TRÚC GIANG * HUỲNH BÁ THÀNH
Saturday, 12 May 2012 08:36
0 Comments
Sau ngày 30-4-1975, bọn Việt Cộng nằm vùng đều lòi mặt ra hết, trong
đó, người hung hản nhất, gây kinh hoàng trong giới văn nghệ sĩ Sài Gòn,
là họa sĩ Ớt Huỳnh Bá Thành. Tên thật là Huỳnh Thanh Tâm, bí danh là Ba
Trung, làm trưởng ban “chống tình báo CIA” của Sở Công An Thành Phố Sài
Gòn.
2* Khủng bố văn nghệ sĩ
Chính họa sĩ Ớt, Huỳnh Bá Thành, chỉ huy những cuộc theo dõi, bố ráp,
bắt giữ, thẩm vấn và giam cầm những văn nghệ sĩ nạn nhân, bị cho là
gián điệp của CIA Hoa Kỳ. Đồng thời bỏ tù những tu sĩ Phật Giáo bị gán
tội phản cách mạng.
Hai vụ điển hình là, “vụ án Thập nhị tăng ni Già Lam” và “vụ án Hồ Con Rùa” hay là “Những tên biệt kích cầm bút”.
2.1. Vụ án “Thập nhị tăng ni Già Lam”
Ngày 30-3-1984, vào buổi sáng, Hoà thượng Thích Trí Thủ chùa Già Lam,
Phú Nhuận, được mời lên văn phòng Mặt Trận Tổ Quốc, Hòa thượng được cho
nghe cuộn băng ghi tiếng nói của một tăng sinh bị bắt về “tội phản
động”. Tăng sinh đó khai Thượng tọa Thích Tuệ Sĩ, Thượng toạ Thích Trí
Siêu và ni cô Thích Trí Hải là những người trong ban lãnh đạo của một tổ
chức phản động, mưu đồ lập chiến khu gây bạo động.
Trong
khi Hòa thượng Trí Thủ ở văn phòng Mặt Trận Tổ Quốc, thì tại chùa Già
Lam, hai Thượng tọa Tuệ Sĩ và Trí Siêu bị bắt. Đồng thời, ni cô Trí Hải
cũng bị bắt từ Hố Nai đưa về trung tâm thẩm vấn và tạm giam ở số 4 đường
Phan Đăng Lưu.
Vài ngày sau đó, Hòa thượng Trí Thủ bị chết bất đắc kỳ tử, và thông tin nước ngoài cho rằng ông bị ám sát.
Trong đợt hành quân lớn, 19 tăng, ni, cư sĩ khác cũng bị bắt, giam đến ngày 30-9-1988, (4 năm) mới đưa ra tòa xét xử.
Hai Thuợng tọa Thích Tuệ Sĩ và Thích Trí Siêu bị tòa kết án tử hình.
Hai án chung thân dành cho hai cư sĩ Phan Văn Ty và Tôn Thất Kỳ.
Hoà thượng Thích Đức Nhuận lãnh án 10 năm. Các vị khác bị từ 4 đến 15 năm.
Ngày hôm sau, 1-10-1988, báo Sài Gòn Giải Phóng loan tin, hai vị Tuệ
Sĩ và Trí Siêu ngoan cố, không chịu nhận tội. Đó là “tội tán thành, ủng
hộ, che chở, đùm bọc hành động phản cách mạng, lật đổ chế độ Cộng Sản”.
Thượng tọa Thích Tuệ Sĩ và Thích Trí Siêu là hai nhà sư uyên bác nhất của Phật Giáo Việt Nam.
Thích Tuệ Sĩ, tục danh là Phạm Văn Thương, một học giả uyên bác về
Phật Giáo. Là Giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh, thông thạo tiếng
Anh, Pháp, Trung Hoa, Nhật, Pali, Phạn và tiếng Đức.
Thích Trí Siêu là giáo sư, tiến sĩ, sử gia, thiền sư Lê Mạnh Thát.
Do áp lực quốc tế và sự vận động của người Việt ở nước ngoài, ngày
15-11-1988, Hà Nội phải mở phiên xử phúc thẩm để giảm hai án tử hình
xuống còn 20 năm tù. Hai án chung thân giảm xuống còn 18 và 16 năm. Hoà
thuợng Thích Đức Nhuận giảm xuống còn 9 năm tù.
Những cuộc bố ráp, bắt giam, thẩn vấn và kết tội là do họa sĩ Ớt Huỳnh Bá Thành trực tiếp chỉ huy.
2.2. Vụ án “Hồ Con Rùa” hay “Biệt Kích Cầm Bút”
Vụ án “Hồ Con Rùa” đưa đến việc bắt bớ văn nghệ sĩ Sài Gòn.
“Biệt kích cầm bút” là cái tên do 2 đại tá VC, Tổng và Phó Ban biên
tập tuần báo Công An Saì Gòn ghép tội cho các văn nghệ sĩ miền Nam sau
ngày 30-4-1975 để bắt bỏ tù họ.
Ngày 2-4-1984, một vụ nổ lớn dữ dội tại tháp Hồ Con Rùa ở ngã tư Duy
Tân - Trần Quý Cáp thuộc khu vực nhà thờ Đức Bà quận 1 Sài Gòn. Báo nhà
nước quy kết tội phá hoại, một người trong số chủ mưu thiệt mạng và
những người khác bị bắt.
Sau vụ nổ, hơn 200 văn nghệ sĩ, nhà văn, giáo sư bị bắt đi tù. Người
chỉ huy, điều động bắt bớ cũng chính là họa sĩ Ớt Huỳnh Bá Thành, bí
danh Ba Trung. Những nhân vật nổi tiếng như Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc
Sĩ, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Sĩ Tế… Đặc biệt, Nhã Ca là nhà văn nữ duy nhất
có tên trong danh sách “Mười Biệt Kích Cầm Bút”(BKCB) bị cầm tù trong
cuộc hành quân lớn của công an Sài Gòn.
Mười “BKCB” gồm có: Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Phan Nhật
Nam, Thanh Tâm Tuyền, Duyên Anh, Khuất Duy Trác, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt,
Trần Ngọc Tư và Lý Thụy Ý.
Ban đầu, những văn nghệ sĩ miền Nam bị ghép vào tội “Gián điệp”,
nhưng đến năm 1988, đổi lại thành tội “Tuyên truyền phản cách mạng”.
Vụ án văn nghệ sĩ Sài Gòn được công an in thành sách, dựng thành phim mang tên “Vụ Án Hồ Con Rùa”.
Tháng 9 năm 1988, nữ sĩ Nhã Ca, chồng là nhà văn Trần Dạ Từ cùng gia
đình rời VN sang Thụy Điển, nhờ sự can thiệp của Văn Bút Quốc Tế (PEN
International, PEN=Poets, Essayists &Novelists) phối hợp với Ân Xá
Quốc Tế và sự bảo lãnh của thủ tướng Thụy Điển Ingvar Karlsson. Từ năm
1992, bà Nhã Ca định cư ở Cali, tiếp tục viết văn, làm báo, chủ nhiệm hệ
thống Việt Báo Daily News tại Hoa Kỳ.
Thật ra, có một số bài viết được gởi ra nước ngoài. Luật sư Triệu
Quốc Mạnh, một tên VC nằm vùng tại Nha Cảnh Sát Đô Thành, với cấp bậc
đại úy, được chỉ định là luật sư biện hộ cho các văn nghệ sĩ, Mạnh nói
với các nạn nhân: “Các anh viết bài gởi ra nước ngoài, dù chỉ than thở
nghèo đói cũng là bôi bác chế độ. Các anh làm cho họ đau lắm. Các anh
làm cho họ đau, họ bỏ tù các anh, như vậy là huề”. Luật sư biện hộ mà
nói với thân chủ của mình như thế, thì biện hộ theo cái kiểu gì đây?
3* Ớt bị thất sủng và cái chết bất đắc kỳ tử
Sau thời gian gây kinh hoàng cho giới văn nghệ sĩ, khi thiếu tướng
Trần Bạch Đằng, bút danh Nguyễn Trương Thiên Lý, người đở đầu cho họa sĩ
Ớt bị điều ra Bắc, và Hà Nội đưa người cài vào các cơ quan miền Nam,
thì Huỳnh Bá Thành mất chỗ dựa, không còn tung hoành như trước nữa. Ớt
đã từng tống tiền, bắt địa những người Hoa xin xuất cảnh ra nước ngoài,
anh ta được xem như tay tổ tham nhũng, cũng giống như Năm Thạch, đại tá
VC Nguyễn Văn Năm, làm giám đốc Sở công tác về người nước ngoài, số 161
đường Nguyễn Du, cấp giấy xuất cảnh cho các diện con lai, đi nước ngoài
chữa bịnh và chương trình ODP, sum họp gia đình do thân nhân bảo lãnh.
Năm Thạch vốn là VC nằm vùng, làm quản lý của đoàn cải lương Thanh Minh
Thanh Nga.
Thạch là tay ăn hối lộ trắng trợn, nên bị Hà Nội cho người vào bắt ép phải tự tử tại nhà ở đường Công Lý, và công an mở cửa cho công chúng vào xem xác chết. Ngay sau đó, vợ con bị trục xuất ra khỏi nhà để đào bới tìm vàng chôn dấu.
Thạch là tay ăn hối lộ trắng trợn, nên bị Hà Nội cho người vào bắt ép phải tự tử tại nhà ở đường Công Lý, và công an mở cửa cho công chúng vào xem xác chết. Ngay sau đó, vợ con bị trục xuất ra khỏi nhà để đào bới tìm vàng chôn dấu.
Huỳnh Bá Thành bị thất sủng ngay sau khi người em đã vượt biên qua
Mỹ. Anh ta đến nhậu tại nhà bạn bè và tâm sự như thế, cho biết anh muốn
xin qua làm việc ở Công ty Du lịch, là nơi béo bở, có thể thu hoạch được
nhiều tiền trong thời kỳ đó.
Anh ta tiết lộ về cuộc đấu trí với ông Doãn Quốc Sĩ. Ông Sĩ thấy bị
động, nên làm đơn xin xuất cảnh “sang Úc”. Công an lờ đi, cho cấp xuất
cảnh, cho phép được gặp phái đoàn Úc để phỏng vấn, mọi việc trơn tru.
Ông Doãn Quốc Sĩ chỉ còn chờ được lên danh sách chuyến bay, xem như được
thoát nạn 90%, nhưng bị Ớt vây bắt trên đường ra phi trường. Chính
miệng hắn kể lại trong lúc nhậu nhẹt như thế.
Sau chuyến đi công tác qua Pháp, lý do là tổ chức màn lưới gián điệp,
nhưng dư luận cho rằng có mục đích về tài chánh, như chuyển tiền ra
ngoại quốc chẳng hạn. Khi về VN thì bị chết bất đắc kỳ tử, và tên đàn em
thân tín, chuyên thu tiền cho sếp, là trung úy Sơn, người Quảng Nam,
cũng chết với lý do mờ ám. Dư luận cho rằng Ớt bị thanh toán.
4* Họa sĩ Ớt Huỳnh Bá Thành nằm vùng
Họa sĩ Ớt Huỳnh Bá Thành là một “cơ sở” (1 người) trụ cột của cụm
điệp báo A10, mục đích chính là tác động vào thành phần thứ ba do tướng
Dương Văn Minh lãnh đạo.
4.1. Việc thành lập cụm điệp báo A10
Trong Hiệp định Paris năm 1973 có vai trò của Thành Phần Thứ Ba, nên
CSBV muốn nắm thành phần nầy để tác động, gây ảnh hưởng, lèo lái, đó là
lý do thành lập cụm điệp báo A10. Ngoài ra, cụm A10 còn thâm nhập vào
các tổ chức đối lập như Phong Trào Chống Tham Nhũng của Linh Mục Trần
Hữu Thanh và Hội Ký giả, cũng như các dân biểu đối lập.
Tại căn cứ Cây Dầu ở Campuchia, Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc), và trùm
tình báo VC Trần Quốc Hương (Mười Hương) quyết định cử Mười Thắng làm
cụm trưởng cụm A10. Cái tên “A 10” lấy từ chữ An ninh (A) và 10 là Mười
Thắng. A10 trực thuộc Ban An Ninh T4 (Sài Gòn-Gia Định) do Mai Chí Thọ
phụ trách.
Trần Quốc Hương (Mười Hương) cho biết: “Trong căn cứ, tôi thường
xuyên theo dõi và nghiên cứu báo chí đối lập, nhất là tờ Điện Tín, nên
biết họa sĩ Ớt có tên là Hùnh Bá Thành là một họa sĩ có tài, thông qua
các biếm hoạ mà dựng lên bản chất của nhân vật. Sau khi chỉ đạo, kiểm
tra, xác minh, tôi chấp nhận đề xuất của Mười Thắng, đưa cậu Thành vào
cụm A10.”
Huỳnh Bá Thành có mối quan hệ và ảnh hưởng trong giới trí thức, ký giả và các dân biểu đối lập.
Tháng 7 năm 1973, Huỳnh Bá Thành được móc nối lại trong cụm A10.
Thành được kết nạp vào đảng năm 1968, nhưng do người chỉ huy bị bắt, nên
mất liên lạc.
Cụm A10 gồm những người trẻ, đặc biệt là cùng gốc Quảng Nam- Đà Nẳng:
Cụm trưởng: Mười Thắng, 21 tuổi
Họa sĩ Ớt: 30 tuổi, làm việc tại báo Điện Tín, do cụu đại tá, nghị sĩ
Hồng Sơn Đông làm chủ nhiệm, dân biểu Hồ Ngọc Nhuận là chủ bút.
Ngô Văn Dũng, 22 tuổi, kỹ sư nông lâm súc, nằm vùng, là phụ tá của TS Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng đặc trách kinh tế.
Võ Văn, 20 tuổi, hoạt động trong lõm chính trị Bảy Hiền.
Sau khi báo Điện Tín bị đóng cửa, Họa sĩ Ớt làm việc và ở ngay trong
dinh Hoa Lan, nhà của Dương Văn Minh, số 58 đường Hồng Thập Tự, quận 1
Sài Gòn.
Những tên nằm vùng tại những cơ quan: Đài phát thanh Mẹ Việt Nam
thuộc Tổng cục CTCT. Luật sư Triệu Quốc Mạnh, đại úy cảnh sát tại Nha
Cảnh Sát Đô Thành (CSĐT), Mạnh được Dương Văn Minh (DVM) cử làm giám đốc
Nha CSĐT. Trung úy VC Huỳnh Ngọc Thắng nằm vùng trong văn phòng Trung
tướng Đồng Văn Khuyên, Tổng Cục Tiếp Vận. 3 kỹ sư đện và điện tử tốt
nghiệp Đại học Kỹ Thuật Phú Thọ, gồm Lương Mạnh Dũng, Bùi Sáu và Lê Ngọc
Báu nằm vùng trong Phòng 7 TTM, thực chất là cơ quan tình báo kỹ thuật
của Mỹ CDEC (Combine Document Exploitation Center). Họ đã cung cấp những
tin tức vô cùng quan trọng.
4.2. Công tác của Huỳnh Bá Thành
1). Báo cáo tình hình và những nhân vật chính trị Sài Gòn
Từ ngày 14-3-1974 đến 2-1-1975, họa sĩ Ớt đã có 108 nhân vật được vẽ
và bài viết trên báo, được xem như những báo cáo công khai cho cấp trên ở
Cục R.
2). Kế hoạch sao chổi và Ngày Ký giả đi ăn mày
Ngày 22-9-1974, Tổng thống Thiệu thông qua một kế hoạch mang tên Sao
Chổi, mục đích quét sạch VC nằm vùng và đối lập thân cộng. Đại úy Triệu
Quốc Mạnh đánh cắp bản văn, chuyển qua cho Huỳnh Bá Thành (HBT). HBT
đưa nguyên văn bản kế hoạch cho các báo đối lập đăng tải phổ biến ngày
1-10-1974. Làn sóng “căm phẩn” nổi lên, ngày 10-10-1974, hàng trăm ký
giả xuống đường phản đối chính quyền, lấy tên là “Ngày ký giả đi ăn
mày”.
3). Tác động chống “Chính phủ Thiệu mà không có Thiệu”
Mục đích là ngăn cản Trần Văn Hương làm Tổng thống. Trong kế hoạch
đưa Dương Văn Minh (DVM) lên làm tổng thống, HBT “tác động” các dân biểu
đối lập, đưa ra Bản tuyên bố, chống “chính phủ Thiệu mà không có
Thiệu”. Bản tuyên bố được nhóm của HBT dịch ra tiếng Anh và Pháp, trao
cho ký giả ngoại quốc, trong nước, và đại diện 40 đoàn thể tham dự buổi
họp báo
ở Hạ Viện để tấn phong chức vụ tổng thống cho Trần Văn Hương. Cuộc
biểu quyết bất thành. Trần Văn Hương từ chức, giao quyền lại cho Quốc
hội.
4). Huỳnh Bá Thành ra mật khu nhận chỉ thị
Tháng 3 năm 1975, HBT đóng vai một người đi mua đất, vì sắp có hòa
bình. Ăn mặc bảnh bao, áo kaki 4 túi, thuê xe máy cày đi vào mật khu
Long Khánh để báo cáo và nhận chỉ thị của Mai Chí Thọ.
Huỳnh Bá Thành tên thật là Huỳnh Thanh Tâm, sinh năm 1942 tại làng
Khái Đông, huyện Hòa Vang nay là Hòa Hải quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà
Nẳng. Chết bất đắc kỳ tử năm 1993.
5* Ba ngày làm tổng thống của Dương Văn Minh
5.1. Ngày 28-4-1974
Lúc 15 giờ ngày 28-4-1975.
Tướng Dương Văn Minh nhậm chức tổng thống. Nguyễn Văn Huyền được cử
Phó Tổng thống, Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng. Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh làm
phụ tá Tổng Tham Mưu trưởng cho Trung tướng Vĩnh Lộc. Sau khi Vĩnh Lộc
bỏ nhiệm sở, Tướng Hạnh lên làm Quyền Tổng TMT. GS Bùi Tường Huân làm bộ
trưởng Quốc phòng, Lý Quý Chung làm Bộ trưởng Thông Tin và Huỳnh Bá
Thành (hoạ sĩ Ớt) làm Thứ trưởng bộ Thông tin. Triệu Quốc Mạnh giữ chức
Giám Đốc Nha Cảnh sát Đô Thành.
Giáo sư Bùi Tường Huân là giáo sư Đại học Huế, không phải là quân
nhân, nắm giữ Bộ Quốc Phòng, chứng tỏ không phải là một chính phủ chiến
tranh.
Lúc 17 giờ ngày 28-4-1975
Phi đội với 5 chiếc A-37 do Nguyễn Thành Trung chỉ huy, ném bom phi tường Tân Sơn Nhất.
Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận cho biết, Tổng thống Dương Văn Minh giao cho
ông nhiệm vụ đưa quân đến chiếm đài phát thanh Sài Gòn, để phòng ngừa
tướng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chánh.
Đêm 28-4-1975
Hai đại tá phi công lái hai trực thăng phục vụ cho tổng thống, đậu
trên nóc Dinh Độc Lập, đến gặp Tướng Minh, đề nghị đưa tổng thống, gia
đình và ban tham mưu ra Đệ Thất Hạm Đội. Tương Minh trả lời: “Hai em có
thể an lòng bay ra hạm đội. Bất cứ ai có mặt ở đây, muốn đi theo thì có
thể đi. Tôi nhất quyết không đào ngũ bỏ chạy”.
Dương Văn Minh đưa gia đình đến ở nhà một người bạn của tướng Mai Hữu
Xuân đường Phùng Khắc Khoan, vì sợ Nguyễn Cao Kỳ dội bom dinh Hoa Lan.
5.2. Ngày 29-4-1975
Thả tù binh Việt Cộng
Tổng thống DVM ra lịnh cho giám đốc cảnh sát đô thành Triệu quốc
Mạnh, thả tù binh và tù chính trị VC, trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm.
Yêu cầu Hoa Kỳ rời khỏi VN trong 24 giờ.
Dương Văn Minh gởi văn thư cho đại sứ Graham Martin, yêu cầu cơ quan viện trợ HK DAO rời khỏi VN trong 24 giờ.
Lúc 16 giờ, chỉ huy cảnh sát các quận ở Đô thành tan rả, do lịnh của Triệu Quốc Mạnh cho phép họ về thu xếp việc gia đình.
Một phái đoàn do LS Trần Ngọc Liễng dẫn đầu, có Linh Mục Chân Tín và
GS Châu Tâm Luân, vào trại David, thông báo cho Võ Đông Giang về chủ
trương “không chống cự” của chính phủ Dương Văn Minh.
LS Trần Ngọc Liễng cho biết, Dương Văn Minh đã chấp nhận đầu hàng từ trưa ngày 29-4-1975.
Chiều ngày 29-4-1975, một nhóm người, trong đó có họa sĩ Ớt, Lý Quý
Chung, Phan Xuân Huy và Đoàn Mai “tác động” DVM hướng về một thành phố
bỏ ngõ.
Thích Trí Quang điện thoại trực tiếp với DVM: “Còn chờ gì mà không đầu hàng”.
5.3. Ngày 30-4-1975
6 giờ sáng ngày 30-4-1975
Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh lên nắm quyền Tổng TMT, vì tướng Vĩnh Lộc bỏ ngủ.
Tướng Nguyễn Hữu Có đến báo cáo với TT/DVM về tòan bộ tình hình quân
sự. Sau đó, TT/DVM, Nguyễn Hữu Hạnh và Nguyễn Hữu Có, đến phủ thủ tướng
số 7 đường Thống Nhất.
Chính phủ Dương Văn Minh họp và quyết định “Không nổ súng và giao
chính quyền lại cho chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt
Nam. Vũ Văn Mẫu soạn lời tuyên bố nầy.
9 giờ sáng ngày 30-4-1975
DVM đọc vào máy ghi âm.
Nguyễn Hữu Hạnh ban Nhật Lịnh cho quân đội. Tướng Hạnh gọi điện thoại
cho tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lịnh Quân Khu 4, yêu cầu thi hành lịnh
của tổng thống trên đài phát thanh.
9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975
Đài phát thanh Sài Gòn phát lời tuyên bố của TT DVM: “Đường lối của
chúng tôi là hoà giải hòa hợp dân tộc. Yêu cầu tất cả anh em binh sĩ
ngừng nổ súng. Ở đâu thì ở đó. Chúng tôi chờ gặp Chính Phủ Cách Mạng Lâm
Thời Cộng Hoà Miền Nam VN để thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong
vòng trật tự, tránh đổ máu vô ích cho đồng bào”.
Sau đó, từ dinh thủ tướng, Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh và Vũ Văn Mẫu cùng nội các đến Dinh Độc Lập chờ bàn giao chính quyền.
11 giờ 30 ngày 30-4-1975
Xe tăng CSBV vào DĐL. Duơng Văn Minh và Vũ Văn Mẫu bị đưa tới đài
phát thanh để đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, do trung tá chính ủy
lữ đoàn xe tăng 203, Bùi Văn Tùng viết ra.
Xe tăng cộng quân tiến vào Dinh Độc Lập
Phạm Xuân Thệ (phải) đưa Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh
Thư đầu hàng và chấp nhận đầu hàng, do Phạm Xuân Thệ và Bùi Văn Tùng soạn
Bức
ảnh lịch sử do nhà báo Kỳ Nhân chụp tại thời điểm Tổng thống Dương Văn
Minh đọc lời tuyên bố đầu hàng ở Đài phát thanh Sài Gòn
Thượng
tá Quân đội Nhân dân Bùi Tín, bên phải, đang nhận sự đầu hàng của Dương
Văn Minh. Người đứng cạnh ông Minh là Bộ trưởng Thông tin Lý Quí Chung,
rồi đến Thủ tướng Vũ Văn Mẫu.
6* Lời tường thuật của sĩ quan cận vệ thủ tướng Vũ Văn Mẫu
Lời tường thuật của sĩ quan Nhan Hữu Hậu, cận vệ của thủ tướng Vũ Văn Mẫu về ngày 30-4-1975 tại Dinh Độc Lập.
Ngày 30-4-1975.
- “Tại phòng khách lầu 2 của Dinh Độc Lập (DĐL).
Tôi thấy GS Bùi Tường Huân, (Bộ trưởng Quốc Phòng), Vũ Văn Mẫu (Thủ
tướng), Lý Quý Chung (Bộ trưởng Thông tin) và một số người khác”
- Tại phòng làm việc của Tướng DVM
Bên ngoài có chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (Quyền Tổng TMT thay thế
trung tướng Vĩnh Lộc bỏ nhiệm sở), đại tá Vũ Quang Chiêu (Chánh Võ phòng
phủ tổng thống), đại tá Lê Thuần Trí (Chánh sở quân vụ), trung tá Võ
Ngọc Lân.
Khoảng 12 giờ trưa ngày 30-4-1975.
Xe tăng Cộng sản vào DĐL mà không gặp sự kháng cự nào, vì 2 cửa cổng
đã mở rộng từ trước. Trên tầng 2, đại tướng Minh, chuẩn tướng Hạnh (mặc
quân phục), trung tá Võ Ngọc Lân và tôi (Nhan Hữu Hậu, sĩ quan cận vệ
của thủ tướng Vũ Văn Mẫu) đứng chờ chuyện kế tiếp sẽ xảy ra.
Một cán binh mặc áo thun trắng, chạy thẳng lên lầu, hỏi trỏng: “Thằng
Minh đâu rồi?”. Hắn hỏi như vậy 3 lần. Nhưng tướng Minh vẫn chắp tay
sau đít, đi tới đi lui không trả lời.
Tôi chỉ vào ông và nói với hắn: “Tổng thống Minh đây nè”.
Tên cán binh ngó qua xong, rồi chỉ tay vào chuẩn tướng Hạnh, bảo cởi quân phục ra.
Tôi lấy áo sơ mi của tôi trao cho tướng Hạnh mặc tạm.
Sau đó…
Chúng tôi, gồm cả thành phần nội các chưa được tấn phong, bị gom lại
trong phòng khách có lính canh bên ngoài. Ngoại trừ phó tổng thống
Nguyễn Văn Huyền dùng phương tiện riêng ra về trước khi bộ đội Cộng sản
đến.
Bị nhốt một thời gian lâu, dân biểu Lý Quý Chung đến trước mặt tên bộ
đội, tự giới thiệu, “tôi là thành phần thứ ba”, nhưng tên bộ đội hét
lên: “Không có thành phần nào hết!. Ngồi lại kia!”
Trời đã xế chiều, bổng nhiên có tiếng súng nổ trong DĐL, liền tức
thời, chúng tôi bị di chuyển xuống tầng hầm, nơi có đặt máy truyền tin,
kế bên là một sân bắn, và một nhà kho trữ lương thực.
Một hồi sau, chúng tôi được lịnh trở lên phòng khách ở tầng hai, tên bộ đội giải thích: “Nhân dân vui quá nên đốt pháo ăn mừng”.
Chúng tôi bị giam cho mãi tới trưa ngày 2-5-1975. Một phái đoàn báo chí, có cả hảng truyền hình Đông Âu vào DĐL.
Suốt 2 ngày bị giam không cho súc miệng rửa mặt. Sau đó, chúng tôi
được lịnh đi rửa mặt, chải đầu, vuốt sửa quần áo lại cho ngay ngắn, cho
ngồi vào ghế, và được lịnh phải tươi cười để hoàn thành cuốn phim thời
sự.”
Sĩ quan Nhan Hữu Hậu nhấn mạnh, khi xe tăng CSBV vào, thì 2 cửa cổng
Dinh Độc Lập mở rộng. “Cộng sản đã lợi dụng đêm tối, cho đóng 2 cửa lại,
rồi sau đó dàn cảnh cho xe tăng ủi sập để quay phim tuyên truyền, là
hang ổ cuối cùng của ngụy quyền đã bị thanh toán”.
Họa sĩ Ớt và cụm A10 được cho là thành công trong nhiệm vụ vì không
bị khám phá, nhưng thành tích thì không được biết đến một cách rộng rãi,
và cũng không có ai được thưởng huy chương hay thăng chức cả. Họa sĩ Ớt
mang cấp bậc đại úy sau ngày 30-4-1975.
8* Kết
Họa sĩ Ớt, một tên Việt Cộng nằm vùng, là một hung thần gây kinh hoàng cho văn nghệ sĩ miền Nam.
Có lẻ cựu đại tá, Nghị sĩ Hồng Sơn Đông, chủ nhiệm báo Điện Tín, Linh
mục Trần Hữu Thanh, hội ký giả VN, và ngay cả tướng Dương Văn Minh cũng
không biết được rằng mình đã bị Việt Cộng xỏ mũi, giật dây và bị lợi
dụng, vô tình góp một phần lớn vào việc sụp đổ miền Nam nhanh chóng, sớm
đưa dân tộc vào một chế độ độc tài tàn bạo Cộng Sản. Quý vị đã tiếp tay
cho Việt Cộng.
Họa sĩ Ớt tác động vào Dương Văn Minh, nhưng có lẻ vai trò không quan trọng bằng chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh.
Về tướng Hạnh, Ban Binh vận và Địch vận của Trung Ương Cục miền Nam,
đã cử người bác ruột của tướng Hạnh là Nguyễn Tấn Thành, một cán bộ VC
có bí danh là Tám Vô Tư, “tiếp cận, bồi dưỡng” và giật dây, để Hạnh
thuyết phục Dương Văn Minh, nếu lên làm tổng thống thì tìm cách kết thúc
chiến tranh “có lợi cho nhân dân”. Vai trò của tướng Nguyễn Hữu Hạnh
chỉ bắt đầu từ khi tướng Minh lên làm tổng thống, ngày 28-4-1975, ngày
mà tướng Hạnh từ Cần Thơ tìm mọi cách lên Sài Gòn để gặp DVM.
Nhưng dù sao thì số phận của Việt Nam Cộng Hoà cũng đã định trước rồi, kể từ khi không còn súng đạn để bảo vệ đất nước.
Trúc Giang
Minnesota ngày 12-5-2012
TRẦN ĐẠI SĨ * HỌ LÝ TẠI TRIỀU TIÊN
Ði Tìm Con Cháu Thuyền NhâN 849 Năm Trước :
Nguyên Tổ Hai Dòng Họ Lý Tại Ðại Hàn
Yên Tử Cư Sĩ Trần Ðại Sĩ
Tác
giả chân thành cảm tạ Tiến-sĩ Thái Văn Kiểm, hội viên Hàn-lâm viện
Pháp-quốc hải ngoại, đã giúp đỡ rất nhiều khi viết bài này.
Ngày
17 tháng 9 năm 1957, Tổng-thống Ngô-đình Diệm công du Ðại-hàn (1). Năm
sau, ngày 6 tháng 11 năm 1958, Tổng thống Ðại-hàn dân quốc là Lý Thừa
Vãn, viếng thăm Việt-Nam. Trong dịp này ông đã tuyên bố rằng tổ tiên ông
là người Việt. Báo hồi ấy có tường thuật sơ sài. Còn chính quyền thì
gần như không để ý đến chi tiết lịch sử này.
Bấy
giờ, đệ nhất Cộng-hòa thành lập chưa quá hai năm, mới chỉ có viện
Khảo-cổ, không có cơ quan nghiên cứu lịch sử. Cho nên không ai nghĩ đến
việc sang Ðại-hàn tìm hiểu xem họ Lý từ Việt Nam, đã di sang đây từ bao
giờ? Ai là nguyên tổ của họ?
Thời
gian này tôi mới 19 tuổi, vừa bước chân vào đại học. Nhưng nhờ thấm
nhuần Nho-giáo, nên đã chững chạc lắm rồi. Tôi viết thư cho sứ quán
Ðại-hàn tại Việt-Nam để hỏi về chi tiết này. Dĩ nhiên tôi viết bằng chữ
Nho. Hơn tháng sau tôi được thư trả lời của tộc Lý tại Nam-hàn. Trong
thư, họ cho tôi biết rằng:
"Tổng-thống
Lý Thừa Vãn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến-bình vương Lý Long Tường.
Kiến Bình vương là con thứ 6 của vua Lý Anh-tông. Người cùng tông tộc
sang Cao-ly vào đầu thế kỷ thứ 13 vì quốc nạn".
Ánh
sáng đã mở ra trước mắt tôi. Nhưng tôi tra trong Ðại-Việt sử ký toàn
thư (ÐVSKTT), trong Việt-sử lược (VSL), trong Khâm-định Việt-sử thông
giám cương mục (KÐVSTGCM), không bộ nào nói đến Kiến Bình vương Lý Long
Tường cả.
Tò
mò chưa được thỏa mãn, nhưng tôi đành bỏ qua, vì bấy giờ tôi phải dồn
hết tâm tư vào việc học. Năm 1959, trong khi lục lọi tại thư viện Paris,
vô tình tôi đọc được Tập-san sử địa của Nhật-bản, số 2 năm 1941, trong
đó nói vắn tắt rằng:
"Năm
Bính Tuất, 1226, bấy giờ là niên hiệu Kiến-trung thứ nhì đời vua
Thái-tôn nhà Trần. Biết mình là con thứ sáu vua Lý Anh-tông, lại đang
giữ chức đô đốc, tư lệnh hải quân, trước sau gì cũng bị Trần Thủ Ðộ hãm
hại, nên ông đã đem tướng sĩ dưới quyền, tông tộc, cùng hạm đội ra đi,
sau đó trôi dạt vào Cao-ly".
Tôi tự hẹn, sau này có tiền sẽ sang Ðại-hàn tìm hiểu chi tiết này.
Thế
nhưng, sau khi ra trường, 1964, tuy đã có chỗ đứng vững chắc về phương
diện tài chánh. Ngặt vì nghề sinh nhai lối dọc đường ngang, tôi vẫn
không thực hiện được cái ước vọng sang Hàn quốc, tìm hiểu về nguồn gốc
họ Lý tại đây.
Mãi
tới năm 1980, tháng 8, tôi đi trong phái đoàn Pháp, sang dự đại hội y
khoa tại Hàng-châu Trung-quốc. Ở đại hội, tôi được tiếp xúc với phái
đoàn Bắc-cao. Phái đoàn này cóù bác sĩ Lý Chiếu Minh ở Hùng-xuyên
(Hunchon) và bác sĩ Lý Diệp Oanh ở Thuận-xuyên (Sunchon).
Bấy giờ tôi đã
41 tuổi, còn Diệp Oanh mới 30 tuổi. Tuy là bác sĩ, thế nhưng cô tươi
như hoa lan, phơi phới như hoa thủy tiên ban mai. Thấy mỗi bữa ăn cô lẩm
nhẩm đọc kinh mà không làm dấu thánh giá, tôi cho là cô đọc kinh Phật.
Tôi cũng đọc kinh Bát-nhã bằng tiếng Việt.
Cô hỏi tôi:
- Ủa! Anh đọc kinh cảm ơn Tổng-thống Valéry Giscard đấy à?
- Không! Tôi đọc kinh Phật. Thế cô đọc kinh gì vậy?
- Phật đâu có cho anh cơm ăn, áo mặc ?
- Vậy cô đọc kinh gì ?
- Tôi đọc kinh cảm ơn cha già Kim Nhật-Thành đã cho chúng tôi đươc tự do, có cơm ăn, áo mặc! (2)
Nghe cô nói, tôi rùng mình. Song thấy cô xinh đẹp, tôi đùa:
"Ở nước tôi, vào thế kỷ thứ 12, dưới triều vua Lý Anh-tông, tổ tiên tôi là Trần Thủ Huy được gả công chúa Ðoan Nghi...".
Diệp Oanh cắt lời:
"Sang
đầu thế kỷ thứ 13, cũng tổ tiên anh là Trần Liễu được gả công chúa
Thuận Thiên, Trần Cảnh được vua Chiêu Hoàng tuyển làm chồng. Rồi tổ tiên
anh xua đuổi, nên tổ tiên tôi thành thuyền nhân, ngày nay Hàn quốc mới
có họ Lý".
À! Vạn lý tha hương ngộ tri kỷ đây. Biết rất rõ Diệp Oanh là con cháu của Kiến Bình vương Lý Long Tường, tôi đùa thêm:
"Biết
đâu cô không là công chúa Ðoan Nghi, tôi không là Trần Thủ Huy tái đầu
thai? Có lẽ chúng mình nên đi tiếp con đường tổ tiên mình đã đi".
Diệp
Oanh vã tôi một cái vào má trái, tỏ cử chỉ thân thiện. Song chúng tôi
bắt con tim ngừng phiêu lưu ở đây, vì bấy giờ bà vợ tôi còn sống, còn
quá trẻ; vợ chồng lại rất tương đắc ngoài đời, nồng thắm trong phòng
the.
Thế
rồi chúng tôi nhận họ. Suốt đại hội, tôi với Chiếu Minh, Diệp Oanh gần
nhau như bóng với hình. Tôi kể cho hai người nghe về những trang sử rực
hào quang dưới thời Lý, nhất là huyền sử về Linh Nhân hoàng thái hậu (Ỷ
Lan). Sau đại hội, Chiếu Minh, Diệp Oanh rủ tôi du lịch Bắc-cao.
Bấy giờ
là thịnh thời của chủ tịch Kim Nhật Thành, Bắc-cao khép kín cánh cửa
với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên nhờ mang thông hành Pháp, nên tòa đại
sứ Bắc-cao ở Bắc-kinh cho tôi cái chiếu khán được du lịch nghiên cứu về
nhân sâm trong 8 ngày.
Tới
Bắc-cao, ông đại sứ Pháp tưởng tôi đi nghiên cứu nhân sâm thực. Ông
lệnh cho văn phòng tùy viên văn hóa giúp đỡ tôi. Tôi không muốn nói dối
ông đại sứ. Tôi thú thật là đi tìm một số tài liệu lịch sử.
Dù biết tôi
mượn danh đi nghiên cứu y khoa, cơ quan trao đổi y học dư thừa tài chánh
đài thọ tất cả phí tổn cho tôi. Thế nhưng sứ quán Pháp vẫn giúp đỡ tôi
tận tình. Nào cung cấp xe, cung cấp tài xế, gửi thư giới thiệu.v.v. Kể
ra làm công việc nghiên cứu của Pháp cũng sướng thực. Xin vạn vạn lần
cảm ơn tinh thần yêu văn hóa của nước Pháp.
Tại
Hùng-xuyên, cũng như Thuận-xuyên, các chi họ Lý tiếp đón tôi rất niềm
nở. Buồn là các cuộc đàm thoại bị giới hạn khá nhiều, tôi phải dùng
tiếng Quan-thoại nói với Chiếu Minh và Diệp Oanh. Hai vị này dịch sang
tiếng Ðại-hàn. Các chi họ Lý xin phép chính quyền, rồi tổ chức những
buổi hội, để nghe tôi nói chuyện về thời đại Tiêu-sơn. Khi nghe kể đến
đoạn công chúa Bảo Hòa tu tiên, cho đến tuổi 90 vẫn trẻ như hồi 17 tuổi,
cử toạ suýt xoa sung sướng.
Lại khi nghe tôi thuật giai thoại vua Lý
Thánh-tông, đang đêm trốn khỏi hoàng cung, gặp cô thôn nữ Yến Loan, rồi
sau đưa về cung phong làm Ỷ Lan phu nhân; cử tọa vỗ tay hết tràng này
đến tràng khác. Khi nghe tôi kể đến các công chúa Bình Dương, Kim Thành,
Trường Ninh trấn ngự biên cương khiến các quan Tống ở Nam-biên nghe đến
tên đều kinh hồn vỡ mật. Các cô ngửa mặt lên nhìn trần nhà cười đầy vẻ
hãnh diện. Lúc mà tôi thuật đến đoạn Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại quân
phá vỡ phòng tuyến Như-nguyệt, tiến đến rừng tre, cách Thăng-long có 25
cây số...
Trong phòng có đến hơn 700 người, mà không một tiếng động. Rồi
tôi kể tiếp: Công chúa Thiên Ninh đánh bật quân Tống trở về Như-nguyệt,
thì phòng hội hoan hô đến muốn rung động thành phố. Tôi thuật tiếp đến
đoạn công chúa tuẫn quốc, thì cả phòng hội đều khóc nức nở. Những người
khóc nhiều nhất lại là những thiếu niên.
Hầu
hết những chi họ Lý đều đem gia phả ra hỏi tôi những chi tiết mà họ
không hiểu. Tất cả gia phả đều viết bằng chữ Nho. Như gia phả của chi
Thuận-xuyên, có đôi câu đối:
Thập-bát anh hùng giai Phù-đổng,
Tam thiên nữ kiệt tỷ Mê-linh.
(Mười tám anh hùng đều như Phù-đổng thiên vương. Ba nghìn nữ kiệt đều có thể sánh với Trưng-vương).
Tôi
phải moi trí nhớ, để đọc cho họ chép lại tiểu sử 18 danh tướng vào thời
vua Lý Nhân-tông, kháng Tống tuẫn quốc. Tôi lại phải thuật cho họ nghe
về công chúa Thiên Ninh (Bà chúa kho) có 3 nghìn nữ binh. Khi Quách Quỳ,
Triệu Tiết mang quân sang Ðại-Việt, phá vỡ phòng tuyến Như-nguyệt tiến
về Thăng-long. Quân Tống nhập vào phòng đai phòng thủ chỉ cách
Thăng-long có 25 cây số, bị công chúa đánh bật trở về Bắc sông
Như-nguyệt. Sau đó công chúa cùng 3 nghìn nữ kiệt đều tuẫn quốc.
Hầu
hết các chi, khi nghe tôi nói rằng: Triều Trần kế tục triều Lý. Nhưng
các vua triều Trần đều dành ra một số ruộng đất lớn, cho tá điền cầy
cấy, thu tô để làm phương tiện hương khói, thờ cúng, tu bổ lăng tẩm 9
đời vua triều Lý... đều hài lòng. Các triều đại kế tiếp như Lê, Nguyễn
vẫn giữ nguyên truyền thống này. Mãi đến năm 1956, trong cuộc cải cách
ruộng đất, những ruộng đất này mới bị tịch thu. Tuy nhiên đây là những
di tích lịch sử, nên kể từ năm 1962, bộ Văn-hóa miền Bắc Việt-Nam đã ban
nghị định công nhận là di tích văn hóa, lịch sử, và bảo quản rất kỹ.
Bác-sĩ
Diệp Oanh dẫn tôi thăm những vùng đất linh của giòng họ Lý. Giòng họ Lý
vẫn giữ gìn được những di tích của tổ tiên. Nào cửa biển Phú-lương
giang nơi hạm đội của Kiến-bình vương cập bến Cao-ly, nào Ung-tân, nơi
đầu tiên họ Lý làm nhà ở, nào ngọn đồi Julhang thuộc xã Ðỗ-môn
(Tô-mơ-ki) nơi có lăng của Kiến Bình vương Lý Long Tường. Tôi cũng được
lên Quảng-đại sơn thăm Vọng-quốc đài, là nơi vương lên nhìn về quê
hương.
Sau
đó, năm 1983, tôi lên đường đi Nam-hàn để tìm hiểu thêm về giòng họ Lý.
Tiếc rằng khi Lý Long Tường tới Hàn-quốc táp vào miền Bắc, vì vậy dường
như tại Nam-hàn không có một chút di tích nào của ông. Giòng họ Lý sống
tại Nam-hàn rất ít, tổng số chưa quá nghìn người. Họ cũng giống như
người Bắc hồi 1954 di cư vào Nam, mang theo rất ít di vật, gia phả về tổ
tiên mình. Không nhà nào mang được gia phả cổ. Gia phả mà họ cho tôi
xem, hầu hết là mới chép gần đây. Nội dung lại quá nhiều sai lạc. Như
chép về việc ra đi của Kiến Bình vương, gia phả nói rằng họ Lý bị Trần
Thủ Ðộ cướp ngôi, Lý Long Tường cầm quân chống lại, bị thua. Về Lý Chiêu
Hoàng, họ chép là hoàng hậu của vua Lý Huệ-tông! (3)
Họ Lý, hậu duệ Kiến Hải vương, hay họ Lý Tinh-thiện
Thế
nhưng, tại Nam-hàn tôi gặp ông Lý Gia Trung. Ông cho biết, tổ tiên ông
là người Việt, nhưng không thuộc giòng dõi Kiến Bình vương. Tổ tiên ông
là Kiến Hải vương Lý Dương Côn, đã đến Cao-ly hồi đầu thế kỷ thứ mười
một.
Quý
độc giả có biết tâm trạng tôi bấy giờ ra sao không ? Kinh ngạc, bàng
hoàng, đờ đẫn cả người ra. Vì trong khi nghiên cứu về triều Lý, tôi biết
một huyền sử vắn tắt như sau :
"Vua
Lý Nhân-tông không có hoàng nam, người nhận con của các thân vương
trong hoàng tộc làm con nuôi. Năm Ðinh Dậu (1117) nhận con của hầu Sùng
Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng làm con nuôi.
Sau truyền ngôi cho con của Sùng Hiền hầu là Lý Dương Hoán, tức vua Lý
Thần-tông. Khi Lý Thần-tông băng, Thái-tử Thiên-tộ còn bế ngửa, triều
thần muốn tôn con của Thành Quảng hầu là Lý Dương Côn lên nối ngôi.
Cuộc
tranh quyền trong giòng họ Lý diễn ra, sau vợ của vua Lý Thần-tông nhờ
có tình nhân là Ðỗ Anh Vũ giúp đỡ, mà loại hết các địch thủ. Năm Canh
Ngọ (1150) nhân vụ chính biến, Cảm Thánh thái hậu mưu với tình nhân Ðỗ
Anh Vũ giết hết tông tộc của các hầu Thành Khánh, Thành Chiêu, Thành
Hưng. Bấy giờ con Thành Quảng hầu là Kiến Hải vương Lý Dương Côn đang là
đô đốc Thủy-quân, bèn đem gia thuộc xuống chiến thuyền lưu vong. Song
không biết đi đâu (1150)".
Bây
giờ, sau 831 năm, tôi gặp lại hậu duệ của Kiến Hải vương. Tâm tư rúng
động ! Hỡi ơi ! Tại Hàn-quốc có tới hai giòng họ Lý, gốc là thuyền nhân
Ðại-Việt. Tôi ghi chú tất cả những gì mà giòng họ Lý của Kiến Hải vương
cung cấp để khi viết về thời đại Tiêu-sơn còn có thêm tài liệu.
Cuối
năm 1996, một nhà nghiên cứu tộc phả nổi tiếng của Nam-hàn là giáo sư
Phiến Hoằng Cơ (Pyon Hong Ke) công bố kết quả cuộc nghiên cứu của ông
rằng ông đã phát hiện một giòng họ Lý thứ nhì, tại Ðại-hàn, được gọi là
Lý Tinh-thiện. Giòng họ này, chính là giòng họ Lý, con cháu Kiến Hải
vương mà tôi đã có cơ duyên gặp hậu duệ là ông Lý Gia Trung.
Giáo
sư Phiến Hoằng Cơ cho biết, căn cứ vào gia phả của giòng họ này mang
tên Tinh-thiện Lý thị tộc phả, được lưu trữ tại thư viện Quốc-gia
Hán-thành, thì ông tổ của giòng họ Lý Tinh-thiện là Lý Dương Côn (Lee
Yang Kon) tới Ðại-hàn vào đầu thế kỷ thứ 12:
"Lý Dương Côn hiệu là Nguyên Minh, hoàng tử thứ ba con vua Càn Ðức, được Tống triều phong tước Nam-bình vương".
Tra
trong sử Việt, thì vua Càn Ðức chính là tên của vua Lý Nhân-tông. Vua
Lý Nhân-tông là con của vua Lý Thánh-tông với Ỷ-Lan phu nhân, sau được
tôn là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Người chỉ đạo cuộc đánh Tống, kháng
Tống lừng danh lịch sự Việt-Nam. Theo ÐVSKTT, Lý kỷ, Nhân-tông kỷ thì:
"Niên hiệu Hội-tường Ðại-khánh thứ 8 (DL.1117, Ðinh Dậu)...
...Tìm
con trai trong tôn thất để nuôi trong cung. Xuống chiếu rằng: "Trẫm cai
trị muôn dân mà lâu không có hoàng nam, ngôi báu của thiên hạ biết
truyền cho ai? Nên trẫm nuôi con của các hầu Sùng Hiền, Thành Khánh,
Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn người giỏi lập làm thái tử.
Bấy giờ con Sùng Hiền hầu là Dương Hoán, lanh lợi, vua rất yêu, bèn lập
làm Thái-tử".
Vậy
thì Lý Dương Côn là con nuôi của vua Lý Nhân-tông, chứ không phải con
đẻ. Con nuôi thứ ba, thì là con của Thành Quảng hầu tên Lý Dương Côn,
tước phong Kiến Hải vương.
Giáo-sư
Phiến Hoằng Cơ dựa theo Tinh-thiện Lý thị tộc phả và bộ Cao-ly sử, ông
công bố: Hậu đuệ đời thứ sáu của Lý Dương Côn là Lý Nghĩa Mẫn (Lee
Unimin) trở thành nhân vật kiệt hiệt trong lịch sử. Bấy giờ Cao-ly đang ở
dưới triều đại vua Nghị-tông (Ui-jiong 1146-1170). Nhà vua rất sủng ái
Lý Nghĩa Mẫn, phong cho chức Biệt-trưởng.
Nước Cao-ly trong thời gian
này, phải chống trả với cuộc xâm lăng của Khiết-đan tức Ðại-liêu, nên
các võ tướng nắm hầu hết quyền hành. Năm 1170 tướng Trịnh Trọng Phu
(Jeong Jung-bu) chưởng môn một võ phái, đảo chính vua Nghị-tông lập vua
Minh-tông (Mycong 1170-1179). Trọng Phu bị các võ phái, võ tướng nổi lên
chống đối. Lý Nghĩa Mẫn là người phụ tá đắc lực cho Trịnh Trọng Phu,
đem quân dẹp các cuộc nổi dậy.
Ông được thăng chức Trung-lang tướng,
Tướng-quân, Ðại-tướng quân (1173), Thượng-tướng quân (1174), cuối cùng
là Tây Bắc bộ binh mã sứ (1178). Năm 1179, một võ quan khác là Khánh Ðại
Thăng (Kyung Dae-Seung) làm cuộc chính biến, giết chết Trịnh Trọng Phu,
lên nắm quyền. Bấy giờ Lý Nghĩa Mẫn giữ chức Hình-bộ thượng thư (1181).
Vì ông thuộc phe Trịnh Trọng Phu, nên bị nghi ngờ, chèn ép. Ông cáo
quan về hưu.
Sau
khi Khánh Ðại Thăng chết, vua Minh-tông mời Lý Nghĩa Mẫn vào bệ kiến,
được trao chức Tư-không, Tả-bộc xạ, Ðồng-trung thư môn hạ bình chương sự
tức Tể-tướng trong 14 năm (1183-1196). Năm 1196, một phe võ tướng do
Thôi Chung Hiếu (Cho Chung Heon) cầm đầu làm cuộc đảo chính, giết Lý
Nghĩa Mẫn. Ba con ông là Lý Chính Thuần, Lý Chí Vinh, Lý Chí Quang đều
là tướng cầm quân, cũng bị giết chết. Quân phiến loạn chỉ tha cho người
con gái ông là Lý Hiền Bật. Giòng họ Lý Tinh-thiện tưởng đâu tuyệt tự.
Nhưng may mắn thay, giòng họ này còn kế tục là nhờ người anh Lý Nghĩa
Mẫn và các con không bị hại.
Phối
hợp chính sử với gia phả, giáo sư Phiến Hoằng Cơ kết luận rằng: Giòng
họ Lý tại Tinh-thiện thuộc đạo Giang-nguyên, phía Ðông Nam Ðại-hàn ngày
nay là con của hoàng tử Lý Dương Côn thuộc triều Lý, Việt-Nam
(1010-1225). Lý Dương Côn bỏ quê hương ra đi vì sự đe dọa của nước Kim
đối với Tống, năm 1115. Tới năm 1127 thì Bắc Tống bị diệt.
Qua cuộc nghiên cứu của Phiến Hoằng Cơ, tôi thấy có đôi chút nghi vấn:
Một
là, vua Lý Nhân-tông nhận con nuôi năm 1117. Vua Thần-tông sinh năm
1116, vậy thì Lý Dương Côn chỉ có thể sinh năm 1116 hay 1117 mà thôi.
Năm Lý Dương Côn rời Ðại-Việt ra đi là năm 1150. Bấy giờ ông mới 32-33
tuổi. Thế nhưng gia phả Lý Tinh-thiện nói rằng năm 1170 Lý Nghĩa Mẫn,
hậu duệ đời thứ sáu của Lý Dương Côn, được vua Nghị-tông phong cho chức
Biệt-trưởng. Ðây là điều vô lý. Bởi năm đó chính Lý Dương Côn có còn tại
thế thì ông mới có 54 tuổi, làm sao ông đã có cháu 6 đời? Tôi thì tôi
cho rằng Lý Nghĩa Mẫn là con Lý Dương Côn. Còn hậu duệ đời thứ sáu là kể
từ vua Lý Thái-tổ:
1. Lý Thái-tổ.
2. Lý Thái-tông. 3. Lý Thánh-tông. 4. Lý Nhân-tông. 5. Kiến Hải vương Lý Dương Côn. 6. Lý Nghĩa Mẫn.
Hai
là, trong gia phả Lý Tinh-thiện nói rằng, Lý Dương Côn rời quê hương ra
đi vì quốc nạn. Giáo-sư Phiến Hoằng Cơ cho rằng vì sự đe dọa của Kim.
Có lẽ khi giải đoán việc ra đi của Lý Dương Côn, ông đã bị ảnh hưởng bởi
sử Cao-ly. Vì hồi ấy, nước Kim đang từ một bộ lạc Nữ-chân, nổi lên diệt
nước Liêu, rồi đem quân đánh Tống. Sau đó, họ bắt vua Tống mang về Bắc.
Nhưng con cháu nhà Tống lại tái lập triều Nam-Tống. Khoảng cách Kim với
Ðại-Việt còn một nước Tống quá rộng, quá xa. Dù Kim hùng mạnh cũng
không ảnh hưởng gì tơí Ðại-Việt khiến Lý Dương Côn phải bỏ nước trốn đi.
Nhất là giai đoạn 1161 đến 1174, bấy giờ binh lực Ðại-Việt đang mạnh,
muốn hướng lên Bắc tái chiếm lại Quảng Ðông, Quảng Tây! (xin đọc
Anh-hùng Ðông-A dựng cờ Bình-Mông hồi 4 và hồi 16-17-18).
Lần
lại trang sử Ðại-Việt thời đó: Vua Thần-tông được vua Nhân-tông đem vào
cung nuôi cùng 4 người anh em họ. Nhưng ngài được lập làm Thái-tử, rồi
lên ngôi vua. Theo Hội-điển sự lệ triều Lý thì những chức như: Thái-úy,
Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, Ðại Ðô-đốc Thủy quân, luôn trao cho các hoàng
đệ. Vì vậy trong 5 con nuôi của vua Lý Nhân-tông, thì Thái-tử Dương Hoán
đươc truyền ngôi, còn 4 con nuôi khác, là con của các hầu Thành Khánh,
Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng ắt được phong vào các chức trên.
Con của Thành Quảng hầu là Lý Dương Côn được phong tước Kiến Hải vương,
lĩnh chức Ðại Ðô-đốc Thủy-quân. Khi vua Thần-tông băng (1138), Thái-tử
Thiên-tộ mới có 2 tuổi, triều thần muốn tôn hoàng đệ Lý Dương Côn lên
ngôi vua, vì ông là người thông minh, tài trí, đang là Ðại Ðô-đốc, ở
tuổi 22. Nhưng rồi mẹ của Thái-tử Thiên-tộ là Cảm Thánh hoàng hậu đã
dùng vàng bạc đút lót cho các quan, bà lại được tình nhân Ðỗ Anh Vũ là
em của Chiêu Hiếu thái hậu, (mẹ vua Thần-tông) hết sức ủng hộ. Thiên-tộ
lên ngôi vua, sau là vua Anh-tông.
Dĩ
nhiên vua Anh-tông lên ngôi, khi còn bế ngửa, thì mẹ là Cảm Thánh thái
hậu thính chính, nói khác đi là làm vua. Bà phải diệt hết những mầm mống
có thể nguy hiểm cho con bà. Bà cùng Ðỗ Anh Vũ vu cáo, giết hết các em
nuôi của vua Thần-tông là con của các hầu em vua Nhân-tông. Toàn gia các
hầu, từ thê thiếp, con, cháu, thân binh, nô bộc đều bị giết sạch. Riêng
Lý Dương Côn đóng quân ở Ðồn-sơn, được mật báo. Ông đem hết gia thuộc,
xuống chiến thuyền, bỏ quê hương ra đi, rồi táp vào Cao-ly.
Dù
Lý Nghĩa Mẫn là cháu 6 đời của Kiến Hải vương Lý Dương Côn hay là cháu 6
đời vua Lý Thái-tổ, thì ta vẫn kết luận rằng : Năm 1150, Kiến Hải vương
Lý Dương Côn, lĩnh chức Ðại Ðô-đốc đã cùng tông tộc dùng thuyền tỵ nạn
tại Cao-ly. Ðời sau có nhân vật kiệt hiệt là Lý Nghĩa Mẫn, đóng một vai
trò trọng yếu trong lịch sử Cao-ly. Giòng họ Lý này, nay vẫn còn truyền
tử lưu tôn tại Ðại-hàn.
Giòng thứ nhì, hậu duệ của Kiến-bình vương Lý Long Tường, còn gọi là Lý Hoa-sơn
Giòng
họ Lý thứ nhì tới Ðại-hàn sau giòng họ Lý Tinh-thiện 76 năm, là hậu duệ
của Kiến Bình vương Lý Long Tường, con thứ 7 của vua Lý Anh-tông.
Mà tôi đã trình bầy ở trên.
Theo
Trần-tộc vạn thế ngọc phả, của chi bốn, thuộc giòng dõi Chiêu-quốc
vương Trần Ích Tắc, để tại nhà từ ở thị xã Lãnh-thủy, huyện Chiêu-dương,
tỉnh Hồ Nam, Trung-quốc ; phần chép về Ninh-tổ hoàng đế Trần Lý. Có
đoạn nói về các con vua Lý Anh-tông, nguyên văn như sau :
Vua có bẩy hoàng tử.
Hoàng
trưởng tử Long Xưởng do Chiêu Linh hoàng hậu sinh vào niên hiệu Ðại
Ðịnh thứ 12 (DL.1151, Tân-Mùi). Ðược phong tước Hiển Trung vương, lập
làm Thái-tử. Niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo nguyên nhiên (DL.1174,
Giáp-Ngọ) bị giáng xuống làm con út, tước Bảo Quốc vương. Niên hiệu
Trinh Phù thứ sáu (DL.1181, Tân-Sửu) làm phản, bị hạ ngục, rồi bị Ðỗ An
Di giết cả nhà, thọ 31 tuổi.
Hoàng-tử thứ nhì Long Minh do Thần-phi Bùi
Chiêu Dương sinh vào niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 11 (DL. 1152, Nhâm-Thân).
Tước phong Kiểm-hiệu Thái-sư, Thượng-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam
tư, Trung-vũ quân tiết độ sứ, lĩnh đại đô-đốc, Kiến Ninh vương. Bị giết
niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nhì (DL.1175.). Thọ 24 tuổi.
Hoàng-tử
thứ ba Long Ðức, cũng do Bùi Thần-phi sinh niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 12
(DL.1153, Quý-Dậu) ra. Chức tước phong như sau : Dao-thụ Thái-bảo,
Khu-mật viện sứ, Thượng-thư tả bộc xạ, Phụ-quốc thượng tướng quân,
Long-thành tiết độ sứ, Kiến An vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm
Chí-bảo thứ nhì (1175), thọ 23 tuổi.
Hoàng-tử
thứ tư Long Hòa do Quý-phi Hoàng Ngân Hoa sinh niên hiệu Ðại Ðịnh thứ
11 (DL.1152, Nhâm-Thân). Chức tước phong như sau : Ðặc tiến Thiếu-sư,
Khu-mật viện sứ, Thượng-thư tả thừa, Trấn Nam tiết độ sứ, Thượng-thư
lệnh, Tả kim ngô thượng tướng, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh, Kiến Tĩnh vương.
Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nhì (1175) thọ 24 tuổi.
Hoàng-tử
thứ năm Long Ích, do Ðức-phi Ðỗ Kim Hằng sinh niên hiệu Chính-long
Bảo-ứng thứ 5 (DL.1167, Ðinh-Hợi). Chức tước phong như sau : Dao-thụ
Thái-phó, trấn Nam tiết độ sứ, Thượng-thư tả thừa, Kiến Khang vương.
Hoăng niên hiệu Kiến-gia thứ 2 (DL.1212 Nhâm-Thân), thọ 46 tuổi.
Hoàng-tử
thứ sáu Long Trát, do Thục-phi Ðỗ Thụy Châu sinh niên hiệu Chính-long
Bảo-ứng thứ 11 (DL.1172, Nhâm-Thìn), tháng 5, ngày 25, niên hiệu
Thiên-cảm Chí-bảo nguyên niên được lập làm Thái-tử. Năm thứ nhì được
truyền ngôi. Băng niên hiệu Trị-bình Long-ứng thứ 6 (DL.1210, Canh-Ngọ),
ngày 28 tháng 10, thọ 38 tuổi.
Hoàng-tử
thứ bảy Long Tường do Hiền-phi Lê Mỹ Nga, sinh vào niên hiệu Chính-long
Bảo-ứng thứ 12 (DL.1174, Giáp-Ngọ). Ðức Thái-tông nhà ta (tức Trần
Cảnh) phong chức tước phong như sau : Thái-sư Thương-trụ quốc, Khai-phủ
nghị đồng tam tư, Thượng-thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc, tước Kiến Bình
vương. Niên hiệu Kiến-trung thứ nhì đời đức Thái-tông nhà ta (tức Trần
Cảnh), tháng tám, ngày rằm, vương cùng gia thuộc hơn 6 ngàn người bôn
xuất.
So
sánh giữa Tộc phả Hoa-sơn và Trần tộc vạn thế ngọc phả, có một chi tiết
khác nhau. Tộc phả Kiến Bình thì chép Kiến Bình vương là con thứ sáu
vua Anh-tông. Trong khi Trần tộc vạn thế ngọc phả lại chép vương là con
thứ bẩy. Vì sao ? Phả Trần tộc chép theo huyết tộc, ai sinh trước là
anh, ai sinh sau là em. Vì vậy Kiến Bình vương là con thứ 7. Phả Kiến
Bình thì chép thứ tự theo chỉ dụ của vua Lý Anh tông, Long Xưởng bị
giang xuống làm con út, thì Long Tường trở thành con thứ sáu.
Hồi
đó Lý Long Tường dẫn tông tộc rời Ðại-Việt ra đi. Trần triều không biết
đi đâu. Nay chúng ta mới được biết vương với hạm đội bị bão phải ẩn ở
Ðài-loan. Nghỉ ít lâu, hạm đội của vương lại tiếp tục lên đường rồi dạt
vào Cao-ly. Duy một người con của vương tên Lý Long Hiền cùng gia thuộc
hơn hai trăm người ở lại Ðài-loan. Vương là khai tổ của giòng họ Lý tại
Ðại-hàn, thế tử Long Hiền là khai tổ của giòng họ Lý tại Ðài-loan hiện
nay ? Sự kiện này tôi sẽ tìm hiểu sau.
Tôi
đã bỏ công sang Bắc cũng như Nam-hàn, tìm các chi, hậu duệ của Kiến
Bình vương Lý Long Tường, khảo gia phả của họ. Phần chi tiết tuy có sự
khác biệt, nhưng đại lược vẫn giống nhau. Tổng-thống Lý Thừa Vãn của
Ðại-hàn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến Bình vương Long Tường. Còn tổng
thống Lý Ðăng Huy của Ðài-loan có phải là hậu duệ của thế tử Lý Long
Hiền hay không, thì tôi không dám quyết, bởi Lý là giòng họ chiếm đa số ở
Trung-quốc.
Cả
ba bộ sử ÐVSKTT, VSL, KÐVSTGCM cùng chép rất mơ hồ về việc vua Anh-tông
phế Long Xưởng lập Long Trát. Nhà vua có tới bẩy hoàng tử. Nếu sự thực
Long Xưởng phạm tội, phế xuống, sao không lập các con đã trưởng thành,
tài trí xuất chúng, đang cầm đại quyền như Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh
vương?
Hoặc cùng quá, thì lập Kiến Khang vương Long Ích, năm ấy đã chín
tuổi? Mà phải lập Long Trát mới có 26 tháng làm Thái-tử, rồi phải cử Tô
Hiến Thành làm phụ chính? Cái khúc mắc này tôi đã giải thích rất chi
tiết, rất rõ ở hồi 21-23 bộ Anh-hùng Ðông-a dựng cờ bình Mông. Trong bài
ngắn này không thể giải thích hết.
Dưới đây là phần tôi thuật theo Tộc-phả Lý Hoa-sơn:
Niên
hiệu Kiến-trung thứ nhì đời vua Thái-tông nhà Trần (DL.1226, Bính
Tuất), lo sợ bị Thái-sư Trần Thủ Ðộ hãm hại, vì vị thế trọng yếu của
mình:
- Là con vua Anh-tông, em vua Cao-tông, chú vua Huệ-tông.
- Thân vương duy nhất nắm quyền hành. - Chức tước cực phẩm Thái-sư Thương-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Thượng-thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc.
Vương
âm thầm cùng Bình Hải công Lý Quang Bật từ căn cứ Ðồn-sơn về Kinh Bắc,
lạy ở lăng miếu Ðình-bảng. Lại đến Thái-miếu mang bài vị, các tế khí ra
trấn Ðồn-sơn, rồi đem hết tông tộc hơn 6 nghìn người, xuống hạm đội ra
đi.
Việc
Kiến Bình vương ra đi, có lẽ bắt nguồn từ việc ra đi của Kiến Hải vương
trước kia chăng? Sau hơn tháng lênh đênh trên biển, thì gặp bão. Hạm
đội phải ngừng lại một đảo (Ðài-loan?) rồi tiếp tục lên đường. Một trong
các con của vương là Thế-tử Lý Ðăng Hiền cùng vợ con ở lại đảo. Hạm đội
lênh đênh trên biển một thời gian, thì táp vào cửa Phú-lương giang,
quận Khang-linh (Ong Jin-Gun) tỉnh Hoàng-hải (Hwang-hac) thuộc Bắc
Cao-ly. Nơi hạm đội táp vào, dân chúng gọi là Nak-nac-wac có nghĩa là
Bến của khách phương xa có đồ thờ cúng.
Kỳ
diệu thay, đêm hôm trước, vua Cao-tông (Kojong) mơ thấy một con chim
cực lớn bay từ phương Nam lại đậu ở bờ Tây-hải. Tỉnh lại, vua sai người
tới đó tìm kiếm, thì gặp hạm đội của Kiến-bình vương. Kiến-bình vương
được bệ kiến. Vương dùng bút đàm với vua Cao-tông và các đại thần
Cao-ly. Triều đình Cao-tông đối xử với vương rất tốt, chu cấp lương
thực. Cho làm nhà ở Ung-tân phủ Nam-trấn sơn (Chin-sang).
Lý
Long Tường cùng tướng sĩ, gia thuộc bắt đầu cuộc sống mới. Trồng trọt,
đánh cá, chăn nuôi làm kế sinh nhai. Ông mở trường dạy học: Thi phú, lễ
nhạc, tế tự, binh pháp, võ thuật. Ông soạn sách Học vấn giảng hậu. Vì
học trò đông, ông cho xây Ðộc-thư đường, Giảng võ đường. Ðệ tử của ông
lúc nào cũng trên nghìn người.
Tháng
7 năm Quý-sửu (1253) đời vua Cao-tông thứ 40, quân Mông-cổ xâm lăng
Cao-ly, vượt Hỗn-đồng giang, chiếm Tây-hải, phá An-giang Tây-thành. Về
mặt thủy, Mông-cổ chiếm các đảo Ðại-thanh, Tiểu-thanh, Sáng-lân, rồi
tiến chiếm Tây-đô (Giang-hoa). Thủ-đô Cao-ly bị đe dọa. Các tướng sĩ hầu
hết bị tử trận.
Thấy
tình hình Cao-ly nguy ngập, Kiến Bình vương đến gặp Thái-úy (tướng tổng
chỉ huy quân đội) là Vi Hiển Khoan, cố vấn cho ông về binh pháp
Ðại-Việt. Ðích thân vương cỡi bạch mã chỉ huy cuộc giữ thành: Ðắp thành
cao lên, đào hào đặt chông quanh thành. Trong thành đào giếng để có nước
uống, tích trữ lương thảo. Ông đem tất cả binh pháp Ðại-Việt trong
những lần đánh Tống, bình Chiêm ra giúp Cao-ly.
Ðánh
nhau suốt 5 tháng, quân Nguyên bị tuyệt lương thảo, bị chặn đường rút
lui, xin hàng (6). Tết năm ấy, toàn Cao-ly mừng chiến thắng. Triều đình
khen ngợi Lý Long Tường, lấy tên ngọn núi ở quê hương ông là Hoa-sơn;
phong cho ông làm Hoa-sơn tướng quân. Cho đổi tên ngọn núi nơi ông cư
ngụ là Hoa-sơn. (4). Nhà vua sai dựng bia ghi công ông trên núi Hoa-sơn,
đích thân vua viết ba chữ Thụ hàng môn (Cửa tiếp thụ giặc đầu hàng).
Cho đến nay, sau 746 năm, trải biết bao nhiêu mưa nắng, thăng trầm; tấm bia ấy vẫn trơ gan cùng cùng tuế nguyệt, nhắc nhở du khách nhớ huân công của một Việt-kiều trên Hàn-quốc.
Trong
dịp thăm Hoa-sơn năm 1981, tôi xin người đại diện tộc Lý cho phép được
mượn thợ khắc vào một phiến đá bài thơ cổ phong, đặt cạnh tấm bia trên,
gọi là chút lòng của người sau, tế người trước:
Phúc tại Tiêu-sơn lĩnh,
Thất đại bôn Bắc Cao, Bình Mông danh vạn đại, Tử tôn giai phong hầu. Học phong nhân bất cập. Vọng quốc hồn phiêu phiêu, Kim tải quá bát bách, Hà thời quy cố hương?
(Ngài
là người họ Lý, được hưởng phúc tại ngọn núi Tiêu-sơn. Kể từ vua Lý
Thái-tổ tới ngài là đời thứ bẩy, phải bôn tẩu đến xứ Bắc Cao-ly. Nhờ
chiến công đánh Mông-cổ, mà con cháu ngài đều được phong hầu. Ngoài ra,
ngài là người đem học phong tới Cao-ly, công đức ấy không ai sánh kịp.
Thế nhưng trải trên 8 trăm năm, hồn ngài lúc nào cũng phiêu phưởng,
không biết bao giờ được về cố hương ?).
Ngày
nay trên ngọn đồi Julbang thuộc xã Ðỗ-môn (Tô-mơ-ki) cách núi Hoa-sơn
10 cây số về phía Tây còn lăng mộ ngài và con, cháu cho đến ba đời. Trên
Quảng-đại sơn có Vọng-quốc đàn, nơi cuối đời ngài thường lên đó, ngày
ngày nhìn về phương Nam, ôm mặt khóc, tưởng nhớ cố quốc. Mỏm đá mà ngài
đặt chân đầu tiên lên bờ biển Cao-ly, được gọi là Việt-thanh nham, tức
đá xanh in vết tên Việt. Trên Hoa-sơn còn rất nhiều di tích kỷ niệm huân
nghiệp của vương. Khi đến Hoa-sơn hành hương, thay vì chào nhau, du
khách được hướng dẫn viên du lịch dạy cho nói câu: Hữu khách, Hữu khách,
kỵ bạch mã. Nghĩa là Có người khách cỡi ngựa trắng, tức Lý Long Tường.
Cho
đến nay, giòng họ Lý Hoa-sơn truyền trải 28 đời. Tại Nam-hàn chỉ có
khoảng hơn 200 hộ, với trên dưới 600 người. Tại Bắc-hàn thì đông lắm,
không thống kê được. Lý tộc tại Nam-hàn, hầu hết họ là những gia đình có
địa vị trọng yếu về giáo dục, kinh tế, kỹ nghệ. Kỳ ứng cử vừa qua, một
ứng viên Tổng thống họ Lý suýt trúng cử.
Theo
tấm bia trên mang tên Thụ-hàng môn bi ký, thì Kiến Bình vương Long
Tường có nhiều con trai, tất cả đều hiển đạt. Không thấy nói tơí Lý Long
Hiền, cùng tông tộc hơn 200 người ở lại Ðài-loan. Lý Cán Ðại lĩnh
Ðề-học nghệ văn quán, Kim-tử quang lộc đại phu. Lý Huyền Lương,
Tham-nghị lễ tào, Chính-nghị đại phu. Lý Long Tiền Giám-tu quốc sử.
Ngày
nay, tại Bắc-hàn, cứ đến dịp tết Nguyên-đán, hậu duệ của Kiến Bình
vương Lý Long Tường khắp lãnh thổ Ðại-hàn đều kéo về Hoa-sơn để dự lễ tế
tổ. Khởi đầu của cuộc tế, đánh chín tiếng trống, gọi là Tâm-thanh để
mọi người cùng tưởng nhớ cố quốc. Theo gia phả của chi Thuận-xuyên, sở
dĩ đánh chín tiếng, vì muốn ghi lại triều Lý trải 9 đời vua, kể cả Lý
Chiêu-hoàng. (4)
Năm
1995, con cháu của Kiến Bình vương Lý Long Tường, quy tụ hơn trăm người
trở về Ðình-bảng, huyện Tiên-sơn, tỉnh Bắc-ninh dự lễ hội làng vào ngày
rằm tháng ba Âm-lịch. Tại thiên chi linh, hẳn 9 đời vua triều Tiêu-sơn,
cũng như Kiến Bình vương Lý Long Tường đã thỏa nguyện: Những đứa cháu
lưu lạc, nay trở về chầu tổ.
Lời quê gửi tới người Việt hải ngoại
Hiện
nay gần ba triệu người Việt lưu lạc khắp mọi góc biển, mọi chân trời.
Có nơi sống tập trung như Hoa-kỳ, Thái-lan, Cao-miên, Ai-lao, Canada,
Úc, Pháp, Nga-sô. Có nơi sống rải rác cô độc như Do-thái, Irak, Gabon...
Nhìn vào tấm gương của hai giòng họ Lý tại Ðại-hàn. Dù con cháu quý vị
không còn nói được tiếng Việt. Dù con cháu quý vị đã kết hôn với người
địa phương. Nhưng quý vị phải luôn nhắc nhở cho chúng biết rằng: Chúng
là người Việt, lấy chủ đạo là con Rồng cháu Tiên. Xin qúy vị khẩn chép
lại:
1. Nguồn gốc giòng họ mình từ làng nào, xã nào, tỉnh nào. Hoặc liên lạc với họ hàng trong nước để xin bản sao gia phả.
2. Tiểu sử những tiền nhân. Nếu không nhớ được hành trạng của các tổ xa đời, thì ít ra cũng chép được từ đời ông, đời cha. 3. Rời Việt-Nam ra đi vì lý do gì? Bắt đầu đến đâu? Lập nghiệp ra sao? 4. Mỗi năm vào dịp tết, quý vị sai đọc cho tất cả con cháu đều nghe. 5. Hằng năm, nếu có thể, khuyên con cháu, nên trở về quê hương, viếng thăm đất tổ, thăm mồ mả tiền nhân. Khi về già, các vị sai chép ra thành nhiều bản, cho mỗi con một bản.
Vài
lời thô thiển. Biết rằng các vị cho là thường. Thưa quý vị, bây giờ là
thường, nhưng sau đây trăm năm, nghìn năm, sự ghi chép của quý vị sẽ trở
thành quý báu vô cùng. Mong lắm thay! Cầu xin như vậy đấy.
Yên-tử cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ
----------------------------------------
*
Tôi tra trong địa lý thời Lý, trên lãnh thổ Ðại Việt không có ngọn núi
nào tên Hoa-sơn cả. Có lẽ là núi Tiêu-sơn, nơi phát tích ra triều Lý
chăng ?
* Chín đời vua triều Lý là : 1. Thái-tổ Lý Công Uẩn. 2. Thái-tông Lý Ðức Chính. 3. Thánh-tông Lý Nhật Tông 4. Nhân-tông Lý Càn Ðức. 5. Thần-tông Lý Dương Hoán . 6. Anh-tông Lý Thiên Tộ. 7. Cao-tông Lý Long Trát. 8. Huệ-tông Lý Long Sảm. 9. Chiêu-hoàng Lý Phật Kim
*
Có một sự trùng hợp. Năm năm sau, tháng 1-1258, Thái-sư Mông-cổ là
Ngột-lương Hợp-thai (Uriyang- qadai) đem quân đánh Ðại Việt, cũng bị
tuyệt đường lương, rồi bỏ chạy. Xin đọc Anh-hùng Ðông-a dựng cờ bình
Mông hồi 50.
|