NGUYỄN QUỐC CHÁNH* QUÊ HƯƠNG VÀ CHỦ NGHĨA
Quê Hương và Chủ Nghĩa
|
|
Tác Giả : Nguyễn Quốc Chánh, Saigon
|
Chủ nghiã dạy em, thù hận hờn căm
Chủ nghiã dạy em, độc ác bất nhân Chủ nghiã dạy em, lọc lừa xảo trá Chủ nghiã dạy em, dối gian trăm ngả Chủ nghiã dạy em, bội phản vong ân Chủ nghiã dạy em, giết chết lương tâm Chủ nghiã dạy em, vô thần đấu tố Chủ nghiã mù, rước voi dày mả Tổ Chủ nghiã ngu, thờ đồ tể ngoại bang Chủ nghiã bưng bô, xây dựng thiên đàng Chủ nghiã lừa em, những con bò sữa Chủ nghiã bất lương, ma cô nhà chứa Chủ nghiã tú bà, dụ dỗ thơ ngây Chủ nghiã cò mồi, vơ vét luôn tay Chủ nghiã cai thầu, bán buôn Tổ-Quốc Chủ nghiã lưỡi câu, móc mồi dân tộc Chủ nghiã bịp lừa, bánh vẽ tự do Chủ nghiã cá ươn, tư tưởng vong nô Chủ nghiã chết đi, Quê Hương vẫn sống Ai nhân danh hạnh phúc Thứ hạnh phúc ngục tù Ai nhân danh dân chủ Thứ dân chủ si ngu Ai nhân danh chân lý Thứ chân lý đui mù Bao nhiêu năm, ai nhân danh chủ nghiã, Tự-Do xích xiềng, Dân-Chủ dối gian Mác-Lênin, đâu phải người Việt Nam ! Sự thật đó có làm em đau nhói ? Vẫn chập chờn lượn bay bầy quạ đói Chồn cáo kia có rình rập trước sau Ngẩng mặt cao và đừng sợ đớn đau Đứng lên em bằng tâm hồn biển động. Em đứng lên như đại dương dậy sóng Tiếng sét thần tuổi trẻ nổ ầm vang Những tượng hình, chủ nghiã, phải tiêu tan Cây Dân-Chủ bừng lên ngàn sức sống, Em bây giờ khôn lớn Mắt rực lửa yêu thương, Biết đâu là sự thật Em tìm thấy con đường. Tự-Do sẽ nở hoa Trên quê hương khốn khó Anh như con ngựa già Vẫn cúi đầu kiên nhẫn Đốt những đám cỏ khô Dọn đường cho em đi làm lịch sử Nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh sinh năm 1958 ở Bạc Liêu, hiện sống tại Sài Gòn. Tác giả của nhiều tập thơ như Ðêm mặt trời mọc, Khí hậu đồ vật và Của căn cước ẩn dụ, và Ê, tao đây.
Thơ
của ông đã được nhiều tác giả dịch ra tiếng Anh. Trong bài phỏng vấn
dành cho nhà văn Vi Ký, nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh nhận xét về đảng Cộng
Sản:
“Ðảng Cộng sản thắng Tây và Mỹ bằng máu của dân tộc, bằng vũ khí của Nga và Tàu, rồi nộp “độc lập dân tộc” cho cộng sản Tàu và Nga.
Ai chỉ ra tình trạng thế chấp và bán đứng đó đều bị cho là phản động. Kẻ phản động có thể gây tai họa cho Ðảng nhưng lại là phúc của dân.
Những ai vì Ðảng sẽ kết án kẻ phản động, còn những ai vì con người thì sẽ hoan hô kẻ phản động. Hãy nhớ câu nói lịch sử của ông Nguyễn Văn Thiệu: “Ðừng tin những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn những gì cộng sản làm”. (Gửi tuổi trẻ Việt Nam ) Em hãy ngồi xuống đây Anh kể câu chuyện này Trên cánh đồng cỏ cháy Ngậm ngùi như khói bay Con ngựa già một đời Chưa thấy được ngày vui Mắt mỏi mòn trông đợi Những mầm cỏ xanh tươi. Đã bao nhiêu năm rồi Hướng nhìn về xa xôi Tâm tư đau nhức nhối Cuộc đời vẫn nổi trôi Em nhìn về tương lai Cố dấu tiếng thở dài Mắt dường như ngấn lệ Có phải vì khói cay? Em thấy đó, trên đường đi không đến, Quê hương đau, chồn cáo vẫn nghêng ngang Những con thú người nhảy múa kiêu căng Ngửa mặt hú một bài ca chủ nghiã. Ngôn ngữ văn nô, đỉnh cao trí tuệ. |
_
QUÝ THỂ * CỔ THỤ LÙN
CỔ THỤ LÙN QUÝ THỂ
Nhát cuốc cuối cùng làm bật lên tảng đất màu vàng mỡ màng, mình đất phô
ra những hạt cát thạch anh lấp lánh trong vắt. Làn hơi đất
Sau biến cố tang thương, đất nước đổi chủ cả hai chúng tôi bị đày vào chốn hoang sơ cùng cực này, tôi tìm được ông và ông bắt được tôi. Tôi cho rằng trong cuộc hội ngộ này có bàn tay sắp đặt của vị ác thần. Một cơ hội tàn nhẫn cho cả hai phải chứng kiến số phận của nhau. Tôi bỗng dưng hoá thành nhân chứng và là người tham dự một phần trong cuộc đời đầy thử thách gian nan, long đong kì dị, tối tăm cùng cực của một nhân cách sáng trưng tuyệt vời. Chúng tôi nương tựa vào nhau để tồn tại, tìm chút hơi ấm tình người để không mất niềm tin vào con người.
Cuối năm 74 ông trở về Việt Nam để chịu tang mẹ và bị kẹt lại. Ở nước ngoài ông được biết như một nhà bác học với tất cả cái nghĩa đích thực. Năm 60 ông đỗ tú tài và nhận học bỗng Colombo du học ngành y ở Pháp. Ra trường, ông là bác sĩ nội trú tại bệnh viện Saint-Louis ở Paris. Sau ông dạy tại trường Y khoa Paris. Ông là một giáo sư danh tiếng chuyên ngành cấy ghép. Rồi ông không đi dạy nữa mà nghiên cứu ngành ghép tuỷ chữa ung thư máu thuộc viện Pasteur. Ông có quốc tịch Pháp, vợ Pháp và hai con. Cả đời ông làm khoa học và phục vụ loài người. Ông không quan tâm đến chính trị.
Thế mà ông lại tình cờ rơi đúng vào tâm cơn bão tồi tệ mùa xuân 75. Ông bị cuốn phăng đi như chiếc lá khô. Tai hại thay, cái tính ngây thơ chuyện đời kiểu bác học khiến ông hành động như trẻ con. Ông kể lại cho tôi nghe về những ngày đầu tiên: Mẹ tôi bị ung thư đến giai đoạn cuối, theo y học thì khó lòng chờ đợi đứa con thân yêu từ phương trời tây trở về để vuốt mắt. Thế mà bà vẫn sống ngoài qui luật sinh học và sự tiên liệu của tất cả bác sĩ, chờ gặp tôi rồi mới ra đi.
Sau biến cố tang thương, đất nước đổi chủ cả hai chúng tôi bị đày vào chốn hoang sơ cùng cực này, tôi tìm được ông và ông bắt được tôi. Tôi cho rằng trong cuộc hội ngộ này có bàn tay sắp đặt của vị ác thần. Một cơ hội tàn nhẫn cho cả hai phải chứng kiến số phận của nhau. Tôi bỗng dưng hoá thành nhân chứng và là người tham dự một phần trong cuộc đời đầy thử thách gian nan, long đong kì dị, tối tăm cùng cực của một nhân cách sáng trưng tuyệt vời. Chúng tôi nương tựa vào nhau để tồn tại, tìm chút hơi ấm tình người để không mất niềm tin vào con người.
Cuối năm 74 ông trở về Việt Nam để chịu tang mẹ và bị kẹt lại. Ở nước ngoài ông được biết như một nhà bác học với tất cả cái nghĩa đích thực. Năm 60 ông đỗ tú tài và nhận học bỗng Colombo du học ngành y ở Pháp. Ra trường, ông là bác sĩ nội trú tại bệnh viện Saint-Louis ở Paris. Sau ông dạy tại trường Y khoa Paris. Ông là một giáo sư danh tiếng chuyên ngành cấy ghép. Rồi ông không đi dạy nữa mà nghiên cứu ngành ghép tuỷ chữa ung thư máu thuộc viện Pasteur. Ông có quốc tịch Pháp, vợ Pháp và hai con. Cả đời ông làm khoa học và phục vụ loài người. Ông không quan tâm đến chính trị.
Thế mà ông lại tình cờ rơi đúng vào tâm cơn bão tồi tệ mùa xuân 75. Ông bị cuốn phăng đi như chiếc lá khô. Tai hại thay, cái tính ngây thơ chuyện đời kiểu bác học khiến ông hành động như trẻ con. Ông kể lại cho tôi nghe về những ngày đầu tiên: Mẹ tôi bị ung thư đến giai đoạn cuối, theo y học thì khó lòng chờ đợi đứa con thân yêu từ phương trời tây trở về để vuốt mắt. Thế mà bà vẫn sống ngoài qui luật sinh học và sự tiên liệu của tất cả bác sĩ, chờ gặp tôi rồi mới ra đi.
Làm khoa học cả đời tôi không tin vào điều huyền hoặc. Song lần này hiển
nhiên quá mà tôi lại là người trong cuộc, làm sao không tin ngoài cái
thế giới vật chất này còn có thế giới của tâm linh? Bà ra đi nét mặt
thần thái toát lên vẻ thanh thản nhẹ nhàng. Chôn cất mẹ xong tôi rã rời
cả thân xác lẫn tâm hồn. Lúc đó tình hình chiến sự ở Huế đã nghiêm
trọng. Tôi vô Đà Nẵng, nơi đây còn hỗn độn hơn, ngoài đường đủ mọi sắc
lính, dân chúng người chạy ra bắc kẻ kéo vào nam. Tôi đi lùng một chiếc
vé máy bay đi Saigon, nhưng mọi chuyện đã trễ. Bằng đủ mọi phương tiện
di chuyển tôi chạy vào Nam với hy vọng mong manh sẽ kiếm được máy bay
qua Pháp. Nhưng đoàn người hàng vạn kéo nhau đến Nha Trang thì quân giải
phóng tràn vào, chận lại. Như thế là hết. Tôi phải làm gì ? Tôi làm
khoa học, không theo phe phái nào.
Tôi nghĩ chẳng ai làm gì mình. Song nhiều người quen biết tôi họ nói:
Trong cao trào này, một con người như ông, được đào tạo ở nước ngoài, cả
đời sống ở nước ngoài, mới ở nước ngoài trở về, quốc tịch Pháp, da dẻ
trắng trẻo hồng hào, nội cái đó cũng đủ cho đi tù rục xương. Tôi nghe có
lý. Làm sao để được yên thân? Tôi hành động theo kiểu tôi nghĩ và cho
là đúng. Trước tiên tôi đốt mọi thứ giấy tờ có liên hệ xa hoặc gần với
tôi. Đốt một cách bí mật hồi hộp. Đêm lại , tôi lấy cớ đun nước, tôi mò
xuống bếp khơi lửa cho vào đó cái passport, cái căn cước, nhiều giấy tờ,
hàng trăm tấm danh thiếp. Số giấy tờ cần thiết cho cả một đời người chỉ
vừa đủ đun sôi ấm nước nhỏ. Tôi còn lén mang ra khỏi nhà một quãng thực
xa vất chiếc va li áo quần và bao nhiêu vật dụng cần thiết, làm như tất
cả chúng mang mầm bệnh dịch hạch. Sau đó tôi chẳng còn gì thuộc về dĩ
vãng nữa.
Tôi suy nghĩ, hãy làm như mọi người và tuân theo mệnh lệnh của người cầm quyền thì sẽ được yên thân. Lúc này người ta kêu gọi bỏ thành phố về nông thôn tăng gia sản xuất. Ai không có đất thì xung phong đi xây dựng vùng kinh tế mới. Tôi nhờ cô em bán giùm tôi một cái biệt thự sang trọng được hai ngàn tiền cụ Hồ. Gồm toàn những tờ giấy bạc màu đỏ mệnh giá mười đồng mà thời đó ai cũng thèm thuồng và ngưỡng mộ. Số tiền này cũng chỉ vừa đủ mua một cái chòi tranh, với mảnh rừng phát nham nhở làm cái rẫy. Nghĩ lại thật buồn cười vi la đi đổi chòi tranh, đất thành phố đem đổi đất rừng. Tôi thì rất mãn nguyện, hăm hở tăng gia sản xuất.
“Mơ-xơ Bec-trăng” cầm rựa phát rẫy thực. Mới có nửa buổi tay ông đã phồng. Ba ngày sau lên thăm ông anh, cô em thấy thân thể ông anh mình đỏ như con tôm luộc. Và cái cảnh cười ra nước mắt: Một vị bác sĩ danh tiếng nằm sấp cho một lão nhà quê cạo gió chữa bệnh. Lão già tên là Mười Cuốc, lão là người bán chòi bán rẫy cho ông. Lão lấy cái muỗng nhôm cũ mèm đen sì, cạo dọc sống lưng, luôn miệng than:
-" Gió” nhiều chi lạ. Chỗ mô cũng có “gió”. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ tui chưa thấy người đàn ông nào da trắng mỏng còn hơn da con gái như anh Hai Sâm này…
Lão bắt ông há miệng lè lưỡi ra cho lão bôi dầu cao sao vàng, thứ thuốc chữa bá bệnh trong thời kì ấy. Dầu cay, nước mắt ông trào ra. Lão còn hối mụ vợ nấu nồi nước lá xông. Bây giờ người ta thấy ông giáo sư danh tiếng, ngồi trên chõng tre trùm mền rách run lập cập. Mấy ngày sau ông cũng qua khỏi, và mấy tháng sau làn da hồng hào miền ôn đới cũng từ giả ông nốt. Anh chàng hớt tóc dạo cắt đi mái tóc bềnh bồng bác học. Lúc đó có ai thấy ông, đầu đội nón cời, mặc cái áo bà ba mốc thếch ngồi chồm hỗm cạo nồi cơm cháy không thể nhận ra ông được. Cách mạng đã đổi thay hình dạng gốc rễ của ông rồi.
Lần đầu tiên tiếp xúc với chính quyền cách mạng là một kinh nghiệm, thú vị, nhớ đời. Ông cầm lá đơn tới miếu thổ thần, phía trước có treo lá cờ nửa xanh nửa đỏ, trụ sở uỷ ban quân quản hành chính lâm thời. Cùng với ông còn có nhiều người dân chờ đợi. Nửa tiếng đồng hồ sau có một thanh niên gầy gò, thấp bé chỉ đứng đến vai ông.
Tôi suy nghĩ, hãy làm như mọi người và tuân theo mệnh lệnh của người cầm quyền thì sẽ được yên thân. Lúc này người ta kêu gọi bỏ thành phố về nông thôn tăng gia sản xuất. Ai không có đất thì xung phong đi xây dựng vùng kinh tế mới. Tôi nhờ cô em bán giùm tôi một cái biệt thự sang trọng được hai ngàn tiền cụ Hồ. Gồm toàn những tờ giấy bạc màu đỏ mệnh giá mười đồng mà thời đó ai cũng thèm thuồng và ngưỡng mộ. Số tiền này cũng chỉ vừa đủ mua một cái chòi tranh, với mảnh rừng phát nham nhở làm cái rẫy. Nghĩ lại thật buồn cười vi la đi đổi chòi tranh, đất thành phố đem đổi đất rừng. Tôi thì rất mãn nguyện, hăm hở tăng gia sản xuất.
“Mơ-xơ Bec-trăng” cầm rựa phát rẫy thực. Mới có nửa buổi tay ông đã phồng. Ba ngày sau lên thăm ông anh, cô em thấy thân thể ông anh mình đỏ như con tôm luộc. Và cái cảnh cười ra nước mắt: Một vị bác sĩ danh tiếng nằm sấp cho một lão nhà quê cạo gió chữa bệnh. Lão già tên là Mười Cuốc, lão là người bán chòi bán rẫy cho ông. Lão lấy cái muỗng nhôm cũ mèm đen sì, cạo dọc sống lưng, luôn miệng than:
-" Gió” nhiều chi lạ. Chỗ mô cũng có “gió”. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ tui chưa thấy người đàn ông nào da trắng mỏng còn hơn da con gái như anh Hai Sâm này…
Lão bắt ông há miệng lè lưỡi ra cho lão bôi dầu cao sao vàng, thứ thuốc chữa bá bệnh trong thời kì ấy. Dầu cay, nước mắt ông trào ra. Lão còn hối mụ vợ nấu nồi nước lá xông. Bây giờ người ta thấy ông giáo sư danh tiếng, ngồi trên chõng tre trùm mền rách run lập cập. Mấy ngày sau ông cũng qua khỏi, và mấy tháng sau làn da hồng hào miền ôn đới cũng từ giả ông nốt. Anh chàng hớt tóc dạo cắt đi mái tóc bềnh bồng bác học. Lúc đó có ai thấy ông, đầu đội nón cời, mặc cái áo bà ba mốc thếch ngồi chồm hỗm cạo nồi cơm cháy không thể nhận ra ông được. Cách mạng đã đổi thay hình dạng gốc rễ của ông rồi.
Lần đầu tiên tiếp xúc với chính quyền cách mạng là một kinh nghiệm, thú vị, nhớ đời. Ông cầm lá đơn tới miếu thổ thần, phía trước có treo lá cờ nửa xanh nửa đỏ, trụ sở uỷ ban quân quản hành chính lâm thời. Cùng với ông còn có nhiều người dân chờ đợi. Nửa tiếng đồng hồ sau có một thanh niên gầy gò, thấp bé chỉ đứng đến vai ông.
Anh thanh niên có làn da màu chì, ửng vàng, dấu hiệu rõ ràng của bệnh
sốt rét ngã nước kinh niên. Anh ta mang trên vai cây súng dài lượt bượt,
lọai súng tên là Gă-Răng ( Grant ) súng Mỹ, dùng từ thời chiến tranh
Pháp Đức. Hình như khẩu súng này đã bị chôn nhiều năm trong đất. Cái
báng súng mối ăn như củ khoai sùng, nòng súng và nhiều bộ phận khác han
gỉ cả. Khẩu súng như thế chưa chắc bắn đã được.
Thế nhưng hình như nó là món trang sức không thể thiếu được của bọn
thanh niên ham súng ống. Con người này, và vũ khí kia, khiến cho ông
thêm băn khoăn. Cái gì làm cho họ chiến thắng nước Mỹ giàu có hùng mạnh ?
Cái vóc dáng của anh chủ tịch uỷ ban quân quản là thế song cách làm
việc của anh thực nhanh chóng giản dị. Anh cầm lá đơn ông, hình như
không đọc, thấy anh ta lật qua lật lại rồi ghi bên lề hai chữ ”nhất
trí“, chữ rất xấu, giống như người mới biết viết.
Ông hoang mang chưa hiểu nhất trí là sao, có người giảng, là điều gì ông
ghi trong đơn đều được chính quyền cách mạng chấp thuận. Trời ơi, những
công việc hệ trọng kiểu này, ở nước khác, người ta phải mở cả phiên
toà, hoặc hàng bộ trưởng nội vụ mới có quyền ký tên thay đổi. Thời gian
cũng phải mất ít nhất mấy năm. Từ giờ phút đó ông mang tên mới, Nguyễn
Văn Sâm, với ngày sinh nơi sinh do ông tự nghĩ ra, quốc tịch mới là
người Việt Nam, nghề nghiệp làm nông, chỗ ở làng Cận Sơn…Nghĩa là tất cả
những gì cần thiết cho một con người chỉ được giải quyết chóng vánh
trong một phút. Ông bắt đầu có cảm tình với nền hành chính cách mạng,
quân quản.
Đã là công dân, phải có nghĩa vụ. Nghĩa vụ đầu tiên của ông là đi làm thuỷ lợi mười ngày. Ông chẳng hiểu thuỷ lợi là gì. Sau mới biết là đi đào mương. Riêng đối với ông, thuỷ lợi còn đơn giản hơn nhiều. Ông chỉ việc nhận tảng đất người bên phải đưa, trao lại cho người bên trái. Việc này có khi lại vui vui. Nhờ người ta xếp ông đứng gần cuối cái gọi là một “ dây chuyền sản xuất” Tức là một dãy mười mấy con người, nên khi tảng đất đến tay ông, nó đã rơi rụng dọc đường gần hết, còn lại nhỏ như cái bánh bao, chỉ cần nắm một tay ném lên bờ mương.
Đã là công dân, phải có nghĩa vụ. Nghĩa vụ đầu tiên của ông là đi làm thuỷ lợi mười ngày. Ông chẳng hiểu thuỷ lợi là gì. Sau mới biết là đi đào mương. Riêng đối với ông, thuỷ lợi còn đơn giản hơn nhiều. Ông chỉ việc nhận tảng đất người bên phải đưa, trao lại cho người bên trái. Việc này có khi lại vui vui. Nhờ người ta xếp ông đứng gần cuối cái gọi là một “ dây chuyền sản xuất” Tức là một dãy mười mấy con người, nên khi tảng đất đến tay ông, nó đã rơi rụng dọc đường gần hết, còn lại nhỏ như cái bánh bao, chỉ cần nắm một tay ném lên bờ mương.
Đi làm thuỷ lợi về ông nhận được tờ giấy khen. Ông nghĩ họ thực là hào
phóng. Ở các nước tư bản, làm việc cả đời như ông chẳng được tờ giấy
khen nào. Về sau ông mới hiểu đây là cách tốt nhất, ít tốn tiền nhất để
khuyến khích người dân, còn hòng điều động nhiều lần nữa. Cũng có một
điều lạ, rất nhiều người, nhất là thanh niên, thấy ông đi nghĩa vụ lao
động mười ngày lại tỏ ra thèm thuồng, ước muốn được như ông. Sau này ông
mới hiểu, đi lao động dù sao cũng được cơm no ngày ba bữa, ở nhà chỉ có
cơm độn, một phần gạo, chín mười phần độn, nói như mọi người củ khoai
củ sắn cõng vài hạt cơm. Về sau ông mới thấy chính quyền cách mạng chơi
sang hơn tư bản nhiều. Người ta động viên hàng ngàn hàng vạn con người
trong nhiều tháng trời để làm một công trình hoàn toàn vô ích. Đào một
con mương dài hàng cây số, lồi lõm quanh co, chỗ cạn chỗ sâu và cuối
cùng con mương thuỷ lợi đó chưa một lần có nước chảy qua, mấy năm sau
trở thành bình địa. Hỏi thì người ta biện bạch, không cần kết quả, cái
chủ yếu là giáo dục dân chúng miền nam biết thế nào là ý thức lao động.
Ôi hoá ra đây cũng là một trò chơi.
Thời gian đó nhiều sự trớ trêu của số phận đùn đẫy ông trở về với cái nghiệp y. Ông cũng được nhiều lần ra vào “trung tâm y tế” và trong một thời gian dài được cầm con dao mổ. Có lần tôi nhìn thấy bàn tay vàng của nhà phẩu thuật tài hoa Âu châu cầm dao mổ nhưng không phải trong phòng mổ ở một bệnh viện danh tiếng nào mà ở phía sau nhà lão Cuốc.
Thời gian đó nhiều sự trớ trêu của số phận đùn đẫy ông trở về với cái nghiệp y. Ông cũng được nhiều lần ra vào “trung tâm y tế” và trong một thời gian dài được cầm con dao mổ. Có lần tôi nhìn thấy bàn tay vàng của nhà phẩu thuật tài hoa Âu châu cầm dao mổ nhưng không phải trong phòng mổ ở một bệnh viện danh tiếng nào mà ở phía sau nhà lão Cuốc.
Ông đang thiến cho con bò tơ, cột đứng giữa hai gốc cau. Chỉ một vết
rạch và vài mũi khâu, trong chốc lát chú bò non, chưa nếm mùi đời đã trở
thành vị hoạn quan, thái giám. Về sau nơi nào cần thiến heo, trâu bò gà
chó đều kêu ông. Đừng tưởng những cuộc phẫu thuật kiểu này là không
quan trọng, ai cũng làm được. Thời kì này sinh mệnh con vật có khi còn
lớn hơn con người. Có nhà con cái đau ốm chỉ ra vườn hái lá làm thuốc,
mà con heo nái bỏ ăn lại lên tỉnh mua thuốc trụ sinh ngoại về chữa. Họ
hành động thế cũng chỉ vì con heo nái là tài sản quý giá duy nhất và nó
nuôi sống cả gia đình. Vì thế mỗi khi dù cầm dao thiến heo ông cũng hồi
hộp vô cùng.
Lần khác giữa mùa lụt, vợ Tám Hoà chuyển bụng đẻ. Mụ này sinh khó vì đã bốn mươi bốn tuổi rồi con sinh thêm đứa con thứ chín. Suốt thời kì mang thai mụ thiếu ăn, còn bị sốt rét rừng hành hạ. Mụ bị phù thủng nặng, bàn chân húp không còn thấy mắt cá, thiếu máu nặng màu da vàng như con tằm bủng và vạch mi mắt ra thấy trắng nhợt. Nước lụt dâng ngập con đường về huyện về tỉnh. Không có cách nào di chuyển sản phụ.
Lần khác giữa mùa lụt, vợ Tám Hoà chuyển bụng đẻ. Mụ này sinh khó vì đã bốn mươi bốn tuổi rồi con sinh thêm đứa con thứ chín. Suốt thời kì mang thai mụ thiếu ăn, còn bị sốt rét rừng hành hạ. Mụ bị phù thủng nặng, bàn chân húp không còn thấy mắt cá, thiếu máu nặng màu da vàng như con tằm bủng và vạch mi mắt ra thấy trắng nhợt. Nước lụt dâng ngập con đường về huyện về tỉnh. Không có cách nào di chuyển sản phụ.
Mụ ta chuyển bụng một ngày một đêm rồi mà đứa con không chịu sổ ra. Tám
Hoà nài nĩ ông cứu. Ông liều ra tay. Mụ ta vừa đau đẻ vừa mắc cỡ, chửi
chồng:" Bộ ông muốn giết tui hay răng mà kêu cái thằng cha thiến heo về
đỡ đẻ !...” Trong cơn vật vã, mụ này níu cái thanh giường gần gãy, ông
cầm tay mụ giữ lại, mụ cắn cánh tay ông. Ông gồng mình cho mụ đàn bà
hung giữ đau đẻ cắn. Cuộc sinh nở mẹ tròn con vuông. Sau này có lần kể
lại cho tôi nghe ông nói, bên Tây mấy con đầm đau đẻ hung dữ lắm, họ la
thét chửi chồng, có khi còn đánh cả chồng. Nhìn vết răng mụ Tám trên
cánh tay ông nhiều ngày chưa lặn tôi mới hiểu thế nào là lương tâm ngừơi
thầy thuốc.
Cuộc quay về ngành y của ông còn nhiều chuyện cười ra nước mắt. Xã cất cái chòi làm trạm y tế, ông được triệu đến không phải để làm việc gì liên quan ngành y tế mà để dọn dẹp vệ sinh, phát cỏ, hốt rác. Trạm này giao cho một anh binh nhì trước ở ngành quân y quân đội cọng hoà cũ. Đoàn tiêm phòng về ông cũng được kêu tới nấu nước luộc kim tiêm, còn nước sôi làm thịt gà, đãi đoàn. Ông còn phải đứng hầu bia rượu cho mấy thằng y tá nhóc con trên tỉnh về.
Sau này người ta nói ông là tiên bị đoạ. Có điều dù làm việc gì ông cũng hết lòng, cần mẫn, không oán than bất mãn với bất cứ người nào, công việc gì. Tôi còn nhớ vào giai đoạn ấy thường có cái kiểu, trước khi động viên dân chúng vào công việc gì, luôn luôn phải họp dân năm lần bảy lượt, dân chúng đi làm rẫy về mệt mỏi, tối lại chỉ muốn đi ngủ sớm, chiều nào cũng có tiếng loa đầu xóm cuối xóm : “Ngay từ bây giờ đồng bào tập trung tại trụ sở để quán triệt mục đích yêu cầu…ai không đi họp mất quyền lợi…” Không ai biết quyền lợi là quyền lợi gì. Họ chỉ sợ không đi họp sẽ không yên thân. Mục đích yêu cầu cần quán triệt có khi là những chuyện rất vớ vẫn như đào hố xí hai ngăn hay trồng bèo hoa dâu, được thổi phồng như hai phát kiến vĩ đại của những nhà khoa học tài ba của nước ta cho nhân loại…
Cuộc quay về ngành y của ông còn nhiều chuyện cười ra nước mắt. Xã cất cái chòi làm trạm y tế, ông được triệu đến không phải để làm việc gì liên quan ngành y tế mà để dọn dẹp vệ sinh, phát cỏ, hốt rác. Trạm này giao cho một anh binh nhì trước ở ngành quân y quân đội cọng hoà cũ. Đoàn tiêm phòng về ông cũng được kêu tới nấu nước luộc kim tiêm, còn nước sôi làm thịt gà, đãi đoàn. Ông còn phải đứng hầu bia rượu cho mấy thằng y tá nhóc con trên tỉnh về.
Sau này người ta nói ông là tiên bị đoạ. Có điều dù làm việc gì ông cũng hết lòng, cần mẫn, không oán than bất mãn với bất cứ người nào, công việc gì. Tôi còn nhớ vào giai đoạn ấy thường có cái kiểu, trước khi động viên dân chúng vào công việc gì, luôn luôn phải họp dân năm lần bảy lượt, dân chúng đi làm rẫy về mệt mỏi, tối lại chỉ muốn đi ngủ sớm, chiều nào cũng có tiếng loa đầu xóm cuối xóm : “Ngay từ bây giờ đồng bào tập trung tại trụ sở để quán triệt mục đích yêu cầu…ai không đi họp mất quyền lợi…” Không ai biết quyền lợi là quyền lợi gì. Họ chỉ sợ không đi họp sẽ không yên thân. Mục đích yêu cầu cần quán triệt có khi là những chuyện rất vớ vẫn như đào hố xí hai ngăn hay trồng bèo hoa dâu, được thổi phồng như hai phát kiến vĩ đại của những nhà khoa học tài ba của nước ta cho nhân loại…
Ông ăn ở gần như được lòng mọi người. Mấy thằng cha sồn sồn cán bộ hợp tác xã có lần xúc lúa trộm đem bán lấy tiền kéo nhau về thành phố ăn chơi. Bọn họ rủ ông đi gọi là “nếm mùi đời” cho biết. Ông từ chối, nói mình quê mùa không biết ăn chơi kiểu đó. Mấy chị, thấy ông sống cô độc ai cũng dành làm mối kiếm vợ cho ông, ông nói không dám đèo bòng, một mình nuôi không nổi thân.
Có lần tôi xúi ông về tỉnh khai hết sự thật về mình và liên lạc với toà Đại sứ Pháp để được phục hồi. Ông nói, họ không tin đâu, giấy tờ đốt cả rồi. Với lại cần thêm một thời gian nữa cho lòng người tỉnh lại, mọi giá trị sẽ được khôi phục. Bây giờ thì chưa. Nghe thế tôi không dám xúi nữa. Tôi thấy cả đời ông chưa một lần dối trá. Đây là lần dối trá đầu tiên về thân phận của mình và ông phải trả giá. Cái giá thực là tàn nhẫn. Ông nói cần chờ một thời gian nữa. Nhưng số phận lại có cách giải quyết của nó. Vở bi hài kịch đã tới hồi kết thúc.
Cuối hạ, buổi chiều thường bắt đầu bằng những cơn mưa giông. Đây cũng là thời kì dậy lên bệnh sốt rét. Cỏ cây bờ bụi lớn cao lên vùn vụt. Mỗi khi phát rựa vào muỗi túa ra cắn rát mặt. Một cơn sốt rét ác tính quật ngã ông chỉ vài giờ. Tôi dìu ông tới trạm y tế xã, không một viên thuốc. Họ bảo tôi đưa ông về bệnh viện tỉnh. Tôi dẫn ông đi được một đoạn thì ông đã hôn mê. Không có cách gì đưa ông về tỉnh. Ông không ngồi lên xe đạp cho tôi đạp chở ông ra tới đường cái nhờ xe đò đưa về phố. Giờ đó bọn trai tráng còn đang ở trong rẫy cả. Cuối cùng tôi phải cõng ông ra đường cái, con đường dài hơn hai cây số.
Suốt đời tôi không thể nào quên được buổi chiều thê thảm đó. Gió giông gào thét không ngừng trong khu rừng mọc toàn cây chà rang cao chưa quá đầu người. Cả khu rừng bị đè bẹp run rẩy dưới cơn thịnh nộ của đất trời. Mưa lất phất lẫn trong gió. Tôi cõng ông như cõng khối lửa trên lưng. Ông sốt rất cao, gió mưa thế vẫn không làm giảm nhiệt độ cơ thể. Tôi nhớ lần đầu tiên gặp ông, lúc ấy ông như một người ngoại quốc, to cao hồng hào khoẻ mạnh.
Nay chỉ sau mấy năm bị lưu đày khắc nghiệt ông gầy gò, quắt queo, đen
điu, một ông già nhà quê với hàm râu lưa thưa. Bây giờ ông nhẹ hõng,
cõng ông tôi không thấy nặng nề mệt nhọc gì cả. Lên tới đỉnh đồi, nhìn
thấy chân trời mây đen đùn lên ngồn ngộn. Từ trên tầng mây thấp, rất
thấp, cảm như có thể đưa tay lên chạm tới mây được, một tia chớp với cái
bộ rễ cây ánh sáng, đánh ầm thẳng xuống khu rừng, rất gần chỗ tôi. Có
mùi khét giống như mùi điện chập, bên cạnh tôi ngọn lửa lập loè cháy lên
trong mưa.
Chưa bao giờ tôi chứng kiến hiện tượng tự nhiên nào kinh khủng đến thế.
Tôi vẫn chạy lúp xúp, cố sao cho kip, chuyến xe về tỉnh cuối cùng. Một
lúc sau ông tỉnh lại, bảo tôi đặt xuống, cho ông đi, ông kêu khát nước.
Tôi dừng lại, mới nghiêng người xuống thì ông lại quị ngã, không đứng
lên được nữa. Ông lại rơi vào cơn hôn mê. Ra đến đường cái, may sao có
chiếc xe lam dừng lại cho chúng tôi lên xe. Đây không phải chiếc xe chở
khách mà là xe chuyên chở súc vật. Sàn xe đầy phân heo. Tôi ngồi xổm bế
ông như một đứa bé. Gã tài xế say rượu, hắn điều khiển chiếc xe chạy
điên đảo như người say. Khổ quá, tôi thầm mong cho xe rơi xuống vực cho
cả ba chết quách đi cho rồi.
Tới nơi tôi chạy thẳng vào khoa cấp cứu. Họ chận tôi lại, nói là để làm thủ tục nhập viện, nhưng kỳ thực hỏi han đủ thứ làm như công an hỏi cung tội phạm, và cuối cùng đòi tiền. Tôi nói láo cấp bách quá quên mang theo tiền. Cứu giùm đi rồi tiền nong tính sau. Cả một giờ sau ông mới được truyền dịch. Mấy cô y tá trẻ cùng với mấy cậu y sĩ hay bác sĩ gì đó vừa làm việc vừa cười đùa bỡn cợt nhau. Họ chăm sóc bệnh nhân còn thua cả ông chăm sóc con vật. Tôi đứng một bên, cầm cánh tay ông, mạch ông mong manh như tơ nhện. Cái lối mạch mà mấy ông lang sợ nhất gọi là mạch chim sẻ mổ thóc. Mạch nhảy vài cái rồi ngưng, đập vài cái rồi ngưng. Giống như tiếng gõ cửa của tử thần.
Mấy người thầy thuốc kéo nhau đi chơi, tôi nghe họ hẹn nhau ra biển. Tôi ngồi cạnh ông. Tôi đưa tay sờ trán, thấy ông không còn sốt cao nữa. Trán ông đầy một thứ mồ hôi lạnh, nhớp nháp và trơn như mỡ. Tôi mừng quá tưởng ông qua khỏi. Sau này tôi mới nghe người ta nói đó là”Xuất hạn”. Nghĩa là chỉ còn chốc lát nữa thôi. Tôi thấy mấy ngón chân ông cứng đờ như được đẽo ra từ gỗ mít lò ra khỏi tấm ra trắng, sờ thử, thấy lạnh ngắt. Bình sérum không chịu nhỏ giọt nữa. Tôi mở khoá lớn hơn nhưng nó vẫn không chịu nhỏ giọt. Hoá ra máu trong người ông đã đông cả lại rồi. Ông chợt mở mắt nhìn tôi, cặp mắt lờ đờ, tròng con mắt như được tráng qua một lớp nước vôi, song cái nhìn vẫn còn đằm thắm dịu dàng. Rồi bỗng nhiên hai mí mắt cứng đờ, không khép lại, nhanh chóng hoá đá, đôi mắt người chết.
Lúc này tôi mới có dịp nhìn kỷ khuôn mặt ông. Ông chết yên như ngủ. Trước đây tôi có nghe chuyện về khuôn mặt người chết. Tôi không tin vào những chuyền huyền hoặc, bây giờ thì tôi tin. Sau khi ông ngừng thở, có một quãng thời gian ngắn, hiện ra một khuôn mặt đẹp, vẻ đẹp thánh thiện của cả cuộc đời sống lương thiện sáng ngời hào quang nhân ái, vẻ đẹp tuyệt vời… Nhưng chỉ vài phút sau vẻ đẹp ấy phai mờ dần, tắt hẳn, còn lại lạnh lẽo khuôn mặt người chết .
Giường bên, thêm một người nữa ra đi. Đó là một người Thượng. Không biết khi sống trông hắn thế nào, lúc này trông thấy hắn gầy gò, đen thui, rướn người cong lên như thân cây cháy nám trong mùa đốt rẫy. Vợ hắn ngồi cạnh chốc chốc vén cái váy lên chùi mắt, tay quạt muỗi cho chồng. Chị ta tưởng mẫy con muỗi đói bệnh viện vẫn còn bu vào đốt cái thân thể lạnh giá. Bọn muỗi có con lầm tưởng bay đến sà xuống đốt cái thân xác lạnh giá, vụt bay lên. Đôi mắt người phụ nữ Thượng ánh lên một niềm yêu thương hoang dã giống như cặp mắt con thú trong bẫy. Nửa đêm trong căn phòng nhỏ, hai người chết và hai người sống nhưng tâm hồn cũng đã chết. Có tiếng thét lơ lớ rợn người:
- Thôi bỏ con ma đó chạy đi!
Chị này đứng lên dáo dát, cầm cái gùi toan chạy. Tôi chưa kịp hỏi bỗng lại có tiếng chân người và tiếng thét hách dịch:
- Con mọi kia chạy đi đâu ? Tiền giường tiền thuốc chưa thanh toán.
Tôi biết chị ta phải khó khăn khổ nhọc lắm mới mang được người chồng bệnh hoạn từ trong rừng thẳm về tới chốn phồn hoa đô hội này với niềm tin, khỏi bệnh, cùng chồng đi bộ về buôn, qua khu rừng hướng dương vàng rực bạt ngàn. Nhưng nay thì hết rồi, phải bỏ anh ta lại trốn về thôi, nhưng cũng không xong. Còn tôi khổ sở chẳng thua người kia. Sáng sớm hôm sau tôi trốn ra khỏi bệnh viện. Tôi không có lấy một xu trong túi làm sao đưa ông về? Chỉ còn cách đi xin kêu gọi tình thương đồng loại. Nhưng hình như vào thời kì khốn khó chung cho cả nước, con người để cho thú tính lấn áp, tình người hiếm hoi làm sao.
Tới nơi tôi chạy thẳng vào khoa cấp cứu. Họ chận tôi lại, nói là để làm thủ tục nhập viện, nhưng kỳ thực hỏi han đủ thứ làm như công an hỏi cung tội phạm, và cuối cùng đòi tiền. Tôi nói láo cấp bách quá quên mang theo tiền. Cứu giùm đi rồi tiền nong tính sau. Cả một giờ sau ông mới được truyền dịch. Mấy cô y tá trẻ cùng với mấy cậu y sĩ hay bác sĩ gì đó vừa làm việc vừa cười đùa bỡn cợt nhau. Họ chăm sóc bệnh nhân còn thua cả ông chăm sóc con vật. Tôi đứng một bên, cầm cánh tay ông, mạch ông mong manh như tơ nhện. Cái lối mạch mà mấy ông lang sợ nhất gọi là mạch chim sẻ mổ thóc. Mạch nhảy vài cái rồi ngưng, đập vài cái rồi ngưng. Giống như tiếng gõ cửa của tử thần.
Mấy người thầy thuốc kéo nhau đi chơi, tôi nghe họ hẹn nhau ra biển. Tôi ngồi cạnh ông. Tôi đưa tay sờ trán, thấy ông không còn sốt cao nữa. Trán ông đầy một thứ mồ hôi lạnh, nhớp nháp và trơn như mỡ. Tôi mừng quá tưởng ông qua khỏi. Sau này tôi mới nghe người ta nói đó là”Xuất hạn”. Nghĩa là chỉ còn chốc lát nữa thôi. Tôi thấy mấy ngón chân ông cứng đờ như được đẽo ra từ gỗ mít lò ra khỏi tấm ra trắng, sờ thử, thấy lạnh ngắt. Bình sérum không chịu nhỏ giọt nữa. Tôi mở khoá lớn hơn nhưng nó vẫn không chịu nhỏ giọt. Hoá ra máu trong người ông đã đông cả lại rồi. Ông chợt mở mắt nhìn tôi, cặp mắt lờ đờ, tròng con mắt như được tráng qua một lớp nước vôi, song cái nhìn vẫn còn đằm thắm dịu dàng. Rồi bỗng nhiên hai mí mắt cứng đờ, không khép lại, nhanh chóng hoá đá, đôi mắt người chết.
Lúc này tôi mới có dịp nhìn kỷ khuôn mặt ông. Ông chết yên như ngủ. Trước đây tôi có nghe chuyện về khuôn mặt người chết. Tôi không tin vào những chuyền huyền hoặc, bây giờ thì tôi tin. Sau khi ông ngừng thở, có một quãng thời gian ngắn, hiện ra một khuôn mặt đẹp, vẻ đẹp thánh thiện của cả cuộc đời sống lương thiện sáng ngời hào quang nhân ái, vẻ đẹp tuyệt vời… Nhưng chỉ vài phút sau vẻ đẹp ấy phai mờ dần, tắt hẳn, còn lại lạnh lẽo khuôn mặt người chết .
Giường bên, thêm một người nữa ra đi. Đó là một người Thượng. Không biết khi sống trông hắn thế nào, lúc này trông thấy hắn gầy gò, đen thui, rướn người cong lên như thân cây cháy nám trong mùa đốt rẫy. Vợ hắn ngồi cạnh chốc chốc vén cái váy lên chùi mắt, tay quạt muỗi cho chồng. Chị ta tưởng mẫy con muỗi đói bệnh viện vẫn còn bu vào đốt cái thân thể lạnh giá. Bọn muỗi có con lầm tưởng bay đến sà xuống đốt cái thân xác lạnh giá, vụt bay lên. Đôi mắt người phụ nữ Thượng ánh lên một niềm yêu thương hoang dã giống như cặp mắt con thú trong bẫy. Nửa đêm trong căn phòng nhỏ, hai người chết và hai người sống nhưng tâm hồn cũng đã chết. Có tiếng thét lơ lớ rợn người:
- Thôi bỏ con ma đó chạy đi!
Chị này đứng lên dáo dát, cầm cái gùi toan chạy. Tôi chưa kịp hỏi bỗng lại có tiếng chân người và tiếng thét hách dịch:
- Con mọi kia chạy đi đâu ? Tiền giường tiền thuốc chưa thanh toán.
Tôi biết chị ta phải khó khăn khổ nhọc lắm mới mang được người chồng bệnh hoạn từ trong rừng thẳm về tới chốn phồn hoa đô hội này với niềm tin, khỏi bệnh, cùng chồng đi bộ về buôn, qua khu rừng hướng dương vàng rực bạt ngàn. Nhưng nay thì hết rồi, phải bỏ anh ta lại trốn về thôi, nhưng cũng không xong. Còn tôi khổ sở chẳng thua người kia. Sáng sớm hôm sau tôi trốn ra khỏi bệnh viện. Tôi không có lấy một xu trong túi làm sao đưa ông về? Chỉ còn cách đi xin kêu gọi tình thương đồng loại. Nhưng hình như vào thời kì khốn khó chung cho cả nước, con người để cho thú tính lấn áp, tình người hiếm hoi làm sao.
Ở vào cái thời mà sự dối trá tràn lan, một mình tôi nói thật, ai tin.
Có một con mụ vàng đeo đầy tay đang ngồi trong quán chỉ mặt tôi nói:" Bà
con đừng có tin mấy cái thằng xạo lưu manh này. Xin tiền chở bà con
chết ở bệnh viện về quê. Ngày nào tôi cũng thấy cái mặt hắn lảng vảng ở
bến xe với mấy cái quán nhậu…” Cuối cùng tôi phải đi bán bộ quần áo mặc
trong người để thuê xe chở ông về. Còn tiền viện phí tôi phải làm tờ cam
đoan kí tên điểm chỉ, khai rõ ngọn nguồn quê quán địa chỉ, mới được đem
xác ông về.
Người ta đóng cho ông cái quan tài bằng gỗ thùng đạn, chôn ở chân đồi, lấy cái lon sữa bò rỗng làm bát nhang.
Năm sau, vào một buổi trưa có đoàn xe du lịch sang trọng tiến vào xã. Dân chúng chạy theo coi. Trong xe có cả người nước ngoài. Bọn trẻ con chạy theo xe hô to :“Liên Xô ! Liên Xô !”
Xã tiếp đón rất niềm nở, họ hy vọng sẽ được ngọai quốc cho tiền, hay liên doanh với địa phương. Khi hiểu ra chuyện đó là gia đình của Hai Sâm, họ giao đoàn cho tôi hướng dẫn.
Buổi trưa nắng chang chang cả đoàn kéo lên đồi. Có một điều rất lạ, không thể giải thích nổi. Hai đứa con ông, một trai một gái cỡ chín mười tuổi, chúng rất xinh đẹp và giống ông như tạc, và như có điều gì mách bảo, chúng thân thiện với tôi, một người hoàn toàn xa lạ, ngay lúc đầu gặp gỡ. Hai đứa nắm chặc tay tôi. Ngang quán chị Liễu tôi ghé mua đôi nến trắng, bó nhang, tấm vải trắng lớn xé làm nhiều mảnh khăn tang quấn cho vợ con ông, một vài người trong đoàn và cả tôi. Tôi để giành một chiếc khăn tang dài và lớn , chẳng ai biết để làm gì.
Tôi đứng trong bóng mát cây Lim mà giờ đây sau mười mấy năm thoát khỏi ngục tù chật chội đã trở thành tráng sĩ cổ thụ đại ngàn hùng vĩ. Tôi nhìn vợ con ông sang trọng, xinh đẹp, dễ thuơng quì mọp sát đất theo đúng lễ nghi đông phương bên nấm mộ thấp lè tè tồi tàn mà cỏ xanh đã úa màu. Tôi không khỏi chạnh lòng rơi nước mắt. Cúng xong. Tất cả mọi người kéo nhau đến đứng trong bóng mát cây Lim. Tôi cẩn thận quấn mảnh khăn sô cho cây, Mọi người lấy làm ngạc nhiên. Tôi khấn :“Ông ơi, không ai biết chuyện đời ông, xin phép ông cho tôi được làm nhân chứng lịch sử, kể lại câu chuyện đau thương không riêng cho ông, cho tôi mà cho tất cả những kiếp người bị đày đoạ trên mảnh đất này trong thời kỳ tối tăm nhất của lịch sử đau thương”./.
Người ta đóng cho ông cái quan tài bằng gỗ thùng đạn, chôn ở chân đồi, lấy cái lon sữa bò rỗng làm bát nhang.
Năm sau, vào một buổi trưa có đoàn xe du lịch sang trọng tiến vào xã. Dân chúng chạy theo coi. Trong xe có cả người nước ngoài. Bọn trẻ con chạy theo xe hô to :“Liên Xô ! Liên Xô !”
Xã tiếp đón rất niềm nở, họ hy vọng sẽ được ngọai quốc cho tiền, hay liên doanh với địa phương. Khi hiểu ra chuyện đó là gia đình của Hai Sâm, họ giao đoàn cho tôi hướng dẫn.
Buổi trưa nắng chang chang cả đoàn kéo lên đồi. Có một điều rất lạ, không thể giải thích nổi. Hai đứa con ông, một trai một gái cỡ chín mười tuổi, chúng rất xinh đẹp và giống ông như tạc, và như có điều gì mách bảo, chúng thân thiện với tôi, một người hoàn toàn xa lạ, ngay lúc đầu gặp gỡ. Hai đứa nắm chặc tay tôi. Ngang quán chị Liễu tôi ghé mua đôi nến trắng, bó nhang, tấm vải trắng lớn xé làm nhiều mảnh khăn tang quấn cho vợ con ông, một vài người trong đoàn và cả tôi. Tôi để giành một chiếc khăn tang dài và lớn , chẳng ai biết để làm gì.
Tôi đứng trong bóng mát cây Lim mà giờ đây sau mười mấy năm thoát khỏi ngục tù chật chội đã trở thành tráng sĩ cổ thụ đại ngàn hùng vĩ. Tôi nhìn vợ con ông sang trọng, xinh đẹp, dễ thuơng quì mọp sát đất theo đúng lễ nghi đông phương bên nấm mộ thấp lè tè tồi tàn mà cỏ xanh đã úa màu. Tôi không khỏi chạnh lòng rơi nước mắt. Cúng xong. Tất cả mọi người kéo nhau đến đứng trong bóng mát cây Lim. Tôi cẩn thận quấn mảnh khăn sô cho cây, Mọi người lấy làm ngạc nhiên. Tôi khấn :“Ông ơi, không ai biết chuyện đời ông, xin phép ông cho tôi được làm nhân chứng lịch sử, kể lại câu chuyện đau thương không riêng cho ông, cho tôi mà cho tất cả những kiếp người bị đày đoạ trên mảnh đất này trong thời kỳ tối tăm nhất của lịch sử đau thương”./.
Wednesday, July 24, 2013
TIN TỨC THẾ GIỚI
Tổng thống Barack Obama và ngoại trưởng tiền nhiệm Hillary Clinton đều cổ vũ cho chiến lược « xoay trục » hay « tái cân bằng
» đối với khu vực Đông Á, một khu vực đang phát triển nhanh chóng. Tuy
nhiên, trong giới học giả và ngoại giao có nhiều lo ngại rằng chiến lược
nói trên bị hụt hơi trong nhiệm kỳ thứ hai của tổng thống Obama, với
chính sách tập trung vào việc nối lại các đàm phán hòa bình ở Cận Đông
của tân ngoại trưởng John Kerry.
Phát biểu tại một cuộc họp báo, trợ lý ngoại trưởng phụ trách Đông Á Danny Russel khẳng định : « Quý vị có thể tin tưởng vào cam kết can dự mạnh mẽ của chúng tôi tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, bởi các lợi ích sâu sắc của Hoa Kỳ ở khu vực này ».
Ông Russel cũng nhấn mạnh đến một loạt chuyến công du Washington của nhiều lãnh đạo khu vực, trong đó có chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang. Thứ Năm tới 25/07, ông Trương Tấn Sang sẽ là nguyên thủ Việt Nam thứ hai viếng thăm Nhà Trắng kể từ khi Mỹ-Việt bình thường hóa quan hệ. Trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ hy vọng Washington tiếp tục « đa dạng hóa » các quan hệ trong chiến lược xoay trục về Châu Á để bảo đảm được các lợi ích căn bản của Hoa Kỳ.
Tân trợ lý ngoại trưởng phụ trách Đông Á Danny Russel – vốn có kinh nghiệm làm việc tại Nhật Bản - nhìn chung được coi là một nhà ngoại giao mềm mỏng hơn người tiền nhiệm Kurt Campbell. Ông Danny Russel từng nằm trong ban cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Mỹ, phụ trách Châu Á, trước khi được bổ nhiệm vào chức vụ trợ lý ngoại trưởng vào trung tuần tháng 5/2013, quyết định bổ nhiệm được thượng viện phê chuẩn đầu tháng 7/2013.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130723-hoa-ky-tai-khang-dinh-chien-luoc-tang-cuong-hop-tac-voi-chau-a-thai-binh-duong
Ba hôm trước cuộc gặp thượng đỉnh Barack Obama – Trương Tấn
Sang tại Nhà Trắng, ngày 22/07/2013, ngành ngoại giao Mỹ khẳng định trở
lại trọng tâm mà Washington đặt vào châu Á, thể hiện qua chính sách tái
cân bằng lực lượng, còn gọi là xoay trục qua châu Á-Thái Bình Dương đã
được Tổng thống Obama loan báo.
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130723-my-cong-nhan-vai-tro-quan-trong-cua-viet-nam-trong-chinh-sach-xoay-truc-qua-chau-a
Báo chí Trung Quốc ngày 23/07/2013 tiết lộ, một lực lượng
tuần duyên mới gồm 11 đội tàu và trên 16.000 quân được trang bị rất hùng
hậu vừa được đưa vào hoạt động. Sự kiện này diễn ra trong bối cảnh Bắc
Kinh thường xuyên gây áp lực để yêu sách chủ quyền với các nước láng
giềng.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130723-trung-quoc-lap-luc-luong-tuan-duyen-hung-hau-xung-dot-tren-bien-se-gia-tang
HÀ NỘI — Ngày thứ năm 25/7, Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang sẽ trở thành nguyên thủ thứ nhì của Việt Nam đi thăm
Tòa Bạch Ốc kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ cách đây gần 20
năm. Có nhiều phần chắc các cuộc đàm phán sẽ bao gồm vấn đề giao thương
ngày càng tăng giữa hai nước, bang giao giữa Hà Nội với Trung Quốc, và
những mối quan ngại của Hoa Kỳ về thành tích nhân quyền của Việt Nam. Từ
Hà Nội, thông tín viên đài VOA Marianne Brown gửi về bài tường thuật
sau đây.
Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn thứ nhì của Việt Nam sau Trung Quốc và việc Việt Nam tham gia vào tổ chức thương mại tự do do Hoa Kỳ đứng đầu, Ðối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP, có phần chắc sẽ nằm cao trong nghị trình thảo luận.
Dân số trẻ trung của Việt Nam và sự tăng trưởng kinh tế đang lên khiến nước này trở thành một thị trường hấp dẫn đối với nhiều công ty Hoa Kỳ. Tuần trước, đại công ty thực phẩm McDonald có trụ sở ở Hoa Kỳ đã trở thành thương hiệu thực phẩm toàn cầu mới nhất loan báo sẽ mở hệ thống bán thưong hiệu tại Việt Nam.
Tại một cuộc họp báo ở Hà Nội tuần trước, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị nói quan hệ song phương đã gia tăng kể từ lúc hai nước bình thường hóa bang giao vào tháng 7 năm 1995.
Ông Nghị nói Hoa Kỳ và Việt Nam đã đồng ý thiết lập một quan hệ đối tác thân hữu, xây dựng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và có lợi chung.
Nhưng có những bất đồng liên tục về việc Hoa Kỳ phản đối thành tích nhân quyền ngày càng tệ hại của Việt Nam. Tính đến thời điểm này trong năm nay, tổ chức quốc tế tranh đấu cho nhân quyền Human Rights Watch nói đã có các nhà lãnh đạo tôn giáo, các nhân vật bất đồng chính kiến và các blogger bị tuyên các án tù nhiều hơn so với toàn bộ năm 2012.
Phiên toà trong tháng này xét xử luật sư Công giáo Lê Quốc Quân đã bị hoãn vô thời hạn. Blogger bị tù Ðiếu Cày được mô tả là “rất yếu” khi ông thực hiện cuộc tuyệt thực để phản đối các điều kiện nhà tù.
Nhà hoạt động Việt Nam Trịnh Kim Tiến cho hay ông hy vọng nhân quyền sẽ là một phần nổi bật trong các cuộc đàm phán.
Bà Tiến nói Tổng thống Obama đã nêu bật trường hợp Ðiếu Cày trước đây và nay phải làm một điều gì để giúp gia đình ông ta trước khi quá muộn.
Với những câu chuyện như thế thu hút sự chú ý ở nước ngoài, các chuyên gia phân tích đang theo dõi xem chúng sẽ tác động ra sao đến các cuộc thảo luận với các giới chức Hoa Kỳ.
Chuyên gia phân tích quốc phòng, Giáo sư Carl Thayer nêu ra chính sách của Hoa Kỳ tái quân bình ảnh hưởng đối với vùng châu Á Thái Bình Dương.
“Tôi áng chừng, rằng nếu như nước Mỹ chỉ chơi lá bài nhân quyền thì là họ đã bắn vào chân họ khi tìm cách thúc đẩy quan hệ chiến lược với Việt Nam. Trò chơi tái quân bình rộng lớn hơn là tiếp cận, hình thành các đầu ra an ninh và cải thiện an ninh hàng hải và xem Việt Nam sẵn sàng tiến xa tới đâu về vấn đề Trung Quốc.”
Ngoại giao Việt Nam giữ một thế quân bình thận trọng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, nhất là có liên quan đến các khẳng định chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc ở Biển Ðông.
Trong chuyến đi Bắc Kinh của ông Sang tháng trước hai nước cộng sản đã đồng ý thành lập một đường dây điện thoại nóng để giúp giải quyết mau chóng các tranh chấp lãnh hải đã đôi khi gây căng thẳng trong bang giao giữa hai bên.
Nhưng không phải ai cũng đồng ý rằng mọi sự đang diễn biến tốt đẹp giữa hai nước cộng sản này.
Nhà ngoại giao hồi hưu và là chuyên gia về Việt Nam, ông David Brown, nói ông nghĩ rằng quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc đã khựng lại kể từ sau các cuộc đàm phán hồi tháng 11 năm 2011, một phần vì các tranh chấp lãnh hải.
“Theo nhận định của tôi về việc đó thì cách đây 1 năm rưỡi phía Trung Quốc đã đồng ý ít nhất là bàn về quần đảo Trường Sa, chứ không phải về việc trả lại quần đảo này, nhưng ít ra là về việc cho dành cho phía Việt Nam một số hình thức tiếp cận ở đó và ở vùng biển quanh đó, và phía Việt Nam đã đồng ý là sẽ bàn về việc ấy. Nhưng dường như các cuộc thảo luận đó không đi đến đâu cả.”
Ông Brown nói các căng thẳng về quần đảo Trường Sa là một phần lý do vì sao Hoa Kỳ sẽ có một lập trường mạnh trong các cuộc đàm phán, vì Việt Nam và các nước khác ở Ðông Nam Á coi Washington như một đối trọng với các tham vọng về biển của Trung Quốc.
Ngoài ra, với các đồng minh khác của Hoa Kỳ trong khu vực như Philippines và Singapore, ông Brown nói Washington không quan tâm đến việc mưu tìm một sự hiện diện quân sự mạnh hơn ở Việt Nam để lấn át Trung Quốc. Ðó là lý do vì sao, theo ông, Hoa Kỳ có thể có lợi thế hơn về các cuộc thảo luận nhân quyền.
Phát biểu tại một cuộc họp báo, trợ lý ngoại trưởng phụ trách Đông Á Danny Russel khẳng định : « Quý vị có thể tin tưởng vào cam kết can dự mạnh mẽ của chúng tôi tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, bởi các lợi ích sâu sắc của Hoa Kỳ ở khu vực này ».
Ông Russel cũng nhấn mạnh đến một loạt chuyến công du Washington của nhiều lãnh đạo khu vực, trong đó có chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang. Thứ Năm tới 25/07, ông Trương Tấn Sang sẽ là nguyên thủ Việt Nam thứ hai viếng thăm Nhà Trắng kể từ khi Mỹ-Việt bình thường hóa quan hệ. Trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ hy vọng Washington tiếp tục « đa dạng hóa » các quan hệ trong chiến lược xoay trục về Châu Á để bảo đảm được các lợi ích căn bản của Hoa Kỳ.
Tân trợ lý ngoại trưởng phụ trách Đông Á Danny Russel – vốn có kinh nghiệm làm việc tại Nhật Bản - nhìn chung được coi là một nhà ngoại giao mềm mỏng hơn người tiền nhiệm Kurt Campbell. Ông Danny Russel từng nằm trong ban cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Mỹ, phụ trách Châu Á, trước khi được bổ nhiệm vào chức vụ trợ lý ngoại trưởng vào trung tuần tháng 5/2013, quyết định bổ nhiệm được thượng viện phê chuẩn đầu tháng 7/2013.
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130723-hoa-ky-tai-khang-dinh-chien-luoc-tang-cuong-hop-tac-voi-chau-a-thai-binh-duong
Mỹ công nhận vai trò quan trọng của Việt Nam trong chính sách xoay trục qua châu Á
Trong một cuộc họp báo, bên cạnh việc xác nhận lại các ưu tiên
của Mỹ trong vùng, ông Danny Russel, người vừa chính thức nhậm chức Trợ
lý Ngoại trưởng đặc trách Đông Á – Thái Bình Dương, còn nói rõ thêm về
vị trí của Việt Nam và Đông Nam Á trong chính sách châu Á của Hoa Kỳ.
Về vùng Đông Nam Á, ông Russel đã công nhận rằng đây là khu vực được Mỹ cho là năng động nhất trong toàn châu Á -Thái Bình Dương, và là nơi mà Hoa Kỳ đang và sẽ tiếp tục đầu tư một cách đáng kể vào việc vun bồi quan hệ với các nước từ lớn đến nhỏ, từ Indonesia nước lớn nhất, cho đến Singapore hay Brunei, hai quốc gia nhỏ nhất.
Riêng về Việt Nam, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ xác định rằng quan hệ đối tác song phương đang vươn lên, với một “dấu mốc khá lịch sử” là chuyến công du của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang. Theo ông Russel, ngoài cuộc hội đàm với Tổng thống Mỹ Barack Obama ngày Thứ Năm (25/07/2013), trước đó Chủ tịch nước Việt Nam sẽ được Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đón tiếp. Lãnh đạo Việt Nam được cho là sẽ đến Mỹ ngay vào chiều nay 23/07/2013.
Trả lời câu hỏi của một nhà báo người Việt, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ cho rằng quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đang có cơ hội phát triển rất lớn, đặc biệt nhờ vào mối quan hệ cá nhân của đương kim Ngoại trưởng John Kerry với Việt Nam, không chỉ từ lúc ông còn trong quân ngũ, mà còn từ các giai đoạn sau đó..
Ông Russel nhắc lại rằng thời còn làm Thượng nghị sĩ, kể cả lúc làm Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện, ông Kerry đã đi thăm Việt Nam 17 lần. Cùng các đồng nghiệp tại Thượng viện, ông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc tiến tới một kiểu quan hệ chiến lược và toàn diện, một quan hệ đối tác mà Mỹ và Việt Nam có thể xây dựng – và đang xây dựng.
Một cách cụ thể hơn, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ cho rằng Việt Nam có một vị trí “gần sát trung tâm của chiến lược tái cân bằng” qua châu Á. Ông Russel giải thích : “Việt Nam là một quốc gia đang vươn lên… Việt Nam là một tác nhân chủ chốt trong ASEAN vào một thời điểm mà sự tham gia của Mỹ vào trong các tổ chức (khu vực)… đang tăng tốc. Việt Nam cũng là một đối tác đàm phán quan trọng của Hiệp ước thương mại Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP".
Tuy nhiên ông Russel cũng nêu lên hai quan điểm thận trọng đối với Việt Nam. Trước hết, trong số 12 quốc gia tham gia vào các cuộc đàm phán TPP, Việt Nam là nước nằm ở cuối bậc thang phát triển. Chính vì vậy mà theo ông Russel, Việt Nam được Ngân hàng Thế giới cho là nước sẽ hưởng lợi nhiều nhất khi là thành viên một khối mậu dịch có tiêu chuẩn và chất lượng cao như TPP.
Vấn đề thứ hai, theo ông Russel, là Hoa Kỳ luôn có những mối quan tâm đáng kể và đã hết sức chú ý đến tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Theo Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, Washington nhận thức rõ những tiến bộ trong lãnh vực này ở Việt Nam, nhưng vẫn rất quan tâm đến các lãnh vực chưa có tiến bộ.
Về Biển Đông, người phụ trách châu Á của Bộ Ngoại giao Mỹ đã không ngần ngại khen ngợi lập trường của Việt Nam. Ông Russel giải thích : “Theo Ngoại trưởng Kerry, người sẽ ăn trưa với Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang vào ngày Thứ Tư (24/07/2013), chuyến thăm này là cơ hội để tăng cường sự phối hợp giữa hai nước về các vấn đề chiến lược trong khu vực, bao gồm cả vấn đề quan trọng là Biển Đông, nơi mà Việt Nam, dù là một bên tranh chấp, nhưng cũng là một tiếng nói rất có trách nhiệm, ủng hộ một cách tiếp cận ngoại giao dựa trên luật pháp".
Về vùng Đông Nam Á, ông Russel đã công nhận rằng đây là khu vực được Mỹ cho là năng động nhất trong toàn châu Á -Thái Bình Dương, và là nơi mà Hoa Kỳ đang và sẽ tiếp tục đầu tư một cách đáng kể vào việc vun bồi quan hệ với các nước từ lớn đến nhỏ, từ Indonesia nước lớn nhất, cho đến Singapore hay Brunei, hai quốc gia nhỏ nhất.
Riêng về Việt Nam, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ xác định rằng quan hệ đối tác song phương đang vươn lên, với một “dấu mốc khá lịch sử” là chuyến công du của Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang. Theo ông Russel, ngoài cuộc hội đàm với Tổng thống Mỹ Barack Obama ngày Thứ Năm (25/07/2013), trước đó Chủ tịch nước Việt Nam sẽ được Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đón tiếp. Lãnh đạo Việt Nam được cho là sẽ đến Mỹ ngay vào chiều nay 23/07/2013.
Trả lời câu hỏi của một nhà báo người Việt, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ cho rằng quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đang có cơ hội phát triển rất lớn, đặc biệt nhờ vào mối quan hệ cá nhân của đương kim Ngoại trưởng John Kerry với Việt Nam, không chỉ từ lúc ông còn trong quân ngũ, mà còn từ các giai đoạn sau đó..
Ông Russel nhắc lại rằng thời còn làm Thượng nghị sĩ, kể cả lúc làm Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện, ông Kerry đã đi thăm Việt Nam 17 lần. Cùng các đồng nghiệp tại Thượng viện, ông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc tiến tới một kiểu quan hệ chiến lược và toàn diện, một quan hệ đối tác mà Mỹ và Việt Nam có thể xây dựng – và đang xây dựng.
Một cách cụ thể hơn, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ cho rằng Việt Nam có một vị trí “gần sát trung tâm của chiến lược tái cân bằng” qua châu Á. Ông Russel giải thích : “Việt Nam là một quốc gia đang vươn lên… Việt Nam là một tác nhân chủ chốt trong ASEAN vào một thời điểm mà sự tham gia của Mỹ vào trong các tổ chức (khu vực)… đang tăng tốc. Việt Nam cũng là một đối tác đàm phán quan trọng của Hiệp ước thương mại Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP".
Tuy nhiên ông Russel cũng nêu lên hai quan điểm thận trọng đối với Việt Nam. Trước hết, trong số 12 quốc gia tham gia vào các cuộc đàm phán TPP, Việt Nam là nước nằm ở cuối bậc thang phát triển. Chính vì vậy mà theo ông Russel, Việt Nam được Ngân hàng Thế giới cho là nước sẽ hưởng lợi nhiều nhất khi là thành viên một khối mậu dịch có tiêu chuẩn và chất lượng cao như TPP.
Vấn đề thứ hai, theo ông Russel, là Hoa Kỳ luôn có những mối quan tâm đáng kể và đã hết sức chú ý đến tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Theo Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ, Washington nhận thức rõ những tiến bộ trong lãnh vực này ở Việt Nam, nhưng vẫn rất quan tâm đến các lãnh vực chưa có tiến bộ.
Về Biển Đông, người phụ trách châu Á của Bộ Ngoại giao Mỹ đã không ngần ngại khen ngợi lập trường của Việt Nam. Ông Russel giải thích : “Theo Ngoại trưởng Kerry, người sẽ ăn trưa với Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang vào ngày Thứ Tư (24/07/2013), chuyến thăm này là cơ hội để tăng cường sự phối hợp giữa hai nước về các vấn đề chiến lược trong khu vực, bao gồm cả vấn đề quan trọng là Biển Đông, nơi mà Việt Nam, dù là một bên tranh chấp, nhưng cũng là một tiếng nói rất có trách nhiệm, ủng hộ một cách tiếp cận ngoại giao dựa trên luật pháp".
TQ lập lực lượng tuần duyên hùng hậu, nguy cơ va chạm gia tăng
Các chỉ huy quân sự Trung Quốc bắn súng hiệu khởi động cuộc tập trận hải quân trên biển Hoa Đông ngày 19/10/2012.
REUTERS/China Daily
Lực lượng tuần duyên mới của Trung Quốc tập hợp lực lượng hải
giám – đơn vị tuần duyên hiện nay trực thuộc Bộ Công an, cùng với ngư
chính và hải tuần chuyên chống buôn lậu trên biển. Tờ Global Times trích
lời Yang Mian, giáo sư quan hệ quốc tế tại trường đại học Truyền thông
Trung Quốc nói rằng « các đơn vị không được phép trang bị vũ khí thì nay
đã có quyền. Lực lượng mới cũng sẽ giúp Trung Quốc áp dụng luật pháp
một cách mạnh mẽ hơn ».
Zhang Junshe, một chuyên gia quân sự trên PLA Daily cho biết, lực lượng tuần duyên mới sẽ « nhận dạng và đáp trả nhanh chóng, nhân danh luật pháp, đối với các hành động gây tổn hại cho các quyền và lợi ích trên biển của Trung Quốc ».
Căng thẳng đang dâng cao giữa Trung Quốc, Nhật Bản và các nước láng giềng về chủ quyền trên biển.
Tokyo lên án Bắc Kinh ngày càng gởi nhiều tàu hải giám đến quấy nhiễu xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư ở biển Hoa Đông, quần đảo đang do Nhật Bản quản lý nhưng Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền. Bắc Kinh vô cùng tức tối sau khi Tokyo mua lại ba trong số năm hòn đảo của quần đảo này từ một chủ tư nhân người Nhật vào tháng 9/2012, liên tục cho các tàu xâm nhập vùng này và cho phi cơ bay ngang không phận.
Philippines và Việt Nam cũng tố cáo Trung Quốc sử dụng vũ lực để âm mưu thôn tính Biển Đông. Philippines đã đưa việc Trung Quốc chiếm đóng bãi cạn Scarborough ra Tòa án quốc tế về Luật Biển. Ngư dân Việt Nam thì liên tục bị xua đuổi, đánh đập và mới đây tàu cá Việt Nam còn bị tàu Trung Quốc cướp phá và hành hung.
Trước tình hình đó, Hoa Kỳ với chiến lược xoay trục sang châu Á, đã siết chặt quan hệ hợp tác quân sự với các nước láng giềng châu Á của Bắc Kinh. Không chỉ với Nhật Bản và Philippines, là những nước có hiệp ước hỗ tương với Washington, Hoa Kỳ còn chìa bàn tay thân thiện ra với cựu thù ở Đông Nam Á là Việt Nam.
Lo sợ trước thái độ hung hăng của Trung Quốc, nhưng các nước láng giềng châu Á cũng không muốn đối đầu với Bắc Kinh, lo ngại rằng chính sách mới của Washington chỉ nhằm kìm bớt sức mạnh đang lên của Trung Quốc.
Để khẳng định chủ quyền trên những vùng biển được cho là thuộc lãnh hải Trung Quốc, Bắc Kinh thường xuyên gửi đến những vùng biển này các tàu tuần tra trực thuộc nhiều bộ khác nhau, như lực lượng hải giám thuộc Bộ Công an, hay các tàu ngư chính do Bộ Nông nghiệp quản lý. Thực chất các tàu này đều là lực lượng vũ trang trá hình.
Theo nhà nghiên cứu Arthur Ding ở Đài Loan, thì việc tuần tra trên biển của Trung Quốc sắp tới sẽ « thường xuyên hơn và dữ dội hơn ». Ông nhận định : « Được đặt tên là tuần duyên, các tàu của lực lượng này dường như được cho phép trang bị vũ khí hạng nhẹ. Những va chạm với các nước láng giềng sẽ tăng cao ».
Nhà nghiên cứu trên ghi nhận, năng lực trên biển của Bắc Kinh đã tăng nhanh trong những năm gần đây, với những chiến hạm lớn và có tầm bắn ngày càng xa hơn, có thể trụ lại hay tuần tiễu trên các vùng biển tranh chấp trong thời gian dài hơn.
Với lực lượng tuần duyên mới hùng hậu hơn, hỏa lực mạnh hơn để tăng cường trấn áp trên biển, phải chăng là chó sói nay đã không còn cần phải đội lốt cừu trên Biển Đông và biển Hoa Đông ?
Zhang Junshe, một chuyên gia quân sự trên PLA Daily cho biết, lực lượng tuần duyên mới sẽ « nhận dạng và đáp trả nhanh chóng, nhân danh luật pháp, đối với các hành động gây tổn hại cho các quyền và lợi ích trên biển của Trung Quốc ».
Căng thẳng đang dâng cao giữa Trung Quốc, Nhật Bản và các nước láng giềng về chủ quyền trên biển.
Tokyo lên án Bắc Kinh ngày càng gởi nhiều tàu hải giám đến quấy nhiễu xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư ở biển Hoa Đông, quần đảo đang do Nhật Bản quản lý nhưng Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền. Bắc Kinh vô cùng tức tối sau khi Tokyo mua lại ba trong số năm hòn đảo của quần đảo này từ một chủ tư nhân người Nhật vào tháng 9/2012, liên tục cho các tàu xâm nhập vùng này và cho phi cơ bay ngang không phận.
Philippines và Việt Nam cũng tố cáo Trung Quốc sử dụng vũ lực để âm mưu thôn tính Biển Đông. Philippines đã đưa việc Trung Quốc chiếm đóng bãi cạn Scarborough ra Tòa án quốc tế về Luật Biển. Ngư dân Việt Nam thì liên tục bị xua đuổi, đánh đập và mới đây tàu cá Việt Nam còn bị tàu Trung Quốc cướp phá và hành hung.
Trước tình hình đó, Hoa Kỳ với chiến lược xoay trục sang châu Á, đã siết chặt quan hệ hợp tác quân sự với các nước láng giềng châu Á của Bắc Kinh. Không chỉ với Nhật Bản và Philippines, là những nước có hiệp ước hỗ tương với Washington, Hoa Kỳ còn chìa bàn tay thân thiện ra với cựu thù ở Đông Nam Á là Việt Nam.
Lo sợ trước thái độ hung hăng của Trung Quốc, nhưng các nước láng giềng châu Á cũng không muốn đối đầu với Bắc Kinh, lo ngại rằng chính sách mới của Washington chỉ nhằm kìm bớt sức mạnh đang lên của Trung Quốc.
Để khẳng định chủ quyền trên những vùng biển được cho là thuộc lãnh hải Trung Quốc, Bắc Kinh thường xuyên gửi đến những vùng biển này các tàu tuần tra trực thuộc nhiều bộ khác nhau, như lực lượng hải giám thuộc Bộ Công an, hay các tàu ngư chính do Bộ Nông nghiệp quản lý. Thực chất các tàu này đều là lực lượng vũ trang trá hình.
Theo nhà nghiên cứu Arthur Ding ở Đài Loan, thì việc tuần tra trên biển của Trung Quốc sắp tới sẽ « thường xuyên hơn và dữ dội hơn ». Ông nhận định : « Được đặt tên là tuần duyên, các tàu của lực lượng này dường như được cho phép trang bị vũ khí hạng nhẹ. Những va chạm với các nước láng giềng sẽ tăng cao ».
Nhà nghiên cứu trên ghi nhận, năng lực trên biển của Bắc Kinh đã tăng nhanh trong những năm gần đây, với những chiến hạm lớn và có tầm bắn ngày càng xa hơn, có thể trụ lại hay tuần tiễu trên các vùng biển tranh chấp trong thời gian dài hơn.
Với lực lượng tuần duyên mới hùng hậu hơn, hỏa lực mạnh hơn để tăng cường trấn áp trên biển, phải chăng là chó sói nay đã không còn cần phải đội lốt cừu trên Biển Đông và biển Hoa Đông ?
Chương trình nghị sự cho cuộc họp Obama-Trương Tấn Sang
CỠ CHỮ
23.07.2013
Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang kêu gọi Mỹ chấm dứt lệnh cấm
bán vũ khí sát thương cho Hà Nội trước thềm cuộc hội kiến với Tổng Thống
Hoa Kỳ Barack Obama.
Hãng tin AP hôm nay trích lời ông Trương Tấn Sang nói rằng “đã đến lúc phải bình thường hóa toàn diện các quan hệ song phương trong tất cả mọi lĩnh vực”.
Hãng tin AP tường thuật rằng lời bình luận của Chủ tịch nước Việt Nam đã được gửi cho hãng tin này qua email, để trả lời một câu hỏi về lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam của Mỹ.
Hoa Kỳ đang tìm cách thắt chặt các quan hệ kinh tế và an ninh với Việt Nam, tuy nhiên cùng lúc, muốn thấy Đảng Cộng Sản Việt Nam trả tự do cho các nhân vật bất đồng và cho phép người dân được quyền tự do chính trị, và tự do tôn giáo.
Hãng tin AP tường thuật rằng Chủ tịch Trương Tấn Sang còn nói thêm rằng hãy còn một số khác biệt quan điểm giữa Washington và Hà nội về vấn đề nhân quyền nhưng điều đó là chuyện “bình thường.”
Trong khi đó, chuyến công du của Chủ tịch nước Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ đã khiến thế giới tập trung vào thành tích nhân quyền của Việt Nam.
Hãng tin Reuters hôm qua dẫn lời ông John Sifton, giám đốc phân bộ Á Châu của Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch, nói rằng nếu chỉ trích chính quyền Việt Nam bị coi là một tội có thể bị xử phạt, thì cá nhân Tổng Thống Obama phải tỏ thái độ đoàn kết với các nhân vật bất đồng bằng cách “phạm tội lỗi ấy.”
Human Rights Watch nói chiến dịch đàn áp quyền tự do ngôn luận được tăng cường tại Việt Nam trong thời gian qua, phải là một đề tài được đặt cao trong nghị trình cuộc gặp cấp cao giữa hai nhà lãnh đạo Việt-Mỹ.
Chủ tịch nước Việt Nam tiền nhiệm, ông Nguyễn Minh Triết đã đi thăm Washington vào tháng 6 năm 2007, và Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Washington vào tháng 6 năm 2008. Từ các chuyến đi thăm đó tới nay, ngày càng có nhiều nhân vật bất đồng, blogger và lãnh đạo tôn giáo bị tống giam ở Việt Nam.
Bản tin của Reuters viết rằng theo Bộ Luật Hình sự khắc nghiệt của Việt Nam, nhà chức trách thường xuyên bắt bớ các nhân vật bất đồng về những cáo trạng như “tuyên truyền ” và “âm mưu lật đổ nhà nước nhân dân”, “phá hoại tình đoàn kết của nhà nước” và “lạm dụng các quyền tự do dân chủ để phương hại tới lợi ích của nhà nước và nhân dân.”
Bản tin nói rằng các nhân vật bất đồng thường xuyên bị giam cầm và không được tiếp xúc với bên ngoài trong thời gian dài, nhiều người không được phép gặp luật sư, hoặc cấm người nhà đến thăm, họ thường bị tra tấn hoặc chịu những hình thức ngược đãi khác, bị truy tố tại những tòa án do nhà nước kiểm soát, và ngày càng chịu những bản án khắc nghiệt kéo dài nhiều năm.
Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch kêu gọi chính phủ của Tổng Thống Obama hãy công khai nêu lên các trường hợp cá biệt, như trường hợp Luật sư Cù Huy Hà Vũ, blogger Điếu Cày, tức nhà báo tự do Nguyễn văn Hải, và trường hợp Luật sư Lê Quốc Quân, đang chờ bị truy tố về những cáo buộc về tội trốn thuế, mà Human Rights Watch cho là có tính cách ngụy tạo.
Giới phân tích nói giữa lúc Việt Nam đang lưỡng lự giữa một bên là Trung Quốc, siêu cường đang nổi lên, và một đàng là Hoa Kỳ, siêu cường đang nắm vị thế số 1 hiện nay, liệu chiến dịch đòi chính phủ Mỹ tăng sức ép đối với Hà Nội có nguy cơ đẩy Việt Nam vào vòng tay Trung Quốc? Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, Giám đốc Điều hành BPSOS nói:
“Lập luận đó không đứng vững đâu. Lý do thứ nhất là cuộc vận động cho nhân quyền ở hải ngoại không có ý là không muốn Việt Nam tham gia vào thương ước Đối tác Xuyên Thái bình dương (TPP), không muốn cho Việt Nam hợp tác chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ, mà chỉ muốn đặt điều kiện về vấn đề nhân quyền. Lý do thứ hai, nếu Việt Nam gia nhập luôn phía của Trung Quốc để trở thành một quốc gia lệ thuộc, thì cái đó là một hành động tự sát, bởi vì cái chính danh của chế độ cộng sản hiện nay ở Việt Nam chỉ còn có một cái thôi, đó là họ luôn luôn giương cao ngọn cờ nói rằng chúng tôi là người giành được độc lập cho Việt Nam, mà bây giờ bán cái độc lập ấy đi để duy trì Đảng Cộng Sản thì cái chính danh từ trước tới giờ không còn gì nữa hết. Cuộc vận động của chúng tôi là muốn làm sao để họ dân chủ hóa, chọn một thái độ rõ ràng. Nếu như Việt Nam vẫn độc tài theo chế độ cộng sản thì không bao giờ thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc. Chỉ có thể thoát khỏi được và thực sự đứng chung hàng ngũ của Hoa Kỳ nếu như họ tôn trọng nhân quyền và từng bước một dân chủ hóa mà thôi.”
Phát động chiến dịch đòi nhà lãnh đạo Mỹ yêu cầu Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang sửa đổi luật pháp, hủy bỏ điều 79 và điều 88 của Bộ Luật Hình sự, đòi Việt Nam cải thiện nhân quyền, có phải là một hành động can thiệp vào nội tình Việt Nam?
Cô Trang Huỳnh, đại diện Đảng Việt Tân ở Washington:
“Việt Nam đã ký vào nhiều hiệp ước quốc tế và là thành viên của Liên Hiệp Quốc, và đây là một cái quyền của công dân Việt Nam theo tinh thần các điều khoản của Liên Hiệp Quốc. Đây là quyền của bất cứ một người dân nào trên thế giới đều có thể hưởng. Thành ra đối với tôi đây không phải là vấn đề nội bộ của Việt Nam không mà thôi, chưa nói đến việc người Việt khắp nơi, chính người dân trong nước cũng bày tỏ bất bình với hai điều luật này và họ đã vận động dân biểu Ed Royce lên tiếng về hai điều luật này.”
Hôm thứ Sáu, Dân biểu Ed Royce, Chủ tịch Ủy Ban Đối Ngoại Hạ Viện Hoa Kỳ, nói chuyến đi thăm Hoa Kỳ của ông Trương Tấn Sang là một cơ hội có một không hai để Tổng Thống Obama lên tiếng hậu thuẫn nguyện vọng của nhân dân Việt Nam mong muốn được hưởng các quyền tự do, và ông kêu gọi nhà lãnh đạo Mỹ tận dụng cơ hội này để bênh vực nhân quyền.
Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch nói rằng ngoài ra, Tổng Thống Obama cũng nên nêu lên trường hợp của Linh mục Nguyễn văn Lý, và một loạt các blogger và đấu tranh trẻ tuổi kể cả Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Đinh Nhật Uy, Nguyễn Hoàng Vi và Nguyễn Ngọc như Quỳnh, tức blogger Mẹ Nấm, là thành phần bị nhà cầm quyền Việt Nam nhắm tới vì đã phân phát tờ rơi chỉ trích chính phủ, hay tổ chức các buổi dã ngoại nhân quyền và phân phát các tài liệu liên quan tới bản Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế.
Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch kêu gọi Hoa Kỳ hãy hoãn lại các cuộc thương thuyết về quốc phòng và thương mại với Việt Nam, cho tới khi nào Hà nội chấm dứt chiến dịch đàn áp, và cam kết rút lại các điều khoản pháp lý, đặt ra ngoài vòng pháp luật các hoạt động của giới bất đồng.
Giám đốc Á Châu của Human Rights Watch, ông John Sifton, nói rằng Chủ tịch nước Việt Nam không thể biện minh một cách công khai chiến dịch đàn áp của Hà nội, ông Sang nên sử dụng cơ hội gặp nhà lãnh đạo Mỹ để bác bỏ chính sách đàn áp đó.
Hãng tin AP hôm nay trích lời ông Trương Tấn Sang nói rằng “đã đến lúc phải bình thường hóa toàn diện các quan hệ song phương trong tất cả mọi lĩnh vực”.
Hãng tin AP tường thuật rằng lời bình luận của Chủ tịch nước Việt Nam đã được gửi cho hãng tin này qua email, để trả lời một câu hỏi về lệnh cấm bán vũ khí cho Việt Nam của Mỹ.
Hoa Kỳ đang tìm cách thắt chặt các quan hệ kinh tế và an ninh với Việt Nam, tuy nhiên cùng lúc, muốn thấy Đảng Cộng Sản Việt Nam trả tự do cho các nhân vật bất đồng và cho phép người dân được quyền tự do chính trị, và tự do tôn giáo.
Hãng tin AP tường thuật rằng Chủ tịch Trương Tấn Sang còn nói thêm rằng hãy còn một số khác biệt quan điểm giữa Washington và Hà nội về vấn đề nhân quyền nhưng điều đó là chuyện “bình thường.”
Trong khi đó, chuyến công du của Chủ tịch nước Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ đã khiến thế giới tập trung vào thành tích nhân quyền của Việt Nam.
Hãng tin Reuters hôm qua dẫn lời ông John Sifton, giám đốc phân bộ Á Châu của Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch, nói rằng nếu chỉ trích chính quyền Việt Nam bị coi là một tội có thể bị xử phạt, thì cá nhân Tổng Thống Obama phải tỏ thái độ đoàn kết với các nhân vật bất đồng bằng cách “phạm tội lỗi ấy.”
Human Rights Watch nói chiến dịch đàn áp quyền tự do ngôn luận được tăng cường tại Việt Nam trong thời gian qua, phải là một đề tài được đặt cao trong nghị trình cuộc gặp cấp cao giữa hai nhà lãnh đạo Việt-Mỹ.
Chủ tịch nước Việt Nam tiền nhiệm, ông Nguyễn Minh Triết đã đi thăm Washington vào tháng 6 năm 2007, và Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Washington vào tháng 6 năm 2008. Từ các chuyến đi thăm đó tới nay, ngày càng có nhiều nhân vật bất đồng, blogger và lãnh đạo tôn giáo bị tống giam ở Việt Nam.
Bản tin của Reuters viết rằng theo Bộ Luật Hình sự khắc nghiệt của Việt Nam, nhà chức trách thường xuyên bắt bớ các nhân vật bất đồng về những cáo trạng như “tuyên truyền ” và “âm mưu lật đổ nhà nước nhân dân”, “phá hoại tình đoàn kết của nhà nước” và “lạm dụng các quyền tự do dân chủ để phương hại tới lợi ích của nhà nước và nhân dân.”
Bản tin nói rằng các nhân vật bất đồng thường xuyên bị giam cầm và không được tiếp xúc với bên ngoài trong thời gian dài, nhiều người không được phép gặp luật sư, hoặc cấm người nhà đến thăm, họ thường bị tra tấn hoặc chịu những hình thức ngược đãi khác, bị truy tố tại những tòa án do nhà nước kiểm soát, và ngày càng chịu những bản án khắc nghiệt kéo dài nhiều năm.
Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch kêu gọi chính phủ của Tổng Thống Obama hãy công khai nêu lên các trường hợp cá biệt, như trường hợp Luật sư Cù Huy Hà Vũ, blogger Điếu Cày, tức nhà báo tự do Nguyễn văn Hải, và trường hợp Luật sư Lê Quốc Quân, đang chờ bị truy tố về những cáo buộc về tội trốn thuế, mà Human Rights Watch cho là có tính cách ngụy tạo.
Giới phân tích nói giữa lúc Việt Nam đang lưỡng lự giữa một bên là Trung Quốc, siêu cường đang nổi lên, và một đàng là Hoa Kỳ, siêu cường đang nắm vị thế số 1 hiện nay, liệu chiến dịch đòi chính phủ Mỹ tăng sức ép đối với Hà Nội có nguy cơ đẩy Việt Nam vào vòng tay Trung Quốc? Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, Giám đốc Điều hành BPSOS nói:
“Lập luận đó không đứng vững đâu. Lý do thứ nhất là cuộc vận động cho nhân quyền ở hải ngoại không có ý là không muốn Việt Nam tham gia vào thương ước Đối tác Xuyên Thái bình dương (TPP), không muốn cho Việt Nam hợp tác chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ, mà chỉ muốn đặt điều kiện về vấn đề nhân quyền. Lý do thứ hai, nếu Việt Nam gia nhập luôn phía của Trung Quốc để trở thành một quốc gia lệ thuộc, thì cái đó là một hành động tự sát, bởi vì cái chính danh của chế độ cộng sản hiện nay ở Việt Nam chỉ còn có một cái thôi, đó là họ luôn luôn giương cao ngọn cờ nói rằng chúng tôi là người giành được độc lập cho Việt Nam, mà bây giờ bán cái độc lập ấy đi để duy trì Đảng Cộng Sản thì cái chính danh từ trước tới giờ không còn gì nữa hết. Cuộc vận động của chúng tôi là muốn làm sao để họ dân chủ hóa, chọn một thái độ rõ ràng. Nếu như Việt Nam vẫn độc tài theo chế độ cộng sản thì không bao giờ thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc. Chỉ có thể thoát khỏi được và thực sự đứng chung hàng ngũ của Hoa Kỳ nếu như họ tôn trọng nhân quyền và từng bước một dân chủ hóa mà thôi.”
Phát động chiến dịch đòi nhà lãnh đạo Mỹ yêu cầu Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang sửa đổi luật pháp, hủy bỏ điều 79 và điều 88 của Bộ Luật Hình sự, đòi Việt Nam cải thiện nhân quyền, có phải là một hành động can thiệp vào nội tình Việt Nam?
Cô Trang Huỳnh, đại diện Đảng Việt Tân ở Washington:
“Việt Nam đã ký vào nhiều hiệp ước quốc tế và là thành viên của Liên Hiệp Quốc, và đây là một cái quyền của công dân Việt Nam theo tinh thần các điều khoản của Liên Hiệp Quốc. Đây là quyền của bất cứ một người dân nào trên thế giới đều có thể hưởng. Thành ra đối với tôi đây không phải là vấn đề nội bộ của Việt Nam không mà thôi, chưa nói đến việc người Việt khắp nơi, chính người dân trong nước cũng bày tỏ bất bình với hai điều luật này và họ đã vận động dân biểu Ed Royce lên tiếng về hai điều luật này.”
Hôm thứ Sáu, Dân biểu Ed Royce, Chủ tịch Ủy Ban Đối Ngoại Hạ Viện Hoa Kỳ, nói chuyến đi thăm Hoa Kỳ của ông Trương Tấn Sang là một cơ hội có một không hai để Tổng Thống Obama lên tiếng hậu thuẫn nguyện vọng của nhân dân Việt Nam mong muốn được hưởng các quyền tự do, và ông kêu gọi nhà lãnh đạo Mỹ tận dụng cơ hội này để bênh vực nhân quyền.
Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch nói rằng ngoài ra, Tổng Thống Obama cũng nên nêu lên trường hợp của Linh mục Nguyễn văn Lý, và một loạt các blogger và đấu tranh trẻ tuổi kể cả Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Đinh Nhật Uy, Nguyễn Hoàng Vi và Nguyễn Ngọc như Quỳnh, tức blogger Mẹ Nấm, là thành phần bị nhà cầm quyền Việt Nam nhắm tới vì đã phân phát tờ rơi chỉ trích chính phủ, hay tổ chức các buổi dã ngoại nhân quyền và phân phát các tài liệu liên quan tới bản Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế.
Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch kêu gọi Hoa Kỳ hãy hoãn lại các cuộc thương thuyết về quốc phòng và thương mại với Việt Nam, cho tới khi nào Hà nội chấm dứt chiến dịch đàn áp, và cam kết rút lại các điều khoản pháp lý, đặt ra ngoài vòng pháp luật các hoạt động của giới bất đồng.
Giám đốc Á Châu của Human Rights Watch, ông John Sifton, nói rằng Chủ tịch nước Việt Nam không thể biện minh một cách công khai chiến dịch đàn áp của Hà nội, ông Sang nên sử dụng cơ hội gặp nhà lãnh đạo Mỹ để bác bỏ chính sách đàn áp đó.
Ðề tài đàm phán Việt-Mỹ: Thương mại, nhân quyền và Trung Quốc
Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang sẽ trở thành nguyên thủ thứ nhì của Việt Nam
đi thăm Tòa Bạch Ốc kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ cách đây
gần 20 năm.
CỠ CHỮ
23.07.2013
Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn thứ nhì của Việt Nam sau Trung Quốc và việc Việt Nam tham gia vào tổ chức thương mại tự do do Hoa Kỳ đứng đầu, Ðối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP, có phần chắc sẽ nằm cao trong nghị trình thảo luận.
Dân số trẻ trung của Việt Nam và sự tăng trưởng kinh tế đang lên khiến nước này trở thành một thị trường hấp dẫn đối với nhiều công ty Hoa Kỳ. Tuần trước, đại công ty thực phẩm McDonald có trụ sở ở Hoa Kỳ đã trở thành thương hiệu thực phẩm toàn cầu mới nhất loan báo sẽ mở hệ thống bán thưong hiệu tại Việt Nam.
Tại một cuộc họp báo ở Hà Nội tuần trước, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lương Thanh Nghị nói quan hệ song phương đã gia tăng kể từ lúc hai nước bình thường hóa bang giao vào tháng 7 năm 1995.
Ông Nghị nói Hoa Kỳ và Việt Nam đã đồng ý thiết lập một quan hệ đối tác thân hữu, xây dựng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và có lợi chung.
Nhưng có những bất đồng liên tục về việc Hoa Kỳ phản đối thành tích nhân quyền ngày càng tệ hại của Việt Nam. Tính đến thời điểm này trong năm nay, tổ chức quốc tế tranh đấu cho nhân quyền Human Rights Watch nói đã có các nhà lãnh đạo tôn giáo, các nhân vật bất đồng chính kiến và các blogger bị tuyên các án tù nhiều hơn so với toàn bộ năm 2012.
Phiên toà trong tháng này xét xử luật sư Công giáo Lê Quốc Quân đã bị hoãn vô thời hạn. Blogger bị tù Ðiếu Cày được mô tả là “rất yếu” khi ông thực hiện cuộc tuyệt thực để phản đối các điều kiện nhà tù.
Nhà hoạt động Việt Nam Trịnh Kim Tiến cho hay ông hy vọng nhân quyền sẽ là một phần nổi bật trong các cuộc đàm phán.
Bà Tiến nói Tổng thống Obama đã nêu bật trường hợp Ðiếu Cày trước đây và nay phải làm một điều gì để giúp gia đình ông ta trước khi quá muộn.
Với những câu chuyện như thế thu hút sự chú ý ở nước ngoài, các chuyên gia phân tích đang theo dõi xem chúng sẽ tác động ra sao đến các cuộc thảo luận với các giới chức Hoa Kỳ.
Chuyên gia phân tích quốc phòng, Giáo sư Carl Thayer nêu ra chính sách của Hoa Kỳ tái quân bình ảnh hưởng đối với vùng châu Á Thái Bình Dương.
“Tôi áng chừng, rằng nếu như nước Mỹ chỉ chơi lá bài nhân quyền thì là họ đã bắn vào chân họ khi tìm cách thúc đẩy quan hệ chiến lược với Việt Nam. Trò chơi tái quân bình rộng lớn hơn là tiếp cận, hình thành các đầu ra an ninh và cải thiện an ninh hàng hải và xem Việt Nam sẵn sàng tiến xa tới đâu về vấn đề Trung Quốc.”
Ngoại giao Việt Nam giữ một thế quân bình thận trọng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, nhất là có liên quan đến các khẳng định chủ quyền lãnh hải của Trung Quốc ở Biển Ðông.
Trong chuyến đi Bắc Kinh của ông Sang tháng trước hai nước cộng sản đã đồng ý thành lập một đường dây điện thoại nóng để giúp giải quyết mau chóng các tranh chấp lãnh hải đã đôi khi gây căng thẳng trong bang giao giữa hai bên.
Nhưng không phải ai cũng đồng ý rằng mọi sự đang diễn biến tốt đẹp giữa hai nước cộng sản này.
Nhà ngoại giao hồi hưu và là chuyên gia về Việt Nam, ông David Brown, nói ông nghĩ rằng quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc đã khựng lại kể từ sau các cuộc đàm phán hồi tháng 11 năm 2011, một phần vì các tranh chấp lãnh hải.
“Theo nhận định của tôi về việc đó thì cách đây 1 năm rưỡi phía Trung Quốc đã đồng ý ít nhất là bàn về quần đảo Trường Sa, chứ không phải về việc trả lại quần đảo này, nhưng ít ra là về việc cho dành cho phía Việt Nam một số hình thức tiếp cận ở đó và ở vùng biển quanh đó, và phía Việt Nam đã đồng ý là sẽ bàn về việc ấy. Nhưng dường như các cuộc thảo luận đó không đi đến đâu cả.”
Ông Brown nói các căng thẳng về quần đảo Trường Sa là một phần lý do vì sao Hoa Kỳ sẽ có một lập trường mạnh trong các cuộc đàm phán, vì Việt Nam và các nước khác ở Ðông Nam Á coi Washington như một đối trọng với các tham vọng về biển của Trung Quốc.
Ngoài ra, với các đồng minh khác của Hoa Kỳ trong khu vực như Philippines và Singapore, ông Brown nói Washington không quan tâm đến việc mưu tìm một sự hiện diện quân sự mạnh hơn ở Việt Nam để lấn át Trung Quốc. Ðó là lý do vì sao, theo ông, Hoa Kỳ có thể có lợi thế hơn về các cuộc thảo luận nhân quyền.
Tuesday, July 23, 2013
TÂP CẬN BÌNH TUYÊN BỐ
Tập Cận Bình “Tôi biết làm thế nào?”
Tạp chí “Tiền Tiêu” ở Hồng Công số ra tháng 4/2013 đăng
ghi âm phát biểu nội bộ vừa qua với cán bộ cấp cao Trung Quốc của
Tập Cận Bình với nhan đề “Tôi biết làm thế nào?”, trong đó đề cập
tới nhiều vấn đề nội bộ cũng như chính sách đối ngoại hiện nay của
Trung Quốc mà ông cảm thấy nhiều khi rất khó xử trên cương vị này.
Chúng tôi xin dịch nguyên văn làm tài liệu tham khảo.
Ngồi ghế Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước thực không dễ
dàng
Hôm
nay tôi nói chuyện nội bộ, trao đổi, tâm sự với các đông chí chứ
không phải phát biểu chính thức công bố ra bên ngoài. Tuy nhiên,
thời đại thông tin nhanh nhạy hiện nay thì nhiều văn bản tài liệu
nội bộ vẫn bị báo giới bên ngoài tiết lộ. Chẳng hạn trên mạng tin
vừa qua đã đăng toàn văn cuộc trao đổi riêng của tôi với anh Đức
Bình (Hồ Đức Bình, con trai Hồ Diệu Bang – ND).
Tôi
xin nói luôn không vòng vo rào trước đón sau. Chức Tổng Bí Thư (TBT)
này không phải tôi cố ý giành giật lấy mà toàn đảng giáo phó cho tôi
trách nhiệm này. Một lần, Đồng chí Hồ Cẩm Đào trước khi lên đường
thăm Nhật Bản cũng từng nói: “Không phải tôi cố ý giành lấy chức Chủ
Tịch Nước mà do toàn thể nhân dân cả nước bầu tôi”. Thực ra chức TBT
cũng không phải tôi tự mình muốn làm mà cán bộ toàn đảng và quần
chúng nhân dân bầu tôi làm, muốn để tôi làm. Nhận gánh trách nhiệm
thực sự nặng nề, không dễ dàng. Thời thanh niên khi tôi về nông thôn
sản xuất nông nghiệp ở Thiểm Tây đã thể nghiệm sâu sắc điều này.
Gánh bằng đòn gánh trên vai thực sự không dễ dàng. Một bên nhẹ, một
bên nặng đi không cân, nếu không giữ được thăng bằng thì bị ngã
xuống mương nước. Chính vì vậy mà các đồng chí thông cảm với tôi,
nên hiểu tôi.
Vì
sao tôi một mặt phải nói làm việc theo pháp luật, pháp luật là trên
hết, phải giữ sự tôn nghiêm của luật pháp. Nhưng mặt khác tôi vẫn
phải nhấn mạnh tinh thần cách mạng của Đ/C Mao Trạch Đông.
Lẽ nào tôi lại không hiểu cái đạo lý, sự mâu thuẫn giữa lý luận
chuyên chính với trị nước bằng pháp luật.
Hiểu đấy, biết đấy, nhưng vẫn phải làm như vậy. Bởi vì tôi phải giữ
sự cân bằng trong nội bộ Đảng, sự cân bằng giữa các tầng lớp cũng
như các luồng tư tưởng khác nhau trong nước. Hiện nay tôi phải quan
tâm và chiếu cố tất cả các nơi, nếu không sẽ đắc tội với họ. Các
đồng chí đừng cho rằng chức TBT của tôi nói gì cũng được, trên thực
tế phải lấy lòng các bên. Họ thích gì tôi nói thế, vào miếu nào phải
cúng thần miếu đó. Hịện nay có một số mâu thuẫn, một số điều gây cấn
tạm thời chưa giải quyết nổi là điều dễ hiểu. Tôi phải làm vừa
lòng các thế hệ lão thành, tầng lớp trung niên và thanh niên.
Tôi phải nhìn trước, nhìn sau, nhìn trái nhìn phải để làm việc. Bởi
vì, nó liên quan tới đại cục ổn định của toàn Đảng và đại cục ổn
định ở trong nước.
Xử lý mối quan hệ giữa các Nhóm lợi ích rất khó
khăn
Mọi
người đều biết, hiện nay tác phong của Đảng Cộng sản chúng ta có một
số không tốt. Một số cán bộ lãnh đạo hình thành Nhóm lợi ích, nó ảnh
hưởng tới quan hệ giữa Đảng với quân chúng nhân dân. Là người lãnh
đạo của Đảng, đã được cán bộ đảng viên các cấp bầu lên, tôi không
thể ăn nơi này, rào nơi khác mà phải đồng đều. Nhưng nếu xâm phạm
quá mức tới lợi ích của quần chúng nhân dân, rõ ràng tác động không
tốt tới lợi ích lâu dài của Đảng. Bởi vậy, tôi cũng phải như vậy để
vừa chiếu cố cái riêng vừa chiếu cố cái chung.
Nói về
“đánh con hổ tham nhũng” thì các đồng chí trong đảng yên tâm, đại bộ
phận các đồng chí trong đảng không sao cả, nhưng chúng ta vẫn phải
tuyên truyền sâu rộng, chỉ cần quần chúng nhân dân đồng lòng
vỗ tay hưởng ứng, đánh giá tốt là được. Điều này có thể một
số đồng chí cán bộ đảng viên cấp cơ sở không thông lắm.
Hiện
nay dư luận ngoài Đảng cho rằng Tập Cận Bình là Gorbachov của Trung
Quốc. Điều này tôi có thể khẳng định với mọi người rằng, toàn Đảng
bầu tôi vào chức vụ này đã giải thích và hiểu tôi, nên có thể yên
tâm. Tôi không bao giờ là Gorbachov của Trung Quốc. Tuy nhiên, một
số khác lại hoài nghi tôi về con đường cũ theo đường lối cực tả
trước đây. Đây cũng là sự hiểu lầm. Đồng chí Đức Bình là ông anh của
tôi. Cha tôi và cựu Tổng bí thư Hồ Diệu Bang là bạn thân thiết với
nhau. Cựu TBT Hồ Diệu Bang trước đây chẳng đã từng tham gia cuộc vạn
lý trường chinh đó sao? Tôi nghĩ, mình cần phải ôn lại lịch sử và
tinh thần chiến đấu của Đảng ta trong những năm tháng đấu tranh gian
khổ giành chính quyền. Chẳng lẽ cho đây là sự hoài cố hay sao? Một
số người soi mói, cho rằng làm như vậy chúng ta đang có ý đồ quay về
con đường cũ. Nhưng chúng ta không cần để ý tới những lời nói đó.
Đảng
chúng ta đã hơn 80 tuổi rồi, người già hay hoài cổ, nhớ lại những
năm tháng trai trẻ hào hùng trước đây. Như bản thân tôi, nhiều khi
vẫn nghĩ tới thời kỳ mình lao động ở vùng nông thôn Thiềm Tây trước
đây. Suốt đời cha tôi không bao giờ dùng “phong trào cực tả”
để chính cán bộ và tôi cũng sẽ như vậy. Hiện nay trong Đảng
ta vẫn còn nhiều đồng chí sủng bái Chủ tịch Mao Trạch Đông, vì vậy
tôi phải tôn trọng và thông cảm với các đồng chí đó.
Về công tác đối ngoại
Hiện
nay tình hình trong và ngoài nước mà chúng ta đang gặp phải không
mấy lạc quan. Những người bạn tốt, đồng chí tốt của chúng ta trên
thế giới ngày càng ít dần. Những người như Khadaphi, Chaver càng
ngày càng ít. Tình hình bán dảo Triều Tiên hiện cũng thành vấn đề.
Bắc Triều Tiên đang chơi con bài thử nghiệm vũ khí hạt nhân, nhưng
lại “liếc mắt đưa tình” có ý đồ bắt tay chơi với Mỹ. Trong thời đại
Chủ Tịch Mao Trạch Đông trước đây, chúng ta từng có quan hệ tốt với
ông anh cả Liên Xô, nhưng rồi hai bên lật mặt nhau. Trong khi đó
chúng ta tiến hành ngoại giao bóng bàn với Mỹ. Kết quả chẳng bao lâu
Liên Xô sụp đổ.
Đối
với Triều Tiên hiện nay, chúng ta vẫn viện trợ như trước đây, nhưng
điều chúng ta lo ngại là họ bắt cá hai tay, ăn cả hai đầu. Hơn mười
năm qua, chúng ta tiêu tốn rất nhiều tiền cho tuyên truyền đối
ngoại, nhưng kết quả không mấy khả quan, dư
luận các nước thờ ơ và chỉ trích ngày càng nhiều hơn. Về tuyên
truyền đối nội,
chúng ta có
một đội ngũ tuyên truyền để hướng dẫn dư luận trên các trang mạng,
nhưng rốt cuộc hiện nay cũng đưa lại không ít kết quả tiêu cực.
Đối
với quần đảo Điếu Ngư, như mọi người đều biết những biện pháp chúng
ta áp dụng hiện nay trong tình hình không có biện pháp nào nữa. Tôi
cũng muốn dựa vào tư thế sức mạnh để xác lập uy tín cho mình ở trong
nước. Nhưng quân đội của chúng ta hiện có thực sự đáp ứng được
không, chiến tranh nổ ra liệu có thích ứng với được với kỹ thuật và
cường độ cao của chiến tranh hiện đại? Điều này không chắc
chắn, nhất là cuộc chiến tranh quy mô lớn trong điều kiện kỹ thuật
cao phức tạp có Mỹ tham chiến. Chúng ta làm thế nào để đối phó với
sức ép và nguy cơ ở trong và ngoài nước? Điều này xin các đồng chí
toàn đảng toàn quân cần nghiên cứu nghiêm túc và tính toán kỹ.
Cải cách thể chế chính trị không đơn giản
Đối
với công cuộc cải cách, nhất là cải cách thể chế chính trị rất phức
tạp. Trên thực tế khái niệm này tương đối trừu tượng, không ở trong
vị trí này thì khó có thể tính toán hết được. Ở mỗi vị trí khác
nhau, việc xem xét vấn đề cũng khác nhau. Tôi cho rằng mọi người
chúng ta cần học hỏi và rút ra bài học kinh nghiệm lịch sử đánh mất
chính quyền của ĐCS Liên Xô.
Sau
khi Khơrupsốp lên nắm quyền, trên các diễn đàn ông ta ra sức phê
phán Stalin chuyên chế và tàn bạo. Một lần khi diễn thuyết trên diễn
đàn, có người ở dưới chất vấn: “Đồng chí khi ấy đã làm gì?”.
Khơrupsốp liền nghiêm nét mặt nói: “Ai vừa hỏi tôi đấy, xin mời lên
trên này”. Người vừa hỏi im bặt. Lúc sau, Khơrupsốp điềm tĩnh nói:
“Khi đó tôi cũng như đồng chí vừa chất vấn”.
Người
lãnh đạo cấp cao phải quan tâm toàn diện mọi mặt, vì vậy các đồng
chí cần thông cảm với tôi. Ở trên vị trí lãnh đạo này tôi phải quan
tâm toàn diện các mặt. Lệch sang trái một chút, lệch sang phải một
chút là lập tức thành vấn đề. Sự kiện Bạc Hy Lai ở Trùng Khánh là
một ví dụ. Có một số người công kích, phê phán thủ tướng Ôn Gia Bảo.
Thực ra ở cương vị này của Đ/c Ôn Gia Bảo có nhiều điều khó xử. Ở
cương vị của Đ/c trong thể chế của chúng ta hiện nay, thì Thủ tướng
Ôn Gia Bảo cũng chỉ làm được như vậy thôi. Có phải chúng ta định
biến Đ/c thành một “Triệu Tử Dương thứ hai” không? Vì làm như vậy
thì trước tiên sẽ dẫn tới sự chia rẽ về tổ chức và ý thức hệ trong
Đảng. Là một đảng viên lão thành, là người lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, Đ/c Ôn Gia Bảo chỉ có thể làm được như vậy. Tôi cho rằng làm
được như Đ/c Ôn Gia Bảo là quá tốt rồi.
Nếu
như tôi từ bỏ Chủ Nghĩa Mác, từ bỏ tư tưởng Mao Trạch Đông sẽ dẫn
tới Đảng ta mất đi quyền phát ngôn lãnh đạo các mặt. Nếu như tôi
hiện nay không công khai nói Đảng phải dựa vào luật pháp trị nước,
phải tôn trọng tính quyền uy của luật pháp, thì trong con mắt nhiều
người tôi đã có vấn đề. Điều này cũng không tốt đối với địa vị lãnh
đạo của Đảng ta. Vậy các đồng chí nói tôi phải làm thế nào? Ở địa vị
này, tôi chỉ có thể làm như vậy.
Trước
tiên chúng ta cần phải duy trì được cục diện hiện nay. Tương lai
diễn biến như thế nào, hiện chúng ta chưa có sự chuẩn bị, chúng ta
cũng chưa nhìn thấy cục diện thay đổi rõ rệt nào. Các đồng chí không
nên cho rằng ở cương vị TBT như tôi là nói gì mọi người nghe răm
rắp, có thể nắm chắc càn khôn trong tay. Kỳ thực, tôi chỉ là
người duy trì sự cân bằng, quyền lực của nhóm lợi ích. Tôi
chỉ là người giữ chìa khóa tủ, người chủ quầy hàng. Nếu tôi đi ngược
lợi ích của Đảng, thì tôi sẽ bị hạ bệ. Hôm nay giao cho quyền lực,
ngày mai có thể tước bỏ. Đảng ta từng có các đồng chí lãnh đạo tiền
bối rất lý tưởng như Trần Độc Tú, Trương Văn Thiện, nhưng rồi kết
cục họ trong Đảng đều không tốt, còn Đ/c Triệu Tử Dương không cần
phải nói. Đ/c như một Đông Ki-Sốt dám thách thức thể chế hiện hành.
Tôi sẽ không làm như vậy, toàn Đảng cũng không để tôi làm như vậy.
Tôi phải làm thế nào đây?
Bởi vậy, cải cách thể chế
chính trị là vấn đề lớn, như rút giây động rừng, đụng vào tác động
tới tất cả các lĩnh vực. Vì sao tôi lại nói như vậy? Chúng ta muốn
uốn nắn, chấn chỉnh tác phong không tốt của Đảng thì phải điều chỉnh
lại thế giới quan và quan niệm giá trị của chúng ta. Trong khi đó
thuyết duy vật đã làm cho con người mất đi niềm tin chân chính, chạy
theo chủ nghĩa vật chất hưởng thụ và vụ lợi. Như vậy nó sẽ
tác động tới ý thức hệ và tư tưởng của Đoàn viên. Mọi người đều biết
Tập Cận Bình tôi thường hay trích dẫn lời nói của Chủ tịch Mao Trạch
Đông. Trước đây tôi đọc thuộc làu ba bài luận văn của Mao chủ tịch,[1]
trong đó có bài về “Ngu công dời núi” mà Chủ
tịch Mao rất sùng bái tinh thần của ông già Ngu Công. Đảng ta đã dựa
vào tinh thần “Ngu Công dời núi” thực ra
không có gì cần nghiên cứu sâu. Đảng ta là chính đảng theo chủ
nghĩa duy vật. Lý luận của chúng ta từ các nước phương tây dựa về,
học hỏi từ người Nga, còn câu chuyện “Ngu Công dời
núi” là sản phẩm văn hóa tinh thần truyền thống của Trung Quốc,
nhưng nó mang tính chất duy tâm và thần thoại. Câu chuyện về “Ngu
Công dời núi” thực ra không phải bản thân Ngu
Công có thể dời được núi. Theo nguyên bản của
câu chuyện thì tinh thần dám làm của Ngu Công đã làm động lòng Ngọc
Hoàng, vì vậy Ngọc Hoàng đã sai những thần lực sĩ xuống giúp và chỉ
một đêm di dời xong quả núi. Rõ ràng là duy
tâm, là thần thoại. Mao Trạch Đông khi đó như một đấng cứu nhân độ
thế như Ngọc Hoàng. Bây giờ chúng ta không có đấng cứu thế như vậy.
Điều
này cho thấy, bản thân lý luận của chúng ta có mâu thuẫn.
Một mặt chúng ta hát quốc tế ca, chủ trương không có đấng cứu thế
trên thế gian này, nhưng mặt khác chúng ta lại sùng bái Chủ tịch Mao
là đấng cứu thế. Chúng ta một mặt dựa vào tinh thần “Ngu Công
dời
núi” để nổi dậy làm cách mạng cướp chính quyền, nhưng mặt khác chúng
ta lại phủ định văn hóa và tín ngưỡng dân tộc, rõ ràng
bản thân chúng ta đã mâu thuẫn hoặc là có những vấn đề mà chúng ta
không hiểu biết. Chúng ta phải làm thế nào để kiên trì không mệt mỏi
sự nghiệp của Đảng ta, củng cố được chính quyền mà Đảng chúng ta
phải chịu bao gian khổ hy sinh mới giành được. Trong khi đó,
chúng ta lại đang mất đi niềm tin vào chính lý luận và chính thể chế
đang tồn tại hiện nay do chúng ta lập ra. Nhưng chúng ta
hiện nay vẫn chưa tìm ra được lý luận và thể chế tốt hơn trong khi
chúng ta không thể manh động thay đổi thế chế hiện nay.
Bài
học kinh nghiệm về Liên Xô sụp đổ vẫn còn đó. Gorbachov đầu tiên
tiến hành cải cách ý thức hệ và lý luận của Đảng, kết quả đã đụng
chạm tới toàn cục và nó bung ra không thể kiểm soát nổi. Vừa rồi Đ/c
Vương Kỳ Sơn có giới thiệu mọi người cuốn sách Đại cách mạng nước
Pháp về những bài học lịch sử. Về cả cách thể chế chính trị, nếu
chúng ta để sơ sểnh ra một chút thì sẽ sai một ly đi một dặm, rất
khó kiểm soát được. Tới khi đó, chức TBT của tôi cũng như địa vị
lãnh đạo của Đảng sẽ không còn nữa. Bởi vậy, không phải là tôi không
muốn cải cách thể chế chính trị hiện nay, mà thực sự tôi không thể
cải cách và cũng không dám nhẹ dạ cải cách. Hiện nay ai dám đứng ra
đảm lãnh trách nhiệm này? Trong thời đại Đặng Tiểu Bình, Đ/c cũng đã
có ý đồ cải cách thể chế chính trị, rốt cuộc đã để xảy ra vấn đề
lớn. Phong trào dân chủ Thiên An Môn ngày 4/6/1989 cho tới nay vẫn
là cái cớ để các thế lực phản động trong và ngoài nước công kích
đảng ta. Đ/c Triệu Tử Dương cũng do đó mà bị hạ bệ và đưa lại hậu
quả nghiêm trọng.
Tình hình hiện
nay của đất nước ta không bằng Thời Kỳ Đặng Tiểu Bình, chúng ta
không nói tới nhân tố dư luận và sự giác ngộ của quần chúng nhân dân
trong nước mà chúng ta nói tới đảng phong trong nôi bộ Đảng
hiện nay không bằng trước đây. Ngay trong thời đại của mình,
hai vị tổng bí thư là Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào cũng đã phải gác
lại vấn đề này. Tôi cho rằng điều kiện hiện nay cũng giống trước
kia, thời cơ vẫn chưa chín muồi. Tình hình trong và ngoài nước hiện
nay chỉ cho phép chúng ta dùng “liệu pháp giữ nguyên”, hơn nữa duy
trì được hiện trạng cũng là tốt lắm rồi, thực ra duy trì được cũng
không phải dễ dàng. Bởi vậy, tôi chỉ có thể nhắc lại “ba tin tưởng”,[2]
mà thực sự không thể đụng tới cải cách thể chế chính trị hoặc ít
nhất hiện nay không được đụng tới.
Về lý luận và ý thức hệ của Đảng
Lý luận và ý thức hệ của
Đảng liên quan tới đường lối và chế độ của chúng ta. Chúng ta phải
quản lý thông tin đại chúng, chủ trương này hiện nay không được
dao động lung lay. Vừa qua dư luận cho rằng “Sự kiện
thay đổi nhân sự” của tập đoàn báo chí Nam Phương[3]
là do Đ/c Lưu Vân Sơn và sở báo chí tuyên truyền tỉnh Quảng Đông
tiến hành, thực ra có sự chỉ đạo của bản thân tôi về cái tổ nhân sự
này. Nếu chúng ta dao động, không tin tưởng vào ba vấn đề quan trọng
là Ý thức hệ, Đường lối và Chế độ thì bị rối loạn và
không còn làm được việc gì. Chính vì vậy mà chúng ta vẫn phải
tiếp tục tuyên truyền sâu rộng về Lý luận ý thức hệ. Chủ
nghĩa Mác và Tư tưởng Mao Trạch Đông. Nếu không, một khi vỡ lở thì
sẽ bị động toàn cục và rối loạn.
Bản
thân tôi không muốn để xảy ra tình trạng này, toàn Đảng cũng không
cho phép tôi để xảy ra như vậy. Vừa qua, chúng ta tuyên truyền, làm
phim về một đại biểu nữa lão thành ở tỉnh Sơn Tây ca ngợi tinh thần
hy sinh cống hiến đối với sự nghiệp, bất chấp một số dư luận nước
ngoài và một số người ngoài Đảng chỉ trích, phê phán. Đảng
Cộng sản chúng ta làm gì đều xuất phát từ lợi ích căn bản và logic
của chúng ta. Chúng ta tiếp tục tuyên truyền và học tập Lôi
Phong để tăng cường chủ nghĩa tập thể, đấu tranh chống chủ nghĩa tự
do. Đ/c Đặng Tiểu Bình đưa ra lý luận “Mèo trắng, Mèo Đen”. Trên
thực tế, từ trước tới nay chúng ta không phải nhất nhất làm theo
sách vở mà dựa vào thực tiễn và chủ nghĩa hiện thực. Đương nhiên,
không vì thế mà chúng ta đánh mất tầm nhìn lịch sử lâu dài, mất đi
địa vị và giá trị đích thực của chúng ta.
Chống tham nhũng chưa thể trị tận gốc
Hiện
nay rất nhiều người phê phán những căn bệnh trong mô thức phát triển
của chúng ta, nhất là chống tham nhũng. Trên thực tế đấu tranh chống
“con Hổ tham nhũng” hiện nay chỉ là biện pháp xì hơi khi quả bóng
quá căng, giống như lấy đũa khuấy nồi canh đang sôi để nước không
tràn ra ngoài. Điều này có liên quan tới thể chế, ý thức hệ,
lý luận và quyền lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, chúng ta không
thể nơi lỏng, không thỏa hiệp. Do các vấn đề lý luận, Đường
lối, Chế độ không thay đổi, thì thế giới quan, quan niệm giá trị của
cán bộ Đảng viên cũng không hề thay đổi. Vì vậy, tôi và Đ/c
Trưởng ban kiểm tra kỷ luật trung ương Vương Kỳ Sơn đều cho rằng dù
đánh “con Hổ tham nhũng nào” cũng chỉ là xì bớt hơi khi quả bóng quá
căng, hay cũng giống như lấy đũa khuấy nồi canh đang sôi để nước
không tràn ra ngoài. Đồng chí Vương Kỳ Sơn cũng nói hiện nay chỉ là
trị ngọn chứ không trị tận gốc.
Khi
nào chúng ta mới trị được tận gốc nạn tham nhũng? Có lẽ phải đợi tới
khi mà lý luận, Đường lối, chế độ bắt đầu đứng trước sự điều chỉnh
thực sự.
Có người hỏi tới khi đó liệu có quá muộn không? Tôi cho rằng có lẽ
chúng ta phải tìm câu trả lời trong cuốn sách “Chế độ cũ và Đại cách
mạng” mà Đ/c Vương Kỳ Sơn giới thiệu với chúng ta. Đảng Cộng
sản chúng ta kiên trì theo duy vật lịch sử, nhưng bản thân thuyết
mang tính duy tâm, mang tính định mệnh. Chính vì vậy, nên ai
dám chắc rằng nếu cứ tiếp tục đi theo thì liệu có phải là một quá
trình thực hiện theo số mệnh không? Liệu chúng ta có vô tình lặp lại
vết xe đổ diệt vong của ĐCS Liên Xô và Nhà Mãn Thanh hay không?
Bởi
vậy, vấn đề hiện nay không phải là vấn đề giữ cho lá cờ hồng
bay được bao lâu mà là vấn đề bảo vệ non sông đất nước này được bao
lâu. Vì vậy, quan điểm và lập trường của tôi là nhất quán.
Tôi hy vọng, các đồng chí trong và ngoài đảng, các đoàn thể xã hội
không nên hiểu lầm, hiểu sai, nếu không thì nguyên nhân chính là ở
các đồng chí, chứ không phải do Tập Cận Bình tôi cố ý cản trở, bày
đặt ra mê hồn trận.
Liệu
sau này có thay đổi không? Liệu có thách thức mới nảy sinh không? Để
phòng ngừa, chúng ta cần đổi mới, sáng tạo kể cả đổi mới và
sáng tạo về lý luận như Đ/c cựu TBT Hồ Cẩm Đào nói phải sáng tạo
phương pháp quản lý xã hội. Tuy nhiên, một số dư luận lại
cho rằng đây chỉ là chủ nghĩa kỹ trị để tăng cường tính chuyên chế,
độc đoán của một Đảng. Có người nói cải cách kiểu này cũng chẳng
khác gì kiểu cải cách thời Mãn Thanh. Nhưng nếu họ ở vào vị trí của
chúng ta thì liệu họ có dám phê phán như vậy không? Một lần tới thăm
Trường Đảng, tôi có nói, Các đồng chí không nên đưa ra các mục tiêu
đốt cháy giai đoạn mà nên đưa ra mục tiêu sát thực.
Bởi
lẽ, chúng ta hiện đang đứng trước rất nhiều vấn đề thực tế mới mẻ.
Tôi sẽ không giống như các học giả, các nhà lý luận xem xét vấn đề
sự việc một cách lý luận thuần túy. Vì vậy gần đây lớp học tập tập
thể của Bộ Chính trị có đổi mới. Chúng tôi không chỉ mời các học
giả, các nhà lý luận thuần túy mà chủ yếu mời các chuyên gia, các
đồng chí lãnh đạo cấp cao ở các ban ngành, những người đã từng trải
nghiệm qua nhiều công tác thức tế, có kinh nghiệm phong phú tới giới
thiệu và giảng bài cho các đồng chí trong Bộ Chính trị.
Hôm
nay tới trao đổi với các đồng chí một số vấn đề liên quan tới quan
điểm, lập trường và cách nhìn nhận của tôi như vậy, mong các đồng
chí hiểu và thông cảm./
Kiều Tỉnh dịch
Chú giải:
Tạp chí “Tiền Tiêu” là nguyệt san xuất bản ở Hồng Công. TBT của tạp
chí này hiện nay là Lưu Đạt Văn. Các phóng viên và biên tập viên
trong tòa soạn của tạp chí chủ yếu là những trí thức bất đồng chính
kiến ở nước ngoài, một số là cán bộ của Trung Quốc đại lục chạy sang
Hồng Công. Vì vậy, tạp chí này mang tính chống đối Trung Quốc mạnh
mẽ, vì vậy Tạp chí này thuộc ấn phẩm cấm lưu hành ở Đại lục. Nội
dung các bài viết trong Tạp chí này chủ yếu đề cập tới các vấn đề
mâu thuẫn nội bộ trong lãnh đạo, tố cáo nạn tham nhũng của quan chức
Trung Quốc. Tạp chí này lưu hành ở Hồng Công, nhưng giữ bí mật trụ
sở và địa chỉ mạng.
[1]
Ba bài luận văn của Mao Trạch Đông khi đó làm tài liệu học
tập cho cán bộ đảng viên là: 1- Vì nhân dân phục vụ. 2- Ngu
công dời núi. 3- Kỉ niệm bác sĩ
Bethune.
Henry Norman Bethune.(1890 – 1939), đảng viên ĐCS Canada.
Năm 1916 tốt nghiệp Địa học y Toronto. Khi chiến tranh bùng
nổ ở Tây Ban Nha ông tới giúp Tây Ban Nha, sau đó được ĐCS
Canada và ĐCS Mỹ cử sang giúp Trung Quốc ở Khu căn cứ cách
mạng vào tháng 1 năm 1938. Ông hy sinh trong lúc cứu chữa
thương binh của Trung Quốc trên mặt trận.
[2]
“Ba tin tưởng” (Tin vào đường lối, tin vào lý luận, tin vào
chế độ - ND). Ba tin tưởng được Hồ
Cẩm Đào đưa vào “Báo cáo chính trị” tại Đại hội 18 họp tháng
11/2012.
[3]
“Sự kiện tập đoàn báo chí truyền thông Nam Phương” chỉ Đảng
tăng cường quản lý đối với báo chí. Theo truyền thống, nhân
sự lãnh đạo do Tập đoàn này quyết định, nhưng ngày 9/4/2013
Tỉnh ủy Quảng Đông đã đột nhiên bãi chức Chủ Tịch Tập Đoàn
của Dương Hưng Phong, người do Tập đoàn này đưa lên, thay
vào đó đưa Dương Kiện, Phó Giám Đốc Sở báo chí tuyên truyền
của tỉnh thay thế, nên đã gây chấn động dư luận báo chí
Trung Quốc. Một số dư luận lên án Đảng đã can thiệp quá sâu
vào nghiệp vụ báo chí.
Lên
trang viet-studies ngày 14-7-13
No comments:
Post a Comment