Tuesday, April 16, 2013
THẾ PHƯƠNG * VỨT BỎ CỘNG SẢN
Đằng nào thì đảng Cộng sản VN cũng sẽ bị liệng vô thùng rác của lịch sử
Thế Phương (Danlambao) - ... Vì
phe đồng chí X đã tuyên bố như thế, đây là cơ hội hiếm có, không thể bỏ
qua mà phải HÀNH ĐỘNG. Các phong trào tranh đấu cho tự do, dân chủ cho
VN, các phương tiện truyền thông lề Dân không nên có thái độ thờ ơ, nghi
ngờ hay ngồi chờ hy vọng mà nên cùng bắt tay "ủng hộ" đồng chí X mạnh
mẽ bằng cách...
*
Tham nhũng là bệnh bẩm sinh trong chế độ độc đảng, độc tài toàn trị cộng
sản. Truớc 1975, cộng sản VN còn đóng cửa và theo nền kinh tế XHCN,
không có tư bản nước ngoài vào đầu tư nên vấn đề tham nhũng gần như
không có, không đặt thành vấn đề. Vào những năm đầu sau năm 1986 khi
CSVN sắp chết nên bắt buộc phải mở cửa cho tư bản vào đầu tư thì vấn đề
tham nhũng chưa xuất hiện. Nhưng kể từ năm 1990 khi nhiều nước ồ ạt vào
đầu tư thì tham nhũng bắt đầu xuất hiện và càng ngày càng phát triển
mạnh.
Nói thế để thấy rằng, ngày nào Việt Nam còn bị thống trị bởi độc đảng,
độc tài toàn trị của ĐCSVN thì ai lên làm thủ tướng thì cũng thế, cũng
tham nhũng, cũng sắt máu, lừa bịp, mị dân như nhau. Do đó, tại thời điểm
nầy, “đồng chí X” vì đang tranh ăn, đấu đá, muốn hạ bệ các bộ sâu khác
trong BCT đảng nên “đồng chí X” đang ra chiêu:
Chính phủ cho rằng cần xác định quyền lập hiến là thể hiện cao nhất
chủ quyền nhân dân, gồm quyền sáng kiến lập hiến, quyền tham gia góp ý
trong quá trình dự thảo HP và cuối cùng là quyền biểu quyết thông qua
trưng cầu dân ý.
Vì phe đồng chí X đã tuyên bố như thế, đây là cơ hội hiếm có, không thể
bỏ qua mà phải HÀNH ĐỘNG. Các phong trào tranh đấu cho tự do, dân chủ
cho VN, các phương tiện truyền thông lề Dân không nên có thái độ thờ ơ,
nghi ngờ hay ngồi chờ hy vọng mà nên cùng bắt tay "ủng hộ" đồng chí X mạnh mẽ bằng cách:
- Xuống đường ủng hộ đồng chí X. Đòi tiếp cận đồng chí X để trao các bản: Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do, Thư
của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992 nhận định và góp ý sửa đổi Hiến pháp, Kiến Nghị 72 về Sửa đổi Hiến
pháp.
- Các phương tiện truyền thông lề trái, các diễn đàn điện tử công khai
phổ biến các tài liệu về Quyền Con Người, Quyền Hiến Định, Quyền Phúc
Quyết của nhân dân và các Hiến Pháp tiên tiến của các nước tư do, dân
chủ đa đảng cho nhân dân VN trong nước đọc.
- Từ chối, bất hợp tác với hành vi cưỡng ép ký nhận “Phiếu lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992”
và những văn bản liên quan đến Hiến pháp mà chúng ta không đồng ý và
xem đó là những vi phạm tư cách chủ thể về quyền lập hiến của người
dân.
Sử dụng "gậy ông đập lưng ông", biết đâu đồng chí X vì muốn tự cứu mình
và gia đình mà "tới luôn" như Gorbachev (Gorbachev đâu muốn xóa bỏ đảng
CS Liên Xô, nhưng do áp lực của nhân dân Liên Xô và thế giới, cộng với
tình hình chính trị thế giới lúc bấy giờ mà đã đưa đến sự sụp đổ của
Liên Xô và khối CS Đông Âu). Dàn dựng được "chiến trận" như thế nầy thì
chắc chắn sẽ đưa đến một kết quả nào đó.
Sau màn đấu này, kẻ nào thắng chắc chắn sẽ lập "Tổng Thống chế", đúng ra là độc tài cá nhân. Đằng nào thì Đảng Cộng Sản VN cũng sẽ bị liệng vô thùng rác của lịch sử.
Thời buổi nhiễu nhương ly loạn như hiện tại (Nhị Thập Sứ Quân, bất ổn
định), sẽ được tạm kết thúc bằng sự lên ngôi của cá nhân với đặc tính
chính trị mạnh (Đinh Bộ Lĩnh, ổn định). Đây là kết quả của hệ thống đang
tìm kiếm sự ổn định, từ vị thế bất ổn định.
Tuy nhiên, chế độ dân chủ tự do mới thực sự là mục đích cuối cùng của hệ thống chính trị, một thế ổn định lâu dài cho dân tộc.
NGUYỄN HƯNG QUỐC * KARL MARX
Lãnh tụ Bắc Triều Tiên Kim Chính Ân (Kim Jong Un).
Có rất nhiều điểm tôi không đồng ý với Karl Marx, nhưng thành thực mà
nói, tôi rất phục ông, và có lúc, rất thích ông. Với tôi, ông là triết
gia tiêu biểu nhất của chủ nghĩa hiện đại với tham vọng, bằng thuyết
biện chứng và duy vật lịch sử, xây dựng một đại tự sự (grand narrative)
hoàn chỉnh về lịch sử và thế giới, qua đó, giải thích hầu như toàn bộ
mọi khía cạnh lớn liên quan đến đời sống xã hội và sự phát triển của
loài người. Tham vọng ấy được bổ sung bằng một tham vọng khác lớn không
kém: muốn thay đổi thế giới. Đằng sau hai tham vọng ấy là một khao khát
mang đầy tính đạo lý về sự công bằng và công chính cho tất cả mọi người.
Về hai tham vọng của Karl Marx, các nhà hậu hiện đại (postmodernist) đã chứng minh đó chỉ là một ảo tưởng khi cho thời đại của các đại tự sự đã qua; lịch sử các nước xã hội chủ nghĩa từ Đông Âu đến châu Á chứng minh thêm: đó là một ảo tưởng đầy tai họa dẫn đến những cái chết thảm khốc của cả hàng trăm triệu người và sự đau khổ của cả tỉ người khác. Xuất phát từ sự khao khát công bằng và công chính cho mọi người, lý thuyết của Marx lại đẻ ra những chế độ độc tài và tàn bạo không thua bất cứ một chế độ độc tài và tàn bạo nào trong lịch sử.
Tuy nhiên, ở đây lại có hai vấn đề cần chú ý. Thứ nhất, về phương diện lý thuyết, bất chấp vô số những khiếm khuyết, Marx vẫn là một trong những triết gia có ảnh hưởng lớn nhất trong nửa sau thế kỷ 19 và gần trọn thế kỷ 20; hơn nữa, nhiều quan điểm triết học và chính trị của Marx, cho đến nay, vẫn có những giá trị nhất định. Jacques Derrida có lần, trong cuốn Spectres de Marx, từng viết: “Sẽ là một sai lầm nếu [chúng ta] không đọc, đọc lại và thảo luận về Marx” (Dẫn theo Marcello Musto, “The rediscovery of Karl Marx”, IRSH số 52, 2007, tr. 496). Thứ hai, nói như Terry Eagleton, không nên bắt Marx phải chịu trách nhiệm về những vụ tàn sát tập thể, các trại cải tạo, các phong trào đại nhảy vọt và các cuộc thanh trừng đẫm máu dưới các chế độ Cộng sản, cũng giống như việc không thể bắt Chúa Jesus phải chịu trách nhiệm về các Tòa án xử những người bị xem là dị giáo (Inquisition) thời Trung cổ.
Thật ra, nghĩ cho cùng, không thể phủ nhận toàn bộ trách nhiệm của Karl Marx được. Rõ ràng, quan điểm về đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản của ông đã là nền tảng lý thuyết làm nảy sinh sự độc tài và tàn bạo của Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông cũng như vô số các nhà lãnh đạo Cộng sản khác. Bởi vậy, dù có ý thức hay không, Marx cũng đã để lại nhiều đứa con tinh thần, trong đó, có nhiều kẻ có thể xem là những quái thai. Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Nicolae Ceauşescu (ở Rumania) là những quái thai như thế. Và dĩ nhiên, không thể không kể đến dòng họ Kim ở Bắc Triều Tiên, từ Kim Nhật Thành (Kim Il-sung, 1912-1994) đến Kim Chính Nhật (Kim Jong-il, 1942-2011) và gần đây, Kim Chính Ân (Kim Jong-un).
So với các lãnh tụ Cộng sản khác, dòng họ Kim hoàn toàn không thua kém về mức độ độc tài và tàn bạo, về “thành tích” giết người và đày đọa dân chúng. Họ còn hơn hẳn những người khác trong việc duy trì một chế độ cha truyền con nối kéo dài, đến nay là ba đời, trên 60 năm (ở Cuba, Fidel Castro “truyền ngôi” lại cho em ruột, Raul Castro; tổng cộng thời gian trị vì của cả hai, đến nay, mới hơn 50 năm). Họ cũng nổi bật hơn hẳn những người khác về “tài” gây chú ý trên thế giới. Cứ vài ba năm một lần, họ lại làm cho cả thế giới thót tim hồi hộp theo dõi nhất cử nhất động của họ. Mới nhất, trong tháng Tư này, họ lớn tiếng đe dọa tấn công Nam Triều Tiên và cả Mỹ bằng vũ khí hạt nhân. Giới bình luận chính trị và có lẽ cả giới lãnh đạo Tây phương đều cho đó là những lời nói khoác lác. Tuy nhiên, không phải vì thế mà người ta không căng mắt ra theo dõi từng động thái ở Bình Nhưỡng. Trong tuần lễ đầu tiên của tháng Tư, tên “North Korea” đứng hàng thứ ba trong số các từ được sử dụng phổ biến nhất trên Twitter, chỉ sau “Easter” và “Good Friday”. Các cuộc điều tra dư luận cho thấy khoảng 36% người Mỹ theo dõi rất sát các diễn biến liên quan đến Bắc Triều Tiên và 56% dân chúng cho sự đe dọa của Bắc Triều Tiên là nghiêm trọng.
Các lãnh tụ của Nam Triều Tiên, Mỹ và Nhật đều cố gắng tỏ ra bình tĩnh nhưng cũng không giấu được sự căng thẳng.
Một số nhà bình luận chính trị quốc tế gọi cha con Kim Chính Nhật và giới lãnh đạo Bắc Triều Tiên nói chung là những bậc thầy trong nghệ thuật khiêu chiến (master of brinkmanship) và là những bậc thầy trong những cú đánh lừa (master of rope-a-dope). Kim Chính Ân có vẻ muốn nối gót cha mình, nhưng chưa ai dám chắc lần này ông có thành công hay không.
“Bậc thầy”, nghe rất sang trọng. Mà cũng phải. Những “bậc thầy” ấy đã thắng nhiều trận. Năm 1993, sau một lần đe dọa tấn công Nam Triều Tiên, họ được Mỹ hứa hẹn viện trợ lương thực để cứu đói dân chúng. Năm 2003, khi rút tên ra khỏi Hiệp ước phi hạt nhân (Non-proliferation Treaty, NPT), họ lại được dỗ dành. Năm 2005, khi từ chối tham gia vào cuộc Hội nghị sáu bên (Six Party Talks) về vấn đề giải trừ vũ khí hạt nhân, họ cũng lại được dỗ dành. Năm 2006, khi tiến hành thử vũ khí hạt nhân lần thứ nhất, họ cũng được dỗ dành. Năm 2008, khi trục xuất phái đoàn điều tra vũ khí hạt nhân của Liên Hiệp Quốc ra khỏi Bắc Triều Tiên, họ cũng được dỗ dành. Năm 2009, khi thử hạt nhân lần thứ hai, họ cũng được dỗ dành. Năm 2010, họ đánh chìm tàu thủy của Nam Triều Tiên, giết chết 46 thủy thủ, Nam Triều Tiên và Mỹ cũng đều nhường nhịn, không có một phản ứng nào cả. Cứ mỗi lần như thế, bộ máy tuyên truyền của Bắc Triều Tiên lại huênh hoang cho là họ đã thắng cả Nam Triều Tiên lẫn Mỹ.
Nhưng tất cả đều là những phép thắng lợi tinh thần theo kiểu AQ của Lỗ Tấn. Nghèo kiết xác, lúc nào cũng bị người trong làng khinh bỉ, nhưng AQ vẫn tự hào là con cháu mình sau này sẽ giàu có hơn hẳn người khác. Bị người ta đánh, không dám đánh trả, AQ vẫn cứ tự hào “Nó đánh mình thì khác gì nó đánh bố nó. Thật thời buổi này hết chỗ nói!” Thế là hắn lại hớn hở ra vẻ đắc thắng.
Bộ máy tuyên truyền Bắc Triều Tiên không ngừng tô vẽ các gã AQ chễm chệ trên đỉnh cao quyền lực ở nước họ như những thần linh. Ngày Kim Chính Nhật chào đời có hai chiếc cầu vồng lấp lánh xuất hiện trên bầu trời. Ra đời được ba tuần, ông đã biết đi; tám tuần đã biết nói. Khi học đại học, trong vòng ba năm, ông viết được trên 1.500 cuốn sách và sáu bản opera. Các bản nhạc này được giới phê bình Bắc Triều Tiên khen là “hay hơn bất cứ một bản opera nào từng được viết trong lịch sử âm nhạc thế giới”. Các trạng thái tâm lý của Kim Chính Nhật có thể ảnh hưởng đến thời tiết: ông buồn, thời tiết xấu đi, ông vui, trời sẽ đẹp và ấm hơn. Người ta lại nói: cả đời ông không hề đi tiêu hay đi tiểu. Lần đầu tiên chơi golf, ông đã lập được kỷ lục thế giới và vì đã lập được kỷ lục nên ông không thèm chơi nữa. Bằng cách nhét miếng thịt vào giữa hai lát bánh mì để cầm ăn cho dễ, ông được lịch sử Bắc Triều Tiên ghi công là đã phát minh ra hamburger, sau đó, Tây phương bắt chước. Ngày ông chết, cả trời đất cũng tiếc thương: các mảnh băng tự động tan ra; chim chóc cất lên tiếng khóc.
Những chuyện như vậy, ở Tây phương, người ta xem như những chuyện buồn cười, lố bịch (ridiculous), thậm chí, điên khùng (crazy), nhưng ở Bắc Triều Tiên, do chính sách ngu dân và nhồi sọ triền miên, cả triệu người vẫn xem các quái thai ấy như những bậc thần thánh.
Kết quả là gì? Trước đây, trong bài “Nam và Bắc Hàn”, tôi có so sánh các thành tựu giữa hai miền Bắc và Nam của Triều Tiên từ sau năm 1953. Trên báo chí Tây phương thời gian vừa qua, nhân vụ đe dọa mới nhất của Kim Chính Ân, nhiều người cũng lại làm điều ấy. Cùng trải qua ba năm nội chiến (1950-1953) với những đau thương mất mát như nhau, mấy chục năm sau, trong khi Nam Triều Tiên, với thu nhập bình quân đầu người 32.000 Mỹ kim/năm, là một trong những quốc gia phát triển và giàu có nhất thế giới, Bắc Triều Tiên, với thu nhập đầu người 1.800 Mỹ kim/năm, vẫn là một trong những nước cực kỳ lạc hậu và nghèo nàn. Tuổi thọ trung bình ở miền Nam là 79.3; ở miền Bắc là 69.2; tỉ lệ tử vong trên 1.000 bé sơ sinh, ở miền Nam là 4.08, ở miền Bắc là 26.21; tỉ lệ sử dụng internet, ở miền Nam là 81.5%, ở miền Bắc là dưới 0.1%; số tiền đến từ xuất cảng mỗi năm ở miền Nam là 552.6 tỉ, ở miền Bắc là 4.71 tỉ. Kinh tế Bắc Triều Tiên yếu đến độ chỉ riêng thu nhập của công ty Samsung ở Nam Triều Tiên (247 tỉ năm 2011) đã nhiều gấp sáu lần tổng sản lượng nội địa của Bắc Triều Tiên!
Trong khi chính quyền Bắc Triều Tiên đổ tiền ra chế tạo vũ khí hạt nhân và không ngừng khiêu khích thế giới, dân chúng lúc nào cũng chìm đắm trong đói khổ. Năm nào cũng có người chết đói. Riêng năm 2010, có vùng số người chết đói đến ba phần trăm (hay 30 người trên mỗi 1.000 dân). Liên Hiệp Quốc ước lượng, trong năm 2011, khoảng một phần ba trẻ em bị suy dinh dưỡng.
Với tư cách người Việt Nam, chúng ta chú ý đến sự nghèo đói, độc tài, tàn bạo và nguy hiểm của Bắc Triều Tiên cũng như những sự cách biệt một trời một vực giữa hai miền Bắc và Nam của Triều Tiên không phải chỉ là một tò mò bình thường. Mà còn là một nhu cầu nhận thức: Những sự khác biệt ấy, tự bản chất, là những khác biệt thuộc về chế độ.
Mà chế độ là một lựa chọn.Dĩ nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng được phép, trên thực tế, lựa chọn chế độ. Nhưng chúng ta có thể bắt đầu sự lựa chọn ấy, trước hết, bằng nhận thức.
Ít nhất đủ để nhận diện được các quái thai chung quanh ta. Có khi rất gần với chúng ta.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Về hai tham vọng của Karl Marx, các nhà hậu hiện đại (postmodernist) đã chứng minh đó chỉ là một ảo tưởng khi cho thời đại của các đại tự sự đã qua; lịch sử các nước xã hội chủ nghĩa từ Đông Âu đến châu Á chứng minh thêm: đó là một ảo tưởng đầy tai họa dẫn đến những cái chết thảm khốc của cả hàng trăm triệu người và sự đau khổ của cả tỉ người khác. Xuất phát từ sự khao khát công bằng và công chính cho mọi người, lý thuyết của Marx lại đẻ ra những chế độ độc tài và tàn bạo không thua bất cứ một chế độ độc tài và tàn bạo nào trong lịch sử.
Tuy nhiên, ở đây lại có hai vấn đề cần chú ý. Thứ nhất, về phương diện lý thuyết, bất chấp vô số những khiếm khuyết, Marx vẫn là một trong những triết gia có ảnh hưởng lớn nhất trong nửa sau thế kỷ 19 và gần trọn thế kỷ 20; hơn nữa, nhiều quan điểm triết học và chính trị của Marx, cho đến nay, vẫn có những giá trị nhất định. Jacques Derrida có lần, trong cuốn Spectres de Marx, từng viết: “Sẽ là một sai lầm nếu [chúng ta] không đọc, đọc lại và thảo luận về Marx” (Dẫn theo Marcello Musto, “The rediscovery of Karl Marx”, IRSH số 52, 2007, tr. 496). Thứ hai, nói như Terry Eagleton, không nên bắt Marx phải chịu trách nhiệm về những vụ tàn sát tập thể, các trại cải tạo, các phong trào đại nhảy vọt và các cuộc thanh trừng đẫm máu dưới các chế độ Cộng sản, cũng giống như việc không thể bắt Chúa Jesus phải chịu trách nhiệm về các Tòa án xử những người bị xem là dị giáo (Inquisition) thời Trung cổ.
Thật ra, nghĩ cho cùng, không thể phủ nhận toàn bộ trách nhiệm của Karl Marx được. Rõ ràng, quan điểm về đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản của ông đã là nền tảng lý thuyết làm nảy sinh sự độc tài và tàn bạo của Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông cũng như vô số các nhà lãnh đạo Cộng sản khác. Bởi vậy, dù có ý thức hay không, Marx cũng đã để lại nhiều đứa con tinh thần, trong đó, có nhiều kẻ có thể xem là những quái thai. Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Nicolae Ceauşescu (ở Rumania) là những quái thai như thế. Và dĩ nhiên, không thể không kể đến dòng họ Kim ở Bắc Triều Tiên, từ Kim Nhật Thành (Kim Il-sung, 1912-1994) đến Kim Chính Nhật (Kim Jong-il, 1942-2011) và gần đây, Kim Chính Ân (Kim Jong-un).
So với các lãnh tụ Cộng sản khác, dòng họ Kim hoàn toàn không thua kém về mức độ độc tài và tàn bạo, về “thành tích” giết người và đày đọa dân chúng. Họ còn hơn hẳn những người khác trong việc duy trì một chế độ cha truyền con nối kéo dài, đến nay là ba đời, trên 60 năm (ở Cuba, Fidel Castro “truyền ngôi” lại cho em ruột, Raul Castro; tổng cộng thời gian trị vì của cả hai, đến nay, mới hơn 50 năm). Họ cũng nổi bật hơn hẳn những người khác về “tài” gây chú ý trên thế giới. Cứ vài ba năm một lần, họ lại làm cho cả thế giới thót tim hồi hộp theo dõi nhất cử nhất động của họ. Mới nhất, trong tháng Tư này, họ lớn tiếng đe dọa tấn công Nam Triều Tiên và cả Mỹ bằng vũ khí hạt nhân. Giới bình luận chính trị và có lẽ cả giới lãnh đạo Tây phương đều cho đó là những lời nói khoác lác. Tuy nhiên, không phải vì thế mà người ta không căng mắt ra theo dõi từng động thái ở Bình Nhưỡng. Trong tuần lễ đầu tiên của tháng Tư, tên “North Korea” đứng hàng thứ ba trong số các từ được sử dụng phổ biến nhất trên Twitter, chỉ sau “Easter” và “Good Friday”. Các cuộc điều tra dư luận cho thấy khoảng 36% người Mỹ theo dõi rất sát các diễn biến liên quan đến Bắc Triều Tiên và 56% dân chúng cho sự đe dọa của Bắc Triều Tiên là nghiêm trọng.
Các lãnh tụ của Nam Triều Tiên, Mỹ và Nhật đều cố gắng tỏ ra bình tĩnh nhưng cũng không giấu được sự căng thẳng.
Một số nhà bình luận chính trị quốc tế gọi cha con Kim Chính Nhật và giới lãnh đạo Bắc Triều Tiên nói chung là những bậc thầy trong nghệ thuật khiêu chiến (master of brinkmanship) và là những bậc thầy trong những cú đánh lừa (master of rope-a-dope). Kim Chính Ân có vẻ muốn nối gót cha mình, nhưng chưa ai dám chắc lần này ông có thành công hay không.
“Bậc thầy”, nghe rất sang trọng. Mà cũng phải. Những “bậc thầy” ấy đã thắng nhiều trận. Năm 1993, sau một lần đe dọa tấn công Nam Triều Tiên, họ được Mỹ hứa hẹn viện trợ lương thực để cứu đói dân chúng. Năm 2003, khi rút tên ra khỏi Hiệp ước phi hạt nhân (Non-proliferation Treaty, NPT), họ lại được dỗ dành. Năm 2005, khi từ chối tham gia vào cuộc Hội nghị sáu bên (Six Party Talks) về vấn đề giải trừ vũ khí hạt nhân, họ cũng lại được dỗ dành. Năm 2006, khi tiến hành thử vũ khí hạt nhân lần thứ nhất, họ cũng được dỗ dành. Năm 2008, khi trục xuất phái đoàn điều tra vũ khí hạt nhân của Liên Hiệp Quốc ra khỏi Bắc Triều Tiên, họ cũng được dỗ dành. Năm 2009, khi thử hạt nhân lần thứ hai, họ cũng được dỗ dành. Năm 2010, họ đánh chìm tàu thủy của Nam Triều Tiên, giết chết 46 thủy thủ, Nam Triều Tiên và Mỹ cũng đều nhường nhịn, không có một phản ứng nào cả. Cứ mỗi lần như thế, bộ máy tuyên truyền của Bắc Triều Tiên lại huênh hoang cho là họ đã thắng cả Nam Triều Tiên lẫn Mỹ.
Nhưng tất cả đều là những phép thắng lợi tinh thần theo kiểu AQ của Lỗ Tấn. Nghèo kiết xác, lúc nào cũng bị người trong làng khinh bỉ, nhưng AQ vẫn tự hào là con cháu mình sau này sẽ giàu có hơn hẳn người khác. Bị người ta đánh, không dám đánh trả, AQ vẫn cứ tự hào “Nó đánh mình thì khác gì nó đánh bố nó. Thật thời buổi này hết chỗ nói!” Thế là hắn lại hớn hở ra vẻ đắc thắng.
Bộ máy tuyên truyền Bắc Triều Tiên không ngừng tô vẽ các gã AQ chễm chệ trên đỉnh cao quyền lực ở nước họ như những thần linh. Ngày Kim Chính Nhật chào đời có hai chiếc cầu vồng lấp lánh xuất hiện trên bầu trời. Ra đời được ba tuần, ông đã biết đi; tám tuần đã biết nói. Khi học đại học, trong vòng ba năm, ông viết được trên 1.500 cuốn sách và sáu bản opera. Các bản nhạc này được giới phê bình Bắc Triều Tiên khen là “hay hơn bất cứ một bản opera nào từng được viết trong lịch sử âm nhạc thế giới”. Các trạng thái tâm lý của Kim Chính Nhật có thể ảnh hưởng đến thời tiết: ông buồn, thời tiết xấu đi, ông vui, trời sẽ đẹp và ấm hơn. Người ta lại nói: cả đời ông không hề đi tiêu hay đi tiểu. Lần đầu tiên chơi golf, ông đã lập được kỷ lục thế giới và vì đã lập được kỷ lục nên ông không thèm chơi nữa. Bằng cách nhét miếng thịt vào giữa hai lát bánh mì để cầm ăn cho dễ, ông được lịch sử Bắc Triều Tiên ghi công là đã phát minh ra hamburger, sau đó, Tây phương bắt chước. Ngày ông chết, cả trời đất cũng tiếc thương: các mảnh băng tự động tan ra; chim chóc cất lên tiếng khóc.
Những chuyện như vậy, ở Tây phương, người ta xem như những chuyện buồn cười, lố bịch (ridiculous), thậm chí, điên khùng (crazy), nhưng ở Bắc Triều Tiên, do chính sách ngu dân và nhồi sọ triền miên, cả triệu người vẫn xem các quái thai ấy như những bậc thần thánh.
Kết quả là gì? Trước đây, trong bài “Nam và Bắc Hàn”, tôi có so sánh các thành tựu giữa hai miền Bắc và Nam của Triều Tiên từ sau năm 1953. Trên báo chí Tây phương thời gian vừa qua, nhân vụ đe dọa mới nhất của Kim Chính Ân, nhiều người cũng lại làm điều ấy. Cùng trải qua ba năm nội chiến (1950-1953) với những đau thương mất mát như nhau, mấy chục năm sau, trong khi Nam Triều Tiên, với thu nhập bình quân đầu người 32.000 Mỹ kim/năm, là một trong những quốc gia phát triển và giàu có nhất thế giới, Bắc Triều Tiên, với thu nhập đầu người 1.800 Mỹ kim/năm, vẫn là một trong những nước cực kỳ lạc hậu và nghèo nàn. Tuổi thọ trung bình ở miền Nam là 79.3; ở miền Bắc là 69.2; tỉ lệ tử vong trên 1.000 bé sơ sinh, ở miền Nam là 4.08, ở miền Bắc là 26.21; tỉ lệ sử dụng internet, ở miền Nam là 81.5%, ở miền Bắc là dưới 0.1%; số tiền đến từ xuất cảng mỗi năm ở miền Nam là 552.6 tỉ, ở miền Bắc là 4.71 tỉ. Kinh tế Bắc Triều Tiên yếu đến độ chỉ riêng thu nhập của công ty Samsung ở Nam Triều Tiên (247 tỉ năm 2011) đã nhiều gấp sáu lần tổng sản lượng nội địa của Bắc Triều Tiên!
Trong khi chính quyền Bắc Triều Tiên đổ tiền ra chế tạo vũ khí hạt nhân và không ngừng khiêu khích thế giới, dân chúng lúc nào cũng chìm đắm trong đói khổ. Năm nào cũng có người chết đói. Riêng năm 2010, có vùng số người chết đói đến ba phần trăm (hay 30 người trên mỗi 1.000 dân). Liên Hiệp Quốc ước lượng, trong năm 2011, khoảng một phần ba trẻ em bị suy dinh dưỡng.
Với tư cách người Việt Nam, chúng ta chú ý đến sự nghèo đói, độc tài, tàn bạo và nguy hiểm của Bắc Triều Tiên cũng như những sự cách biệt một trời một vực giữa hai miền Bắc và Nam của Triều Tiên không phải chỉ là một tò mò bình thường. Mà còn là một nhu cầu nhận thức: Những sự khác biệt ấy, tự bản chất, là những khác biệt thuộc về chế độ.
Mà chế độ là một lựa chọn.Dĩ nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng được phép, trên thực tế, lựa chọn chế độ. Nhưng chúng ta có thể bắt đầu sự lựa chọn ấy, trước hết, bằng nhận thức.
Ít nhất đủ để nhận diện được các quái thai chung quanh ta. Có khi rất gần với chúng ta.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
TIN TỨC GẦN XA
Công nhận VNCH vì biển đảo ngày nay?
Cập nhật: 09:14 GMT - thứ hai, 15 tháng 4, 2013
Những định nghĩa pháp lý
cho các chính thể Việt trong cuộc chiến chấm dứt ngày 30/4/1975 có vai
trò quan trọng cho lập luận của Việt Nam về chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự quan trọng này không chỉ vì công hàm 1958 của
Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng, mà còn vì
Hà Nội đã không khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ
năm 1954 đến 1975-1976.Quốc gia duy trì chủ quyền
Tòa nói công hàm 1953 của Johor, nay là một tiểu bang của Malaysia, trả lời Singapore rằng Johor không đòi chủ quyền trên đảo này, không có hệ quả pháp lý mang tính quyết định và không có tính chất ràng buộc cho Johor.
Nhưng Tòa lại dựa vào việc trước và sau đó Johor và Malaysia không khẳng định chủ quyền và dùng công hàm 1953 của Johor như một trong những chứng cớ quan trọng cho việc Malaysia không đòi chủ quyền, để kết luận rằng tới năm 1980 chủ quyền đã rơi vào tay Singapore.
Bài học cho Việt Nam là: bất kể ban đầu Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, và dù cho chúng ta có biện luận thành công rằng công hàm của Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng không có tính ràng buộc về hai quần đảo này đi nữa, việc VNDCCH không khẳng định chủ quyền trong hơn 20 năm, trong khi các quốc gia khác làm điều đó, có khả năng sẽ làm cho VNDCCH không còn cơ sở để đòi chủ quyền nữa.
Vì vậy, trong lập luận pháp lý của Việt Nam phải có sự khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo này từ một chính phủ khác, lúc đó là đại diện hợp pháp cho một quốc gia Việt nào đó.
Trên lý thuyết, nếu chứng minh được từ năm 1954 đến 1975 chỉ có một quốc gia, và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là đại diện hợp pháp duy nhất của quốc gia đó, thì điều đó cũng đủ là cơ sở cho lập luận pháp lý của Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa.
Trên thực tế, thứ nhất, chưa chắc chúng ta sẽ chứng minh được điều đó; thứ nhì, chính phủ Việt Nam ngày nay sẽ khó chấp nhận một chiến lược pháp lý dựa trên giả thuyết này.
Vì vậy, chiến lược khả thi hơn cho lập luận pháp lý của Việt Nam cần dựa trên điểm then chốt là từ năm 1958 đến 1976 có hai quốc gia khác nhau trên đất nước Việt Nam.
Phân tích này sử dụng ba khái niệm sau.
Đất nước, là một khái niệm địa lý, bao gồm một vùng lãnh thổ với dân cư. Chính phủ, là cơ quan hành pháp và đại diện. Quốc gia (trong bài này từ “quốc gia” được dùng với nghĩa State/État), là một chủ thể chính trị và pháp lý.
Trong Công ước Montevideo 1933, một quốc gia phải có lãnh thổ, dân cư, chính phủ, và khả năng có quan hệ ngoại giao với các quốc gia khác.
Thực chất, trong công pháp quốc tế chỉ có định nghĩa quốc gia như một chủ thể có năng lực pháp lý và năng lực hành vi (tức là có các quyền và nghĩa vụ phát sinh trực tiếp từ luật quốc tế) và chính phủ là thành phần của chủ thể đó, chứ không có khái niệm đất nước.
Một lãnh thổ - hai quốc gia
Hiệp định Genève 1954 chia đôi Việt Nam thành hai vùng tập kết quân sự. Mặc dù không chia Việt Nam thành hai quốc gia, Hiệp định đã tạo ra một ranh giới tại vĩ tuyến 17 giữa hai chính phủ đang tranh giành quyền lực, và ranh giới đó đã tạo điều kiện cho sự hiện hữu của hai quốc gia.Việc VNCH không chấp nhận thực hiện tổng tuyển cử vào năm 1956 đã làm cho ranh giới đó trở thành vô hạn định.
Điều có thể gây nghi vấn về sự hiện hữu của hai quốc gia là hiến pháp của VNDCCH và VNCH có vẻ như mâu thuẫn với sự hiện hữu đó.
Tới năm 1956, Hiến Pháp VNDCCH viết “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia”, và Hiến Pháp VNCH viết “Ý thức rằng Hiến pháp phải thực hiện nguyện vọng của nhân dân, từ Mũi Cà Mâu đến Ải Nam Quan” và “Việt Nam là một nước Cộng hòa, Độc lập, Thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.”
Nhưng sự mâu thuẫn đó không có nghĩa không thể có hai quốc gia.
Hiến pháp của Bắc Triều Tiên viết Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên là đại diện cho dân tộc Cao Ly, hiến pháp của Nam Hàn viết lãnh thổ của Đại Hàn Dân Quốc là bán đảo Cao Ly và các hải đảo, nhưng Bắc Triều Tiên và Nam Hàn vẫn là hai quốc gia.
Như vậy, có thể cho rằng từ năm 1956 hay sớm hơn đã có hai quốc gia, trên lãnh thổ Việt Nam, với vĩ tuyến 17 là biên giới trên thực tế giữa hai quốc gia đó.
Việc có hai quốc gia là cơ sở để cho rằng VNCH có thẩm quyền để khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa; VNDCCH không có thẩm quyền lãnh thổ gì đối với hai quần đảo đó.
Khi Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CPCMLT) ra đời ngày 8/6/1969, có thể cho rằng trong quốc gia với tên VNCH, về mặt pháp lý, có hai chính phủ cạnh tranh quyền lực với nhau: chính phủ VNCH và CPCMLT.
Khi VNDCCH công nhận CPCMLT là đại diện hợp pháp cho phía nam vĩ tuyến 17 thì có nghĩa VNDCCH công nhận trên diện pháp lý rằng phía nam vĩ tuyến 17 là một quốc gia khác.
Nhưng tới năm 1969 CPCMLT mới ra đời, và cho tới năm 1974 mới có một tuyên bố chung chung về các nước liên quan cần xem xét vấn đề biên giới lãnh thổ trên tinh thần bình đẳng, vv, và phải giải quyết bằng thương lượng.
Vì vậy, nếu chỉ công nhận CPCMLT thì cũng không đủ cho việc khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ thập niên 1950.
Quá trình thống nhất
Ngày 30/4/75, VNCH sụp đổ, còn lại duy nhất CPCMLT trong quốc gia phía nam vĩ tuyến 17. CPCMLT đổi tên quốc gia đó thành Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN), nhưng đó chỉ là sự thay đổi chính phủ và đổi tên, không phải là sự ra đời của một quốc gia mới.Sự thống nhất này đã không bị Liên Hiệp Quốc hay quốc gia nào lên tiếng phản đối.
Năm 1977, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được chấp nhận tham gia Liên Hiệp Quốc.
CHXHCNVN kế thừa vai trò của hai quốc gia VNDCCH và VNCH/CHMNVN trong các hiệp định và các tổ chức quốc tế, kế thừa lãnh thổ và thềm lục địa của VNCH/CHMNVN trong các tranh chấp với Campuchia, Thái Lan, Malaysia và Indonesia, và mặc nhiên có quyền kế thừa Hoàng Sa, Trường Sa từ VNCH/CHMNVN.
Lịch sử pháp lý trên nghe có vẻ sách vở, nhưng thực tế của nó là bom đạn, xương máu, và nhiều cảnh huynh đệ tương tàn.
Mặc dù lịch sử pháp lý đó đã kết thúc bằng một
quốc gia trên đất nước (lãnh thổ) Việt Nam thống nhất, nó là một cuộc bể
dâu làm đổ nhiều xương máu.
Nhưng quá khứ thì không ai thay đổi được, và
tương lai thì không ai nên muốn đất nước Việt Nam lại bị chia đôi thành
hai quốc gia lần nữa.
Cuộc bể dâu đó cũng đã góp phần làm cho Hoàng Sa
bị Trung Quốc chiếm đóng, và để lại cho Trung Quốc một lập luận lợi
hại, rằng trước 1975 Việt Nam không tuyên bố chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa, và đã công nhận chủ quyền Trung Quốc trên hai quần
đảo này.
Nhưng việc đã từng có hai quốc gia trên một đất
nước (lãnh thổ) Việt Nam trong giai đoạn 1956 đến 1976, và việc, vào năm
1976, hai quốc gia đó thống nhất thành một một cách hợp pháp, là một
yếu tố quan trọng trong lập luận về Hoàng Sa, Trường Sa.
Ngày nay, chính phủ Việt Nam một mặt viện dẫn
các tuyên bố và hành động chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa về Hoàng
Sa, Trường Sa, nhưng mặt kia vẫn e ngại việc công nhận cụ thể và rộng
rãi rằng Việt Nam Cộng Hòa từng là một quốc gia, mặc dù trong quá khứ
Hà Nội đã công nhận rằng Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một quốc
gia.
Việc không công nhận cụ thể và rộng rãi rằng
VNCH đã từng là một quốc gia làm giảm đi tính thuyết phục của việc viện
dẫn các tuyên bố và hành động chủ quyền của VNCH về Hoàng Sa, Trường Sa,
vì các tuyên bố và hành động chủ quyền phải là của một quốc gia thì mới
có giá trị pháp lý.
Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần phải bỏ sự e ngại này.
Mặt khác, Việt Nam cũng cần phải hạn chế tối đa
những gì Trung Quốc có thể lợi dụng để tuyên truyền rằng CHXHCNVN ngày
nay chỉ là VNDCCH, chẳng hạn như không nên đổi tên nước thành VNDCCH.Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Dương Danh Huy, Phạm Thanh Vân và Nguyễn Thái Linh từ Quỹ Nghiên cứu Biển Đông. Các tác giả cảm ơn GS Phạm Quang Tuấn đã góp ý cho bài.
Bắc Triều Tiên ra tối hậu thư cho Hàn Quốc
Lãnh đạo Bình Nhưỡng Kim Jong-un trước ảnh ông nội Kim Il-sung, người sáng lập chế độ Bắc Triều Tiên.
REUTERS/KCNA
Cảnh báo của Bắc Triều Tiên được đưa ra sau khi Ngoại trưởng Mỹ
John Kerry kết thúc chuyến công du Đông Bắc Á bốn ngày, để bày tỏ sự
ủng hộ với các đồng minh Hàn Quốc và Nhật Bản, đồng thời yêu cầu Trung
Quốc gây áp lực lên quốc gia láng giềng.
Ngân sách quốc phòng Hàn Quốc hôm nay đã được bổ sung 217,4 tỉ won (tương đương 150 triệu euro), chủ yếu tập trung cho các thiết bị quân sự tại các hòn đảo gần biên giới trên biển với Bắc Triều Tiên, và duy trì một “đội quân trên mạng” có nhiệm vụ chống lại các vụ tấn công tin học từ phương Bắc.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130416-bac-trieu-tien-ra-toi-hau-thu-cho-han-quoc
Hôm qua 15/4, nhân kỷ niệm lần thứ 101 sinh nhật Kim Il Sung (Kim
Nhật Thành), người sáng lập Nhà nước Bắc Triều Tiên và là ông nội của
lãnh đạo đương nhiệm, khoảng bốn chục người biểu tình ở Seoul đã đốt
chân dung các lãnh tụ Bình Nhưỡng, từ Kim Il Sung, Kim Jong Il đã qua
đời cho đến Kim Jong Un.
Cho rằng đây là những hành động “khủng khiếp” và “đáng nguyền rủa gấp
ba lần”, Tổng tư lệnh tối cao quân đội Bắc Triều Tiên hôm nay cảnh cáo,
“hành động trả đũa của Bình Nhưỡng sẽ bắt đầu ngay từ bây giờ mà không
cần báo trước, nếu các hành động tội phạm xúc phạm đến danh dự lãnh tụ
Bắc Triều Tiên tiếp diễn tại Seoul”.
Từ nhiều tuần qua, cộng đồng quốc tế lo ngại Bình Nhưỡng sẽ mừng ngày
sinh nhật lãnh tụ 15/4 bằng cách bắn hỏa tiễn. Nhưng quân đội Bắc Triều
Tiên chỉ đưa ra tối hậu thư cho Hàn Quốc, nói thêm rằng nếu Seoul thực
sự muốn đối thoại và thương lượng thì cần phải xin lỗi về các hành động
thù địch.
Bộ Quốc phòng Hàn Quốc cho rằng lời tuyên bố trên là “đáng tiếc”,
nhắc lại là Seoul sẽ “có những biện pháp trả đũa nghiêm khắc và kiên
quyết trong trường hợp bị khiêu khích”. Hôm qua từ Tokyo, Ngoại trưởng
Mỹ John Kerry nhấn mạnh “Hoa Kỳ vẫn mở cửa cho các cuộc đối thoại trung
thực và đáng tin cậy về giải trừ hạt nhân”, nhưng “quả bóng đang ở phần
sân của Bình Nhưỡng”.
Kim Yong Hyun, chuyên gia về Bắc Triều Tiên của Dongguk University
tại Seoul ghi nhận có một sự mềm dẻo tương đối trong tuyên bố của Bình
Nhưỡng, với việc nhấn mạnh điều kiện tái lập thương thảo. Cho đến nay,
Bắc Triều Tiên vẫn luôn bác bỏ việc mở ra đối thoại, chẳng hạn cho rằng
lời kêu gọi thương lượng về khu công nghiệp Kaesong từ Seoul là “xảo
trá”.
Tại Washington, Nhà Trắng hôm qua khẳng định các điều kiện tái lập
thương thuyết với Bình Nhưỡng vẫn không thay đổi. Hoa Kỳ cũng đã mời
Tổng thống Hàn Quốc Park Geun Hye đến viếng thăm ngày 7/5, và cuộc hội
đàm đầu tiên giữa hai nguyên thủ Mỹ-Hàn sẽ giúp tiếp tục phối hợp để
“giải trừ hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên và chống lại mối đe dọa từ
phương Bắc”.
Tình hình bán đảo Triều Tiên trở nên hết sức căng thẳng sau khi Liên
Hiệp Quốc đưa ra các biện pháp trừng phạt mới vì Bình Nhưỡng thử nguyên
tử lần thứ ba ngày 12/2. Tức giận trước cuộc tập trận chung Mỹ-Hàn, Bắc
Triều Tiên đã đe dọa “chiến tranh nhiệt hạch” đối với Hoa Kỳ và Hàn
Quốc, “ngọn lửa hạt nhân” cho Nhật Bản.
Cũng trong hôm nay, một trực thăng của quân đội Mỹ chở 16 người tham
gia tập trận, đã bị rơi gần biên giới liên Triều, nhưng không có ai bị
thương.
Theo tình báo Hàn Quốc, Bắc Triều Tiên vừa triển khai ở bờ biển phía
Đông hai hỏa tiễn Musudan, có tầm bắn lý thuyết từ 3.000 đến 4.000 km,
có thể bay đến Hàn Quốc, Nhật Bản và đảo Guam của Hoa Kỳ.Ngân sách quốc phòng Hàn Quốc hôm nay đã được bổ sung 217,4 tỉ won (tương đương 150 triệu euro), chủ yếu tập trung cho các thiết bị quân sự tại các hòn đảo gần biên giới trên biển với Bắc Triều Tiên, và duy trì một “đội quân trên mạng” có nhiệm vụ chống lại các vụ tấn công tin học từ phương Bắc.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130416-bac-trieu-tien-ra-toi-hau-thu-cho-han-quoc
Mỹ sẵn sàng thương lượng với Bắc Triều Tiên
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry nói chuyện với các nhân viên sứ quán Hoa Kỳ tại Tokyo, 15/04/2013
REUTERS
Chuyến công du ba nước châu Á của Ngoại trưởng Mỹ nhằm tìm cách
hạ nhiệt trên bán đảo Triều Tiên, đồng thời, trấn an đồng minh Hàn Quốc
và Nhật Bản. Lãnh đạo ngoại giao Mỹ nhấn mạnh : « Có điều chắc chắn là chúng tôi đoàn kết
». Trước đó, khi tới Seoul, ông John Kerry cũng đã khẳng định sự ủng hộ
hoàn toàn của Washington với đồng minh Hàn Quốc trước những đe dọa « hủy diệt hạt nhân » từ Bắc Triều Tiên.
Washington đã nhiều lần nhắc lại chỉ nói chuyện với Bình Nhưỡng trong
khuôn khổ vòng đàm phán 6 bên về hồ sơ giải trừ hạt nhân Bắc Triều
Tiên, gồm hai miền Triều Tiên, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và Nga. Lần
này, ông Kerry tiếp tục nhấn mạnh thiện chí thương lượng, đồng thời cũng
gợi ý về khả năng mở ra các hướng đàm phán mới.
Tại Bình Nhưỡng lúc này đang tràn ngập không khí kỷ niệm sinh nhật
thứ 101 của Kim Nhật Thành, người sáng lập chế độ và là ông nội của Kim
Jong Un. Trong khi đó, ở bên ngoài Bắc Triều Tiên, cộng đồng quốc tế
đang lo ngại Bình Nhưỡng có thể bắn thử tên lửa nhân dịp kỷ niệm này. Đó
là việc làm mà ông John Kerry đánh giá là một « sai lầm lớn » của Bình Nhưỡng.
Hôm qua, 14/04, Bình Nhưỡng cũng đã bác bỏ đề nghị đàm phán về việc mở lại khu công nghiệp Kaesong của Seoul.
Trong cố gắng tìm cách kiềm chế Bắc Triều Tiên, tại Bắc Kinh, Ngoại
trưởng Mỹ đã thúc giục Trung Quốc gây sức ép mạnh hơn với người đồng
minh cộng sản. Ông Kerry cho rằng, giải quyết vấn đề hạt nhân Bắc Triều
Tiên là có lợi cho tất cả các bên liên quan.
Trước đây ít hôm, tại diễn đàn Bác Ngao, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình đã có phát biểu được giới quan sát cho là ngầm gửi Bắc Triều Tiên,
nói rằng, không một ai có quyền « đẩy châu Á vào hỗn loạn ».
No comments:
Post a Comment