Thursday, April 25, 2013
TRẦN ĐƯC THẠCH * VC TÀN SÁT XUÂN LỘC
VC tàn sát cả 1 làng ở Xuân Lộc
Lại
thêm 1 tội ác diệt chủng của CSBV vừa được phanh phui qua lời kể của 1 cán binh
CS, Bài viết có nhiều từ ngữ VC khó nghe ,nhưng vì để giữ tính trung thực nên
không được chỉnh sửa.
Thời
gian lặng lẽ trôi, tôi, một chàng lính trẻ măng ngày nào bây giờ đã là một ông
già với mái đầu hoa râm đốm bạc. Vậy mà tôi chưa nói được câu chuyện lẽ ra phải
nói. Đôi lúc tôi âm thầm kể lại cho một số bạn bè tin cậy. Nghe xong ai cũng
khuyên “Nói ra làm gì, nguy hiểm lắm đấy”. Và quả thật, sống trong xã
hội chủ nghĩa quái đản này, người ta quen thói bưng bít sự thật. Sự thật không
có lợi cho Đảng, cho Nhà nước chớ dại mà nói ra, bị thủ tiêu hoặc vào tù là điều
chắc.
Tháng
04/1975, đơn vị chúng tôi (Sư đoàn 341 thường gọi là đoàn Sông Lam A) phối hợp
với Sư đoàn khác đánh vào căn cứ phòng ngự Xuân Lộc. Trận chiến quyết liệt kéo
dài 12 ngày đêm. Tiểu đoàn 8 chúng tôi do hành quân bị lạc nên được giao nhiệm
vụ chốt chặn.
Nhằm không cho các đơn vị quân lực Việt Nam Cộng hoà tiếp viện
cũng như rút lui. Phải công nhận là sư đoàn 18 của phía đối phương họ đánh trả
rất ngoan cường. Tôi tận mắt chứng kiến hai người lính sư đoàn 18 đã trả lời gọi
đầu hàng của chúng tôi bằng những loạt súng AR15. Sau đó họ ôm nhau tự sát bằng
một quả lựu đạn đặt kẹp giữa hai người. Một tiếng nổ nhoáng lửa, xác họ tung
toé giữa vườn cam sau ấp Bàu Cá. Hình ảnh bi hùng ấy đã gây ấn tượng mạnh cho
tôi. Tinh thần của người lính đích thực là vậy. Vị tướng nào có những người
lính như thế, dù bại trận cũng có quyền tự hào về họ. Họ đã thể hiện khí phách
của người trai nơi chiến trận. Giả thiết nếu phía bên kia chiến thắng chắc chắn
họ sẽ được truy tôn là những người anh hùng lưu danh muôn thủa. Nhưng vận nước
đã đi theo một hướng khác. Họ đành phải chấp nhận tan vào cõi hư vô như hơn 50
thuỷ binh quân lực Việt Nam Cộng Hoà bỏ mình ngoài biển để bảo vệ Hoàng Sa.
…
Nghe tiếng súng nổ ran, tôi cắt rừng chạy đến nơi có tiếng súng. Đấy là ấp Tân
Lập thuộc huyện Cao Su tỉnh Đồng Nai bây giờ. ấp nằm giữa cánh rừng cao su cổ
thụ. Đạn súng đại liên của các anh bộ đội cụ Hồ vãi ra như mưa. Là phân đội trưởng
trinh sát, tôi dễ dàng nhận ra tiếng nổ từng loại vũ khí bằng kỹ năng nghiệp vụ.
Chuyện gì thế này? Tôi căng mắt quan sát. Địch đâu chẳng thấy, chỉ thấy những
người dân lành bị bắn đổ vật xuống như ngả rạ. Máu trào lai láng, tiếng kêu
khóc như ri. Lợi dụng vật che đỡ, tôi ngược làn đạn tiến gần tới ổ súng đang khạc
lửa.
-
Đừng bắn nữa! Tôi đây! Thạch trinh sát tiểu đoàn 8 đây!
Nghe
tiếng tôi, họng súng khạc thêm mấy viên đạn nữa mới chịu ngừng.
Tôi
quát:
-
Địch đâu mà các ông bắn dữ thế? Tý nữa thì thịt cả mình.
Mấy
ông lính trẻ tròn mắt nhìn tôi ngơ ngác. Họ trả lời tôi:
-
Anh ơi! đây là lệnh.
-
Lệnh gì mà lệnh, các ông mù à? Toàn dân lành đang chết chất đống kia kìa!
-
Anh không biết đấy thôi. Cấp trên lệnh cho bọn em “giết lầm hơn bỏ sót”. Bọn em
được phổ biến là dân ở đây ác ôn lắm!
-
Tôi mới từ đằng kia lại, không có địch đâu. Các ông không được bắn nữa để tôi
kiểm tra tình hình thế nào. Có gì tôi chịu trách nhiệm!
Thấy
tôi cương quyết, đám lính trẻ nghe theo. Tôi quay lại phía hàng trăm người bị
giết và bị thương. Họ chồng đống lên nhau máu me đầm đìa, máu chảy thành suối.
Một cụ già bị bắn nát bàn tay đang vật vã kêu lên đau đớn. Tôi vực cụ vào bóng
mát rồi dật cuốn băng cá nhân duy nhất bên mình băng tạm cho cụ. Lát sau tôi
quay lại thì cụ đã tắt thở vì máu ra quá nhiều. Một chỗ thấy 5 người con gái và
5 người con trai bị bắn chết châu đầu vào nhau. Tôi hỏi người lính trẻ đi theo
bên cạnh:
-
Ai bắn đấy?
-
Đại đội phó Hường đấy anh ạ!
Lại
nữa, tôi ngó vào cửa một gia đình, cả nhà đang ăn cơm, anh bộ đội cụ Hồ nào đó
đã thả vào mâm một quả lựu đạn, cả nhà chết rã rượi trong cảnh cơm lộn máu. Tôi
bị sốc thực sự. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ “Đi dân nhớ ở dân thương” mà thế này
ư? Cứ bảo là Mỹ nguỵ ác ôn chứ hành động dã man này của chúng ta nên gọi là gì?
Tâm trạng tôi lúc đó như có bão xoáy. Mặc dù vậy, tôi vẫn nhận ra ngay những việc
cân làm. Tôi tập trung những người sống sót lại. Bảo chị em Phụ nữ và trẻ con
ra rừng tổ chức ăn uống nghỉ tạm.
Cốt là không cho mọi người chứng kiến lâu cảnh
rùng rợn này. Đàn ông từ 18 đến 45 tuổi có nhiệm vụ ra sau ấp đào cho tôi một
cái hố. Trong ấp ai có xe ô tô, xe lam, máy cày phải huy động hết để chở người
bị thương đi viện. Mọi người đồng thanh:
-
Xe thì có nhưng dọc đường sợ bị bộ đội giải phóng bắn lắm!
-
Không lo, có tôi đi cùng!
Tôi
giao cho Nghê, một du kích dẫn đường vừa có bố bị bộ đội cụ Hồ sát hại:
-
Việc lỡ như thế rồi, chú nén đau thương lại giúp anh. Thu hồi căn cước tư trang
của những người đã chết sau này còn có việc cần đến.
Thế
là suốt chiều hôm đó, tôi lấy một miếng vải đỏ cột lên cánh tay trái. Lăm lăm
khẩu AK ngồi trên chiếc xe dẫn đầu đoàn lần lượt chở hết người bị thương ra bệnh
viện Suối Tre. Tối hôm ấy, tôi cho chuyển hết xác người bị chết ra cái hố đã
đào. Không còn cách nào khác là phải chôn chung. Trưa ngày hôm sau người ta mới
dám lấp. Đây là ngôi mộ tập thể mà trong hoàn cảnh ấy tôi buộc lòng phải xử lý
như vậy.
Trời nắng gắt, để bà con phơi thây mãi không được. Một nấm mồ chung
hàng trăm người lẫn lộn, không hương khói, không gì hết. Tôi cho dọn vệ sinh sạch
sẽ những chỗ mọi người bị tàn sát. Xong, mới dám cho đám phụ nữ và trẻ con ở
ngoài rừng về. Tôi vượt mặt cả cấp trên để làm việc theo tiếng gọi lương tâm của
mình. Bằng mọi lỗ lực có thể để cứu giúp đồng bào. Tưởng thế là tốt, sau này
nghĩ lại mới thầy hành động của mình giống như sự phi tang tội ác cho những anh
bộ đội cụ Hồ. Thú thật lúc ấy tôi vẫn còn một phần ngu tín. Cũng muốn bảo vệ
danh dự cho đội quân lính cụ Hồ luôn luôn được ca ngợi là tốt đẹp. Tuy vậy tôi
bắt đầu nghi ngờ “Tại sao người ta giết người la liệt rồi bỏ mặc. Chẳng lẽ
họ mất hết nhân tính rồi sao?”
Công
việc xong tôi gặp Nghê để chia buồn. Tôi không tránh khỏi cảm giác tội lỗi.
Nghê đã đưa xác bố về chôn tạm ở nhà bếp. Tội nghiệp Nghê quá. Lặn lội đi theo
cách mạng, ngày Nghê dẫn bộ đội về giải phóng ấp lại là ngày bộ đội cụ Hồ giết
chết bố Nghê. Nghê “mừng chưa kịp no” đã phải chịu thảm cảnh trớ trêu đau đớn.
Nghê buốn rầu nói với tôi:
-
Hôm qua nghe lời anh. Em thu được hai nón đồng hồ, tư trang và căn cước của những
người bị giết. Sau đó có một anh bộ đội bảo đưa cho anh ấy quản lý. Em giao lại
hết cho anh ấy để lo việc chôn ba.
-
Em bị thằng cha nào đó lừa rồi. Thôi quên chuyện đó đi em ạ. Anh thành thật
chia buồn với em. Chiến tranh thường mang đến những điều không may tột cùng đau
đớn mà chúng ta không thể lường trước được. Anh cũng đang cảm thấy có lỗi trong
chuyện này.
*
* *
….
Đã mấy chục năm qua, khi hàng năm, khắp nơi tưng bừng kỷ niệm chiến thắng 30/4
thì tôi lại bị ám ảnh nhớ về hàng trăm dân lành bị tàn sát ở ấp Tân Lập. Cái hố
chôn người bây giờ ra sao? Người ta sẽ xử lý nó như thế nào hay để nguyên vậy?
Tôi muốn được quay lại đó để thắp nén hương nói lời tạ tội. Vô hình dung việc
làm tốt đẹp của tôi đã giúp cho người ta bưng bít tội ác.
Không! Người dân ấp
Tân Lập sẽ khắc vào xương tủy câu chuyện này. Nỗi đau đớn oan khiên lúc đấy
chưa thể phải nhòa được. Còn những người tham gia cuộc tàn sát ấy nữa, có lẽ họ
cũng vô cùng dằn vặt khi nhận những tấm huân chương do Đảng và Nhà nước trao tặng
sau ngày chiến thắng. Ý nghĩ ấy giúp tôi dũng cảm kể lại câu chuyện bi thương
này.
Sau
ngày giải phóng Miền Nam 30/04/1975 tôi có chụp một kiểu ảnh đang cởi áo, lột
sao dang dở. Tôi đem tặng cho một thằng bạn đồng hương chí cốt. Hắn run người,
mặt tái mét:
Tao không dám nhận đâu, họ phát hiện ra tấm ảnh này quy cho phản động là chết cả
lũ!.
Bạn
tôi sợ là đúng. Vì cậu ta là Đảng viên. Nhưng điều bạn ấy không hiểu là tôi làm
vậy vì cảm thấy hổ thẹn và nhục nhã cho anh bộ đội cụ hồ khi nghĩ tới vụ thảm
sát ở ấp Tân Lập…
Trần
Đức Thạch
Cựu
phân đội trưởng trinh sát
Tiểu đoàn 8 – Trung đoàn 266
Sư đoàn 341 – Quân đoàn 4
Tiểu đoàn 8 – Trung đoàn 266
Sư đoàn 341 – Quân đoàn 4
TIN TƯC TRONG NGOÀI
Nghe bài này
Tải xuống - download
Hồi trung tuần tháng tư vừa qua, Nghị viện Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ lại có lên án về tình hình vi phạm nhân quyền tại Việt Nam; tuy nhiên Việt Nam luôn bác bỏ những lên án như thế.
Tải xuống - download
Hồi trung tuần tháng tư vừa qua, Nghị viện Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ lại có lên án về tình hình vi phạm nhân quyền tại Việt Nam; tuy nhiên Việt Nam luôn bác bỏ những lên án như thế.
Thực tiễn
Hiện còn một số người có các hoạt động vì tự do, dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam đang bị giam giữ.
Chúng tôi xin phép nêu lên hai trường hợp mà gia đình đang rất lo
lắng. Đó là trường hợp của ông Ngô Hào ở tại tỉnh Phú Yên. Ông này bị
bắt từ hồi ngày 28 tết, tức ngày 8 tháng 2 vừa qua. Đến nay, gia đình
vẫn chưa nhận được bất cứ một văn bản nào từ phía cơ quan chức năng.
Trong khi đó, một người con của ông Ngô Hào, là Ngô Minh Tâm theo học
tại Sài Gòn, cũng bị cơ quan an ninh làm việc liên tục từ thời gian sau
tết cho đến nay.
Bà Nguyễn Thị Kim Lan, vợ của ông Ngô Hào, vào ngày 23 tháng 4 vừa qua cho biết thông tin liên quan:
“Từ đó đến nay không có thông tin gì hết. Gia đình hỏi cơ quan
chức năng thì cơ quan chức năng nói ông bị vi phạm như vậy nên không
được gặp. Họ không cho mình biết thông tin gì, hay lý do gì hết. Hằng
tháng họ chỉ cho gửi đồ ăn vào thôi, ngoài ra mình không biết gì hết. Từ
ngày bắt đi rồi, họ không hỏi, không nói gì với gia đình hết trơn hết
trọi. Chỉ có cháu Tâm bị điều tra tới, điều tra lui. Người ta điều tra
những điều mà cháu có liên quan đến ba cháu. Hồi trong tết chưa bắt ba
cháu, cháu cũng bị gọi…Khi tết về nhà, hai cha con ai cũng bị bệnh hết.
Cháu mệt mỏi nói làm việc gì mãi, không học gì được. Nay công an ngoài
quê vào là, việc, củng cố hồ sơ. Tôi ở nhà rất đau khổ, thấp tha thấp
thỏm, sợ không biết nó có bị bắt hay không.”
Một trường hợp khác nữa là gia đình luật sư Lê Quốc Quân. Ông này bị
bắt giam từ ngày 27 tháng 12 năm ngoái với cáo buộc trốn thuế. Trước đó
một người em của ông này là doanh nhân Lê Đình Quản cũng bị bắt. Rồi một
người bà con là Nguyễn Thị Oanh làm việc trong công ty cũng bị mời đi
thẩm vấn.
Anh Lê Quốc Quyết, em của luật sư Lê Quốc Quân, cho biết về tình hình
của luật sư Lê Quốc Quân, doanh nhân Lê Đình Quản hiện nay và một người
thân làm việc trong công ty là cô Oanh như sau:
“Hôm thứ hai tôi đi gửi đồ thì tiếp tục bị cắt (thăm nuôi) lần thứ
hai. Đợt trước bị cắt một lần rồi, nhưng cắt một kỳ thôi, còn đợt này
cắt hai kỳ liên tục. Tôi hỏi lý do gì thì họ nói vi phạm nội qui trại.
Đòi văn bản thì họ không đưa ra, họ chỉ nói trong báo ra ‘vi phạm’ thôi.
Họ nói vi phạm nội qui. Luật sư trong lần tiếp xúc gần đây nhất là thứ
năm tuần rồi, luật sư được biết anh Quân phản đối việc mặc áo tù, và thứ
hai phản đối bản cáo trạng vì anh cho là ra một cách vội vã và hoàn
toàn vu khống cho anh, nên anh phản đối bản cáo trạng. Việc phản đối bản
cáo trạng thì không liên quan nội qui trại mà chỉ liên quan việc phản
đối mặc áo tù thôi.
Mặc dù đã có cáo trạng, nhưng chưa có lịch xử anh Quân. Luật sư tiếp tục bị cản trở: chưa tiếp xúc được hồ sơ, chưa photo được hồ sơ, với lại đặc biệt mỗi lần lên Viện Kiểm Soát, họ lại chuyển lên tòa; lên tòa họ lại đòi chứng nhận ‘lung tung’. Luật sư Hà Huy Sơn đến giờ vẫn chưa nhận được giấy chứng nhận của tòa; luật sư Trần Thu Nam không biết thế nào!; hình như có giấy chứng nhận rồi.
Mặc dù đã có cáo trạng, nhưng chưa có lịch xử anh Quân. Luật sư tiếp tục bị cản trở: chưa tiếp xúc được hồ sơ, chưa photo được hồ sơ, với lại đặc biệt mỗi lần lên Viện Kiểm Soát, họ lại chuyển lên tòa; lên tòa họ lại đòi chứng nhận ‘lung tung’. Luật sư Hà Huy Sơn đến giờ vẫn chưa nhận được giấy chứng nhận của tòa; luật sư Trần Thu Nam không biết thế nào!; hình như có giấy chứng nhận rồi.
Trường hợp của Quản, luật sư đã tiếp xúc được lần thứ hai. Quản đã
bị giam gần 6 tháng rồi. Và hình như phải gia hạn thêm hai tháng nữa.
Quản thông báo với luật sư là chưa ký nhận giấy gia hạn tạm giam, và gia
đình cũng chưa nhận được gì. Oanh mang thai được 29 tuần, và đúng cách
đây một tuần, Oanh thấy cháu không đạp nữa, đi khám thì tim thai ngừng
rồi. Vào đúng một tuần, hôm nay mới đưa cháu ra được. Bác sĩ chưa kết
luận về nguyên nhân; nhưng rõ ràng cháu bé có vấn đề không chịu được nên
mất trong bụng mẹ như vậy. Oanh mang thai đến tháng thứ ba thì bị giam
và giam đến hai tháng sau mới thả ra.
Có một việc rất đau lòng đó là tôi vừa đi đưa tang cháu bé con của Oanh về. “
Lên án
Trường hợp của luật sư Lê Quốc Quân được nêu ra trong phúc trình
thường niên của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ hồi ngày 19 tháng 4 vừa qua; theo
đó tình hình nhân quyền của Việt Nam trong năm qua xấu đi chứ không tiến
triển gì.
Theo phúc trình của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ thì cơ quan chức năng Việt
Nam đã hạn chế quyền tự do bày tỏ ý kiến, thông qua những qui định luật
pháp mơ hồ về an ninh quốc gia để bỏ tù những người bất đồng chính kiến,
sách nhiễu những người hoạt động và gia đình của họ. Tất cả những việc
làm đó của cơ quan chức năng Việt Nam bất chấp yêu cầu tinh thần thượng
tôn pháp luật.
Hôm ngày 12 tháng tư vừa qua, đại diện phía Việt Nam và Hoa Kỳ cũng
gặp nhau trong vòng đối thoại nhân quyền Việt- Mỹ lần thứ 17. Lẽ ra hoạt
động này đã diễn ra hồi cuối năm ngoái, nhưng bị hoãn lại cho đến ngày
12 tháng tư vừa rồi.
Phái đoàn Hoa Kỳ dự đối thoại nhân quyền Việt- Mỹ tại Hà Nội muốn
được gặp hai người từng công khai lên tiếng đấu tranh cho dân chủ, nhân
quyền tại Việt Nam là bác sĩ Phạm Hồng Sơn và luật sư Nguyễn Văn Đài,
thế nhưng cả hai người đã bị ngăn chặn.
Vào ngày 18 tháng 4, Nghị Viện Liên Minh Châu Âu thông qua nghị quyết
lên án nhà cầm quyền Hà Nội vi phạm nhân quyền, quyền tự do tôn giáo,
tự do ngôn luận. Nghị quyết được sự nhất trí của 6 chính đảng, chỉ có
một đảng là đảng cực tả bỏ phiếu trắng.
Bác bỏ
Ngay sau khi có nghị quyết của Nghị Viện Châu Âu và phúc trình thường
niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về vấn đề nhân quyền của Hà Nội, người
phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng bác bỏ cho rằng cả hai có cái
nhìn sai lệch về tình hình nhân quyền tại Việt Nam.
Tờ Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong một
bài xã luận đăng vài ngày trước khi diễn ra kỳ đối thoại nhân quyền
Việt- Mỹ lần thứ 17, nêu ra câu hỏi liệu ông Daniel Baer không thấy rằng
nếu xem xét vấn đề nhân quyền tại Việt Nam qua nhãn quan của những
người Mỹ gốc Việt chống Cộng có phải là cực đoan hay không!
Cũng như những lần khác khi được hỏi về việc bắt giữ những người bất
đồng chính kiến, cơ quan chức năng Việt Nam cũng như các quan chức đều
cho rằng những người đó vi phạm pháp luật Việt Nam. Trong khi ấy, thì
những người trong cuộc đều cho rằng họ hành xử các quyền công dân đã
được qui định trong Hiến pháp Việt Nam.
Ý kiến
(1)
G.s J.London: “Việt Nam phải cải cách chính trị để được quốc tế ủng hộ về Biển Đông”
Giáo
sư Jonathan London trả lời báo chí Việt Nam tại hội thảo “Chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - Khía cạnh lịch sử và pháp lý”
ngày 27/4/2013.
Ảnh chụp qua màn hình TV
Hôm qua, 27/04/2013, Trường Đại học Phạm Văn Đồng tại Quảng Ngãi đã tổ chức một hội thảo quốc tế với chủ đề “Chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - Khía cạnh lịch sử và pháp lý”,
với sự tham gia của nhiều chuyên gia Việt Nam và ngoại quốc, trong số
này có giáo sư Jonathan London, Trường Đại học Hồng Kông.
Ông J. London đến dự hội thảo để trình bày một tham luận viết
chung với chuyên gia kinh tế Vũ Quang Việt. Điều mà hai tác giả nhấn
mạnh đó là, để được quốc tế ủng hộ mạnh mẽ trong vấn đề chủ quyền Biển
Đông, Việt Nam một mặt phải quảng bá nhiều hơn nữa các bằng chứng pháp
lý và lịch sử, nhưng mặt khác phải chấp nhận cải cách chính trị trong
nước, thực thi dân chủ và nhân quyền. Từ Quảng Ngãi, giáo sư London trả
lời phỏng vấn RFI:
Ai cũng biết là tình hình Biển Đông hiện nay rất phức tạp và Việt Nam hiện nay dù có những cơ sở pháp lý mạnh hơn so với Trung Quốc nhiều, nhưng vấn đề đặt ra là làm sao khai thác được sự ủng hộ của quốc tế. Nhiều khi Việt Nam không tỏ ra hiệu quả lắm về vấn đề quảng bá những thông tin về tranh chấp ở Biển Đông, nên tôi đề nghị là trong thời gian tới, Việt Nam nên tập trung vào việc làm rõ về những bằng chứng mà Việt Nam hiện có về tranh chấp Biển Đông.
Trong bài mà tôi viết cùng Vũ Quang Việt, chúng tôi nhấn mạnh là vấn đề tranh chấp Biển Đông có liên quan đến chính trị trong nước. Để nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế và để khai thác sự ủng hộ của quốc
tế đối với vấn đề tranh chấp Biển Đông, Việt Nam phải cố gắng giải quyết
những hồ sơ nổi bật về chính trị trong nước, như vấn đề đàn áp, bắt
giữ, thiếu tự do ngôn luận... Những vấn đề nhân quyền ấy là những trở
ngại, tức là không ai mà muốn ủng hộ Việt Nam, hoặc ít người ủng hộ, nếu
họ thấy là hành vi của các lãnh đạo Việt Nam không hợp với những tiêu
chuẩn quốc tế về nhân quyền.
Lãnh đạo Việt Nam hiện nay sợ theo Mỹ thì mất chế độ, theo Trung Quốc thì mất nước, nhưng theo tôi, có thể có phương án thứ ba, đó là phải cải cách. Chính vì thế chúng tôi có nói là lãnh đạo Việt Nam nên chấp nhận một số nội dung của nhóm 72 ( trí thức nhân sĩ), mà vừa qua đã đề nghị một số thay đổi về Hiến pháp.
Những nước khác có tranh chấp với Trung Quốc như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đài Loan dễ dàng có sự ủng hộ của quốc tế. Tất nhiên lịch sử của những nước đó hoàn toàn khác với Việt Nam, nhưng vì trong những nước đó có cơ chế dân chủ, có nhân quyền, có tự do ngôn luận. Rất nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là Mỹ và châu Âu rất nhiệt tình ủng hộ, nếu họ có những cơ sở pháp lý vững chắc như Việt Nam có.
Dù Việt Nam có những bằng chứng rất vững chắc về chủ quyền Biển Đông, nhiều nước như Mỹ và châu Âu rất ngại ủng hộ mạnh mẽ, chính bởi vì những vấn đề chính trị của Việt Nam.
Đến hội thảo, tôi rất nhiệt tình và chia sẽ ý kiến với những người dự hội thảo. Tôi rất hài lòng và đánh giá cao kết quả hội thảo. Có rất nhiều thảo luận sôi nổi và hay. Điểm mà tôi cố gắng nhấn mạnh là muốn có sự ủng hộ của quốc tế thì Việt Nam phải cải cách sâu rộng chính trị.
Ai cũng biết là tình hình Biển Đông hiện nay rất phức tạp và Việt Nam hiện nay dù có những cơ sở pháp lý mạnh hơn so với Trung Quốc nhiều, nhưng vấn đề đặt ra là làm sao khai thác được sự ủng hộ của quốc tế. Nhiều khi Việt Nam không tỏ ra hiệu quả lắm về vấn đề quảng bá những thông tin về tranh chấp ở Biển Đông, nên tôi đề nghị là trong thời gian tới, Việt Nam nên tập trung vào việc làm rõ về những bằng chứng mà Việt Nam hiện có về tranh chấp Biển Đông.
Trong bài mà tôi viết cùng Vũ Quang Việt, chúng tôi nhấn mạnh là vấn đề tranh chấp Biển Đông có liên quan đến chính trị trong nước. Để nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế và để khai thác sự ủng hộ của quốc
Lãnh đạo Việt Nam hiện nay sợ theo Mỹ thì mất chế độ, theo Trung Quốc thì mất nước, nhưng theo tôi, có thể có phương án thứ ba, đó là phải cải cách. Chính vì thế chúng tôi có nói là lãnh đạo Việt Nam nên chấp nhận một số nội dung của nhóm 72 ( trí thức nhân sĩ), mà vừa qua đã đề nghị một số thay đổi về Hiến pháp.
Những nước khác có tranh chấp với Trung Quốc như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đài Loan dễ dàng có sự ủng hộ của quốc tế. Tất nhiên lịch sử của những nước đó hoàn toàn khác với Việt Nam, nhưng vì trong những nước đó có cơ chế dân chủ, có nhân quyền, có tự do ngôn luận. Rất nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là Mỹ và châu Âu rất nhiệt tình ủng hộ, nếu họ có những cơ sở pháp lý vững chắc như Việt Nam có.
Dù Việt Nam có những bằng chứng rất vững chắc về chủ quyền Biển Đông, nhiều nước như Mỹ và châu Âu rất ngại ủng hộ mạnh mẽ, chính bởi vì những vấn đề chính trị của Việt Nam.
Đến hội thảo, tôi rất nhiệt tình và chia sẽ ý kiến với những người dự hội thảo. Tôi rất hài lòng và đánh giá cao kết quả hội thảo. Có rất nhiều thảo luận sôi nổi và hay. Điểm mà tôi cố gắng nhấn mạnh là muốn có sự ủng hộ của quốc tế thì Việt Nam phải cải cách sâu rộng chính trị.
ĐOÀN VƯƠNG THANH * NỖI BUỒN THÁNG TƯ
Nỗi buồn tháng Tư
Đoàn Vương Thanh
Ngày
30 tháng Tư năm 1975, gần như toàn thể cán bộ nhân viên cơ quan tôi đều
có mặt, ai cũng ngóng chờ tin chiến thắng từ Thông Tấn xã Giải phóng
truyền ra. Ông trưởng phòng Hành chính cơ quan không biết chuẩn bị từ
bao giờ đã có một tràng pháo (hồi đó chưa cấm pháo) dài từ nóc ngôi nhà
bốn tầng cũ của cơ quan chấm đất, chỉ chờ tin thắng trận là châm lửa.
Xem ra, ông ta nóng lòng nóng ruột lắm.
11 giờ 15 phút, ông trưởng phòng đứng sẵn cạnh dây pháo. Anh em xúm quanh, ai cũng không giấu nổi niềm vui.
Đúng 11 giơ 29 phút, có tin từ miền Nam, quân ta đã tiến vào Dinh Độc
lập. Một sĩ quan của ta dang cầm cờ nửa đỏ nửa xanh chạy như bay lên
tầng cao của Dinh Thống Nhất. Pháo đã châm lửa. Tiếng nổ giòn giã và làn
khói xanh của pháo trùm một nửa ngôi nhà làm việc bốn tầng. Vui, vui
không để đâu hết vui.
Nhưng tưởng sau ngày đó, nhân
dân ta ở cả hai miền phải được vui hơn gấp bội, nhưng càng ngày càng
thấy băn khoăn và càng thấy buồn, buồn đến nỗi ngay Nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm, một dạo là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban văn hóa tư tưởng trung
ương, phải thốt ra rằng “Những năm tháng thật buồn” .
Tôi rất thích đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm, trong đó có bài Khúc hát ru những em bé ngủ trên lưng mẹ...Tôi
đồng cảm nỗi buồn của Nguyễn Khoa Điềm và nỗi buồn của nhiều nhà văn,
nhà thơ đã từng có thời gian lăn lộn trên các chiến trường ác liệt, nỗi
buồn của nhiều ông tướng, ông Bộ trưởng về hưu hoặc sắp về hưu, cả nỗi
buồn mất đất của nông dân, nỗi buồn một số trí thức muốn góp ý vào xây dựng Hiến pháp mới bị coi là “trí thức rởm” “suy thoái”, nỗi buồn của học sinh sinh viên đang thụ hưởng một nền giáo dục bế tắc…
Còn trong hệ thống chính trị, không thiếu những kẻ bất tài vô học, chỉ đua đòi ăn chơi trác táng…Lại con gái, con trai mấy vị vào hàng
“nguyên thủ” xây “khách ạn 5 sao”, du học nước nước ngoài, chỉ suốt
ngày gái gú, chơi game…Khi cần thì vẫn có thể xếp vào những cai ghế êm
ru hái ra tiền. Con gái một vị to đầu tư cho một khu đô thị sinh thái
chiếm đoạt 500 ha đất canh tác của nông dân, nay không rõ ôm tiền đi
đâu. Đặc biệt, những thông tin về nhóm lợi ích, về phe phái này “chiến
đấu” với phái kia, dường như “một mất một còn”. Một số vị ở vị trí cao
của đất nước vẫn có những hành xử không đẹp đẽ chút nào, vẫn vì động cơ
cá nhân ích kỷ…
Vì sao, đất nước sau gần 40 năm
được thống nhất, có độc lập, hòa bình mà vẫn có mấy chục vạn phụ nữ trẻ
phải “trần như nhông” để “bọn nước ngoài” lựa chọn để cưới làm vợ. Ai đã
cấp hộ chiếu cho gần 30 vạn phụ nữ sang Hàn Quốc, Đài Loan “tìm chồng”,
“lấy chồng”, trong nước còn có đến 30 vạn gái điểm và một lũ “đĩ quý
tộc”?..
Ông Nguyễn Phú Trọng Tổng Bí thứ
của Đảng, đã dũng cảm thừa nhận “đi đến đâu cũng thấy người hư hỏng…” mà
lại chính là những người của ông, đã được rèn luyện phấn đấu nhiều năm.
Bộ máy chính quyền vừa đông vừa không được việc, vừa nhiều vừa quan
liêu. Cơ quan hành chính thì hành dân là chính, dân khiếu nại theo luật
định thì bị ghép vào tội làm mất trật tự xã hội. Một ông già 76 tuổi bị
người ta “cúp” mất lương hưu, hai vợ chồng già sống bằng tiền bế cháu
thuê của bà vợ vốn là giáo viên về hưu…Bao nhiêu chuyện cám cảnh mà bất
kỳ ở đâu cũng có…
Tháng Tư, có ngày đại thắng,
giang sơn thu về một mối, đất nước thống nhất, lẽ ra người dân phải được
tưng bừng vui như tết mà sao có nhiều nỗi buồn dai dẳng ?
Tác giả gửi cho Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả
…………………………………………………………..
Đoàn Vương Thanh, tức Nguyễn Thanh Hà, 79 tuổi, cựu phóng viên TTXVN,
ĐT 0166 83 83 020 và 0321 6295 440. Email: nguyenthanhhahy@gmail.com
QUÊ CHOA
Đoàn Vương Thanh, tức Nguyễn Thanh Hà, 79 tuổi, cựu phóng viên TTXVN,
ĐT 0166 83 83 020 và 0321 6295 440. Email: nguyenthanhhahy@gmail.com
QUÊ CHOA
BÙI MINH QUỐC * TỔ QUỐC Ô NHỤC
Tổ quốc bao giờ nhục thế này chăng?
Nương theo ý và giọng thơ “Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ? ” của Chế Lan ViênBùi Minh Quốc
BMQ: Nhân đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn”
của nhà thơ – chiến sĩ Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ “Điềm ơi!” của nhà
thơ – chiến sĩ Lê Duy Phương trên Quê choa của nhà văn – chiến sĩ Nguyễn
Quang Lập, trân trọng gửi đến các đồng nghiệp đồng đội chiến sĩ – nghệ
sĩ trong Hội nhà văn Việt Nam bài thơ dưới đây của tôi, kính nhờ blog
Quê choa cùng các trang mạng bốn phương công bố giùm, chân thành cám ơn.
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn nămTổ Quốc bao giờ nhục thế này chăng ?*
Hãy trông kìa !
Hãy trông kìa !
Bọn thẻ – đỏ – tim – đen tiếm quyền hóa giặc
Bịt biệng người kêu nỗi đau Ải Bắc
Bóp cổ người thét nỗi nhục Hoàng Sa
Sông có nghe nỗi nhục chuyển sơn hà ?
Hãy trông kìa !
Hãy trông kìa !
Bọn thẻ – đỏ – tim – đen tiếm quyền hóa giặc
Một lũ sói nhe nanh kết bầy nhâng nháo khắp
Móc túi dân
Cướp đất dân
Bóp cổ dân
Nỗi oan dâng núi thét sông gầm !…
Hỡi sông Hồng
Hỡi sông Hồng
Hỡi sông Hồng tiếng thét bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao giờ nhục thế này chăng ?
Đà Lạt 12.09.2008
_________
* Bài “Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ? ” của Chế Lan Viên có 2 câu mở đầu :
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?
QUÊ CHOA
TRẦN MẠNH HẢO * ĐẤT NƯỚC Ô NHỤC
Đất nước có bao giờ buồn thế này chăng?
Trần Mạnh Hảo
QUÊ CHOA
Lời mào đầu của tác giả: Tôi viết bài thơ này sau khi đọc bài thơ “ Đất nước những tháng năm thật buồn” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Xin cám ơn nhà văn Nguyễn Quang Lập đã đăng bài thơ này trên trang web Quê choa ngay sau khi tác giả gửi đến. ( tại đây)
Cũng xin cám ơn nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm đã gợi hứng cho tôi viết bài thơ “Đất nước có bao giờ
buồn thế này chăng ?”. Nguyễn Khoa Điềm thế hiện trong bài thơ “ Đất
nước những năm tháng thật buồn” là một con
người cô đơn tuyệt đối trong một xã hội mà đảng cộng sản muốn tập thể
hóa cả tấm hồn con người. Sao trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa vui
hơn tết này mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại thấy đất nước mình buồn thảm
dường ấy ? Những câu thơ tuyệt hay mà nhà thơ rút ra từ gan ruột đã làm
tôi choàng váng :
Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm
Sớm mai còn giữ được màu đỏ ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác ?
…
Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người
Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi ?
…
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà
thơ “ thời chống Mỹ” gần như duy nhất còn có thể làm được thơ hay.
Maiacopxki từng nói : “Anh có thể dối em tất cả nhưng trong thơ anh
không thể dối”. Tôi không tin vào những bài thơ nhàn nhạt, tôi chỉ tin
vào thơ hay. Anh Điềm làm thơ hay như thế khiến tôi tin anh đang thành
thật bộc lộ con người cô đơn, con người gần như tuyệt vọng vào một đất
nước đang bị băng hoại như đất nước ta hôm nay. Có khá nhiều người vẫn
lên án nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chỉ vì anh đã từng là ủy viên bộ chính
trị đảng cộng sản Việt Nam phụ trách trưởng ban tuyên giáo…Xin nhắc lại
một câu danh ngôn phương Tây : “ Quyền lực làm tha hóa con người”. Vâng,
đã đi theo ma thì phải mặc áo giấy. Nếu Trần Mạnh Hảo hay nhà thơ Bùi
Minh Quốc… do ma đưa lối qủy dẫn đường mà bỗng dưng vào được bộ chính
trị đảng cộng sản, biết đâu ta lại chẳng sắt máu hơn anh Điềm hồi ấy…,
biết đâu ta vẫn còn diện áo giấy để làm ma văn học ? Hãy để anh Điềm
được quyền làm một nhà thơ công dân, được quyền mặc áo vải, được nói
thật với trang giấy và độc giả bằng những vần thơ nhỏ máu…
Tôi bắt đầu yêu quý lại nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm bằng bài thơ rất hay này của anh…
ĐẤT NƯỚC CÓ BAO GIỜ BUỒN THẾ NÀY CHĂNG ?
Thơ Trần Mạnh Hảo
Đêm trường ma giáo mặt trời đỏ
Những dòng sông là đất nước thở dài
Chó sủa trăng nhà ai ?
Không phải vầng trăng đất nước
Tôi ngồi ngót bảy mươi năm
Chờ một lời nói thật
Bầy sói tru ý thức hệ lang băm
Người nông dân bị cướp đất phải hát bài dân chủ
Đêm đêm thạch sùng tắc lưỡi bỏ đi
Đất nước đang treo trên sợi chỉ mành
Sợi chỉ mành 16 chữ vàng và dối lừa 4 tốt
Có kẻ rước giặc lên bàn thờ
Xì sụp lạy khấn tàn nhang chủ nghĩa
Những giáo điều làm cơm nguội bơ vơ
Xin cứ tự do bán lương tâm cho chó
Vãi linh hồn vào thùng rác nhân dân
Mối mọt ăn rào rào lòng rường cột
Ôi thương thay giẻ rách cũng tâm thần
Anh sẩm bạc đầu dẫn đường dân tộc
Đám gà què bàn hiến pháp cối xay
Đất nước có bao giờ buồn như hôm nay
Những thiên đường vỡ chợ
Những học thuyết đứng đường
Hoàn lương tượng đài
Hoàn lương chân lý
Nghị quyết còn trinh bạch cũng hoàn lương
Không ai đuổi cũng giật mình bỏ chạy
Nhốt hết mây trời vào hiến pháp tự do
Mơ được đứng bên lề đường
Nói một câu gan ruột
Đất nước buồn
Đất nước bị ruồi bu
Đất nước bị cầm tù trong ngực trái
Chưa kịp nghĩ một điều gì
Sao đã toát mồ hôi ?
Có nơi nào buồn hơn đất nước tôi ?
Lý tưởng của loài dơi là muỗi
Dơi bay đêm cho đất nước đỡ buồn
Không ai tin vào hoa hồng nữa
Không ai tin vào dơi nữa
Dơi trở về làm chuột khoét quê hương
Sài gòn 24-4-2013
Tác giả gửi cho Quê Choa
PHẠM TRẦN. *38 NĂM SAU 30-4-1975
38 NĂM SAU 30-4-1975
VIỆT NAM ĐEN TỐI HƠN BAO GIỜ HẾT
Phạm Trần
Cứ tưởng sau 30/4/1975 khi đất nước đã quy về một mối, hết còn chiến tranh thì mọi người Việt Nam ở hai chiến tuyến Bắc-Nam sẽ tay bắt mặt mừng, cùng nhau xây dựng lại Tổ quốc để được sống hạnh phúc, nhưng 38 năm sau lòng người vẫn phân tán, hạnh phúc còn xa tầm tay và đất nước chưa thấy ngày mai.
Đó là thực tế phũ phàng và đáng buồn, không ai muốn thấy
nhưng nó đã xẩy ra và chưa ai biết rồi vận nước và phận mình sẽ đi về đâu.
Sau đây là những nguyên nhân tạo thành bức tranh u ám ấy:
Thứ nhất, đảng cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã mất định hướng, kể từ sau Cuộc cách mạng “Đổi mới hay là chết” 1986 để cứu nguy đất nước dười thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Hy vọng vội vàng muốn đảng “mở cửa chính trị” và “ tư do tư
tưởng” đã bị khoanh lại chỉ sau 2 năm ngắn ngủi.
Ngay cả những bài viết, được người dân và đảng viên hoan nghênh, trong mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân Dân của Tác gỉa
N.V.L. ( Nói Và Làm hay Nguyễn Văn Linh) bàn
về những việc cần phải sửa đổi trong xã
hội và chính quyền cũng bị rút lại.
Đến thời Tổng Bí thư Đỗ Mười, sau Đại hội đảng kỳ VII (27/06/1991), chính sách
bóp nghẹt hà khắc được áp dụng theo Cương lĩnh
gọi là “Xây dựng đất nước trong thời ký qúa độ lên Chủ nghĩa Xã hội”. Kinh tế phát triển
ngập ngừng “nửa nạc nửa mỡ” theo “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tham nhũng
nở rộ. Đảng viên đi chệch hướng, nghi ngờ tính hữu hiệu của Chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh lên cao sau khi các nước Cộng sản Đông Âu
rồi Nga Sô tan rã (từ 1989 đến 1991).
Ông Mười bỏ Nga theo Trung Cộng để được bảo vệ cả về an ninh, kinh tế lẫn lý thuyết chính trị Cộng sản.
Có tin loan truyền rộng rãi ở Việt Nam nói rằng, khi ông Đỗ Mười
sang Thành Đô (Trung Cộng), trong tư cách Chủ tịch Hội đồng Bộ trường (Thủ
tướng) tháp tùng Tổng Bí thư đảng Nguyễn Văn Linh và Cố vấn Phạm Văn Đồng họp
với Tổng Bí thư đảng CS Trung Cộng Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng năm
1990, trước Đại hội đảng CSVN kỳ VII, phía Việt Nam đã ký với Trung Cộng một
thỏa hiệp gọi là “Kỷ yếu hội nghị”,
nhưng cả hai phiá đều “giữ bí mật”.
Ngòai việc hai nước nối lại bang giao sau Hội nghị Thành Đô, sau khi Việt Nam
buộc phải rút quân khỏi chiến trường Cao Miên mà Việt Nam đã xâm lăng tháng
12/1978, đảng CSVN không cho ai biết ba ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm
Văn Đồng đã “thỏa hiệp” với Trung Cộng những gì !
Nhưng từ đó đến nay, Trung Cộng đã công khai “xâm lăng” Việt Nam từ kinh tế, lãnh thổ đến đến chính trị mà Việt Nam chỉ dám phản ứng yếu ớt.
Ông Lê Khả Phiêu thay ông Đỗ Mười
từ Đại hội đảng VIII (28-6-1996), nhưng nội bộ đảng lại rệu
rã thêm với tình trạng tham nhũng gia tăng, kỷ luật kém, nạn chạy chức chạy
quền lên cao. Cán bộ, đảng viên xa đảng và xa cả dân khiến liên hệ được gọi là
“máu thịt” giữa dân và đảng lõang ra.
Vào tháng 2/1999, Ban Chấp hành Trung ương đưa ra Nghị quyết 6 (lần 2) về “một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay ” nhằm xây dựng, chỉnh đốn đảng.
Nghị quyết 1999 viết rằng: “ Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy rmạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố, chỉnh đốn, để ngày càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ.”
Vào tháng 2/1999, Ban Chấp hành Trung ương đưa ra Nghị quyết 6 (lần 2) về “một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay ” nhằm xây dựng, chỉnh đốn đảng.
Nghị quyết 1999 viết rằng: “ Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy rmạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố, chỉnh đốn, để ngày càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ.”
Đến
Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) , sau khi ông
Nguyễn Phú Trọng lên làm Tổng Bí Thư, thì Nghị quyết về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, giống hệt như Nghị quyết 6 (lần 2) của 13 năm trước được chấp
thuận ngày 31/12/2011.
Văn kiện quan trọng này viết : “ Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng
Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm
kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân
dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh
đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.”
Nghị quyết nói rõ rằng : “ Một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí
lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng,
sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền
tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”
Như thế thì đảng CSVN đã “ mất định
hướng” chưa hay vẫn còn nói là mới có “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá”,
chưa đến tình trạng “tự rã đám” hay “tự
ý tan hàng” ?
AI THEO TẦU HƠN AI ?
Thứ hai, nội bộ thì như thế, nhưng
trong quan hệ với Trung Cộng thì ông
Phiêu đã lưu lại vết nhơ không kém hai ông Linh và Mười bao nhiêu.
Dù Việt Nam đã nhiều lần cải chính, nhưng việc nhượng đất ở biên giới và lãnh hải cho Trung
Cộng của “triều đại” Lê Khả Phiêu đã rõ trong 3 “Hiệp ước biên giới trên đất liền” (30/12/1999); “Hiệp định
về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước
trong vịnh Bắc Bộ” và “Hiệp định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc
Bộ” (25/12/2000)
Cụ thể Việt Nam đã mất đất như thế nào
thì hãy nghe lời kể của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ của CSVN
tại Bắc Kinh từ 1974 đến 1989, như sau :
“Đánh ta năm 1979 một mặt gạt bỏ sự hàm ơn của ta đối với những giúp đỡ
trước đây của nhân dân Trung Quốc, mặt khác tự phơi bày ý đồ vụ lợi trong sự
viện trợ cho ta. Khi không đạt được thì trở mặt….Năm 1984, Trung Quốc huy động
một Trung đoàn với hỏa lực mạnh liên tục tấn công bắn giết phân đội quân ta
đóng giữ cao điểm 1.502 ở huyện Vị Xuyên, cuối cùng chiếm lấy cao điểm ấy làm
điểm quan sát từ xa, nhòm vào nội địa ta. Ở biên giới phía Bắc nước ta từ trước
đến nay, dân hai bên đã có những việc xâm canh, xâm cư, dân ta cũng có một số
điểm xâm canh sang đất Trung Quốc, diện tích không đáng kể, dân Trung Quốc xâm
canh, xâm cư sang nước ta tại rất nhiều điểm, tổng diện tích khá lớn. Trong đàm
phán phân định biên giới, Trung Quốc luôn nêu lên “phân định theo hiện trạng”, tranh
luận qua lại, Trung Quốc luôn nêu “nhân nhượng lẫn nhau vì đại cục (?), cuối
cùng Trung Quốc vẫn ăn hơn thì mới chịu. Thác Bản Giốc vốn của ta nay họ chiếm
đứt được một nửa. Xưa Nguyễn Trãi tiễn cha đến tận ải Nam Quan, trước nay
ta vẫn nói đất nước ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, sau đàm phán, biên giới
nước ta tụt lùi xuống mãi đến chợ Tân Thanh, đối diện đã là trụ sở hải quan của
Trung Quốc….”
(17-03-2010, Bauxite Viet Nam)
Sau ông Phiêu, đến phiên ông Nông Đức Mạnh lên
giữ chức Tổng Bí thư liền hai khoá đảng IX và X (từ 22/04/2001 đến 12/01/2011).
Trong 10 năm, ông Mạnh đã để cho Trung
Cộng vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên, mặc dù không có phép của Ủy ban Trung
ương đảng và của Quốc hội. Rất nhiều
Công ty của Trung Cộng đã được ưu tiên “trúng thầu” nhiều dự án kinh tế với gía
rẻ, chiếm nhiều vị trí chiến lược dọc theo bờ biển và dọc theo biền giới, qua
kế họach cho thuê đất rừng dài hạn đến 50 năm !
Về khai thác Bauxite, mặc dù đã bị hàng ngàn người dân, trong số có nhiều Trí thức và chuyên viên Khoáng sản hàng đầu của Việt Nam, kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Nguyên Phó Chủ tịch Nước Bà Nguyễn Thị Bình và Đức cha Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ban Công lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam khuyên can “dừng lại”, đảng vẫn hăm hở thực hiện mà chưa biết lợi hại về an ninh và kinh tế sẽ đưa đất nước đến đâu!
Ngày 24/4/2009, ông Trương Tấn Sang (khi ấy là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư ) đã thay mặt Bộ Chính trị ký Thông báo số 245- TB/TW về Kết luận của Bộ Chính trị về Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025.
Về khai thác Bauxite, mặc dù đã bị hàng ngàn người dân, trong số có nhiều Trí thức và chuyên viên Khoáng sản hàng đầu của Việt Nam, kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Nguyên Phó Chủ tịch Nước Bà Nguyễn Thị Bình và Đức cha Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch Ban Công lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục Việt Nam khuyên can “dừng lại”, đảng vẫn hăm hở thực hiện mà chưa biết lợi hại về an ninh và kinh tế sẽ đưa đất nước đến đâu!
Ngày 24/4/2009, ông Trương Tấn Sang (khi ấy là Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư ) đã thay mặt Bộ Chính trị ký Thông báo số 245- TB/TW về Kết luận của Bộ Chính trị về Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025.
Kết luận viết : “ Chủ
trương thăm dò, khai thác, chế biến bô-xít là chủ trương nhất quán từ Đại hội
IX và Đại hội X của Đảng đến nay. Triển khai các nghị quyết Đại hội, trong 2
nhiệm kỳ, Bộ Chính trị đã nhiều lần bàn và ra các nghị quyết, kết luận để lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm, phục vụ phát
triển kinh tế đất nước nói chung, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Tây
Nguyên nói riêng.
Thực hiện Nghị quyết
của Đảng, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng và phê duyệt Quy hoạch phân vùng thăm
dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm
2025 với bước đi cụ thể và chỉ đạo triển khai 2 dự án khai thác bô-xít, sản
xuất alumin đầu tiên tại Tân Rai (Bảo Lộc, Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắc Nông);
đồng thời, chỉ đạo tìm kiếm, lựa chọn đối tác nước ngoài có năng lực để hợp tác
phát triển kết cấu hạ tầng và đầu tư xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin,
nhôm. Chính phủ đã giao Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam là đơn
vị có kinh nghiệm trong khai thác khoáng sản làm chủ đầu tư thực hiện 2 dự án
và chủ trì đàm phán với các đối tác nước ngoài.”
“Đối tác nước ngòai”, không ai khác hơn chính là nhà thầu Chalieco của Trung Cộng, nước đã thúc ép ông Nông Đức Mạnh phải để cho họ nhảy vào khai thác vì nhu cầu cầu quặng nhôm kỹ nghệ của Bắc Kinh !
MẮC MƯU TRUNG CỘNG ?
“Đối tác nước ngòai”, không ai khác hơn chính là nhà thầu Chalieco của Trung Cộng, nước đã thúc ép ông Nông Đức Mạnh phải để cho họ nhảy vào khai thác vì nhu cầu cầu quặng nhôm kỹ nghệ của Bắc Kinh !
MẮC MƯU TRUNG CỘNG ?
Thứ ba, việc
làm ì ạch của hai nhà máy Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông) đã khiến
nhiều chuyên viên lo ngại sẽ sa lầy như nhiều dự án kinh tế khác có bàn tay
người Trung Quốc dính vào.
Sự lo âu này đã được trả lời bằng việc sản xuất chậm mất 2 năm của Nhà
máy Tân Rai, nhưng sau khi chính phủ quyết định đình chỉ kế họach làm cảng Kê
Gà,Bình Thuận (18/02/2013) vì phương án xây dựng cảng “không mang lại hiệu quả”để xuất khẩu quặng Alumin (sản xuất từ quặng Bauxite)
thì các chuyên viên đã báo động “sẽ thua lỗ nặng” nếu Tập đoàn Than và Khoáng
sản Việt Nam (Vinacomin) cứ “cố
đấm ăn xôi”.
Trong khi Vinacomin tiếp tục cảng cổ ra cãi “sẽ có lời” thì từ Nhà máy Tân Rai (Lâm Đồng) các viên chức của Công ty TNHH MTV nhôm Lâm Đồng (đơn vị quản lý xí nghiệp mỏ tuyển) đã xác nhận tin 20.000 tấn alumin làm ra bị tồn kho chưa biết bán cho ai !
Báo Đất Việt Online ngày 19/04/2013 báo động : “Hàng ế tồn kho, công nhân thiếu việc làm, nợ lương, đường nát … là những điều có thể dễ kể ra khi người ta đến ‘thực mục’ tại tổ hợp bauxite nhôm Tân Rai (Bảo Lâm, Lâm Đồng).”
Báo này viết : “ Đã 3 ngày qua, hơn 50 tài xế lái các loại xe đào, xe múc và xe ủi thuộc phân xưởng thi công cơ giới (Xí nghiệp mỏ tuyển bôxit Tân Rai) đã đồng loạt ngưng làm việc để phản đối các chính sách về định mức xăng dầu, tiền lương và thiếu việc làm khiến họ phải nghỉ triền miên.
Trong khi Vinacomin tiếp tục cảng cổ ra cãi “sẽ có lời” thì từ Nhà máy Tân Rai (Lâm Đồng) các viên chức của Công ty TNHH MTV nhôm Lâm Đồng (đơn vị quản lý xí nghiệp mỏ tuyển) đã xác nhận tin 20.000 tấn alumin làm ra bị tồn kho chưa biết bán cho ai !
Báo Đất Việt Online ngày 19/04/2013 báo động : “Hàng ế tồn kho, công nhân thiếu việc làm, nợ lương, đường nát … là những điều có thể dễ kể ra khi người ta đến ‘thực mục’ tại tổ hợp bauxite nhôm Tân Rai (Bảo Lâm, Lâm Đồng).”
Báo này viết : “ Đã 3 ngày qua, hơn 50 tài xế lái các loại xe đào, xe múc và xe ủi thuộc phân xưởng thi công cơ giới (Xí nghiệp mỏ tuyển bôxit Tân Rai) đã đồng loạt ngưng làm việc để phản đối các chính sách về định mức xăng dầu, tiền lương và thiếu việc làm khiến họ phải nghỉ triền miên.
Anh Nguyễn Đình Đề (tài xế xe ủi) phản ánh,
anh đã làm việc ở đây đã sáu năm liền. Từ đó đến nay, anh và nhiều anh em khác
chỉ được hưởng lương theo khối lượng công việc. Trong khi đó việc làm thì thất
thường, mỗi tháng chỉ làm việc khoảng 16 ngày công.
Cũng theo anh Đề, từ đầu năm 2013 đến nay,
lương của anh em rất thấp. Tháng 1, anh Đề chỉ nhận được gần 1,1 triệu đồng và
tháng 2 là 1,2 triệu đồng, hiện vẫn chưa nhận được lương tháng 3. Định mức xăng
dầu dùng cho các đầu xe ngày càng xuống thấp khiến tài xế lâm vào cảnh nợ nần.”
Ông Nguyễn
Văn Thắng, phó tổng giám đốc Công ty TNHH MTV nhôm Lâm Đồng nói : “Nhà máy tuyển quặng và nhà máy sản xuất
alumin đang chạy theo công suất không tương xứng nhau. Nhà máy tuyển quặng đã
bàn giao nên sản xuất hết công suất, còn nhà máy alumin thì đang chạy thử nên
chỉ chạy 50% công suất”.
Hiện tại, kho của nhà máy tuyển quặng đang
tồn 40.000 tấn quặng tinh, nhà máy alumin tồn kho 20.000 tấn do chưa bán được.
Hiện nhà máy alumin vẫn tiếp tục hoạt động, mỗi ngày sản xuất khoảng 1.000 tấn.
Ông Thắng cho biết hiện sản phẩm alumin chỉ
mới được tiêu thụ trong nước với số lượng rất ít và chưa có hợp đồng xuất khẩu.
Dự kiến đến tháng 6/2013 toàn bộ tổ hợp mới được bàn giao từ nhà thầu Chalieco
(Trung Quốc). Khi việc kinh doanh sản phẩm alumin đi vào ổn định, hạn chế tồn
kho thì 1.300 công nhân tại tổ hợp bauxite nhôm Tân Rai mới ổn định việc làm.”
Một trở ngại lớn và quan trọng khác là việc sửa chữa, nâng cấp Quốc lộ 20 để chuyên chở Alumin từ Tân Rai về cảng Gò Dầu (Tỉnh Đồng Nai) không tiến triển như dự liệu.
Một trở ngại lớn và quan trọng khác là việc sửa chữa, nâng cấp Quốc lộ 20 để chuyên chở Alumin từ Tân Rai về cảng Gò Dầu (Tỉnh Đồng Nai) không tiến triển như dự liệu.
Báo Đầt Việt
cho biết : “Quốc lộ 20 sẽ là cung đường
chính phục vụ quá trình vận chuyển bauxite từ nhà máy Alumin Tân Rai (Lâm Đồng)
về cảng Gò Dầu (Đồng Nai). Mặc dù việc nâng cấp, cải tạo đã thực hiện hơn 1 năm
nhưng đến nay, con đường này vẫn chằng chịt ổ voi, ổ gà khiến người lưu thông
qua đây lúc nào cũng nơm nớp lo tai nạn.
Trước đó Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 20
đoạn từ ngã tư Dầu Giây, huyện Thống Nhất - Đồng Nai đến TP Bảo Lộc - Lâm Đồng
dài 120 km, khởi công từ tháng 12/2011 với tổng vốn đầu tư hơn 4.600 tỉ đồng từ
nguồn vốn ngân sách, do Công ty Cổ phần BT20 thực hiện dưới hình thức xây dựng
- chuyển giao.
Mục tiêu của dự án là làm cho con đường
cũ kỹ, xuống cấp này có đủ độ lớn và sức chịu tải phục vụ quá trình vận chuyển
bauxite, đồng thời bảo đảm nhu cầu đi lại an toàn cho người dân. Thế nhưng chỉ
riêng đoạn đường dài hơn 75 km chạy qua các huyện Thống Nhất, Định Quán, Tân
Phú - Đồng Nai vẫn đầy rẫy ổ gà, ổ voi.
Mặt đường hẹp, có đoạn không đến 7 m, sờn tróc
nham nhở và không có phần đường riêng cho xe máy. Một số đoạn đã thi công, cải
tạo nhưng những “miếng vá” chưa kịp khô đã lại bong tróc và trở thành cái “bẫy”
trên đường.”
Như thế thì “giấc mơ sẽ lời to” của Dự án Bauxite
Tây Nguyên sẽ đi về đâu ? Và trong khi thị trường quặng Alumin đang hạ giá trên
thế giới khỏang 320 Mỹ kim 1 tấn thì các
chuyên viên Khoáng sản độc lập của Việt Nam lo ngại Công ty Vinacomin của Chính
phủ chỉ có thua và lỗ nặng, nếu họ thật lòng công khai và minh bạch “tổng cộng giá thành” gồm tất cả các khỏan tiền
phí tổn để có được 1 tấn Alumin !
Gỉa thử như Trung Cộng sẽ mua nhưng bắt Việt Nam phải hạ giá xuống đến mức tối
đa, trong khi không nước nào muốn mua hàng Việt Nam thì Vinacomin tính sao ?
Chẳng nhẽ cứ “giữ hàng tồn kho” để chờ giá lên cao mới bán thì đến bao giờ ?
Và trong khi “hàng làm ra nhiều mà bán chẳng được bao nhiêu” thì lấy tiến đâu trả nợ và trả tiền công cho nhân viên, thợ thuyền ?
Đấy là hiểm họa kinh tế đang treo trên đầu mỗi người dân Việt Nam, chưa kể thảm
họa “bùn đỏ” độc hại ở thượng nguồn Tây Nguyên mà ông Nông Đức Mạnh đã để lại
cho người dân sau 10 năm làm Tổng Bí thư
đảng !
CÙNG KHAI THÁC CỦA AI ?
Thứ tư, sau ông Mạnh thì đến phiên ông Nguyễn Phú Trọng nhận chức Tổng Bí thư ngày 19-01-2011 tại Đại hội đảng khóa XI.
Nhưng
chỉ 10 tháng sau đó ông Trọng đã sang Bắc Kinh, gọi là thăm Trung Cộng, nhưng
thật ra là để ký 6 điểm thỏa hiệp với
Tổng Bí thư đảng Cộng sàn Trung Cộng Hồ Cẩm Đào, được gọi hoa mỹ là “Nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển Việt-Trung” , trong đó điểm nổi bật và then chốt là
“hợp tác cùng phát triển”.
Thỏa hiệp ông Nguyễn Phú Trọng ký ở Bắc Kinh ngày 11/10/2011 có 3 điểm quan trọng nhất là :
Điểm 2: ”Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.”
Thỏa hiệp ông Nguyễn Phú Trọng ký ở Bắc Kinh ngày 11/10/2011 có 3 điểm quan trọng nhất là :
Điểm 2: ”Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.”
Điều 4:” Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.”
Điểm 5: “ Giải quyết các vấn đề trên biển
theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán
phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề
hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp
tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa
học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại
do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải
quyết các vấn đề khó khăn hơn.”
Cha đẻ của thuyết “gác tranh chấp để cùng
khai thác”, ông Đặng Tiểu Bình cũng chính
là người đã xua khỏang 600,000 quân
Trung Cộng vượt biên giới đánh sang 6
tỉnh cực bắc của Việt Nam hồi tháng 2/1979 mà ông ta bảo là “dạy cho Việt Nam
một bài học” !
Nhưng Trung Cộng làm gì có chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông mà đòi “hợp tác cùng
phát triển” ? Và dù biết rõ hai-năm-rõ-mười như thế mà tại sao ông Nguyễn Phú
Trọng dám ký để “chia đôi chủ quyền” với
người hàng xóm chưa bao giờ “làm theo lời hứa” này ?
Giờ đây, Trung Cộng đã gọi đấu thầu Quốc tế ít
nhất là 9 lô tìm kiếm dầu trong vùng “đăc quyền kinh tế” , hoặc “nằm chồng lên” các lô tìm kiếm mà chính Việt
Nam đã gọi thầu Quốc tế trước Trung Cộng ở giữa Quần đảo Trường Sa và bở biển
tỉnh Khánh Hòa !
Trung Cộng cũng đã và đang khai thác dầu
trong vùng Vịnh Bắc Bộ dù hai bên chưa ngã ngũ về đường ranh giới chủ quyền,
theo Thỏa hiệp năm 2000 thời ông Lê Khả Phiêu ?
TĂNG CƯỜNG ĐE DỌA VIỆT NAM
Thứ năm, song song với hành động chiếm lấn chủ quyền biển đảo trắng trợn này, Trung Cộng còn tăng cường các Tầu Hải quân, ngụy trang Hải Giám có võ trang đi tuần tra khắp vùng Biển Đông từ Hòang Sa xuống Trường Sa của Việt Nam để ngăn chặn, truy kích và bắn phá các ngư dân Việt Nam đến đánh cá ở Hòang Sa và Trường Sa.
Nhiều tầu đánh cá của Việt Nam đã bị đâm chìm khi đang hành nghề sâu trong vùng biển Vũng Tầu, Hải Phòng, Đà Nẵng và Quảng Ngãi từ 2 năm qua mà Hải quân và lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam không làm gì được !
Bằng chứng bỏ ngư trường mà
chạy để bảo vệ tính mạng và tài sản đã
được ngư dân đảo Lý Sơn nói thằng với Chủ tịch Nước Trương Tấn Sáng khi ông ra
thăm đảo ngày 15/4 (2013) vừa qua.
Đấy là chưa kể vụ 1 tầu cá Quảng Ngãi bị tầu Hải Giám Trung Cộng bắn cháy rụi
nóc tầu ngày 20/3 (2013) mà Trung Cộng bảo vì tầu Việt Nam xâm phạm “vùng biền
của họ” ?
Những vụ tấn công tầu cá Việt Nam diễn ra song song với cuộc tập trận 16 ngày (17/3-1/4/013) ở Biển Đông của 4 Tầu chiến Trung Cộng thuộc Hạm đội Hải Nam đã khiến các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam và Phi Luật Tân lo ngại.
Nhưng Hải quân Trung Cộng
đã cho biết các tầu chiến của họ sẽ tập trận quy mô hơn thêm 40 lần nữa ở Biển
Đông trong năm 2013. Các sỹ quan Hải quân Trung Cộng nói là các cuộc tập trận
là nhằm “đánh dấu lãnh thổ” của Trung Cộng trên Biển Đông !
Trên mặt trận tuyên truyền để dành lấy biển đảo, Trung Cộng đã tổ chức du lịch
ở Hòang Sa và tung ra bản đồ mới vẽ Hòang Sa và Trường Sa là của Trung Cộng,
nhưng Việt Nam chỉ “phản đối suông” và cổ võ “giải quyết tranh chấp với Trung
Cộng bằng biện pháp hòa bình” !
NHỮNG TIẾNG NÓI PHẪN UẤT
Trước hiểm họa “lưỡng đầu thọ địch” của đất nước như thế mà lãnh đạo Đảng chỉ biết tập trung vào công tác đàn áp dân lành đi khiếu kiện oan sai và tố cáo cán bộ, đảng viên tham nhũng như đe dọa của ông Huỳnh Phong Tranh, Tổng Thanh tra Chính phủ đưa ra tại Hà Nội ngày 18/4 (2013) thì có lương tâm không ?
Bản tin của Ban Thanh tra
viết : “Riêng UBND TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh phải kịp thời nắm bắt tình hình
khiếu kiện đông người, có phương án cưỡng chế, giải toả đối với các công dân
khiếu nại, tố cáo tập trung sai quy định về Trụ sở Tiếp công dân của Trung ương
Đảng và Nhà nước để tổ chức tiếp, hướng dẫn, vận động công dân trở về địa
phương.
Đồng thời, không để các đoàn khiếu kiện đông người đến các khu vực hội trường
nơi diễn ra các cuộc họp và nhà riêng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
xử lý kiên quyết hiện tượng người khiếu kiện trưng băng rôn, biểu ngữ, ngăn
chặn việc chặn, đón xe Đại biểu Quốc hội.”
Như thế là ông Tranh chỉ mong sao cho các Ủy
viên Trung ương đảng về họp Hội nghị kỳ 7 ở Hà Nội vào đầu tháng 5 (2013) và sau
đó đến lượt các Đại biểu Quốc hội về họp khoá 5, khai mạc ngày 20/5 (2013),
đừng nhìn thấy mặt dân khiếu kiện kẻo xấu mặt nhà nước hay sao ?
Vì tính toán có hành động phản dân chủ, coi thường dân của Chính phủ trong khi lại
chểnh mảng trước đe dọa của Trung Cộng ở Biển Đông đã rõ như ban ngày đã làm cho một số cựu
tuớng lãnh, Nhà thơ và Nhà báo nổi tiếng
của Việt Nam phải lên tiếng trong phẫnn
uất chưa bao giờ thấy có ở Việt Nam.
Trước hết hãy đọc lời cảnh giác của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (nguyên Đại
sứ của CSVN gtại Trung Cộng) : “Việt Nam ta tất yếu phải cuốn
theo kinh tế thị trường, nhưng lãnh đạo vẫn lấy CN Mác – Lênin làm cơ sở tư
tưởng, vẫn chủ trương xây dựng CNXH. Thử hỏi xây dựng CNXH theo mô hình nào?
Trong xã hội ta hiện nay, nội dung gì là XHCN, không ai chỉ ra được. Còn nói
phát triển kinh tế thị trường “theo định hướng XHCN”. Cái đuôi “theo định hướng
XHCN” thật là mơ hồ, vô nghĩa.”
Ông nói thẳng với lãnh đạo Nhà nước : “ Vấn đề đặt ra đối với nước ta hiện nay là:
thoát ra khỏi mọi ràng buộc tham lam, ác ý, thực hiện đường lối chủ trương độc
lập tự chủ, thực hiện ngoại giao cân bằng giữa các nước lớn, một mặt không phá
bỏ hiện trạng hữu nghị hòa bình với Trung Quốc, mặt khác thắt chặt mối quan hệ
hữu nghị với các nước lớn Nga, Nhật, Ấn Độ, Mỹ, cải cách thể chế, thực hiện dân
chủ, gắn bó với khối đại đoàn kết dân tộc, trọng dụng hiền tài, xóa bỏ mọi lợi
ích nhóm, phe phái quyền lực để đưa đất nước thoát khỏi yếu kém tụt hậu và tiến
lên.”
(Trích từ Bài viết mới nhất của ông phổ
biến trên các mạng báo Truyền thông Xã
hội trong nước: “Giữa Việt Nam và Trung Quốc không truyền thống hữu
nghị, cũng không tương đồng về ý thức hệ)
Và
sau đây là những dòng thơ thật buồn cho hòan cảnh của đất nước hôm nay của một
số Nhà Thơ, Nhà báo nổi tiếng ở Việt Nam.
Hãy
đọc Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trường ban Tư
tưởng Văn hoá Trung ương:
Đất nước những năm thật buồn
Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
Lần mò trên trang mạng tìm một
tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc
Chung quanh yên ắng cả
Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe
lại qua
Người giàu, người nghèo đều ngủ
Cả bầy ve vừa lột xác
Sao mình thức ?
Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày
mai tốt lành ?
Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm
Sớm mai còn giữ được màu đỏ ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên
sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác ?
Bao giờ buổi sáng, buổi chiều
nhìn ra đường
Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui
tươi
Ấm áp ly cà phê sớm
Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời
Hớn hở tập thể dục
Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống
má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người
Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi ?
Những cây thông trên núi Ngự Bình
thấp thoáng ngọn nến xanh
Đời đời an ủi
Cho người đã khuất và người sống
hôm nay …
(22/04/103)
(Trích từ Quê Choa của Nhà văn Nguyễn Quang Lập)
-------------
ĐIỀM ƠI
Viết sau khi đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn thật buồn” của Nguyễn Khoa Điềm
(Trích từ Quê Choa của Nhà văn Nguyễn Quang Lập)
-------------
ĐIỀM ƠI
Viết sau khi đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn thật buồn” của Nguyễn Khoa Điềm
Khi Điềm còn ở trên cao
Cái buồn thế sự đã vào chúng tôi
Bây giờ trời đã chiều rồi
Ngẫn ra thì muộn khóc cười làm chi
Phố phường vẫn lắm người đi
Hoa vẫn nở chẳng có gì khác đâu
Khác là ở chốn xa sâu
Trẻ em đi học không cầu qua sông
Khác là tận ngoài biển đông
Chủ quyền ta họ nói không lâp lờ
Riêng màu đỏ của ngọn cờ
Ở Đại Nội hay biển bờ xa xôi
Vẫn luôn phơi phới đỏ tươi
Nhạt là nhạt ở tình người Điềm ơi
Lê Duy Phương
(Từ Quê Choa)
-------------
Nhà Thơ Trần Mạnh Hảo đáp lời:
Đất nước có bao giờ buồn thế này chăng?
Đêm trường ma giáo mặt trời đỏ
Những dòng sông là đất nước thở dài
Chó sủa trăng nhà ai ?
Không phải vầng trăng đất nước
Tôi ngồi ngót bảy mươi năm
Chờ một lời nói thật
Bầy sói tru ý thức hệ lang băm
Người nông dân bị cướp đất phải hát bài dân chủ
Đêm đêm thạch sùng tắc lưỡi bỏ đi
Đất nước đang treo trên sợi chỉ mành
Sợi chỉ mành 16 chữ vàng và dối lừa 4 tốt (1)
Có kẻ rước giặc lên bàn thờ
Xì sụp lạy khấn tàn nhang chủ nghĩa
Những giáo điều làm cơm nguội bơ vơ
Xin cứ tự do bán lương tâm cho chó
Vãi linh hồn vào thùng rác nhân dân
Mối mọt ăn rào rào lòng rường cột
Ôi thương thay giẻ rách cũng tâm thần
Anh sẩm bạc đầu dẫn đường dân tộc
Đám gà què bàn hiến pháp cối xay
Đất nước có bao giờ buồn như hôm nay
Những thiên đường vỡ chợ
Những học thuyết đứng đường
Hoàn lương tượng đài
Hoàn lương chân lý
Nghị quyết còn trinh bạch cũng hoàn lương
Không ai đuổi cũng giật mình bỏ chạy
Nhốt hết mây trời vào hiến pháp tự do
Mơ được đứng bên lề đường
Nói một câu gan ruột
Đất nước buồn
Đất nước bị ruồi bu
Đất nước bị cầm tù trong ngực trái
Chưa kịp nghĩ một điều gì
Sao đã toát mồ hôi ?
Có nơi nào buồn hơn đất nước tôi ?
Lý tưởng của loài dơi là muỗi
Dơi bay đêm cho đất nước đỡ buồn
Không ai tin vào hoa hồng nữa
Không ai tin vào dơi nữa
Dơi trở về làm chuột khoét quê hương
Sài Gòn, 24-4-2013
(Trên Internet)
(1) Chú thích của Phạm Trần: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” do phiá Trung Cộng (Giang Trạch Dân) nói với Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tại Bắc Kinh năm 1999.
---------
BÙI MINH QUỐC
Nhân đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn”của nhà thơ – chiến sĩ Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ “Điềm ơi!” của nhà thơ – chiến sĩ Lê Duy Phương trên Quê choa của nhà văn – chiến sĩ Nguyễn Quang Lập, trân trọng gửi đến các đồng nghiệp đồng đội chiến sĩ – nghệ sĩ trong Hội nhà văn Việt Nam bài thơ dưới đây của tôi:
(Trên Internet)
(1) Chú thích của Phạm Trần: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” do phiá Trung Cộng (Giang Trạch Dân) nói với Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tại Bắc Kinh năm 1999.
---------
BÙI MINH QUỐC
Nhân đọc bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn”của nhà thơ – chiến sĩ Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ “Điềm ơi!” của nhà thơ – chiến sĩ Lê Duy Phương trên Quê choa của nhà văn – chiến sĩ Nguyễn Quang Lập, trân trọng gửi đến các đồng nghiệp đồng đội chiến sĩ – nghệ sĩ trong Hội nhà văn Việt Nam bài thơ dưới đây của tôi:
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao giờ nhục thế này chăng ?*
Hãy
trông kìa !
Hãy trông kìa
!
Bọn thẻ – đỏ –
tim – đen tiếm quyền hóa giặc
Bịt biệng
người kêu nỗi đau Ải Bắc
Bóp cổ người
thét nỗi nhục Hoàng Sa
Sông có nghe
nỗi nhục chuyển sơn hà ?
Hãy trông kìa
!
Hãy trông kìa
!
Bọn thẻ – đỏ –
tim – đen tiếm quyền hóa giặc
Một lũ sói nhe
nanh kết bầy nhâng nháo khắp
Móc túi dân
Cướp đất dân
Bóp cổ dân
Nỗi oan dâng
núi thét sông gầm !…
Hỡi sông Hồng
Hỡi sông Hồng
Hỡi sông Hồng
tiếng thét bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao
giờ nhục thế này chăng ?
Đà Lạt 12.09.2008
_________
* Bài “Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ? ”
của Chế Lan Viên có 2 câu mở đầu :
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?
(Từ Quê Choa)
(Từ Quê Choa)
Sau cùng, chúng ta hãy lắng nghe Tác giả Đoàn
Vương Thanh, tức Nguyễn Thanh Hà, 79 tuổi, cựu phóng viên TTXVN
giãi bầy tâm tư của
ông trước thời thế trên mạng báo Quê
Choa của Nhà văn Nguyễn Quang Lập :
“Tôi rất thích đọc thơ Nguyễn Khoa Điềm, trong đó có bài Khúc hát ru những em bé ngủ trên lưng mẹ...Tôi đồng cảm nỗi buồn của Nguyễn Khoa Điềm và nỗi buồn của nhiều nhà văn, nhà thơ đã từng có thời gian lăn lộn trên các chiến trường ác liệt, nỗi buồn của nhiều ông tướng, ông Bộ trưởng về hưu hoặc sắp về hưu, cả nỗi buồn mất đất của nông dân, nỗi buồn một số trí thức muốn góp ý vào xây dựng Hiến pháp mới bị coi là “trí thức rởm” “suy thoái”, nỗi buồn của học sinh sinh viên đang thụ hưởng một nền giáo dục bế tắc…
Còn trong hệ thống chính trị, không thiếu
những kẻ bất tài vô học, chỉ đua đòi ăn chơi trác táng…Lại con gái, con
trai mấy vị vào hàng “nguyên thủ” xây “khách ạn 5 sao”, du học nước ngoài, chỉ suốt ngày gái gú, chơi game…Khi
cần thì vẫn có thể xếp vào những cai ghế êm ru hái ra tiền. Con gái một vị to
đầu tư cho một khu đô thị sinh thái chiếm đoạt 500 ha đất canh tác của nông
dân, nay không rõ ôm tiền đi đâu. Đặc biệt, những thông tin về nhóm lợi ích, về
phe phái này “chiến đấu” với phái kia, dường như “một mất một còn”.
Một số vị ở vị trí cao của đất nước vẫn có những hành xử không đẹp đẽ chút nào, vẫn vì động cơ cá nhân ích kỷ…
Một số vị ở vị trí cao của đất nước vẫn có những hành xử không đẹp đẽ chút nào, vẫn vì động cơ cá nhân ích kỷ…
Vì sao, đất nước sau gần 40 năm được thống nhất, có
độc lập, hòa bình mà vẫn có mấy chục vạn phụ nữ trẻ phải “trần như nhông” để
“bọn nước ngoài” lựa chọn để cưới làm vợ. Ai đã cấp hộ chiếu cho gần 30 vạn phụ
nữ sang Hàn Quốc, Đài Loan “tìm chồng”, “lấy chồng”, trong nước còn có đến 30
vạn gái điếm và một lũ “đĩ quý tộc”?..
Ông Nguyễn Phú Trọng
Tổng Bí thứ của Đảng, đã dũng cảm thừa nhận “đi đến đâu cũng thấy người hư
hỏng…” mà lại chính là những người của ông, đã được rèn luyện phấn đấu nhiều
năm. Bộ máy chính quyền vừa đông vừa không được việc, vừa nhiều vừa quan liêu.
Cơ quan hành chính thì hành dân là chính, dân khiếu nại theo luật định thì bị
ghép vào tội làm mất trật tự xã hội.”
Tất xả những dòng chữ, dòng Thơ trên đây, tuy không ai có thể nhìn ra nước mắt, nhưng mỗi chữ, mỗi câu đã mang một nỗi buồn man mác như thúc giục phải thoát ra từ mỗi trái tim đáng rướm máu vào dịp 30 tháng 4 năm 2013.
Cái mốc thời gian của 38 năm sau ngày đất nước “thống nhất” lý ra phải tươi mát và rực rỡ hoan ca chứ đâu có buồn thảm đến nhường này ?
Lỗi tại ai, hãy lỗi tại tất cả chúng ta, những người dân đã sống nhục quen ?
Tất xả những dòng chữ, dòng Thơ trên đây, tuy không ai có thể nhìn ra nước mắt, nhưng mỗi chữ, mỗi câu đã mang một nỗi buồn man mác như thúc giục phải thoát ra từ mỗi trái tim đáng rướm máu vào dịp 30 tháng 4 năm 2013.
Cái mốc thời gian của 38 năm sau ngày đất nước “thống nhất” lý ra phải tươi mát và rực rỡ hoan ca chứ đâu có buồn thảm đến nhường này ?
Lỗi tại ai, hãy lỗi tại tất cả chúng ta, những người dân đã sống nhục quen ?
Phạm
Trần
(04/013)
No comments:
Post a Comment