chí còn được so sánh với những cường quốc đương thời như Constantine hay Cromwell.
Suốt quãng thời gian 40 năm trị vì của mình, vua Ashoka Maurya đã để lại cho đất nước Ấn Độ không chỉ là những chương sử sách hào hùng, mà còn cả một kho tàng những công trình kiến trúc và nghệ thuật tuyệt vời khiến đời sau phải khâm phục. Sanchi chính là một trong số đó.
Quần thể kiến trúc Sanchi bắt đầu được hình thành khi nhà vua cho xây tòa Đại bảo tháp và dựng lên một cột đá nguyên khối ở chính giữa đỉnh đồi.
Tiếp theo đó, vua Ashoka cũng lần lượt cho xây thêm 8 tòa bảo tháp khác. Những kiến trúc tôn giáo khác, bao gồm các tháp nhỏ và những cổng lớn, lần lượt được bổ sung trong nhiều thế kỷ tiếp theo.
Trong khoảng 600 năm kể từ khi được xây dựng, Sanchi giống như là một cõi Niết Bàn đối với Phật tử bốn phương. Tuy nhiên vào khoảng thế kỷ XII, cùng với sự suy tàn của Phật giáo tại Ấn Độ, Sanchi dần đánh mất tầm quan trọng của mình và cuối cùng đã hoàn toàn bị lãng quên.
Mãi đến những năm 1912-1919, kiệt tác hàng ngàn năm tuổi này mới nhận được sự quan tâm xứng đáng.
Những công trình kiến trúc và nghệ thuật nơi đây bắt đầu được phục hồi và bảo quản như là những báu vật của Phật giáo nói riêng và kho tàng văn hóa nhân loại nói chung.
Đại bảo tháp
Công trình nổi bật nhất trong quần thể kiến trúc Sanchi chính là tòa Đại bảo tháp. Tòa tháp lớn nhất này về cơ bản là một mái vòm gần như hoàn hảo với chiều cao 15m và bán kính 30m, được xây dựng bằng gạch nung và vữa.
Toàn cảnh tòa Đại bảo tháp |
Bao quanh ngọn tháp là một hàng lan can nằm ở khoảng 1/3 chiều cao từ dưới lên. Trên đỉnh tháp thiết kế phần sân thượng hình vuông khá rộng rãi, cũng có hàng rào bốn phía. Đây chính là nơi hành lễ trong những dịp quan trọng.
Một hàng rào khác, được xây dựng từ những cột đá nguyên khối khổng lồ, bao bọc quanh toàn bộ phần chân tháp. Hàng rào này nối liền với 4 cổng đá uy nghi được chạm khắc vô cùng tinh xảo, gọi là “toran Dwar” và được đặt theo bốn hướng Nam- Bắc- Đông- Tây.
Cận cảnh chân tòa Đại bảo tháp |
Cả bốn cổng đều được tạc từ những phiến đá nguyên khối có trọng lượng chừng hơn 400 tấn. Phù điêu và tượng được chạm khắc trên mỗi cổng đều miêu tả về cuộc đời Đức Phật và những câu chuyện huyền thoại Phật Môn.
Cổng Bắc
Đây là kiến trúc được bảo tồn tốt nhất trong 4 cổng. Nó gần như còn
nguyên vẹn, ngoại trừ hình tượng bánh xe trên đỉnh bị hư hỏng chút ít.
Những hình chạm khắc trên cổng này chủ yếu mô tả cuộc sống của Đức Phật.
Hai cột trụ đều được chạm khắc hình ảnh 4 con voi quay đầu ra 4 phía,
bên cạnh là những nữ thần. Ngự trị trên đỉnh cao nhất của cổng là hình
tượng Bánh xe công lý (bị hư hỏng như đã nói ở trên). Cùng với đó là vô
số bức phù điêu tinh xảo và sống động khắp mọi nơi.
Cổng Nam
Cổng phía Nam theo những nhà nghiên cứu là lâu đời nhất trong bốn cổng. Phù điêu và hình tượng trên cổng này miêu tả cuộc đời Đức Phật từ lúc sơ sinh và những sự kiện về đức vua Ashoka sau khi cải sang Phật giáo.
Cổng Nam
Cổng phía Nam theo những nhà nghiên cứu là lâu đời nhất trong bốn cổng. Phù điêu và hình tượng trên cổng này miêu tả cuộc đời Đức Phật từ lúc sơ sinh và những sự kiện về đức vua Ashoka sau khi cải sang Phật giáo.
Dưới chân hai cột trụ, thay vì chạm trổ bốn con voi như cổng Bắc thì ở
đây lại là bốn con sư tử. Hình tượng bốn con sư tử này hiện được Ấn Độ
lấy làm biểu tượng quốc gia và cũng xuất hiện trong những đồng tiền của
nước này.
Cổng Tây
Cổng phía Tây được trang trí với những bức phù điêu kể về câu chuyện 7 lần hóa thân của Đức Phật. Ngoài ra ở dưới chân hai cột trụ được chạm trổ hình tượng của 4 vị thần lùn bụng bự đầy vẻ hàm tiếu và phồn thực.
Cổng phía Tây được trang trí với những bức phù điêu kể về câu chuyện 7 lần hóa thân của Đức Phật. Ngoài ra ở dưới chân hai cột trụ được chạm trổ hình tượng của 4 vị thần lùn bụng bự đầy vẻ hàm tiếu và phồn thực.
Cổng Đông
Cổng phía Đông chính là cổng thú kỳ thú nhất. Những hình ảnh chạm trổ trên cổng này tả lại cảnh Phật nhập Niết Bàn với rất đông đồ đệ và Phật tử đứng chầu. Ngoài ra trên cột trụ cũng xuất hiện hình tượng của nữ thần Yakshi đang nhảy múa.
Ngoài tòa Đại bảo tháp uy nghi với bốn cổng đá cực kỳ hoành tráng và tinh xảo, tại Sanchi còn có vô số những tiểu tháp, những ngôi đền và dấu tích của nhiều di sản khác.
Cổng phía Đông chính là cổng thú kỳ thú nhất. Những hình ảnh chạm trổ trên cổng này tả lại cảnh Phật nhập Niết Bàn với rất đông đồ đệ và Phật tử đứng chầu. Ngoài ra trên cột trụ cũng xuất hiện hình tượng của nữ thần Yakshi đang nhảy múa.
Ngoài tòa Đại bảo tháp uy nghi với bốn cổng đá cực kỳ hoành tráng và tinh xảo, tại Sanchi còn có vô số những tiểu tháp, những ngôi đền và dấu tích của nhiều di sản khác.
Những công trình này lại ẩn chứa bên trong vô số kiệt tác nghệ thuật và điêu khắc như tượng phật, phù điêu…
Trải qua hàng ngàn năm nắng mưa và hoang phế, có thể Sanchi ngày nay
không còn xứng là Thánh địa Phật giáo như xưa. Tuy nhiên chỉ với những
gì ít ỏi còn lưu giữ được, nơi đây cũng đã khiến cho chúng ta phải kinh
ngạc trước vẻ đẹp cổ kính và uy nghi của nó.
Bên cạnh đó, những kiến trúc tuyệt vời này cũng thể hiện một cách rõ ràng tài năng, kiến thức và cả sức sáng tạo đáng ngưỡng mộ của những con người đã sinh sống từ hàng ngàn năm trước.
Bên cạnh đó, những kiến trúc tuyệt vời này cũng thể hiện một cách rõ ràng tài năng, kiến thức và cả sức sáng tạo đáng ngưỡng mộ của những con người đã sinh sống từ hàng ngàn năm trước.
AJANTA -
Một Di Tích Phật Giáo Ngoại Hạng
Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ cách đây khoảng 2.500 năm và được xem là cuộc cách mạng trong xã hội Ấn Độ vốn có sự phân chia giai cấp sâu sắc. Phật giáo thể hiện tính bình đẳng vì bất kỳ ai cũng có thể đạt được sự giác ngộ nếu thành tâm. Vì vậy, đạo Phật nhanh chóng được truyền bá và được tiếp nhận tại rất nhiều nơi ở châu Á.
Lưu vực sông Hằng thuộc Đông Bắc Ấn Độ là cái nôi của nhiều tôn giáo quan trọng, đồng thời là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa lâu đời của người Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ III TCN, nơi đây được xem là cứ điểm của đạo Phật trước khi dòng tôn giáo này được phổ biến khắp Ấn Độ.
Quần thể hang động Ajanta là di tích quý giá đại diện cho thời kỳ hưng thịnh của phật giáo tại Ấn Độ. Đạo Phật chi phối từ lưu vực sông Hằng, kéo dài đến phía nam cao nguyên Deccan. Nằm ẩn mình trong khu rừng rậm hoang vu của cao nguyên Deccan, hang động Ajanta đã bị lãng quên trong một thời gian dài. Vào năm 1819, một nhóm người Anh đi săn cọp trong khu vực này đã tình cờ phát hiện hệ thống hang động Ajanta . Hang động được bố trí theo dạng hình móng ngựa, khoét sâu vào bên trong vách núi đá thẳng đứng cao 76m.
Ajanta tọa lạc ở lưng chừng núi, bên dưới hang động là lòng vực cùng dòng sông Waghora uốn khúc. Ngày nay, tại Ấn Độ, số lượng tín đồ đạo Hindu rất đông, Phật giáo có phần ít phát triển tại nơi mà nó được khai sinh. Tuy nhiên, hang động Ajanta đã trở thành một trong những di tích quan trọng nhất của Ấn Độ, đại diện cho thời kỳ Phật giáo đạt đỉnh cao. Năm 1983, UNESCO đã công nhận quần thể hang động Ajanta là Di sản văn hóa thế giới.
Quần thể hang động không được tạo dựng trong một thời kỳ liên tục. Nhóm hang đầu tiên được kiến thiết vào thế kỷ II TCN, sau đó công việc ngưng lại. Việc hoàn tất hang động Ajanta kéo dài trong gần 800 năm.
Di tích hang động Ajanta có tất cả 30 hang, bao gồm Thánh đường Phật giáo và các khu phụ cận. Các nhà khảo cổ đã đánh dấu các hang theo số thứ tự. Họ phân chia các hang động theo từng thời kỳ xây dựng, gồm hai phần: cụm hang được tạo dựng vào giai đoạn đầu và cụm hang được xây sau này.
Hang số 12 được đẽo trong thời kỳ đầu và được gọi là Tăng viện; đây là nơi sinh sống của những thầy tu ngày xưa. Họ sinh hoạt và tu hành trong không gian chật hẹp.
Các thầy tu dùng bệ đá làm giường ngủ, họ luôn tuân thủ trong quá trình tu hành khổ hạnh theo cách như thế. Hang số 9 cũng được tạo dựng trong thời kỳ đầu. Khác với hang động dành cho các nhà tu hành, hang số 9 có tên gọi là Tháp viện, là một căn phòng dùng làm nơi cầu nguyện.
Tháp viện mang ý nghĩa rất linh thiêng, là nơi tôn thờ thánh tích của Đức Phật. Thời kỳ này hoàn toàn không có sự hiện diện của các tượng Phật. Vì vậy Tháp Phật được xem là một biểu tượng linh thiêng để tôn thờ và phụng sự.
Thời kỳ đầu kéo dài đến khoảng 300 năm. Nhóm hang động thứ hai được tạo dựng vào thế kỷ thứ V, được gọi là thời kỳ sau. Hang số 26 là một điện Phật được xây dựng vào thời kỳ sau với trình độ kỹ thuật cao, các bức tượng chạm khắc đều rất lớn và hầu như tất cả đều còn nguyên vẹn.
Trong hang số 26, chúng ta rất dễ dàng bắt gặp những hình ảnh của Phật giáo thuộc phái Mật tông. Khác với các tượng Phật ở Nhật Bản, hình dáng của tượng Phật trong hang là mô hình tượng Phật phổ biến tại rất nhiều nước ở châu Á.
Khác với thời kỳ đầu, trong nhóm hang động thứ 2, tượng Phật hiện diện khắp nơi. Có tượng phật ngồi thể hiện rằng đã đạt được sự giác ngộ dưới cội bồ đề, xung quanh là sự cám dỗ của quỷ ma. Trước khi giác ngộ, Đức Phật đã trải qua nhiều giai đoạn tu luyện, tất cả đều được thể hiện qua hàng loạt tác phẩm điêu khắc trong hang. Những hình ảnh Phật giáo sống động trong nhóm hang thứ 2 đã phản ảnh sự hưng thịnh của đạo Phật lúc bấy giờ. Trong các hang động này, hình ảnh của phật Như Lai luôn là tâm điểm chi phối mọi vật xung quanh.
Nhờ sự hậu thuẫn của triều đình cùng giới quý tộc và thương nhân lúc bấy giờ nên nghệ thuật Phật giáo Ấn Độ đạt tới trình độ phát triển rực rỡ nhất.
Dòng chảy Phật giáo dần lan rộng và phát triển ra một khu vực rộng lớn. Vào thời đó, Ấn Độ được xem là vùng đất của đạo Phật, nơi hành hương quan trọng đối với những tín đồ sùng đạo. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển, Phật giáo cũng được phân chia thành nhiều trường phái khác nhau. Từ đó, tính chất thuần nhất của đạo Phật cũng không còn nguyên vẹn. Ngoài các bức tượng và hình ảnh có liên quan đến Phật giáo được chạm khắc trên đá, hang động Ajanta còn sở hữu một kho tàng nghệ thuật phong phú và tinh xảo không kém.
Từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ VII là giai đoạn phát triển của nghệ thuật Phật giáo tại hang động Ajanta . Đó là những bức bích họa được vẽ trên tường trong hang động.
Có thể nói, nghệ thuật hội họa của người Ấn Độ cổ đại đã đạt đến chất lượng hoàn hảo về màu sắc cũng như bố cục. Các tác phẩm này đã qua cuộc thử nghiệm thành công của thời gian.
Có được các tác phẩm tượng Phật đạt đến vẻ đẹp đỉnh cao như thế là nhờ vào các họa sĩ và nhà điêu khắc đã thấm nhuần Phật pháp. Chính họ đã gốp phần rất lớn tạo nên giá trị cho quần thể hang động Ajanta .
Tham Quan Chùa Hang Ajanta
Các thánh tích Phật giáo tại Ấn Độ hầu hết đều là phế tích. Khắp nơi là cảnh hoang tàn đổ nát, chỉ còn lại các dấu vết, nền nhà, vài đoạn tường, vài các tháp xiêu vẹo nham nhở. . .v.v. . . .Thời gian tàn phá thì ít nhưng cái chính là vì sự tàn phá hủy diệt của quân Hồi giáo và sự thờ ơ của dân Ấn vốn theo Ấn Giáo trước giáo pháp của Như Lai.
Chúng tôi càng đi theo vết chân của Như Lai thì càng gặp cảnh hoang tàn của phế tích. Niềm tin, lòng thành kính và cái buồn cứ đan xen, quyện vào nhau trong suốt cuộc hành trình của những người con của Phật đang tìm về nguồn cội. . . .
Chắc biết như vậy nên ban tổ chức chuyến hành hương này đã đưa việc tham quan chùa hang Anjata vào những ngày sắp kết thúc. Tổ hợp chùa hang Ajanta nằm ở triền núi sông Waghora, cách thành phố Aurangabad 108 km về hướng đông bắc, thuộc bang Maharashtra. Bởi vì chùa hang Anjata là một kiệt tác về nghệ thuật của Phật giáo đã được Unesco công nhận là Di Sản Văn Hóa Thế Giới. Và cũng bởi vì chùa hang Anjata ở giữa núi rừng heo hút nên đã thoát khỏi các cuộc tàn phá của quân Hồi Giáo. Do vậy tham quan Chùa Hang Anjata trước khi kết thúc chuyến hành hương quay về quê nhà Việt Nam sẽ để lại dư vị ngọt ngào trong tâm những người con của của Phật trước di tích hoành tráng diểm lệ tràn đầy tính nghệ thuật và tính thiêng liêng thể hiện thời kỳ vàng son hưng thịnh của Phật giáo tại Ấn Độ.
Tổ hợp chùa hang Ajanta nằm trong một dãy núi đá hình móng ngựa giữa cao nguyên Deccan
Tham Quan Chùa Hang Ajanta
Đạo Phật chi phối từ lưu vực sông Hằng, kéo dài đến phía nam cao nguyên Deccan. Nằm ẩn mình trong khu rừng rậm hoang vu của cao nguyên Deccan, hang động Ajanta đã bị lãng quên trong một thời gian dài. Vào năm 1819, một nhóm người Anh đi săn cọp trong khu vực này đã tình cờ phát hiện hệ thống hang động Ajanta.
Hang động được bố trí theo dạng hình móng ngựa, khoét sâu vào bên trong
vách núi đá thẳng đứng cao 76m. Lưu vực sông Hằng thuộc Đông Bắc Ấn Độ
là cái nôi của nhiều tôn giáo quan trọng, đồng thời là nơi lưu giữ các
giá trị văn hóa lâu đời của người Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ III TCN, nơi đây
được xem là cứ điểm của đạo Phật trước khi được phổ biến khắp Ấn Độ.
Những ngôi chùa đá này bắt đầu được đục khắc vào thế kỷ thứ II (tr. TL) và kết thúc vào thế kỷ thứ VII (TL), từ thời kỳ các bộ phái Hinayana Phật giáo thịnh hành ở vùng đất này cho đến thời điểm Phật giáo Đại thừa phát triển, từ thời điểm tượng Phật chưa được phụng thờ cho đến khi yếu tố Mật giáo in dấu lên các pho tượng Phật và những vị Bồ-tát. 900 năm cho 30 hang động lần lượt ra đời, để rồi sau 1200 năm bị vùi lấp trong quên lãng, tình cờ được khám phá và trở thành một di sản thế giới qua công nhận của UNESCO.
Các động này do quân đội Anh khám phá năm 1819, khi Ấn Độ là thuộc địa của Anh. Viện Khảo Cổ Ấn Độ tiếp tục khảo cứu và điều tra, xác định được 28 động, và được ghi lại trong các quyển sách của ông James Burgess xuất bản vào năm 1880. Động thứ 29 (15A) được tìm ra vào năm 1956.
Những ngôi chùa đá này bắt đầu được đục khắc vào thế kỷ thứ II (tr. TL) và kết thúc vào thế kỷ thứ VII (TL), từ thời kỳ các bộ phái Hinayana Phật giáo thịnh hành ở vùng đất này cho đến thời điểm Phật giáo Đại thừa phát triển, từ thời điểm tượng Phật chưa được phụng thờ cho đến khi yếu tố Mật giáo in dấu lên các pho tượng Phật và những vị Bồ-tát. 900 năm cho 30 hang động lần lượt ra đời, để rồi sau 1200 năm bị vùi lấp trong quên lãng, tình cờ được khám phá và trở thành một di sản thế giới qua công nhận của UNESCO.
Các động này do quân đội Anh khám phá năm 1819, khi Ấn Độ là thuộc địa của Anh. Viện Khảo Cổ Ấn Độ tiếp tục khảo cứu và điều tra, xác định được 28 động, và được ghi lại trong các quyển sách của ông James Burgess xuất bản vào năm 1880. Động thứ 29 (15A) được tìm ra vào năm 1956.
Các động Ajanta bắt đầu được đào khoét vào núi vào thế kỷ 2 trước Tây
Lịch đầu tiên do các tu sĩ thuộc phái Thượng Tọa Bộ (hang số 8, 9, 10,
12, 13, 15A), và cộng đồng Phật giáo tiếp tục xây dựng trong 700 năm cho
đến thế kỷ 5 Tây Lịch. Các hang sau nầy có màu sắc của Đại Thừa (các
hang số 1, 2, 16, 17, 19, 26), phản ảnh sự chuyển hướng của Phật giáo Ấn
Độ. Một số hang còn xây dựng dở dang, chưa hoàn tất.
Tổ hợp chùa Hang Ajanta nằm trên lưng chừng dãy núi đá hình móng ngựa nhìn xuống một cái vực sâu. Hôm chúng tôi đến nơi đây, cao nguyên Deccan vào mùa khô. Sông Waghora nằm dưới đáy cái vực sâu trước chùa, cạn khô trơ đá sỏi. . . Cây cối rụng lá tiêu điều và ánh nắng chói chang như thiêu như đốt. Nhen sóc, khỉ, quạ, chim chóc, gà rừng lang thang trong khu rừng thưa đầy cọ và cây chà là để kiếm ăn.
Tổ hợp chùa Hang Ajanta nằm trên lưng chừng dãy núi đá hình móng ngựa nhìn xuống một cái vực sâu. Hôm chúng tôi đến nơi đây, cao nguyên Deccan vào mùa khô. Sông Waghora nằm dưới đáy cái vực sâu trước chùa, cạn khô trơ đá sỏi. . . Cây cối rụng lá tiêu điều và ánh nắng chói chang như thiêu như đốt. Nhen sóc, khỉ, quạ, chim chóc, gà rừng lang thang trong khu rừng thưa đầy cọ và cây chà là để kiếm ăn.
Trong tiếng gió thổi ào ào qua núi đá và tiếng quạ kêu buồn bả trên non,
có tiếng cười, tiếng nói, tiếng trầm trồ thán phục của khách nhàn du. .
. . Du khách rất đông, người nước ngoài và người bản xứ, toàn những
người đến đây để xem cái hoành tráng của dãy núi đá khổng lồ đã được sức
người đục rỗng ruột thành hang, thành chùa, với vô số cột, vô số tượng,
vô số tranh tường, vô số phù điêu tinh xảo diễm lệ.
Từ một dãy núi đá khổng lồ, người ta đã đục đẽo, chạm khắc tạo nên những công trình kiến trúc với tầm vóc kỳ vĩ cùng sự tỉ mỉ, tinh tế trong từng chi tiết. Tất cả có 30 ngôi chùa, ngày nay người ta gọi tên theo số.
Từ ngôi chùa I cho đến ngôi chùa XXX. Trong đó ngôi chùa IX và ngôi chùa X là hai công trình được tạo tác sớm nhất, từ thời Vương triều Andra. Hầu hết các ngôi chùa hang khác được xây dựng, tạo tác trong vương triều Phật giáo Gupta, từ thế kỷ IV đến thế kỷ VIII.
Vương triều Andra bắt đầu từ năm 28 trước công nguyên, kéo dài 460 năm, là một thời kỳ bình yên với sự phát triển khá mạnh về kỹ nghệ và thương mại, có nhiều thành phố mới được xây dựng, rất hưng thịnh. Những công trình kiến trúc thời kỳ này đã đạt đến đỉnh cao của kỹ nghệ, trong đó tiêu biểu là chùa hang số IX và chùa hang số X.
Từ một dãy núi đá khổng lồ, người ta đã đục đẽo, chạm khắc tạo nên những công trình kiến trúc với tầm vóc kỳ vĩ cùng sự tỉ mỉ, tinh tế trong từng chi tiết. Tất cả có 30 ngôi chùa, ngày nay người ta gọi tên theo số.
Từ ngôi chùa I cho đến ngôi chùa XXX. Trong đó ngôi chùa IX và ngôi chùa X là hai công trình được tạo tác sớm nhất, từ thời Vương triều Andra. Hầu hết các ngôi chùa hang khác được xây dựng, tạo tác trong vương triều Phật giáo Gupta, từ thế kỷ IV đến thế kỷ VIII.
Vương triều Andra bắt đầu từ năm 28 trước công nguyên, kéo dài 460 năm, là một thời kỳ bình yên với sự phát triển khá mạnh về kỹ nghệ và thương mại, có nhiều thành phố mới được xây dựng, rất hưng thịnh. Những công trình kiến trúc thời kỳ này đã đạt đến đỉnh cao của kỹ nghệ, trong đó tiêu biểu là chùa hang số IX và chùa hang số X.
Tất cả các ngôi chùa hang Ajanta đều được tạo tác bằng cách đục khoét
sâu vào lòng đá. Mặt ngoài, mỗi ngôi chùa thường có khoảng 20 cột đá đục
đẽo liền từ núi đá nguyên thủy, rồi chạm khắc, trang trí công phu. Bước
qua hàng hiên là tới đại sảnh, hai bên có hai dãy trai phòng, nơi cư
ngụ của các nhà sư. Người ta đục đá tạo tác bàn thờ lớn từ giữa hang đến
đáy hang chùa.
Do phải cắt đục lòng núi để tạo thành chùa nên người đời mới gọi là chùa hang. Có những ngôi chùa rất lớn như chùa hang XVI, gian hành lễ rộng đến 400m2. Chùa hang I, chùa hang II cũng có những phòng lễ hội rộng mênh mông với những cột lớn được chạm khắc tỉ mỉ và các đường xoi tế nhị. Chân cột vuông, đỉnh cột có vầng tròn áp trần trang trí những tràng hoa lớn công phu. Chùa hang XXVI có các hàng cột vĩ đại đỡ ngạch cửa khổng lồ với những hình chạm trổ tuyệt đẹp.
(Hang số 10 /Chùa Hang Ajanta)
Điêu khắc đá ở chùa hang Ajanta
Các chùa hang ở Ajanta chứa những bức họa đẹp nhất của nghệ thuật Phật giáo. Dày đặc trên các mái vòm ở các vách chùa hang là những bức tranh màu đặc sắc. Trong 16 ngôi chùa hang có nhiều tranh vẽ bằng màu đỏ, xanh lá cây, xanh lam trên nền đá cẩm thạch, mô tả sinh động những điển tích Phật giáo.
Đó là những tác phẩm mỹ thuật vừa lộng lẫy vừa thiêng liêng. Ở 14 chùa
hang khác có nhiều bức tranh vẽ các tích Phật cùng nhiều bức tranh mô tả
cuộc sống nhiều mặt của người dân Ấn đương thời. Chùa hang XVIII nổi
tiếng với bức bích họa lớn vẽ một phụ nữ và một đứa trẻ, gương mặt họ
bừng lên khao khát hướng tới sự giải thoát. Đó là vợ và con của Đức
Phật.
Trong chùa hang XIX, một điêu khắc đá tuyệt diệu, tạc hình Phật đứng, áo
cà sa bó thân, gương mặt Đức Phật đẹp một vẻ đẹp lý tưởng, miệng hơi
mỉm cười, đôi mắt nhìn xuống. Tóc quăn, tai chảy dài, những biểu hiện
quý tướng của Phật giới; Nhưng tất cả trông thân thiện và ấm áp lạ lùng.
Bức phù điêu đá này được coi là mẫu mực cổ xưa nhất của dáng tượng Phật
đứng. Không chỉ là những tác phẩm điêu khắc đá và bích họa mô tả những
điển tích Phật giáo một cách toàn vẹn, to lớn và sâu sắc, mà nó bao gồm
cả những bích họa và điêu khắc đá mô tả đời sống xã hội Ấn Độ đương
thời. Tư tưởng Phật Giáo hòa quyện một cách tự nhiên giữa thế giới thánh
thần và đời sống con người.
Có tất cả 30 hang, bao gồm Thánh đường Phật giáo và các khu phụ cận. Các nhà khảo cổ đã đánh dấu các hang theo số thứ tự. Họ phân chia các hang động theo từng thời kỳ xây dựng, gồm hai phần: cụm hang được tạo dựng vào giai đoạn đầu và cụm hang được xây sau này.
Hang số 12 được đẽo trong thời kỳ đầu và được gọi là Tăng viện; đây là nơi sinh sống của những thầy tu ngày xưa. Họ sinh hoạt và tu hành trong không gian chật hẹp. Các thầy tu dùng bệ đá làm giường ngủ, họ luôn tuân thủ trong quá trình tu hành khổ hạnh theo cách như thế.
Hang số 9 cũng được tạo dựng trong thời kỳ đầu. Khác với hang động dành cho các nhà tu hành, hang số 9 có tên gọi là Tháp viện, là một căn phòng dùng làm nơi cầu nguyện. Tháp viện mang ý nghĩa rất linh thiêng, là nơi tôn thờ thánh tích của Đức Phật. Thời kỳ này hoàn toàn không có sự hiện diện của các tượng Phật. Vì vậy Tháp Phật được xem là một biểu tượng linh thiêng để tôn thờ và phụng sự.
Có tất cả 30 hang, bao gồm Thánh đường Phật giáo và các khu phụ cận. Các nhà khảo cổ đã đánh dấu các hang theo số thứ tự. Họ phân chia các hang động theo từng thời kỳ xây dựng, gồm hai phần: cụm hang được tạo dựng vào giai đoạn đầu và cụm hang được xây sau này.
Hang số 12 được đẽo trong thời kỳ đầu và được gọi là Tăng viện; đây là nơi sinh sống của những thầy tu ngày xưa. Họ sinh hoạt và tu hành trong không gian chật hẹp. Các thầy tu dùng bệ đá làm giường ngủ, họ luôn tuân thủ trong quá trình tu hành khổ hạnh theo cách như thế.
Hang số 9 cũng được tạo dựng trong thời kỳ đầu. Khác với hang động dành cho các nhà tu hành, hang số 9 có tên gọi là Tháp viện, là một căn phòng dùng làm nơi cầu nguyện. Tháp viện mang ý nghĩa rất linh thiêng, là nơi tôn thờ thánh tích của Đức Phật. Thời kỳ này hoàn toàn không có sự hiện diện của các tượng Phật. Vì vậy Tháp Phật được xem là một biểu tượng linh thiêng để tôn thờ và phụng sự.
Tháp Phật ở chùa Hang Ajanta
Chánh điện của một chùa Hang Ajanta, do đục núi đá rồi điêu khắc mà thành
No comments:
Post a Comment