Friday, October 21, 2016

THẾ GIỚI SIÊU HÌNH

hursday, May 30, 2013

SƠN TRUNG * THẾ GIỚI SIÊU HÌNH

THẾ GIỚI SIÊU HÌNH 
TRONG MỘT VÀI TIỂU THUYẾT HIÊN ĐẠI
Từ xưa, dân ta đã có hai hạng người là hạng tin thần thánh, ma quỷ, một số không tin mà còn bài bác. Kinh Thư nói rằng khi nghi ngờ, nghĩa là mình không thể dùng lý trí, lý luận để hiểu và giải quyết thì mới  bói tóan. Xem bói cũng nên chọn thầy giỏi và nên theo ý kiến đa số.

Từ khi Pháp đô hộ Việt Nam nhất là từ khi cộng sản nổi lên, tuyên truyền chủ nghĩa Marx, đề cao duy vật, chỉ trích duy tâm  và ra lệnh cấm thờ cúng và các phong tục thì tinh thần vô thần được đẩy lên cao.
Các nhà khoa học chỉ nghiên cứu thế giới vật chất, thế giới vô hình không phải là đối tượng của họ.
Các chính trị gia, triết gia thì  đối tượng nghiên cứu không phải về thế giới vô hình cho nên không thể có nhận định chính xác vê thế giới vô hình. Ý kiến của Marx hay ai đó chỉ là chủ quan, thiên kiến, không đúng sự thực. Marx nhân danh khoa học nhưng tất cả ý kiến ông đều duy tâm, phản khoa học vì ông không hề chứng minh.

Các tôn giáo đều tin linh hồn tồn tại nhưng đó là tin chứ chưa và không được chứng minh. Tôn giáo này có thể tự hào rằng tôn giáo mình khoa học hơn tôn giáo kia nhưng không có quyền chê tôn giáo khác là mê tín. Lẽ dĩ nhiên có những phong tục mà đa số đều nhận thấy sai lầm như tục bên Ấn Độ đem xác người thả xuống sông Hằng vì việc này  gây ô nhiễm....

Một vài người khi nghe Đạo Phật nói rằng bản thân ta cũng có ma (ngũ ấm ma).Tham sân si là ma ở trong lòng ta. Nghe giảng như vậy một số nhà sư duy vật liền chỉ trích việc tin tưởng ma quỷ. Ông ơi, đầu ông cạo trọc hay để tóc? Ông ở chùa hay ở nhà với vợ con ? Ông theo cộng sản hay theo Phật? Ông theo cộng sản thì nên đi dép râu, đội nón cối, ra ngã ba đường hoặc vào cơ quan  đảng mà tuyên truyền chủ thuyết Marx và bài xích mê tín dị đoan . Nếu ông theo Phật thì  nên đọc giáo lý cho kỹ. Đức Phật đã nói về sáu nẽo luân hồi trong đó có thiên giới, ngã quỷ, a tu la, địa ngục...là thế giới vô hình, là thế giới của ma quỷ thần thánh.

Không ai chứng minh được có thế giới vô hình nhưng không vì thế mà ta phủ nhận nó  . Như ta không thấy vi trùng nhưng không thể kết luận là vi trùng  không hiện hữu. Cũng vậy, ta gọi khoảng không trên trời  là   không gian nhưng không có nghĩa là trên đó  không có gì hết.

Ta không thấy gì nhưng một số người đã có kinh nghiệm về ma quỷ thánh thần. Không ai cũng có thể thấy ma quỷ, thánh thần cái ấy là do  cơ thể chúng ta. Một số có thể ngồi đồng người ta bảo là nhẹ vía. Còn người nặng vía thì hồn không nhập. Người ta cũng bảo là tùy căn cơ: "Sơn ăn có mặt, ma bắt có người."Tất nhiện cũng có những kẻ dối trá, lừa bịp, buôn thẩn bán thánh.

Sau một thời gian cấm đoán, bổ báng duy tâm thần bí, nay bói toán, đồng cốt, thờ cúng đã trở lại. Một số có kinh nghiệm như chính họ đã thấy ma quỷ, đã nghiệm thấy lời thầy bói hay chiêm bao mách bảo là đúng.
 Marx và đảng cộng sản vỗ ngực là khoa học và chống mê tín dị đoan. Họ coi những tín đồ tôn giáo là ngu dốt ( Tôn giáo là thuốc phiện), bọn thanh thiếu niên của Mao trong "cách mạng vô văn hóa" đã chém giết, bỏ tù nhân dân , làm nhục các đảng viên cao cấp, và phá hoại các cơ sở văn hóa như đền chùa miếu mạo để chứng tỏ lòng trung thành với Mao và sự thông minh tài ba của họ khác với bọn duy tâm thần bí ngu dốt, tối tăm !  Marx chống ma quỷ thánh thần, báng bổ tôn giáo nhưng thực tế dân chúng và đảng viên đã  thấy có ma quỷ, có báo oán, sự linh ứng của bói toán, đồng cốt và mộng mị.Thực tế này làm cho họ bỏ Marx, chống thuyết duy vật và chống đảng cộng sản. Ngày nay, người ta vẫn theo cộng sản vì cộng sản mạnh nhưng tại cơ quan người ta thờ thần tài, ngày rằm tháng bảy các đại gia cúng hàng xe tải vàng mã..

. Ngày nay, tại các nhà tù, quản ngục thường cúng bái vào ngày rằm mồng một. Và tại các trại giam, một số vong linh đã đạp dồng yêu cầu quản ngục ký giấy để họ đầu thai. Những chuyện hồn bị giết, bị cướp, hiện về mách bảo thân nhân.Những việc báo oán trong gia đình cộng sản cao cấp..Nay phổ thông nhất là hồn các tử sĩ cộng sản hiện về báo mộng và đòi đem hài cốt của họ về quê. Việc bói toán, đồng cốt từ lâu đã thịnh hành bên Nga từ thập niên 1980  mà người ta gọi là "Trường sinh học" , một thời GS Nguyễn  Hoàng Phương đã lên tiếng ca tụng. Nay thì người ta gọi là "ngoại cảm"với bà Phan Thị Bích Hằng. Một số  truyện được kể trong dân chúng, mà người cộng sản cũng đã kể lại trong những lúc trà dư tửu hậu... Hồn người đi vượt biên, hồn các nạn nhân CCRD, đã hiện về nơi nhà cũ của họ và có người đã gặp . Họ dùng danh từ mới như Trường sinh học,  ngoại cảm nhưng việc này cũ rích hàng ngàn năm xưa mà người ta gọi là đồng cốt.......

Phan Thị Bích Hằng viết:" Việc tìm mộ tôi vẫn làm như một thói quen. Cứ vào lúc 11h đêm mỗi ngày, khi xong hết mọi việc nhà, 2 con đi ngủ tôi lại ngồi với các hồ sơ được gửi đến. Trước khi “trò chuyện” với mọi người, tôi thường đọc cho họ nghe một vài đoạn Kinh địa tạng hay những đoạn Kinh trong Lễ Vu Lan báo hiếu. Để làm gì ư? Để giúp những linh hồn này siêu thoát, nhẹ nhàng hơn trong một thế giới khác. Sau đó tôi lần lượt giở những  hồ sơ lưu giữ ra làm việc. Có hồ sơ ở trong phòng làm việc này đã hơn 10 năm, có những hồ sơ vừa được gửi đến. Mỗi tối tôi cố gắng “giải quyết” (tức là nói chuyện với các linh hồn - PV) khoảng 5 người. Khi nói chuyện, tôi phải tỉ mỉ ghi chép hết những thông tin họ kể như về địa danh, phương hướng, đặc điểm nhận dạng mộ, đường đi, lối lại… Để thông tin lại cho các gia đình đi tìm kiếm.
http://www.tinmoi.vn/phan-thi-bich-hang-moi-toi-tro-chuyen-voi-4-5-vong-hon-011264920.html

Trần Độ và Trần Phương đã tường thuật về những sự kỳ bí trong việc tim mộ em gái. Nhà báo đã nhận định về việc Trần Phương tìm mộ em gái " Cuộc gọi hồn kéo dài gần hai tiếng đồng hồ “hội ngộ” đầy xúc động và nhiều chi tiết xác thực. Những nghi ngờ về một màn kịch của nhà ngoại cảm đã bị bay biến trong đầu nguyên Phó Thủ tướng vốn vô thần này. Nhưng cuộc đào mộ sau đó với rất nhiều bất ngờ đã khiến ông chết lặng đi... "
http://www.tienphong.vn/xa-hoi/phong-su/508923/Nguyen-Pho-Thu-tuong-Tran-Phuong-ke-chuyen-tim-mo-em-gai.html

 Sau này Trần Phương mời Phan Thị Bích Hằng làm việc trong cơ quan của ông là Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người. Nhiều đảng viên cao cấp đã công nhận khả năng của môn " ngoại cảm".Thiếu tướng Chu Phác, Chủ nhiệm Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, khá am tường Phật giáo khi nhận định: “Việc ‘thấy’ của các nhà ngoại cảm xét dưới góc độ khoa học hiện đại thực ra là hiện tượng Thiên nhãn thông, một trong mười lợi ích của thiền định”.http://www.chungta.com/tulieu/con-nguoi-1/coi_am_va_kha_nang_ngoai_cam/default.aspx

BBC đưa tin Giám đốc Trung tâm thuộc Hội khoa học thông tin va viễn thông ứng dụng (Liên hiệp Khoa học Công nghệ tin học ứng dụng (UIA)), ông Vũ Thế Khanh cho hay: Đây là những người có khả năng thần giao cách cảm. Một số nghe được tiếng nói từ cõi khác, một số ngửi được mùi người chết. Theo ông, ”Có người sinh ra đã có khả năng thần bí, có người lại có sau khi gặp một tai nạn gây chấn động tâm lý mạnh.” Cũng theo ý kiến của vị giám đốc này thì cả Việt Nam có tới chừng 100 người tự nhận là có khả năng thần giao cách cảm nhưng con số nổi tiếng nhất là khoảng 10 người. Bà Phan Thị Bích Hằng ở miền Bắc được coi là một người như thế. Và theo báo Công an Nhân dân thì cô Hằng được cán bộ nhà nước cao cấp mời để tìm xác những người lính Việt Nam hy sinh từ trong kháng chiến chống Pháp...
Hôm 18.05.2006 đài BBC cũng đã cho chiếu trên tivi bộ phim tài liệu nói về việc đi tìm hài cốt bằng phương pháp ngoại cảm ở Việt Nam. Phim Psychic Vietnam được chiếu trên kênh BBC Two ở Anh nói về chuyện từ khoảng một thập niên nay, nhiều gia đình Việt Nam đã nhờ đến những người được nói là có khả năng ngoại cảm để giúp tìm mộ người thân chết trong chiến tranh. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2007/06/printable/070628_vietnamesepsychics.shtml

Nếu những tiên đoán, báo mộng ,lời phán  chỉ đúng một phần hay hoàn toàn sai thì cũng là chuyện bình thường vì nó thuộc loại khoa học không chính xác. Thần thánh, ma quỷ cũng có nhiều trình độ cao thấp khác nhau, ta nên suy nghĩ nhiều trước khi chấp nhận.
Một số tác phẩm tiểu thuyết là do tưởng tượng nhưng một số nói thật, nhất là những hồi ký.Trong khoảng cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, một số tác phẩm đã nói đến ma quỷ, bói toán. Ở đây tôi xin ghi chép lại để bạn đọc tự tìm hiểu sự thật.

I. VŨ THƯ HIÊN 

 Vũ Thư Hiên đã thuật việc ông xem  bói:

 Ðồn rằng gần đền Hàng Trống có một ông thầy bói giỏi. Ông có thể nói ra vanh vách chuyện quá khứ của mình, còn những gì ông nói về tương lai thì sau nghiệm ra thấy đúng cả. Người khuyên tôi đến xem bói là cô em dâu tôi, rất tin ở bói toán, và vợ tôi, vốn chẳng bao giờ mê tín dị đoan. Ðược chứng kiến cảnh công an nửa đêm hùng hổ tới nhà bắt cha tôi, vợ tôi lo cho số phận của tôi. Mà số phận tôi cũng tức là số phận cái gia đình bé nhỏ mới được xây dựng gồm vợ chồng tôi và hai đứa con lít nhít, một trai một gái. Nếu tôi cũng bị bắt thì gia đình tôi tan nát. Lương vợ tôi không đủ nuôi thân, nói gì nuôi hai đứa con. Trong hoàn cảnh chúng tôi bất cứ ông thầy bói nào cũng đáng tin nghìn lần hơn một chính quyền dối trá. Ông thầy bói mù cảm thấy sự có mặt của chúng tôi qua những tiếng dép bước rón rén vào nhà. Ông nói, giọng sẽ sàng : - Xin các vị chờ cho một lát. Chúng tôi đến đã sớm nhưng có người còn sớm hơn. Ông thầy bói đang xem cho một bà đứng tuổi mặt mày thiểu não, luôn miệng vâng dạ, thỉnh thoảng lại suỵt soạt khấn khứa. Nhà chật, ông hành nghề trên cái phản. Người trong nhà đi lại loẹt xoẹt, ra đụng vào chạm ầm ĩ, coi như không có ông. Chúng tôi ngồi ghé vào mép cái phản không mấy sạch sẽ. Tôi thất vọng. Tôi tưởng sẽ gặp một cụ đồ nho thất thế với cặp mắt sáng anh minh, giọng nói sang sảng, chứ không phải ông già mù với đôi tay xương xẩu sờ soạng trên chiếc chiếu bẩn để tìm cái đĩa ông vừa đặt xuống. Giọng ề à ông nói với bà khách những chuyện tương lai tầm phào : tháng này bà có lộc, nhỏ thôi, nhưng cũng là lộc, còn tháng sau thì phải cẩn thận kẻo mất cắp, tháng sau nữa sẽ có người nhà ở xa về mang đến tin vui... Ông không có chỗ trong cuốn tiểu thuyết của tôi. Ông sẽ lạc lõng trong đó như một nhân vật quặt quẹo. Ðã định đứng lên ra hiệu cho vợ tôi lẻn về thì quẻ bói của bà khách đến trước cũng vừa xong. - Mời ông bà ngồi. Vẫn yên vị, xếp bằng tròn, ông thầy bói quay mặt về phía chúng tôi, hướng rất đúng, như thể đàng sau cặp kính đen là đôi mắt sáng. Ðành lê chân ngồi vào chỗ bà khách vừa bỏ đi. - Sáng nay tôi độn, biết ông sẽ đến. - cặp kính đen nhìn tôi - Thánh dạy : có quý nhân đến nhà ! Trời đất quỷ thần ơi, tôi mà là quý nhân của ông ư, ông thầy bói ? Quý nhân theo cái nghĩa nào vậy ? Ông nhầm rồi. Tôi chẳng có thể là quý nhân trong bất cứ nghĩa nào, cho bất cứ ai.. Một ngàn lần không, ông thầy bói của tôi ạ, tôi không phải quý nhân trong bất cứ nghĩa nào, càng không thể là quý nhân của ông. Thậm chí tôi cũng chẳng còn tiền để đặt quẻ cho hậu hĩ. - Không dám. - tôi lúng túng nói - Chúng tôi đến phiền xin cụ xem cho một quẻ. - Vâng. Ông muốn xem hung cát ? Hay công danh, tài lộc ? - Cụ cứ nói những gì cụ thấy, xin lỗi, những gì Thánh dạy... Một nụ cười độ lượng thoảng qua mặt ông thầy. - Xin ông cho biết ngày sinh tháng đẻ. Tôi nói. Nhìn xéo qua cặp kính đen, tôi thấy một đôi mắt trắng đục - ông già bị lòa thật. Ông già ngẩng đầu lên, trán hơi nhăn lại, lẩm bẩm một hồi rồi sờ soạng tìm cái đĩa. Bằng hai bàn tay thành kính, ông nâng cái đĩa lên ngang trán, suỵt soạt khấn. Rồi hạ cái đĩa xuống, ông trầm ngâm gieo tiền. Ba đồng trinh rơi xuống mặt đĩa kêu rổn rảng. Sau khi rờ rẫm sờ từng đồng một để biết sấp ngửa, và hẳn cũng để kéo dài thời gian suy nghĩ, ông xoa xoa chúng trên mặt đĩa một lát rồi chậm rãi nói với tôi : - Tôi sẽ nói ba điều. Nếu ông thấy tôi nói đúng thì ta xem tiếp. Nếu sai, tức là Thánh không cho, xin ông lại đây vào bữa khác. Tôi sẽ không trở lại đây nữa, bất kể Thánh cho hay không cho. - Xin cụ cứ nói. - Thứ nhất, ông đã từng xuất ngoại. Một câu chẳng quan trọng, không có ý nghĩa. Nhưng kể cũng lạ, căn cứ vào đâu mà ông già mù kia đoán được tôi đã ở nước ngoài ? Tôi không ở nước ngoài lâu tới mức giọng nói bị thay đổi. Một mùi lạ, xà phòng thơm hoặc nước hoa ? Cũng không có chuyện đó. Tôi vừa mới từ những hố bom trở về. Tôi tắm nước ngòi, nước ao tù, không xà phòng, chỉ cốt gột sạch bùn đất. Người mù có khứu giác tinh tường, nhưng ông không thể thấy ở tôi mùi nước ngoài nào. - Có đúng vậy không ? - Dạ, thưa cụ cứ nói tiếp. - Thứ hai, mùa thu năm nay nhà ông có hỉ, hỉ qua tiếp đến hạn. - Dạ ? - Hỉ đây ứng vào anh em ông, hoặc em trai lấy vợ, hoặc em gái lấy chồng. Còn hạn, nó ứng vào cụ thân sinh ra ông. Ông thầy bói nhẩn nha nói trúng vào những sự kiện vừa xảy ra trong gia đình tôi - mùa thu em trai kế tôi lấy vợ, sau đó đến cha tôi bị bắt. Tôi sững sờ. - Sao mà lại có người số lận đận thế ! - ông già ngẩn người, tư lự - Lạ thật, lạ thật ! - Là sao, thưa cụ ? - Cứ như Thánh dạy thì hiện nay cụ thân sinh ra ông đang mắc hạn tụng đình, tức là có chuyện lôi thôi nơi cửa quan... Tôi vờ phản bác : - Sao có chuyện thế được, thưa cụ ? Cụ thân sinh tôi đã về hưu, hiện sơ tán ở Tam Ðảo. Cụ đã có tuổi, chẳng làm gì để có thể mắc vào chuyện lôi thôi. Ông thầy bói nghiêng đầu kiên nhẫn nghe. - Vậy mà cứ như quẻ này thì cụ nhà bị bắt rồi. Ông nói sau một lát im lặng, như thể khi tôi nói ông bận lắng nghe ai đó đang nói với ông, chứ ông không nghe tôi. Tôi lặng đi. Có thể có sự thật như thế không : một ông già xa lạ, và ông ta biết được những việc xảy ra trong nhà người khác ? - Nhưng... - Lận đận quá ! - ông già lắc đầu ái ngại - Tính ra thì thời Tây Tây bắt, thời Nhật Nhật bắt, đến thời ta cũng không yên. Con người sao mà khốn khổ thế ! Cương cường quá, thẳng tính quá, nên mới bị tai vạ. Cự môn đắc địa lại gặp Hỏa tinh, Thất sát... Lại còn thêm mấy hung tinh nữa, mới nguy... Cứ như tôi suy thì cụ nhà không vướng vào chuyện kinh tế đâu, mà đây là chuyện chính trị... Tôi không còn muốn chối nữa. Nhưng tôi chỉ nói : - Tôi sẽ đi Tam Ðảo thăm cụ tôi ngay. - Ông đi đi ! Tuy chẳng giúp gì được cụ nhà đâu, nhưng đạo làm con ông phải đi. Mà lạ, cụ nhà gặp nạn ít ra cũng gần cả tháng rồi mà sao không ai báo cho ông biết ? - Thưa cụ, tôi vừa đi công tác khu 4 về. Vợ tôi đưa mắt cho tôi. - Bây giờ phiền cụ xem cho tôi. Ông thầy bói cúi đầu xuống. Ngón cái đi những bước chậm chạp trên những ngón tay xương xẩu. - Tôi nói thẳng ra nhá ? - Vâng, cụ cứ nói thẳng. - Thế này : chính ông cũng sẽ gặp hạn, ông ấy, nhưng không phải ngay bây giờ. Qua tháng này đã, trong tháng sau... Tôi liếc vợ tôi. Mặt nàng nhợt đi khi nghe câu nói đó. Tội nghiệp, vợ tôi thương tôi biết bao nhiêu. - Hạn sẽ xảy ra bất ngờ...- ông ta nói tiếp - Tôi biết, ông không tin đâu, nhưng nó sẽ đến đấy. Hạn này là hạn có kẻ gắp lửa bỏ tay người, việc không có nó bảo là có, việc xong rồi nó bảo là chưa... Tôi suy nghĩ. Thế là thêm một người khẳng định tôi sẽ bị bắt. Khác ở chỗ người này không nhìn vào tình hình chính trị mà căn cứ ở những vì sao không có thật. - Hạn liệu có dài không, thưa cụ ? - tôi hỏi. Ông thầy bói lắc đầu : - Tôi không nói trước được. Nếu ông cúi mình xuống, không cãi lại, người ta nói gì cũng gật, buộc cho mình cái gì cũng ừ, cứ nhận hết thì xong. Bằng không hạn sẽ kéo dài : hai thành bốn, bốn thành tám, tám thành mười sáu... cứ thế mà nhân lên mãi... Vợ tôi nước mắt đã lưng tròng. Xong quẻ, tôi đưa cho ông thầy bói nhiều hơn số tiền tôi định đưa. Tôi hỏi ông về chữ quý nhân mà ông dùng cho tôi thì ông nói : - Quý nhân là người đáng quý, không có nghĩa nào khác. Không phải ông cho tôi tiền hay cho tôi quà mới là quý nhân. Mong còn có dịp gặp lại nhau. Trước khi ra về tôi đặt câu hỏi cuối cùng : - Thưa cụ, cụ đã xem cho nhiều người, biết nhiều số phận, tôi muốn hỏi cụ : có phải thời nay người xấu nhiều hơn người tốt không ? Ông già cười khà khà : - Cuộc đời phải có âm có dương, có đực có cái, có xấu có tốt, mới là cuộc đời chứ. Dĩ nhiên, có hồi âm thắng dương, có hồi dương thắng âm, tựu trung chông chênh là thường tình, cân bằng là hãn hữu. Ông có số nhìn xa trông rộng, ông thừa hiểu sự đời, còn hỏi tôi làm gì (Đêm Giữa Ban Ngày, chương X)

 II.BẢO NINH

Đoạn sau đây là những hồn ma trong  "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh.  Bảo Ninh như nửa tỉnh nửa say, nghệ thuật của Bảo Ninh pha trộn thực tế và tưởng tượng nhưng trong tiểu thuyết VIệt Nam hiện đại, nhất là tiểu thuyết chiến tranh, it ai nói nhiều về các trận đánh, các xác chết,  các hồn ma hiện về, đặc biệt là những con người đã thành những con xà niêng...

Những ngày sau đó quạ bay rợp trời, và sau khi bọn Mỹ rút thì mưa mùa ập xuống, lụt rừng. Bãi chiến trường biến thành đầm lầy, mặt nước màu nâu thẫm nổi váng đỏ lòm. Trên mặt nước lềnh bềnh xác người sấp ngửa, xác muông thú cháy thui, trương sình trôi lẫn với cành lá và những thân cây to nhỏ bị mảnh pháo băm. Khi lũ tan, mọi vật trồi ra dưới nắng lầy nhầy bọc trong lớp bùn đặc ghê tanh như thịt thối, Kiên lết dọc suối mồm và vết thương không ngừng nhỏ máu, thứ máu của xác chết, lạnh và nhớt. Rắn rết bò qua người anh. Thần chết sờ soạng.
Từ đó chẳng còn ai nhắc đến tiểu đoàn 27 nữa, mặc dù vô khối hồn ma ra đời trong trận bại vong ấy hiện vẫn lang thang khắp các xó xỉnh bụi bờ ven rừng, dọc suối chưa chịu chầu trời. Còn cái truông núi vô danh mịt mù lam chướng này thì từ bấy có tên là Gọi Hồn, cái tên nghe dựng cả tóc gáy. Đôi khi, có lẽ là vào những kỳ lễ lạt nào đó của giới các âm hồn, các toán quân đã chết của tiểu đoàn lại tụ họp trên trảng như là để điểm danh. Tiếng suối chảy, tiếng gió núi hú lên chính là tiếng nói của những hồn hoang binh lính mà người cõi dương ta thường nghe thấy và có thể thấu hiểu.
Kiên nghe kể đi đêm ở vùng này có thể nghe thấy chim chóc khóc than như người. Mà đúng là có loài chim như thế thật dù rằng chưa ai nhìn thấy chúng vì chúng chẳng hề bay mà chỉ một mực kêu thôi. Và tìm - khắp Tây Nguyên cũng không thể thấy ở đâu như ở đây các loại măng lại nhuốm một màu đỏ dễ sợ đến vậy, đỏ au như những tảng thịt ròng ròng máu. Còn đom đóm thì to kinh dị. Đã có người nom thấy những quầng sáng đom đóm lớn tày cái mũ cối, có khi hơn.


 Ở đây khi trời tối cây cối hòa giọng với gió rên những bản nhạc ma. Và không một ai có thể quen được vì chẳng góc rừng nào giống góc rừng nào, chẳng tối nào như tối nào. Có lẽ là núi là rừng chứ không phải con người đã làm nảy sinh ra ở vùng này những huyền thoại rùng rợn, những truyền thuyết man rợ, nguyên thủy nhất về cuộc chiến tranh vừa qua. Nói chung những kẻ yếu bóng vía rất khó sống ở đây. Sống ở đây có thể điên lên hoặc chết rũ vì khiếp sợ. Chính vì thế nên vào mùa mưa năm 74 khi trung đoàn về náu quân ở vùng này, đám trinh sát bọn Kiên đã phải lo lập bàn thờ và bí mật tổ chức cầu khấn, cúng giỗ cho các hồn tiểu đoàn 27 còn tồn đọng trong truông. Lửa nhang ngày đêm lập lòe. Mà cũng còn phải kể tới hồn ma của các dân thường nữa. ở gần ngay chỗ chiếc Zil này đêm nay đang đỗ trước có dấu tích của con đường mòn dẫn vào làng Hủi. Hồi trung đoàn 3 về đây làng đã hoang tàn, tuyệt không một bóng người còn sống. Bệnh tật khủng khiếp và đói khổ triền miên đã tận diệt cuộc sống nơi đây. Tuy nhiên những linh hồn lở loét không manh áo che mình thì thấy bảo là vẫn đầy rẫy và vẫn không ngừng làm bốc lên mùi hôi thối trong tưởng tượng của mọi người. Trung đoàn đã cho người rưới xăng rồi phóng hỏa đốt sạch làng đó để diệt trùng tẩy uế, song lính ta vẫn rất hãi, không dám bén mảng tới gần vì sợ ma và sợ nhiễm hủi.  

Một hôm, Thịnh "con ! ở tiểu đoàn một đã liều mò tới đấy và giữa tro tàn của ngôi làng cậu ta đã bắn chết một con vượn rất to, phải bốn người kéo ra mới khiêng nổi con thú về chỗ lán của đội trinh sát. Nhưng, lạy Chúa tôi, đến khi ngả nó ra, cạo sạch được bộ lông thì ôi giời đất ôi, con vật hiện nguyên hình một mụ đàn bà béo xệ, da sùi lở nửa xám nửa trắng hếu, cặp mắt trợn ngược. Cả lũ bọn Kiên thất kinh, rú lên, ù té quẳng tiệt nồi niêu dao thớt. ở trung đoàn chẳng ai người ta tin chuyện đó, nhưng chuyện đó là có thật. Bọn Kiên đã chôn cất, đắp điếm tử tế mồ mả cho "người ấy", nhưng sự báo oán vẫn chẳng tránh được. Một thời gian sau, Thịnh "con" bị giết. Và lần lượt, kế tiếp nhau hầu hết trung đội đã bỏ mình. Còn sót lại có mình Kiên, như vậy đấy.... (Chương I)


Cũng từ bóng tối của rừng sinh ra những huyền thoại, những truyền thuyết về cuộc đời của những người lính thường, những người làm nên thi hứng, làm nên cốt truyện, cho Kiên giọng văn, nhịp điệu câu chữ và cả nhịp sống của từng từ. Có thể thấy trước là chẳng mấy người trong số các nhân vật của cuốn tiểu thuyết được như Kiên sống đến ngày thắng lợi. Ngay từ đầu họ đã phải hành động quyết liệt để không lập tức bị nhận chìm tăm tích vào những huống cảnh chiến trận kinh hoàng, những cảnh huống mà cầu trời cho đừng bao giờ có ai đó trên đời này lại một lần nữa phải lâm vào. Họ bị cái chết rình rập, săn đuổi, xô dồn vào thế mất còn chỉ trong nháy mắt và trong tấc gang. Họ bị giết từng người một hoặc là hàng loạt, bị bắn gục tại chỗ hay bị thương mất máu chết dần, chưa kể tới bao nhiêu kiểu đọa đày khác, chưa kể những cơn ác mộng hủy diệt tâm hồn và lột trần nhân tính. 

Có lẽ rất ít người cầm bút đương thời nào chứng kiến nhiều cái chết và thấy phải nhiều xác chết đến như Kiên. Vì thế sách anh đầy rẫy tử thi. Những xâu lính Mỹ trẻ măng mình mẩy không chút sây sát, ngồi ngả đẩu vào vai nhau thiu thiu giấc ngủ ngàn năm dưới những ngách hầm ngầm bị tống thủ pháo. Những lính dù trang phục vằn vện nằm phơi nắng trong các lùm bụi lúp xúp ven rừng KỜ Leng, thản nhiên trương phình lên, thản nhiên chịu đựng lũ ruồi, bầy dòi và mùi da thịt khắm lặm của mình. Và ai đã đọc Kiên thì đều có dịp hình dung những trận mưa cẳng chân, bàn tay rơi lịch bịch lẹt bẹt xuống đồng cỏ voi bên bờ sông Sa Thầy vào lúc rạng mơ sau suốt một đêm B52 liên tục chần. có thể tận mắt ngắm sườn đồi Xáo Thịt sau ba ngày huyết chiến nom y hệt một mái nhà lợp bằng thây người. Có thể thậm chí giật bắn mình khi thấy một người lính nọ đạp phải mìn nhẩy cẫng lên ngọn cây như được chắp cánh... Những cái chết "của Kiên" đa dạng, nhiều màu vẻ, giàu sắc khí và sinh động hơn người. Anh như thể là một người lính không còn sống từ trong lòng đất và từ trong các giấc mơ lên tiếng kể cho ta nghe về sự sống chết; kể về phút lìa đời và thậm chí kể về cuộc đời sau khi đã bị giết. 

- Các bạn hãy tin tôi: trong lòng cái chết không phải là địa ngục khủng khiếp - một linh hồn trong truyện đã nói như thế với những người sống - Trong lòng cái chết vẫn là cuộc sống, dĩ nhiên là một kiểu khác của cuộc sống kia. Trong lòng cái chết ta có được sự bình yên, sự thanh thoát và tự do chân chính. . . 

Đối với Kiên thì người chết vừa mơ hồ vừa sâu xa hơn người sống. Họ cô đơn, trầm lắng và kỳ diệu, như ảo ảnh. Và đôi khi hương hồn người chết trận hóa thành những âm thanh chứ không phải là những hình bóng. Bản thân Kiên thì chưa từng nhưng anh em khác trong đội hài cốt thì đã từng nghe thấy người chết đàn và hát. Chuyện xảy ra ở chân đèo Thăng Thiên họ bảo thế... Khi bóng tối vùi kín rừng cây trong hẻm núi thì từ đáy rừng phủ lá mục tiếng hát thì thào dâng lên, có cả tiếng đàn ghi-ta hòa theo nữa hoàn toàn hư, hoàn toàn thực "... Năm tháng vinh quang khổ đau bất tận...", lời và giai điệu bài ca vô danh ấy giản dị và huyền bí nên mỗi người nghe ra mỗi khác, song không ai là không nghe thấy. Cuối cùng, sau mấy đêm lắng nghe người ta đã định vị được chỗ đất có hồn người. Trong tấm tăng bó xác xương cốt đã hóa mùn cả, riêng cây đàn ghi ta tự tạo của người chết thì còn nguyên vẹn.
Chẳng biết có phải là do hư cấu thêm không mà người ta kể rằng khi vốc xương mủn và cây đàn vừa được đưa lên từ đáy huyệt thì tất cả những ai có mặt đều nghe thấy vang lên trong lòng rừng những âm điệu bi tráng của bài ca ấy. Sau đó thì vĩnh viễn tắt bặt. Bài ca chắc là đã mãi mãi lìa bỏ khu rừng....
Tiếng cười cuồng loạn nức nở rượt sát sau lưng... ha ha ha ha...nghĩ, có lẽ là loài quỷ rừng hay cười mà người Triêng gọi là ma ỏm. Hay là quỷ cùi? Nhưng không phải người cười là cái chắc. Rũ rượi. Sằng sặc. Vọng ra dưới đồi 300. Chín năm sau, một người trong tổ hài cốt, khi nghe thấy tiếng cười điên rồ vọng lên từ phía đồi 300 bên bờ sông Sa Thầy, vào buổi chiều tối đã ngỡ rằng mình nghe thấy yêu quái. Anh ta hồi hộp kể. Mọi người xúm quanh, sa sầm.
- Chỉ cất lên trong chốc lát, nhưng tiếng cười làm tôi lạnh hết người. Nhưng mà tôi cứ thử liều lần về hướng phát ra tiếng cười. Chợt gặp một cái tràng hẹp khoanh một khoang giữa rừng. Mẹ kiếp, và tôi thấy gì... một túp lều Thoảng gió qua tôi ngửi thấy mùi khét và mùi sắn nướng. Nghĩa là người. Nhưng... Các cậu hiểu không, trước cửa lều trong ánh nhá nhem tôi thấy một hình thù lồm xồm lông lá, đúng hơn là râu tóc quá dài, cởi trần, trần truồng đang ngồi trên một thân cây đổ nhìn thẳng về chỗ bụi cây tôi đang núp. Và tôi thấy, một quả lựu đạn các bạn ạ ở trong tay hắn. Tôi bò lui. Hình như có làm động cành cây nên con ma để ý hơn, nó đứng lên, chăm chú nhìn, và đi tới. Tôi bật lên vùng chạy. Lập tức tiếng cười kinh dị khi nãy lại cất lên đuổi theo tôi.
- Hay là "xà niên"? - Một người phỏng đoán.
- Nhưng xà niên sao lại có vũ khí, với lại họ đâu có ở lều cũng không phải tàn tích của một bản làng nào vì chẳng hề có vết tích nương rẫy nào ngoài cái rẫy tự giác của lính ta. Mà nhất là người không ai cười như thế.
- Hay là thằng Tùng, anh Kiên?
- Tùng nào?
- Tùng điên chứ Tùng nào, ở vệ binh trung đoàn ấy, anh quên à. Nó hóa điên và bỏ vào rừng khi trung đoàn mình về chốt gần ngã ba đường 90 hồi năm 71 ấy. Rất gần khu vực này.
- À, Tùng. . . nhớ rồi . Cũng chả biết chừng, thằng đó lên cơn toàn cười. Nghe rất ớn. Người ta bảo rằng trong rừng có những mạch suối ma, uống phải nước của những mạch đó có thể mắc đủ thứ bệnh, kể cả bệnh điên. Nhưng Tùng thì điên do bị một viên bom bi lọt vào não, bác sĩ trung đoàn bảo thế.
Kiên nhớ là lần ấy trung đoàn bộ bị oanh tạc. Nhiều người chết và bị thương. Riêng Tùng hoàn toàn lành lặn. Chỉ có điều là Tùng kêu đau đầu lắm. Y tá cho thuốc cảm, chẳng thuyên giảm, càng đau. Rồi một buổi đêm các lán của cả trung đoàn bộ bị lay thức vì tiếng cười của Tùng. Phải rồi, chuyện đó xảy ra ở vùng này đây. Mọi người tổ chức vây lùng để đưa Tùng về cứu chữa. Nhưng người bệnh lẩn tránh rất tài. Thỉnh thoảng từ một lùm cây anh ta bật cười như để chọc dờn mọi người, nhưng mà tiếng cười ảo não và thương tâm vô cùng. Vờn đuổi, truy sục cả tháng trời rồi đơn vị đế mất dấu tích của Tùng. Cậu ta mất hút vào rừng thẳm. Người ta bảo rằng, viên bi đã không chịu nằm yên ở một góc não mà trườn chạy, luồn lách đưa cơn điên vào tất cả những ngõ ngách trong đầu óc Tùng. . .
Tuy nhiên bây giờ nghe kể về tiếng cười ma quỷ ở góc đồi 300, Kiên ít nghĩ đến Tùng. Anh nhớ lại cái chết của Quảng. cũng ở khoảng rừng này đây 9 năm về trước. Sự đau đớn như thế có thể từ thân xác ăn vào đất mọc lên thành cây thành rừng, gây lên những vang âm và những ảo hình không tan đi được về tấm thảm kịch. Nói chung thời gian này Kiên đã bắt đầu tin tưởng vào những bóng ma, tin vào những ngọn gió âm hồn và những lời lẽ thần bí vọng lên từ đáy rừng âm u. Khi anh và những người trong tổ tiến tới gần túp lều thì bóng ma đã lên tiếng cười để ngăn lại. Tiếng cười dằn dữ như thể lời cảnh cáo.
- Anh là ai? - Kiên hỏi to - Hãy ra với chúng tôi. Chúng tôi là bạn. Chúng tôi tìm anh, chúng tôi đã tìm anh bấy lâu nay, khắp nơi.
Im lặng lan xa. Túp lều hoang, bãi trống, vùng cỏ xanh, rừng cây. Tiếng suối từ đồi 300 vọng tới nghe rì rầm như tiếng cầu nguyện.
- Chúng tôi muốn nói để anh hay rằng đã hòa bình rồi - Kiên lại lên tiếng, anh cảm thấy luồng mắt của cô hồn đang xói qua kẽ hở ở vách lều rọi vào mình - Hãy để chúng tôi đưa anh rời bỏ nơi hoang vu này.
Đáp lời Kiên là một chuỗi kinh khủng tiếng cười sởn tóc gáy. Có phải tiếng cười hay không, hay là khóc than, kêu gào, hay chỉ đơn thuần là tiếng hô hú điên loạn mất trí? Rền rĩ, rùng rợn, man rợ... Và, dường như không phải chỉ có một giọng cười. Bên dưới cái giọng khàn khàn là một giọng run run nho nhỏ cười nương theo.
Chờ, không biết là đã chờ bao lâu cho tới lúc tiếng cười kiệt hơi, Kiên bước tới, đi thong thả tới túp lều. Cái lều ọp ẹp rùng mình, Kiên và mọi người không ai kịp thấy rõ một cái gì. Từ trong lều băng ra phía sau, "họ" - nghĩa là không phải chỉ một cái bóng, vút lao đi bay biến và vô hình vào triền cỏ tranh cao lút đầu.
Thảng thốt một tiếng chim kêu lên. Vệt cỏ gianh rẽ giạt trườn lướt đi.
- Kìa! - Một người thốt lên đờ đẫn.
Ở nơi bãi gianh tiếp giáp rừng le, hiện thoáng lên chỉ trong tích tắc một bóng ma rách bươm, uyển chuyển và huyền bí, lướt ngang luồng ánh sáng rồi mất hút đi với mái tóc đen dài xõa bay. Còn một bóng ma nữa nhưng do rạp cúi xuống chạy nên chỉ lộ cho mọi người vụt thấy một cái sống lưng đen cháy như lưng vượn. Ảo giác và cảnh thực đan xen lẫn vào nhau như hai vòng sóng giao thoa trên nền xanh thẫm tối của thảm rừng. Thẫn thờ, rời khỏi khoảng rừng trống, bọn Kiên để lại trước cửa lều một hòm lương khô chứa ít gạo, muối và thuốc men. Nhưng, mấy bữa sau trở lại đó thì buồn thay chỗ quà vẫn nguyên đấy chẳng được ai đụng tới.
- Họ nghi có cạm bẫy - Một người nói - Họ sợ.
- Họ ư? Có nghĩa là người à?
Qua lỗ hổng hẹp dùng làm cửa ra vào mọi người luồn vào bên trong lều. Chỗ nằm trải những giát lồ ô có phủ bên trên một lượt cỏ Mỹ làm đệm. Ba tảng đá kê lên thành một chiếc bếp ở góc lều. Vương rắc xung quanh bếp, vỏ sắn và lõi ngô. Bầu không khí hăng hắc mùi khói và lờ lợ một thứ mùi người.
- Đây này... - Kiên nói, gần như thành kính nhặt ở đệm lên một cái lược làm bằng nhôm máy bay. Kẽ lược giắt những sợi tóc rất dài và mềm.
- Nghĩa là không phải ma. Không phải xà niên.
- Nhưng là ai? - Một người thì thào - Là ngụy hay là lính mình đào ngũ sống ẩn trong rừng?
Không ai trả lời. Và trong một thời gian khá lâu sau đó cả tổ đã cố công tìm kiếm. Nhưng cặp uyên ương mất trí ấy đã được rừng che chắn trong vòng huyền hoặc. Mặc dù thỉnh thoảng trong gió hình như vẫn nghe văng vẳng họ cười song chẳng thể nào định hướng được để tìm đến. Một lần một người trong tổ nói là đã nom thấy chính người đàn bà nọ ở bờ sông dưới bóng chiều chạng vạng, đang tắm. Khi anh ta tiến gần lại thì người ấy bật lên cười, vẫn chuỗi cười rất rợn ấy và lập tức biến mất, không biết là biến vào các lùm cây ven bờ nước hay là biến vào trong sóng.
- Hình như chị ta còn lại có một mình. Người kia có thể là đã lưu lạc ra xa khỏi vùng này. Nhưng có lẽ chị ta không hoàn toàn có lẻ. Tôi ngờ là chị ta có mang. 

Chắc là do tưởng tượng ra thế thôi. Chắc anh ta cho rằng có thêm một đứa bé, một hài nhi tham gia vào thì câu chuyện tối tăm điên dở mịt mờ không lối thoát này sẽ đỡ thương tâm, sẽ có hương vị hy vọng và sẽ thành ra một chuyện có hậu. Bởi vậy anh ta nói thêm:
- Bệnh điên sẽ không nhiễm sang đứa bé. Và nó sẽ lớn lên. Người ta sẽ tìm ra, hoặc là chính nó sẽ tìm thấy mọi người.
- Thì cũng đành hy vọng thế - Một người khác nói - Phải có một lối thoát chứ. Cảnh ngộ này và những cảnh ngộ tương tự. Chưa nói tới những cảnh ngộ kinh khủng hơn.
Những người chết chẳng hạn. Phải rồi. Cả những người chết. Họ cũng phải được cứu rỗi bằng một cánh nào đó....(chương VIII)

No comments: