Monday, October 17, 2016

NGUYỄN ĐỨC KIÊN - TRUNG CỘNG - BIỂN ĐÔNG

NGUYỄN ĐẮC KIÊN * ĐỘC ĐẢNG

Cái khốc hại của độc đảng


130226131543_nguyen_dac_kien_304x171_bbc_nocreditKhi tôi gửi những bài viết đầu tiên cho Ban biên tập Cùng Viết Hiến Pháp, tôi có nhắn gửi rằng, tôi hiểu việc ký tên vào bản Dự thảo Hiến pháp của nhóm 72 trí thức, cũng như việc tham gia trang Cùng Viết Hiến pháp, không đơn thuần chỉ là để có một bản Hiến pháp tốt, mà cái quan trọng hơn là để thức tỉnh người dân về quyền và trách nhiệm công dân của mình.
Khi bài viết “Vài lời…” của tôi được lan truyền, nhiều người, có cả những đảng viên ở cấp cao đã nhắn gửi tôi rằng, họ khâm phục, họ kính trọng việc làm của tôi, rằng họ hèn…
Chuyện người dân không ý thức hết về quyền công dân của mình, hay chuyện những người bạn tôi nhận họ hèn mới nhìn qua thì không có gì nghiêm trọng. Nếu có ai đó coi là chuyện thường tình, nhỏ nhặt thì cũng chẳng đáng ngạc nhiên.  Nhưng ít người biết rằng, những sự tệ hại xấu xa nhất mà xã hội con người có thể tạo nên lại có thể xuất phát từ những “thường tình, nhỏ nhặt” đó.
Gần đây, người ta quay lại tranh luận về chuyện độc đảng hay đa đảng. Có những lý lẽ xem chừng rất thuyết phục được đưa ra, như lý lẽ của Thiếu tướng Lê Văn Cương. Tại sao Trung Quốc độc đảng vẫn phát triển vượt xa một Ấn Độ đa đảng? Hay tham nhũng, suy thoái kinh tế nước nào chẳng có, đâu cứ nước độc đảng… quan trọng là cách thiết kế bộ máy, cách kiểm soát để hạn chế tham nhũng, lũng đoạn.
Nếu chỉ nhìn ở góc độ một nhà nước để cai trị, rất khó để phủ nhận lập luận của Thiếu tướng Cương. Emmanuel Poisson còn chỉ ra rằng, bộ máy quan lại trong chế độ quân chủ phương Đông là một thiết kế đáng ngạc nhiên về độ hiệu quả và ổn định khi nó đã tồn tại hàng nghìn năm, các triều đại thay nhau, nhưng thiết kế bộ máy thì không mấy thay đổi(*). Hay là chúng ta quay trở lại chế độ vua quan?
Có lẽ chẳng ai thèm đếm xỉa đến câu hỏi ngớ ngẩn này. Nếu chỉ đặt mục tiêu cai trị thì thiết kế của nhà nước quân chủ phương Đông thật đáng tham khảo, nhưng nếu đặt mục tiêu phát huy phẩm giá, nhân cách con người, quyền làm chủ của nhân dân thì chúng ta sẽ phải suy nghĩ khác.
Độc đảng hay đa đảng khác nhau căn bản không phải hình thức tồn tại của nó mà ở phương thức để nó duy trì sự tồn tại của mình. Nhà nước độc đảng, cũng giống như nhà nước quân chủ chuyên chế và thực dân, muốn tồn tại và hợp thức hoá sự lãnh đạo của mình, không thể không viện đến một hệ thống áp chế về tư tưởng, nô dịch về văn hóa và trói buộc về tư duy. Một cách tự nhiên, trong hệ thống đó, mọi sự khác biệt đều không được khuyến khích, thậm chí bóp nghẹt. Nếu nhà nước có thể biến tất cả những thần dân thành những chú cừu ngoan ngoãn thì càng tốt. Những chú cừu ngoan ngoãn đó vẫn có thể sản xuất ra thật nhiều của cải, để làm đẹp các con số thống kê, nâng cao bảng thành tích. Cuối cùng, chính những bảng thành tích đó lại có thể dùng làm bằng cớ cho sự ngụy biện của giới cai trị. Nhưng có một điều bất biến, những chú cừu đó chẳng bao giờ được khuyến khích để có thể tự ý thức như những con người.
Vì thế có những người thừa nhận với tôi là họ hèn như một sự hiển nhiên không cần phải giấu giếm. Sự đó có thể vô hại trong trường hợp này, nhưng hãy tưởng tượng, một xã hội toàn những con người mà những phẩm giá bị giũ bỏ, coi khinh như một lẽ thường tình thì xã hội đó sẽ như thế nào?
Người ta dễ dàng tránh xa và lên án những tội ác hiển nhiên như giết người, cướp của, nhưng không mấy ai biết xã hội ngày càng tồi tệ đi, không thể cứu chữa nổi là từ những cái tội khó quy thành tội, từ những cái ác khó quy thành ác được dễ dàng thoả hiệp và diễn ra hàng ngày.
Tôi tin rằng, nếu ĐCS VN có được đội ngũ lãnh đạo tốt, một cơ chế kiểm soát  quyền lực đủ mạnh, họ có thể dẫn dắt đất nước đạt nhiều thành tích đáng kể về kinh tế, nhưng để phát huy quyền làm chủ và phẩm giá con người Việt Nam, họ sẽ không thể nào làm được nếu không tự rút súng bắn vào chân mình.
………………………………………………………….

TIN TỨC GẦN XA

Thủ tướng Ôn Gia Bảo kêu gọi cải cách chính trị ở Trung Quốc

Thủ tướng Ôn Gia Bảo lâu nay vẫn là người hay lên tiếng nói về cải cách nhất trong số các lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc
Thủ tướng Ôn Gia Bảo lâu nay vẫn là người hay lên tiếng nói về cải cách nhất trong số các lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc
CỠ CHỮ
Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã nhấn mạnh tới nhu cầu cần cải cách chính trị để bảo đảm tiến bộ kinh tế và ngăn chặn những mối đe dọa về bất ổn xã hội tại một cuộc họp báo có phần chắc là cuộc họp báo cuối cùng trước khi ông nghỉ hưu vào năm tới.

Ông Ôn đã phát biểu với các phóng viên ngày hôm nay sau khi kết thúc phiên họp thường niên của Quốc hội ở Bắc Kinh.

Ông Ôn nói rằng không có cải cách chính trị, Trung Quốc sẽ có nguy cơ đối mặt với sự bất ổn như đã xảy ra trong cuộc Cách mạng Văn hóa từ năm 1966 đến năm 1976.

Ông cảnh báo rằng các kết quả đạt được về kinh tế trong ba thập niên qua cũng có thể mất đi nếu không có cải cách chính trị.

Vị thủ tướng sắp rời chức lâu nay vẫn là người hay lên tiếng nói về cải cách nhất trong số các lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc, mặc dù cũng như những lần trước hôm nay ông đã đề cập rất mơ hồ đến những biện pháp cải cách cần thực hiện.
http://www.voatiengviet.com/content/china-politic-03-14-2012-142642376/1120206.html

Ôn Gia Bảo: Lãnh đạo cải cách hay chính khách mị dân?

 Thủ tướng Trung Quốc mãn nhiệm Ôn Gia Bảo (Reuters)

Thủ tướng Trung Quốc mãn nhiệm Ôn Gia Bảo (Reuters)

Thụy My
Nhân kỳ họp Quốc hội Trung Quốc, nhiều báo Pháp đề cập đến các khía cạnh khác nhau trong số báo ra ngày hôm nay. Nếu nhật báo cánh hữu Le Figaro quan tâm đến « Những bí mật của kỷ nguyên Ôn Gia Bảo », thì nhật báo kinh tế Les Echos chạy tựa trang nhất « Một thế hệ mới lên nắm quyền tại Trung Quốc ».

Tờ báo kinh tế Les Echos nhận định ở trang trong « Trung Quốc bắt đầu chuyển đổi sang một thập kỷ mấu chốt ». Còn nhật báo Le Monde nhận xét đây là một Quốc hội hết sức « people », tập trung nhiều nhân vật nổi tiếng.
Hôm nay, 05/03/2013, Thủ tướng Trung Quốc mãn nhiệm đọc diễn văn trước khi trao quyền lại cho người kế nhiệm là Lý Khắc Cường. Theo Le Figaro, tuy trong mười năm qua, ông Ôn Gia Bảo là khuôn mặt cởi mở của chế độ Bắc Kinh, nhưng theo những người chống đối thì ông đã từ chối mọi cải cách chính trị thực sự.
Tờ báo nhắc đến một tấm ảnh đen trắng chụp năm 1989, trong đó Ôn Gia Bảo là một cán bộ trẻ của đảng, đứng cạnh Tổng bí thư thời đó là Triệu Tử Dương. Người Tổng bí thư cải cách đã rơi nước mắt khi đến Thiên An Môn khuyên các sinh viên nên trở về nhà, và ít lâu sau, ông bị quản chế cho đến khi qua đời. Những người thân cận của Triệu Tử Dương đều bị trừng phạt, và cánh tay mặt của ông là Bào Đồng còn bị tống giam suốt bảy năm.
Làm thế nào ông Ôn Gia Bảo có thể sống sót về mặt chính trị, vì khi đó ông là chánh văn phòng của Triệu Tử Dương ? Làm thế nào ông thăng tiến nhanh chóng như thế, để trở thành người điều hành chính phủ Trung Quốc trong vòng một thập kỷ ? Bức màn bí mật vẫn chưa được vén lên.
Tất nhiên có những giải thích thuần lý : Ôn Gia Bảo lúc đó chỉ là một viên chức thừa hành, không quan tâm đến chủ trương tự do của thủ trưởng. Le Figaro cho rằng nếu bí mật của thời kỳ 1989 vẫn chưa được lý giải, thì lại có một câu hỏi khác thời sự hơn. Đó là : ông Ôn Gia Bảo thực sự là một người cải cách nhưng bị hệ thống trói tay, hay là một quý tộc đỏ muốn trưng ra hình ảnh cởi mở ?
Có một điều chắc chắn, Thủ tướng mãn nhiệm của Trung Quốc là lãnh đạo được yêu mến nhất trong thập kỷ vừa qua, là khuôn mặt nhân hậu của chế độ. Ông có mặt khắp chốn, đến những nơi vừa xảy ra thiên tai, ủy lạo các nạn nhân động đất, an ủi những công nhân Quảng Đông bất bình, trấn an giới trung lưu trước cơn sốt giá bất động sản…
Ông chơi banh với các cậu bé nông dân Cam Túc, uống trà trong lều du mục ở Nội Mông. Ôn gia gia luôn nở nụ cười, và những người hoài nghi cho rằng bộ đôi quyền lực Ôn Gia Bảo và Hồ Cẩm Đào đã chia nhau vai trò « ông Thiện, ông Ác ».
Ông cũng là người lãnh đạo thường xuyên nhắc đến từ dân chủ, một vấn đề còn bị nghi ngại tại nền kinh tế thứ nhì thế giới, đặc biệt là trong ba năm gần đây. Bài trả lời phỏng vấn đài CNN tháng 10/2010 của ông đã làm hao tốn nhiều giấy mực. Tại Fareek Zakaria, ông tuyên bố : « Chỉ khi nào có sự giám sát nghiêm ngặt của nhân dân thì chính phủ mới làm việc tốt hơn », « Khát vọng và nhu cầu dân chủ, tự do của người dân Trung Quốc là không thể đảo ngược ».
Cho dù là Thủ tướng, những phát biểu của ông cũng bị kiểm duyệt. Năm ngoái tại Luân Đôn, ông nói : « Không có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã hội. Và không có tự do thì không có dân chủ thực sự ». Vào mùa xuân 2010, Ôn Gia Bảo cũng bất ngờ vinh danh cố lãnh đạo Hồ Diệu Bang, mà cái chết của nhà cải cách này sau khi bị cách chức năm 1989 đã trở thành ngòi nổ cho vụ Thiên An Môn.
Thập kỷ Ôn Gia Bảo : Những năm tháng phí hoài ?
Cũng trong năm đó, một cuốn sách đã được xuất bản tại Hồng Kông cho dù bị Bắc Kinh đe dọa. Cái tựa « Ôn Gia Bảo, diễn viên tài năng nhất Trung Quốc », tự nó đã nói lên tất cả. Tác giả, nhà ly khai Hồ Giai khẳng định đằng sau những hình ảnh mà ông Ôn Gia Bảo muốn trưng ra, ông lại phản đối tất cả những cải cách chính trị thực sự và hoan nghênh sự cứng rắn về mặt an ninh.
Như vậy ông Ôn Gia Bảo có thật lòng không, hay chỉ nói ngoài miệng để làm hài lòng giới đấu tranh cho tự do và cộng đồng quốc tế ? Theo giáo sư Trương Minh (Zhang Ming) thuộc trường đại học Nhân dân cho rằng Ôn Gia Bảo thành thật, nhưng ông bị yếu thế. « Tại Trung Quốc, nếu không được Đảng hỗ trợ thì không làm được gì cả. Và những lời kêu gọi cải cách được đưa ra liên tục đã bị phe bảo thủ phản công, khiến ông càng bị cô lập hơn ».
Giáo sư Hồ Tinh Đẩu (Hu Xingdou) thuộc Viện Công nghệ Bắc Kinh cũng cho rằng ông Ôn Gia Bảo là chân thành. « Hệ thống Trung Quốc rất phức tạp. Thủ tướng không thể nói được nhiều về chính trị và quân sự, nhưng chỉ về kinh tế mà thôi. Ôn Gia Bảo không có quyền thúc đẩy cải cách chính trị ». Tuy nhiên chuyên gia này cũng nhìn nhận, ông Ôn Gia Bảo là « Thủ tướng yếu nhất trong lịch sử Trung Quốc ».
Tờ báo Mỹ New York Times đã tạo một vết xám cho việc từ giã sự nghiệp của ông Ôn Gia Bảo, khi một đăng bài điều tra vào tháng 10/2012, chỉ mười ngày trước đại hội đảng Cộng sản Trung Quốc, gây tác động như một quả bom. Theo đó, gia đình Thủ tướng Trung Quốc có số tài sản lên đến 2,7 tỉ đô la. Dù công nhận đây là một bài báo công phu, một số người tự hỏi phải chăng có bàn tay những đối thủ của ông Ôn – có thể là phe bảo thủ, những người bất mãn trước việc Bạc Hy Lai bị thất sủng.
Le Figaro đặt câu hỏi, ông Ôn Gia Bảo đã để lại gia tài chính trị nào ? Theo giáo sư Trương Minh, thì chẳng có gì đáng kể, thậm chí bằng không. Chỉ có một số cải cách có lợi cho nông nghiệp và nông dân. Nhiều nhà quan sát nhận định, kỷ nguyên Ôn Gia Bảo là một « thập kỷ hoài phí ». Một số lạc quan hơn thì cho rằng ông đã có công giúp cho một số giá trị còn sống sót, ít nhất là trong các bài diễn văn, và những người kế tục có thể dẫn chứng – nếu họ muốn và họ có khả năng.
Biển đảo : Trung Quốc không khoan nhượng vì quan điểm Đại Hán
Trên trang diễn đàn của Le Figaro, bài viết mang tựa đề « Trung Quốc báo thù » của John Lee, thuộc Trung tâm Nghiên cứu An ninh Quốc tế của trường đại học Sydney giải thích vì sao Bắc Kinh tỏ ra không khoan nhượng trong vấn đề quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trước Nhật Bản.
Tác giả nhắc lại bài diễn văn của Thủ tướng Nhật Shinzo Abe tuyên bố Tokyo không bao giờ chịu khuất phục trước Bắc Kinh trong hồ sơ Senkaku/Điếu Ngư hôm 22/2 tại Washington DC, mà sau đó Tổng thống Mỹ Barack Obama đã kêu gọi Nhật – Trung phải kìm chế. Theo chuyên gia này, thì người Nhật có thể đành phải chấp nhận đề nghị của Mỹ, nhưng để thuyết phục người Trung Quốc chấm dứt thái độ thù địch thì rất khó.
Sự không khoan nhượng này không chỉ đơn giản là do muốn khai thác nguồn lợi dưới đáy biển, thiết lập một đầu cầu chiến lược về phía tây Thái Bình Dương, mà từ chối chiến đấu trước một đất nước từng chiếm đóng mình bị xem là một bước lùi.
Khi Mao Trạch Đông lên nắm quyền năm 1949, mục tiêu trước mắt của ông ta là tái lập một « nước Trung Quốc vĩ đại » thời nhà Thanh (1644-1912). Mao đã đạt mục đích qua việc « giải phóng hòa bình » nước Cộng hòa Turkestan phương đông (nay là tỉnh Tân Cương) vào năm 1949. Tiếp đó là xâm lăng Tây Tạng năm 1950, khiến lãnh thổ Trung Quốc nhanh chóng được mở rộng đến hơn một phần ba.
Từ đó, tất cả các lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục quan niệm « Đại Hán», ngày càng mở rộng theo với tiềm lực tăng lên của nước này. Chẳng hạn trước đây Bắc Kinh không mấy quan tâm đến Senkaku/Điếu Ngư, cho đến năm 1968, khi một công trình nghiên cứu phát hiện trữ lượng dầu khí quan trọng tại đây.
Tương tự, có thể giải thích yêu sách ngày càng tăng của Trung Quốc tại Biển Đông. Năm 2009, nhấn mạnh đến một số yếu tố lịch sử còn phải bàn cãi, Bắc Kinh đã lớn tiếng nhấn mạnh « đường lưỡi bò » trước Liên Hiệp Quốc, đòi hỏi chủ quyền « không thể tranh cãi » của họ trên hầu như toàn bộ Biển Đông.
Tác giả nhận định, sau khi đô hộ phần phía đông và đông nam châu Á trong gần hai ngàn năm, trừ hai thế kỷ gần đây, Trung Quốc phải đối mặt với một trật tự khu vực gồm những quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ, dù lớn hay nhỏ đều được người Mỹ đối xử như nhau.
Dưới mắt một dân tộc từ lâu đời vẫn xem những giá trị của mình là hơn hẳn những dân tộc khác, tình trạng trên là bất công khó thể chấp nhận. Nhượng đất cho một nhà nước nhỏ hơn, trong một cuộc xung đột, bị coi là thất bại nhục nhã, chứ không phải là một bước để tiến đến ổn định lâu dài trong khu vực. Vì vậy theo tác giả, sau Senkaku/Điếu Ngư, Biển Đông sẽ là mục tiêu kế tiếp của Bắc Kinh.
Các ông Obama và Abe phải hiểu rằng Trung Quốc muốn làm sống dậy vinh quang của đế quốc Trung Hoa cũ, và như vậy Bắc Kinh muốn sắp xếp lại trật tự khu vực hiện nay, nên điều quan trọng là phải kìm hãm tham vọng quân sự của Trung Quốc.
Hồng y Philippines : Một ứng viên Giáo hoàng sáng giá
Liên quan đến Giáo hội Công giáo tại châu Á, nhật báo Le Figaro nói về « Chito », tức Hồng y Luis Antonio Tagle, ngôi sao đang lên của Philippines, một trong những khuôn mặt triển vọng cho ngôi vị Giáo hoàng sắp tới.
Vị Hồng y trẻ 55 tuổi mới được thụ phong bốn tháng, được mọi người ngưỡng mộ. Cha Catalino Arevalo, người thầy cũ của ông cho biết: « Tôi chưa bao giờ gặp một người thông minh và nhân bản đến thế. Ông ấy có thiên khiếu khiến cho Giáo hội ngay lập tức trở nên gần gũi ». Còn nhà thần học nổi tiếng của Mỹ, Joseph Komonchak nhận xét : « Đó là một trong những sinh viên giỏi nhất mà tôi có được trong bốn mươi năm dạy học, ông ấy có thể trở thành một trong những nhà thần học giỏi nhất châu Á ».
Sinh ra trong một gia đình khá giả, lẽ ra Luis Antonio Tagle đã theo nghề bác sĩ, nhưng sự thu hút của Dòng Tên và tình trạng nghèo khổ của đất nước đã khiến ông quyết định trở thành linh mục. Có bằng tiến sĩ thần học tại Catholic University of America, nhưng ông không muốn đi chuyên về nghiên cứu mà đóng vai trò người hướng đạo tinh thần cho giáo dân. Suốt mười năm trời, « Chito » phụ trách giáo xứ Imus ở tỉnh Cavite, rồi trở thành giám mục Manila năm 2011.
Ông thật sự có tài về truyền thông – theo như cha Emmanuel Alfonso, giám đốc Jescom chuyên sản xuất « The World Exposed », một « show » hàng tuần của vị Hồng y trên kênh truyền hình lớn nhất của đất nước có 80% dân theo đạo Công giáo. Đây là chương trình truyền hình đầu tiên ở Philippines được tài trợ bằng tiền đóng góp của khán giả. Tagle nắm chắc các chủ đề, ông giải thích đức tin bằng những từ ngữ đơn giản. Tài khoản Facebook của vị Hồng y hiện có trên 100.000 cư dân mạng theo dõi.
Liệu thời điểm có đã chín muồi cho một vị Giáo hoàng đến từ phương Nam ? Le Figaro đặt câu hỏi và cho biết, Hồng y Manila còn có một ưu điểm nữa : mẹ của ông là người Hoa, mà Trung Quốc lại là một ưu tiên sắp tới của Đức Giáo hoàng vừa từ nhiệm.
Cắt giảm ngân sách quốc phòng : Cú sốc lịch sử cho quân đội Pháp
Còn tại Pháp, phụ trang kinh tế của Le Monde phê phán việc ngân sách quốc phòng sẽ bị cắt giảm nặng nề, trong bài báo mang tựa đề « Một cú sốc lịch sử cho ngành kinh tế quốc phòng ».
Ngân sách dành cho quân đội Pháp từ nay đến năm 2020 sẽ bị cắt đi 40 tỉ euro, tương đương một năm ngân sách quốc phòng, và quân số sẽ bị giảm xuống phân nửa. Quốc phòng vào năm 2015 chỉ chiếm 1% tổng sản phẩm nội địa, và hiện nay thì chỉ ở mức 1,5%, trong khi tiêu chuẩn của NATO là 2% - nhằm đảm bảo chủ quyền đất nước và duy trì năng lực kỹ thuật cũng như công nghiệp. Hơn nữa, cuộc chạy đua vũ khí quy ước giữa các cường quốc mới nổi như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Brazil lại đang mở ra một kỷ nguyên mới trong bối cảnh địa chính trị toàn cầu.
Theo tờ báo, không thể tiếp tục giảm chi mà vẫn giữ nguyên tham vọng của một đất nước là cường quốc nguyên tử, thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, một quốc gia đầy trách nhiệm sẵn sàng hành động trong mọi cuộc khủng hoảng trên thế giới, như ở Mali hiện nay. Cụ thể hơn, nước Pháp không thể gởi 30.000 quân đi xa 8.000 km để tham gia một chiến dịch quy mô, sở hữu hàng không mẫu hạm, 300 máy bay tiêm kích và các phương tiện tình báo, giữ nguyên năng lực răn đE
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130305-on-gia-bao-lanh-dao-cai-cach-hay-chinh-khach-mi-dane hạt nhân và bảo vệ lãnh thổ quốc gia.

 

Nga sẽ giúp Việt Nam hạ thủy đội tàu ngầm đầu tiên

Tàu ngầm Project 636 (lớp Kilo) của Nga
Tàu ngầm Project 636 (lớp Kilo) của Nga chạy bằng diesel và điện
Wikipedia


Trong năm nay, Liên Bang Nga sẽ hỗ trợ cho Việt Nam hạ thủy đội tàu ngầm đầu tiên và huấn luyện cho các binh sĩ hải quân của đội tàu ngầm này.
Tin này được Bộ Trưởng Quốc Phòng Nga, ông Sergei Shoigu, loan báo ở Hà Nội sau cuộc thảo luận với Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam là Tướng Phùng Quang Thanh.
Hồi 2009, Việt Nam đã đặt mua 6 chiếc tàu ngầm loại Kilo của Nga. Quyết định này được xem là một nỗ lực của Hà Nội nhằm đáp trả việc Hải Quân Trung Quốc đang ngày một gia tăng thế lực trên vùng biển Đông.
Cũng cần nhắc lại ông Bộ Trưởng Quốc Phòng Nga đến Việt Nam từ hồi đầu tuần. Trong chuyến viếng thăm này, ông Shoigu có ghé cảng Cam Ranh, nơi Nga từng có một căn cứ hải quân lớn nhất ở nước ngoài.
 http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/russia-help-vn-launch-submarine-this-year-03062013084758.html

Thái Bình Dương : Mỹ lại lo ngại về hành động quyết đoán của Bắc Kinh

Hải quân Mỹ hợp tác chặt chẽ với Nhật và các đối tác của mình trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương (Reuters)
Hải quân Mỹ hợp tác chặt chẽ với Nhật và các đối tác của mình trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương (Reuters)

Trọng Nghĩa
Ngay sau khi Bắc Kinh loan báo tăng ngân sách quốc phòng, Hoa Kỳ liên tiếp lên tiếng bày tỏ thái độ quan ngại sự hiện diện quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc ở Thái Bình Dương. Phát ngôn viên Nhà Trắng Mỹ vào hôm nay 06/03/2013, đã tái khẳng định tư thế cường quốc Thái Bình Dương của Hoa Kỳ.

Tuyên bố của phát ngôn viên Nhà Trắng được đưa ra vài giờ sau khi Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ tuyên bố lo ngại trước việc Trung Quốc tăng cường tiềm năng quân sự và liên tiếp có những hành động quyết đoán tại vùng Biển Đông và biển Hoa Đông.
Trong cuộc họp báo thường kỳ, khi được hỏi về việc ngân sách quốc phòng Trung Quốc tăng hơn 10%, phát ngôn viên Nhà Trắng Jay Carney không bình luận trực tiếp mà nhắc lại rằng Hoa Kỳ « là một cường quốc Thái Bình Dương và có lợi ích đáng kể trong khu vực ».
Ông Jay Carney cho biết thêm là Washington luôn làm việc với các đối tác Trung Quốc trên một loạt vấn đề, cả về kinh tế lẫn an ninh. Về tình hình khu vực, phát ngôn viên phủ Tổng thống Mỹ xác nhận là Hoa Kỳ « làm việc rất chặt chẽ với các đối tác quốc tế của mình trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương ».
Trước đó, nhân một cuộc điều trần trước Quốc hội Hoa Kỳ, một tư lệnh hàng hàng đầu của quân đội Mỹ đã tuyên bố với các nhà lập pháp rằng việc quân đội Trung Quốc tăng cường uy lực đang khiến các nước trong khu vực châu Á Thái Bình Dương càng lúc càng lo ngại.
Theo Đô đốc Samuel J Locklear, Tư lệnh Lực lượng Mỹ tại vùng Thái Bình Dương, thì « nỗ lực của Trung Quốc tập trung chế tạo, thử nghiệm, và đưa vào hoạt động các loại máy bay, chiến hạm, vũ khí và hệ thống hỗ trợ mới đang làm gia tăng tâm lý quan ngại trong vùng. Nhiều nước châu Á lo ngại trước ý đồ của của Trung Quốc hiện nay và trong tương lai. Nhiều quốc gia đang tự hỏi là phải chăng ý đồ của Trung Quốc sẽ thay đổi với đà tăng cường của tiềm lực quân sự của họ ».
Một cách cụ thể, đô đốc Locklear nêu rõ một loạt hành động của Bắc Kinh tại các vùng biển bao quanh Trung Quốc : « Tàu Hải quân và các cơ quan thi hành luật biển Trung Quốc đã không ngừng hoạt động trong những năm gần đây nhằm cố gắng áp đặt các đòi hỏi chủ quyền biển đảo của Trung Quốc ở vùng Biển Đông và Biển Hoa Đông ».
Tư lệnh Mỹ nói tiếp : « Lập luận cứng rắn của Trung Quốc về các tính chất không thể chối cãi của các đòi hỏi chủ quyền của họ, kết hợp với hoạt động của đội tàu tuần tra dân sự và quân sự, cùng với phi cơ trên không phận và vùng biển xung quanh bãi Scarborough Reef và quần đảo Senkaku, đã làm cho căng thẳng gia tăng với Cộng hòa Philippines và Nhật Bản ».
Đô đốc Locklear còn tố cáo Trung Quốc « sử dụng các công cụ kinh tế và ngoại giao » nhằm gây sức ép buộc các nước phải chấp nhận yêu sách của Trung Quốc. Những hành động này đã buộc các đối tác và đồng minh của Mỹ trong khu vực Đông Á tìm kiếm thêm sự hỗ trợ và đảm bảo từ phía Hoa Kỳ.
Mối quan ngại cụ thể của Tư lệnh Thái Bình Dương là nguy cơ tính toán sai lầm là nổ ra xung đột giữa Nhật Bản và Trung Quốc tại vùng xung quanh quần đảo Senkaku. Bên cạnh đó, tại vùng Biển Đông, các vụ đối đầu định kỳ giữa tàu Trung Quốc và Việt Nam và những nỗ lực của Trung Quốc nhằm gây sức ép lên các công ty quốc tế để không thăm dò dầu khí cũng làm tăng thêm căng thẳng.
http://www.viet.rfi.fr/quoc-te/20130306-hoa-ky-lai-to-quan-ngai-ve-cac-hanh-dong-quyet-doan-cua-trung-quoc-tai-vung-thai-bi

Chi tiêu quân sự của Trung Quốc cao hơn gấp đôi con số được loan báo

Lễ duyệt binh của lực lượng hải quân Trung Quốc tại Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông 04/03/2013 (REUTERS /Stringer)
Lễ duyệt binh của lực lượng hải quân Trung Quốc tại Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông 04/03/2013 (REUTERS /Stringer)

Trọng Nghĩa
Hôm qua, 05/03/2013, Bắc Kinh chính thức loan báo là ngân sách quốc phòng Trung Quốc năm 2013 sẽ là 720 tỷ nhân dân tệ (hơn 115 tỷ đô la), tăng 10,7% so với năm 2012. Tuy nhiên, theo các nhà quan sát, số liệu chính thức này, dù rất lớn, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với các chi tiêu thực tế mà Trung Quốc dành cho bộ máy quân đội của họ.

Khoảng cách giữa ngân sách quốc phòng được loan báo – có thể gọi là "ảo" – so với chi phí "thực", có thể lên đến gần 150%, thậm chí 200%, tùy theo cách tính.
Trong bài viết mang tựa đề : « Đằng sau màn khói mù của ngân sách quốc phòng Trung Quốc năm 2013 », đăng trên nhật báo Hồng Kông South China Morning Post vào hôm nay, 06/03, bình luận gia Tom Holland đã thẩm định : Mặc dù đã vươn lên đứng hàng thứ hai trên thế giới, ngân sách quốc phòng thực thụ của Bắc Kinh còn cao hơn rất nhiều nếu tính đến những chi tiêu quân sự khác được ngụy trang dưới những danh xưng khác.
Trung Quốc có ba khoản chi tiêu cực lớn cho vấn đề quân sự nhưng không được tính vào ngân sách quốc phòng. Trước hết, đó là chi phí dùng để mua vũ khí, chủ yếu là các loại vũ khí tối tân của Nga, từ chiến đấu cơ Sukhoi đời mới, cho đến các loại tàu ngầm mà Trung Quốc đang cần để hiện đại hóa quân đội của mình, thậm chí để đánh cắp công nghệ học rồi áp dụng vào các loại phương tiện do chính họ chế tạo.
Công việc nghiên cứu và chế tạo các loại vũ khí « made in China » đó cần đến những nguồn tài chánh cực cao, nhưng các khoản chi vào việc này lại không xuất hiện trong ngân sách quốc phòng, mà lại được tính vào chi phí của Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc.
Một khoản chi thứ ba cũng rất lớn : Ngân sách dùng cho việc phòng thủ lãnh thổ, chẳng hạn như việc tài trợ cho các đơn vị đồn trú tại các địa phương. Trong lãnh vực này, theo báo South China Morning Post, cho đến nay, hầu như không ai biết là các chính quyền tỉnh ở Trung Quốc phải gánh vác bao nhiêu phần trăm của ngân sách này. Các chi phí đó cũng không được ghi trong ngân sách quốc phòng chung của cả nước mà ẩn khuất trong ngân sách các địa phương.
Dụng tâm che giấu ngân sách quốc phòng thực của chính quyền Bắc Kinh lễ dĩ nhiên không quan mắt được các chuyên gia quốc tế. Vào năm ngoái 2012, Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế IISS, trụ sở tại Luân Đôn, đã cố gắng định lượng các chi phí quốc phòng đã được Trung Quốc ngụy trang như nói trên. Theo Viện IISS, nêu tính thêm các khoản đó, thì ngân sách quốc phòng thực thụ của Trung Quốc có thể cao hơn khoảng 40% lớn hơn con số chính thức.
Tuy vậy, đối với nhà bình luận báo South China Morning Post, còn có một yếu tố khác khiến cho chi phí quân sự của Trung Quốc được đánh giá là đáng ngại hơn rất nhiều so ngân sách quốc phòng được loan báo : là sức mua mà ngân sách này sản sinh ra.
Bắc Kinh cho đến nay luôn luôn giải thích rằng chi phí mà họ giành cho quân sự chẳng thấm vào đâu so với ngân sách quốc phòng của Mỹ. Về hình thức thì quả là như vậy : 720 tỷ yuan của ngân sách 2013 này chẳng hạn, chỉ tương đương với hơn 115 tỷ đô la Mỹ, cao hơn gấp đôi Nhật Bản, ngang bằng với Úc, nhưng lại thua xa Hoa Kỳ, nơi mà ngân sách của Lầu Năm Góc cao ngất ngưởng ở mức 614 tỷ đô la.
Thế nhưng, đối với nhật báo Hồng Kông, nếu chỉ căn cứ vào các con số đó, thì sự so sánh trở nên hết sức khập khiễng, vì sức mua của một đô la ở Mỹ phải nói là chẳng là bao so với mãi lực của một đồng đô la tại Trung Quốc, đặc biệt trong địa hạt vũ khí, khi mà việc buôn bán không hề được tự do, và giá cả có thể thay đổi tùy theo quốc gia đặt mua.
South China Morning Post đơn cử ví dụ về việc mua hệ thống radar. Với một tỷ đô la bỏ ra tại Trung Quốc, người ta có thể thu hoạch rất nhiều, trong khi cũng số tiền ấy chi ra tại Mỹ thì những gì mua được ít hơn nhiều.
Do vậy, khi so sánh các ngân sách quốc phòng phải tính đến sự khác biệt trong sức mua tại từng nước. Có điều là trên thế giới hiện nay, không có một chỉ số giá cả đáng tin cậy nào được áp dụng cho các chi phí quân sự.
Thế nhưng, nếu áp dụng khái niệm sức mua PPP (Purchasing Power Parity) được dùng trong kinh tế, và tỷ lệ hối đoái tính theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), thì giá trị của ngân sách quốc phòng Trung Quốc năm 2013 tăng lên gần 50%.
Nếu tính thêm các yếu tố bị che giấu, thì giá trị thực sự của ngân sách quốc phòng của Trung Quốc được ước tính cao hơn gấp đôi con số chính thức đã được công bố. Với tình hình căng thẳng lên cao ở cả biển Hoa Đông lẫn Biển Đông, cũng dễ hiểu là việc Bắc Kinh gia tăng ngân sách quân sự luôn luôn làm cho các láng giềng lo ngại.
 http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130306-chi-tieu-quan-su-thuc-te-cua-trung-quoc-cao-hon-gap-doi-con-so-duoc-loan-bao

PHAN NHẬT NAM * TÙ BINH

Phan Nhật Nam

Tù Binh, anh đi về đâu?

Tác giả: Phan Nhật Nam

Như tiêu đề đã nêu trên, phần lớn của tập bút ký này là viết về người tù, về cảnh tù, về những người thê thảm và cảnh đời tan vỡ. Trong những đoạn đã viết qua, tôi trình bày đủ một vài khía cạnh chính yếu về tù nhân Việt Nam Cộng Hòa do phía Cộng sản bắt giữ, những người tù thảm hại nhất của chế độ tù tội nhân loại. Những người tù bị ngụy danh, bị sỉ nhục, bị tước đoạt hết giá trị con người cùng quyền hạn, khả năng thực hiện thực đời sống. Cộng sản đã không gọi họ qua danh từ thông thường. Tù nhân (dù đã là từ ngữ đen tối, thấp kém đau đớn nhất), nhưng họ bị chụp bởi những chiếc mũ: Giặc, ngụy, hoặc phản nghịch. Các trại tù lại được ngụy danh thành trại sản xuất, trại cải tạo, tù nhân được chia thành đội ngũ để xẻ núi, làm đường, trồng ngô, trồng sắn để sản xuất, tự lực cánh sinh... Trả nợ nhân dân!! Người tù Việt Nam Cộng Hòa không được yên thân trong thế giới đọa đày riêng, họ phải phấn đấu qua mỗi giờ, mỗi phút, làm sao có được bát cơm hẩm, giọt nước muối để được sống. Phải, tất cả sức lực tinh thần, vật chất chỉ được hướng vào một mục đích: Sống còn. Nhưng chính vì trong đời sống thụ động đau đớn kinh hoàng này, người tù Việt Nam Cộng Hòa khi được trao trả, trở về trong phần đất quốc gia, đời sống tù tội, giấc mơ ác liệt tưởng như trong địa ngục hoàn toàn chấm dứt, họ bắt đầu một đời sống mới, đời sống tưởng chừng như đã hủy diệt bất phục hồi. Được trao trả đồng nghĩa trở về địa đàng trần thế và quên thật nhanh, quên thật hết tháng qua, ngày trước, giờ phút trước khi điểm danh trao trả để đi như chạy, bò bằng tay lẫn chân vào lòng của chiếc trực thăng để bay cao, trở về và không bao giờ nhớ lại Đã một lần bị người cộng sản giam giư.õ Đã một lần sờ tận tay nỗi chết. Bài viết này không đề cập đến những “người sung sướng” tội nghiệp đó, tôi muốn nói đến lớp tù đối phương, tù Cộng sản do quân đội, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa bắt giữ và trao trả về cho đối phương; những người tù bị bắt khi tay đang giữ vũ khí ở chiến trường hoặc là những cán bộ nội thành bị phát giác đầy đủ tang vật và tài liệu. Cần nói rõ hơn một khẳng định, tôi sẽ không viết những lời tán dương chế độ giam giữ của chính phủ VNCH, một chủ đề mà cuốn sách không dự liệu, cũng như rất đối nghịch cùng lương tâm người viết: Người kinh sợ cảnh tù trên tất cả mọi sợ hãi. Bài viết sẽ cố gắng trình bày đủ đoạn trường tù tội mà kẻ tù nhân kia bắt buộc phải triệt để chấp hành, bắt đầu từ khi hắn tự đưa tay đầu hàng trước một mũi súng trên chiến địa hoặc đặt tay vào chiếc còng của nhân viên công lực VNCH.
Như đã nhiều lần nhấn mạnh, người Cộng sản không bao giờ bỏ lỡ cuộc đấu tranh trong bất kỳ hoàn cảnh, cơ hội hoặc giai đoạn ngắn ngủi nào... Không có vấn đề nghỉ ngơi, không có đời sống riêng rẽ, hoàn cảnh độc lập. Đã dự vào cuộc đấu tranh do Đảng “đề xuất” và lãnh đạo có nghĩa đã dự vào một cuộc đua liên tục, đua không ngừng, không nghỉ, cho đến phút chót khi thiên đường Cộng sản hoàn toàn thực hiện. Đó là trên lý thuyết, trên cơ sở chủ nghiã, riêng trong giai đoạn hiện tại, sau bước đường chống Mỹ cứu nước nay đã đến bước “Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, nghiêm chỉnh thi hành Hiệp Định Pa-ri...”; người tù Cộng sản lại phải luôn luôn học tập, phải đả thông vấn đề, phải chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh Đảng ngay trong cảnh tù tội, để đến khi được trao trả thì đã nắm đủ các yếu tố phát động thế đấu tranh mới.
Sau khi đưa tay lên đầu hàng ở chiến trận, người tù quân sự Cộng sản được cơ quan an ninh của đơn vị bắt giữ khai thác tại chỗ để phân loại và cung cấp các hoạt động liên quan đến trận liệt. Thường thường các cuộc thẩm vấn được tiến hành cấp tốc vì những đơn vị tác chiến thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa không đủ nhân viên chuyên môn để khai thác tù binh, họ chỉ ghi nhận vài yếu tố lý lịch, đơn vị của người tù, xong giải giao ngay đến các cơ quan lưu giữ tạm thời như Bộ Chỉ huy Trung đoàn, Bộ Tư lệnh Tiền phương của Sư đoàn mà đơn vị đó trực thuộc hoặc thuộc dụng hành quân. Tại những nơi này dù có đủ thì giờ rộng rãi hơn cũng như có chuyên viên thẩm vấn, các cuộc hỏi cung cũng chỉ có mục đích xét hỏi người tù binh những tin tức liên quan đến tình hình mặt trận mà anh ta vừa tham dự, một số chi tiết về tên họ, đơn vị trực thuộc, từ đâu xâm nhập vào trận địa, ý định điều quân của đơn vị này trong thời gian sắp tới... Người tù binh tiếp tục được giải giao đến các Trung Tâm Tù Binh chiến tranh. Sự tranh đấu, nếu được gọi là như thế, giữa tù binh và cơ quan giam giữ quân đội Việt Nam Cộng Hòa không được cấu thành, cũng không bao giờ thực sự cần thiết. Cơ quan có nhiệm vụ chính thức giam giữ tù binh quân sự là binh chủng Quân Cảnh mà tư thế và nhiệm vụ rất cụ thể và hạn chế: Quản trị, điều hành và lưu giữ tù binh. Không có vấn đề phải khai thác, tuyên truyền chính trị, nên tương quan này không dẫn đến những xung đột nghiêm trọng, những đầy ải ác nghiệt như người Cộng sản luôn luôn tuyên truyền, xuyên tạc. Nhưng chính trong những chốn lưu giữ này, người tù binh Cộng sản phải bắt đầu tham gia vào một cuộc tranh đấu kinh hồn quyết liệt mà kết quả độc nhất là sự chết, do những bạn tù thi hành, hoặc tiếp tục giữ vững lập trường Cộng sản không mệt mỏi, không suy giảm để chấp hành đứng đắn mọi chỉ thị do những người đại diện của họ ra lệnh. Cuộc đấu tranh nguy nan giữa những người cùng chiến tuyến bắt đầu trong nhà tù Việt Nam Cộng Hòa.
Đến đây, cần mở rộng vấn đề qua một phạm vi khác để soi sáng yếu tố những người tù cộng sản ở các trại giam: Những hồi chánh viên. Hồi chánh viên là những người tự nguyện buông súng, rời bỏ hàng ngũ cộng sản trở về phía Việt Nam Cộng Hòa trong tất cả mọi hoàn cảnh, ở khắp nơi trên chiến trường; cũng có thể gọi là hồi chánh dù trong lúc giao tranh nếu người lính cộng sản có thái độ tích cực sau khi buông súng về cùng các đơn vị quân đội cộng hòa. Sự thật, đã có những người hồi chánh vì “thế kẹt”, khi đơn vị anh tan rã, rút đi, hoặc đôi khi vì bị bao vây, tấn công quá dồn dập. Nhưng dù có buông súng trong tình huống tiêu cực đó, nếu anh ta tự nguyện cung cấp tin tức, chỉ điểm nơi chôn dấu vũ khí và xin được hồi chánh thì anh ta vẫn được đưa về các Trung Tâm Chiêu Hồi, chứ không là các trại tù như trên đã nói. Những người hồi chánh tự nguyện hay ở vào thế kẹt như vừa trình bày, chỉ là những người hồi chánh “bình thường”, những người hồi chánh trong bình yên. Có một loại hồi chánh viên khác, hồi chánh ngay trong trại tù, mới là những người hồi chánh thượng hạng, những người đã vượt qua biên giới cái chết trong đường cơ kẽ tóc. Như trên đã nói, người tù binh Cộng sản ngay khi nhập trại đã phải chịu một cuộc thẩm vấn gắt gao do đại diện tù nhân cộng sản thực hiện. Anh ta phải khai rõ lý lịch, không phải chỉ một vài chi tiết của tên tuổi, tên cha mẹ, bạn bè, đơn vị, nghề nghiệp, sở thích... Không phải khai một lần, nhưng năm lần bảy lượt bởi một cuộc thẩm vấn tinh vi kinh khiếp: Mục đích của cuộc tra hỏi này là để nhóm đại diện tù binh cộng sản phát giác ra ngay những “ngụy hồi”, tức là những hồi chánh viên mà cơ quan giam giữ Việt Nam Cộng Hòa gài vào đám tù binh cộng sản để dò chừng phản ứng, âm mưu của đám tù binh cộng sản. Cuộc tra hỏi cũng nhằm xem thành phần, tinh thần của người tù để sắp xếp anh ta vào những công tác, nhiệm vụ do ban đại diện đề cử. Cuộc tra hỏi dằng dai khít khao này cũng giám định lại tinh thần của người cán binh cộng sản, xem anh ta vì thụ động, tiêu cực nên đầu hàng quân đội Cộng hòa hay anh ta đã hết sức chiến đấu nhưng bởi kiệt lực bắt buộc. Tóm lại, sau giai đoạn thẩm vấn, người tù binh Cộng sản mới được xác định, xếp loại do chính đồng bạn tù quyết định. Nếu anh ta là một hồi chánh viên được gài vào, nếu anh ta là một chiến sĩ có tinh thần sút kém, chiến đấu tiêu cực. Số mệnh anh đã hoàn toàn được định đoạt: Chết. Chỉ có một giải pháp, một giải pháp độc nhất, cuối cùng. Dùng đũa đâm từ tai này qua tai kia, lột da đầu, cắt cổ, bóp cổ. Cực hình sẽ được thực hiện giữa đám tù để dằn mặt, cảnh cáo những người sa sút tinh thần, ngã lòng, muốn bỏ cuộc. Các tù binh Cộng sản được ban đại diện của họ chia vào từng tiểu tổ sinh hoạt, công tác chung với nhau, người này kiểm soát, canh chừng người kia để khi phát hiện một dấu hiệu ngã lòng, ý hướng mệt mỏi, muốn xin hồi chánh, làm việc cho ban giám đốc trại VNCH, thì báo động ngay đến ban đại diện tù trong khu của mình. Kẻ bị nghi ngờ sẽ bị hành hình không chút nương tay. Trong tình huống kinh khiếp nghặt nghèo này, người tù binh Cộng sản luôn luôn đề cao cảnh giác, phải luôn luôn biểu lộ lòng tin vào lập trường của Đảng, luôn luôn giữ vững ý chí cách mạng thực hiện công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Bác và Đảng. Họ phải kiên định lập trường, học tập tài liệu từ ngoài chuyển vào để luôn nắm vững tình hình, hướng nỗ lực tranh đấu vào mục tiêu do Đảng chỉ định. Để thực hiện công tác gắt gao này, phía Cộng sản đã không ngần ngại chỉ định những chính trị viên cốt cán, giả hàng ở trận địa rồi tìm đủ mọi phương cách làm sao chuyển được tới trại (mà họ được chỉ thị công tác)... Ví dụ như trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân, cán bộ thuộc Trung đoàn Quyết Thắng (Trung đoàn đánh vùng Cây Thị, Gia Định) bị mất tinh thần trầm trọng... Bộ chỉ huy Ba Cục (R) thấy cần phải giữ vững tinh thần đám tù binh thuộc đơn vị này, đã điều động một số chính trị viên giả đầu hàng Quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở một mặt trận nào đó thuộc vùng Bình Dương, Tây Ninh... Nhóm tù binh chính trị viên này sau đó đã được tập trung vào một trại tù như Tam Hiệp (Biên Hòa)... Ví dụ như sau khi móc nối với các đại diện tù và biết được đám tù của Trung đoàn Quyết Thắng đã chuyển đi một nơi nào ở Phú Quốc thì họ sẽ chủ tâm tỏ ra vô kỹ luật, phá hoại, để ban giám đốc trại trừng trị, khiển phạt và cuối cùng bị (được) chuyển đi Phú Quốc. Nơi đây, nếu được chuyển đến một khu không có người của Trung đoàn Quyết Thắng kia thì họ sẽ tiếp tục dùng mọi biện pháp để làm sao cuối cùng chuyển đến tại nơi có “mục tiêu” được chỉ định...
Trong kìm kẹp gắt gao do đề phòng hiểm độc của các chiến hữu mình, người tù binh Cộng sản bị muôn ngàn hiểm nguy thường trực đe dọa... Không tỏ vẻ căm thù nhân viên quân cảnh có nhiệm vụ đưa cơm tới, không giác ngộ về “hiện tình thối nát của chính phủ VNCH”, hoài nghi về thành quả giải phóng 3/4 đất, 4/5 dân ở miền Nam, tiếng thở dài nhỏ trong đêm tối... Tất cả đã là nguyên do gây nên cái chết tức khắc. Một tù binh được ban giám đốc trại gọi lên hỏi chi tiết của nơi sinh. Nếu được trả về trại an lành, anh ta chắc đã nắm đưọc đầu giây của cái chết do chính bạn bè anh thực hiện. Thế nên, một người tù trong hoàn cảnh này mà xin được hồi chánh để trở nên hồi chánh viên thì quả tình là một hồi chánh viên thượng thặng, hữu hạng, một ngườiđã vượt mặt tử thần. Sự kiện này trình bày đủ thực trạng bi thảm về người tù binh Cộng sản. Trong trại giam, ngoài lớp cán binh trẻ cuồng tín của các sư đoàn chính qui Bắc Việt, còn có những tù binh thuộc các lực lượng địa phương miền Nam, những du kích xã, huyện. Bên cạnh đoàn tù binh sắt máu luôn tin vào tiền đồ cách mạng, nuôi dưỡng căm hờn chế độ, chính phủ Cộng hòa, có những tù nhân bất đắc dĩ, những chiến sĩ cách mạng lỡ thời, vốn chỉ là một nông dân kẹt ở vùng “giải phóng”, hoặc ở các vùng xôi đậu bị kéo vào bưng học tập, đi du kích. Thoạt tiên, họ được “động viên” đi dân công, sau tham gia các công tác phá hoại, tiếp theo do được bình nghị là đã “giác ngộ” tham gia công tác tốt, anh ta trở thành du kích xã, du kích huyện, đôn lên thành bộ đội chủ lực tỉnh. Gặp lúc có chiến dịch lớn như Bình Giả (1964) Đồng Xoài (1965)... Các đơn vị chủ lực Miền bị thiếu sót quân số trầm trọng, du kích xã, huyện theo lệnh của Trung Ương Cục được tập trung về khu C (Tây Ninh, Bình Long) để bổ xung vào các Trung đoàn thuộc các Công Trường 5, 7, 9... Tính chất “cách mạng vô sản” nơi người du kích miền Nam này, ngay cả những cán bộ hồi kết (Gốc miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 và trở về Nam trong những năm 1959, 1960 hoặc sau) rất khác xa với đám cán binh trên dưới hai mươi tuổi thuộc các sư đoàn Bắc Việt xâm nhập. Đám sau này tích cực hơn, cuồng tín, mê say một cách mù quáng và khắc nghiệt, hoàn toàn tin vào mệnh lệnh đường lối Đảng, lời Bác dạy. Nếu có một số ngã lòng vì cực khổ trên đường xâm nhập hoặc thấy rõ hiện tình miền Nam, thấy rõ thành quả giải phóng của cách mạng miền Nam, thường hồi chánh ngay trong thời gian đầu... Số còn lại, nếu đã thử sức đủ trên đường đi, hiện tình miền Nam vẫn chưa làm hắn ta “giác ngộ”, thì lòng cuồng tín càng tăng thêm cường độ. Thế nên, trong ý hướng cực đoan này, những cán binh có ý định hồi chánh là thành phần cần phải tiêu hủy đầu tiên và tối đa đối với những cốt cán nầy.
Bị vây bọc bởi đám tù cuồng tín trên, một cán binh có ý định hồi chánh ở trại tù tức đã dự cuộc đua với tử thần trong gang tấc sít sao. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trước giai đoạn thành lập danh sách cuối cùng để chuyển giao về phía cộng sản tất cả cán binh bị giam giữ theo Hiệp Định Ba Lê, đã phát động một chiến dịch gọi là phong trào Tân Sinh Hoạt trong tất cả mọi trại giam tù binh Cộng sản, mục đích phong trào này trên bề mặt là huấn nghệ, giúp điều kiện để tù binh có việc làm trong những ngày giam giữ, nhưng thực chất là tạo môi trường giáo dục tù binh để họ nhận định đúng hiện trạng miền Nam, tiến đến chọn lựa cuối cùng giữa hai ý hệ Cộng Sản và Tự Do. Phong trào đã thành công lớn lao, hơn 10.000 tù binh hồi chánh trong dịp tết Quý Sửu (72-73) trước khi danh sách trao trả cuối cùng chuyển đến phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng tại Hội Nghị Ba Lê. Số lượng 10.000 người tuy lớn so với gần 30.000 mà Việt Nam Cộng Sản dự trù trao trả, nhưng thật sự con số kia chắc chắn sẽ gấp đôi nếu tù nhân được hoàn toàn tự do chọn lựa chế độ trước khi trao trả, hoặc họ rõ được thủ tục phát biểu nguyện vọng và quyền phát biểu tại địa điểm trao trả. Trường hợp các tù binh Thạch Phen trao trả Lộc Ninh ngày 14 tháng 2-73 và Hồ Văn Công ở Quảng Trị ngày 17-3-1973 là điển hình về cảnh bi thảm lặng lẽ mà người cán binh Cộng sản gốc miền Nam phải chịu đựng trong cô đơn và nguy biến riêng mình. Thạch Phen, người Việt gốc Miên, anh bị lôi kéo vào Mặt Trận không cưỡng lại được vì cư trú trong vùng bản lề giữa mật khu Cộng sản trên đất Miên với vùng VNCH ở Châu Đốc. Ngày 11-2-1973 anh đưọc đưa đến Lộc Ninh để trao trả. Từ trực thăng bước xuống, anh kinh hoàng nhìn khung cảnh địa điểm trao trả, lớp nhà lá gồi, dãy cờ đỏ, rừng khẩu hiệu khắc nghiệt, đám cán bộ tiếp rước mặt xanh tím, tròng mắt võ vàng đầy thù nghịch dò xét. Những nụ cười vồn vã máy móc của những chiếc mồm xấu xí không làm anh yên tâm, thêm nữa, tiếng hát vang vang tiết điệu Trung Hoa dội lên từ dãy loa phát thanh làm anh bối rối kinh ngạc... Tuy đã cầm súng chiến đấu trong hàng ngũ những người Cộng sản, nhưng hôm nay, anh được đưa đến một nơi quá xa lạ, lớp rừng cao su xanh ngắt ôm kín những khu đồi đất đỏ, đám cán bộ đồng phục xanh với những cặp mắt vàng chạch vì sốt rét, nụ cười vô hồn, không cảm giác kéo lên, đóng xuống từng chập để lộ nguyên hình tính cách tra hỏi cay nghiệt. Thạch Phen chưa từng bao giờ ở cùng những chiến hữu nguy hiểm với cảnh núi rừng thâm u đầy đe dọa này. Tội nghiệp và đơn độc hơn nữa, tù cùng toán toàn là người Bắc, họ hân hoan biểu lộ sự thù hận, niềm tin sắt đá vào thành trì cách mạng bằng nắm chặt tay tung hô khẩu hiệu, câu hát. Thạch Phen hoàn toàn xa lạ trong không khí gớm ghê đầy đe dọa này... Anh lùi dần, lùi dần xuống cuối toán và chạy về phía mấy sĩ quan quân cảnh (có nhiệm vụ tải áp tù từ Phú Quốc đến Lộc Ninh) để xin hồi chánh. Đại úy Lộc, trưởng toán Liên Hợp Quân Sự Việt Nam Cộng Hòa thông báo sự kiện đến ba thành viên Mặt Trận Giải Phóng, Bắc Việt và Mỹ cùng Ủy ban Quốc tế để hợp thức hóa trường hợp hồi chánh của Thạch Phen. Nhưng hai viên sĩ quan của Mặt Trận Bắc Việt không chịu, nại cớ anh Phen đã hồi chánh không đúng thủ tục (Nghĩa là không phát biểu ý kiến của mình khi điểm danh trao trả. Cần nhắc lại một điểm, thời gian này chưa có thủ tục trao trả). Hai anh Hung và Ba Lan trong Ủy ban Quốc tế được “mớm”ý kiến trên, đồng phát biểu: Không giám sát trường hợp hồi chánh của Thạch Phen vì không đúng thủ tục trao trả!! Cuối cùng, vì để có một cách thức giải quyết mẫu cho những lần trao trả sau, Quân cảnh Việt Nam Cộng Hòa hộ tống Phen đến lều trao trả để phát biểu ý kiến, nhưng đám tù binh cùng toán của Phen nhào đến cướp Phen và hành hung quân cảnh; không thể làm sao chống cự nổi với đám tù, hơn nữa, nếu giành giật quá độ, đám tù có thể đánh chết Phen... Quân cảnh VNCH buộc lòng phải thả Phen ra. Hai thành viên Hung và Ba Lan đuợc yêu cầu can thiệp và chứng nhận sự kiện xảy ra, một lần nữa lại tuyên bố: Anh Phen chưa được điểm danh, nghĩa là chưa đưọc trao trả, họ không có trách nhiệm gì ngoài việc giám sát cuộc trao trả tại lều trao trả (?!!). Thạch Phen bị kéo đi một lát sau trở lại, với mặt mũi vỡ nát... “Chính quyền địa phương” Mặt Trận Giải Phóng tại Lộc Ninh yêu cầu có cuộc họp với đầy đủ bốn thành viên của Ủy Ban Quốc Tế để anh Phen phát biểu ý kiến trong “hoàn toàn tự do”... Và cuối cùng, thay vì nói muốn được hồi chánh, Phen phát biểu: “Việt Nam Cộng Hòa “gài” anh ta làm hồi chánh viên, nhưng bây giờ “giác ngộ” nên tự ý xin về phía Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam VN!! Hai thành viên Hung và Ba Lan ghi nhận sự kiện trung thực: Anh Phen đã nói lên nguyện vọng của mình trong tự do!!
Trường hợp của Hồ Văn Công thì khả quan hơn. Công thuộc toán thứ nhất để trao trả trong ngày 17-3-1973 tại Quảng Trị. Cũng như Thạch Phen, Công là du kích thuộc xã Phụng Hiệp Cần Thơ, bị quân đội VNCH bắt trong một cuộc tuần tiểu. Với bản chất thẳng thắn, đơn giản của người miền Nam, Công tham gia vào cuộc chiến đấu võ trang trong hàng ngũ cộng sản hoàn toàn do hoàn cảnh ép buộc, một sự góp mặt trung tính vì không thể sống độc lập giữa hai chế độ đối nghịch. Công đến bờ sông Thạch Hãn, nhìn về phía bờ đối diện, ngọn cờ đỏ ngôi sao vàng cùng tất cả im lặng nặng nề của một khối tổ chức chặt chẻ vô nhân tính vang vang khúc hát gợi căm thù. Công chùng bước... Đây là đâu? Phải chăng là bờ Bến Hải? Bến Hải - Cần Thơ khoảng cách ngút ngàn, suốt đời anh bao không bao giờ ý niệm đến... Nước Việt Nam là một, Tổ quốc Việt Nam là một, chúng ta có thể đến bất cứ đâu, tác chiến bất cứ nơi đâu... Viên bí thư xã đã nhiều lần nói như thế; cán bộ đại diện tù nhân cũng đã giải thích, thông báo hơn tháng trước: Chúng ta sẽ được trao trả tại Quảng Trị, ở đấy sẽ “tiếp thu” chúng ta, sau đó tùy nhu cầu thực tế, chúng ta sẽ được phân phối vào các cơ quan khác nhau, có nhiều nhiệm vụ khác nhau. Quảng Trị, một tỉnh Công không bao giờ nghe tên. Đây là Quảng Trị, sông này là sông Bến Hải (!?), trao trả xong họ mang mình thẳng về Bắc luôn!! Công co rúm người khi bước chân lần xuống thuyền để qua sông, Công liếc qua tái, qua phải, hai hàng lính Thủy quân Lục chiến, Nhảy Dù với những bộ đồ rằn ri rất quen thuộc và ngay cả lá cờ vàng ba sọc đỏ này nữa... Dù anh đã một lần chiến đấu chống lại. Đám lính Cộng hòa với cách thức phát âm, dáng điệu phóng khoáng kia vẫn quen thuộc, thân mật gần gũi với Công hơn là đám tù binh mặt nặng căm hờn đang to nhỏ với nhau, hoan hô đả đảo... Lá cờ Việt Nam Cộng Hòa - Công đã quen thuộc từ bao lâu, kể từ ngày anh lớn lên, đi qua đồn nghĩa quân, đi qua trụ sở hành chánh xã Phụng Hiệp. Công nổi gai khi nghĩ tới cảnh trời nơi đất Bắc xa xôi, nơi anh sẽ đến và không có ngày trở về làng xưa cuối miền Nam... Anh bước chân xuống thuyền, thuyền tròng trành, đám lính Thủy quân Lục chiến đứng trên bờ cười nói vang vang, tiếng cười, giọng nói miền Nam yêu quí... Thuyền nổ máy hướng mũi về phía bờ Bắc nơi có lá cờ đỏ... Công quyết định, anh đứng dậy trên lòng thuyền, một bàn tay nào đó muốn vít cổ anh xuống, Công đưa tay lên gạt mạnh, phóng mình xuống nước... Nước lạnh cóng, Công cố bơi vào bờ, mắt anh mờ ánh nước, tay chân anh giãn ra, anh thả trôi người, chìm xuống... “ Hồi chánh! Hồi chánh... Có người hồi chánh ”. Công loáng thoáng nghe có tiếng người kêu lớn ở trên bờ, nghe tiếng sóng đập mạnh đâu đây trên giòng nước, có cánh tay bế xốc anh lên... Công đưa tay xuống cạp quần nơi có tấm ảnh của vợ con anh ở miền Nam!!
Viên Y sĩ Thủy quân Lục chiến chích cho Công mũi thuốc khỏe... Ảnh vợ con tôi đâu? Ảnh vợ con tôi đâu? Đây đây... Công lần mò bàn tay run rẩy trên mép tấm ảnh quen thuộc...
Tôi đi qua bờ Thạch Hãn, yêu cầu tổ Ủy ban Quốc tế đến chứng kiến và xác nhận trường hợp anh Công, để hai anh Hung và Ba Lan không thể thoái thác từ chối với lý do anh Công chưa đến địa điểm trao trả (Bờ Bắc sông Thạch Hãn)... Tôi đón trước bằng đề nghị: Vì anh Công đang trên đường đến địa điểm và nhảy xuống nước, hiện tại đang bị kích ngất không thể di chuyển qua sông được, sẵn dịp Ủy ban Quốc tế sẽ về bờ Nam đáp trực thăng đi Gio Linh, tôi yêu cầu họ phải xác nhận trường hợp hồi chánh của anh Công. Nhưng vì tôi cũng chỉ một mình, một miệng, hai toán Liên Hiệp Quân Sự phe Cộng sản xử dụng tối đa nhân lực cùng lớp cán bộ địa phương bao vây ngay hai anh Hung và Ba Lan, cả một lực lượng hơn mười người cùng hai tên thông dịch viên, thay nhau thảo luận, hỏi ý kiến liên tiếp, kèm thêm màn chụp hình, mời uống nước. Hai anh Hung và Ba Lan lại biểu đồng tình trì hoãn chiến để không qua sông chứng kiến tưòng hợp anh Công. Khốn nạn, tôi chỉ kéo được hai anh Gia Nã Đại và Nam Dương về bờ Nam. Trên giòng nước lạnh ngắt, dưới trời mưa bụi tôi đưa mắt nhìn ra xa nghĩ đến cảnh những người trầm mình để được chết tự do. Cao quý và đau đớn thật, hình như rất ít người nghĩ đến yếu tố thực tế này khi vỗ tay mừng Hiệp Định Ba Lê. Cuối cùng, anh Công vẫn được xếp vào hàng ngũ những người hồi chánh, dù thiếu sự chứng kiến của hai thành viên Ba Lan, Hung Gia Lợi. Trường hợp hồi chánh của anh vẫn được ghi nhận qua phái đoàn Nam Dương, phái đoàn Chủ vị Ủy ban Quốc tế của tháng này. Thạch Phen hay Hồ Văn Công là những trường hợp điển hình vì đã bùng vỡ và thực hiện qua hành động, nhưng còn biết bao nhiêu người nữa, những người không thể hồi chánh theo phong trào Tân Sinh Hoạt, những người không thể tách khỏi tay đám tù đồng bọn khi đi trên đường đến địa điểm trao trả. Bao nhiêu người muốn làm động tác như Hồ Văn Công của ngày 17-3-1973, bao nhiêu người muốn đưa tay lên để phát biểu ý kiến, bao nhiêu người lòng ngập bi thương khi bước chân vào địa điểm trao trả để đợi điểm danh trước khi về với... Nhân Dân!! Nhân Dân... Điển hình với hình ảnh phục phịch của một nữ đồng chí “phục vụ” với giọng nói miền Bắc Việt nghe lạ lùng. Bao nhiêu người tù binh tóc đã ngã màu muối tiêu, bước chân lóng cóng, dẫm lên chiếc thuyền để qua sông, ngập ngừng ném chiếc áo nâu dầy ấm áp theo lệnh của “tù trưởng” để lộ làn da nhăn nhúm mệt nhọc dưới làn mưa dầm dề của tiết xuân, lớp da dù được khích động, đù được bơm căm thù vẫn phải co rúm dưới cơn gió rét miền Trung rờn rợn... Tù Binh... Về đâu? Câu hỏi vang lên nghe nhức nhối và tội nghiệp khôn cùng.
Chẳng phải vì muốn tăng thêm cường độ cảm xúc trong văn chương nên tôi đã khai triển tối đa tình huống qua hai sự kiện cụ thể, nhưng bởi đã nhận ra thực tế không phải chỉ xảy ra ở bờ sông Thạch Hãn, sân bay Lộc Ninh, nơi rừng cao su Minh Thạnh, bên cạnh lớp tù nhân hùng hổ kéo nhau đi trong khi thế hận thù bốc cao đầy ánh mắt, có một số đông, một số rất đông tù binh Cộng sản bước những bước ngắn e ngại, thẩn thờ... Họ cũng như đám tù binh Hồng Quân đã tự sát tập thể bằng cách lao mình từ toa tầu xuống vực sâu trên đường trở về Nga Sô Viết sau khi Đức đầu hàng Đồng Minh 1945; họ cũng như những tù binh của các chiến dịch Atlante, Castor, được Pháp trả về phía bên kia phía Cách Mạng - Phía Việt Cộng. Thân phụ tôi, người chiến sĩ của Sư Đoàn 308, người chiến sĩ của chiến thắng Điện Biên, người từng bỏ tất cả đời sống bình yên cạnh vợ con để hiến dâng trọn đời mình đến cách mạng, cho dân tộc... Từ trại tù 51 ở Hải Phòng trước ngày Pháp trao trả về cho Quân Đội Nhân Dân đã không cầm lòng, phải viết nên lời: “Anh (ba tôi) bây giờ đã mệt mỏi lắm rồi, anh biết đủ thứ, biết bữa củi, nấu cơm, có thể làm tất cả mọi chuyện, chỉ muốn làm sao đưa em (mẹ tôi) và các con đi xa, đi thật xa, ra khỏi nước Việt Nam này..” Năm 1954, với chiến thắng rực rỡ lớn lao kia, người tù Cộng sản cũng phải nhìn lại đoạn đường mình đã đi qua, đưa mắt hướng về một tương lai ảo tượng để nói lên lời cay đắng, huống gì hôm nay, thời gian của 1973, biên giới của Cộng Sản và Tự Do đã xóa nhòa trong men rượu Mao Đài, được quên đi nơi Công Trường Đỏ khi Nixon cúi mình tưởng niệm anh hùng Sô Viết... Thế nên, người tù binh Cộng sản còn đâu ý chí, còn đâu căm thù đích thực... Và “Chống Mỹ cứu nước” hiện rõ ra một khẩu hiệu không nội dung, không đối tượng khi “bè lũ quân Ngụy ác ôn côn đồ” cũng chỉ là những người lính da vàng âm thầm chịu đựng, khi thành tích cách mạng giải phóng miền Nam thật bày ra lớp thịt da người Việt phủ kín chín cây số của Đại Lộ Kinh Hoàng... Giải Phóng, Tự Do, Dân Tộc, Độc Lập, những danh từ chát chúa vĩ đại một cách phi nhân đã thể hiện đủ tính chất, trò xảo trá to lớn mà người tù binh đã đem đời mình hiến dâng nên thành. Trong nhà tù, nơi địa điểm trao trả, người tù binh thấy lại trước mắt cảnh cơm khô, nước lã miệt mài nơi rừng xanh để xây dựng một thiên đường nhạt thếch... Gia đình, làng xưa, nẻo đường về càng ngày càng mất hút. Tù binh Cộng sản, anh đi về đâu khi ngày sắp hết và đời anh cũng đến lúc kiệt cùng.
Còn một điều cần phải nói thêm cho đủ, những người tù dù đã chứng tỏ vững lập trường khi ở giai đoạn giam giữ, cũng phải phát triển căm thù cùng tinh thần chiến đấu ngoan cường ở địa điểm trao trả vì nếu không, sau ly nước trà vồn vã bốc khói, người tù lừng khừng, mệt mỏi, sẽ bị cô lập, tra hỏi, kiểm thảo và hạ tầng công tác ngay hoặc nếu cần thì thủ tiêu... Lớp tù binh được trao trả về theo Hiệp Định Genève 1954 đã chứng tỏ điều này trong những ngày sau 54, những người tù binh của những chiến trường khốc liệt được Pháp trả về đã bị phân tán, đánh tỉa, bỏ rơi và bắt buộc ở vào tình trạng tê liệt cho đến hôm nay, gần hai mươi năm sau ngày trao trả.
Để địch quân bắt giữ là một tội phạm. Người Cộng Sản đã quan niệm như thế. Cả một bộ máy tuyên truyền to lớn của họ không đề cập hoặc khai triển rất ít đối với thành phần những người tù vừa được VNCH trả lại. Trong các báo Quân Đội Nhân Dân, Quân Đội Giải Phóng, tin tức về các cuộc trao trả tù binh Cộng sản được loan báo rất sơ sài, một cột, vài ba giòng. Thiếu vắng hoàn toàn cách đề cao, thổi phồng các “anh hùng” bị giam giữ, bên cạnh những anh hùng sản xuất, anh hùng của đội làm cầu Hàm Rồng..v.v... Số phận những tù binh Cộng sản năm 1973 chắc cũng không khác gì những người hai mươi năm trước. Thực tế sau nầy chứng minh mức độ chính xác của lời tiên tri tiên kiến. Người viết gặp lại người tù anh đã trả nơi bờ sông Thạch Hãn năm 1973. Thượng úy Trọng - Trọng “già”, người cùng chung phòng kỹ luật với Phan Nhật Nam (1983) tại Trại 5 Lam Sơn Thanh Hóa. Trọng đã ở tù từ ngày trao trả mười năm trước vì tội “Để quân Ngụy bắt giữ!!!”
Đó là số phận của tù Cộng sản chân truyền, dù là người kiên quyết ném cái áo tù binh xuống giòng sông, móc từ hậu môn ra mảnh vải dài khoảng ba tấc ngang bằng ba đốt ngón tay trên ghi giòng chữ “Đả đảo Đế quốc Mỹ” và giữ vững trên đầu từ khi bước xuống thuyền, qua sông, ngồi xuống băng điểm danh. Huống gì loại tù binh mắt lạc thần nhìn lên màu cờ đỏ, não nề không trả lời khi được gọi đến, những người tù tóc bạc, thở dài không che dấu, bước những bước hững hờ, lạnh nhạt giữa hai hàng cán bộ phục dịch tay vỗ vang và ứa tràn miệng cười... Những tù binh quê miền Nam, những tù binh vốn du kích, những tù binh đã gần đến tuổi nghỉ ngơi. Về đâu? Đêm nay ngã lưng xuống nơi đâu, quê hương, gia đình đâu? Ảnh ông Hồ Chí Minh và khẩu hiệu “Không có gì quý hơn Độc Lập Tự Do” cũng chỉ nên hình ảnh nhạt nhòa vô nghiã... Người tù Cộng sản lưng trần, đầu cúi xuống, bước đi ngập ngừng. Đi mãi vào một nơi không bao giờ biết. Không hề biết.
Phần những tù binh quân sự đã thê thảm tội nghiệp như thế, huống hồ gì những tù dân sự, những người được gọi là “nhân viên dân sự” của Cộng sản qua định nghĩa của điều 21 (b) Hiệp Định Genève 54: “Nhân viên dân sự là những người đã góp phần vào cuộc đấu tranh vũ trang, chính trị của một bên và bị bên kia giam giữ...” Định nghĩa rộng rãi nhưng vô cùng chặt chẽ đã không làm “lọt” một người nào giữa hai bên miền Nam, tất cả mọi người khi lựa chọn một bên để sống tức là đã lựa chọn một chế độ, hoàn tất một thái độ chính trị và “cuộc góp phần” có thể suy diễn từ thái độ này cũng không sợ nhầm lẫn quá độ. Qua định nghĩa này, tức không còn bóng dáng “thường dân” trong thời chiến, không còn người “dân” thuần túy, độc lập giữa hai thế lực đối kháng Người bị cuốn hút vào không cưỡng chế, phải góp phần tham gia, với một tương quan liên kết về một phe. Không có người làm nghề tự do, không có người buôn bán độc lập mà chỉ có nhân viên dân sự như Nguyễn Văn Tám, bốn mươi ba tuổi từ xã Đông Yên, quận An Biên, tỉnh Rạch Giá làm “gián điệp” cho Tám Cơ ở thị xã Rạch Giá và bị “Chính phủ Lâm Thời” bắt giữ tại địa điểm U Minh trong ngày 2-3-1971.
- Tám Cơ là ai?
- Dạ ổng ở Rạch Giá...
- Tám Cơ bảo anh làm gì?
- Dạ bảo làm... gián điệp!!
- Làm gián điệp như thế nào? Làm những việc gì?... Nguyễn Văn Tám đứng tròng, đưa mắt nhìn tôi, anh không biết mình đã làm những việc gì có liên quan đến “điệp vụ” nguy nan như từ ngữ đó... Tám Cơ, phải chăng chỉ là một nhân viên tình báo của cuộc Cảnh Sát ở Rạch Giá đã nói với Tám trong một lần nào đó: “Vào trỏng thấy gì là lạ, ra nói lại nghe”. “Vào trỏng là những khu U Minh mịt mùng mà Tám hằng ngày ra vào để làm lúa!! Gián điệp Tám đã phạm tội nặng ngàn cân với tình cảnh một người dân khốn khổ! Gián điệp, tội tử hình dù giữa hai quốc gia có tuyên chiến. Tám phạm tội tất nhiên như Tám đã sống trong đời. Phải chăng làm người Việt Nam trong thời đại tàn khốc này đã là một cái tội?!! Trường hợp của bà Lê Thị Tám thì trái ngược lại, bà Tám năm hai mươi tuổi, tóc khô và người nhăn nhúm, thân thể nhỏ bé quắt queo toát ra một vẻ chịu đựng khốc liệt. Bà Tám mở đôi mắt vàng đục, nhướng những lằn mí mắt sùm sụp, cất giọng phiền não...
- Tui tên Tám, năm mươi hai tuổi ở làng La Chữ ngoài Huế.
- Bà phải nói đủ nơi sinh, gồm có xã, huyện, tỉnh... Viên Thiếu tá Mặt Trận có nhiệm vụ hỏi ý kiến bà già cũng não nề trước tình trạng mệt mỏi này.
- Hỉ? Chi?!!
- Bà nói cho tôi biết huyện nào?
- Thì tui “noái” rồi đó, tui ngoài La Chữ, Thừa Thiên...
- Bà bị phía Việt Nam Cộng Hòa bắt vì tội gì?
- Răng biết?!
- Bà không biết lý do bị bắt thì tại sao bây giờ lại xin ở lại.
- Theo “bộ đội” thì biết khi mô về lại ngoài nớ, tui xin về nhà thôi, không được thì ở tù lại cũng được!!
Đến đây, tôi lại phải chen vào chứ để cho viên thiếu tá này vặn vẹo một hồi, bà Tám nói lung tung thì... vỡ mặt. Tôi can thiệp nhưng lòng cũng không có niềm hứng khởi đấu tranh... Vì đấu tranh ở đâu khi lôi kéo người đàn bà này về phía quốc gia, với tầng lớp nhân dân mệt mỏi vô tình này! Tôi cắt ngang lời phát biểu và các câu hỏi để đặt câu hỏi dứt khoát:
- Bây giờ bà đi theo bên Chính Phủ Lâm Thời hay là phía Việt Nam Cộng Hòa?
- Tui ở lại.
- Xong, cám ơn bà, bà theo quân cảnh để ra đợi trực thăng về lại Biên Hòa.
Viên Thiếu tá Mặt Trận giở nón lấy khăn lau đầu, có những sợi tóc bạc đẫm mồ hôi. Dù là người Cộng sản chắc y cũng thoáng rã rời. Bà Tám loắt choắt bước theo người quân cảnh, hai bàn chân nhỏ bước thoăn thoắt, nắng rọi sáng trên đám tóc khô rối. Người đàn bà tội nghiệp này làm sao biết mình vừa lựa chọn một chế độ, vừa phân biệt và quyết định giữa hai đối lực chính trị Quốc Gia - Cộng Sản. Bà đã sống tình cờ nơi làng La Chữ, Hương Trà, Thừa Thiên, hàng ngày vào mạn núi phía tây quốc lộ 1 vùng Nam Hòa (Huế) kiếm củi, có người chận lại đưa cho gói giấy, bảo khi trở về thì rải gói giấy này trên quốc lộ. Người lạ cũng gởi bà mua thuốc lá, xà phòng với giá cao. Gánh củi trở thành phương tiện mua bán thứ yếu, cách buôn bán trên trở nên nguồn lợi chính. Bà Tám rốt cuộc bị ủy viên an ninh xã khám phá và giam giữ!!. Bà khai thật tình số thuốc lá đã bán, số lời thâu được. Bà cũng rất thành thật nói rằng, sau này khi biết mấy người kia là “bộ đội” thì có hỏi tin tức về chồng bà đã đi vào phía núi này từ năm 1952, 53... Liên quan giữa bà Tám với “bộ đội” quả rất phù hợp với định nghĩa của điều 21(b) - Điều khoản được hoàn tất từ những đầu óc nhiều kinh nghiệm, nhiều kiến văn. Lẽ tất nhiên không bao giờ nhầm lẫn, sơ sót. Buôn bán tức là có tương quan kinh tế và vong thân chính trị là gì nếu không phát xuất từ cơ sở kinh tế. Cuộc tranh chấp lớn hiện nay giữa Cộng Sản và Tư Bản cũng chỉ là hệ quả của sự chống đối tử chiến giữa hai lực kinh tế đối nghịch, Tư Bản - Vô Sản. Vậy bà Tám đã hiện thực một “tương quan kinh tế” tức là dự phần vào cuộc đấu tranh võ trang chính trị giữa hai bên miền Nam theo điều 7 Nghị Định Thư Tù Binh của Hiệp Định Ba Lê!!! Bà Tám được ghi tên vào danh sách để trao trả về Mặt Trận Giải Phóng tại Lộc Ninh ngày 21-2-74.
Bà Tám đã thê thảm nhưng Phan Anh Hoát lại còn đau đớn tàn khốc hơn. Hoát trên bốn mươi, người thấp bé nhẫn nhục. Hoát là công chức ở Huế, bị bắt sau cuộc chính biến miền Trung 1966, vì Hoát tham gia lực lượng tranh đấu Phật Giáo. Hoát bị đưa vào Sài Gòn và cuộc điều tra đã có kết luận: Hoát phá rối trị an, làm lợi cho Cộng sản, có dạng thức đấu tranh Cộng Sản, nhận chỉ thị từ thành ủy Huế..v.v.. Ngày trao trả 18-2-74 tại Lộc Ninh, Hoát lặng lẽ đi giữa hai hàng cán bộ tiếp đón với nước mắt chảy đầy má. Đám cán bộ Cộng Sản sững sờ trước khuôn mặt đẫm nước mắt và môi mím chặt uất hận. Lần đầu tiên, tại một địa điểm trao trả có hiện tượng phẫn uất đau đớn này. Đi về phía Cộng sản thì phải vỗ tay phấn khởi, phải bộc lộ căm thù trên đầu nắm tay, trong cái nhìn hung hiểm. Về phía Cộng sản cũng phải dựng lên màn kịch được giải phóng toàn thể, được đời sống tự do tuyệt đối. Nhưng lần đầu tiên của một năm trao trả, người tù Phan Anh Hoát với giọt nước mắt bi phẫn, với lặng lẽ não nề đã từ chối tất cả, đã buông xuôi tất cả, đã hoàn toàn bó tay giữa một thế lưỡng cực phân tranh mà Hoát hoàn toàn thụ động. Hoát cô độc và yếu đuối giữa hai ý hệ. Hoát thả rơi những giọt nước mắt đớn đau. Hoát chỉ là một trường hợp điển hình của đám người cuối đáy tuyệt vọng, những người nghẽn lối và bị xé nát giữa cuộc đấu tranh Quốc - Cộng. Hoát khóc được nhưng một số người đông đảo đã không đủ can đảm để khóc nên giòng nước mắt bi thương đó. Rất nhiều người đã không làm được. Rất nhiều người như thế. Tôi đã biết những người Việt Nam không được khóc giữa các cuộc trao trả.


Những người tù của Gheorghiu quả tình đã bị xé nát bởi guồng máy phi nhân của những chính quyền nhân danh Tự Do và Nhân Loại. Người tù Việt Nam, kẻ chịu nạn ghê gớm giữa hai ý hệ đối cực. Họ không có giai đoạn trước và sau thời hạn tù. Sống ở trên đất nước này đã là một cái tội. Họ bị kết án bởi đời sống đó.

LÊ ĐÌNH AN * TRẠI TỴ NẠN KOTABHARU

TRẠI TỴ NẠN KOTABHARU Kelantan – Malaysia (NN Lê Đình An)

TRẠI TỴ NẠN KOTABHARU
Kelantan – Malaysia.

:::: NN Lê Đình An :::
Tiếp theo bài:
Hai lần vượt tù cải tạo sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Xin ghi lại những dòng chữ nầy
để kỷ niệm những ngày ở trại tỵ nạn Kotabharu..
Kính gởi đến quí đồng hương đã từng ở tạm nơi nầy
biết thêm tiểu sử trại tỵ nạn từ khi mới thành lập.
Trân trọng.
NN Lê Đình An

lda_traitynan1
lda_traitynan2
Lái theo bản đồ tỷ lệ: 1/40 Triệu.
lda_traitynan3(…Chiếc ghe vượt biên mang số KG.0660 của chúng tôi có lẽ nhờ lái theo hải tiêu vào gần bờ nên đã tránh được tàu tuần duyên của Mã Lai đang tuần tiểu dọc theo hải phận. Vì chiếc ghe đã hư hại tróc chai không được sửa chữa (Chai là loại keo để trét những kẽ hở để khỏi bị nước rỉ vào ghe.) Khi tôi lái ghe ủi bãi lườn ghe vừa chạm lên cồn cát ngầm dưới nước nên bị vỡ ra từng mảnh và chìm xuống biển cách bờ vài mươi thước, tất cả 59 người đều nhảy xuống nước sâu đến ngang ngực, bà con bồng bế các trẻ con và lội vào bờ biển Mã Lai, ngày 8-4-78.)
oOo
Đặt chân lên bờ biển Kota Bharu, Kelantan đất nước Malaysia.
Lúc đó vào khoảng 12 giờ đêm, chúng tôi cùng chia nhau tìm vào nhà dân làng để nhờ họ gọi điện thoại báo với đồn Cảnh Sát…Khoảng chừng 20 phút sau 2 chiếc xe Cảnh Sát chạy đến, tập họp chúng tôi lại rồi ra lệnh xua đuổi tất cả thuyền nhân phải trở lại ghe và rời khỏi đất Mã.. Anh Trần Văn Mãnh giỏi Anh ngữ nên đại diện cho thuyền nhân, anh cho Cảnh Sát biết là ghe vượt biên đã bị bể và chìm rồi..Cảnh Sát Mã không tin nên cho nhân viên cảnh sát xuống bãi biển để kiểm chứng..Một lát sau toán kiểm chứng trở lại xác nhận ghe đã bể và chìm rồi..
Tất cả thuyền nhân được Cảnh Sát Mã đưa về một nhà kho bỏ trống của viện Dưỡng Lão, nơi đây đã có 29 người của một chiếc ghe vượt biên đến trước một ngày.
lda_traitynan4Nhà kho của Viện Dưỡng Lão Kotabaru. 8-4-78.
Hình ảnh ốm yếu của gia đình tôi, sau 3 năm bị tù đày, đói khát dưới chế độ cộng sản.
Sáng ngày hôm đó, chúng tôi ra tiệm bán tạp hóa bên kia đường nhà kho, qua con đường làng nhỏ. Anh Trung và anh Mãnh mời chúng tôi uống mỗi người một chai Coke..Sau 3 năm ở Việt Nam trong ngục tù Cộng Sản mọi thứ đều thiếu thốn …Bây giờ chúng tôi mới uống được một chai Coca Cola ..Thật sung sướng vô cùng.!
Một buổi họp giữa các anh Mãnh, anh Trung, anh Châu và tôi. 3 anh là đại diện cho tổ chức vượt biên các anh cho tôi biết: Theo như cam kết giửa ban tổ chức vượt biên và anh Nguyễn Văn D., tài công đã lấy trước một số vàng rồi khi nào ghe vượt biên do anh tài công đưa người đến bến bờ Mã Lai thì các anh sẽ đưa thêm cho tài công 10 lượng vàng. Nhưng trong chuyến đi nầy là do anh An lái vậy chúng tôi đưa số vàng nầy cho anh An?. Tôi khoát tay và nói: Vì chúng ta đi chung thuyền thì phải tự cứu mình và cứu người..Các anh cứ theo cam kết của ban tổ chức mà đưa vàng cho anh tài công D. đi, tôi không có dính líu đến việc cam kết đó. Các anh nói: Vậy thì anh nên giữ chút ít để xài trong lúc khó khăn nầy. Tôi từ chối và bước ra ngoài, các anh nhìn theo tôi ái ngại vì các anh biết gia đình tôi không có một xu dính túi..
Riêng tôi thầm nghĩ gia đình tôi đã được ơn Thượng Đế thiêng liêng cứu giúp thoát khỏi họa Cộng Sản, thì đối với những vàng bạc đó có nghĩa lý gì đâu.!
LHQ quyết định thành lập trại tỵ nạn Kota Bharu.
Vài hôm sau Cảnh Sát Trưởng Đại Úy Fredly vào gặp chúng tôi. Ông cho biết Cao Ủy Liên Hiệp Quốc quyết định cho thành lập trại tỵ nạn tại đây và sẽ xây cất thêm 10 dãy trại. Ông Fredly yêu cầu chúng tôi tổ chức ban điều hành trại vì sẽ có nhiều thuyền nhân tới tạm trú nơi đây. Trước đây thuyền nhân trôi dạt vào nơi đây đều được đưa đến trại tỵ nạn Terengganu rồi chuyển ra đảo Pulau Bidong.
Chúng tôi họp nhau lại cùng bàn thảo vì biết trại tỵ nạn sẽ càng ngày càng đông thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không có tổ chức an ninh trật tự vững mạnh ngay bây giờ thì sẽ bị thành phần bất hảo lộng hành và bọn VC lẫn lộn trong trại sách động gây rối v.v. nên cùng nhau họp bàn sắp xếp các chức vụ ban điều hành với sự đồng ý của tất cả bà con trong trại như sau:
*Hồ Văn Mãnh Trưởng Trại Đối ngoại và điều hành tổng quát
*Lê Đình An Phó Trại - Đối nội, tổ chức An ninh trật tự.
*Nguyễn Văn Kiệt Thư ký Kế toán và kiểm soát, thực phẩm .
*Trần Văn Trung Xã Hội - Điều hành công tác xây cất nhà bếp, vệsinh v.v…
*Nguyễn Ngọc Châu An Sinh – Phân phát phẩm vật cứu trợ.
Anh Mãnh trước ngày 30-4-75 là Tiếp đãi viên Hàng Không Việt Nam giỏi Anh ngữ. Anh làm Trưởng trại có trách nhiệm tổng quát và liên lạc với Cảnh Sát Mã Lai.
Tôi trách nhiệm Phó trại lo về trật tự và an ninh, soạn thảo Nội Quy, Điều Lệ và các văn bản hoặc các thông báo của trại, sau đó ban điều hành nghiên cứu và bàn thảo rồi đem ra thông báo trong buổi họp toàn trại.
Tôi tổ chức và huấn luyện tất cã thanh niên khoảng gần 100 người, phân chia đội ngũ làm an ninh trật tự có nhiệm vụ giữ trật tự và theo dỏi những hành động trộm cướp hoặc mua bán đồ cứu trợ vi phạm nội quy gây xáo trộn trong trại và nguy hiểm nhất là những tên Việt cộng nằm vùng trong trại có thể xách động làm mất lòng dân địa phương có thể đưa đến việc dân địa phương biểu tình chống đối dân tỵ nạn.v.v.
Vẫn không tránh khỏi va chạm xảy ra với dân địa phương.
Bắt tay vào việc, anh Trung điều động một số đàn ông thanh niên lo đi tìm vật liệu để cất thêm nhà bếp, nhà vệ sinh và đào giếng nước …. Trong lúc đào giếng riêng cho trại chưa xong thì lại xảy ra việc đụng chạm với nhân viên của viện Dưỡng Lão.
Nguyên do là người trong trại đang xài nhờ giếng nước bên viện Dưỡng Lão nhưng vì đông người quá nên làm ồn ào gây xích mích với nhân viên Mã Lai của viện.
Ban điều hành họp khẩn để bàn thảo. Sau đó ban điều hành đại diện qua Viện Dưỡng Lão để dàn xếp với ban giám đốc nên cũng tạm yên.
Nhận thấy có sự chống đối của dân địa phương với người tỵ nạn như tôi đã dự liệu.., sau khi suy tính kế hoạch để đối phó tình trạng nầy, tôi đem ra bàn thảo với ban điều hành trại đi đến quyết định:
Tổ chức huấn luyện võ thuật Thái Cực Đạo (Tae Kwon Do) do tôi đảm trách. Mục đích là “dương oai” để cho dân địa phương nể mặt, đồng thời thu hút sự ham mê võ thuật để lấy lòng của lớp tuổi thanh thiếu niên Mã Lai và dân làng tại đây.v.v.
lda_traitynan5Đội bóng chuyền.
Bắt đầu mổi ngày đúng 8 giờ sáng. Tất cả võ sinh gần 100 người tập họp tại sân trại tập luyện. Tiếng la hét trong lúc tập võ làm náo động các trẻ em thanh niên và dân làng đến xem ngoài vòng rào trại, họ xem chúng tôi tập võ tỏ vẻ rất ngưỡng mộ.
Vài hôm sau, một nhân viên của viện Dưỡng Lão qua tìm Ban Điều Hành chúng tôi và tặng cho một con Kỳ Đà anh vừa bắt được trên ngọn cây dừa, anh ta thân thiện nói với chúng tôi là anh rất thích về võ thuật v.v. Hôm đó chúng tôi được một bữa Cà-ry nấu thịt con Kỳ Đà thật ngon… Và cũng từ đó xem như chúng tôi đã có kết quả là thâu phục được phần nào thiện cảm của người dân làng.. Ban điều hành chúng tôi rất vui mừng vì đã tạm yên ổn…
lda_traitynan6
Sẵn dịp tôi xin kể lại cách hái dừa của người Mã Lai.6
Họ không leo lên cây dừa để hái trái như Việt Nam mà lại dùng con khỉ có cột sợi dây ngang eo bụng leo lên cây dừa, con khỉ theo sự huấn luyện của chủ, người chủ giựt dây bên trái hoặc bên phải mà di chuyển theo ý muốn của chủ và hái những quày dừa nào mà chủ nó muốn, khi đúng quày dừa cần hái, con khỉ hai chân sau đeo vào tào dừa và hai bàn tay nó ôm lấy trái dừa mà quay tròn thật nhanh cho đến khi trái dừa đứt cuống rớt xuống đất trung bình 1 quày dừa khoảng 15 trái thì khỉ hái chỉ trong vòng 8 đến 10 phút mà thôi.
oOo
Vì tạm trú tại nhà kho nhỏ mà số người tỵ nạn cập bờ ngày càng đông nên các gia đình anh Mãnh, anh Trung và anh Châu đều cất lều vải riêng cho gia đình ở với tiền riêng của mình. Các anh rủ gia đình tôi cùng ra ở ngoài lều riêng nhưng tôi từ chối vì “Chính kỷ dĩ cách vật” tự nghĩ mình có trách nhiệm trong ban điều hành nên muốn cộng khổ với tất cả mọi người thì mới dễ điều hành. (Gia đình tôi vẫn ở trong nhà kho cũ cho đến khi được đi định cư).
Trong thời gian mới thành lập trại, ngoài phần cứu trợ của Cao Ủy LHQ. chúng tôi còn được thêm sự trợ giúp thực phẩm, quần áo cũ và thuốc men v.v… bởi các hội đoàn cứu trợ tại địa phương, chúng tôi tiếp đón với những màn văn nghệ “bỏ túi” để chào mừng các phái đoàn thiện nguyện.
lda_traitynan7
Khoảng 2 tháng sau, 10 dãy trại đã được xây xong. Một buổi đón tiếp phái đoàn ông Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đến viếng thăm. Sau khi được được Cảnh Sát Mã báo tin , ban điều hành trại họp lại để lo tổ chức, tôi trách nhiệm sắp xếp an ninh với một số thanh niên trong trại. Bà con cùng họp sức trang hoàng hội trường , mua vải để may quốc kỳ VNCH và mua lá quốc kỳ Mã Lai để treo, còn chung quanh 10 dãy trại được dọn dẹp thật sạch sẽ.
Buổi lễ khánh thành 10 dãy trại mới xây cất xong và lễ chào cờ đầu tiên nơi trại tỵ nạn Kotabharu thật xúc động .
Sáng sớm hôm đó tất cả đồng hương đều thức dậy, mọi người đều lo làm công việc đã được phân công rồi tập họp trong hội trường, lúc đó có khoảng 300 người chờ đón phái đoàn.
Đúng 9 giờ sáng, phái đoàn Cao Ủy LHQ được đoàn xe cảnh sát Mã hộ tống đến trại , BĐH chúng tôi cùng với 8 thanh niên ra đón tiếp phái đoàn và đưa đi vòng quanh các trại rồi đưa vào hội trường, tất cả theo hướng dẫn của tôi đứng lên chào đón phái đoàn với tiếng vổ tay chào mừng, ông Cao Ủy và phái đoàn cũng vẫy tay chào..
Tiếp đó phó trại hô nghiêm :..Lễ chào quốc kỳ . Nầy công dân ơi… Đứng lên đáp lời sông núi….
….Tiếng ca của mấy trăm người tỵ nạn vang lên như vượt cả không gian..dư âm như bay theo mây gió bạt ngàn ..như đưa chúng tôi về vùng trời quê hương xa thẳm ..tiếng ca như ngấm sâu vào tận đáy lòng người mất nước phải ly hương tìm tự do …Cả hội trường chúng tôi đều xúc động, nức nỡ.. ngẹn ngào..
Đã trên 3 năm qua trên đất nước miền Nam bị bọn Cộng Sản cưỡng chiếm, lần đầu tiên chúng tôi được hát quốc ca mà đã tưởng chừng như không bao giờ còn được nghe thấy lại nữa..
lda_traitynan8Lễ chào Quốc Kỳ tại trại Tỵ nạn..
Nhưng việc chào cờ bất ngờ nầy ngoài dự tính của Cảnh Sát Trưởng Đại Úy Fredly và phái đoàn Cao Ủy, tất cả cũng đành phải đứng nghiêm, trong lúc đó ông Fredly kề tai nói nhỏ với anh Mãnh trưởng trại: Trời ơi! Tụi bây đã nhập cảnh bất hợp pháp mà lại bắt tụi tao chào cờ tụi bây nữa? Anh Mãnh lúng túng cười vả lả : Xin lỗi ông…vì chúng tôi không biết..!
Sau đó ông Cao Ủy LHQ ngỏ lời chào và chúc mừng mọi người đã đến được bến bờ Tự Do, sau khi trả lời những thắc mắc với người tỵ nạn và hứa sẽ cố gắng giúp cho người tỵ nạn sớm được định cư ở nước thứ 3…
Qua ngày sau, Cảnh Sát Trưởng Fredly vào trại họp với BĐH chúng tôi và ông ngỏ lời khen ngợi phần an ninh trật tự đã tổ chức thật chặc chẽ trong buổi lễ, ông báo cho chúng tôi tin vui, ông cho biết Ban cảnh sát của ông cũng rất hài lòng BĐH đã tổ chức an ninh trật tự và suốt mấy tháng qua không bị xáo trộn, và giữ được hòa khí với dân làng nên Ban cảnh sát của ông đồng ý cho mở cửa trại tỵ nạn cho chúng tôi được tự do ra trại đi ra thị trấn Kotabharu cách trại khoảng 3 cây số đi và về bằng xe Lam 3 bánh hoặc Taxi để ăn uống hoặc mua sắm từ 8 giờ sáng đến 8 giờ tối mới đóng cửa trại..
BĐH họp trại thông báo tin vui và cũng nhắc nhỡ bà con cố gắng giữ gìn trật tự để được sự tự do đi lại nầy.
Tôi và vợ con cũng đi ra thành phố và tìm vào tiệm kim hoàn bán chiếc nhẩn cưới của chúng tôi để chi xài trong lúc ngặt nghèo tại đây. Sau đó chúng tôi đi du ngoạn vòng quanh thành phố Kotabharu và thưởng thức rất nhiều loại trái cây tươi như ở Việt Nam, nhưng nơi đây có lẽ nhờ vào khí hậu và đất tốt như Thái Lan nên trái cây rất ngọt và không bị sâu bọ..
lda_traitynan9Một câu chuyện thương tâm của người Vượt biển.
…..Sau khi chuyến ghe vượt biên của chúng tôi thành công trong vòng 2 ngày 2 đêm rưởi đã đến được Mã Lai, chúng tôi gởi điện tín về Việt Nam thông báo cho ban tổ chức vượt biên hay, để chuẩn bị chuyến vượt biên tiếp theo..Và chuyến thứ 2 nầy có vợ con anh Trần Văn Trung trong ban điều hành trại tỵ nạn, và đây cũng chỉ là một trong muôn ngàn câu chuyện thương tâm của người vượt biển….
Sơ lược về anh Trần Văn Trung.
Thuở thiếu thời anh Trung rời khỏi Quãng Bình miền Trung vào năm 1954 vì hiệp định chia đôi hai miền, anh vào thành phố Sài Gòn tìm việc làm, anh theo học ngành sửa xe hơi…Và hoàn cảnh đã đưa đẩy anh sau đó gặp được vận may….Anh Trung đã trúng thầu vật liệu phế thải của quân đội đồng minh Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam.
Anh Trung như đã mang “đôi hia bước đi bảy dặm” giống như chuyện thần thoại ngày xưa. Tiền vào như nước. Sau đó anh lập gia đình, anh chị tiếp tục phát triển ngành thầu..Phát triển đến đổi anh chị không có thời giờ kiểm tiền, phải nhờ ngân hàng biệt phái kế toán viên đến nhà hàng tuần để kiểm tiền và làm sổ sách..
Đến ngày 30-4-1975. Sài Gòn sụp đổ, cộng sản chiếm trọn miền Nam.
Anh chị đã có 4 đứa con: 3 trai và 1 gái, gia đình anh không kịp thoát ra ngoại quốc trong những ngày chính biến…Sau đó biết không thể sống với chế độ Cộng Sản nên đành phải tìm đường vượt biên. Với tiền bạc sẳn có anh chị đã liên lạc được nhiều tổ chức vượt biên nhưng lại bị thất bại 9 – 10 lần với nhiều lý do như bị lường gạt bởi chủ tàu, hoặc tổ chức vượt biên bị bể hoặc bị bắt trở lại khi ra cửa biển v.v. ..Nhưng anh chị vẩn kiên nhẫn tiếp tục, với kinh nghiệm nhiều lần thất bại, anh chị chia ra làm 2 toán, anh Trung đi chung với 2 đứa con nhỏ, còn chị Trung thì đi với 2 đứa con lớn. Đề phòng nếu toán của anh Trung vượt biên lở thất bại bị bắt thì chị Trung còn ở ngoài lo chạy hối lộ để cứu ra, và ngược lại nếu toán chị Trung bị bắt thì anh Trung lo..
Cũng vì vậy trong chuyến vượt biên nầy, chỉ có anh Trung và 2 đứa con đi chung với chúng tôi đã đến được bến bờ Mã Lai an toàn.
Còn chị Trung đang ở lại Việt Nam để lo hối lộ bọn Công An VC. để cứu 2 đứa con ra vì bị bắt trong chuyến vượt biên vừa qua..
Khoảng 1 tháng sau anh Trung nhận được tin chuyến vượt biên thứ 2 đã ra khơi.. Anh vui mừng vì sẽ đoàn tụ lại gia đình nhưng cũng không tránh khỏi âu lo..
Hôm nay đã qua mười mấy ngày rồi mà anh Trung vẫn chưa có tin tức gì về chuyến vượt biên thứ 2, anh Trung càng lo lắng hơn cho chị và 2 đứa con còn đang lênh đênh trên biển cả đã qua nhiều ngày…
Với khả năng và kinh nghiệm ngoại giao trong thương trường, anh Trung đã tạo được thân thiện với Cảnh Sát Trưởng Đại Úy Fredly, anh Trung nhờ ông ta giúp dùm xem coi có tên chị và 2 con trong danh sách các trại tỵ nạn khác tại Mã Lai và các ghe mới đến.
Nhưng trời đã không phụ lòng anh, vào khoảng 10 giờ sáng, ngày thứ 16. Cảnh Sát Trưởng Fredly vào trại tìm anh Trung, sau đó mọi người thấy anh Trung vui mừng chạy vào trại vừa la lớn “ Vợ con tôi đến rồi, vợ con tôi đến rồi..”anh vội vã kéo đứa con trai là “Triết cam tích” (Vì Triết có cái bụng ỏng,,) và cô “Công chúa Mã Lai” (vì bé Tuyền có nước da ngâm đen) Rồi cùng ông Fredly lên xe chạy đi…Chúng tôi cũng hồi hộp chờ đợi..
Đến trưa xe ông Fredly chở về trại gồm có anh chị Trung và 4 đứa con, cùng 3 chị em của ca sĩ Hải Lý.
Tất cả bà con trong trại cùng đến chia vui và chào đón người mới đến.
Vài hôm sau chị Trung đã tỉnh táo lại phần nào, chị kể lại cho chúng tôi nghe chuyến ghe vượt biên 15 ngày của chị đầy tai biến..
Chuyến thứ 2 trên ghe gồm có 85 người, và ban tổ chức vượt biên cũng đưa người xuống 2 chiếc ghe tại bến Ninh Kiều Cần Thơ rồi chạy ra gần đến cửa Tranh Đề, nơi đây có chiếc ghe đánh cá chờ sẵn đón người của 2 chiếc ghe lên rồi khởi hành ra cửa biển, ghe lại bị vướng lên cồn cát trong suốt 3 giờ đồng hồ và nhờ thủy triều lên mới thoát được và chạy ra khơi..
Sáng ngày hôm sau bà con rất mừng vì đã ra xa bờ, nhưng nỗi mừng vui chưa được bao lâu vì bà con trên ghe thấy sao bóng mặt trời lúc thì ở phía trước ghe, lúc thì lại thấy bóng mặt trời phía sau lái?
Bà con hỏi tài công thì anh ta chối quanh là đang đi đúng hướng..Nhưng một lúc sau lại thấy chiếc ghe đang chạy vòng vòng nữa? Mấy người đàn ông nóng lòng vặn hỏi tài công. Đến lúc đó tên nầy mới thú thật anh ta không phải là tài công, nhưng vì anh muốn được vượt biên nên nhận đại để được đi nên anh ta không biết phương hướng chi cả..Anh ta quì lạy nhận tội xin bà con muốn xử tội hay giết chết thì anh cũng đành chịu …
Trời. .Trời !! tiếng kêu trời thảng thốt lẫn tuyệt vọng của tất cả mọi người trên ghe, dư âm như tan dần trên mặt trùng dương bao la…
Và ghe vẫn tiếp tục chạy..Bà con bỗng một lúc sau thấy từ xa một chiếc ghe đang chạy đến, trên cột cờ có treo cờ đỏ sao vàng tất cả hoảng hốt la lên “Ghe quốc doanh, ghe quốc doanh..” Chiếc ghe vượt biên vội đổi hướng 180 độ chạy đi, ghe quốc doanh rượt theo và bắn xối xả vào ghe vượt biên nước biển văng lên ướt cả sàn ghe, ghe vượt biên mở máy hết tốc lực chạy ra khơi..ghe quốc doanh rượt theo không kịp nên quay trở lại. Trên ghe vượt biên may mắn không có ai bị thương..
…Thì ra chiếc ghe đang chạy quanh quẩn trong vịnh Thái Lan ..
Rồi chiếc ghe vẩn tiếp tục chạy mải mà chẳng ai trên ghe biết mình đang ở đâu ?..Vài đàn ông thanh niên trên ghe cùng họp nhau để tìm phương hướng nhưng rồi cũng đành buông trôi vì chẳng ai hiểu biết gì về hải trình trên biển..
Bắt đầu tai họa xảy đến..
Ngày lại qua ngày chiếc ghe đã hết dầu không còn chạy được nữa, thức ăn nước uống cũng không còn nhiều nên phải phân chia để cầm hơi.. chiếc ghe như chiếc lá trôi dạt giữa đại dương mênh mông..
Một hôm bà con thấy một chiếc tàu đánh cá mang cờ Thái Lan chạy đến, tất cả đều hoảng sợ nhưng không biết làm sao được..Tàu Thái chạy đến cập vào ghe, một toán hải tặc mặt mày hung dữ tay dao tay búa hùng hổ nhảy qua ghe, chúng bắt tất cả dồn vào một chỗ và lục xét vơ vét tiền bạc và nữ trang..
Trước khi chúng bỏ đi chúng lại gọi tàu hải tặc khác đến, và hết chiếc nầy rồi chúng nó gọi chiếc khác, tiếp tục vơ vét cướp tất cả những gì mà chúng có thể lấy đi..cho đến chiếc tàu thứ 11 thì trên ghe không còn gì để lấy, bọn hải tặc Thái tức giận chúng đụt cả be ghe và các ống dẩn nước của máy ghe ra để tìm vàng vì nghĩ thuyền nhân giấu trong đó.
Chúng không tìm được gì nên bọn hải tặc quay ra lựa chọn một số phụ nữ định bắt qua tàu của chúng, trong lúc dằn co la khóc đó bỗng một tên hải tặc trợt chân rớt xuống biển, bọn hải tặc vội buông tất cả phụ nữ ra và lo vớt tên hải tặc lên..Tên đầu sỏ hải tặc la lên một tràng tiếng Thái chúng có vẻ hoảng sợ vội vã bỏ lại tất cả phụ nữ rồi lên tàu chạy đi…
Bây giờ chiếc ghe trôi xuôi theo sóng gió mặc tình đưa đẩy..Chị Trung và cùng 2 con ngồi dựa vào nhau, chị cảm thấy niềm hy vọng gặp lại chồng con càng mong manh càng xa vời….
Bỗng một buổi sáng nghe tiếng mọi người vui mừng reo lên vì chiếc ghe đã trôi dạt vào gần bờ cách vài trăm thước. Trong lúc đó chị thấy có vài người dân trong làng họ xúm nhau lội ra đẩy phụ chiếc ghe vào bờ. Thì ra đây là làng đánh cá Thái Lan gần biên giới Mã Lai, dân làng nơi đây rất hiền lành họ cùng nhau lo nấu nướng rồi đem đến cho bà con tỵ nạn …Nơi đây chị Trung thấy có mặt của những tên hải tặc nhưng không ai dám mở miệng….
Chị Trung gặp một vị cao niên trong làng biết chút ít tiếng Việt vì ông là người Thái lai Việt nhiều đời, sau vài câu chuyện trao đổi với ông, chị Trung đem việc phụ nữ bị hải tặc bắt đi nhưng tại sao chúng lại bỏ lại tất cả phụ nữ khi một tên bị rơi xuống biển.?? Ông lão cho biết dân làng đánh cá nơi đây rất tôn sùng đạo Phật, và những người sống bằng nghề đánh cá đi biển mà bị rớt xuống biển là điềm rất xui xẻo.. vì vậy khi chúng cướp của là đã phạm tội lỗi với Trời Phật. Chúng rất sợ sẽ bị quả báo nên vội vàng bỏ đi..
(Chị Trung kể đến đây tôi mới biết tại sao.! Vì việc nầy cũng đã xảy ra trên hải trình do tôi lái, khi một thủy thủ của chúng bị rớt xuống biển và được ghe chúng tôi vớt lên..rồi chúng cũng vội bỏ đi ..”Trong bài hai lần vượt tù cải tạo”.)
Chị nói tiếp: Chánh quyền địa phương làng đánh cá giúp chúng tôi sửa chữa chiếc ghe xong, cho thêm thức ăn nước uống rồi ra lệnh ghe chúng tôi phải rời bờ với những tràng súng bắn chỉ thiên xua đuổi, mặc cho những lời van xin cho ở lại đất liền vì tất cả mọi người đều kinh sợ biển khơi…Rồi chiếc ghe chúng tôi cũng đành phải rời bờ..
Theo lời chỉ dẫn của dân làng đánh cá Thái Lan, chiếc ghe chạy cập theo gần bờ lần về hướng Nam, khi qua ranh giới Thái- Mã thì lại gặp tàu tuần duyên của Mã Lai, ghe chúng tôi lại bị xua đuổi chạy ra khỏi hải phận Mã Lai, cũng với những tràng súng bắn chỉ thiên ..
Chiếc ghe khốn nạn gặp nhiều bất hạnh của chúng tôi lại phải lê thân tàn trôi nổi trên đại dương..Khi ghe chúng tôi đi ngang qua các ghe tàu đánh cá của Mã Lai, chúng tôi thấy họ kêu và ra dấu cho chúng tôi, lúc đầu chúng tôi không hiểu ý nhưng sau đó chúng tôi biết ý họ chỉ cho chúng tôi phải đục ghe cho chìm xuống biển rồi lội vào bờ..
Trên ghe mọi người cùng bàn thảo cuối cùng đồng ý đục ghe cho chìm, mặc cho lời van xin của số người không biết lội vì cách xa bờ khoảng 400 – 500 thước!!..
Khi ghe bị đục chìm lần, một số người biết lội họ lội vào bờ..Còn lại hơn một phần ba không biết lội chen chúc nhau la khóc, bám víu vào chiếc ghe đang chìm chỉ còn phân nửa phần mũi ghe còn nổi trên mặt nước…
Trong lúc tận cùng tuyệt vọng …thì từ xa chiếc tàu tuần duyên của Mã Lai theo dõi qua ống dòm họ đã chờ đợi cho đến khi thấy ghe đã bị chìm nên mới vội chạy đến và cho ca-nô cứu vớt tất cả nạn nhân rồi đưa vào bờ . Chị sững sờ như có phép lạ của đấng thiêng liêng vô hình đã dang tay cứu vớt…
Chấm dứt câu chuyện, mắt chị Trung còn đẫm lệ…Chúng tôi cũng ngẹn ngào vì xúc động..Ôi..Hai chữ “TỰ DO” mà thuyền nhân chúng tôi phải trả bằng mọi giá kể cả mạng sống của mình.!
Và cũng trong câu chuyện nầy cho thấy trong tận cùng tuyệt vọng..những người biết bơi lội cùng đi chung chiếc ghe đã nhẫn tâm đục thuyền chỉ lo cho cá nhân mình mà không màng gì đến mạng sống của số người không biết bơi lội một cách tàn nhẫn phũ phàng..!
Trên bầu trời xanh, mây trắng vẫn bay,
dưới ngàn khơi vẫn dạt dào sóng gió…
Một cuộc di tản vượt biên lớn lao trong lịch sử loài người rồi đây cũng sẽ chìm vào lãng quên phũ phàng của nhân thế.
Những sự hy sinh của ông bà, cha mẹ đã liều mạng đưa con cháu mình trốn khỏi gông cùm của bọn quỹ đỏ cộng sản dã man, mong sao con cháu có được tương lai tươi sáng trên vùng đất tự do.
Rồi đây các thế hệ tương lai có nhớ và biết tại sao chúng có mặt nơi nầy hay không?
lda_traitynan10Anh chị Trung và các con Luận, Văn, Triết và cô bé Tuyền
Ảnh chụp 10 dảy trại mới xây cất, trước khi rời trại tỵ nạn Kotabharu, năm 1978.
Ngày vượt biên không một ai biết trước được tương lai của các con cháu mình ra sao?
Rồi 30 năm sau nơi hải ngoại, với tình thương yêu dạy dỗ của cha mẹ.. Đến năm 2008. Các cháu học hành đỗ đạt, gia đình anh chị Trần Văn Trung đã có “4 vị Bác Sĩ” tại Hoa Kỳ, nơi vùng đất tự do nầy!!. Sự thành công của các cháu cũng là niềm hãnh diện chung cho thuyền nhân VN chúng ta…
Trở lại trại tỵ nạn..
lda_traitynan11Trong thời gian nầy lần lượt các phái đoàn Liên Hiệp Quốc của các nước Pháp, Mỹ, Úc, Tân Tây Lan lần lượt vào nhận đơn xin đi định cư của người Tỵ nạn. Trong Ban điều hành đã có người được nhận đi định cư.
-Trưởng trại Hồ Văn Mãnh có người thân ở Pháp nhưng không muốn định cư ở Pháp nên anh từ chối và Phái đoàn Mỹ không nhận nên cuối cùng anh đành phải xin định cư ở Canada cùng với gia đình gồm có chị và 2 cháu.
-Trưởng ban An Sinh Nguyễn Ngọc Châu cùng gia đình đi California.
-Trưởng ban Xả Hội Trần văn Trung cùng gia đình định cư tại Texas.
Còn gia đình tôi là quân nhân được ưu tiên nhưng vì tôi không có giấy tờ để chứng minh chỉ có số quân mà thôi. Phái đoàn Hoa kỳ nhận đơn nhưng không cho định cư vì còn phải chờ kiểm tra lại lý lịch của tôi. Trong khi chờ đợi phái đoàn Hoa Kỳ trở lại trại, Phái đoàn Mỹ bắt buộc gia đình tôi phải xin đi một nước khác nếu nước đó từ chối thì khi phái đoàn trở lại sẽ thâu nhận chúng tôi. Hơi thất vọng nhưng cũng đành phải làm theo lời của phái đoàn vì chúng tôi nghĩ là mình đã thoát được gông cùm Cộng Sản được tự do rồi thì bất cứ nước nào nhận chúng tôi cũng đi…
Lần lượt phái đoàn các nước trên thế giới đến phỏng vấn và nhận hồ sơ các gia đình tỵ nạn đi định cư nơi nước của họ. Gia đình tôi cũng đã theo lời của phái đoàn Mỹ, chúng tôi đã nộp đơn xin định cư tại Úc, phái đoàn Úc lần nầy có nhân viên Cao Ủy LHQ cùng đến trại. Sau khi xem hồ sơ của gia đình tôi, vị trưởng phái đoàn Úc đưa hồ sơ cho nhân viên Cao Ủy để tham khảo rồi hỏi lý do tại sao gia đình tôi chọn đi Úc?
Tôi trả lời vì phái đoàn Mỹ muốn chúng tôi phải xin đi 1 nước khác, khi nào nước đó từ chối thì khi phái đoàn Mỹ trở lại mới cứu xét.
Vị Trưởng phái đoàn Úc lại hỏi tại sao tôi lại chọn đi Mỹ?
Tôi đáp: “vì bạn bè đồng đội của tôi đều ở Mỹ, bây giờ phái đoàn Mỹ chưa chịu nhận.. Nhưng vì chúng tôi là người tỵ nạn cộng sản đi tìm tự do, nước nào nhận chúng tôi cũng đi.. Nếu bây giờ ông đồng ý đón nhận thì gia đình chúng tôi rất vui mừng được định cư nơi nước ông”.
Trưởng phái đoàn Úc trầm ngâm suy nghĩ rồi nói:
-Theo hồ sơ nầy đủ điều kiện đi Mỹ…để tôi giúp ông bằng cách ghi vào hồ sơ là phái đoàn Úc “đang xem xét hồ sơ” cho hợp lệ với phái đoàn Mỹ, để khi phái đoàn Mỹ đến gia đình ông nộp đơn xin đi Mỹ lần nữa. Nếu phái đoàn Mỹ từ chối, thì khi phái đoàn Úc chúng tôi lần sau đến có lý do sẽ nhận gia đình ông định cư nước Úc.
Rồi ông Trưởng phái đoàn Úc giải thích:
-Nếu bây giờ Phái đoàn Úc ghi “Từ chối” vào hồ sơ thì lần sau Phái đoàn Úc sẽ không được quyền nhận lại gia đình ông.
Sau khi được vị Trưởng phái đoàn Úc giải thích rỏ ràng, chúng tôi rất cảm động chân tình của ông đối với gia đình chúng tôi. Tôi ngỏ lời cám ơn ông và phái đoàn Úc.
Hôm nay phái đoàn Mỹ trở lại trại, gia đình tôi cũng nộp đơn xin đi.. Đến lượt gia đình tôi được gọi tên lên phỏng vấn, ông Trưởng phái đoàn Mỹ cầm trong tay một xấp giấy tờ lý lịch đã được kiểm tra bằng “Viễn ấn tự” gởi từ bên Mỹ, ông đọc lại lý lịch của tôi để xác nhận..
Điểm đặc biệt là một vài công tác tôi khai chưa đủ vì không nhớ rõ cũng được ông đọc lại. Sau đó ông nhận cho gia đình chúng tôi tuyên thệ với phái đoàn và chờ đợi định cư tại Hoa Kỳ.
Vào khoảng tháng 9 -78. Chúng tôi nhận được tin của Cao Ủy LHQ và cảnh sát Mã cho biết là Việt Cộng đang tranh chấp với Trung Cộng nên đã ra lệnh trục xuất người Việt gốc Hoa rời khỏi VN.v.v… Nên Cao Ủy LHQ chuẩn bị phái đoàn các nước nhận hồ sơ cho tất cả những người tỵ nạn hiện có trong trại sớm được đi định cư, để đối phó làn sóng tỵ nạn khổng lồ sắp tới.
Bắt đầu thời điểm đó thuyền nhân vượt biên qua dạng bán chánh thức đầu tiên là người Việt gốc Hoa đến trại với chiếc tàu chở 360 người, đã chết 1 người già yếu vì chịu không nổi sóng gió và một số người bịnh hoạn kiệt sức vì lạc hướng lênh đênh trên biển nhiều ngày thiếu ăn thiếu uống..
Làn sóng vượt biên cao điểm bắt đầu tràn ra khắp nơi trong vùng Đông Nam Á vì Việt Cộng “xả cảng bán chính thức” đuổi người Việt gốc Hoa ra khỏi VN để bọn chúng tha hồ vơ vét chia nhau nhà cửa của người vượt biên. Một số người Việt cũng thừa dịp nầy trà trộn bằng mọi cách để vượt biên. Họ ra đi vội vã bỏ lại gia tài của cải, và cũng có người lén giấu kim cương, vàng bạc, tiền Đô La để đem đi..nhưng lại làm mồi cho bọn hải tặc Thái Lan cướp bóc và hảm hiếp người tỵ nạn cộng sản trên suốt hải trình tìm tự do qua các nước lân cận trong vùng Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Thái Lan,Mã lai, Tân Gia Ba, Nam Dương, xa hơn nữa là qua đến Úc Châu, Tân Tây Lan và luôn cả vùng Đông Bắc Á gồm có các nước Nhật, Đài Loan và Hồng kông.. vào lúc đó có câu “Cộng Sản đến đâu nếu cột đèn mà có chân nó cũng vượt biên.”
Vì muốn chặn bớt làn sóng tỵ nạn các nướcláng giềng đó đã nhẫn tâm xua đuổi mỗi khi thấy thuyền nhân lọt vào hải phận của nước họ, tàu tuần duyên lôi kéo các ghe thuyền người tỵ nạn ra hải phận quốc tế, tiếp tế cho xăng dầu, thức ăn nước uống rồi bỏ mặc cho trôi nổi giữa đại dương mênh mông..lớp thì chết vì gió dập sống dồi vì tài công không biết phương hướng, cứ chạy lòng vòng rồi hết dầu, thiếu lương thực, hết nước uống .v.v..
Tiếng khóc than, oán hận thống thiết làm chấn động lương tâm nhân loại khắp cả thế giới.. đã tạo nên lịch sử Thuyền nhân “Boat People” trên thế giới, và mấy trăm ngàn chuyến ghe thuyền vượt biên mỗi chiếc đều có một câu chuyện riêng bi ai thương tâm diễn ra không sao kể hết… (Theo thống kê có khoảng hơn phân nửa thuyền nhân đến được bến bờ, và gần phân nửa thuyền nhân đã gặp nạn vùi thây nơi lòng biển cả…)
Trại tỵ nạn Kota Bharu con số người tỵ nạn càng lúc càng cao.. Và bắt đầu cảnh sát Mã Lai áp dụng biện pháp kiểm soát chặc chẽ hơn đối với người tỵ nạn đến sau.
Gia đình tôi từ giã trại tỵ nạn Kota Bharu ..
Đến tháng 10-78, gia đình chúng tôi cùng với một số người được cấp giấy tờ đi định cư và được đưa về chổ tạm cư là một nhà thờ công giáo gần Thủ Đô Kuala Lumpur để chờ làm thủ tục khám sức khỏe…Sau đó gia đình tôi cùng lên phi cơ đi định cư tại Mỹ…Bỏ lại những kỷ niệm vui buồn trong mấy tháng tạm cư nơi trại tỵ nạn..những ngậm ngùi lưu luyến của người mang kiếp lưu vong “Đất nước mình mà không mình không thể sống vì họa cộng sản” may nhờ đất nước Mã Lai giúp đở bước chân đầu cho người tìm Tự Do..Chúng tôi người Việt vượt biên dù cho đi đến góc biển chân trời khắp nơi trên quả địa cầu, sẽ không bao giờ quên ơn những dân Mã Lai hiền lành nơi đây.!
Khi gia đình chúng tôi xuống phi trường Tiểu Bang Maryland vào đêm 15-11-1978, được vài gia đình người Mỹ và 2 vị Mục Sư Tin Lành (Lutheran)đón tiếp gia đình chúng tôi..
lda_traitynan12
lda_traitynan13

Mục sư Paul Milheim, Mục sư Don Gruenburg và gia đình tôi.
Gia đình tôi được 2 nhà thờ Lutheran nhỏ bảo trợ ở vùng Cookeville Townson, thuộc thành phố Baltimor Tiểu Bang Maryland. Vì là nhà thờ nhỏ, tín đồ ít nên 2 nhà thờ cùng hợp lại để đủ sức giúp đỡ cho gia đình chúng tôi.
lda_traitynan14
Chúng tôi đến nơi đây đúng vào mùa Đông bỡ ngỡ đầy tuyết phủ, nhưng với sự niềm nở của những người địa phương đã tận tình giúp đỡ cũng đã giúp chúng tôi được ấm lòng nơi xứ lạ, chúng tôi được tín hữu của 2 nhà thờ giúp sắp xếp thuê mướn Apartment sẵn gần khu chợ có siêu thị có thể đi bộ để mua thức ăn, và lo cho đi học Anh văn.v.v.
May mắn được một người bạn thân ở Texas đi tu nghiệp tại Washington DC, hay tin gia đình tôi đã đến Mỹ nên đã thông báo cho các bạn cùng đơn vị Phủ Tổng Thống đang ở tiểu bang Texas hay, và sau đó qua vài lần liên lạc tôi quyết định đem gia đình về thành phố Houston để tìm việc làm vì lúc đó ngành dầu hỏa đang lên.
Tôi đem ý định đó nói cho 2 vị Mục Sư bảo trợ hay..2 ông tỏ vẻ không vui, và giải thích cho chúng tôi biết vì theo chương trình bảo trợ họ có trách nhiệm lo giúp đỡ cho gia đình tôi trong vòng 2 năm để có đủ khả năng tự lập trong cuộc sống..v.v. Vợ chồng ngỏ lời cám ơn và cũng nói cho 2 ông biết ý định của chúng tôi vì đây là cơ hội chúng tôi có thể tìm việc làm và muốn sớm tự lập để lo cho con tôi được học hành đến nơi đến chốn..
Di chuyển xuống thành phố Houston, Texas .
Gia đình tôi ở được 3 tháng rồi ngỏ lời cám ơn và từ giã với 2 nhà thờ và các ân nhân bảo trợ để xuống thành phố Houston. Hai ông Mục sư cũng ngỏ lời chúc cho gia đình chúng tôi đi đường bình an và được an cư lạc nghiệp nơi vùng đất mới…
Với bước đầu chập chững khó khăn nơi đất lạ quê người, nhờ các anh chị giúp đỡ chúng tôi vừa đi xin việc làm vừa lo thi bằng lái xe, người thì lo đứng tên bảo lãnh cho tôi mướn Apt, người thì giúp tìm mua chiếc xe cũ để đi làm. Cũng may mắn chỉ trong vòng ½ tháng mà tôi đã có việc làm, có bằng lái xe và có luôn chiếc xe cũ để đi làm, vợ tôi xin được vào College học 2 năm theo chương trình CETA, và con trai tôi thì gởi vào Daycare vào lớp tiền mẫu giáo. Gia đình chúng tôi bắt đầu cho cuộc sống mới..
lda_traitynan15
Với cảm tình huynh đệ chi binh trong đơn vị đó của các bạn, gia đình tôi thật cảm động và luôn ghi nhớ tình nghĩa bằng hữu nầy..
Kể từ sau ngày 30-4-75. Qua 36 năm (trừ đi 3 năm tù đày và sống trong gông cùm cộng sản,) gia đình chúng tôi đã sống một cuộc đời tự do trên đất Hoa kỳ, chúng tôi đã có thêm một con gái vào năm 1987. Đến nay 2 con chúng tôi cũng đã ra trường Đại Học và có việc làm tốt. Xin ngõ lời tri ơn đến người dân và đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang những người tỵ nạn khốn khổ thoát khỏi họa cộng sản..và giúp đỡ trong tinh thần nhân đạo cao quí..
Để rồi ngày hôm nay thế hệ thứ hai và kế tiếp của chúng ta mới có cơ hội vươn lên..!
16lda_traitynan16
lda_traitynan17

No comments: