TRỌNG NGHĨA * MỸ VÀ ĐÔNG NAM Á
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry cần trấn an các nước Đông Nam Á
Trọng NghĩaRFI – Chủ nhật 30 Tháng Sáu 2013
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry trả lời báo chí sau khi gặp chủ tịch Palestine Mahmoud Abbas tại Cisjordanie ngày 30/06/2013.
Reuters
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry sẽ có mặt tại Brunei từ ngày mai,
01/07/2013 để tham gia các cuộc họp của khối ASEAN. Theo giới phân tích,
một trong những nhiệm vụ của ông Kerry là làm sao trấn an các đồng minh
Đông Nam Á về quyết tâm can dự vào khu vực của Hoa Kỳ. Các mối lo ngại
về sự lơ là của Mỹ đang tăng trở lại trong vùng, vì từ ngày nhậm chức
đến nay, tân Ngoại trưởng Mỹ có dấu hiệu dành ưu tiên nhiều hơn cho hồ
sơ Trung Đông.
Thật vậy, ông Kerry đã viếng thăm Trung Đông năm lần trong những tháng qua, trong lúc chuyến đến Brunei lần này của ông chỉ là chuyến thăm châu Á thứ hai từ ngày nhậm chức hồi tháng Hai. Còn đối với Đông Nam Á thì đây là lần đầu tiên mà ông ghé trong cương vị Ngoại trưởng Mỹ, chuyến thăm châu Á của ông hồi tháng Tư vừa qua chỉ đưa ông đến ba nước Đông Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc mà thôi.
nuoc-dong-nam-a
Trong một bản thông cáo công bố ngay tại Hội nghị các Ngoại
trưởng ASEAN ở Brunei vào hôm nay, 30/06/2013, Ngoại trưởng Philippines
Albert Del Rosario đã nêu đích danh Trung Quốc là nguy cơ cho nền hòa
bình trong khu vực. Theo người đứng đầu ngành ngoại giao Philippines,
mối đe dọa đến từ sự hiện diện ngày càng gia tăng của các lực lượng cả
quân sự lẫn bán quân sự của Trung Quốc tại vùng Biển Đông.
About these ads
Thật vậy, ông Kerry đã viếng thăm Trung Đông năm lần trong những tháng qua, trong lúc chuyến đến Brunei lần này của ông chỉ là chuyến thăm châu Á thứ hai từ ngày nhậm chức hồi tháng Hai. Còn đối với Đông Nam Á thì đây là lần đầu tiên mà ông ghé trong cương vị Ngoại trưởng Mỹ, chuyến thăm châu Á của ông hồi tháng Tư vừa qua chỉ đưa ông đến ba nước Đông Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc mà thôi.
Ngay cả nhân chuyến ghé thủ đô Brunei Bandar Seri Bagawan lần này,
giới quan sát cho là ông Kerry cũng dành toàn tâm toàn ý của cho Đông
Nam Á, vì Brunei chỉ là một chặng dừng trong một vòng công du lớn hơn,
đã đưa Ngoại trưởng Mỹ qua vùng Trung Cận Đông, mà các hồ sơ nóng đã
buộc ông phải trì hoãn việc đến Brunei cho đến tận hôm nay.
Thái độ của đương kim Ngoại trưởng Mỹ hoàn toàn khác với sự quan tâm
rõ nét đến châu Á và Đông Nam Á của người tiền nhiệm Hillary Clinton. Bà
là Ngoại trưởng Hoa Kỳ đầu tiên đã đến thăm toàn bộ 10 thành viên của
Hiệp hội các nước Đông Nam Á, mà các phụ tá của bà cho là đã bị chính
quyền George W. Bush bỏ rơi trước đó, vì quá bận tâm với cuộc chiến ở
Irak và Afghanistan.
Theo AFP, Ngoại trưởng Kerry đã bác bỏ các lập luận cho rằng ông lơ
là châu Á, cho biết là ông có kế hoạch đi thăm – trong “một thời gian
ngắn sắp tới đây” – hai nước Indonesia và Việt Nam. Ông cũng tuyên bố
hoàn toàn tin tưởng vào chính sách “xoay trục” qua châu Á của Tổng thống
Barack Obama. Theo ông, Mỹ luôn luôn có khả năng “đối phó cùng một lúc
với hơn một cuộc khủng hoảng tại hơn một nơi trên hành tinh”.
Theo hãng tin Pháp AFP, khi trả lời đài Tiếng nói Hoa Kỳ VOA, ông
Kerry từng xác định : “Mọi người không nên nghĩ rằng, bởi vì chúng ta
đang cố gắng mang lại hòa bình cho một khu vực đã trải qua 30 năm xung
đột và xung khắc, mà chúng ta không thể chú ý đến những vấn đề khác”.
Dẫu sao thì các nhà ngoại giao và một số nhà phân tích đã lên tiếng
lo ngại rằng Hoa Kỳ đang quay về các ưu tiên xưa cũ, sau khi bà Hillary
Clinton – vốn rất tự hào về mối quan tâm của mình đối với Châu Á – rời
bỏ chức Ngoại trưởng.
Một quan chức Mỹ cao cấp thừa nhận rằng các quốc gia châu Á đã tỏ ý
hoài nghi về quyết tâm can dự vào Châu Á của Hoa Kỳ sau khi bà Clinton
ra đi. Tuy nhiên, nhân vật này cho rằng sự quan tâm của Mỹ đối với châu Á
giờ đây đi vào thực chất, chứ không còn dừng lại ở mức tượng trưng, cụ
thể là Washington đang đẩy mạnh chi tiêu cho các dự án tại khu vực châu Á
bất chấp việc ngân sách đang bị xiết chặt.
Viên chức này lưu ý rằng trong những tháng gần đây, Tổng thống Obama
đã nghênh tiếp tại Washington nhiều lãnh đạo châu Á như Thủ tướng Nhật
Bản, Tổng thống Hàn Quốc, Thủ tướng Singapore, Quốc vương Brunei và Tổng
thống Miến Điện – lần đầu tiên từ nửa thế kỷ nay.
Trả lời hãng tin Pháp AFP, viên chức xin giấu tên này cho biết là các
nước châu Á vốn đã tỏ ý quan ngại cách nay vài tháng, thì hiện đang đòi
Mỹ “đặt lên bàn những cái cụ thể chứ không còn đơn thuần mời ngồi vào
bàn” như trước đây.
Trong tình hình như kể trên, nhất cử nhất động, từng lời lẽ của Ngoại
trưởng Mỹ John Kerry tại Brunei trong hai ngày 01-02/07 sẽ được mổ xẻ
phân tích, để xem thực trạng cũng như triển vọng của mối quan tâm của
Hoa Kỳ đến châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng, trong tương quan
với đà bành trướng của Trung Quốc.
Theo AFP, ông Ernie Bower, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và
Quốc tế CSIS tại Washington, nhận định là các quốc gia Đông Nam Á phần
lớn hoan nghênh chuyến thăm mới đây của ông Kerry qua Ấn Độ, nước đang
tìm kiếm một vai trò lớn hơn trong khu vực vào lúc Trung Quốc đang vươn
lên.
Tuy nhiên ông Bower đã đặc biệt tỏ ý quan ngại trước sự chậm trễ của
một chuyến viếng thăm Indonesia, mà cả ông Obama lẫn bà Clinton đều xác
định là một ưu tiên hàng đầu do quá trình chuyển đổi nhanh chóng trên
đường dân chủ và tính chất ôn hòa của đạo Hồi trên đất nước này.
*****
Nguồn:
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130630-ngoai-truong-my-john-kerry-can-tran-an-cac-nuoc-dong-nam-a
Philippines tố cáo Trung Quốc đe dọa hòa bình trên Biển Đông
Các Ngoại trưởng ASEAN nắm tay nhau thể hiện sự đoàn kết tại cuộc họp ở Brunei ngày 30/06/2013.
Reuters
Thông cáo của chính quyền Philippines nói rõ : « Ông Del
Rosario hôm nay (30/06/2013) đã bày tỏ thái độ quan ngại sâu sắc về tình
trạng quân sự hóa ngày càng gia tăng trên Biển Đông ». Theo ông Del
Rosario, đã có sự hiện diện « ồ ạt của tàu quân sự và bán quân sự Trung
Quốc » tại hai nhóm đảo thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Philippines là
bãi Scarborough Shoal và bãi đá ngầm Second Thomas Shoal.
Ngoại trưởng Philippines cho rằng sự hiện diện quân sự của Trung Quốc tại các nhóm đảo này là « những đe dọa đối với nỗ lực duy trì hòa bình và ổn định trên biển trong khu vực ».
Ông Del Rosario không đi sâu vào chi tiết về các hành động quá đáng của Trung Quốc tại Biển Đông, nhưng nhấn mạnh rằng các hành động đó đã vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC năm 2002, theo đó các bên tranh chấp chủ quyền ở vùng biển này đã cam kết không thực hiện bất kỳ hành động nào có thể làm tình hình thêm căng thẳng.
Cáo buộc mạnh mẽ của Ngoại trưởng Philippines được đưa ra đúng một hôm sau khi báo chí Trung Quốc lớn tiếng đe dọa các nước Đông Nam Á có thái độ kiên quyết nhất chống lại các hành vi bá quyền của Bắc Kinh tại Biển Đông.
Vào hôm qua, truyền thông nhà nước Trung Quốc – cụ thể là Nhân dân Nhật báo - đã không ngần ngại cảnh cáo rằng « nếu Philippines tiếp tục thách thức Trung Quốc…, một đòn phản công (từ phía Trung Quốc) sẽ khó có thể tránh khỏi ».
Vào hôm nay, Ngoại trưởng Del Rosario đã lên tiếng cảnh báo về các luận điệu như vậy. Ông nói : « Những tuyên bố đề cập đến biện pháp phản công là vô trách nhiệm. Chúng tôi lên án mọi đe dọa sử dụng vũ lực. Chúng tôi lên án hành vi đó. Và chúng tôi tiếp tục theo đuổi biện pháp giải quyết tranh chấp một cách hòa bình. »
Ngoại trưởng Philippines cho rằng sự hiện diện quân sự của Trung Quốc tại các nhóm đảo này là « những đe dọa đối với nỗ lực duy trì hòa bình và ổn định trên biển trong khu vực ».
Ông Del Rosario không đi sâu vào chi tiết về các hành động quá đáng của Trung Quốc tại Biển Đông, nhưng nhấn mạnh rằng các hành động đó đã vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC năm 2002, theo đó các bên tranh chấp chủ quyền ở vùng biển này đã cam kết không thực hiện bất kỳ hành động nào có thể làm tình hình thêm căng thẳng.
Cáo buộc mạnh mẽ của Ngoại trưởng Philippines được đưa ra đúng một hôm sau khi báo chí Trung Quốc lớn tiếng đe dọa các nước Đông Nam Á có thái độ kiên quyết nhất chống lại các hành vi bá quyền của Bắc Kinh tại Biển Đông.
Vào hôm qua, truyền thông nhà nước Trung Quốc – cụ thể là Nhân dân Nhật báo - đã không ngần ngại cảnh cáo rằng « nếu Philippines tiếp tục thách thức Trung Quốc…, một đòn phản công (từ phía Trung Quốc) sẽ khó có thể tránh khỏi ».
Vào hôm nay, Ngoại trưởng Del Rosario đã lên tiếng cảnh báo về các luận điệu như vậy. Ông nói : « Những tuyên bố đề cập đến biện pháp phản công là vô trách nhiệm. Chúng tôi lên án mọi đe dọa sử dụng vũ lực. Chúng tôi lên án hành vi đó. Và chúng tôi tiếp tục theo đuổi biện pháp giải quyết tranh chấp một cách hòa bình. »
PHẠM HỒNG SƠN * 27 GHI CHÚ
Trang Chủ
27 ghi chú dành cho những Tù nhân Lương tâm dự khuyết
Phạm Hồng SơnTháng 6 28, 2013
1. Nguyên tắc “suy đoán
vô tội”: Không ai có quyền cho bạn là tội phạm cho đến khi có một tòa án
công chính đủ thẩm quyền đưa ra một phán xét kết tội có hiệu lực.
Nhưng bạn đừng bao giờ trông chờ sẽ có một tòa án như thế trong một chế độ độc đảng toàn trị.
2. Dù bạn là tù nhân hay
thậm chí là “phạm nhân” cũng không ai có quyền xúc phạm danh dự và
tuyệt đối không có quyền xúc phạm thân thể bạn.
Chắc chắn bạn cũng không kỳ vọng chế độ
độc đảng toàn trị sẽ tôn trọng những điều hiển nhiên này nhưng bạn cần
phải nhớ để bảo vệ nhân phẩm tối thiểu cho mình.
3. Bất kể lúc nào, tình
huống nào bạn vẫn luôn có ba quyền đương nhiên sau đây: 1. Quyền không
trả lời (im lặng), tức cũng là trả lời. 2. Quyền không ký. 3. Quyền sửa
sai, đính chính, phản bác, phản cung lại những điều đã nói hoặc đã ký.
Tất nhiên khi làm như thế, bạn sẽ bị chế
độ độc tài đảng trị liệt vào dạng “ngoan cố” “cứng đầu” nhưng chắc chắn
bạn sẽ có nhiều giấc ngủ ngon hơn trong tù và đời bạn sẽ bớt được nhiều
nỗi day dứt không đáng có.
4. Nếu phải giam chung
với tù hình sự, đừng sợ hay ác cảm trước những bộ dạng gớm ghiếc hay
những cơ thể xăm trổ đầy mình của họ. Phía sau những ghê rợn đó có thể
là một trái tim rất nhạy bén, tự trọng và đầy bản lĩnh. Hãy sống nghĩa
hiệp với họ.
5. Ba suy nghĩ sai lầm
bạn cần loại ngay ra khỏi đầu: 1. Không khai, không có chứng cớ hoặc mọi
việc bạn làm đều đúng luật nên họ sẽ không thể kết tội được bạn và sẽ
phải thả bạn. 2. Bên ngoài sẽ giúp bạn hoặc vì bạn là người nổi tiếng,
có nhiều quan hệ nên trước sau họ cũng phải thả hoặc án phạt sẽ không
đáng kể. 3. Thế là hết rồi, xong rồi.
Than đời hay buông hết hy vọng với đời là
hoàn toàn chẳng nên, kể cả lúc bị gông xiềng, nhưng rồi bạn sẽ lại nhận
thấy điểm tựa tốt nhất cho đời bạn trước hết vẫn chính là bạn. Bạn cũng
không nên phải quá cay đắng nếu vẫn mắc phải suy nghĩ sai lầm số 1 vì
sự vô sỉ của chế độ toàn trị cộng sản cho đến nay vẫn nằm ngoài sự tưởng
tượng của rất nhiều người.
6. Đừng bao giờ tin lời
nói, lời hứa, kể cả cam kết (bằng chữ), của điều tra viên (nhà chức
trách). Đừng bao giờ trở thành nguồn tin cho họ (dù họ đã biết hay
chưa). Cũng đừng bao giờ sững người khi họ nói đồng đội của bạn đã phản
bội bạn.
Hãy tạc vào lòng ba lời nhắn của tiền
nhân: “Đừng nghe những gì họ nói mà hãy xem những việc họ làm.”, “Đừng
trao trứng cho Ác”, và: “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo.”
7. Ba điểm cần nhớ nằm lòng khi làm việc (đi cung, đi thẩm vấn, “đi làm” hay gặp gỡ bất kỳ nhân vật nào thuộc chính quyền): 1. Nói nhiều không có lợi. 2. Nổi nóng, khiếm nhã không có lợi. 3. Nhượng bộ hay coi thường đối thủ đều là nguy hiểm.
Hai điểm đầu cho phép bạn được rút kinh
nghiệm nhưng điểm thứ ba phải coi ngay là miệng vực. Khi nghiêm khắc
thực hiện ba điểm này bạn sẽ hiểu thấu hơn sự đúc kết của cổ nhân: “nhất
thủy nhì hỏa”. Song, bạn không nên nhầm giữa sức mạnh hủy diệt khổng lồ
với sức mạnh xanh cũng khổng lồ nhưng nhân ái, thu phục.
8. Hãy chủ động đón nhận
một trang đời mới ngay khi bạn bị tống vào tù. Càng chủ động bao nhiêu,
đời tù của bạn sẽ càng nhẹ nhõm bấy nhiêu.
Nếu bị biệt giam nghĩa là đời bạn đã được
trao một cơ hội để nhận rõ sự khác biệt hoàn toàn giữa đơn độc và cô
đơn, được gặp một cơ may để khám phá, tiếp nhận nhiều sức mạnh, cảm
hứng, hạnh phúc, đốn ngộ từ những tĩnh lặng mênh mông sâu hút gần như
tuyệt đối của vũ trụ. Còn nếu được giam chung là người ta đang tôi cho
bạn những kỹ năng hội nhập, đoàn kết, ảnh hưởng, rèn thêm cho bạn lòng
trắc ẩn, đức quên mình, là giúp bạn nhìn ra những khiếm khuyết, thói xấu
láu lỉnh nhất trong bạn và cho bạn trải nghiệm sự kinh ngạc tột cùng
trước sự đa dạng vô biên, vô cấp độ của những khả năng, tài năng, sức
chịu đựng và những ham muốn, ước vọng, cả cao cả vô cùng lẫn thấp hèn
tột bậc, của loài người và thậm chí của chỉ một người.
Hãy nhớ câu châm ngôn hài hước của tù hình sự: “Đi tù nếu không học được cái lọ thì cũng sẽ được cái chai”.
9. Đừng quá thành kiến
với công an. Nhưng phải cảnh giác khi họ tử tế. Người ác nhất vẫn có lúc
tử tế nhưng hãy nhớ công an là công cụ của chế độ độc tài toàn trị –
chế độ không bao giờ muốn tính thiện con người trỗi dậy có lợi cho bạn –
kẻ đang bị coi là thù địch. Hãy trân trọng, ghi nhận mọi thiện ý nhưng
chớ mềm lòng.
10. Trong khi thẩm vấn
không nhất thiết bạn phải thuộc phía thụ động, sợ hãi. Chính kẻ thẩm vấn
cũng có nỗi hoang mang của riêng họ. Họ sợ không khuất phục được bạn.
Họ hồi hộp sẽ không moi tin thêm được từ bạn. Và họ rất lo lắng rằng bạn
sẽ ngày càng vững vàng hơn.
11. Người ta có thể rất
tức tối, thậm chí căm ghét bạn nhưng bạn phải biết không ai có thể khinh
thường một tù nhân lương tâm kiên định. Căm ghét vẫn có thể chuyển
thành tôn trọng thậm chí kính trọng. Nhưng khinh thường thì không bao
giờ.
12. Đừng quá trông chờ
vào luật sư khi bị cầm tù. Một luật sư tốt nhất lúc này cũng chỉ có 3
vai trò chính: 1. Cầu nối thông tin giữa bạn và bên ngoài. 2. Cung cấp
thêm một số luận cứ pháp luật cho niềm tin của bạn. 3. Chứng nhân cho
những gì bạn thể hiện trong những phiên tòa “công khai”.
Bạn nên nhớ bạn không chỉ là thân chủ mà
còn là người liên đới, chịu trách nhiệm trước hết và sau cùng cho mọi
phát ngôn, hành động của người đại diện pháp lý (luật sư) của mình. Và
bạn luôn có toàn quyền đồng ý hay chấm dứt liên đới với luật sư bất kể
khi nào kể cả ngay tại tòa. Bạn không nên quên chế độ độc tài toàn trị
không bao giờ thèm cần đến tranh tụng nhưng họ rất cần hình ảnh và quan
điểm của bạn bị đánh hỏng ngay trước tòa.
13. Khi nỗi nhớ thương
gia đình (con cái, cha mẹ, vợ chồng) trào dâng, nên nghĩ đến ba điều: 1.
Trách nhiệm của một công dân không chỉ là chăm lo cho gia đình riêng
của mình. 2. Đây là điều ngoài mong muốn của bạn. Ngọn nguồn của chia
ly, đau khổ này là từ chế độ độc tài. 3. Bạn có thể đã phải gặp một rủi
ro xấu hơn như nhiều người đã đột ngột phải chia ly gia đình mãi mãi.
14. Chắc chắn bạn sẽ suy
sụp nếu cứ đo đếm thời gian, trông mong ngày trở về. Hãy đặt ra công
việc và mục tiêu cần đạt được cho mỗi ngày, mỗi giai đoạn ở tù. Bạn nên
nhớ đó là những khoảnh khắc vô cùng đặc biệt mà đời thường không thể có
và rất không dễ để hiểu.
15. Có những lúc bạn sẽ
có cảm giác vui sướng, nhưng đừng để quá vui. Cũng đừng nghĩ quẩn. Trước
mọi vấn đề, cần suy nghĩ thật kỹ càng, chu đáo nhưng đừng để lo lắng,
day dứt làm kiệt sức bạn. Hãy biết an tâm, chấp nhận những rủi ro ngoài
khả năng tiên liệu.
16. Hãy biết tự giễu
mình mỗi khi cảm thấy yếu ớt, căng thẳng hay sợ hãi. Và cũng phải biết
tự thầm khen mình, tự hào về mình mỗi khi vượt qua một thách thức.
17. Cảnh giác với ba
loại thời tiết dễ làm bạn không còn là bạn: nóng quá, lạnh quá và đặc
biệt tiết trời u ám, ẩm thấp (như tiết tháng Ba miền Bắc).
18. Thà nhịn đói còn hơn ăn đồ không an toàn (nghi là ôi thiu, không tin cậy, thức ăn lạ). Hãy nhớ câu: “Chết vì ăn là rất nhục”.
19. Tuyệt đối không dùng
dao cạo cũ (của người khác), không để tiêm chích, không để chạm dao kéo
(nếu không phải là trường hợp cấp cứu tính mạng). Hãy nhớ câu: “Chết vì
xuề xòa là cái chết đáng trách”.
20. Ba cách đơn giản
giúp tăng cường sinh lực và sức dẻo dai cho cơ thể: 1. Chạy (hoặc đi bộ)
ngay tại chỗ hoặc trong khoảng cách 2m. 2. Chống đẩy (hít đất), đứng
lên ngồi xuống nhiều lần. 3. Làm dẻo các khớp từ cổ đến chân, xoa bóp cơ
thể.
Siêng năng là cần thiết. Nhưng điều cần
hơn là thực hành với sự hiệp nhất cùng nhịp thở trong sự tò mò, chú tâm
để cảm nhận và lắng nghe những rung động bình dị mà kỳ lạ trên từng phần
thân thể. Hãy luôn nhớ: Mỗi khi bạn lười nhác hay ngại ngùng là có một
nụ cười đang hé trên môi của quyền lực độc tài.
21. Có ba thứ quí giá, ngoài bạn ra, không ai có thể tước đi được: 1. Giấc ngủ ngon. 2. Lý tưởng. 3. Mơ ước và suy tư.
22. Hãy đặt mọi yêu
sách, đấu tranh của bạn trên ba trụ cột: pháp luật, phi bạo lực và chính
trực. Tuy nhiên, tôn trọng pháp luật không có nghĩa là chấp nhận cả
những qui định, luật lệ vô lý, phi nhân.
23. Những lúc cảm thấy
đau khổ cùng cực hãy nghĩ đến ba điều: 1. Những người bị khuyết tật về
thân thể hay trí não. 2. Những bạn bè, người thân đồng tuổi nhưng đã
không may qua đời sớm. 3. Sự lo toan, tất tưởi, rủi ro của gia đình ở
bên ngoài. Hãy nhớ câu: “Nỗi khổ của ta không bao giờ là nỗi khổ lớn
nhất”.
24. Những khi bạn cảm
thấy không thể chịu đựng thêm được nữa, hãy nhớ đó chính là lúc bạn đã
tiến tới sát khả năng phát hiện ra những năng lực mới của bản thân khiến
chính bạn phải sửng sốt.
25. Cả hai thứ, thân thể
và ý chí, luôn cần được chăm chút, rèn luyện trong suốt những ngày tù.
Nhưng nếu phải giữ lại một thì phải chọn cái thứ hai – cái không ai có
thể tù hãm hay giết chết được, trừ bạn.
26. Nếu bạn xác quyết
rằng Tạo hóa đã hào phóng ban cho mọi con người có khả năng tận hưởng
những quyền tự do bất khả nhượng thì bạn cũng phải tin rằng Tạo hóa muốn
con người phải thực sự xứng đáng hơn mọi loài vật khác khi nhận ân sủng
lớn lao đó. Bởi Tạo hóa đã chỉ cho một loài duy nhất của địa cầu biết
chế ra nhà tù: đó là con người.
27. Đường đến tự do
không nhất thiết cứ phải xuyên qua nhà tù nhưng những kẻ kìm giữ tự do
rất hay mượn nhà tù để thử độ khát khao tự do. Và những kẻ đó chắc chắn
sẽ không thấy cần phải đoái hoài tới những tự do bất khả nhượng của
chúng ta nếu họ cho rằng độ khát khao tự do của chúng ta thuộc loại
chẳng cao lắm.
© 2013 Phạm Hồng Sơn & pro&contra
*****
Nguồn:
CHUYỂN HÓA
BÙI MỸ DƯƠNG * NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG
Những chặng đường
Đường
đời dài bất tận “vô thủy vô chung” nghĩa là không có điểm khởi hành và kết thúc; chúng ta là những kẻ lữ-hành ghé vào từng
đoạn đường, có nơi đi và đến.
Đời
sống kéo dài khoảng một
trăm năm nên người
ta thường chúc nhau
vào dịp lễ Tết
“sống lâu trăm tuổi” hay lời
chúc đôi tân-hôn “Bách niên giai lão”.
Với
khoa-học tân-tiến hiện nay đã có nhiều cụ sống trên trăm tuổi, rồi
cũng có ngày không xa phải theo luật vận-hành của con Tạo. Đời sống được ví như một vở
kịch trên sân khấu, các diễn-viên đóng xong tuồng, màn nhung khép lại. Xưa ông Bành-tổ sống lâu nhất
là 800 năm nhưng rồi cũng phải rời khỏi con đường đời dài bất-tận!
Giáo-chủ
của các đạo như Đức Phật, Đức Chúa… đời sống cũng giới-hạn.
Dài dòng
về cuộc đời để khẳng-định là luật Tạo-hoá không trừ một ai; chúng ta được hiện-diện
ở cõi đời này phải trân-quý và cám-ơn các bậc sinh-thành, Tiên Tổ, Phật, Trời
đã ban.
Đời người
có quá-khứ, hiện-tại và tương-lai nhưng với tuổi “tri
thiên mệnh” thì ngày
mai có gì để nhớ hay để nói nữa. Kể về
những giai-đoạn của cuộc đời ta có thể chia làm ba giai-đoạn: tuổi xanh, tuổi hồng
và tuổi vàng.
Tuổi
xanh hay tuổi thơ là khi cha mẹ cho mầm sống, sau chín tháng mười ngày ta bước
vào cuộc đời như con nhộng cắn kén ra khỏi tổ, con gà đủ ngày mổ vỏ chui ra.
Con người khác hơn, vì người là vật thượng-đẳng có tri-thức có đạo-đức. Khi xưa
thủy-tổ của loài người cuộc sống thô-sơ hồng-hoang “ăn
lông ở lỗ”. Khoa-học
tiến-bộ không ngừng nên những câu chuyện cổ, thần-thoại hoang-tưởng, nay hầu
như thành hiện-thực.
Nơi ở của “chị Hằng, chú Cuội” đã có người lên
thám-hiểm, âm-thanh, hình-ảnh biến-hoá không ngừng… TV, computer như những đũa
thần của các bà tiên.
Irvine 1993
Võng đang chậm chạp khẽ đưa,
Ru hai bà cháu
say sưa mộng dài…
Tuổi xanh (tuổi thơ). Lâu lắm rồi nghe Mẹ kể
khi Bố ra trường sư-phạm, ông được bổ-dụng ở vùng Thái-nguyên nơi có đền thờ
vua Hùng, Tổ-tiên của dân ta. Mỗi lần Mẹ lên thăm đường đi khó-khăn diệu-vợi. Khi
biết và nhớ được thì gia-đình tôi đã trở về sống tại làng Trình-phố quê-hương bản-quán.
Thời-kỳ này Bố là hiệu-trưởng trường tiểu-học Trình-Phố; Mẹ có cửa hàng tạp-hoá
nhỏ ngay trên quốc-lộ 39 nên cuộc sống tương-đối dễ chịu.
Năm 1947
kháng-chiến lan tràn khắp quê-hương, trường sở đóng cửa, gia-đình đi lánh nạn ở
miền duyên-hải. Ít tháng sau khi trở về thì khói lửa đã tàn phá làng quê, dân
chúng nghèo thêm, gia-đình tôi, cả nhà chỉ còn trông vào đồng lương của Bố, ruộng
hương-hỏa vài sào, lúa gạo nhà không đủ phải mua thêm.
Mấy sào
ruộng của cụ Nội cho ở ba nơi khác nhau: ruộng ở phía nghĩa-địa làng, đất cao
ít nước chỉ trồng mầu như đậu, bông vải, ruộng ở thôn Nhì mỗi năm có một vụ mùa1
vì mưa nhiều, sau khí-hậu khô ráo trồng thuốc lào lợi hơn. Thửa ruộng cấy cả
hai vụ chiêm2 và mùa ở gần khu “chợ giếng giữa
làng”.
Tuy còn
bé nhưng cũng chia xẻ việc nhà với Mẹ, nào mang nước ra đồng cho các bác thợ cầy,
thợ cấy hay công-việc của cô “cóc” ra đồng coi lúa vào mùa gặt, cùng
các chú đi hái bông, hái đậu. Ngoài giờ học phụ trông em, xay lúa, giã gạo (con
ruồi đỗ nặng đòn cân).
Nhà quê
đánh giá giầu nghèo theo ruộng đất như vậy gia-đình tôi thuộc thành-phần nghèo;
những năm bão lụt, hạn-hán cũng rau cháo qua ngày.
Nạn đói
năm Ất-dậu (1945) mất mùa, gạo không đủ, cơm trộn thêm ngô, khoai. Nhiều người
chết đói không kịp chôn, ruồi muỗi bay khắp nơi, bữa cơm phải mắc màn mà ăn, thật
kinh-khủng.
Đói từ Bắc-Giang đói về Hà-Nội,
Đói ở Thái-Bình
đói tới Gia-Lâm.
May-mắn
đất vườn rộng, chịu khó khai-thác nên vật-thực cung-cấp tạm đủ chất dinh-dưỡng
cho cả nhà. Quanh vườn trồng cây ăn trái; bữa cơm không thịt cá chúng tôi ăn
cơm với mít, chuối, na (mãng-cầu). Đây vài cây cam, kia bụi mía, dăm
gốc trà nên trưa hè có bát nước mát ruột. Vườn rau sau nhà: vài luống cải bẹ
non thì luộc, già đem làm dưa. Cà bát nấu bung, cà pháo muối sổi ăn với canh
cho mặn miệng; rau ngót nấu cá rô rất lành.
Vài quả cà, dưa muối với tương
om,
Nước vối loãng, chuyên tay là… hết bữa
Rau diếp
(sà-lách) và các loại rau thơm ăn với món bún riêu, canh chua cá thìa-là, hay
dưa chua đậu lạc (đậu phộng) thật tuyệt. Đậu đen non, bóc vỏ nấu bát canh đậu
đãi, rau dền, rau mảnh bát, cà chua vườn nhà được món canh suông (không
thịt cá). Cua rốc (cua
đồng) nấu rau đay, mồng-tơi
và mướp hay thêm vài chùm hoa thiên-lý thơm ngon, đặc biệt của người miền Bắc.
Chum tương ở giữa sân, trong bếp có vại cà, vại
dưa, hũ mắm tôm, mắm cáy do bàn tay khéo léo của bà Nội cho bữa cơm thêm đậm-đà.
Còn ao rau muống, còn đầy chum
tương
Như đã kể
vườn rộng, tự-lực cánh-sinh, nuôi gà vịt, mỗi ngày lượm cả chục quả trứng (hột
gà, hột vịt) là nguồn
thuốc bổ cho chị em tôi.
Thôn quê
ăn uống giản-dị, trứng trộn với tương, nước mắm khuấy trên chảo cho món trứng
bác (scrambled egg)
Bác bác trứng, tôi tôi vôi
Thịt gà
luộc chấm muối chanh, cổ cánh nấu bí, bộ lòng xào giá mướp. Làm vịt có bát tiết
canh nhắm rượu, thịt vịt sáo măng tươi từ
bụi tre sau nhà, hoặc nồi xương rang tiết món đặc biệt quê Trình-Phố. Ngan, ngỗng
dành cho ngày lễ, hoặc đãi khách cũng thịnh-soạn. Mấy chuồng chim câu cả chục cặp;
chim ra giàng (còn non mới nhú lông cánh) hầm với hột mít (sang-trọng
dùng hạt sen) rất bổ.
Chuồng lợn
(heo)
sau vườn, nuôi vài con để bán; Tết đánh đụng làm bánh chưng. Đầu tháng lĩnh
lương, Mẹ đi chợ Huyện chúng tôi được ăn thịt heo. Bác Đê trong làng, kéo vó; Mẹ
mua mẻ tép riu kho khế, cá lẹp (cá nhỏ) ủ trấu qua đêm, ngày mai là có nồi
riêu cá ngon.
Cuộc sống
thôn-ổ nghèo-nàn nhưng được cha mẹ tận-sức nên không đói khát suy dinh-dưỡng. Thời
buổi khó-khăn “người
quân-tử ăn chẳng cầu no”
tất cả cho cuộc sống, chúng tôi được cắp sách đến trường là may mắn lắm.
Trẻ con
nhà quê giải-trí và ăn quà như thế nào ư? Mong như mong mẹ về chợ, qùa là vài
cái bánh nắm bột gạo nhân mỡ hành, gói lạc, dăm cái ngô luộc… Vườn cung-cấp
thêm cho thói ăn vặt, nào là ổi, khế, nhót chua lè, quả mây chát sít, hay trái
mọc dại như quả duối, quả mặt quỷ; thèm ngọt, ngắt bông hoa dong hút nước mật
cũng vui.
Trò chơi con gái ở trường là đánh chuyền, nhẩy
dây, ô-quan. Theo chân các chú tôi biết đá cầu, đáo bật (đập
đồng xu vào tường),
đáo lỗ (ném đồng xu vào lỗ), bắn bi (mài
cục đá cho thật tròn),
bắn súng (nòng súng là ống tre, đạn là quả đay), bóng tròn (cuộn
bằng lá chuối khô). Thú vui lành mạnh ở thôn quê là
thả diều. Đẹp nhất là buổi chiều tà trên cánh đồng bao-la, con diều bay trên nền
trời vi-vu tiếng sáo, một âm-thanh mộc-mạc làm thôn quê thêm thơ-mộng, êm-ả, thanh-bình.
Nhà ở
quê nhà tuy xây bằng gạch nhưng lợp mái rạ nên không có bể nước, đành kê vài
chum sành dưới gốc cau trước hiên, hứng nguồn nước tinh-khiết từ Trời.
Cụ Trạng
Trình ca-tụng cuộc sống thiên-nhiên
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen,
hạ tắm ao
Nghe
thơ-mộng và đẹp, song hồ và ao chỉ là hồ cạn và ao tù. Nước từ trên đường cái,
trong vườn chẩy xuống mang bao nhiêu rác-rưởi. Trên cầu ao người ta rửa bát, vo
gạo, giặt quần áo, không thắc-mắc bẩn hay sạch. Ao là thú quê, trời nóng nhẩy ùm
xuống tắm vui biết mấy; bơi lội, vịn thân chuối hay ôm cái lọ úp là ngang dọc
vùng-vẫy.
Bố tôi
là thầy giáo biết cách sống phòng bệnh-tật nhưng nước nghèo và chậm tiến thì làm
sao tìm ra nguồn nước sạch an-toàn ở nông-thôn?
Tục-ngữ
có câu: “Ở bầu
thì tròn, ở ống thì dài.”
Sống
trong môi-trường, hoàn-cảnh nào phải thích-ứng với môi-trường ấy. Lối sống của
người ta một phần do môi-trường tạo nên: một là môi trường tự-nhiên, hai là
môi-trường xã-hội nên thời buổi đó đành chịu vậy.
Sống với bệnh tật và cách chữa trị
ở nông thôn.
Bệnh-tật
phần lớn do thiếu vệ-sinh. Tại làng quê chẳng có thuốc chữa trị đành phải chấp-nhận
và chịu đựng hoặc “tin
nhảm” hên sui
may rủi. Tôi đau mắt mãi không khỏi, mắt lúc nào cũng đỏ như tiết. Có người
mách cách chữa mẹo: Trước hết tôi phải quỳ mà hướng về phía mặt trời lúc chiều
tà, đầu đội cái thớt trên có 9 hạt gạo và dúm muối, chín lá thài-lài giã nhỏ. Mẹ
dùng dao chặt hạt gạo làm hai và nói: “mặt trời lặn mộng tan” cứ như thế cho đến hết chín hạt
gạo. Sau cùng bà ngậm muối liếm vào mắt tôi mấy lần rồi đắp lá thài-lài bên
ngoài. Ít lâu sau mắt cũng hết đỏ không biết là mẹo hay chất muối giết vi-trùng.
Chấy rận,
ghẻ lở là do lối sống dơ bẩn; chấy, rận hút máu người gây ngứa-ngáy khó chịu. Trên
đầu là chấy, trong người là rận.
Trên đầu chấy rụng
như sung (ca-dao
cô gái Sơn-tây).
Ban ngày
Mẹ bắt chấy, ban dêm bà nội mê chấy; thời đó có dịch chấy rận làm nhiều người
chết. Có lần Bố định cạo trọc đầu để tận diệt nơi chấy trú-ngụ, nhưng cô giáo
tôi phải đến năn-nỉ mãi vì “cái tóc là góc con người”.
Bệnh ghẻ
lở do loại ký-sinh-trùng (scabies), chúng đào rãnh trên da, bệnh
này phát-triển nhất là về mùa đông. Ghẻ sống ở kẽ tay khi mưng mủ, ngón tay
không co được, muốn bớt đau phải dùng kim khâu châm nặn mủ và bắt cái ghẻ. Lở
là mụn to hơn, mọc trong cơ-thể gây nhớp-nhúa, máu mủ thấm đầy quần áo. Người
ta dùng lá ổi chà lên mụn hay pha nước điếu3, dội lên người rất cay
và xót.
Chó cắn muốn cầm máu, mau khỏi thì có cụ Chú dùng
cây hương đọc thần-chú “thư
phù” trên vết
thương, ít ngày sau sẽ khỏi?! (không tin cũng phải tin vậy).
Cậu em
thứ ba sinh thiếu tháng rất yếu đã vậy vài tháng sau Mẹ bệnh nặng không có sữa phải
bú rình (xin bú nhờ bà mẹ hàng xóm), uống nước cháo và trứng gà. Em
sống nhưng gầy còm, èo-uột, tuyệt-vọng đành mê-tín (cho là bệnh sài đẹn, ma quỷ
ám). Mẹ mua đồ cúng, để em trên cái nón lá rồi kéo lê trên đường, vừa đi vừa
nói “sài mòn ơi hỡi
sài mòn, thôi mày ở lại mẹ con tao về”.
Có bệnh phải vái tứ phương, ai mách gì cũng nghe theo miễn là cứu được con.
Đêm đến
thắp ngọn đèn dầu lạc, hay đèn Hoa-kỳ (dầu tây, dầu lửa), không thì đốt cây hương trám, soi
sáng bữa cơm, con trẻ học bài, mẹ may vá, bố đọc báo… Cảnh gia-đình hạnh-phúc đúng
như trong Quốc-văn giáo-khoa thư, nhưng
sáng hôm sau, mũi ai cũng đen vì đầy muội khói.
Tiền
lương hạn hẹp của nhà giáo, mọi thứ phải hạn-chế; quần áo do bà Nội, Mẹ và các
cô làm lấy như chăn tằm, trồng bông, kéo
sợi, dệt vải, dù nâu sồng cũng đủ lành và ấm.
Cuộc sống
giản-dị, đơn-sơ ở vùng quê: mùa đông lạnh nằm ổ rơm, đắp tấm chiếu; mùa hè nóng
bức sẵn chõng tre (ghế dài làm bằng tre, nứa) kê ngoài hiên ngủ hưởng khí trời.
Hôm nay rơm mới đầy nhà,
Em làm một chiếc
giường ngà cho anh. ( Bàng bá Lân)
Chiến-tranh
leo thang cuộc sống càng khó-khăn, biết được đảng Cộng-sản xâm-nhập vào cuộc
kháng-chiến chống ngoại-xâm của dân-tộc nên năm 1952, Bố quyết-định rời bỏ làng
lên Hà-Nội, phía quốc-gia tự-do. Sự lựa chọn thật đau lòng khi phải lìa bỏ nơi
chôn rau cắt rốn, mồ mả ông bà tổ-tiên đã bao đời gắn bó. Đau buồn nhưng phải
hy-sinh cho thế-hệ mai sau; thể-chế chính-trị của Cộng-sản quả là khó sống (Hà chính ư mãnh hổ) và phát-triển tương-lai. (chính
Cộng-sản đã có câu: hy-sinh
đời bố, củng cố đời con).
Hà-Nội kinh-đô
lâu đời nhất trong lịch-sử Việt-Nam, đất của địa-linh nhân-kiệt. Đang ở một
làng quê nghèo vừa bị chiến-tranh tàn phá nay một bước tới kinh-đô của ánh sáng
của văn-hóa, văn-minh. Tới đây tôi được hưởng những tiện-nghi cả về y-tế lẫn cuộc
sống. Trước hết bệnh ghẻ lở, chấy rận bấy lâu bỗng hết vì tắm gội, giặt-giũ từ
nguồn nước máy sạch. Bệnh thời-khí, nhiễm-trùng đã có bác-sĩ, chích ngừa lao phổi,
dịch-tả (cholera), dịch-hạch, phong đòn gánh (tetanus), ho gà (pertussis), thương-hàn (typhoid)… Mỗi buổi sáng đánh răng bằng
thuốc, đau nhức răng là đến thăm nha-sĩ.
Mấy năm ở
quê trường học bị phá-hủy nay học ở đền, mai học ở chùa, chữ nghĩa chẳng là bao
nên dù đã 12 tuổi tôi phải học lại lớp nhì (lớp 4). Trường mới, bạn mới, khung trời
khác-biệt tỉnh và quê, tôi trở nên nhút-nhát và mặc-cảm đầy mình. Hai năm cố gắng,
Bố dậy thêm nên tôi đã hoàn-tất bậc tiểu-học
tại trường Lý-Thường-Kiệt.
Trưng-Vương
là trường trung-học duy-nhất cho nữ-sinh, nhờ Bố tận tình dậy dỗ tôi đã trúng
tuyển hạng thứ chín, học vấn tạo cơ-hội thăng tiến.
Các em nhờ có Mẹ Cha
Có quần áo mặc,
có nhà tránh mưa
Cơm ngày hai bữa
sớm trưa,
Ra trường vừa học,
lại vừa vui chơi
Ngoài kia có biết
bao người .
Mù, què, đói rách
nằm phơi ngoài đường. ( Bùi văn Bảo)
Để hội
nhập vào cách sống của dân Thủ-đô, Bố phải làm việc nhiều hơn; ngoài tiền lương
ông còn viết thêm sách giáo-khoa. Bù lại những năm tháng thiếu thốn tại làng
quê, Bố Mẹ đã tậu được căn nhà hai tầng khang trang, tiện nghi cho chúng tôi ở
( an cư lạc nghiệp)
Là nữ-sinh
Trưng-Vương với tà áo dài, di-chuyển trên chiếc xe đạp Peugeot của Pháp, chân mang dép,
tay sách cặp da đi học.
Phạm-Duy
đã ca ngợi áo dài và
xe đạp:
Xin cho em một chiếc áo dài
Hàng lụa là thơm dáng tiểu-thơ
****
Xin cho em một chiếc xe đạp
Xe xinh-xinh để em đi học …
Tuổi học-trò năng-động thích khám-phá, tôi đã
cùng mấy cô bạn thân, đạp xe đến những nơi ven thủ-đô như Gò Đống Đa,
Chùa Láng, Đền Voi Phục, Đền Hai Bà Trưng,
Chùa Trầm, Chùa Trăm Gian. Ngay tại
Hà-Nội có thắng-cảnh như Quốc-tử-giám, Hồ Hoàn-Kiếm, Tháp Rùa, Chùa
Quán-sứ, vườn hoa “con cóc”,
vườn hoa Canh-nông, vườn Bách-thảo, đường Cổ-ngư, viện Khảo-cổ…
Những con đường Hà-Nội với 36 phố phường
Những con đường năm trước,
Của ngàn xưa xa lắm Hà-Nội ơi! (Tạ-Tỵ)
Ngày nghỉ
Bố Mẹ cho thưởng-thức món ngon Hà-nội: tửu-lầu Lục Quốc tại chợ Hôm
phố Huế, phở Cầu Gỗ, quán cà-phê Nhân, kem Phi-Điệp, quán Mụ Béo Bờ Hồ, bún chả
chợ Đồng-xuân. Mở rộng trí óc về nghệ-thuật chúng tôi được dẫn xem hội-họa, nghe
hòa-nhạc, ca-kịch. Ban Gió Nam từ trong miền Nam ra trình-diễn ở nhà hát lớn
Hà-Nội: ca-sĩ, nhạc-sĩ gồm Thái-Thanh, Thái-Hằng, Khánh-Ngọc, Hoài-Trung, Hoài-Bắc,
Trần-văn-Trạch. Phim ảnh chọn lọc hợp với tuổi thơ thì có những tác-phẩm của
Walt Disney hay phim lịch-sử ít cảnh yêu-đương.
Đại-gia-đình
đang sống an-bình thì ông chú tử-trận tại làng Đại-Đồng và ít tháng sau Hiệp-định
đình-chiến Genève ngày 20 Tháng Bẩy năm 1954 chia hai đất nước lấy vĩ-tuyến 17
làm biên-giới. Lằn ranh quốc cộng rõ-rệt, những ai yêu tự-do sẽ về miền Nam. Gia-đình
tôi một lần nữa bỏ hết của cải và lìa xa làng quê cả ngàn dặm không biết bao giờ
trở lại.
Một ngày 54 cha bỏ quê xa,
Chốn đã chôn rau
cắt rốn, bao nhiêu đời….
Một ngày 54 cha bỏ phương trời.
Một miền bắc tối tăm mưa phùn
rơi……
Lánh bắc vô Nam cha muốn xa bạo
cường …. ( PD)
Xưa nghe
danh-từ đi Nam chỉ là những kẻ thất-chí, nghèo đói, liều bỏ nhà vào Nam làm phu
tại các đồn-điền cao-su. Nay vì chế-độ hà-khắc của Cộng-sản mà cả triệu người
hăng-hái bỏ hết vào nam mưu tìm chốn bình-yên!
Cuộc di-cư
của hơn một triệu người từ Bắc vào Nam bằng đường hàng-không, đường thủy, đường
bộ do sự giúp đỡ của Mỹ, Pháp. Nếu không bị ngăn cản, chắc số người rời bỏ “thiên-đường
Cộng-sản” còn nhiều
hơn nữa. Tại Hà-Nội, gia-đình tôi tập-trung tại Ấu-trĩ-viên, xe chở ra phi-trường
Gia-Lâm, bay thẳng tới Tân-sơn-nhất Sài-Gòn. Cả triệu người di-cư ồ-ạt, đang mùa
hè, nên các trường học là nơi tiếp nhận tạm lớp người từ Bắc. Gia-đình tôi được
phân-phối tới trường tiểu-học Khánh-Hội. Tại đây chính-phủ phát tiền ăn theo đầu
người. Gần đến ngày nhập-học trường sở phải trả lại, một số người tự lo lấy còn
phần đông chuyển qua những nơi khác như khu Phú-Thọ lều, trường đua, nhà hát lớn...
chờ đợi tìm việc. Nếu là nhà nông thì được định-cư ở các khu dinh-điền như Cái
Sắn, Pleiku, kontum…
Bố cố lo
nơi ăn chốn ở cho lũ con tiếp-tục việc học. Ông ra khỏi trại, liên-lạc với Bộ
Giáo-dục và được nhận làm việc trên Bộ trong ban tư thu với chức-vụ viết sách giáo-khoa.
Có việc, ông mượn tiền và mua được căn nhà nhỏ tại khu Nguyễn-tri-Phương.
Cộng-sản
đến như một nhà báo Pháp đã nhận-định: “cái cột đèn cũng đi” vì thế các trường Chu-văn-An,
Nguyễn-Trãi và Trưng-Vương yêu-dấu của tôi cũng “di-cư” theo chăm lo việc học của thế-hệ
tương-lai. Mới đầu trường Trưng-Vương tạm-thời học nhờ ngôi trường áo tím
Gia-Long; tiếp-tục học đệ lục, đệ ngũ, đệ tứ, và tôi đậu bằng Trung-học đệ nhất
cấp (diplôme).
Tuổi hồng: Trưng Vương sau có trụ-sở mới
trên đường Nguyễn-bỉnh-Khiêm. Tôi lên đệ nhị cấp gồm các lớp đệ tam, đện nhị và
đệ nhất. Trường-sở mới xa nhà, tôi được thưởng một xe gắn máy velo solex của
Pháp để đi học. Năm đệ tam không phải thi-cử nên chúng tôi gọi là “lớp
bản lề” vì vừa học mờ
người mới có mảnh bằng trung học, muốn lên đại học phải đậu tú-tài I và tú-tài II.
Vượt qua được hai cửa ải này thật khó vì thế ngoài học trường công tôi phải học
thêm lớp luyện thi: toán, lý hoá, và triết (thầy Nguyễn-văn-Phú,
Nguyễn-xuân-Nghiên, Trần-bích-Lan).
Theo thống kê của bộ giáo dục năm 1964 tỷ-số toàn-quốc của kỳ thi tú-tài I, đậu
22%, tú tài II là 32%! Những năm sau tỷ-số đã tăng lên đến 60-75%. Để vượt qua
hai cửa ải này Bố Mẹ tốn nhiều tiền bạc giúp phương-tiện và tôi cũng đã bao đêm
thức trắng!
Bố
là người thích học và luôn cầu-tiến nhưng tiếng cả nhà thanh đành phải phá ngang lo cho đại-gia-đình. Hiểu được giá-trị của học-vấn nên ông hết lòng giúp đỡ các con.
Học-vấn và tri-thức giúp con người tiến xa hơn. Học-vấn có vai trò hết sức quan-trọng với con người và một xã-hội văn-minh hiện-đại. Không một
vĩ-nhân nào mà không có học-vấn; chỉ có học-vấn mới bảo-đảm tương-lai. Học-vấn sẽ mở cánh cửa
thăng-tiến và cơ-hội thành-công.
Để
đánh vào lòng tham và khuyến-khích Bố ra điều kiện: mỗi cuối tuần nếu ngoan giỏi là được đi ăn, đi xem phim còn
không cứ việc ngồi nhà một mình, vét cơm nguội. Khi còn nhỏ thì chỉ biết cái lợi trước mắt chứ nào nghĩ đến tương-lai, đáng phục thay, Bố Mẹ đặt
cái mốc tưởng thưởng cho các con!
Đỗ
bằng tiểu-học và vào trường trung-học công-lập là có ngay chiếc xe đạp Peugeot làm phương-tiện di-chuyển. Riêng tôi con gái đang
vào tuổi đôi tám, tuổi biết làm dáng, Bố treo giải: đậu bằng trung-học đệ nhất cấp (Diplôme) sẽ được thưởng
chiếc xe gắn máy và cắt bỏ mái tóc dài thay vào là
lọn tóc quăn hợp thời-trang
Irvine 1990
Saì-Gòn phóng solex rất nhanh
Đôi tay hoàng
yến ngỏ trong găng ( Nguyên Sa)
Quà tưởng-thưởng tăng theo giá-trị của bằng
cấp và những cố gắng học-hành:
cô tú bán-phần có
ngay đồng-hồ Longines của Thụy-sĩ lại thêm một ít tiền rủng-rỉnh với bạn-bè.
Tú-tài toàn-phần
hoàn-tất bậc trung-học cũng là cơ-hội và ngã rẽ
cuộc đời.
Nối
nghiệp nhà, tôi thi
vào trường đại-học sư-phạm Sài-Gòn định-hướng tương-lai. Theo thống kê của bộ giáo dục, học sinh vượt qua được 3 kỳ thi Trung học đệ nhất cấp, tú tài I, tú tài hai
II tổng số chưa được phân nửa. Nam sinh nếu không qua được cửa
ải sẽ phải nhập ngũ còn phái nữ chúng tôi có nhiều cơ hội hơn là làm quan tắt.
Kỳ thi
tuyển vào Đại học sư-phạm rất đông, may mắn tôi có tên trong danh sách 33 sinh
viên, phái nữ chúng tôi chiếm tỷ lệ nhỏ so với nam sinh: 6 cô sinh viên.
Qua những
năm khó khăn, nhất là đất nước chiến tranh triền miên nên duy trì được cuộc sống
phải có nghề nghiệp.
Câu châm
ngôn: Ruộng bề
bề, không bằng một nghề trong tay.
Nhất
nghệ tinh, nhất thân vinh.
Hai lần chạy giặc bỏ hết nhà cửa ruộng vườn;
tay trắng Bố đã dựng lại cơ nghiệp và cho chúng tôi cơ hội vàng. Ngày xưa bà
tiên dùng đũa thần trong nháy mắt biến đổi cuộc đời từ nghèo khó trở nên giầu
sang phú quí, với người thường như gia đình tôi là kết quả của kiến thức, làm
việc không ngừng của Bố Mẹ và chúng tôi.
Ngoài sự cố gắng của con người nhưng phải nói
thể-chế chính trị đã quyết định sự thịnh-vượng, hưng vong của dân-tộc. So sánh
miền nam và bắc Việt-Nam hay nam và bắc Hàn hay đông Đức và tây Đức là thấy sự
chênh lệch về nếp sống của người dân.
Chế độ tự-do,
nhân-bản, tài năng được trọng dụng và khuyến khích, Bố tôi đã viết nhiều sách
giáo-khoa tuy là tư nhân nhưng sau khi duyệt xét có giá-trị, Bộ giáo-dục
đã cho phép sử dụng, giảng dậy tại các
trường. Với tinh thần khai phóng, cởi mở, thầy giáo có quyền lựa chọn bất cứ
tác giả nào miễn hợp chương trình học.
Chủ
trương nền giáo dục là mở mang dân trí,
đào tạo cho thế hệ tương lai hiểu biết những căn bản vào đời. Khi làm trên bộ
giao-dục mặc dầu với sự hỗ trợ tài chính của nước Mỹ nhưng ban soạn sách vẫn giữ
được bản sắc dân tộc, cá tính và tinh thần Việt-Nam. Nhân vật trong sách là cu
Tý, cu Tèo, bác nông phu nâu sồng, phác hoạ hình ảnh tượng trưng qua các ngành
nghề trong xã-hội Việt. Tam cương, ngũ thường, tôn sư trọng đạo bàng bạc trong
các bài học thuộc lòng, bài tập đọc hay bài luận văn. Giữ-gìn tinh-hoa bản-sắc dân-tộc, đời sống
văn-hóa giáo-dục phong-phú.
Sách của cụ Bùi văn-Bảo được trải rộng, trước
1954 tại Hà-Nội nhưng sau 1954 sử dụng khắp các trường từ Bến-Hải tới Cà-Mâu; Tự
do kinh doanh nên gia-đình, đã có cuộc sống sung túc, đầy đủ, chị em chúng tôi
đều qua ngưỡng cửa đại-học.
Nói về công
ơn, và tình yêu thương của Cha Mẹ cho con cái thì vô bờ bến như những câu ca
dao truyền tụng:
Công cha như núi Thái-Sơn
Nghĩa Mẹ như nước
trong nguồn chẩy ra.
Cha Mẹ
thương các con đồng đều dù trai hay gái, nhưng theo cảm nhận riêng tôi hình như
tôi được Bố dễ dãi và đặc biệt hơn một chút. Nếu làm gì sai quấy, tôi bị đòn ít
hơn mấy cậu em, hiểu được lẽ đó nên muốn xin xỏ điều gì họ phải nhờ tôi. Sau
này cô em gái áp út cũng được Bố ưu tiên; có thể cụ tiên đoán cuộc đời con gái
“mười hai bến
nước” không làm chủ được cuộc đời mình.
Theo
Freud phân tích, trong thần thoại cổ Hy-Lạp là tình yêu khác phái (Oedipus) cha
dễ dãi với con gái, mẹ cưng chiều con trai.
Con gái
tôi viết về bố trong ngày tiễn biệt: “ Khi con phạm lỗi
phải ăn đòn, Bố thường nương tay không đánh con đau hoặc đánh con ít hơn anh
Anh và em Hoàng”
Tôi và con
gái đồng quan điểm: “ tình yêu thương của Bố tiếp tục nẩy
nở đến những người có liên hệ với con là chồng và hai cháu ”
Gia-đình
tôi cũng được Bố Mẹ quan tâm đặc biệt, chính nhà tôi đã nói với các bạn:
“ muốn
an-tâm nên dọn ở gần bên ngoại”.
Đúng thế các con tôi được Bố Mẹ trông nom nuôi dưỡng. Bà chăm sóc các cháu từ
khi mới sinh, bốn đứa con chào đời là đã có bà ở cạnh, “ cháu
bà nội, tội bà ngoại”.
Sợ không có thì giờ cho các con, ông ngoại chọn lựa cô giáo mướn về nhà dậy
thêm, đồng thời đưa đón các cháu.
Quan niệm
cổ việc dựng vợ gả chồng đòi hỏi hai bên gia đình có tước vị hay của cải bằng
nhau. Thời buổi mới hai bên trai gái phải có học vấn, hiểu biết, tôn trọng nhau
dựng căn nhà hạnh phúc bằng tài lực của mình. Cám ơn Bố Mẹ đã cho cơ hội,
phương tiện để bước vào khung trời mới.
Tôi đã
chọn được người bạn đời đạo đức, học vấn có nghề nghiệp để xây dựng tương lai.
Chúng tôi đã trải qua các thủ tục để thành lập gia-đình như: lễ chạm ngõ (
ra mắt), lễ hỏi
( đính
hôn) và lễ cưới ( vu
qui- thành hôn).
Chàng là quân nhân nên phải qua sự duyệt xét của quân-pháp, trên giấy tờ cho
phép là ngày 5 tháng 7, nhưng lễ cưới dân sự là 29 tháng 9 năm 1963. Họ hàng
hai bên nội ngoại, nhà trai nhà gái, bạn bè chứng kiến và tham dự tiệc cưới
trên 350 người tại tửu-lầu Á-Đông Chợ-Lớn.
Thầy tôi
cụ Tú Trần văn Thược gửi lời mừng trong ngày lễ vu-quy:
Dậy trẻ cứu người cùng nỗ-lực
Vợ chồng vui sống
một đời xuân.
Tình trạng
chiến tranh leo thang nên sau một tháng ở với gia-đình, anh đã ra đơn vị làm
nhiệm vụ người trai. Nhiệm-sở đầu tiên là Quân-y-viện Pleiku thuộc quân đoàn II
vùng cao-nguyên, còn tôi ở lại Saì-Gòn học nốt năm cuối cùng của chương trình Đại
học. Những cuộc chia-ly, trùng-phùng đẫm nước mắt tình-yêu.
Nguồn hạnh
phúc và chứng tích là ngày 9 tháng 12 năm 1964 con trai đầu, cháu Nguyễn quốc-Anh chào đời tại Thủ-đô. Niềm
vui của đại gia-đình, cháu được hưởng sự thương yêu của các cụ Nội, ngoại, ông
bà và các cô cậu. Bà chăm sóc thằng cháu ngoại cho Mẹ cháu còn phải sách đèn
hoàn tất việc học.
Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu..
Thuyền theo lái,
gái theo chồng.
Trên là
những câu ca-dao, tục ngữ nói về bổn phận của người con gái xuất giá. Muốn hạnh-phúc
vợ chồng phải chung sống để mang tình-yêu cho nhau, cũng như bổn phận của mỗi
người.
Sau khi
ra trường tôi xin lên dậy tại trường trung-học Pleiku. Nơi đây tôi thực hành những
kiến thức và phương pháp huấn luyện tại trường Đại-học sư-phạm. Dậy học và tiếp
súc với học-sinh như được sống lại thời kỳ đẹp nhất của tuổi trẻ, tài năng và
ý-kiến của họ đôi khi vượt trội thêm nhiều mới lạ.
Cháu gái
Nguyễn ngọc Mỹ-Trinh chào đời ngày 16 tháng 11 năm 1966 tại xã Hội-Thương, Hội-Phú
tỉnh lỵ Pleiku, những ngày tương đối bình yên. Số giờ của giáo sư đệ nhị cấp chỉ
đòi hỏi 15 giờ cho những lớp đi thi, nên tôi có nhiều thời gian chăm sóc chồng
con, nguồn hạnh-phúc nở hoa.
Thêm người thêm của, Bố các cháu ngoài giờ làm
tại bệnh viện còn có phòng mạch tư, lương vợ lương chồng, cuộc sống thoải mái.
Nhận định
xưa: tiền không mua được hạnh-phúc nhưng thêm vào ý-kiến rất thực tế :
“ Tiền không thể mua được hạnh-phúc,
nhưng giúp hạnh-phúc rất nhiều.”
Trai thứ
Nguyễn anh-Hoàng sinh ngày 17 tháng
2 năm 1968 ( tết Mậu Thân), cháu ra đời thật vất vả vì chiến tranh đã tới, súng
nổ khắp nơi trong thành phố. Ôi! những
ngày kinh khủng do sự lật lọng của Việt cộng, chúng ký kết ngưng chiến trong
ngày Tết. Thế rồi ngày linh thiêng nhất của một năm, chúng xua quân đánh lớn
vào các đô thị khắp miền Nam, như “chó
cắn trộm” giết đồng
bào vô tội, nhất là tại cố đô Huế với mồ chôn tập thể cả ngàn người.
Để trốn
pháo kích dù mới sinh, cháu phải sống dưới hầm nên phổi rất yếu hay bị sưng cuống
phổi, rất sợ lạnh.
Thời
chinh chiến nên “ khách
má hồng nhiều nỗi truân chuyên”
chồng tôi đi nhận nhiệm sở mới: Y-sỹ trưởng bệnh viện tiểu khu Gò-Công; chiến
cuộc leo thang, các tỉnh cũng không yên, luôn bị pháo kích.
Một nách
3 con, tôi tìm về Sài-Gòn nhờ cậy Bố Mẹ. Căn nhà Phú-Thọ cho mẹ con tôi chỗ ở
và chồng tôi sau này về có nơi mở phòng mạch ( thương con, ngon rể).
Đi xa rồi được về gần, sau 4 năm ngoài biên ải
( quân y-viện Pleiku), 2 năm đồng chua nước mặn ( Gò
Công), 1 năm ở Thủ-Đức
( bệnh viện bài-lao Ngô-Quyền) cách Sài-Gòn 30 kim, nhiệm sở
cuối cùng ở Saì-Gòn ( Chẩn y-viện trung ương) phục vụ đến khi mất nước.
Sài-Gòn
nơi định cư sau cùng trên đất nước, gia đình hai bên nội ngoại đầy đủ các con
Quốc-Anh, Mỹ-Trinh, Anh-Hoàng đã đi học, nhà cần thêm em bé để ôm ấp, bồng bế.
Ngày 2 tháng 5 năm 1974 Nguyễn Hoàng-Việt
ra đời đáp ứng nhu cầu của cả nhà. “Một
con một của ai từ”
nhưng lại có câu “ tam
nam bất phú” vì
thế năm 1975 của cải lại mất hết.
Tôi chuyển
về trường trung học Nguyễn thượng Hiền
nối tiếp công việc, chăm sóc những mầm non, những thanh niên, thiếu nữ thiên thần
của thế-hệ. Công việc “gõ
đầu trẻ” tôi đã
ước mơ từ khi còn bé, vì thầy cô giáo như thần tượng của học trò. Mỗi ngày vào
lớp là nhìn thấy sinh khí của tuổi trẻ như có mình ẩn hiện trong mỗi người, khiến
vui thú trong công việc.
Chồng
tôi vất vả ngày đêm mang bàn tay xoa dịu vết thương cho đồng đội và đồng bào,
đem niềm vui cho bệnh nhân và gia-đình. ( Lương y như từ mẫu).
Tại Sài-Gòn vì nhu cầu tương lai cho các con,
anh đã làm 4 công việc: trước hết Chẩn
y-viện trung ương, khám bệnh cho quân nhân, y sĩ sí nghiệp lo sức khỏe cho nhân viên của viện bào chế Néopharma,
y-sĩ trực ngoại chẩn ở bệnh viện
Sùng-Chính và phòng mạch tư tại nhà.
Khi vào
đời anh vất vả vừa làm vừa học, hiểu được giá trị và kinh nghiệm anh cố hết sức
cho các con phương tiện. Bố Mẹ tôi rất
vui vì con cháu hạnh-phúc và thịnh-vượng, cuộc sống này đã do hai cụ vun trồng
và chúng tôi cũng cố gắng nuôi dưỡng.
Nhớ lại
những nỗi khó khăn cực nhọc tại làng quê mà chúng tôi đã trải ; Mẹ khen: “tụi
trẻ này sung sướng, mở mắt chào đời là nhà đã có xe hơi, nhà lầu, toàn cảnh đẹp
”
Người muốn
không bằng trời định nên 1975 tất cả mất hết; cũng như Bố Mẹ tôi, ván cờ xóa đi
làm lại bao lần rồi vẫn tay trắng. Tiền bạc, công sức ky-cóp nước lã ra sông, lần
này ra đi là mất tất cả, chạy giặc mỗi người chỉ có bộ quần áo trên người với 4
con thơ.
2003 tại Irvine
Chuyến
chạy giặc vào giờ thứ 25 này mỗi người có thể viết được cuốn tiểu thuyết trinh
thám, kinh dị.
Khám xét
khó khăn lắm mới vào được phi trường, trên trời máy bay thả bom, dưới đất đạn nổ
khắp nơi; tất cả mọi người chạy toán loạn tìm nơi trú ẩn, gia-đình tôi thất lạc
ngay tại sân bay. Phi đạo bị phá hủy máy bay không cất cánh được, chờ đợi ẩn nấp
lâu một cháu đã sỉu, may xin được chút cơm nên qua khỏi. Cuối cùng phải dùng trực
thăng vận di tản dân ra tầu chiến ngoài khơi. Ôi ! bao vất vả, lo sợ; sau cả tháng trời chúng
tôi mới gặp nhau tại đảo Goam. Nhờ Trời thương, Phật độ, Tổ-Tiên phù trợ chúng
tôi cũng đến được nước Mỹ, cư trú tạm tại trại Fort Chaffee tiểu bang Arkansas.
Tìm vùng
đất mới , an toàn cho các con, vợ chồng với tuổi 41, 35, trí còn minh mẫn, cơ
thể khỏe mạnh lo gì không sống nổi ??. Lúc đầu nào dám nghĩ cao xa chỉ mong
dùng bàn tay lao động cho con bữa cơm thanh đạm, áo quần đơn sơ để chúng được
đi học mở mang trí óc học được một nghề cho mình, cho xã-hội.
Nước Mỹ mở
rộng bàn tay đón những người mất quê-hương và giúp gia-đình chúng tôi cơ hội
làm lại cuộc đời mới.
Nước Mỹ khi
xưa đã công nhận bằng cấp của Việt-Nam Cộng Hòa nhưng các bác sĩ muốn hành nghề
phải học và thi lại đáp ứng những điều lệ:
1)
Kỳ
thi E,C.F.M.G đây là chữ viết tắt của
Educational commission for foreign medical graduation.
2)
FLEX
:Board medical examiners and Federation licensing Examination.
Muốn được
trở lại nghề phải có thời gian học, rất cực nhất là phải dùng Anh ngữ thay cho
Pháp, Việt ngữ như đã học và ra trường gần 20 năm trước.
Nhu cầu
cấp bách với đàn con dại tôi đã làm đủ việc lo kinh tế cho chồng con yên tâm. Vụng
về nội trợ, kim chỉ vá may thế mà tôi đã là thợ của tiệm sửa quần áo, English
ăn đong, nhưng là teacher aid trường Classen high school Oklahoma, thông dịch tại
nhà thương Louisiana hospital và sau cùng kế toán cho tiệm bách hóa Target.
Sau hai năm miệt mài anh đã đậu xong ECFMG và
FLEX và vào chương trình huấn luyện tại nhà thương với chuyên ngành bác-sĩ
gia-đình ( Program training for family doctor).
Đến nước
Mỹ gia-đình tôi đã di chuyển qua tuyến đường dài: trước hết họ đạo Lutheran church
bảo trợ cả gia-đình đến làng nhỏ Fenwood, tiểu bang Wisconsin, công việc là trông
nom sức khỏe cho dân làng. Với điều kiện đòi hỏi của bộ y-tế, anh tìm đường
chuyển xuống tiểu bang Iowa , rồi Oklahoma cùng các bạn cũ ôn tập. Kết quả tốt
đẹp, đậu xong ECFMG và FLEX .
Hoàn tất
thực tập ở nhà thương thuộc tiểu bang Louisiana, chúng tôi quyết định về miền
tây cho khí hậu điều hòa, đông bạn bè và thức ăn quê hương. Nhớ nhà cứ việc ra
biển nhìn thấy bên kia bờ Thái Bình Dương là quê hương yêu dấu.
Các con khôn lớn trai gái có nghề vững vào đời
( nối nghiệp nhà)
dễ dàng hơn bố mẹ ngày xưa. Chúng tôi đã có dâu, rể , cháu nội, cháu ngoại đóng
góp dân số; đồng thời làm phồn thịnh quê hương thứ hai.
Tuổi vàng: Thời gian trôi mau mới ngày nào
khi chạy giặc tới nước Mỹ, vợ chồng hăng hái làm lại cuộc đời. Chúng tôi nối tiếp
việc Bố Mẹ đã làm khi xưa là cho đám con tiến bước cao hơn vì: “ con hơn cha là nhà có phúc”.
Mục tiêu
đã đạt, tiến triển thuận lợi, tưởng đời êm đềm trôi, bù lại những nhọc nhằn
trên đất mới nhưng Trời đã sập xuống gia đình tôi. Chúa, Phật đã cất anh ra khỏi đời, bây giờ chỉ
còn nỗi cô đơn bủa vây, tuy hiểu đời là vô thường có sinh có tử nhưng không biết
bao giờ mới quên được người thương. Thời gian không giúp khuây khỏa mà còn làm
tăng thêm nỗi nhớ nhung sâu đậm.
Nguyễn quốc-Anh đã nói với Bố trong ngày tiễn
đưa lần cuối:
“Bố
phải chiến đấu với cuộc đời đầy gay-go, Bố phấn đấu, vươn lên để tạo ra một con
đường đi gần nửa thế-kỷ. Bố đã tốt nghiệp đại-học Y-khoa khi cơ hội không cho
phép, Bố lập gia-đình khi xã hội không cho phép, Bố đem gia-đình sang miền đất
hứa khi thời cơ không cho phép. Bố đã làm lại cuộc đời, hàn gắn lại những sứt mẻ
cho mẹ cháu và chúng cháu.”
Cuộc đời
thay đổi và biến hoá không ngừng, giả định Bố Mẹ không rời bỏ làng quê cứ quanh
quẩn nơi thôn ổ thì cuộc đời chúng tôi sẽ ra sao ??? Sẽ là anh hay chị nông phu
nghèo đói hay cán bộ nông thôn ngu dốt. Năm 2001 tôi đã về quê gặp lại mấy người
bạn học Trình-Phố, cuộc đời họ chẳng khác xưa là mấy, may mắn cho gia-đình tôi
mà tội nghiệp cho bà con họ hàng còn gắn bó với quê Cha đất Tổ!
Chiếc xe
đạp, qùa Bố cho khi vào đệ thất trường Trưng-Vương, tôi đã tặng lại bà thím ở lại
miền bắc. Năm 1997 Bố Mẹ tôi từ Canada về thăm, bà thím đã mất, cô em họ còn dùng
chiếc xe đạp có tuổi đời trên 45 năm.
Không đề
cao vật chất nhưng cứ nhìn những vật dụng là thấy cuộc sống của họ để đánh giá
chế độ; người dân sung sướng hạnh-phúc thế nào khi ở với bác và đảng ?
Muốn kể
để so sánh hai chế độ, Thể chế tự-do tài năng phát triển và trọng dụng nên cuộc
sống đầy đủ về vật chất lẫn tinh thần. Xin nhấn mạnh những tiện ích và của cải
là do tim óc và hai bàn tay làm ra chứ
không phải do luồn lọt, lương lẹo, lưu manh mà có như xã hội công-sản Việt-Nam
hiện nay.
Xin cám ơn Tiền-nhân, Đất nước đã cho làm người
Việt-Nam; cám ơn bậc sinh thành cho nguồn sống, nuôi dưỡng, dẫn dắt nên người;
cám ơn người bạn đời thương yêu,
chung-thủy cho cuộc sống lứa đôi hạnh phúc, cám ơn các con cháu làm đời nở hoa.
Cám ơn Anh
chị em chia sẻ, giúp đỡ lúc hoạn nạn, bạn bè, học trò đem thêm niềm vui cho đời.
Cám ơn nước Mỹ quê hương thứ hai cho tuổi già an bình.
Đội ơn
Trời, Phật, Tổ-Tiên, ông bà, cha mẹ luôn phù hộ, che chở vượt những cơn sóng
gió của đường trần.
Mùa
hè tháng 7 năm 2013 .BMD
No comments:
Post a Comment