Tuesday, October 25, 2016

LUẬT SƯ TRẦN VĂN TUYÊN

Wednesday, July 3, 2013

SƠN TRUNG * LUẬT SƯ TRẦN VĂN TUYÊN

|LUẬT SƯ TRẦN VĂN TUYÊN
(1913-1976)
Sơn Trung


 I. SƠ LƯỢC TIỂU SỬ LS TRẦN VĂN TUYÊN

Luật sư Trần Văn Tuyên là một trí thức,  một luật sư, môt nhà văn, một nhà chính trị yêu nước, chống cộng sản và chống các chính phủ phi dân chủ tại miền Nam.. Cá nhân tôi rất ngưỡng mộ ông. .Hôm nay, tôi viết bài này để nhìn lại một danh nhân nước Việt, và một trang lịch sử của Việt Nam từ 1954 đến 1975.
LS Trần Văn Tuyên là một trong những chiến sĩ tranh đấu chống Pháp để mưu cầu dộc lập cho Việt Nam.LS Trần Văn Tuyên  bắt đầu sự nghiệp chính trị với sự gia nhập Việt-Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc) vào năm 1929 lúc 16 tuổi, một năm trước khi xẩy ra vụ khởi nghĩa Yên-Bái. Sau ông  cộng tác cùng các nhà cách mạng như Nguyễn-Hải-Thần, Nguyễn-Tường-Tam hoạt động chống Pháp, bị mật vụ Pháp bắt bỏ tù vào năm 1943 Năm 1946, LS Tuyên tham gia chính-phủ liên hiệp do ô. Hồ-Chí-Minh làm Thủ Tướng, với chức vụ Đổng Lý Văn Phòng Bộ Ngoại Giao do ô. Nguyễn-Tường-Tam làm Tổng-Trưởng. Một năm sau ông cùng với các lãnh tụ VNQDĐ khác như Nguyễn-Tường Tam, Nguyễn Hải-Thần, Vũ Hồng Khanh,v.v. bỏ qua Trung-Hoavì cộng sản ra tay sát hại các đảng phái quốc gia cụ thể là vụ Ôn Như hầu, và việc giết hại Huỳnh giáo chủ và các nhà cách mạng Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Bùi Quang Chiêu...
Vua Bảo Đại hội đàm với Pháp tại vịnh Hạ Long vào ngày 6.12.1947,  và thành lập chính phủ quốc gia, LS Tuyên được mời  giữ chức vụ Tổng-Trưởng Thông-Tin vào năm 1949 trong nội-các của Tướng Nguyễn-Văn-Xuân, sau đó tham gia vào nội các Trần-Văn-Hữu (1949-1951) với chức vụ Bộ Trưởng Phủ Thủ-Tướng. Trong  hội-nghị Pau để thương lượng với chính quyền Pháp trao trả chủ quyền cho Việt-Nam, LS Tuyên đã quyết liệt phản đối sự vi phạm trắng trợn các thỏa ước Pháp đã ký kết.  Tướng De Lattre de Tassigny tức giận ra lệnh trục xuất LS Tuyên ra khỏi Việt-Nam.
Ông trốn vào khu bưng biền Tây-Ninh, liên kết với các giáo phái Cao-Đài và các đảng phái quốc-gia như Đại-Việt, VNQDĐ, Việt-Nam Phục-Quốc Hội, Dân-Xã Đảng và một số các nhà trí-thức để lập một mặt trận liên kết chống lại cả Pháp lẫn Cộng-Sản. Mặt Trận Thống Nhất Quốc Gia ra đời vào năm 1953. Năm sau, Mặt-Trận Liên-Minh Tổ-Quốc, bao gồm cả hai lực lượng Hòa-Hảo và Bình-Xuyên, được thành-lập.
Hội nghị Genève chấm dứt. Trở về nước LS Tuyên thành lập Mặt Trận Quốc-Gia Liên-Hiệp vào năm 1955 . Tổ chức này  năm 1958 kêu gọi Tổng-Thống Ngô-Đình-Diệm dân chủ hóa chính quyền, chống bất công xã-hội, thiết lập các quyền tự do căn bản (ngôn luận, báo chí, lập hội,...).  Được Tổng-Thống Diệm mời vào làm Bộ Ngoại Giao sau khi BS Trần-Văn-Đỗ từ chức, nhưng LS Tuyên đã khước từ vì quan niệm rằng mình không thể hợp tác với một quan lại của triều-đình Huế mà lại truất phế vua. 
Trong những năm 1955-58, , ông bị công-an bắt cóc đôi ba lần.
Tháng 4.1959, LS Tuyên cùng với 17 nhà chính trị độc-lập nổi tiếng của miền Nam như các ông Lê-Ngọc-Chân, Trần-Văn-Đỗ, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Phan Khắc-Sửu, Nguyễn-Bảo-Toàn, Trần-Văn-Văn, Nguyễn Lưu Viên họp tại khách sạn Caravelle, Saigon thành lập nhóm Tự-Do Tiến-Bộ  và thảo ra một văn thư gửi cho Tổng-Thống Ngô-Đình-Diệm để kêu gọi ông dân-chủ hóa guồng máy chính-trị của miền Nam, thừa nhận đối lập, tôn-trọng dân quyền Vì lý do đó, sau vụ đảo chánh hụt của Đại-Tá Nhẩy Dù Nguyễn-Chánh-Thi vào ngày 11.11.1960, LS Trần-Văn-Tuyên và nhóm Tự-Do Tiến-Bộ bị nghi ngờ dính líu vào vụ đảo chánh và bị bắt giam. Một số bị đưa ra Côn Đảo, trong đó có cụ Phan-Khắc-Sửu,  LS Tuyên
Sau 1975, ông bị cộng sản bắt giam. Trong ngục, ông vẫn bình thản giữ vững khí cao cả không chịu khuất phục trước bạo lực cộng sản.. Hơn một năm sau khi ở tù cộng sản,  chính trị gia quốc gia, nhà văn hóa,Luật sư Trần Văn Tuyên ngã gục trong trại tù tập trung Hà Sơn Bình, hai ngày sau thì từ trần., thọ 63 tuổi.
Trong đời ông từ các hoạt động chống Pháp, chống Ngô Đình Diệm đã cho thấy ông là một người quốc gia chân chính. Cái chết của ông cũng cho thấy ông là một người bất khuất, không đầu hàng cộng sản.

II. CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ CỦA LS, TRẦN VĂN TUYÊN

1.PHÓ THỦ TƯỚNG TRẦN VĂN TUYÊN  VÀ VIỆC MỸ ĐEM QUÂN VÀO VIỆT NAM

  Năm 1965, LS Trần Văn Tuyên ra nhận chức Phó Thủ tướng cũng là lúc tình trạng chính trị và quân sự Việt Nam lâm vào hỗn loạn. Lúc ông lên nhận vai nặng chính trị cũng là lúc quân Mỹ đổ bộ vào Đà Nẳng mà không hề xin phép chính phủ.  LS Tuyên và Thủ-Tướng Phan Huy Quát chủ trương chống lại việc mang quân Mỹ vào Việt-Nam nên chỉ sau 4 tháng cầm quyền, nội các Phan-Huy-Quát bị phe quân nhân của Tướng Nguyễn-Văn-Thiệu, với hậu thuẫn của Hoa-Kỳ, lật đổ vào tháng 6.1965 (1)

Đây là một tình trạng vô cùng tế nhị.. Bác sĩ Phan Huy Quát và LS Trần Văn Tuyên đứng trước tình trạng khó xử, Có phải hai ông chủ trương chống lại việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam,? Phải chăng vì thế  mà Mỹ tìm cách lật đổ chính phủ Phan  Huy Quát để đưa Nguyễn Văn Thiệu lên.? Dù ông không chống Mỹ, các phe phái trong quân đội và các tôn giáo Việt Nam cũng muốn loại trừ ông.  Có thể bọn gian điệp bên cạnh Thiên chúa giáo muốn đưa Thiệu lên để dễ khuynh loát. Việc rõ rệt là sau đó Nguyễn Van Thiệu lên, bên cạnh Thiệu lại có rất đông cụm tình A 22 trong dinh Độc lập.

Chúng tôi có những nhận xét sau:
+1. Trước tình hình khó khăn như vậy, mà hai ông Phan Huy Quát và Trần Văn Tuyên hành động quá thật thà thẳng thắn chứ không mánh  lới khôn lanh như cộng sản . Hai ông chống đối chứng tỏ hai ông yêu nước chứ không cúi đầu bán nước như cộng sản, Tuy nhiên, yêu nước cũng cần sự khôn ngoan của nhà chính trị. Cổ nhân đã nói:" răng cứng thì gãy, lưỡi mềm thì còn"

+2.  Quân Mỹ đổ bộ ngày 8-3-1965. Ngày 16.2.1965 Hội Đồng Quân Lực sau hai lần đổi tên là Hội Đồng Quân Nhân và Hội Đồng Quân Đội, ra tuyên cáo lãnh trọng trách tuyên nhiệm  chỉ định thủ tướng, thành lập Hội Đồng Quân Dân và triệu tập Quốc Dân Đại Hội ngày 27.6.1965. Hội Đồng Quân Lực đã bổ nhiệm chính trị gia Phan Khắc Sửu làm quốc trưởng và chính trị gia Bác Sĩ Phan Huy Quát làm thủ tướng. Như vậy, quân Mỹ đổ bộ trước khi chính phủ Phan Huy Quát thành lập.  Trong trường hợp này, chính phủ Phan Huy Quát không chịu trách nhiệm, nên im lặng hoặc xử sự khôn khéo, mềm dẽo. Nếu Mỹ đổ quân sau khi hai ông lập chính phủ, và nếu hai ông bất bình thì hai ông có thể từ chức. Trong trường hợp này chính là hai ông đã đầu hàng, đã bỏ cuộc , và chứng tỏ là những nhà chính trị bất tài.

+3. Quân Mỹ đổ bộ trước khi Bác sĩ Phan Huy Quát lập chính phủ, hai ông  phải biết việc này. Nếu thấy bất lợi cho tổ quốc và bản thân thì BS Quát và LS Tuyên không nên ra lập chính phủ.  Các ông chỉ có ba đường, Một là im lặng  mà tìm kế sách. Hai là theo cộng sản chống Mỹ cứu nước, ba là hai ông nên làm những ẩn sĩ thời loạn. Các ông có tinh thần quốc gia, không theo cộng sản mà thấy bất lực trước thời cuộc, tốt nhất là nên ẩn dật.
+4. Có thể việc Mỹ đổ bộ đã được hội đồng quân lực đồng ý, nếu không công khai thì cũng được sự thỏa thuận ngầm của ai đó trong hội đồng quân lực. Trên thực tế, Người Mỹ đã can thiệp vào Việt Nam . Sau 1954, người Mỹ đã thay thế Pháp, đã  đưa ông Diệm về,  lập ông Diệm làm  Tổng Thống,  ông Diệm chắc cũng ký kết gì với Mỹ để nhận viện  trợ Mỹ, nhận hàng ngàn cố vấn Mỹ vào Việt Nam. Chính sau 1954, Cộng sản đã lớn tiếng tố cáo Mỹ xâm lược Việt Nam, và cũng từ lâu, cộng sản đã kết tội Bảo Đại, Diệm và các ông chính trị gia  miền Nam là tay sai Pháp , Mỹ...Thực tế, VNCH đã là đồng minh của Mỹ, đã nhận sự viện trợ quân sự của Mỹ. Sau, ông Diệm từ chối việc Mỹ đổ quân   (?)---có thật vậy không hay chỉ là sự khoa trương bịa đặt  của bọn bộ hạ ông?---- nếu quả thực thì đó là vì ông đã thay lòng đổi dạ.
+5. .Mỹ khác  Trung Cộng.  Từ trước đấy nay chưa từng thấy Mỹ thực dân, chiếm đất. Trung Cộng có mục đích xâm lăng thế giới., là một loại đế quốc thực dân, đã xâm lăng Tây Tạng, Mông Cổ, chiếm hải đảo và đất Việt Nam, đồng thời muốn chiến toàn biển Đông khi họ vẽ bản đồ lưỡi bò. Mỹ hành quân ở đâu cũng chỉ ngắn hạn. Đồng minh của Mỹ thì trở thành con rồng, còn nô lệ Trung Cộng thì thành dun dế. Hai đường đó, lúc đó chúng ta phải chọn một.
(6). Việc Mỹ đổ quân là cần thiết.  Người Mỹ đã lầm lẫn khi chọn Ngô Đình Diệm vì họ nghĩ rằng Thiên Chúa giáo chống cộng,  CIA và bộ tham mưu của toà Bạch Ốc rất đông nhân tài nhưng họ tỏ ra kém cỏi  khi  họ không biết rằng Vatican đã bắt tay với cộng sản. Gia đình ông Diệm và các cha như Hoàng Quỳnh , giám mục Ngô Đình Thục từ đầu đã chủ trương diệt chính phủ miền Nam. Mỹ phải ra tay vì sợ  Miền Nam rơi vào tay cộng sản bởi vì một thế lực hùng hậu nhất đang áp đảo miền Nam và lực lượng Mỹ. Đó là thế lực Vatican  .Lê Xuân Nhuận viết:

Trên bàn cờ thời-sự Miền Nam Việt-Nam, vào giai-đoạn cuối-cùng của lịch-sử Việt-Nam Cộng-Hòa, chỉ còn có một ván cờ mới―chung-kết và chung-quyết:
Đối-thủ chính bên phía đối-lập với Chính-Quyền là các Nhóm “Giáo-Dân Tranh Đấu”, do đại-khối hơn 300 linh-mục trong “Phong Trào Chống Tham Nhũng” và cả đám linh-mục cộng-sản nằm vùng, tay sai và thân-Cộng, “lãnh-đạo tinh-thần” Kitô-Giáo Việt-Nam, đứng ra thao-túng tình-hình.
Ở trên đầu và sau lưng họ là Tòa Thánh La-Mã với đích-thân Giáo-Hoàng Phaolô VI cùng với hàng chục quốc-gia chư-hầu của Vương-Quốc Vatican.
Thế đánh cạn-tàu ráo-máng của nội-thù đã chiếu bí Tổng-Thống Nguyễn Văn Thiệu, trực-tiếp mở đường cho ngoại-địch hạ gục đối-thủ trong nước cờ kết-thúc giữa Bắc-Việt Xâm-Lược với Việt-Nam Cộng-Hòa.
(2)

Việc họ Ngô cùng bọn thủ hạ và các giám mục, linh mục Thiên chúa giáo mang danh nghĩa chống cộng nhưng bên trong bắt tay với cộng sản từ lâu, it nhất là từ 1956. Nhiều báo chí và sử sách đã đề cập việc này:

+1. Việc Ngô Đình Cẩn bán gạo cho cộng sản năm 1956 (3) (4) (5)
+2.Việc Ngô Đình Thục đưa người vào dinh Độc Lập. Việc tướng Nguyễn Chính Thi khám phá đường dây cộng sản với triều đình họ Ngô, việc họ Ngô tiếp tế thuốc men, lương thực cho cộng sản  như hàng đống thuốc tây của các dược phòng bộ hạ Ngô Đình như bọn Trang Hai, La Thành... .(6)
+3. Cụm A 22 trong Dinh Độc Lập .Nhiều tài liệu cho biết Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nha, Phạm Ngọc Thảo và các điệp viện cộng sản đều ở dưới trướng của Giám mục Lê Hữu Từ, được Hoàng Quỳnh can thiệp và được các linh mục nuôi dưỡng, che giấu. Riêng Vũ Ngọc Nhạ được tòa thánh Vatican biểu dương (7) (8) (9)(10)(11)(12).


Như các chú thích trên đây chứng tỏ việc này nhiều người biết chứ không phải một ai tung tin vịt để làm mất uy tín Vatican và nhà Ngô. Việc biểu dương này chứng tỏ  Vatican không hề che đậy. Việc khen thưởng này  chứng tỏ Nhu Diệm và các hàng  giáo phẩm Việt Nam  đã vâng lệnh Giáo hòang mà phản bội tổ quốc Việt Nam và đồng minh Mỹ  mà bắt tay với cộng sản. Đó là một bằng chứng hiển nhiên không thể bảo ràng người ta vu cho Diêm Nhu bắt tay với cộng sản, và cũng không thể bảo người ta vu vạ cho đức Thánh Cha yêu quý Satan! Ôi! Đức Thánh Cha, các giám mục, linh mục Việt Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm đã bán linh hồn cho quỷ. Chúng ta biết trách ai? Than van với ai? Đổ tội cho ai?

+4. Diệm Nhu đã thả các yếu nhân cộng sản đã bị An Ninh hoặc Quân Đội ta bắt đuợc. Đó là vụ Nguyễn Trân bày cuộc đấu lý để thả Trần Bạch Đằng (13), và Diệm Nhu thả Lê Duẩn.(14)(15)
 An Ninh và Quân đội ta hành quân bắt được nhiều cán bộ cộng sản cao cấp nhưng NGô Đình Diệm ra lệnh thả.  Ngô Đình Diệm bày ra vụ Nguyễn Trân đấu lý với cộng sản rồi thả ra.Trong số này có Trần Bạch Đằng. Ai đời ông Tỉnh trưởng lại đấu lý với tù nhân rồi tự tiện thả ra? Làm quận trưởng, tỉnh trưởng phải biết đó  tội chết. Nguyễn Trân làm việc này là do lệnh Nhu Diệm. Hai ông Diệm Nhu muốn bắt tay với Việt Cộng nên thả Việt Cộng gộc ra nên bày ra trò đấu lý. Người ta bảo rằng ông Nhu và bà Nhu kiêu căng xem thiên hạ dưới gót chân, chỉ có hai ông bà là đỉnh cao trí tuệ của Việt Nam Cộng Hòa. Phải rồi, xung quanh hai ông toàn là bọn tôi tớ nhà Ngô, bọn hầu hạ cha cố vâng dạ quen nết, thành thử có ai dám có ý kiến khác đâu!

 Người ta cũng bảo ông Nhu muốn trí tuệ lên đỉnh cao nên đã dùng vị nồng của ả phù dung. Trong cơn say, ông mới nảy sinh ra diệu kế, nhưng than ôi, cái trò này che mắt đưọc ai! Ông Cao Thế Dung nhận xét  về Ngô Đình Diệm như sau : Ông  Diệm khắt khe tàn ác với người quốc gia nhưng rộng lượng với kẻ thù.
Không phải thế đâu!Ông Diệm không khoan dung  , hai ông Diệm Nhu muốn tỏ lòng trung thành với Hồ Chí Minh, nhất tâm theo ngọn cờ đỏ sao vàng!Hành động này cũng là hành động của Nguyễn Văn Thiệu nuôi con Trương Như Tảng.
+5.Diệm Nhu và bọn cộng sản đã tiết lộ bí mật quân sự, hoặc thay đổi các kế hoạch hành quân để cứu cộng sản. Tài liệu Đỗ Trọng ghi lại Hồi Ký Huỳnh văn Cao:
 Tướng Huỳnh Văn Cao còn cho biết cả Đại tướng Harkins cũng nghi ngờ TT Diệm. Bởi vì cuộc hành quân nào của QLVNCH sắp mở ra mà báo cho Tổng Thống phủ thì VC đều biết trước! Cho thấy người Mỹ, CIA đã biết và theo dõi bám sát ông Ngô Đình Nhu từ lâu. Và người Mỹ nhiều lần đòi Tổng Thống Diệm loại trừ ông Nhu. Các tướng lãnh cũng đòi loại trừ ông Nhu nhưng ông Diệm cương quyết giữ ông Nhu!  (16).
Huỳnh Văn Cao cũng nói đến kế hoạch hành quân của ông bị thay đổi : "Sau khi tôi rời Bộ Tổng Tham Mưu thì kế hoạch laị hoàn toàn đổi mới. Bộ Tổng Tham Mưu cho một lực lượng nhảy Dù gồm 2 đại đội, có một bộ phận chỉ huy, sắp xếp như vậy thì ĐÚNG sách vở, mà KHÔNG ĐÚNG với thực tế chiến trường. Chờ cho máy bay chuẩn bị đầy đủ để chở một lực lượng Nhảy Dù thì gần hết ngày, thả quân Dù xuống mặt trận thì trời sắp tối, và khi máy bay thả Dù xong thì trời tối om. Có số nhảy xuống đúng DZ, nhưng chỉ để nằm tại chỗ qua đêm, có số mắc tòn ten trên cây (Một kiếp người 19) (17).

+6.Việc rõ rệt là sau 1963, các giám mục, linh mục, trí thức Thiên chúa giáo nổi lên chống Thiệu tham nhũng, đòi hòa bình, chống Mỹ xâm lược cụ thể như linh mục Trần Hữu Thanh, bà Nguyễn Thị Thanh dấy lên việc chống Thiệu tham nhũng, các báo chí như Đại Dân Tộc, Tin Sáng, Điện Tín,  nhà xuất bản Trình Bày. Như vậy, trong lúc này, Do Thái, Mỹ phản chiến , Mỹ diều hâu, Cộng sản,  một số Thiên Chúa giáo, một số Phật giáo muốn  chấm dứt chiến tranh, muốn kết thúc VNCH. Trong một lúc, nhiều kẻ muốn giết VNCH, nào phải riêng ai! Chính phủ và nhân dân Miền Nam phải lâm vào cảnh "tứ diện thụ địch", dù Khổng Minh tái thế cũng phải bó tay!
+7. Từ khi Ngô Đình Diệm băt tay với cộng sản, họ đã đâm sau lưng quân dân ta, nuôi cộng sản trong dinh Độc lập, phá hoại các cuộc hành quân của quân ta, cho nên quân sự ta suy yếu. Việc này cũng làm cho tinh thần quân sĩ xuống thấp. Việc Ngô Đình Diệm điều đình với cộng sản cũng giống như việc Từ Hải đầu hàng làm cho quân tình bê trễ:
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh.
Tin lời thành hạ yêu minh,
Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.
2505. Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,
Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư.
Hồ công quyết kế thừa cơ,
Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công. 
+8.Tình hình chính trị và quân sự miền nam  rất thê thảm. Trong ba năm sau 1963  có sáu cuộc đảo chánh. Cộng quân  nhân lúc này tấn công khắp nơi, sự tồn tại của  Miền Nam tự do như treo sợi chỉ mành!
Vì những lý do trên, Mỹ phải vào Việt Nam gấp.Ngoài ra, đã đến lúc Mỹ tiến hành hòa đàm. Từ 1950, Tổng Thống Mỹ đã muốn hòa bình nhưng phía Liên Xô, Trung Cộng thấy thế thì làm cao. Cho đến khi Khrushchev tố cáo tội ác Stalin, đưa ra chủ trương xét lại, mở ra lý thuyết hòa bình, tư bản cộng sản cộng tác, Mỹ mới đẩy mạnh việc sống chung. Người Mỹ cũng hiểu tư tưởng Lão Tử:" Muốn tiến phải lùi, muốn lùi phải tiến." Người Mỹ cũng áp dụng chính sách "đả đả đàm đàm". Muốn hòa bình, người Mỹ phải tiến hành chiến tranh, phải đem quân vào Việt Nam. Người Mỹ chỉ gây áp lực, và đây là một cuộc chiến không cần thắng lợi là như thế.

 Mục đich này là  tấn công hòa bình không phải xâm lược như Trung Cộng. Đây là một kế hoạch toàn cầu, sửa soạn cho không thành kế. Họ không bỏ rơi Việt Nam một mình xoay xở, muốn ra sao thì ra mà muốn Việt Nam cũng thực hiện không thành kế, nghĩa là  để cho cộng sản chiếm thành, toàn quân rút lui.không một ai  ở lại hoạt động, không một ai có thể  chống đối cộng sản bằng vũ lực. Phải để cho Việt cộng và Trung cộng say men chiến thắng, an hưởng hòa bình và làm giàu .Trung Cộng, Việt Cộng càng tự cao, tự đại, càng phách lối, càng hung hãn thì Mỹ càng mừng vui. Muốn hạ Quan Vũ, Lục Tốn phải làm cho Quan Vũ kiêu căng, khinh thường.

 Không phải các tướng lãnh VNCH không biết kế hoạch này, họ biết Mỹ sẽ rút lui. Họ đau đớn lắm và cố gắng tìm phương giải cứu Miền Nam và số phận họ. . Vì vậy mà các tướng Đôn ,Đính, Kim, Xuân đã lập nên Ngân Hàng Quân Đội để có sức chống cộng sau khi Mỹ rút lui. Nhưng Mỹ đã phá kế hoạch này, đã đập tan Ngân Hàng Quân Đội. Mỹ cũng ra lệnh cho ông Thiệu tịch thu vũ khí Hòa Hảo. Mỹ đã  đich thân đến các nơi ra lệnh binh sĩ ta phải bắn hết đạn và hứa sẽ có đạn mới (18). Nhưng đạn mới đó là đạn AK Tiệp Khắc từ Bắc vào Nam.  Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Mai Văn Hạnh... cũng phải tiêu tùng trong kế không thành này.  Ai vi phạm  lệnh không thành là  bị diệt vong.


Vì những lý do trên mà quân Mỹ phải nhảy vào Việt Nam nếu không thì quân Cộng sản đã chiếm Miền Nam do hai anh em Diệm Nhu  và cha cố dâng cho Bắc Việt . Mỹ can thiệp chính trị vào miền Nam  từ 1954, Mỹ  đem quân vào miền Nam năm 1965, đến 1975 thì rút lui. Tổng cộng 20 năm họ đã cứu Miền Nam sống thêm 20 năm, nếu không sau 1954, dân dân Miền Nam đã nếm mùi Cộng sản chứ không phải đợi 1975.
Cuộc cờ như thế, tình hình quân sự, chính trị từ 1962 cho đến  1965  như thế mà Phó Thủ tướng Trần Văn Tuyên không biết sao? Một khi cán bộ cộng sản đã vào Dinh Độc Lập, quân tốt đã nhập cung trung thì ván bài coi như thualà chuyện tất yếu. Lẽ nào LS Trần Văn Tuyên không nghĩ đến việc này?
1. Một số người cho rằng nếu ông Diêm còn sống thì Miền Nam không mất vào tay cộng sản.
Điều này sai lầm vì khi ông Diệm bắt tay cộng sản  nghĩa là đầu hàng cộng sản. Bắt tay với kẻ mạnh thì chỉ là một cách đầu hàng.

2.Một số ca ngợi đường lối hòa bình của ông Diệm là tuyệt vời khi chủ trương nhận tiền Pháp, Trung Quốc lại nhận viện trợ Mỹ! Sao mà ý kiến trẻ con thế? Mỹ ngu dại gì  mà chi tiền cho bọn phản bội ư? Họ làm việc này mà qua mặt  được Mỹ hay sao? Cái trò này chỉ là trò của các ả bán phấn buôn hương" đưa người cửa trước rước người cửa sau" hai ông Diệm Nhu và Đức Giáo hoàng tối cao lại chấp nhận  giải pháp này? Người bênh vực họ Ngô chỉ làm xấu danh họ Ngô mà thôi! Những ý kiến đó cho biết tác giả là người ngu trung, nông cạn và vô đạo đừc vì chuyên nghĩ việc lường gạt, dối trá!

3.  Có người cho rằng ông Nhu không theo cộng sản đâu, ông yêu nước, ông chỉ dùng chút thuật mọn để làm Mỹ quy phục. Ôi! Cái kế này rất nguy hiểm. Một phụ nữ giả đò âu yếm với người khác để kích động người yêu. Có thể đối phương quay trở lại, có thể đối phương bỏ đi luôn, có thể cô nhận được mũi dao nhọn. Cái trò ngoại tình có kết quả tai hại. Nhẹ thì ly dị, nặng thì có thể ăn dao, ăn đạn banh xác!

4. Những ai mơ tưởng hòa bình, mong hòa hợp hòa giải dân tộc có lẽ đã sáng mắt sau 1975. Vatican,   Ngô Đình Diệm đã bắt tay với cộng sản, mà Mỹ cũng đã ký kết hiệp định Paris 1973 với cộng sản, Hành động giống nhau, không lẽ Vatican ký kết với cộng sản thì tốt hơn là Mỹ? Nếu hòa bình 1975 là một đau khổ cho Việt Nam thì hòa bình do Vatican và Diệm Nhu ký kết có sáng sủa hơn chăng? Ai tin rằng Vatican và Diệm Nhu giỏi hơn Mỹ, và Việt Cộng sẽ tuân thủ những ký kết với Diêm Nhu và Vatican?

Nếu Diệm Nhu và Vatican mà ký kết với cộng sản thì cũng một kết quả.  Chỉ có mục đich Mỹ và mục đich Vatican khác nhau. Khác nhau như thế nào? Không mấy ai biết rõ! Có thể Mỹ có mục đich chiến lược, còn Vatican có thể là lợi.  Lợi gì?  Sau 1975, hòa bình trở lại, họ có lơi gì? Có được cái lợi như họ mong muốn không? Thực tế 1975 cho thấy hòa bình đã đến nhưng nhân dân thêm đau khổ vì đói khổ, tù đày, chết chóc, vì bọn cộng sản cướp nhà cướp đất và bán nước cho Trung Cộng. Sau 1975, Thiên Chúa giáo có khá hơn Phật giáo, Tin Lành hay Cao Đài chăng?

Thực tế trước mắt, người cộng sản đã hạ thủ Ngô Đình Diệm, đã giết con gà con khi chưa nở trứng. Cộng sản đã sống và tôi luyện trong ý thức giai cấp và đẳng cấp. Trong Về R, Kim Nhật cho biết khi bọn cộng sản cao cấp đưa Nguyễn Hữu Thọ lên làm chủ tịch MTGPMN, bọn binh sĩ và cần vụ hết sức tức giận vì họ là những chiến sĩ vô sản, giai cấp lãnh đạo, giai cấp tiên phong lại bưng cơm rót nước cho một tên ngụy, một tên trí thức, một tên phản động. Bọn cán bộ cao cấp khuyên giải bọn đó là các đồng chí phải tuân lệnh đảng vì lợi ich của đảng,  đảng đang lợi dụng những tên này một thời gian. Sau này , để vỗ về lòng đảng viên, bọn lãnh đạo đem Nguyễn Hữu Thọ vào đảng.

Trương Như Tảng thuật lại trong Hồi Ký của y rằng y ra Hà Nội tham dự một buổi lễ, Trường Chinh hỏi:" Ông là ai mà tôi không được biết?" .Câu hỏi đơn giản và bình thường nhưng chứa đựng bao ý nghĩa. Trường Chinh muốn nói cho Trương Như Tảng biết rằng "Đây là chỗ vinh dự cho các đảng viên cộng sản có thành tích. Mày là thằng chó chết nào mà dám ngồi vào chỗ này?"

Trương Như Tảng nghe lạnh mình:"Liệu mà cao chạy xa bay,/ Ái ân với cộng chỉ ngần này mà  thôi!" 
Thế là Trương Như Tảng chuồn gấp! Dù Ngô Đình Diệm muốn đàu hàng, bọn cộng sản không thể chấp nhận. Họ  vào sinh ra tử bao nhiêu năm mà chẳng được ân huệ bao nhiêu. Còn Ngô Đình Diệm  thuộc diện quan lại phong kiến, tay sai thực dân đế quốc,  kẻ thù có nợ máu với nhân dân, nay bỗng chốc trở thành Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Phó chủ tịch Quốc Hội hay Cố vấn tối cao ? Làm sao giai cấp vô sản  có thể chấp nhận được một tên đại phản động lại có thể ngồi cạnh Hồ Chủ tịch kính yêu?

5. Một số cho rằng ông Diệm chống cộng, yêu nước  nhưng thực tế ông Diệm và bè lũ phản dân tộc Việt Nam, phản bạn đồng minh.  Trên kia đã nói việc Giáo hoàng Phao Lồ VI trao giải thưởng Hòa Bình cho Vũ Ngọc Nhạ là một minh chứng cho biết từ giáo hoàng xuống hàng giáo phẩm và NGô Đình Điệm đã theo đuổi việc bắt tay với cộng sản. Nay xin dẫn chứng thêm về sự kiện này. Nhiều tài liệu cho biết việc này:
+1. "Không phải tự-nhiên mà tờ tuần-báo Newsweek nổi tiếng của Hoa Kỳ vào ngày 24 tháng 12 năm 2001 bỗng đăng một bài tổng-kết tình-hình hoạt-động cuả CIA ở Đông Nam Á, và chú lên trên bức ảnh cuả cố Tổng-Thống Ngô Đình Diệm một câu như sau:
“1963: The Kennedy administration begins to see South Vietnamese President Ngo Dinh Diem as a communist tool and decides that “Diem must go.” The CIA engineers coup attempts that eventually lead to his assassination in November.” (1963: Chính-quyền Kennedy bắt đầu thấy rõ Tổng Thống Ngô Đình Diệm cuả Nam Việt-Nam là một công-cụ cuả cộng-sản và quyết định rằng “Diệm phải ra đi.” Cơ-quan CIA thiết kế các mưu toan đảo chánh rốt cuộc đưa đến việc ám sát ông ta trong tháng 11.”
+2.   Theo tiến-sĩ Lâm Lễ Trinh, cựu Bộ-Trưởng Bộ Nội-Vụ dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Hòa, trong bài “Mạn Đàm với cựu Đổng-Lý (Văn-Phòng Tổng-Thống Ngô Đình Diệm) Quách Tòng Đức” thì:

“Ông Ngô Ðình Nhu đã tìm cách thương-lượng với Bắc Việt để loại ảnh-hưởng của Hoa Kỳ. Ông Nhu đã mời Manelli, Trưởng Phái-Đoàn Ba Lan trong Ủy-Hội Quốc-Tế Kiểm-Soát Đình-Chiến để nhờ liên-lạc với Hà Nội qua Ðại-Sứ Pháp là Roger Lalouette đưa đề-nghị mở cuộc tiếp-xúc giữa 2 bên. Bắc Việt chấp-nhận ngay. Ông Nhu giả vờ đi săn với ông Cao Xuân Vĩ ở Cao Nguyên rồi nửa đường rẻ xuống vùng Tánh Linh ở Phước Tuy để gặp đại-diện của Bắc Việt. Cụ Cao Xuân Vĩ đã xác-nhận điều này. Trong cuộc gặp-gỡ, 2 bên đồng ý tái-lập trước tiên về liên-lạc bưu-điện và sau đó về giao-thương để tiến tới thống-nhất đất nước trong hòa-bình. Sau cuộc tiếp-xúc đó, ông Nhu cố ý tiết-lộ nội-dung cuộc tiếp-xúc cho báo-chí biết để ngầm thông-báo cho Washington.
Ông Quách Tòng Đức xác-nhận là “chính ông Nhu có đề-cập đến chuyện này trong vài phiên nhóm với tướng-lãnh tại Bộ Quốc-phòng và ngày 23.7.1963 tại suối Lồ Ồ khi nóí chuyện với các cán-bộ xây-dựng Ấp Chiến lược khoá 13.”
Một nguồn tin khác cho biết ông Nhu xử dụng trung gian cuả bốn đại sứ: Roger Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ý), Goburdhun (Ấn Độ) và Manelli (Ba Lan), (hai ông sau là thành viên của Ủy ban Quốc tế kiểm soát đình chiến) cũng như Tổng lãnh sự Pháp ở Bắc Việt Jacques de Buzon, để liên lạc với Hànội. Ông QTĐ nói có nghe dư luận này nhưng không biết rỏ chi tiết.
Ông cũng có nghe xầm xì rằng ông Nhu đã gặp một đại diện Văn phòng Chính trị CS (Phạm Hùng?) trong lần đi săn tại Quận Tánh Linh, Bình Tuy.
Song song với sự tiết-lộ của ông Nhu, Tổng-Thống Pháp De Gaulle lên tiếng kêu gọi loại bỏ “ảnh-hưởng ngoại-quốc” ra khỏi VN, còn Hồ Chí Minh lên tiếng nói rằng “một cuộc ngưng bắn có thể được 2 bên thỏa-thuận.”
Ông Nhu đã hội kiến với Maneli lần đầu vào ngày 25/8/63 tại Bộ Ngoại giao VNCH và kế đó là vào ngày 2/9/63 tại phòng đọc sách của ông (“War of the Vanquished”, Mieczyslaw Maneli).
Ông Quách Tòng Đức xác-nhận: một Tết Nguyên-Đán trước 1963, một cành đào đỏ lộng-lẫy được trưng-bày nơi phòng khánh-tiết Dinh Độc-lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tịch Nhà nước Cọng hoà Xã hội Miền Bắc”. Ông Đức kết-luận: “hành-động độc-lập (không cho Mỹ biết) của ông Nhu đã làm Washington tức-giận hơn. TT Kennedy bật đèn xanh cho Lodge tiến-hành cuộc đảo-chánh nhanh chóng hơn.”(19).
Nhiều người thương tiếc Ngô Đình Diệm nên kết tội nhiều người.Nhưng những lời kết tội đó chỉ là phiến diện. Người giết gia đình ông Diệm chính là ông Diệm và gia đình ông. Ông Diệm giết hại nhiều dân, bắt buộc dân bỏ đạo là  trái với đức bác ái cùa chúa, và trái quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, ông giết hại nhiều người tài giỏi, yêu nước, gia đình ông Diệm giết người cuớp của, liên lạc với cộng sản, tiết lộ bí mật quân sư, nuôi dưỡng, che giấu kẻ thù, đó là những tội đáng xử tử.(20)  Ông Diệm đã đặt tay lên Thánh giá mà thề trước mặt vua Bảo Đại năm 1954, ông Diệm đã nói và mắc lời thề vào ngày 1-11-1963.
:"Tôi tiến, hãy theo tôi;
tôi lùi, hãy bắn tôi

 Chính các lời thề của ông đã giết ông. Đa số người Việt Nam sợ mắc lời thề, sợ phạm điều ác, sợ quả báo. Chính hai ông tư giết mình khi công khai mở cành đào tại Dinh Độc Lập trước mắt Đại sứ Mỹ. Đó là sự kiêu hãnh, lòng tự tìn thành công đã đến nơi. Nhưng đó là đầu óc ấu trĩ, dại dột của anh em nhà Ngô.
Làm sao chơi với cộng sản có sức mạnh nửa thế giới lại yêu ma quỷ quái? Ai tặng cành đào? Tên ghi là Hồ Chí Minh nhưng có thực là Hồ Chí Minh hay Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh hay  các quan Liên Xô, Trung Quốc? Người gửi cành đào là  người muốn nhờ  tay Mỹ giết Ngô Đình Diệm, để cho Trung Quốc, Pháp không thể đô hộ miền Nam. Cũng có thể người này cũng như Hồ Tôn Hiến giết Từ Hải, Ngô Đình Diệm giết Ba Cụt là muốn chém cho sướng tay,  muốn chiến thắng chứ không muốn kẻ thù đầu hàng!
Ngoài ra, chinh Giáo hoàng Phao lồ VI đã đẩy gia đình ông Diệm vào cửa tử.Và luật chơi không tha thứ kẻ phản bội.Chính trường là chiến trường, mắc lỗi lầm,  phạm  trọng tội là chết!

2. LS TRẦN VĂN TUYÊN,  KÝ GIẢ ĐI ĂN MÀY

Năm 1972 chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã cho áp dụng Sắc luật 007 với quy định số tiền phải ký quỹ rất lớn làm nhiều báo không có tiền ký đành đóng cửa. Theo điều luật này, tờ báo nào bị tịch thu lần thứ hai do có bài vi phạm an ninh quốc gia và trật tự công cộng thì sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn. Điều này được xem như dùng "bàn tay sắt" đối với giới báo chí. Nhiều tờ báo bị đóng cửa, chủ báo bị phạt, bị tịch thu tiền ký quỹ, một số người còn bị tù. nhiều người làm báo bị thất nghiệp. Trước tình hình đó, các nghiệp đoàn kí giả ở Sài Gòn đã tập hợp lại để phản kháng chính phủ.


 Dân biểu Trần Văn Tuyên, người bận com-lê đứng trước hàng dây thép gai, trong cuộc biểu tình “Ký giả đi Ăn Mày,” Sài Gòn năm 1974.



Trong cuộc  phản kháng luật báo chí, một số nhà văn, nhà báo, đã tổ chức đi ăn mày trong đó có LM Thanh Lãng, LS Trần Văn Tuyên,  soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà . Cuộc đi ăn mày là do đạo diễn ở đàng sau, có thể là cộng sản, là phản chiến Mỹ. Tại sao ông cũng cầm biểu ngữ đi ăn mày với bọn này? Chính trị là tương đối. Trong trường hợp chiến tranh, cộng sản phá hoại, một luật báo chí chặt chẽ là cần thiết. Dẫu sao miền Nam dù khắc nghiệt, tư nhân một số cũng được ra báo, còn trong chế độ cộng sản, tuyệt đối là không.

Sau 1975, cộng sản chiếm miền Nam, dẹp bỏ các báo chí, các chủ bút, nhà báo, các ký giả đều trở thành thất nghiệp, sao chẳng thấy các ông báo chí kéo nhau đi ăn mày? Các ông không đau khổ vì thất nghiệp mà còn dâng nhà cửa, tài sản cho cộng sản. Thế là ở đời "mềm nắn rắn buông", không ai ngay thẳng, chân thực. Ở với người hiền thì lấn lướt, còn gặp người dữ thì quỳ lụy!Than ôi các ông trí thức, chính trị gia miền Nam là thế!

Bùi Diễm dắt Bùi Tín vào quốc hội Mỹ, Bùi Tìn quảng cáo cho cái tự do ngôn luận của cộng sản khi ông nêu lên  tại VN có 8 ngàn tờ báo. nhưng ông Bùi Tín không nói rõ 8 ngàn tờ báo như Thanh Niên, Phụ Nữ, Quân Đội, Nhân Dân, Thể Thao, Công An Hà Nội, Công An Sai Gòn, Tuổi Trẻ,Tuổi Trẻ Cười, Tuổi Trẻ chủ nhật... đều là cơ quan ngôn luận của Cộng sản, tư nhân không có quyển ra báo. Đó là cái hơn của Miền Nam, Không nên  đòi hỏi tuyệt đối. Nước ta đang có chiến tranh , cộng sản hoành hành khắp nơi, một nhà chính trị phải biết tiến thoái, cương nhu, không thể áp dụng tự do của Âu Mỹ vào Việt Nam chiến tranh. Hạnh phúc là tương đối, tự do, dân chủ cũng tương đối. Chỉ có chút tự do, dân chủ hơn  cộng sản là  đã được.hạnh phúc rồi!

 Thực ra người ta làm quá đi mà thôi. LM Thanh Lãng, Nam Đình, Trần Tấn Quốc là những chủ báo, những tư sản không phải là ký giả thuần túy, dù thiên hạ chết đói đầy dường phố, các ông này vàng vẫn đầy rương, bạc triệu, bạc tỷ vẫn còn trong ngân hàng dễ gì chết đói.  Dù là ký giả thuần túy, dù là chủ bút có bị tù cũng có hạn định chứ không ngồi tù vô hạn như trong chế độ cộng sản. Dù là ký giả nghèo, thất nghiệp  cũng có thể sống hiên ngang ở Saigon, không làm việc này thì việc khác,  không bị cắt hộ khẩu, bị tuyệt thông như Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán Phùng Cung, Hữu Loan...

 Không lẽ người như LS Trần Văn Tuyên lại không biết cái thủ thuật của cộng sản và phản chiến Mỹ hay sao? Nếu ông biết thì làm sao ông có thể đứng cùng hàng với Thanh Lãng, Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung, Lý Chánh Trung, Trần Hữu Thanh, Nguyễn Thị Thanh là những kẻ hoạt đầu ? Ngay cả LS cũng không phải là ký giả. LS nghe lời chúng, đi theo chúng để che chắn cho chúng mà thôi! LS là nhà chính trị lão thành, đã sống ở đất Bắc, lẽ nào không rõ thủ đoạn của cộng sản mà còn trịnh trọng mặc áo vest, thắt cà vạt đi ăn mày? Sao các ông không mang bị gậy? Buồn cười quá! Bọn cộng sản gộc lúc đó ở Hà Nội chắc cũng không nhín được cười cho đám trí thức và chính trị gia miền Nam. Bởi vậy mà rất nhiều tay công sản  cực kỳ khinh miệt miền Nam: Bảo Đại ngu si, Nhu Diệm ngu si, Thiệu Kỳ ngốc nghếch,  Phạm Cộng Tắc ngờ nghệch, Huỳnh Giáo chủ u mê....Cái đám Thanh Lãng, Vũ Hoàng Chương, Phạm Văn Sơn, Doãn Quốc Sỹ , Nguyễn Văn Trung, Võ Phiến chỉ là hạng dun dế, tôm tép hèn mạt...

3.  LS TRẦN VĂN TUYÊN DÂN BIỂU QUỐC HỘI

Trong thời kỳ từ 1971, LS ra tranh cử ra tranh cử chức Dân-Biểu quận 3, Saigon, và  LS Tuyên đã  được bầu làm trưởng khối đối lập  Dân tộc Xã Hội. Ôi! Ông sao lại dễ  bị người ta lợi dụng danh nghĩa yêu nước của ông để che đậy hành vỉ phản quốc của  họ là bọn tay sai cộng sản?  Chung quanh ông toàn là lũ tay sai cộng sản mà ông không biết ư? Như thế là ông không sáng suốt, làm chính trị như ông kết quả là làm tay sai cho người , và bị người lợi dụng! Chúng tôi nghĩ rằng LS Trần Văn Tuyện là một cây đại thụ của cách mạng Việt Nam. Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương thì già cả lại bất tài. Nguyễn Tường Tam đã chết,  Hà Thúc Ký, Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Ngọc Huy không hoạt động hữu hiệu. Còn ông thì nhảy ra ứng cử dân biểu quốc hội làm bung xung cho cộng sản! Không biết nên cười hay nên khóc?  Ông là một trí thức, một luật sư, cũng là một chính trị gia từng trải chính trường, lẽ nào ông không biết cuộc thế của Việt Nam và thế giới lúc này? Người tráng sĩ nên biết xuất xử, không phải lúc nào cũng vung gươm mà phải biết có lúc phải nhẫn nhục, âm thầm dưới nguyệt mài gươm! Nếu vung gươm giết ruồi hay vác gươm đi hầu kẻ ác thì đâu phải là tráng sĩ?

Ông ra ứng cử để làm gì? Ông không biết người Mỹ muốn dựng ra một quốc hội dân chủ để rồi nhờ tay quốc hội này mà lấy cớ rút lui khỏi Việt Nam. Đáng lẽ trước tình thế như sóng vỡ bờ, chiếc thuyền lan nên tìm chỗ ẩn lánh, và những tráng sĩ, những đại thần toán như Khổng Minh cũng nên ẩn dật. Người như ông mà còn xuống đường làm ký giả ăn mày sao? Ông làm trưởng khối đối lập Hạ Viện cũng chỉ là quân cờ của cộng sản và Mỹ. Tại sao khối của ông lấy tên là Khối Xã Hội, đó cũng là một tín hiệu "Yêu XHCN" mà ông không hiểu sao? Trong khối Đối Lập của ông có nhiều sĩ quan, nhiều bác sĩ, nhiều nhà báo Việt Nam Cộng Hòa nhưng đa số là tay sai Việt Cộng lên tiếng đả kích Thiệu Kỳ để lập công.Một LS thông minh, một người quốc gia yêu nước, một chính trị gia từng trải, tạo sao ông lại chen vai thích cánh với bọn tay sai cộng sản?

 Hồi đó dân chúng nghe tên Ngô Công Đức, Kiều Mộng Thu,  Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung.....đều ghê tởm, căm ghét,  thế mà LS Trần Văn Tuyên có thể ngày đêm ngồi với chúng, quanh năm cười nói với chúng, đứng chung với bọn đó trong chiến tuyến Đối lập ư?  Diệm, Nhu, Thiệu Kỳ chẳng là gì cả nhưng đập chuột phải tránh làm bể đồ. Cái đáng trân quý và cần bảo vệ là miền Nam tự do, là chính thể Quốc gia của chúng ta. LS là nhà chính trị lão thành, là  nhân viên hành chánh cấp cao lẽ nào không hiểu cái tai họa của việc làm suy sụp chính trị, quân sự quốc gia?Đáng tiếc! Đáng hận!

 GS Trần ĐÌnh Ngọc cho biết:"Khối đối lập này gồm rất đông, tôi chỉ nhớ tên một số như Phan xuân Huy, Kiều mộng Thu, Nguyễn ngọc Nghĩa, Hồ văn Minh, Hồ ngọc Nhuận, Đinh văn Đệ (không vào Khối này nhưng bỏ phiếu y như Khối này), Hồ văn Kỳ Trân, Võ long Triều (chủ nhiệm báo Đại Dân tộc của Việt Gian CS), Lý trường Trân, Trần văn Thung, Nguyễn công Hoan, Hồ ngọc Cứ, (Dương văn Ba, Ngô công Đức đều CS nằm vùng, từ khóa I, thất cử khóa II, Ngô công Đức, chủ nhiệm báo CS Tin Sáng), Nguyễn văn Phước (2 người trùng tên), Lý quý Chung (chủ trương báo CS Điện Tín) , Nguyễn hữu Chung, Đoàn Mại, Nguyễn hữu Thời, Phan Thiệp, Nguyễn công Hoan, Trần văn Sơn v.v…


Đứng bên cạnh, bỏ phiếu hầu hết giống như Khối Đối lập này là Nhóm Dân biểu Quốc Gia Hạ Viện (DBQGHNV), đứng đầu là đại Việt gian CS (người Công Giáo, anh rể Ngô công Đức) Nguyễn văn Binh, cựu Quận trưởng Gò Vấp (đi đâu y cũng tự xưng là cháu Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, ông TGM này bây giờ lòi đuôi chồn ra là CS chính gốc nằm vùng! tôi không ngờ, hay là ông bị CS dùng ma thuật khống chế bởi đã vào tròng?)

Trưởng Nhóm Nguyễn văn Binh có các thành viên: Đỗ sinh Tứ (quá cố), Nguyễn văn Kim (Quảng Trị, quá cố), Nguyễn đức Cung, Nguyễn trọng Nho, Dương minh Kính, Trần văn Ân, Nguyễn minh Đăng, Đặng văn Tiếp (quá cố), Nguyễn văn Cử (phi công đã bỏ bom dinh Độc lập vì tư thù), Nguyễn tuấn Anh (bác sĩ). 
(21)


 
 Bọn họ chỉ là bọn phản bội, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản mà sau 1975 họ  không ở lại với cộng sản , lại sang Pháp, sang Mỹ. Đã không biết tội,  nay họ còn lên tiếng hòa hợp hòa giải, khen ngợi Nguyễn Chí Vịnh, khen ngợi 36 con giáp can đảm gửi thư lạy lục Cộng sản Việt Nam. Một số lên tiếng chống Thiệu Kỳ tham nhũng như linh mục Trần Hữu Thanh, bà Nguyễn Thị Thanh, LM Nguyễn NGọc Lan, Chân Tín , Lý Chánh Trung cũng chỉ là vì họ đã chạy theo thực dân Pháp, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu nay họ phải lên tiếng chống Thiệu để rửa tay, để nói rằng họ trong sạch, họ cũng theo cộng sản chống Thiệu Kỳ, xin cộng sản tha tội cho họ...

Trần Đình Ngọc nhận xét về ông :
 " Ngay từ đầu, tôi lấy làm lạ rằng ông Trần văn Tuyên, một người Quốc gia chân chính, một lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân đảng (VNQDĐ) tại sao lại chịu làm bung xung cho bọn Dân biểu Cộng sản (DBCS) nằm vùng (như đã kể trên) để đánh phá QLVNCH (22)

Ông có cơ hội đi ra ngoài mà cam tâm ở lại. Thành mất, tướng phải chết theo thành, Thuyền chìm, thuyền trưởng phải chết theo tàu. . Các tướng Việt Nam Cộng hòa như  Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 (1927-1975); Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn 4 (19??-1975 ); Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh (1933-1975); Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Ðoàn 7 Bộ Binh (1925-1975); Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Ðoàn 2 (1928-1975); Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn (1940-1975); Ðại Tá Ðặng Sĩ Vinh... là những cái chết oai hùng và trung liệt của tướng giữ thành, của thuyền trưởng khi thuyền đắm. Còn ông , tuy không làm tướng nhưng  là tổng thư ký VNQD đảng vị trí cũng cao, ông ở lại với các đồng chí của ông cũng là một con người can đảm và trung liệt. Tiếc thay! Thương thay!



CHÚ THÍCH
_______
(1).  Trần Quốc Khải-  Nhân ngày giỗ lần thứ 29, nhắc lại thân thế và sự nghiệp của nhà cách mạng Trần Văn Tuyên (1913 – 1976)   http://www.tinparis.net/chanhtri/vnqd_lsTuyen.html
(2). Lê Xuân Nhuận.Biến Loạn Miền Trung.  Xây Dựng CA, 2012, 483.
(3).Lê Xuân Nhuận, sđd, 236- 238
(4). Nguyễn Việt Nữ. LÃNH CHÚA NGÔ ĐÌNH CẨN ĐẦU CƠ GẠO ĐỂ TIẾP-TẾ CHO CỘNG-SẢN BẮC VIỆT LÚC NÀO?
http://anhthudatviet.blogspot.ca/2013/06/lanh-chua-ngo-inh-can-au-co-gao-e-tiep.html
Trong bài này, Nguyễn Việt Nữ viện dẫn:
+Liên Thành cũng “tưởng nhớ” Linh Mục Trần Hữu Thanh như vầy:

“Khắp nước Việt Nam từ Hà Nội dến Sài Gòn, nhiều người dã từng gặp gỡ, quen biết và làm việc chung với Linh Mục Trần Hữu Thanh qua nhiều giai doạn lịch sử của dất nước, nhất là từ 1945 dến 1975. Ngài là tiếng nói ngay thẳng trước những bất công của mọi chế dộ, là Tuyên úy Thanh niên Liên doàn Công Giáo Miền Trung (1945- 1946 dưới thời Việt Minh), chống tham nhũng (vụ gạo miền Trung) dưới thời TT Ngô Ðình Diệm, và Chủ Tịch Phong Trào Chống Tham Nhũng (1974 - 1975) dưới thời TT Nguyễn Văn Thiệu,-là tù nhân lương tâm dưới chế dộ Cộng Sản sau 30/4/1975, bị lưu dày ở miền Bắc...cho dến ngoài 90 tuổi, ngài vẫn sống trong tinh thần phục vụ...Từ năm 1979 dến 2001, bà con bạn bè của ngài khắp thế giới dã nghe tin ngài qua dời. Nhưng ngài vẫn còn sống cho dến ngày 24/10/2007 mới vĩnh viễn ra di về nước Chúa.”(Hết trích)

+Nguyễn Lý Tưởng - “Tưởng Nhớ LM GiuSe Trần Hữu Thanh” – 26/10/2007)
“... Thời ông Diệm, LM Trần Hữu Thanh là người chống ông Ngô Đình Cẩn ra mặt... vụ gạo Miền Trung là do LM Trần Hữu Thanh tố cáo... (Trích từ vi-thư gửi Lê Xuân Nhuận:)  Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng viết : Ông Cố-Vấn Ngô Đình Cẩn còn dính líu đến “vụ gạo Miền Trung” (đầu-cơ tích-trữ gạo, không phải chỉ để bán giá chợ đen, mà còn để tiếp-tế cho cộng-sản ngoài Bắc.
 (5).Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi. Văn Nghệ, CA, 1993,.406.
 (6).  Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam Một Trời Tâm Sự, Xuân Thu, CA, 1987, 47-51
(7).  Nguyễn Văn Thiệu đã thể theo ý kiến LM. Hoàng Quỳnh giao cho Vũ Ngọc Nhạ việc liên lạc giữa Thiệu và giáo dân....Tháng 6-1971, trong khi Vũ Ngọc Nhạ bi giam ở Côn Đảo, tòa thánbh Vatican và Phao lồ VI ban tặng bằng khen và huy chương "Vì Hòa Bình". Lê Xuân Nhuận, sđd, tr.44-45.
(8). Vũ Ngọc Nhạ len lỏi vào Công Giáo phía Linh Mục Hoàng Quỳnh; Nguyễn văn Lương, giáo viên tư thục ở Nam Ðịnh là kẻ đã móc nối Vũ Hạnh ( 1964 ) cùng Vũ Hạnh xuất bản tạp chí Tin Văn và sau bí mật cộng tác với Thế Nguyên, tạp chí Trình Bày. Cao Dao nối kết với Phạm Xuân Ẩn … Cao Thế Dung. “Việt Nam Ba Mươi Năm Máu Lửa.” . Hoa Kỳ năm 1991.
(9). Châu Xuân Nguyên. Cụm Tình Báo VC A.22 Trong Dinh Độc Lập.
https://chauxuannguyen.wordpress.com/2012/04/21/c%E1%BB%A5m-tinh-bao-vc-a-22-trong-dinh-d%E1%BB%99c-l%E1%BA%ADp/
 (10). Trúc Giang. Cụm tình báo chiến lược A.22 của VC ở Dinh Độc lập. Chuyển Luân.  -http://www.chuyenluan.net/index.php?option=com_content&view=article&id=6107:cum-tinh-bao-vc-o-dinh-doc-lap&catid=15:gopnhatcatda
. (11). NGUYỄN ĐỨC VINH - Vũ Ngọc Nhạ. -Báo An ninh thế giới- WIKIPEDIA
(12) Cả 4 người chủ chốt gồm: Nhạ, Trọng, Thúy, Hòe đều bị kêu án khổ sai chung thân, đày ra Côn Đảo. Ngoạn mục hơn nữa, ngày 23-6-1971, tại Roma có một đại lễ cầu nguyện cho những ân nhân của Giáo hoàng, Phêrô Vũ Ngọc Nhạ đã được ghi nhận "người con hiếu thảo của Chúa, vệ sĩ nhiều công đức của Giáo hội, ân nhân của Giáo hoàng Paul VI", được Đức Thánh Cha ban ơn chết lành, tặng bằng khen và huy chương của Giáo hoàng. Hai ngày sau, 25-6, một linh mục khâm sai của Vatican đã vào tận khám Chí Hòa trao tặng các phần thưởng cho Vũ Ngọc Nhạ.
Sự tưởng lệ của Giáo hoàng Paul VI đã giúp Vũ Ngọc Nhạ dù đang ngồi tù, uy tín vẫn tăng vùn vụt.
  Công tử Hà Đông-Ký giả Saigon.--http://hoanghaithuy.wordpress.com/2012/12/19/ky-gia-sai-gon/  )
 (13). Công tử Hà Đông, tài liệu trên.
 (14) Lý Tòng Bá. (Tạp chí Đông Phương, phát hành miền Đông Hoa Kỳ tháng 8 năm 2001, từ trang 36 đến trang 40)  là  người chỉ huy Sư Đoàn 7 của trận Ấp Bắc.Hành quân bắt được LÊ DUẨN nhưng cuối cùng được Diệm Nhu thả. (Đỗ Trọng trich trong Nhìn lại sự thật lịch sử 50 năm qua.Anh Em Diệm, Nhu Thỏa Hiệp Với CSBV.
(15). Huỳnh Văn Cao. Một Kiếp Người . tr.18-19.   Tác giả cũng nói đến việc Diệm Nhu thả Lê Duẩn. Đỗ Trọng trích lại. Nhìn lại sự thật lịch sử 50 năm qua.Anh Em Diệm, Nhu Thỏa Hiệp Với CSBV..http://daovang.free.fr/NhinLaiLichSu50NamQuaTTDiemVaCVNhuThoaHiepVoiCongSanBacViet.html
(16). Đỗ Trọng. tài liệu trên.
(17). Đỗ Trọng. Tài liệu trên.

(18).Phan Lạc Tiếp tố cáo người Mỹ đã sửa soạn sẵn, làm kiệt quệ khả năng tự vệ của miền Nam bởi vì trước đó, các cố vấn Mỹ đã bắt các đơn vị quân đội bắn hết đạn mà sau đó không tiếp đạn mới.
( Nỗi Nhớ, Mõ Làng . Hoa Kỳ 1995 137)
(19).Lê Xuân Nhuận.PHẢN-BỘI ĐỒNG-MINH.http://lexuannhuan.tripod.com/PhanDoMi.html
(20). Nguyễn Mạnh Quang, Việt Nam Đệ Nhất Cng Hòa Toàn Thư 1954-1963. tác giả xuất bản,
WA, 1998, 191-192.
(21). Trần Đình Ngọc.Người chiến sĩ Quốc Gia: Luật sưTrần văn Tuyên http://huongduongtxd.com/tranvantuyen3.pdf;
Trần Đình Ngọc. . SAU BỨC MÀN NHUNG HẠ NGHỊ VIỆN VIỆT NAM CỘNG HÒA .
http://saohomsaomai.wordpress.com/2013/04/22/but-xuan-tran-dinh-ngoc-sau-buc-man-nhung/
(22). Trần Đình Ngọc. tài liệu trên.
______
 Đề tài liên hệ
 SƠN TRUNG * DÂN TỘC VIỆT NAM HAI LẦN BỊ LƯỜNG GẠ...

TRẦN ĐÌNH NGỌC * NGƯỜI CHIẾN SĨ QUỐC GIA LS TRẦN VĂN TUYÊN

 

 NGƯỜI CHIẾN SĨ QUỐC GIA

Luật Sư Trần Văn Tuyên

Tôi không biết nhiều về LS Trần văn Tuyên, tôi giao du với ông cũng không nhiều vì ở trong Hạ Nghị Viện (HNV), chúng tôi phải họp hành tối ngày, thảo luận và biểu quyết các Dự luật do Hành pháp đệ qua hoặc làm các Luật mới theo nhu cầu của thời cuộc.
LS Trần văn Tuyên khi xưa đã là Thủ lãnh Luật sư đoàn, một lãnh tụ của Việt quốc (VNQDĐ), tính tình ông cởi mở, dễ chịu và là một khuôn mặt trí thức miền Nam lúc đó.
Khởi đầu, khi thành lập các Khối, ông Tuyên được bầu làm Trưởng Khối Dân tộc Xã Hội (Đối lập với Hành pháp, tức TT Nguyễn văn Thiệu, ngay cái tên đã ló mòi Cộng sản).
Sau này khi sinh hoạt, chúng tôi mới biết ra những người đứng đàng sau giật giây Khối Đối lập là một Nhóm Dân biểu Cộng sản nằm vùng (một số do Ấn Quang đưa vào bằng bầu cử) hoặc chưa phải là CS nhưng là thân Cộng, hoặc một đôi người không thích CS nhưng cũng không ưa ông Thiệu, không bỏ phiếu ủng hộ ông ta trong những Dự luật.
Khối đối lập này gồm rất đông, tôi chỉ nhớ tên một số như Phan xuân Huy, Kiều mộng Thu, Nguyễn ngọc Nghĩa, Hồ văn Minh, Hồ ngọc Nhuận, Đinh văn Đệ (không vào Khối này nhưng bỏ phiếu y như Khối này), Hồ văn Kỳ Trân, Võ long Triều (chủ nhiệm báo Đại Dân tộc của Việt Gian CS), Lý trường Trân, Trần văn Thung, Nguyễn công Hoan, Hồ ngọc Cứ, (Dương văn Ba, Ngô công Đức đều CS nằm vùng, từ khóa I, thất cử khóa II, Ngô công Đức, chủ nhiệm báo CS Tin Sáng), Nguyễn văn Phước (2 người trùng tên), Lý quý Chung (chủ trương báo CS Điện Tín) , Nguyễn hữu Chung, Đoàn Mại, Nguyễn hữu Thời, Phan Thiệp, Nguyễn công Hoan, Trần văn Sơn v.v…
Đứng bên cạnh, bỏ phiếu hầu hết giống như Khối Đối lập này là Nhóm Dân biểu Quốc Gia Hạ Viện (DBQGHNV), đứng đầu là đại Việt gian CS (người Công Giáo, anh rể Ngô công Đức) Nguyễn văn Binh, cựu Quận trưởng Gò Vấp (đi đâu y cũng tự xưng là cháu Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, ông TGM này bây giờ lòi đuôi chồn ra là CS chính gốc nằm vùng! tôi không ngờ, hay là ông bị CS dùng ma thuật khống chế bởi đã vào tròng?)

Trưởng Nhóm Nguyễn văn Binh có các thành viên: Đỗ sinh Tứ (quá cố), Nguyễn văn Kim (Quảng Trị, quá cố), Nguyễn đức Cung, Nguyễn trọng Nho, Dương minh Kính, Trần văn Ân, Nguyễn minh Đăng, Đặng văn Tiếp (quá cố), Nguyễn văn Cử (phi công đã bỏ bom dinh Độc lập vì tư thù), Nguyễn tuấn Anh (bác sĩ).

Ba Khối khác là Khối Cộng Hòa, đặc biệt chống Cộng yểm trợ Hành pháp.
Khối Dân Quyền, Trưởng Khối cựu Đại Tá Nhan minh Trang (mới qua đời cuối tháng 6-2010), đứng lưng chừng ở giữa, lửng lơ con cá vàng, một thái độ khó chấp nhận với người QG, một thái độ chỉ chờ sung rụng.

Khối Độc lập, cá nhân người viết ở trong Khối này, khi Hành pháp đúng thì ủng hộ, khi Hành Pháp sai thì chống thí dụ Sắc luật từ ông Thiệu đưa qua HNV về sửa Luật để ông ta ra nhiệm kì 3. Tuy nhiên, Khối này có tự do bỏ phiếu, Khối viên không nhất thiết phải bỏ phiếu theo Khối.
Còn một số DB khác tuy không vào Khối Đối lập vì muốn giữ bí mật hành tung là chính CS nằm vùng, giết người như ngoé, thí dụ như DB cựu Trung tá tỉnh trưởng Bình Thuận rồi Thị trưởng Đà lạt Đinh văn Đệ. Xảo thuật của y quá giỏi, y qua mặt tình báo của ông Thiệu cái vù đến nỗi khi y được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng HNV, vào lúc dầu sôi lửa bỏng tháng 3-1975, y được Chủ tịch HNV Nguyễn bá Cẩn và Dinh Độc lập cử làm Trưởng phái đoàn sang Hoa kỳ xin cấp viện trợ quân sự 300 triệu đô la để cứu nguy miền Nam. Giao trứng cho ác, ác đớp mất trứng là lẽ đương nhiên!
Một tay Đinh văn Đệ sát hại chiến sĩ QG và dân lành quá nhiều, nguyên một trận y lừa để giết Nghĩa quân và Địa phương quân đi cứu đồn đã hơn 40 người. Sau 30-4-75, cái mặt chuột cống dã man của y mới lòi ra. Nhưng rồi y và tất cả những bọn “ăn cơm QG thờ ma CS” ngay cả Trí Quang, Dương quỳnh Hoa, Nguyễn hữu Thọ, Huỳnh tấn Phát và Mặt trận GP miền Nam VN; những tên trí thức mù Vũ văn Mẫu, Ngô công Đức, Nguyễn văn Binh, Trịnh công Sơn, Huỳnh tấn Mẫm, Đoàn văn Toại, Lê văn Nuôi, Ngô bá Thành, ni sư Huỳnh Liên, Hoàng phủ Ngọc Phan, Hoàng phủ Ngọc Tường, Nguyễn đắc Xuân, Lý quý Chung, Nguyễn công Hoan, Trần văn Thung, Nguyễn ngọc Nghĩa (hỗn danh là DB tượng Chàm vì có lần y ăn cắp tượng Chàm), Hồ văn Minh v.v… đều chung số phận với Nguyễn Hộ, Nguyễn đình Thi, Nguyễn văn Trấn, Nguyễn hữu Đang, Nguyễn mạnh Tường, Hồ ngọc Nhuận, Ngô công Đức, Kiều mộng Thu v.v…..nghĩa là hầu hết trí thức miền Bắc và một số miền Nam bị Hồ cho vào xiếc, Hồ lừa gạt trắng trợn.
Vắt chanh bỏ vỏ, CS muôn đời chỉ xài rồi giết, không bao giờ dùng. Phải nhớ rất rõ điều đó. Nông thị Xuân đầu ấp tay gối thế nào với Hồ, được Hồ yêu quí vì có nhan sắc từ khi còn là con bé Tày 13 tuổi bưng cơm ở hang Pắc Bó cho Hồ, Hồ đã mò mẫm Nông thị Xuân từ hồi đó, rồi làm vợ Hồ từ 1955 (lúc thị Xuân đang là cán bộ hộ lý, khoảng 20 tuổi, Hồ đã 65) đẻ con cho Hồ (Nguyễn tất Trung (1956), xin đừng lộn với Nông thị Ngác, cũng vợ Hồ, đẻ ra Nông đức Mạnh năm 1940) mà Hồ còn giết thảm thì còn ai y nương tay? Những tên như Đinh văn Đệ, Lý quý Chung, Hồ ngọc Nhuận, Kiều mộng Thu, ni sư Huỳnh Liên, con điếm Ngô bá Thành (do báo chí đặt), Huỳnh tấn Mẫm, Lê văn Nuôi, Ngô công Đức, Trịnh công Sơn, Dương văn Ba v.v… và nhiều tên khác đã mất trắng cả cuộc đời vì Hồ!
Trước khi chết, DBCS Nằm Vùng Lý quý Chung có viết cuốn “Hồi Ký Không Tên” nói rõ việc y theo Việt Cộng và ân hận ra sao, cha y (Lý quý Phát) khuyên y thế nào (Đến giờ này mà mày còn mù hay sao mà đi theo VC?) đã nói lên sự ân hận một đời. Nguyễn văn Trấn, Xứ bộ Nam Kỳ khi xưa, một đảng viên cao cấp CS, đi sát với Hồ nhiều trường hợp, và cả tướng Trần Độ, phải than thở những lời sau đây:
“Đảng Cộng sản Việt Nam còn tàn ác hơn Tần thủy Hoàng và dã man hơn Hitler.”
LS Nguyễn hữu Thọ, trên giường bệnh sắp chết, dặn con rằng:
“Hãy coi gương cha, chớ đi theo bọn Việt Cộng mà mất cả cuộc đời!”
Ấy là những người được Việt gian CS đặc biệt ưu đãi, trong đó có bác sĩ Dương quỳnh Hoa, bộ trưởng Y tế của Mặt trận GP miền Nam VN, gia nhập đảng CS Pháp từ 1956 ở Paris, trước khi đậu bác sĩ.

Ngay từ đầu, tôi lấy làm lạ rằng ông Trần văn Tuyên, một người Quốc gia chân chính, một lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân đảng (VNQDĐ) tại sao lại chịu làm bung xung cho bọn Dân biểu Cộng sản (DBCS) nằm vùng (như đã kể trên) để đánh phá QLVNCH và chính phủ của TT Nguyễn văn Thiệu, dù sao đang là một chính phủ hợp hiến, hợp pháp và (tạm) hợp lòng dân để chiến đấu một mất một còn với CS?
Có một lần rất hãn hữu, một lần duy nhất trong 4 năm làm việc tại Hạ Nghị Viện (HNV) với nhau, bữa đó Dân biểu Ngô trọng Hiếu (Biên Hoà) và tôi (lúc đó là Chủ tịch Ủy Ban Phát triển Nông thôn HNV) cùng ngồi đàm đạo với LS Trần văn Tuyên. Sau vài câu thăm hỏi, tôi đi ngay vào đề. Tôi nói:
“Thưa anh Tuyên, tôi và anh Hiếu đây và một số anh em khác biết rằng cá nhân anh là một người QG chân chính đã hoạt động chính trị nhiều năm, những chỉ trích Hành pháp và Quân đội về trường hợp một số tướng tá, tỉnh, quận trưởng tham nhũng, lạm quyền là đúng, là giúp ích cho Hành pháp sửa đổi, chấn chỉnh, thay thế, nhưng tôi e rằng đang lúc Cộng quân ngày càng tăng cường sức ép, bồ câu Mỹ đòi rút hết quân Mỹ, chính phủ Mỹ đe rút hết quân viện, trăm phần nguy khốn mà Quốc hội, do những tay sai CS nằm vùng chúng ta nhìn rõ thấy họ hàng ngày, với ba tờ nhật báo tay sai của CS là các tờ Đại dân tộc, Điện Tín và Tin Sáng làm công cụ tuyên truyền cho CS, lại ra sức đánh phá Hành pháp và Quân đội, người QG mù quáng cũng hùa theo ( như các LM Trần hữu Thanh, Đinh bình Định, Chân Tín, ông Nguyễn ngọc Lan và một số DB Nhóm QGHNV, và mấy NS theo đuôi CS) thế thì Hành pháp và QĐ còn tinh thần đâu mà chống chõi với Việt cộng, bảo vệ dân chúng? “
LS Tuyên hỏi anh Hiếu:
“Thế anh Hiếu có câu hỏi gì dành cho tôi không?”
DB Hiếu trả lời:
“Câu hỏi của tôi cũng tương tự như câu hỏi của anh Trần đình Ngọc. Chỉ thêm một chút là trước khi nhận chức Trưởng Khối Dân tộc Xã hội (tức Đối lập), anh có tiên liệu được những gì anh phải làm vừa lòng những anh em trong Khối đó đòi hỏi? Và anh có biết một số trong bọn họ là CS nằm vùng không? Có lẽ anh không biết và anh cũng không ngờ?”


Thay vì trả lời thẳng vào câu hỏi, LS Tuyên, mặt rầu rầu, đáp:
“Làm thế nào để các anh hiểu tâm tư của tôi với chỉ vài phút ngắn ngủi gặp nhau ở đây? Tôi đã suy nghĩ nhiều nhưng chẳng tìm ra một giải pháp để gỡ rối cái vị thế dầu sôi lửa bỏng của tôi hiện tại. Để có dịp thuận tiện, tôi sẽ nói với các anh nhiều hơn”.
Nói xong anh đứng lên bắt tay tôi, anh Hiếu và ra xe. Tôi nghĩ anh tránh né câu hỏi, một câu hỏi đi thẳng vào những gì anh đang trăn trở vì một người làm chính trị lâu năm, một LS kinh nghiệm như anh sao không nhận ra những gì một chiến sĩ QG không thể và không nên làm tay sai (dù là lầm lẫn lúc đầu) cho giặc. 
Nhưng có lẽ anh đã đi quá xa và lúc đó anh không còn kiểm soát được Khối viên (là những con cáo già CS) nữa! Ba tờ báo Đại dân tộc (của DB Võ long Triều), Tin Sáng (của Ngô công Đức) và Điện Tín do Lý quý Chung đã rất hữu hiệu yểm trợ Khối Đối lập và Nhóm Dân biểu QG HNV trong việc cho những DB này đi tầu bay giấy và tìm cách mạt sát các DB có lập trường QG là tay sai cho Nguyễn văn Thiệu. Anh Trần văn Tuyên có lẽ cũng đã “rét” với những tờ báo này!(Ngày nay ở hải ngoại cũng có bọn ăn cơm QG thờ ma CS y như vậy. Những Nhà thơ nào chỉ viết Thơ tình, không đả động gì đến VGCS thì chúng đưa lên mây xanh dù không có tài. Những Nhà Thơ nào có thực tài nhưng chỉ trích những cái xấu, cái dã man, tàn bạo, giết dân của VGCS thì chúng lờ như không có hoặc tìm cách chỉ trích, phê bình sai lạc. Thực là một bọn phê bình láo lếu và vô liêm sỉ!)
Dân trí quá thấp, những người bình dân đâu có hiểu gì CS cho đến sau 30-4-1975, rất nhiều người miền Nam mới bật ngửa thì sự đã rồi. Những người này trước kia chứa chấp cán binh CS, nuôi ăn, tiếp tế, nhận làm mẹ nuôi, chị nuôi chiến sĩ v.v…Cũng chính những người này, sau khi CS đổi tiền hai lần, đánh tư sản mại bản công thương nghiệp tư bản tư doanh, đuổi đi vùng kinh tế mới để chiếm nhà, chiếm đất, chiếm xe cộ, tài sản, trương mục ngân hàng, chính họ là những người chửi rủa CS nhiều nhất, căm thù CS hơn ai hết vì họ quá thất vọng.
Người dân miền Nam quả thực quá ít kinh nghiệm với CS nên dễ bị lừa. Nói gì bình dân, những trí thức như Dương quỳnh Hoa, Lâm văn Tết, Nguyễn văn Trấn, Xuân Vũ Bùi quang Triết (tác giả Đường đi không đến), Nguyễn thị Bình, LS Nguyễn hữu Thọ, Nguyễn ngọc Lan, Chân Tín, Lý chánh Trung, Nguyễn văn Trung, Lý quý Chung, cả sư hổ mang Trí Quang và ông Thích Nhất Hạnh, cả Dương thu Hương, Nguyễn mạnh Tường, Hoàng xuân Hãn, Trần đức Thảo, Nguyễn đình Thi và hàng đống trí thức miền Bắc đó, hằng hà sa số bị lừa đau đớn, thế thì người dân miền Nam chữ nghĩa ít, học hỏi nông, xưa nay chân chất thật thà thì bị lừa đến táng gia bại sản, đến mất mạng cũng là phải thôi! Hãy cứ hỏi nhà văn Dương thu Hương, ngày 30-4-1975 ngồi khóc ở vệ đường Sàigòn vì nhận ra được là cả thế hệ của chị đã bị lừa, cái dã man mọi rợ (ý chỉ chế độ CS miền Bắc) lại thắng cái văn minh (ý chỉ miền Nam) là đủ thấy sự đau đớn và sự thật.
Tôi xin mở một dấu ngoặc với chị Dương Thu Hương. Không phải chị chỉ khóc có một lần ngày 30-4 đâu mà có lẽ chị còn khóc dài dài, chị Thu Hương ạ. Cái gian dối, lừa gạt, hung ác, vô văn hóa từ Hồ tặc truyền vào dân VN y như bệnh Aids, tệ hơn bệnh Aids như dân Ba Lan nói, nó sẽ còn kéo dài hàng thế kỉ, vài thế kỉ là ít sau khi CS giẫy chết chứ thuốc trụ sinh Dân Chủ dù mạnh mấy không đủ làm cho cái ung bướu quái ác CS đó biến đi ngay trong con người VN được đâu. (Năm 2008, chị Dương Thu Hương lại viết cuốn sách “Đỉnh cao chói lọi” để ca ngợi giặc Hồ. Lập trường của chị bất nhất, chao đảo như đứa con nít. Có lẽ sống với CS gian dối nhiều năm, chị đã nhiễm phải cái HIV+ tai hại tuỳ tiện và gian dối đó, hết thuốc chữa! Tôi đã có 8 bài dài thảo luận với chị DTH về vấn đề này đăng trên vietnamexodus.org và cả Bacaytruc.com )
Trở lại với anh Trần văn Tuyên, một thời gian sau, anh từ nhiệm chức vị Trưởng Khối Dân tộc Xã hội tức Đối lập HNV, người thay anh là DB Lê đình Duyên, một DBCS nằm vùng.

ĐI TÙ CẢI TẠO

Sau 30-4-1975, cũng như nhiều anh em DB/HNV khác, LS Trần văn Tuyên đi trình diện và vào tù cải tạo.
Câu chuyện sau đây về cuộc đời “ba chìm bảy nổi” của anh Tuyên do chính anh tâm sự với một bạn tù cùng buồng với anh, anh này kể lại cho Bút Xuân nghe nhưng xin giữ kín danh tánh, câu chuyện “có thế nào nói lại vậy” không thêm, không bớt như sau:
Sau ngày 19-8-1945, do một mối giây liên hệ nào đó như bạn học, bạn đồng chí v.v… anh Trần văn Tuyên lúc đó được tướng Võ nguyên Giáp (CS miền Bắc) cử làm Chánh văn phòng cho ông ta. Giáp bảo với anh Tuyên là để rồi Giáp sẽ thưa với cụ (Hồ) chấp thuận để anh Tuyên có chức vụ và làm việc với Giáp.
Có một bữa, ông Hồ, Giáp và một số đông đồng chí, có cả anh Tuyên được mời đi dự một bữa cơm với nông dân, anh Tuyên kể lại như thế ở trong tù. Cơm dọn ra toàn là dưa cà mắm mặn, rau muống luộc, một bữa cơm hoàn toàn đạm bạc của nông dân. Trong lúc chộn rộn người ngồi kẻ đứng, ông Hồ ghé tai Giáp nói nhỏ:
“Cỗ bàn ngon lành ở phía sau, các chú xuống đó mà ăn chứ cơm này ăn gì được.”
Giáp bảo anh Tuyên loan báo cho anh em.
Thành ra, ngồi ăn cơm với nông dân chỉ là ngồi lấy lệ, biểu diễn, ăn qua quýt, xong lỉnh ra đàng sau để hưởng sơn hào hải vị đã làm sẵn để phục vụ.
Sau ngày Việt Cộng tự động giải tán CP Liên hiệp và Quốc Hội số 1, dân quân du kích Việt Cộng, theo lệnh từ ông Hồ và ban tham mưu VC, từ 1946, đã giết hại các người QG, các đảng phái phi CS, và cả người Công Giáo hay bất cứ ai bị nghi ngờ là không đồng chính kiến. Những người này bị ghép vào một tội chung: “Việt gian phản động làm tay sai cho Pháp” . Chỉ chín chữ đó đủ để ăn vài viên đạn vào đầu hoặc như nhà văn Khái Hưng và nhà văn Lan Khai, bỏ vào bao bố trôi sông (Khái Hưng và Lan Khai bị giết ở sông Ninh Cơ).
Báo cáo từ các nơi gửi tới tấp về cho Chính Phủ Viêt cộng để giải quyết các khiếu oan cho dân. Anh Trần Văn Tuyên, với chức vụ Chánh Văn phòng, các công văn đều qua tay anh, anh phân loại rồi mới trình lên cho tướng Giáp để giải quyết. Anh Tuyên đã trình lên tướng Giáp nhiều lần xin tướng Giáp trình “Cụ Hồ” giải quyết ngăn chặn những sự giết chóc bừa bãi ở các xã nhưng anh Tuyên trình đã nhiều lần hồ sơ chất đầy bàn mà không được tướng Giáp lý tới. Lần trình sau cùng, tướng Giáp gọi anh Tuyên vào văn phòng, bảo:
“ Mang tiếng làm chính trị mà sao chú mày còn chậm hiểu quá. Việc gì mà phải giải quyết những vụ việc ấy. Đó là chính sách của trên, chú mày hiểu chưa?”
Từ đó, ông Tuyên đâm ra sợ và kị Việt Cộng, càng ngày ông càng rõ tâm địa thâm độc gian ác của ông Hồ chí Minh và bọn thủ hạ. Ông ghê tởm những hành động sát nhân mà những người bị giết chỉ là những người QG yêu nước, yêu đồng bào, những người dân hiền lành bị nghi ngờ đối nghịch với chủ nghĩa CS của ông Hồ và đồng bọn.
Và cũng chính vì vậy, ông Tuyên đã vượt thoát vào Nam tìm Tự Do sau tháng 7-1954, bỏ lại hai đứa con trai, một anh sau này đậu Kĩ sư canh nông chế độ Việt Cộng.
Sau 30-4-1975, như các DB và NS khác kẹt lại, LS Trần văn Tuyên vào trại tù cải tạo. Khi ông còn ở trong tù, hai anh con trai ngoài Bắc vào, đã lặn lội đi thăm bố, mang theo quà của tướng Giáp là một cân đường và một cân mứt hạt sen.
(còn tiếp)


GS Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC
Cựu Dân Biểu HNV/VNCH
Cựu Sĩ Quan QLVNCH (Khóa 13 Thủ đức)
From: But Xuan
Sent: Sunday, 21 April 2013 4:47 PM
Subject: Xin anh Bình post tiếp. Cám ơn anh Bình. TĐN
Sau Bức Màn Nhung Hạ Nghị Viện/VNCH (2)

TRẦN TỬ THANH * THƯ NGỎ

Thư Ngỏ Của Gia Đình Cố Luật Sư Trần Văn Tuyên


Ông Trần Tử Thanh - thứ nam  cố LS Trần Văn Tuyên



Chúng tôi nhận được lá thư gởi các cơ quan báo chì của gia đinh cố LS Trần Văn Tuyên lên tiếng về vụ phỏng vấn giữa Tường Thắng và ông Vũ Trọng Khanh. Trong thư, gia đình cố luật sư Trần Văn Tuyên phủ nhận có các liên hệ họ hàng với ông Vũ Trọng Khanh. Ngoài ra chúng tôi cũng đồng ý có một cuộc phỏng vấn với ông Trần Tử Thanh - thứ nam của cố LS Trần Văn Tuyên để phản biện những gì mà ông Vũ Trọng Khanh đã nói. Khi nào thực hiện xong cuộc phỏng vấn, chúng tôi sẽ mời quý bạn đọc theo dõi. Chúng tôi đăng nguyên văn lá thư của cố gia đình LS Trần Văn Tuyên để quý bạn đọc tham khảo.


 Thư Ngỏ Của Gia đình Cố Phó Thủ tướng, Luật sư Trần Văn Tuyên

Đồng kính gửi:

- Các cơ quan truyền thông, truyền hình, báo chí, các mạng internet.

- Qúy vị :

Lãnh đạo tinh thần các tôn giáo
Chủ tịch các Đảng pháiquốc gia
Chủ tịch Cộng Đồng

- CácTổ chức, Hội đoàn người Việt quốc gia tại hải ngoại.

- Bà con Thân Thuộc và Bằng Hữu của Gia Dình Cố Luật Sư Trần
Văn Tuyên trong và ngoài nước

Mới đây trong một cuộc phỏng vấn kéo dài 4 phần trên đài truyền hình
SBTN ở quận Cam và được báo Việt Nam Exodus đưa lên mạng, có một
người xưng là Vũ Trọng Khanh, tự Vũ Lăng, cựu Đại Tá QLVNCH tốt
nghiệp khóa 4 trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt (?) , con của nhà văn Vũ
Trọng Phụng (?) - không hiểu vì ly do gì, đã mạo nhận là cháu của Luật
Sư Trần Văn Tuyên.

Vì sự việc có liên quan đến thân phụ và giòng tộc chúng tôi, chúng tôi xin
minh xác:

1. Họ và tên người này nêu ra trong cuộc phỏng vấn để chứng minh
liên hệ với gia đình Luật Sư Trần Văn Tuyên là hoàn toàn xa lạ đối
với gia đình chúng tôi và không có trong gia phả của giòng họ
Trần.

2. Những sự kiện liên quan đến thân phụ chúng tôi là những sự kiện
hoàn toàn bịa đặt một cách trắng trợn.

Tất nhiên khi tạo dựng những sự kiện nêu trên, người được phỏng vấn
hẳn đã có mưu đồ đen tối nào đó.

Vì vậy chúng tôi xin gởi bức thư ngỏ này thông báo tới toàn thể bà con
trong gia tộc, các bằng hữu quen biết gia đình chúng tôi, cùng mọi giới,
để cảnh giác đề phòng và tránh mọi ngộ nhận trong tương lai.

Thay mặt gia đình cố Luật Sư Trần Văn Tuyên

Luật Sư Trần Tử Huyền, Trưởng Nam
California, ngày 17 tháng Hai năm 2008


VIÊN LINH * NHÀ TÙ CHÓT CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG TRẦN VĂN TUYÊN

NHÀ TÙ CHÓT CHÓT

 PHÓ THỦ TƯỚNG TRẦN VĂN TUYÊN


Nhà tù chót của Trần Văn Tuyên
VIÊN LINH sao lục
Wednesday, October 27, 2010
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=122321&z=257

Hơn một năm sau khi ở tù cộng sản, nhà văn hóa, người lo việc nước Trần Văn Tuyên (sinh ngày 1 tháng 9, 1913), gục ngã trên mặt bàn trong trại tù tập trung Hà Sơn Bình, hai ngày sau thì từ trần.
Cố luật sư, Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên, chụp trước Quốc Hội VNCH. (Hình do Tạp chí Khởi Hành cung cấp.)
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/articlefiles/122321-TRVTUYEN-1-300.jpg

Theo tin tức do Việt Cộng đưa ra, đó là ngày 28 tháng 10, 1976. Như thế cho tới hôm nay, nhà lãnh tụ tên tuổi nhất của Việt Nam Quốc Dân Ðảng của miền Nam đã khuất bóng vừa đúng 34 năm; và ở đời được 63 năm. Cuộc đời ông vào tù ra khám nhiều lần, song cứ theo một bài thơ ông để lại, hình như ông không “lấy đó làm điều:”
Thân già tuổi tác trời cho sống
Ta vẫn yêu đời thỏa chí trai
Cùm xích nung sôi hồn cách mạng
Giao thừa chóng đến đợi sao mai.
(Trần Văn Tuyên, Giao Thừa Trong Ngục, Khởi Hành 10, 1998)

Thế hệ ’40, ’50 (những người trưởng thành vào những năm 1940, những năm 1950) lưu tâm tới tình hình đất nước của một Việt Nam tranh đấu, hầu như không ai là không nghe nói đến Trần Văn Tuyên. Nhưng sau đó, và nhất là sau khi đất nước thu vào một mối (“một mối u sầu một mối tang thương” như thơ Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực), ít người còn biết rõ con người ấy là ai. Cho nên bài viết này chỉ là một ghi chép thu gọn, nhằm giúp trí nhớ bạn đọc, nhất là các bạn đọc trẻ, về chân-thân người yêu nước Trần Văn Tuyên qua mô tả của nhiều nhân vật chứng nhân của một thời kỳ quốc cộng phân tranh.
1. “Trong số những người thân thuộc này, tôi nghĩ tới chiến sĩ Trần Văn Tuyên, mà trong 40 năm qua tôi vẫn xem là một huynh trưởng, một người bạn vong niên, một nhà văn hóa, một nhà văn học, một nhà ái quốc, một nhà cách mạng chân chính đã nêu cao truyền thống dân tộc và giữ vững tinh thần bất khuất của giống nòi Lạc Việt.
Ngày 6 tháng 12, 1947: Hội đàm Bollaert-Bảo Ðại tại Vịnh Hạ Long.
Sau cuộc hội đàm Vịnh Hạ Long, cựu hoàng Bảo Ðại cử hai vị cộng sự viên thân tín từ HongKong về nước tiếp xúc với các nhân sĩ quốc nội, nhằm thành lập chính phủ quốc gia đầu tiên. Hai cộng sự viên than tín đó là ông Lưu Ðức Trung và ông Trần Văn Tuyên. Năm 1951 Thủ Tướng Trần Văn Hữu ký nghị định cử ông Trần Văn Tuyên và chúng tôi (Thái Văn Kiểm) đi Pháp tham dự lễ kỷ niệm 2000 năm thành lập Paris (Paris tên cũ là Lutetie-Lutece được thành lập năm 51 trước C.N.).
Trong các hoạt động hiệp hội, đoàn thể, LS Tuyên là sáng lập viên phong trào Hướng Ðạo Việt Nam, phong trào Truyền Bá Quốc Ngữ, Hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Công Quyền, cố vấn Tổng Công Ðoàn Tự Do. Ông có dạy học ở trường Thăng Long Hà Nội.”
(Thái Văn Kiểm, Liệt sĩ Trần Văn Tuyên)
2. “Sau hơn nửa thế kỷ qua, tôi vẫn còn nhớ rõ hình ảnh người huynh trưởng Trần Văn Tuyên bên đống lửa trại Chùa Láng (gần Hà Nội) năm xưa. Anh cũng mặc đồng phục Hướng Ðạo như chúng tôi. Cũng quần soọc tím, áo sơ mi nâu bạc màu, cũng thắt khăn quàng nơi cổ như mọi HÐ khác. Lúc ấy hướng đạo sinh của các đoàn đã ngồi thành vòng tròn khá lớn quanh đống lửa trại. Anh Tuyên vừa bước qua vòng tròn, mọi tiếng rì rào nổi lên khắp dẫy, như một dòng điện truyền lan: ‘Anh Tuyên! Anh Tuyên đấy!’ Anh là hình ảnh một trong những thần tượng Hướng Ðạo của chúng tôi.”
(Mặc Thu, Nhớ về Trần Văn Tuyên)
3. “Tầm thước, nhanh nhẹn, tóc húi cao, mắt sáng tinh anh sau cặp kính cận dầy cộm, luôn tươi cười cởi mở, anh Trần Văn Tuyên là mẫu người trí thức thông minh, rõ rệt là một hiền nhân. Rất uyên bác, đọc nhiều sách khảo cứu, có cả một thư viện trong nhà, anh thông thạo Pháp, Anh và Hán tự Anh viết báo, làm luật sư, lưu vong sang Tầu, ở tù nhiều lần, làm bộ trưởng Thông Tin, làm phó thủ tướng Ðặc Trách Kế Hoạch, dân biểu, trưởng khối đối lập, thủ lãnh luật sư đoàn.”
(Nguyễn Tường Bá, vài kỷ niệm về anh Trần Văn Tuyên. Vẫn theo LS Nguyễn Tường Bá, báo New York Times gọi Trần Văn Tuyên trong tù là “một Solzhenitsyn của nhà tù Gulag Việt Nam)
4. Khởi Hành phỏng vấn ông Trần Tử Miễn, con trai út của LS Tuyên. Lời ông Miễn:
“Ông theo gương chí sĩ Nguyễn Thái Học, gia nhập Quốc Dân Ðảng năm 16 tuổi. Ông cảm phục Abraham Lincoln, Thomas Jefferson (người nói báo chí là Ðệ Tứ Quyền), và Tôn Dật Tiên, cha đẻ của thuyết Tam Dân của Trung Hoa Quốc Dân Ðảng: Dân tộc độc lập – Dân quyền tự do – Dân sinh hạnh phúc. Ba tiêu đề này, Việt Cộng trộm mấy chữ sau: Ðộc lập Tự do Hạnh phúc để lừa phỉnh. Cũng chính vì ba chữ này mà một số anh em Việt quốc đi theo hàng ngũ Việt Cộng (trước cuộc di cư 1954). Về tình bằng hữu, cha tôi thân thiết với cố Dân Biểu Trần Văn Văn (thân phụ anh Trần Văn Bá) cả hai cha con đều bị Việt Cộng sát hại trước và sau 1975.
Cha tôi không bao giờ chấp nhận chính phủ ba thành phần. Trước 30 tháng 4 độ hai tháng, Tòa Ðại Sứ Mỹ có liên lạc nói họ dành 50 chỗ cho gia đình cha tôi và thân hũu trên máy bay để di tản. Nhưng ông không có ý định ra đi. Vì các lý do: Mình sinh ra ở đây, thà chết ở đây. Tất cả anh em VNQDÐ đều quyết định ở lại, vậy mình càng không bỏ rơi anh em.”
(Thụy Khanh phỏng vấn, Saint Germain les Corbeit, 21 tháng 9, 1998)
5. Lời Trần Văn Tuyên: “Xét quá trình hoạt động, tôi không thấy có tội gì với nhân dân Việt Nam. Nếu tôi có tội thì đó là cái nhìn của đảng Cộng Sản Việt Nam.” (Trần Văn Tuyên, Bản khai lý lịch tại trại tù Long Thành, 16 tháng 5, 1975)
“Một ánh sáng chói lòa. Tôi giật mình ngẩng đầu nhìn, tưởng lựu đạn hay plát-tích nổ. Bên cạnh tôi, một đám khói trắng bùng lên. Tôi nhìn khách, không thấy khách. Cũng không phải là lựu đạn hay plát-tích. Cũng không phải là pháo bông ăn mừng cách mạng thành công. Ngẩn ngơ, tôi thủng thẳng bước đi. Mình cảm thấy lòng mình cũng bơ vơ, cơ khổ: không còn nơi dung thân, không có nơi gieo ý, không có nơi xây dựng!
Như khách, tôi cũng nhận thấy con người mới chỉ thấy hoang tàn, tang tóc của cách mạng mà chưa thấy phần xây dựng của cách mạng. Và ngày ngày, mỗi buổi chiều, tôi tới vườn Diên Hồng ngồi đợi khách. Nhưng cách mạng! Anh còn đây hay đã đi đâu?”
(Trần Văn Tuyên, Người Khách Lạ, tập truyện ngắn, 30 tháng 10, 1965)
Chú thích: Các trích dẫn trên đây chỉ là phần ngắn gọn cho hợp khuôn khổ Trang Thời Sự Nhân Văn, từ những bài dài in trong Khởi Hành chủ đề Trần Văn Tuyên, số 24, xuất bản tháng 10, 1998.
.
.

HOÀNG HẢI THỦY * NGƯỜI TÙ KHỔ SAI

Người Tù Khổ Sai Trần Văn Tuyên

Quốc Gia VNCH có hai ông Thủ Tướng Chính Phủ bị bọn Cộng Sản Việt Nam giam chết trong tù: Ông Thủ Tướng Phan Huy Quát và ông Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên.
Thủ Tướng Phan Huy Quát đi Tù và Chết trong Nhà Tù Chí Hoà, Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên trước khi đi Tù và Chết trong Trại Tù Khổ Sai ở miến Bắc, còn có lần Ði dự Hoà Ðàm với Pháp ở Ðà-lạt và cùng với một số ký giả làm cuộc “Ký Giả đi Ăn Mày” ở Sài Gòn.
Ðây là bài về ông Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên.
TỪ ÐIỂN TÁC GIẢ VIỆT NAM. Nguyễn Quang Thắng. Nhà Xuất Bản Văn Hóa, ấn hành ở Việt Nam Tháng Chín 1999.
TRẦN VĂN TUYÊN
Quí Sửu 1913 – Bính Thìn 1976.
Luật sư, một trong những người sáng lập Hội Hướng Ðạo Việt Nam, sinh ngày 1-9-1913 tại tỉnh Tuyên Quang, nguyên quán huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Ðông.
Học ở Hà Nội, tốt nghiệp Cử nhân Luật Ðại Học Luật Khoa Hà Nội, dạy học tại Trường Trung Học Thăng Long, tham gia hoạt động chống Pháp từ những năm 1930-1931. Năm 1934, ông cùng Ðặng thái Mai, Võ nguyên Giáp… thành lập Liên Minh Dân Chủ và Phong Trào Ðông Dương Ðại Hội. Năm 1942 ông bị Pháp bắt giam một thời gian vì “tội thành lập Ðảng Thanh Niên Hưng Quốc”. Sau khi được xử trắng án và tự do, ông thi đỗ ngạch Tri Huyện Tư Pháp, được bổ làm Tri Huyện huyện Thanh Miện, Hải Dương, đến năm 1944 thì từ chức.
Sau Tổng Khởi Nghiã Tháng 8 năm 1945, ông tham chính, giữ chức Ðổng Lý Văn Phòng Bộ Ngoại Giao Chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Năm 1946 ông tham gia Hội Nghị Trù Bị Ðà Lạt, phụ trách Ban Lễ Nghi của phái đoàn Việt Nam, cùng với các ông Nguyễn Tường Tam, Võ nguyên Giáp, Hoàng xuân Hãn.
Ðầu năm 1946 ông lưu vong sang Trung Hoa, năm 1950 ông về Sài Gòn, có thời làm Bộ Trưởng Bộ Thông Tin, năm 1950-1951 ông giữ chức Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng trong chính phủ Trần văn Hữu. Năm 1954 ông là Cố Vấn Ðặc Biệt trong Phái Ðoàøn Việt Nam (chính quyền Bảo Ðại) dự Hội Nghị Genève nhằm chấm dứt Chiến tranh Ðông Dương. Năm 1959-1960, ông cùng 17 nhân sĩ ( Báo chí nước ngoài gọi là Nhóm 18 Caravelle) ra tuyên cáo đòi chính quyền Ngô Ðình Diệm thay đổi chính sách. Sau cuộc đảo chính hụt ngày 11 Tháng 11 năm 1960, ông bị Mật Vụ Ngô Ðình Nhu bắt giam, đến sau ngày 1 Tháng 11 năm 1963 mới được giải thoát. Năm 1965 ông giữ chức Phó Thủ Tướng Ðặc Trách Kế Hoạch, năm 1967 ông là Dân Biểu Quốc Hội, Trưởng Khối Dân Tộc-Xã Hội tại Hạ Nghị Viện Sài Gòn, Cố Vấn Phong Trào Ðấu Tranh Cải Thiện chế độ Lao Tù, Thủ Lãnh Luật Sư Ðoàn Sài Gòn.
Ngày 26 Tháng 10, 1976 ông mất tại Hòa Bình.
Các tác phẩm của ông: Hiu quạnh (1944), Tình mộng (1953), Hội Nghị Genève ( 1954), Việt Nam dưới thời thuộc Pháp (1958), Chính đảng (1968), Người khách lạ ( 1969), Con đường Cách Mạng Việt Nam (1969)
Ngưng trích.
Ðây là bài “Ít dòng Nhật Ký về Hội Nghị Trù Bị Ðà Lạt 1946ông Trần Văn Tuyên viết ở Sài Gòn.
Trần Văn Tuyên. Trích:
Ngày đi. 16-4-1946. Khởi hành ở phi trường Gia Lâm, 7 giờ 30 sáng. Pháp cho mượn 2 chiếc máy bay Junker cũ kỹ. Hai anh Trưởng và Phó Phái Ðoàn (Nguyễn Tường Tam, Võ nguyên Giáp) cùng đáp một chiếc cất cánh sau. Bọn tôi đi chuyến đầu gồm Tạ quang Bửu, Dương bạch Mai, Kiều công Cung, tất cả 12 người.
Gần tới Paksé, gặp bão, nhưng trời nắng đều. Tới Paksé lúc 11 giờ 20. Không ra thăm thành phố. Máy bay chở hai anh Tam, Giáp đến sau 20 phút.
12 giờ 30 máy bay chúng tôi bay đi Ðà Lạt trước. Tới trường bay Liên Khàng lúc 3 giờ chiều. Có các ông Pignon, Davec, Brisson và Lê văn Kim, ông Kim lúc đó là tùy viên báo chí của Ðô Ðốc D’Argenlieu, Cao Ủy Pháp, ra đón. Thêm nột nhà nhiếp ảnh Tiệp Khắc, một phóng viên Bỉ, cô Anna Lê Trung Cang, chủ nhiệm nhật báo Ðiện Tín ở Sài Gòn.
Ðói, khát, không có gì để ăn uống. Ông Davec kiếm được 10 quả “thanh lí” và một ấm nước nhỏ.
Chờ chuyến bay thứ hai đến để cùng về Ðà Lạt nhưng mãi không thấy đến. Nhiều người lo ngại đã xẩy ra chuyện bất trắc. Không liên lạc được với Paksé, cũng không liên lạc được với Sài Gòn. Lo ngại càng tăng. Ðã có người lo sợ một “thủ đoạn” ác độc của người Pháp. Trời về chiều, chờ không được, sợ tối nguy hiểm, đành phải về Ðà Lạt trước.
30 cây số đường rừng, giữa đồi núi và rừng thông trùng điệp. Xe hỏng máy cách Ðà Lạt 5 cây số. Trăng mọc trên ngàn thông, bao phủ bởi sương trắng. Cảnh vật thật tuyệt diệu.
6 giờ tối mới về đến Ðà Lạt. Thành phố vắng tanh, tối đen và yên lặng. Mọi người về Hotel Du Parc, riêng hai anh Trịnh văn Bính, Dương bạch Mai sang Hotel Lang Biang.
Cơm dọn sẵn cho 30 người ăn. Nhưng mọi người chỉ ăn qua loa. Mệt! Hoang mang… Băn khoăn về số phận của toán thứ hai, những người chính của phái đoàn. Ăn cơm xong, anh em họp lại trong buồng tôi. Ða số tỏ ý lo ngại. Một số cho rằng Pháp chơi xấu, có thể hi sinh một chiếc máy bay và hai phi công, đâm máy bay vào núi. Thế là hết chuyện đàm phán. Vì họ đã thủ tiêu được những người lãnh đạo mà họ lo sợ nhất: Nguyễn Tường Tam, Ngoại Trưởng Chính Phủ Liên Hiệp, Lãnh Tụ Cách Mạng chống Pháp cực đoan (VNQDÐ) và Võ nguyên Giáp, Tổng Tư Lệnh Quân Ðội Giải Phóng, Chủ Tịch Quân Ủy Hội Kháng Chiến chống Pháp.
Có anh lo sợ cho số phận những người trong phái đoàn đã đến Ðà Lạt. E ngại người Pháp bắt luôn tất cả đem đi cầm tù. Anh Kiều Công Cung đề nghị với tôi đưa cho mỗi người 100$, xuống chợ mua mỗi người một  chiếc xe máy, ngay đêm hôm ấy, băng về Phan Rang.
Một giờ sáng mới được tin chiếc máy bay thứ hai bị hỏng máy quạt, phải ở lại Paksé, chờ hôm sau Sài Gòn đem máy quạt lên thay mới bay tới được.
Hỏng máy thật hay là đòn tâm lý!
Ngưng trích.

Ông Trần Văn Tuyên, ảnh chụp năm 1974, khi ông là Dân biểu Quốc Hội VNCH, ông dự Cuộc Biểu Tình có tên là “Ký Giả đi Ăn Mày” tại Sài Gòn.
Quí vị vừa đọc một đoạn trích trong hồi ký của ông Trần Văn Tuyên kể lại chuyện ông và ông Nguyễn Tường Tam, trong phái đoàn Chính Phủ Liên Hiệp – (Việt Minh,) Tháng 4 năm 1946, từ Hà Nội bay đến Ðà Lạt để dự hoà đàm với Pháp. Lúc này ông Nguyễn Tường Tam là Ngoại Trưởng Chính phủ Liên Hiệp do Hồ chí Minh làm Chủ Tịch. Ông Nguyễn Tường Tam là Trưởng Ðoàn, Võ Nguyên Giáp  là Phó Truởng Ðoàn.
Tháng 4 năm 1946 khi các ông Trần Văn Tuyên, ông Nguyễn Tường Tam đi dự hoà đàm với Pháp ở Ðà Lạt, tôi 14 tuổi, tôi mù tịt về chuyện Việt Pháp hòa đàm. Bẩy mươi năm sau ở Kỳ Hoa Ðất Tríchõ, đọc chuyện ông Trần Văn Tuyên kể, tôi thấy thương các ông Việt Nam quá là thương. Ai đời đi đàm phán tranh quyền độc lập với Pháp xâm lược chiếm nước mà phải đi nhờ máy bay của Pháp, đi nhờ ô-tô của Pháp, ăn ở do Pháp cung cấp. Ông TV Tuyên viết “Pháp cho mượn hai chiếc Junker..” tôi thấy không đúng, Pháp nó không cho phái đoàn VM mượn máy bay, nó chỉ dùng máy bay của nó chở phái đoàn từ Hà Nội đến Ðà Lạt.
Phái đoàn ta chịu đủ mọi thứ bất lợi và kém vế. Họp trong thành phố Ðà Lạt là nơi bọn Pháp nắm quyền, làm chủ, ở thành phố này Pháp có quân đội, có cảnh sát. Pháp nó muốn bắt nhân viên nào trong phái đoàn VN Hà Nội là nó bắt. ÔngTV Tuyên kể:
Bài đã dẫn. Trích: 24-4-46. Anh Phạm ngọc Thạch, một nhân viên của phái đoàn, bị Pháp bắt ngày hôm qua. Ngay trước trụ sở phái đoàn Việt Nam. Lúc 1 giờ trưa. Pháp nói là họ đã báo trước cho chính phủ Hà Nội là họ không chấp nhận Thạch trong phái đoàn Việt Nam.
Anh Nguyễn Văn Sâm và Bác sĩ Nguyễn Văn Tùng bị trục xuất về Sài Gòn. Pháp lấy cớ hai người ấy dùng máy vô tuyến riêng để liên lạc với Hà Nội. Ngưng trích.
Không biết ông Nguyễn Văn Sâm đây có phải là ông Nguyễn Văn Sâm bị Việt Minh bắn chết trên xe buýt ở Sài Gòn và đường Nguyễn Văn Sâm ở Sài Gòn có phải là đường mang tên ông này không. Tôi chắc là phải. Trong đoạn hồi ký trên còn có nhân vật « Lê Văn Kim , tùy viên báo chí của Ðô đốc D’Argenlieu. » Tôi chắc ông « Tùy viên báo chí » này những năm 1960-1970 là « Thiếu Tướng Lê Văn Kim.»
Chuyện làm tôi vừa thương các ông vưà tức cười – tức cười là vưà cười vừa tức: cười mà tức anh ách – là chuyện nửa đêm, các ông chính khách Việt Nam ta bàn nhau mỗi ông thủ túi 100 đồng – đồng bạc Ðông Dương, tức tiền của Pháp – ra tiệm bán xe đạp ở chợ Ðà Lạt, mỗi ông mua một cái xe đạp rồi nhẩy phốc lên yên, các ông phây phây cho xe thả dốc từ thành phố Ðà Lạt sương mù bon bon ve ve veo veo rẹt rẹt xuống tỉnh Phan Rang! Mèn ơi..! Các ông tưởng nửa đêm đi xe đạp xuống đèo là dzễ ợt, là ngon ăn lắm sao? Các ông lạc quan quá đi mất. Mười ông xe đạp tuột dốc xuống Ðèo Ngoạn Mục, tức Ðèo Bellevue, bảo đảm 8 ông, cùng với xe, bay tuốt xuống vực, 2 ông nằm chèo queo bên vệ đường.  Bảo đảm năm chăm phần chăm! Ban đêm đi xe đạp xuống đèo các ông bay xuống vực nhanh hơn ban ngày nhiều!
Rất may là Tháng Tư năm 1946, ở Ðà Lạt, ông TV Tuyên không nghe theo lời đề nghị làm cuộc “Thiết mã bán dạ hạ san”, nôm na là “Nửa đêm ngựa sắt xuống núi.” Nếu buổi tối lịch sử 55 năm xưa ấy ông Trưởng Ban Nghi Lễ Trần Văn Tuyên mở cặp da lấy tiền, phát cho mỗi ông trong phái đoàn 100 đồng bạc Ðông Pháp Ngân Hàng – Banque de L’Indochine Francaise – và các ông này, cho là 10 ông còn gân tự cho mình có thể đi xe đạp cả trăm cây số, nửa đêm kéo đến đập cửa tiệm bán xe đạp ở chợ Ðà Lạt…, lịch sử sẽ ghi tội ác tày trời của bọn D’Argenlieu, Pignon: tội thủ tiêu các ông chính khách Việt Nam trong phái đoàn hoà đàm và liệng xác những ông này xuống vực!
Theo lời kể của ông TV Tuyên, tôi thấy trong cuộc hoà đàm năm xưa ở Ðà Lạt có các ông Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Hồ Hữu Tường:
Trích: Những ngày cuối cùng.
3-5-1946. 3 giờ chiều họp đại hội công đồng, 2 phái đoàn Việt Pháp.
Anh Hồ Hữu Tường ngao ngán ghé tai tôi, nói: “Khổ lắm!” Ngưng trích.
Sau năm 1954 ông Hoàng Xuân Hãn sang sống ở Pháp, ông sống bình an, chết trong bình an, ông Nguyễn Mạnh Tường bị bọn Hồ Chí Minh, Lê Duẩn đầy ải, chết trong tức tưởi ở Hà Nội, ông Hồ Hữu Tường sống ở Sài Gòn, bị bọn Bắc Cộng bắt đi tù năm 1977, ông chết trong Trại Tù Khổ Sai Hàm Tân.
Và đây là vài chuyện xẩy ra trong cuộc gọi là « Hoà đàm Việt Pháp » ở Ðà Lạt Tháng 4, Tháng 5 năm 1946:
Sách đã dẫn. Trích:
Tại bữa cơm, Ðô đốc D’Argenlieu tiếp đãi tử tế. Ăn xong, ông móc túi lấy bản diễn văn ra đọc. Ông nói rất nhiều về chủ trương Liên Bang Ðông Dương của Pháp.
Theo quyết định của anh em, anh Nguyễn Tường Tam trả lời bằng tiếng Việt Nam. Anh Nguyễn Văn Huyên làm thông ngôn.
Vụ nói bằng tiếng Việt này làm cho Pháp hết sức ngạc nhiên. Sau này, trong một buổi họp, Ðô đốc D’Argenlieu đã mỉa mai những người Việt Nam vô ơn, bạc nghĩa, ăn bánh mì mòn cả răng ở Paris, nay lại làm bộ không biết nói tiếng Pháp.
Thực ra, chúng tôi đã quyết định như vậy vì nhiều lí do thực tế:
1 – Tinh thần dân tộc.
2 – Ðể người nói có thì giờ suy nghĩ.
3 – Và nếu cần, để người thông dịch sửa chữa những sơ hở của người nói.
Ngưng trích.
Ðây là chuyện ông Trưởng Ðoàn Nguyễn Tường Tam nằm mộng theo lời kể của ông Trần Văn Tuyên:
Anh Tam kể chuyện nằm mộng thấy một con thiêu thân và một giọt nước đường.
Con thiêu thân muốn hút nước đường nhưng ngập ngừng không dám. Một con nhện sa xuống nuốt con thiêu thân.
Không thấy một con chim sa xuống nuốt con nhện và người cầm súng bắn con chim.
Giấc mộng oái oăm thay.
Ngưng trích.
Cứ như lời kể thì “giấc mộng : nước đường, thiêu thân, nhện” của ông Trưởng Ðoàn Nguyễn Tường Tam năm xưa đó “oái oăm” thật.
Ông Trần Văn Tuyên kể chuyện ông và Võ Nguyên Giáp:
Buổi trưa, anh Võ nguyên Giáp mời ăn cơm.{CTHР: VN Giáp mời một mình ông Trần Văn Tuyên.} Ðã từ lâu chúng tôi không gặp riêng nhau để nói chuyện. Kể chuyện cũ, nhắc đến những người bạn chung còn hay đã mất, nhắc lại những kỷ niệm về chị Minh Thái (Vợ anh Giáp, chết trong tù của Pháp, trong khi anh sống ở Trung Hoa.)
Anh thực thà nhận có phần lỗi vì không thường gặp tôi để biết rõ tình thế, để đến nỗi có những chuyện “hồ nghi”. Anh khuyên tôi hãy trở về hàng ngũ anh em tranh đấu, và biết tôi thích đọc sách, anh hứa sẽ cho mượn mấy quyển sách vừa mới nhận được.
Câu cuối cùng của anh là câu tiếng Pháp “Alors, tu restes mon ami?”
Chúng tôi siết tay nhau lần chót. Từ đó, mỗi kẻ một đường.
Dòng thời gian nhẹ một ánh bay…! Những ngày như lá, tháng như mây…! Ông Trần Văn Tuyên dự Hoà Ðàm Việt Pháp ở Ðà Lạt Tháng Tư năm 1946, ông viết về cuộc hòa đàm ấy khi ông ở Sài Gòn chắc là vào những năm 1960-1965, năm 2000 ở Kỳ Hoa Ðất Trích, tôi đọc những lời ông kể trong quyển Từ Ðiển Tác Giả Việt Nam, sách xuất bản năm 1999 ở Sài Gòn.
Năm 2005 tôi đọc lời kể về những ngày cuối cùng của ông Trần Văn Tuyên trong trại tù khổ sai cộng sản ở miền Bắc Việt Nam. Người viết, người kể chuyện là ông Hoàng Minh Lê Hồng Tuấn, một người tù chứng kiến những ngày sống cuối cùng của ông Trần Văn Tuyên. Ông Hoàng Minh Lê Hồng Tuấn đi HO sang Kỳ Hoa Ðất Trích, đã từ trần, ông để lại tập Hồi Ký mà các bạn ông đặt tên là Di Bút của một Người Tù.
Mời quí vị đọc một số trang
DI BÚT CỦA MỘT NGƯỜI TÙ. Hồi ký của Hoàng Minh Lê Hồng Tuấn
Ðăng trên Tạp Chí CON ONG-Houston, Texas.  Số 164165, Tháng 3, Tháng Tư 2005.
Tù chưa bao lâu mà sức đề kháng của anh em đã sút giảm thấy rõ, kéo theo sự bạc nhược về tinh thần. Mỗi lần nhìn Niên trưởng Dương Ðức Thụy tôi lại thấy đau xót như nhìn sự tàn tạ của chính tôi, của chế độ nay đã bị diệt vong. Niên trưởng thường hay ngậm ngùi nhắc lại cái ngày xưa của mình, rồi buông thõng một câu .. Si les vieux pouvaient..” Anh Trần Văn Tuyên thì tỏ rõ thái độ của người quân tử bị mắc bẫy tiểu nhân. Thái độ nhẫn nhục bên ngoài không che được cái cuồng nộ bên trong. Những buổi trưa vắng người, tôi thường ra góc sân vắng ngồi cho thảnh thơi tâm trí, tôi hay gặp anh Tuyên ở đó. Anh hay ngẩng đầu nhìn lên ngọn cau. Tôi hỏi anh tại sao anh kẹt lại? Anh nói nếu anh muốn đi thì anh đã đi từ lâu, nhưng anh không làm thế được. Nhục lắm. Hỏi anh liệu Miền Nam còn trung lập được bao lâu nữa, cái gọi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” liệu còn tồn tại được bao lâu nữa, và số phận của đám Mặt Trận này sẽ ra sao? Anh nói: “Nếu chúng nó thông ra thì chúng nó đừng làm cái trò đấu tố khốn nạn chúng đã làm ở miền Bắc năm 1954, 1956. Cái tàn ác nhất của bọn cộng sản là chính sách đấu tranh giai cấp. Thằng Trường Chinh còn đó, nó lại đang nắm nhiều quyền hành. Thằng đó ác lắm. Số phận bọn Mặt Trận Giải Phóng rồi cũng chẳng khác gì anh em mình bây giờ.”
Anh luôn luôn nghĩ đến tình trạng đáng thương của đồng bào miền Nam nay bị xâu xé, bóc lột, đầy ải không khác cảnh ngộ đồng bào miền Bắc hồi năm 1954, 1956. Anh bảo đó là một đại họa cho đất nước. Anh bảo những người Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam không cộng sản rồi sẽ bị thanh trừng. Cộng sản luôn luôn làm như vậy để trừ hậu hoạn.
Anh Tuyên rất dị ứng với những “danh từ mới”. Mấy anh buồng trưởng thì lại xử dụng những danh từ mới ấy rất trơn tru. Anh Nhâm, buồng trưởng của anh Tuyên, cũng không tránh khỏi cái “nghiệp” đó nên tôi thường nghe anh Tuyên than phiền về tình trạng “hội nhập” quá nhanh của các vị ấy với cái gọi là “chế độ mới”. Phạm Thành Ngọc thì rất tếu, anh nhái tiếng Bắc kỳ mới” một cách diễu cợt rất tức cười. Anh Nhâm biết nhưng cứ tảng lờ như không biết, cứ tuôn ra những “từ” như “thành khẩn, khẩn trương, khắc phục, đăng ký, điển hình, tiên tiến, bảo quản, tích cực, tiêu cực, làm tốt, lên lớp..vv…” 
Vũ Văn Quý thì chỉ có hai đề tài: Những chuyện linh tinh, vui vui, buồn buồn trong Quốc Hội của ta và chửi cộng sản. Bất cứ cái gì của cộng sản anh cũng nhìn ngay ra mặt xấu và tìm ra ngay được những lời tàn tệ nhất để diễn tả. Những lần lên hội trường xem TiVi, anh thường kéo tôi ngồi vào một góc với anh để trong suốt buổi xem, rỉ rả rót vào tai tôi những lời phê bình vừa cay nghiệt vừa tức cười về những hình ảnh trên TiVi.
Ngày 23 tháng 11 năm 1976 trời mưa tầm tã. Chúng tôi đang ngồi nghe đọc báo thì cán bộ Thoại đội mưa vào gọi buồng trưởng ra ngoài hành lang. Một lát sau, Phạm Thái vào thông báo sẽ có một buổi sinh hoạt buồng vào ngày mốt, nội dung sẽ cho biết sau.
Sau bữa ăn trưa, tôi đang ngồi một mình thì Phạm Duy Tuệ và Ðặng Văn Tiếp tới, nói rằng sẽ có một buổi sinh hoạt để anh em phát biểu ý kiến, nói lên nhận thức của mình trong quá trình học tập cải tạo.
Mưa đã tạnh nhưng trời đất sũng nước. Chúng tôi gặp nhau ngoài sân bàn về buổi sinh hoạt sắp tới. Anh Ðỗ Sinh Tứ đến đứng với các anh Trần Văn Tuyên, Phạm Duy Tuệ, Trần Cảnh Chung, Ðặng Văn Tiếp và tôi ở góc sân, một lúc thì có Nguyễn Xuân Phong ghé vào. Chúng tôi đứng nói chuyện mãi cho đến lúc kẻng đánh báo giờ điểm danh, vào chuồng.
Khi xếp hàng vào chuồng, anh TV Tuyên bảo tôi: “Chúng nó giở trò cho anh em mình tự chửi bới với xâu xé nhau đấy.”
Vào buồng, lần đầu tiên tôi thấy các anh trong Việt Quốc nói chuyện một cách “nghiêm túc”. Các anh Phan Minh Thám, Phan Vỹ, Trần Thích nói nho nhỏ với nhau. Có lẽ các anh cũng nghĩ như anh TV Tuyên. Buồng trưởng Phạm Thái vẫn bộ mặt bì bì vô cảm, ngồi một mình, quay mặt nhìn ra cửa sổ. Thượng nghị sĩ Nguyễn Văn Mân nằm cạnh tôi, anh ngồi tưạ lưng vào tường, khoanh tay, nhắm mắt. Anh người nhỏ bé, đi lại nhẹ nhàng, ăn nói nhỏ nhẹ, giọng miền Trung ấm áp. Anh sống như một cái bóng.
Buổi sáng như thường lệ anh Tuyên ra hồ tắm sáng, anh vẫn tắm buổi sáng như vậy từ khi ra đây, mặc dầu bây giờ trời đã chớm đông.
Buổi sinh hoạt được tổ chức trong buồng. Cái bàn gỗ tạp vẫn để sát tường hôm nay được lau chùi kê ra giữa buồng. Một cái ghế được đem vào. Chúng tôi tề tựu đông đủ. Anh Tuyên ngồi sau anh Ðồng Tuy, tôi ngồi sau lưng anh Tuyên, bên cạnh anh Tuyên là anh Triệu Huỳnh Võ và anh Vũ Văn Vỵ.
Cán bộ kéo đến, đứng lố nhố bên ngoài. Khi cán bộ Thoại mới nói mấy câu mở đầu, tôi thấy anh Tuyên một tay ôm đầu, một tay chống xuống sạp. Hai anh ngồi kế chưa kịp ôm anh thì anh ngã ra sau, anh ngã vào ngực tôi. Tôi đỡ gọn anh vào lòng. Chỉ nghe anh nói được ba tiếng: “Không sao đâu!” Rồi anh thiếp đi. Tôi bồng anh, cùng với anh Vỵ, đặt anh nằm vào chỗ nằm của anh Ðồng Tuy ở góc buồng, gần cửa sổ lớn, lấy mền đắp cho anh, anh Vỵ xoa dầu nóng cho anh. Anh nằêm thiêm thiếp, nhắm mắt.
Buổi họp tiếp tục, bây giờ có mấy anh thành phần đảng phái quốc gia tự nhận đảng của mấy anh là đảng phản động. Mấy anh này kể ra “quá trình chống phá cách mạng của Ðảng anh và bản thân anh” rồi nói lên những suy nghĩ bây giờ nhờ được cải tạo. Hầu hết các anh nói những lời chung chung và hưá sẽ cải tạo tốt. Chỉ có hai anh Phạm Thái và Ðoàøn Thái là tích cực nhận tội, tự sỉ vả mình, nên được cán bộ ghi nhận là “có nhiều trăn trở.” Một số anh em khác cũng phải phát biểu, như anh Nguyễn Văn Thành, nghị viên Ðàlạt, các anh Ðoàn Quang Tuyên, Phan Vỹ, Trần Thích. Theo nhận xét của Niên trưởng Vũ Văn Vỵ lời nói của hai anh Phan Vỹ, Trần Thích là khôn ngoan và khéo nhất.
Trong suốt buổi họp, anh Vỵ mấy lần xin phép rời chỗ đến xem anh Tuyên. Anh Tuyên vẫn nằm thiêm thiếp, dấu hiệu duy nhất của sự sống nơi anh là ngực anh phập phồng nhẹ nhẹ.
Buổi sinh hoạt chấm dứt. Chúng tôi xúm lại chỗ anh Tuyên nằm. Anh Vỵ chạy ra nói với cán bộ Thoại. Cán bộ Thoại vào buồng nhìn anh Tuyên nằm rồi đi ra. Nhiều anh em buồng 1 họp xong chạy sang thăm hỏi anh Tuyên, trong số có Trần Cảnh Chung. Chung tỏ ra rất lo âu, anh là bạn của con anh Tuyên, Trần Tử Huyền.
Nửa giờ sau cán bộ Thoại trở lại với một cán bộ y tá. Cán bộ này nghe tim, bắt mạch, chích cho anh Tuyên một mũi thuốc.
Anh Tuyên nằm lại tại chỗ của anh Tuy. Anh cứ nằm bất động, không một lần tỉnh lại hay cựa quậy. Anh Vỵ cứ quanh quẩn bên chỗ anh Tuyên. Tôi cảm động vì mối giao tình của hai anh. Anh Vỵ khóc, những giọt nước mắt cứ lăn trên gò má răn reo của người tù già. Anh Vỵ và tôi hai lần thay quần cho anh Tuyên. Không có dấu hiệu nào cho thấy anh Tuyên biết được những việc xảy ra quanh anh. Anh Vỵ chốc chốc lại ghé tai gần mũi anh Tuyên xem anh còn thở hay không.
Sáng hôm sau, cán bộ Thoại vào phòng với cán bộ y tế. Rồi xe ô tô của trại đến cổng khu, cán bộ Thoại ra lệnh mang anh Tuyên ra xe.
Tôi cuộn anh Tuyên trong cái mền anh đang đắp, bồng anh ra xe. Trần Cảnh Chung nhẩy lên chiếc xe tải chở vật liệu xây cất, dẹp một chỗ để anh Tuyên nằm. Anh Tuyên vẫn thiêm thiếp.
Xe chạy. Anh em bị lùa vào khu. Cửa cổng khoá lại. Hôm ấy không ai làm gì được. Tất cả lóng ngóng chờ tin anh Tuyên. Mãi đến chiều cán bộ Thoại mới vào cho biết anh Tuyên được đưa ra bệnh viện tỉnh.
Chúng tôi đã quen với bộ bà ba trắng, mái đầu bạc, cái chân sưng tấy của anh Tuyên. Bây giờ vắng anh, tôi thấy tôi vừa mất đi một cái gì rất thân thiết. Anh Ðặng Văn Tiếp nói anh Tuyên khó qua khỏi vì như thế là anh Tuyên bị đứt gân máu, xuất huyết não. Tôi ngậm ngùi nói tội thay, ở sông, ở biển không chết, chết trong vũng trâu đằm..
Từng đi bốn bể, chín chu
Trở về xó bếp chuột chù gặm chân.
Vào buồng, Buồng trưởng Phạm Thái long trọng” cho chúng tôi biết anh Tuyên “được ban quản đốc Trại chiếu cố đưa về bệnh viện tỉnh cứu chữa.”
Ðầu chỗ nằm của anh Tuyên có vài quyển sách, một số giấy tờ. Anh Tuyên có quyển “Communism and how to fight it?” Anh Vỵ lấy đem về chỗ anh.
Khoảng 9 giờ sáng hôm sau, cán bộ Thoại vào, nói tuy được tận tình cứu chữa, nhưng bệnh quá nặng, anh Tuyên đã mất lúc 2 giờ sáng (ngày 29 tháng 11, 1976). Chúng tôi lặng người đi.
Cán bộ Thoại đi rồi, anh em Buồng 1 sang bàn chuyện nay cử ai đại diện anh em đi đưa anh Tuyên đến nơi an nghỉ. Anh Ðặng Văn Tiếp đưa ra ý kiến nên có đại diện dân cử, đảng phái, tôn giáo.
Chưa đầy nửa tiếng đồng hồ sau, Trại trưởng Dũng vào buồng 1, ra lệnh tập họp anh em hai buồng lại nghe y nói chuyện. Lố nhố bên ngoài là Trại Phó, An ninh, Trựïc trại, Giáo dục. Trại trưởng Dũng nói anh Tuyên chết vì bệnh, tuổi già. Việc cử đai diện này nọ đi đưa đám là không được. Y hỏi: “Các anh còn đoàn thể, đảng phái gì nữa? Các anh đại diện ai, đại diện cái gì? Ðã vào đây mà các anh còn chưa bỏ tư tưởng phản động! ” Rồi Y gằn giọng: “Các anh vi phạm kỷ luật của Trại..!” Y nói nhiều câu đe doạ trừng phạt rồi đi ra.
Nhưng rồi trại cũng cho vài người trong 2 buồng đi đưa đám anh TV Tuyên. Buồng 2 có hai người đi là Phạm Thái với tư cách Buồng trưởng, anh Vũ Văn Vỵ là bạn thân của người quá cố.
Tôi nhờ anh Vỵ lậy anh Tuyên dùm tôi ba lậy, nhiều anh em khác cũng nhờ anh Vỵ lậy dùm như thế. Ðồ của anh Tuyên được đem ra cho cán bộ kiểm kê, lập biên bản, cất vào kho tang vật. May mà anh Vỵ đã lấy được mấy quyển sách và số giấy tờ của anh Tuyên.
Chiều hôm ấy trời mưa rất lớn. Mãi đến khoảng 9 giờ tối anh em đi đưa đám anh Tuyên mới trở về buồng. Sau khi thay đồ, Buồng truởng Phạm Thái yêu cầu anh em ngồi lên nghe anh tường trình về đám ma. Anh mở đầu bằng những câu ca tụng sự khoan hồng và nhân đạo cuả Ðảng và Nhà nước, thể hiện trong việc tận tình cứu chữa anh Tuyên và việc chôn cất anh rất đàng hoàng, có cả lễ nghi tôn giáo, mộ có bia ghi tên người quá cố…
Phạm Thái nhắc đi, nhắc lại sự khoan hồng, lòng nhân đạo của Ðảng và Nhà Nước, sự tống tiễn chu đáo của Trại, giọng nói của anh đều đều, vô cảm, hoà nhịp với tiếng mưa rơi làm cho cảnh buồng giam đã ảm đạm đêm nay trở thành vô cùng thê thảm. Chúng tôi ủ rũ ngồi nghe, thương người vưà nằm xuống, giận tình đời đen bạc, khinh bỉ bọn thò lò sáu mặt, rồi thương thân mình. Những lời ca tụng lòng nhân nghĩa của “Cách mạng” như dao cưá, muối xát vào tim chúng tôi.
Cái chết của anh Trần Văn Tuyên gây xúc động sâu xa trong lòng chúng tôi. Với nhiều anh em chúng tôi, anh TV Tuyên là người bạn quí, là người anh gương mẫu, là người cha hiền. Thái độ khinh thị và những lời đe doạ của Trại trưởng Dũng làm chúng tôi tủi nhục, uất ức. Nhưng chúng tôi như những con cua gẫy càng, bị nhốt trong giỏ, còn chống cự gì được nữa!
Anh Vỵ bảo tôi rất có thể chúng nó chẳng đưa anh Tuyên đi cứu cấp, chữa trị gì cả, chúng nó chỉ cho xe chở anh đến chỗ nào đó, quăng anh nằm đấy. Anh chết rồi chúng nó đem về cho chôn. Anh Trần Cảnh Chung cũng cho là anh Tuyên chẳng được mang đi cứu cấp gì cả, chúng nó đem đi để nằm đâu đó cho chết. Anh Vỵ kể khi quàn xác anh Tuyên, chúng có chụp ảnh trước và sau khi quàn. Anh chỉ thấy có giấy chứng anh Trần Văn Tuyên đã chết của Trại, không thấy có giấy tờ gì của bệnh viện.
Ngưng trích

Dân biểu Trần Văn Tuyên, người bận com-lê đứng trước hàng dây thép gai, trong cuộc biểu tình “Ký giả đi Ăn Mày,” Sài Gòn năm 1974.
Tôi, Công Tử Hà Ðông, cũng nghĩ như các ông bạn tù của ông Trần Văn Tuyên: Bọn Cai Tù không đưa ông Tuyên đi cứu cấp. Sợ phản ứng của những tù nhân, chúng đã nói dối, chúng đã làm giả. Tôi thán phục sự nhận biết sắc bén của những ông tù VNCH: mới chỉ có một ông tù chết, các ông đã thấy ngay sự dối trá, hèn và tàn ác của bọn Cai Tù Cộng sản. Bọn chúng coi mạng sống của người bị chúng bỏ tù không ra cái gì cả. Ðây là chuyện chúng đối xử với người tù Thượng Toạ Thích Ðức Nhuận khi ông bị ngất trong phiên toà xử “tội chống Cộng” của Tổ chức Già Lam. Tôi biết rõ chuyện này.
Năm 1982 một tổ chức chống Cộng bị bọn Công An Thành Hồ phá và bắt. Tổ chức tương đối lớn, đông người, có võ trang, tức có súng, dự định mở chiến khu đánh lại bọn cộng sản. Nhiều người của tổ chức bị bắt ở Sài Gòn, Hố Nai, Huế, Nha Trang. Trong số những người bị bắt có nhiều tu sĩ Phật Giáo và những người tín đồ Thiên Chuá Giáo. Những người bị bắt năm 1982 không chịu khai ra những lãnh tụ của họ. Cuộc điều tra kéo dài mãi cho đến năm 1984. Một người trong tổ chức bị bọn điều tra giam trong sà-lim ở Nhà Tù Chí Hoà đến ba năm. Chúng giam người này trong sà-lim với lời nói thẳng: “Khai nhóm lãnh đạo thì cho ra khỏi sà-lim, không khai thì cứ nằm trong đó.” Ba năm qua, chịu đựng khổ cực hết nổi, người bị giam phải cung khai. Trong một ngày bọn Công An Thành Hồ đi bắt ba người: Sư Nữ Thích Trí Hải, Sư Ông Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Sư Ông Tuệ Sỹ Phạm Văn Thương. Một tháng sau chúng bắt thêm Thượng Toạ Thích Ðức Nhuận.
Tổ chức chống Cộng ấy xuất phát từ Chùa Già Lam, Phú Nhuận, nên được anh em tù gọi là Nhóm Già Lam. Ðây là tổ chức chống Cộng có võ trang đông người, nhiều người nổi tiếng, bị giam lâu nhất ở Nhà Tù Chí Hoà. Bị bắt từ năm 1982, rồi có người bị bắt thêm năm 1984, bị giam mãi đến năm 1988 bọn Công An Thành Hồ mới đưa Tổ chức Già Lam ra toà xử.
Phiên toà kéo dài hai ngày. Buổi chiều ngày xử thứù hai, Thượng Toạ Thích Ðức Nhuận, bị ngất, ngã trong phòng xử. Bọn Công An áp giải tù vào khiêng Thượng Toạ ra ngoài. Chiều hôm ấy chúng tuyên án: Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sỹ Phạm Văn Thương tử hình, TT. Thích Ðức Nhuận tù 10 năm, nhiều người tù 20 năm, 18 năm, 15 năm. Người tù nhẹ án nhất trong tổ chức là 4 năm: Sư Nữ Thích Trí Hải.
Tối xuống, những người tù Già Lam từ toà án trở về nhà tù Chí Hoà mà không có TT. Ðức Nhuận cùng về. Mọi người đều nghĩ Thượng Tọa được đưa đi bệnh viện cứu cấp, nếu không được đưa đi BệnhViện Chợ Rẫy thì ít nhất ông cũng được đưa về nằm trong cái gọi là trạm xá y tế của nhà tù Chí Hoà. Hai tử tù Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sỹ Phạm Văn Thương bị đưa ngay sang khu Tử Hình.
Tất cả mọi người trong phòng tù đều cho là Thượng Toạ Thích Ðức Nhuận được đưa đi cứu cấp. Hôm sau khoảng 11 giờ trưa chúng tôi thấy Thượng Tọa được đưa vào phòng. Trông ông xanh xao, vàng ủng, yếu đến dễ sợ. Vào phòng ông kể chuyện, anh em chúng tôi mới biết…
Thượng Tọa không được cứu cấp chi cả. Chiều qua khi ông ngã ngất ở toà án, hai tên công an khiêng ông ra, cho ông vào xe chở tù. Xe này do Liên Xô chi viện, là xe chở nhóm tù Già Lam ra toà. Trong xe có một ngăn kín dùng để nhốt những tù nhân nguy hiểm, hung dữ. Chúng bỏ Thượng Toạ vào ngăn đó, đóng cửa lại và bỏ mặc ông trong đó. Khi những người Tù Già Lam lên xe trở về Chí Hoà, không ai biết có TT. Ðức Nhuận ở trong ngăn tù kín trong xe. Trong ngăn, TT có kêu người bên ngoài cũng không nghe tiếng. Xe về đến Nhà Tù Chí Hoà, bọn áp giải tù quên mất có một người tù bị chúng nhốt trong ngăn cách ly. Chúng bỏ quên TT. Ðức Nhuận trong xe.
Nhờ không bị còng tay, còng chân, không bị xiềng vào cái ghế sắt nên TT. Ðức Nhuận chỉ khổ mà không chết. Sáng hôm sau thấy trên mui xe có một lỗ hổng thông hơi, ông đứng lên ghế, thò tay qua lỗ thông hơi ra ngoài, vẫy vẫy. Ông gầy ốm, bàn tay và cổ tay ông nhỏ síu nên mới thò qua được lỗ thông hơi. Một tên công an đi qua bãi đậu xe, trông thấy có bàn tay người trên nóc xe vẫy vẫy, bèn đi lấy chìa khoá mở cửa xe, đưa ông vào phòng tù. Nếu Thượng Toạ Thích Ðức Nhuận không thò được bàn tay ra trên nóc xe tù, ông đã chết khô trong xe.
o O o
Những ngày như lá, tháng như mây…
Bấy giờ là Tháng mấy, năm bao nhiêu? Em nhớ không Em? Hôm nay anh nhớ: Vào khoảng 11 giờ trưa một ngày Tháng 10, hay Tháng 11 năm 1988, anh ở trần, quần sà lỏn, ngồi giữa đám anh em người nào cũng quần sà lỏn, ở trần. Phòng tù đông tù, láo nháo những người, lao xao tiếng người, qua hàng chấn song sắt anh nhìn thấy thằng Cai Tù áo vàng đưa Thuợng Tọa Thích Ðức Nhuận về phòng. Ðến lúc ấy tất cả mọi người vẫn tưởng  Thượng Toạ về phòng từ cái gọi là trạm xá y tế của Nhà Tù. Năm phút sau khi ông vào phòng, anh em tù được biết suốt đêm qua ông bị chúng nó bỏ quên trong xe chở tù.
Tháng 10, tháng 11 năm 1988, ở Sài Gòn, thành phố thủ đô thân thương của chúng ta, thành phố đôi ta gặp nhau, yêu nhau và đôi ta thành vợ chồng, anh mới 50 tuổi, em mới 40 xuân xanh. Thực ra thì năm ấy anh 54, 55, em 52, 53 chi đó, nhưng nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ ấy: 55 tuổi anh mới 50, 50 tuổi em mới 40: năm ấy đôi ta còn trẻ lắm. Qua bao nhiêu đau thương, bao nhiêu vỡ tim, bao nhiêu dâu biển, bánh xe tị nạn đưa đôi ta đến Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Ðất Trích, anh đọc những trang người tù kể chuyện xưa và trong 543 sát-na anh thấy anh ốm nhách, anh ở trần, anh quần sà lỏn, anh râu ria, anh ngồi giữa đám anh em lao nhao, lao xao trong Phòng Tù Số 20 Khu FG Nhà Tù Chí Hoà, anh nhìn thấy Thượng Toạ Thích Ðức Nhuận xanh xao đứng ngoài hàng lang chờ thằng cai tù Việt Cộng nó lạch cạch khoá sắt mở cửa phòng tù cho ông vào. Suốt đêm qua bọn cai tù cộng sản ác ôn bỏ quên ông trong xe tù của chúng. Từ lúc 3 giờ chiều hôm qua khi ở phòng xử toà án, ông ngã ngất đến lúc này là 11 giờ trưa ông không được uống một miếng nước. Nếu trong mười mấy giờ vưà qua ông có chết, bọn cai tù sẽ nói chúng có đưa ông đi cấp cứu đàng hoàng, nhưng ông chết..
Như chúng đã nói như thế về  Người Tù Trần Văn Tuyên!
Và 30 năm sau những ngày sống u ám, tuyệt vọng của đôi ta ở Sài Gòn, hôm nay anh ngồi bình an trên đất Mỹ đọc chuyện xưa, nhớ chuyện xưa, anh viết những dòng này. Em yêu ơi.. Bọn cộng sản ác ôn chúng nó bỏ tù, chúng nó giết ông Thủ Tướng Phan Huy Quát của chúng ta ở Nhà Tù Chí Hoà, chúng nó bỏ tù, chúng nó giết ông Phó Thủ Tướng Trần Văn Tuyên của chúng ta ở một trại tù khổ sai miền Bắc. Không phải chúng chỉ bỏ tù, chúng chỉ giết có hai ông ấy, chúng bỏ tù 5,546,834 nhân vật quốc gia của chúng ta, chúng giết 3,765, 832 người trong số đó. Anh không thù, anh không hận chúng nó sao được!
Dzậy mà em thấy đấy, ở Mỹ này có những thằng dám mở mồm bảo, khuyên anh “Quên hận thù bọn cộng sản đi. Ðừng kể chuyện Tù Ðầy nữa!” Những thằng khốn nạn ấy không bằng loài chó!
Anh sẽ còn tính chuyện phải quấy với những thằng khốn kiếp đó dài dài!
 http://hoanghaithuy.wordpress.com/2011/10/21/nguoi-tu-kho-sai-tran-van-tuyen/

No comments: