CẦN THƠ * TRONG LAO TÙ CỘNG SẢN
Trong lao tù Cộng Sản
Cần Thơ TÐ2/TQLC
Ðây Long Giao và Suối Máu
Những ngày đầu tại trại tù Long Giao tôi ở chung cùng tổ với Tiểu Đoàn Trưởng TÐ2/TQLC Trần Văn Hợp, Ban tư Lữ Ðoàn Quách Ngọc Lâm, TÐP Trần Quang Duật ÐÐT Thủy Xa Doãn Thiện Niệm. Tổ kế bên gồm Trưởng phòng TLC/SÐ Huỳnh Văn Phú, Trg P Chính huấn Lê Đình Bảo và các Th/tá Trần Kim Hoàng, Lê Văn Cưu, Phan Công Tôn. Thấp thoáng xa xa bên kia hàng rào kẽm gai là TÐTr/TÐ.9 Lâm Tài Thạnh, T.ÐTr/TÐ.4 Trần Ngọc Toàn, CHP/TTHL Trần Xuân Bàng, Th/tá Phạm Văn Sắt v.v..
Bài viết này không có mục đích nói về cuộc sống mới của những người bị bắt buộc đầu hàng trong “Thiên Ðường CS”, nếu có chỉ là những thoáng qua một vài kỷ niệm.
Một chuyện vui và đáng nhớ trong những ngày đầu tiên tại Long Giao là VC bắt mỗi tổ phải luân phiên cắt cử một người ngồi gác tại cửa. Một đêm kia vào khoảng 3 giờ sáng, phiên tôi gác, đang đập muỗi, nhìn trăng nhớ nhà thèm điếu thuốc thì giật mình nghe tiếng la :
- Sĩ quan trực đâu ?
Nghe giọng quen quen như của TÐT/TÐ2 thường gọi tôi khi xưa, như cái máy, tôi chạy vào xem có chuyện gì, nhưng tất cả đều ngủ cả, một mình ta thức với trăng khuya ! Lát sau, một con ma xách AK chạy đến lên đạn quát :
- Anh lào na cái rì thế ?
Tụi ma này có mặt bất cứ lúc nào và ở khắp nơi để bảo vệ cho SQ/QLVNCH an giấc, biết có sự quan tâm của Cách Mạng nên một đêm nọ, lại cũng nhằm phiên trực của tôi, chả hiểu mê thật hay mê giả mà tôi nghe tiếng la của TÐP Trần Quang Duật :
- Gọi ngay B.52 cho tao
Quả thật chỉ một phút sau, ma lại hiện ra hỏi cái rì thế, tôi bèn chống chế :
- Anh D nhớ vợ nên mơ ấy mà, vợ anh ấy tên là là..Bê-Thị-Năm-Hai.
Sau vài tháng nghe VC nói tầm-bậy tầm-bạ đủ 8 bài về Ðế Quốc Mỹ xâm lược, Ngụy Quân, Ngụy Quyền tay sai, chúng tôi bị di chuyển về trại tù Suối Máu, cái trại mà năm Mậu Thân 1968, ÐÐ1/TÐ2/TQLC của tôi đến để bảo vệ cho những người anh em phía bên kia, nay tới phiên họ gác cho chúng tôi rong chơi, không phải đi hành quân, đêm thì ăn ngày thì ngủ, chờ về sân vận động Cộng-Hòa Saigon làm lễ mãn khóa (Theo tin đồn rỉ tai). Ngày ấy đã đến, tôi được về trước, Trần Văn Hợp là TÐT/TÐ Trâu Ðiên có nhiều tội ác với nhân dân nên bị ở lại học tập tiếp.
Trong đêm tối, đoàn xe bít bùng chở tù trực chỉ Saigòn, tôi thò tay vân vê cục đường móng-trâu mà Hợp nó nhét vào túi áo tôi lúc hai thằng chia tay, bất chợt tôi muốn hát bài dân ca quan họ: Hợp ơi.. người ở.. đừng về..để tớ về, nhưng chưa kịp hát thì đoàn xe rẽ vào Tân Cảng, đoàn tù bị đẩy xuống hầm tầu, chẳng ai biết đi đâu, một giọng mỉa mai châm biếm của MX Huỳnh Văn Phú vang lên :
- Về sân CH làm lễ mãn khóa mà đi bằng tầu thủy chắc mãn đời không đến !.
Sau 3 ngày đêm, mỗi đêm dài 24 tiếng, tù sống chung với nước biển pha nhớt dưới hầm tàu chở dầu cộng với nước đái và phân của tù thải ra, tàu cập bến Vinh, một nón cối chĩa cái miệng vẩu xuống hầm tầu la to:
- Các anh đã được về miền Bắc XHCN
Quả thực đây là thiên đàng CS sau 3 ngày đêm nằm trong địa ngục trần gian, tôi được vươn vai hít một hơi dài không khí vùng quê xứ Nghệ mặc dù không khí có tí hơi xú-uế bác Hồ. Hít thở chưa xong một hơi thì lại bị đẩy lên những toa xe lửa chở súc vật và xi-măng, nó còn khủng khiếp hơn ở dưới hầm tàu, khi đoàn xe dừng lại, đổ tù xuống Yên Bái thì có nhiều người ngất xỉu! Có 2 trung tá đã chết vì ngộp thở
Miền Bắc XHCN
Năm 1976 thì VC lưu đày SQ cấp tá và những thành phần bị coi là ác-ôn ra rừng núi miền Thượng Du BV như Lào Kay, Yên Bái, Hoàng Liên Sơn. Năm 1979 chiến tranh Việt-Trung bùng nổ, chiến tranh giữa những người anh-em núi liền núi, sông liền sông, như môi với răng, răng CS Tàu cắn môi CSVN, chúng sợ Ðặng Tiểu Bình bắt tay với sĩ quan QLVNCH..nên lại chuyển tù CT về miền Trung Du như Vĩnh Phú, Hà Nam Ninh v.v.. Chúng (VC) luôn xáo trộn lung tung, những bạn cũ không còn ở với nhau thì tôi lại gặp thêm những TQLC khác như các anh Th/tá Lê Văn Huyền, Th/tá Trần Kim Ðệ, T.Ð.Tr /TÐ16 Ðinh Xuân Lãm, T.Ð.Tr PB Tr/tá Ðoàn Trọng Cảo, CHT/TT/HL Tr/tá Nguyễn Ðức Ân, Lữ đoàn Phó Tr/tá Huỳnh Văn Lượm ..
Trở về Miền Nam.
Năm 1982 khởi đầu cho những đợt chuyển tù từ Bắc vào Nam vớí số lượng đông hơn. Tôi được diện kiến ở Z.30D các niên trưởng như Ð/tá tỉnh trưởng Tôn Thất Soạn, Ð/tá Lữ đoàn trưởng LÐ.258 Nguyễn Năng Bảo và Tư lệnh Phó Ð/tá Nguyễn Thành Trí.
Những MX kể trên là những người mà tôi ở tù chung hoặc trông thấy, còn rất nhiều các anh em ở những trại khác tôi không gặp nên chưa ghi ra đây, nhưng con số hơn 90% SQ binh chủng TQLC vào tù là không sai bao nhiêu.
Thế gian hơn áo hơn quần.
Các cụ nhà ta ngày xưa có câu : Thế gian hơn áo hơn quần, Giá thử lột trần thì.. ai cũng như ai nên phải nói thật là Cái Đói trong tù đã tạo lên nhiều tình trạng thê thảm. Người ta đồn rằng chỉ vì một miếng cơm cháy mà hai ông Mặt-Chời đánh nhau ! Tôi không tin điều đó, nhưng chuyện Cá đối bằng đầu và những bộ mặt bôi vôi bị trôi đi thì có, nên xẩy ra nhiều trường hợp anh em đồng đội bôi mặt đá nhau, thuộc cấp bôi C.. vào cấp chỉ huy.
Chuyện có thật 100%, tại đội 8 trại Vĩnh Quang A, tên đội trưởng Ng..lùn, nguyên là TĐtr, một tên tù hắc ám và mất dậy nhất, đang đêm đông lạnh lẽo bị đàn em cùng màu áo tên Ð..đem cứt bỏ vào chỗ nằm của hắn! Tên Ng..lăn lộn với cứt suốt đêm, mùi xú uế lan ra làm khổ lây những người nằm gần hắn, sáng ra nó xin cai tù cho ở lại trại để xúc miệng, nhưng cái tên Ng.. lùn thì làm sao rửa cho sạch !
Bụt không lên tòa thì gà mổ mắt, tác phong của tên tù Ng.. lại muốn làm chó săn cho cán bộ trại ắt hẳn xưa kia hắn là tên đội trên đạp dưới, nay bị đàn em cùng đơn vị bôi phân vào mặt thì có chi lạ, cũng là một mảnh gương vỡ cho nhiều quan soi.
Ðiều an ủi là lòng kính trọng của chúng tôi đối với tất cả các niên trưởng và đồng đội MX không hề suy giảm. Tư cách và tác phong của các anh trong tù còn đẹp hơn khi chỉ huy ngoài mặt trận, nói ngắn gọn như thế là đủ, thiết nghĩ không cần nêu những trường hợp cụ thể, vì đó không phải là mục đích chính của bài viết này.
Những ai đã ra đi ?
Như đã nói ở trên, bài này chỉ có ý đi tìm tài liệu cho Chiến Sử TQLC, nên nêu ra những trường hợp cụ thể để xin các chiến hữu bổ sung và sửa sai mọi chi tiết, xin cung cấp dữ kiện trước khi phê bình Ðúng Sai .
1/Trung tá Ðoàn Thức
Khi căn bệnh xơ gan của anh tới giai đoạn cuối thì trại tù Mễ khoan hồng nhân đạo cho về đoàn tụ với gia đình và anh mất sau đó một tháng, tháng 1/1980. Có người nói rằng trại tù không chữa được nên cho anh về! Nếu nói cho công bằng thì VC ở các trại tù không có khả năng chữa và không chữa bất cứ bệnh gì và cho chúng ta.
Trung tá Ðoàn Thức là một sĩ quan tham mưu giỏi và tận tụy với nhiệm vụ, đặc biệt là tính hiền hòa vui vẻ với những người xung quanh, những ngày sau cùng anh là Tham mưu trưởng Lữ đoàn 468/TQLC. Một chi tiết tuy thuộc chuyện riêng tư nhưng cần phải nói: Tr/tá Ðoàn Thức là em của Ðoàn-Khuê, cựu bộ trưởng quốc phòng CS, vì lý do này mà anh Thức bị cục An Ninh Quân Ðội VNCH lưu ý không cho giữ chức vụ chỉ huy, cũng chả sao, anh vẫn là một sĩ quan tham mưu giỏi, một Sĩ quan gương mẫu cho tới giờ phút cuối cùng. Khi Ðoàn Khuê vào trại giam thăm, anh Thức đã từ chối :
- Tôi không có bà con nào là cán bộ nhà nước cả
(Tham khảo tài liệu của cựu đại tá Tôn thất Soạn)
2/ Trung tá Nguyễn Hữu Cát
Có lẽ lớp Sĩ quan đàn em ít người biết đến anh Cát, có khi tôi còn viết sai cả họ và tên đệm của anh, nhưng đã có thời gian làm việc dưới quyền anh, anh là chuyên viên trung tâm trưởng TTHQ/SÐ. Anh ra đi cũng tại trại Mễ, thuộc huyện Phủ Lý, nơi nhốt những anh em hết thuốc chữa. Ðại úy Nguyễn Kim Thân, hiện định cư San José, trước kia cùng ở trại Mễ vói anh Cát, nói :
- Chính mắt em thấy anh Trung tá Cát đập đầu vào.. tường
Kính cẩn cúi đầu chào vong linh Tr/tá trung tâm trưởng TTHQ của tôi những ngày ở Hương-Ðiền, của những SQ trực TTHQ như đại úy Hưởng (đã chết tại bờ biển Non Nước sáng 29/3/75), Ð/úy Tú-xe-bò, Tr/úy Sơn-mập v.v.. những nhân viên dưới quyền của anh thường thiếu sót nhiệm vụ nhưng anh vẫn cười bao dung và.. bao dàn.
3/ Trung tá Nguyễn Văn Nhiều
Anh là trưởng phòng tư Sư Ðoàn TQLC, những ngày cuối tháng 4/75, hằng ngày một trực thăng liên lạc của của BTL thường đáp xuống CCST, cạnh hồ tắm, đôi lần tôi thấy anh đi theo chiếc trực thăng này. Là sĩ quan tham mưu, có đầy đủ phương tiện trong tay, ở ngay BTL tại Vũng Tàu, vì thế tôi quá đỗi ngạc nhiên khi nghe tin anh không ra đi theo lẽ thông thường mà lại tự tử trên chuyến tàu chở tù ra Bắc !
Các anh Ðinh Xuân Lãm, Trần Kim Hoàng, Huỳnh Văn Phú và tôi cũng được chở bằng tàu từ Tân Cảng ra Bắc nhưng cặp bến tại Vinh rồi bị đưa ra Yên Bái trong các toa xe lửa chở súc vật và xi măng, khi xuống xe có hai trung tá chết vì nghẹt thở nên khi nghe tin anh Nhiều tự tử tôi lại nghĩ anh là một trong hai người đã chết trên chuyến xe lửa cùng đi với chúng tôi. Sau này được tr/tá PB Ðặng Bá Ðạt cùng đi với anh Nhiều cho biết các anh ra Bắc đợt sau và cặp bến Hải Phòng, xác anh Nhiều đã được đưa lên bờ tại đây.
Tôi không biết anh Ðạt hiện nay ở đâu, nếu được xin anh cung cấp cho chúng tôi những thông tin về anh Nhiều.
4/ Trung tá Nguyễn Đằng Tống
Anh là Lữ Đoàn Phó LÐ.147/TQLC, lữ đoàn này thiệt hại quá nặng trong mặt trận tại cửa Thuận An ngày 26/4/75 nên cần thời gian để tái tổ chức lại tại Vũng-Tầu. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng, tướng tài đâu phải để ngồi rung đùi ngâm thơ, chén tạc chén thù mà phải CHÉM thù nơi tiền tuyến, nên anh được giao nhiệm vụ mới, là Lữ Đoàn Trưởng LÐ.468/TQLC ngày 24/4/ 75, tham gia mặt trận ở Long Bình Biên Hòa rồi rút về CCST, rồi vào tù và chết trong tù, chúng ta hãy nghe chị Tống nói :
- ... Rạng ngày 30/4/75, TQLC rút về đầy đủ ở Biên Hòa, sau đó toàn bộ di chuyển về CCST.Khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, anh đi họp với Ðaị tá Trí tại BCH/CCST. Anh trở về bảo tôi đợi cho anh em ra về an toàn hết chúng tôi sẽ đi sau cùng. Chính vì thế trưa ngày 30/4, vào giờ chót cha tôi vào trại Cửu Long đón vợ chồng tôi mà không gặp nên ông đã rời Việt Nam một mình.Mẹ tôi và các thân nhân trú tại căn nhà của chúng tôi đã xuống tàu từ 29/4.
- Suốt tuổi thanh xuân anh đã đi hết mọi nẻo đường đất nước, trên mọi chiến trường : Bình Giả, Tam Quan, Huế Mậu Thân, Kampuchia, Hạ Lào, Quảng Trị, Cửa Việt v.v.. Ðến lúc nằm xuống là cái giá phải trả bằng xương máu của chính mình, chỗ khúc ruột nối do trận Bồng Sơn bục ra giữa lao tù CS, dưới cái giá lạnh khắc nghiệt của mùa Ðông nơi núi rừng Yên Bái. Anh chết đi trong đau đớn và cô đơn. Chết đi mà chỉ biết mặt đứa con trai duy nhất qua những tấm ảnh vợ gởi vào trong tù ...
Vào mùa hè 1980, tại trại tù Vĩnh-Quang A tôi bị đau ruột một cách khủng khiếp, đau đến nỗi cong người lên, anh đội phó Phan-Trừng và Phan Hữu Hạnh phải trói chân tay tôi lại để khỏi vật vã cho tới khi ngất đi, không có thuốc men hay đi bệnh xá gì hết, hai ngày sau tôi gượng dậy được là cai tù bắt tôi đi lao động, theo đội lên đồi cuốc hố sắn, cái đau cái mệt bắt buộc tôi phải liều nằm trên đồi dưới cái nắng gay gắt để mong một trong hai trường hợp sẽ xẩy ra, chết vì nắng hay nó bắn cho một viên thì đỡ khổ hơn, vì thế trường hợp của anh Tống tử nạn không làm tôi ngạc nhiên.
Giây phút cuối trước khi bị bắt buộc phải từ bỏ binh nghiệp, lần đầu tiên và cũng là lần sau cùng tôi được họp cùng đại tá TLP tại BCH/CCST, có gặp anh Nguyễn Đằng Tống trong buổi họp này. Theo lời chị Tống kể thì gia đình đã có đầy đủ phương tiện để ra đi, nhưng anh Tống cương quyết ở lại cùng anh em binh sĩ, nên chị Tống cũng bỏ hết để đến bên anh trong giờ phút hấp hối của chế độ.
Việc anh Tống từ chối ra đi mà quyết ở lại sống chết với binh sĩ dưới quyền thì không có chi lạ, đó chỉ là thái độ đúng đắn của cấp chỉ huy, dù là cấp tiểu đội hay cấp quân đoàn, trong phạm vi nhỏ của TQLC cũng đã có quá nhiều trường hợp tương tự, các anh từ chối chạy trốn cùng gia đình mà ở lại cùng đồng đội chiến đấu.
Ðã bao lần thập tử nhất sinh đều có đồng đội bên cạnh, anh là cấp chỉ huy, anh thức trắng đêm để điều động đơn vị thì người thuộc cấp cũng thức trắng đêm để sẵn sàng thi hành lệnh dù biết cái lệnh đó sẽ đưa họ vào cõi tử nhiều hơn sinh. Bây giờ trước mặt là địch, dù nặng hay nhẹ cũng như những lần xưa kia mà thôi.
Người không có phận sự chỉ huy, không có quân trong tay mà ra đi một cách kín đáo để khỏi làm hoang mang người cầm súng thì cũng chẳng chết ai (!), nhưng nếu họ ở lại cùng anh em là đáng quý, người vợ lính bỏ thanh bình ở lại sau lưng để ra tiền tuyến cùng chồng trong lúc bom đạn mù trời thật là đáng phục, thật là hiếm hoi. Người phụ nữ vì tình yêu mà hy sinh như vậy thật hợp tình nhưng không hợp lý, nếu là cấp chỉ huy thì tôi không khuyến khích những trường hợp hy sinh như thế.
5/ Trung tá Huỳnh Văn Lượm
Anh là LÐP/LÐ.258/TQLC, vì đại tá LÐT bị thương nằm bệnh viện nên anh nắm quyền chỉ huy lữ đoàn trong giai đoạn cuối dưới quyền điều động của đại tá Tư lệnh Phó Nguyễn Thành Trí. Tôi thường xuyên ở cùng trại tù với anh, cùng nhau chia xẻ bi thuốc lào, miếng sắn lát nên có nhận xét anh là một trong những người tù tỉnh bơ nhất. Không bao giờ anh vui (dĩ nhiên) và cũng không buồn, bất cứ lúc nào anh cũng đủng đỉnh từ từ, quản giáo trại giam có hối thúc anh cũng mặc, có la lối mạt sát anh cũng coi như không nghe, không biết, không trả lời, không chống đối, anh vẫn thong thả làm việc chậm chạp, hình như anh là người đi sau mọi người trong tất cả mọi việc. Các quản giáo và bộ đội rất bực vì thái độ ne..pas của anh nhưng chưa có lý do để cùm.
Một lần tên Trung úy Bộ, cán bộ an ninh khu A, trại tù Z.30D Xuân Lộc đi kiểm soát buổi tối, thấy anh còn ngồi ôm cây đàn ghi-ta gẩy từng tứng tưng bài gì đó trong khi mọi tù khác vội vàng chuẩn bị vào chuồng, Bộ thấy gai mắt nên kết tội anh chơi nhạc vàng, thay vì nhốt anh thì nó chạy lại cầm cây đàn của anh vứt đi, anh từ từ đứng dậy vẫn im lặng và đi vào buồng, cây đàn vẫn trơ gan nằm bên hàng rào kẽm gai cho tới khi một tên bộ đội đến lấy đi.
Cần nói thêm rằng sau năm 1982, số đông tù được chuyển từ Bắc về Nam, về trại Z.30D Xuân-Lộc, ngày nghỉ hay các buổi tối anh em thường ca hát thoải mái, bộ đội còn đến nghe ké và xin điếu thuốc có cán! Việc anh Lượm bị kết tội hát nhạc vàng chỉ là cái cớ, anh có hát đâu, chỉ dạo vài ngón classic chớ vàng với bạc cái gì.
Sau cái ngày bị mất cây đàn, anh bị thuyên chuyển từ đội trồng rau, đội của mấy người già chậm chạp, xuống đội nhà bếp, là đội cần những người trẻ nhanh nhẹn để nấu sắn, nấu bắp cho tù, ưu ái hơn nữa là anh được chọn vào toán quan trọng nhất, toán bổ củi và nấu nước sôi để phát cho toàn khu A. Tôi thuộc toán lâm sản, đi rừng cưa cây làm củi về giao cho nhà bếp, thấy anh cởi trần đưa xương sườn ra đánh vật với những khúc cây to hơn anh mà thương cho anh, cho chính mình !
Chỗ nấu nước sôi là một cái bệ xi-măng cao gần 1m, trên đó đặt những chảo gang to, đường kính dễ chừng hơn mét, người phụ trách cơm nước phải di chuyển trên đó, giữa cái không gian chật hẹp, không khí đặc quánh vì khói và hơi nước, dưới chân là sàn xi măng và những cái miệng chảo nước sôi trông như những miệng núi lửa.
Việc phải đến đã đến, từ đầu đến ngực của Trung tá LÐP/LÐ.258/TQLC Huỳnh Văn Lượm nằm gọn trong chảo nước sôi! Anh tắt thở trên đường đi đến bệnh viện Biên Hòa.Anh được THA về để gia đình lo hậu sự cho anh.Có lẽ anh chết vì nước nên được ưu đãi hơn các anh Nhiều, Tống, Hợp bị vùi xác nơi xó rừng. Thực ra thì nhà thương trả xác anh về cho gia đình, trại nó đã phủi tay, những ai không may chết trong tù thì không bao giờ nó thông báo cho gia đình đâu.
Ngay lúc anh Lượm bị nạn, không ai có mặt tại chỗ để xác định đó là một tai nạn? Một vụ tự tử hay một vụ dàn cảnh giết người vì lòng nhân đạo? Tất cả, nếu có, chỉ là suy đoán, thí dụ như đối với tôi thì cho đó là một màn kịch hay của tên Trung úy Bọ, an ninh trại giam, không trực tiếp thì cũng gián tiếp, bởi vì một người yếu đuối và chậm chạp như anh, một người được xếp vào đội trồng rau, chỉ vì cây đàn tình tang mà bị đẩy xuống một công việc nặng nhọc nhất, khổ nhất và dễ chết nhất ? Có lẽ chỉ có Anh và Hồ chủ tịt biết lý do chính xác nhất.
6/ Thiếu tá Trần Văn Hợp.
Hợp là Tiểu đoàn trưởng sau cùng của T.Ð Trâu-Ðiên . Tiểu đoàn 2/TQLC được chỉ huy bởi 4 Tiểu đoàn trưởng kể từ ngày mang danh là Trâu-Ðiên, hai vị tiểu đoàn trưởng tiền nhiệm là Lê Hằng Minh và Nguyễn Xuân Phúc đã tử trận, Trung tá Lê Hằng Minh hy sinh trong trận bị VC phục kích trên QL1 thuộc cây số 17 quận Phong Ðiền và ngày đó tr/úy Nguyễn Xuân Phúc ÐÐT/ÐÐ4 bị bắn một viên từ ngực xuyên ra sau lưng vẫn không sao, nhưng 9 năm sau thì Tr/tá Nguyễn Xuân Phúc đã tử trận tại Ðà nẵng vào ngày 29-3-1975, một vị TÐTr khác thoát cảnh tù tội, còn Trần Văn Hợp là con trâu đầu đàn sau cùng đi tù và chết trong tù. Có lẽ đây là một nét khá đặc biệt đối với TÐ2/TQLC mang danh Trâu-Ðiên.
Ðối với VC thì hình như bất cứ Tiểu đoàn TQLC cũng là tiểu đoàn Trâu-Ðiên cả, những tháng đầu tiên tại trại tù Long Giao, khi nón cối nói về những bài Ðế Quốc Mỹ xâm lược, Ngụy Quân, Ngụy Quyền, một tên cán bộ đã cao giọng :
- Những cái gọi là Cọp ba đầu Rằn, Trâu Ðiên, cần phải trừng trị đích đáng !
Hai con Trâu Ðiên ngồi bên nhau, nghe vậy muốn xón.. mồ hôi, tôi bóp tay Hợp :
- Tụi nó hù mày đó, liệu cái thần hồn !
Hợp và tôi cùng ở chung một trại gia binh Cửu Long, rủ nhau đi tù một ngày, nằm bên nhau từ trại Long Giao đến trại Suối Máu, tôi ra Bắc trước, chúng tôi xa nhau từ đấy, không bao giờ gặp lại nó nữa : Trâu Ðiên Trần Văn Hợp đã chết trong tù !
Nhớ lại khi vào trại Long Giao, Hợp, Lâm, Duật, Niệm và tôi ở chung một tổ, khi cán bộ quản giáo đưa cho miếng giấy ghi: Không có gì quý HƠN độc lập tự do... bảo Hợp viết khẩu hiệu này lên tường, Hợp hỏi có sơn và cọ không, tên nón cối nói các anh phải phát huy sáng kiến và khắc phục, Hợp lấy cục than viết lên tường: Không có gì quý BẰNG độc lập tự do !
Hôm sau nón cối đến kiểm soát, thấy hàng chữ viết bằng than ngả nghiêng trên vách trông rất là bôi bác, mặt hắn đỏ lên rồi tái đi nhưng lại nghiến răng xuống giọng :
- Anh nào viết khẩu hiệu đẹp nhưng không đạt mục dích và yêu cầu. Các anh tự mãn là những người học giỏi mà chỉ có vài chữ thôi cũng viết sai
- Tôi thấy chữ HƠN không hay bằng chữ BẰNG nên sửa…
Nó lý luận và giải thích rằng phải dùng chữ BẰNG thay cho chữ HƠN mới nêu hết được cái hay tuyệt đối của Tự Do, nón cối không nghe gì cả, như bị chạm nọc, nó phùng mang trợn mắt kết án Hợp tội “Nhục mạ lãnh tụ” !!
Một ngày mùa đông mưa phùn gió bấc, từ trại tù số 8 Hoàng liên Sơn, gần hồ Thác Bà chúng tôi phải khiêng vác những cây bương dài và to, một loại tre rừng, lên xã Cẩm Nhân nộp cho ban chỉ huy liên trại, khi đi ngang một đám người rách rưới, ngồi bó gối chồm hổm bên đường như đám tử tù! Nghe ai khẽ gọi tên tôi, liếc ngang, gặp ngay đôi mắt sáng của Trần Quang Duật môi mấp máy thều thào :
- Anh Hợp chết rồi !
Giữa cái rét đến thâm tím chân tay mà người tôi toát mồ hôi, ngập ngừng chậm lại muốn nghe Duật nói thêm một câu gì đó thì mũi súng AK.47 thúc vào lưng tôi, họng tôi nghẹn cứng, máu hòa nước mắt làm mờ bước chân tôi đi !
Sau này tôi gặp nhiều người ờ chung trại với Hợp, đều thuật lại giống nhau, nhưng rất tiếc là không gặp ai cùng đội để có những chi tiết rõ ràng hơn. Xin trích một đoạn trong tác phẩm Mình Phải Tồn Tại của Phan Văn Thìn, cùng khoá với Hợp :
- Trần Văn Hợp thường nói với tôi như vậy mỗi khi chúng tôi gặp nhau! Tôi và Hợp bị giam chung ở liên trại Kiên Thành, tỉnh Hoàng Liên Sơn, nhưng chúng tôi ở khác K, may mắn gặp nhau một vài phút khi di lãnh thực phẩm, mỗi lần gặp như vậy Hợp thường nhắn Ráng tồn tại nghe mày, tôi gật đầu vẫy tay từ biệt.
Rừng thiêng nước độc, thiếu ăn không thuốc nên chỉ trong một thời gian ngắn đã có 8 người ra đi vì kiết lỵ và tiêu chảy. Một hôm trong toán cưa cây rừng chúng tôi lượm được một loại hột, nếm thử nhân có vị bùi và béo như hạt điều, thế là đi tìm, nhưng may quá, chỉ tìm dược 3 hột cho 4 người, sau khi ăn xong chúng tôi thấy khó chịu và buồn nôn, cố móc họng cho ói ra. Chiều hôm đó về tới trại nghe anh em bàn tán có nhiều người ăn phải hột này nên ngộ độc. Trại tôi có anh Ðinh long Thành bị nặng nhất.
Hôm sau hay tin anh Hợp đã ngộ độc khá nặng, vì cùng ăn những hột như bọn tôi, phải vào trạm xá và đã ra đi ! Lúc đó có một bạn tù cùng tổ, đi lãnh thực phẩm về kể chuyện cho tôi nghe rằng trên đường về có gặp anh Hợp đã bị ngộ độc, ráng bò ra được con đường nhỏ để về trại, nhưng mệt quá đã gục bên đường, tên vệ binh thấy anh em muốn lo lắng săn sóc cho Hợp thì nó quát lên :
- Không sao đâu, anh ấy chỉ say thuốc lào thôi !
Thế là mạnh ai nấy đi, không ai được phép đưa anh Hợp về bệnh xá trại để kịp thời cấp cứu và cuối cùng anh Hợp đã không đạt nguyện vọng ao ước Ta phải tồn tại để xem kẻ thù rồi sẽ ra sao?
(hết trích).
Nhà cách mạng Phan bội Châu nói: Khi bụng đói thì người ta có thể bới đất cuốc cỏ mà nhét cho đầy bụng đói, nhưng cái đầu, bộ óc mà đói thì... bán nước.
Những người Tù mà là tù của miền Bắc nước CHXHCN thì đói là dĩ nhiên, ai không cùng hoàn cảnh thì khó tưởng tượng được nó khủng khiếp đến cỡ nào. Tại trại tù Vĩnh Quang A, chúng tôi bị giam chung với tù hình sự của miền Bắc, họ đói lắm, vì không được gia đình tiếp tế, thấy họ chui đầu cả vào những thùng.. ..phân và rác để kiếm một cái gì đó nhét vào miệng ! Một đầu gấu hình sự đến xin ăn, tâm sự :
- Các ông biết không, chúng cháu đói nắm, hôm qua bu (mẹ) thằng Tâm đến thăm, mang cho ló gói cơm lếp và miếng thịt nợn, nó không dám mang vào trại mà ăn hết ngay tại chỗ thăm luôi, khi tối vào buồng, ló bội thực, muốn mửa ra thế nà mấy thằng ông mãnh chung quanh nói thằng Tâm hượm (khoan) đã để chúng ló kiếm cái chậu hấng lấy miếng thịt nợn mà thằng Tâm sắp mửa ra. ..!
Tôi tin điều nó nói, chúng hứng để mong kiếm được miếng thịt heo mà thằng Tâm ói ra, những ai không đi tù CS ở miền Bắc nhưng nếu vượt biên bị lênh đênh trên biển hay lạc vào hoang đảo thì chắc sẽ tin câu chuyện tôi kể.
Dài dòng một chút để hiểu hoàn cảnh ngộ độc của trại tù nơi Hợp bị giam, cái không hiểu được là thấy người sắp chết mà không cứu của đồng tù, còn tụi nón cối ư ? Sổ tay của chúng đều ghi : Trần Văn Hợp TÐTr Trâu-Ðiên, cố tình nhục mạ lãnh tụ!
7/ Thiếu tá Bạch.
Theo tài liệu của anh Ðinh xuân Lãm cung cấp thì anh Bạch nguyên là đại đội trưởng đại đội thám báo của SÐ, anh cũng tử nạn trong tù nhưng rất ít chi tiết về anh.
8/ Bác Sĩ Vũ đức Giang Y sĩ TÐ7/TQLC ( bổ sung sau khi có đủ tài liệu)
Còn rất nhiều các sĩ quan từ cấp chuẩn úy đến đại úy bị tù ở trong Nam, đã tử nạn hoặc bị hành hình vì chống đối vì vượt ngục mà chưa được kể lại, nếu không cùng ở một trai thì khó lòng biết ai còn ai mất, mong rằng sau bài này, những tin tức về tất cả TQLC chết trong ngục tù được bổ sung đầy đủ hơn. Ó-Biển Trần Như Hùng từ bên Úc xa xôi đã cho chúng tôi một vài trường hợp điển hình như sau:
Trung úy Nguyễn Văn MINH, ÐÐT/TÐ2
Trung úy Nguyễn ngọc BỬU, ÐÐT/TÐ7
Cuối năm 1978, tại trại giam Suối Máu, Biên Hòa, phong trào diệt an-ten và phản kháng chế độ CS lên cao dần tới tột đỉnh là đêm Giáng Sinh 1978, toàn thể 5 phân trại cùng đồng loạt đứng dậy phản đối hành động cấm anh em tù cử hành thánh lễ nửa đêm, hậu quả những ngày sau đó là đòn thù, lùng bắt, chia cắt, chuyển trại, những ai nằm trong ủy ban hành động chống đối đều bị chuyển ra trại tù ác độc khét tiếng là Xuân Phước Tuy Hòa, trong số này có 2 chiến hữu Mx Minh và Bửu.
Taị trại Xuân Phước, nhân một buổi đi lao động ngoài rừng, Minh và Bửu cùng 3 đồng tù khác đánh gục vệ binh, cướp súng và vượt ngục, nhưng chỉ 2 ngay sau là các anh bị bắt hết.
Không cần diễn tả thì ai cũng biết chuyện gì sẽ đến với các anh, trường hợp vượt ngục của nhóm cha Lễ mà đã được ông diễn ta lại trong hồi ký thì cựu dân biểu Ðặng Văn Tiếp bị đánh chết ! Ở đây, anh Bửu không những đã bị bắn chết mà thân xác anh còn bị lưỡi lê đâm nát ! Những người khác, trong đó có Minh thì không ai biết số phận họ ra sao ?
Trung Úy Nguyễn Văn SAN, ÐÐT/TÐ3
Trong thời gian đầu mới vào tù, mỗi buổi tối trại giam thường chiếu phim cho tù nhân giải trí (!), với mục đích gì và phim loại gì thì chẳng cần mất thì giờ giải thích, tại trại giam Ái-Tử, nơi có rất đông cấp úy/TQLC cũng được giải trí như vậy.
Chúng ta biết sau vụ ngưng bắn da beo, da cọp, dành dân lấn đất, ai ở đâu thì nằm nguyên đó nên mới có những màn vui chẩy nước mắt trên các tuyến phòng thủ của SÐ/TQLC ở Quảng Trị. Anh em hai miền Nam-Bắc sống chung hòa bình trong tư thế cài răng lược, M.16 nằm gác chân lên A.K, M.79 ôm cổ B.40.
Tuy rằng cấp trên không cho phép, nhưng cùng là máu đỏ da vàng, nói cùng một thứ tiếng nên binh sĩ hai bên zui-zẻ zới nhau, lại là dịp cho các Mũ Xanh chứng tỏ tính ga-lăng hào phóng, mang thực phẩm miền Nam hòa cùng thức ăn miền Bắc để cùng uống cùng hút, nói chuyện gia đình, nói chuyện linh tinh.
Nhưng chính sách trồng người của CS đã không để cho binh sĩ của họ sống bằng tình người với anh em Mũ Xanh, nó đem ngay phân hóa học bón vào đám bộ đội này để dụ khị MX rồi lén lút quay phim dùng làm tài liệu tuyên truyền bịp bợm.
Khi biết chúng dở trò lưu manh, Mũ-Xanh đáp ngay Ði với ma thì mặc áo giấy đúng theo lời dặn của Tổng Tư Lệnh Quân Ðội: VC dùng dao găm, ta chơi mã tấu, MX đấu khẩu không nương tay khiến chúng tắt đài. Trong số những nhà tâm lý chiến trên tuyến đầu phát ngôn hăng hái nhất là Trung úy đại đội trưởng Nguyễn Văn San.
Trong một buổi tối chiếu phim, các anh em TQLC được cho coi một cuốn phim vô cùng độc đáo mà những tài tử đóng phim lại do chính các anh thủ vai trên tuyến phòng thủ cài răng lược ở Gia-Ðặng (QT). Khi thấy tài tử chính đóng hay quá, các anh quên là mình đang ngồi trong trại tù bèn hoan hô vỗ tay chỉ vào tài tử chính :
- Trung úy San kìa ! Coi thằng San đóng phim kìa !
Vài ngày sau, khi đang lao động ngoài rừng thì San và một đồng tù bị cán bộ quản giáo gọi ra chỗ vắng làm việc, đây là một kiểu chơi trước sau như một, giống nhau từ Nam ra Bắc, trong giờ lao động, khi chúng muốn dò tin tức, dụ tù làm an-ten, hay hù dọa đều dùng cách này nên chẳng ai để ý làm gì.
Tràng súng AK từ xa vọng về, thằng tù cầm cuốc đứng nghe !
Tên quản giáo rất thong thả từ tốn với giọng nói đầy khoan hồng nhân đạo :
- Hai anh San và Xy đã lợi dụng lúc tôi làm việc mà trốn trại !
Ðừng nghe những gì CS nói, nói láo như vẹm ! Anh em bạn tù cầm cuốc đứng nghe, nhưng hình như trong đầu mỗi người, tùy theo tôn giáo, đã có lời cầu xin cho vong linh hai bạn San và Xy sớm siêu thoát.
Những người dân đi vào rừng bới đất cuốc cỏ để tìm cho được một chút gì hầu nhét cho đầy bụng đói thì chỉ còn một chút hơi tàn xầm xì :
- Có hai xác tù đang bị mối xông !
Cái hình ảnh TQLC San bị đem đi bắn một cách dấm dúi chỉ vì một lý do rất buồn mà cười càng làm cho tôi nghi ngờ về cái chết của Trung tá Huỳnh Văn Lượm trong chảo nước sôi và của Trâu Ðiên đầu đàn Trần Văn Hợp. Tôi xin nhắc lại một lần nữa là ngày khai giảng khóa học 8 bài về Ðế quốc Mỹ, Ngụy-quân, Ngụy-quyền tại trại Long Giao năm 1976, tên cán bộ cấp cao đã tuyên bố :
- Những thứ như Trâu Ðiên, Cọp đầu rằn cần phải trừng trị dích đáng !
Xin một lần được viết tên Anh
Ðồng đội tôi, cấp chỉ huy của tôi đã ra đi mỗi người một cung cách khác nhau :
Người thì anh dũng đền xong nợ nước trên chiến trường, hòm gỗ phủ cờ, cài hoa, bạn bè tiễn đưa, thân nhân lập mộ.
Anh thì dù đã làm xong bổn phận người quân nhân mà đành uất nghẹn bị bắt buộc đưa tay cho địch trói dẫn đi thủ tiêu dần mòn trong chốn rừng sâu, không đồng đội thân nhân, không một miếng gỗ đề tên cho thê nhi tìm xác, không một điếu thuốc, chén cơm trái trứng, ngọn nến, nén nhang để linh hồn anh bay theo hương khói lên trời cao mà mãi mãi cứ bị dập vùi trong khe suối hốc đá! Chiều tà khi bóng ngả về tây, không nghe tiếng mõ tụng kinh nơi cửa Phật, thiếu tiếng kinh chiều nơi giáo đường, linh hồn anh vật vờ trên đồi sắn nương ngô, ngóng về quê hương miền Nam yêu dấu !
Mọi sự ra đi của các anh đều tô thêm nét hào hùng cho mầu áo binh chủng, thêm âm cao vang cho bài ca Cờ bay trên Cổ Thành, tạo thêm nét bi ai cho bài ca truy điệu, cho bài chiến sĩ trận vong, cho bài chiến sĩ vô danh.
Cần Thơ
TD2/TQLC
HOÀNG THY * TÊN ĂN MÀY
TÊN ĂN MÀY
Hoàng Thy
Trước măt trụ sở ban Công An phường X, quận Thủ Đức, TPHCM, có một tên ăn mày, hắn luôn luôn mặc một cái áo của mấy người lính ngụy cũ, tuy đã rách nát nhiều chỗ và được vá lại bằng nhiều thứ vải khác nhau.
Các anh Công an đã nhiều lần xua đuổi, thậm chí bắt nhốt, đánh đập, nhưng hắn vẫn cứng đầu, không chịu đi chỗ khác. Viện lẽ rằng nơi đây lắm người qua kẻ lại, hắn xin được nhiều hơn. Thét rồi quen, mấy anh công an cũng chẳng làm gì hơn được nên đành mặc kệ hắn vậy.
Hắn cứ để cái mũ xuống đất, bên cạnh chỗ ngồi, rồi nhìn bâng quơ vào khoảng không gian trước mặt, hay gục đầu giữa hai đầu gối, cái kiểu ngồi như bất động đó hầu như không bao giờ thay đổi, mặc cho đám ruồi muỗi làm tình làm tội. Hắn chỉ vắng mặt 1 hay 2 lần một ngày, ý chừng như để kiếm cái gì ăn hay giải quyết vấn đề vệ sinh cá nhân chẳng hạn.
Bà con qua lại, người thì ái ngại, tỏ chút lòng bác ái, ném cho hắn vài đồng tiền lẻ, hay khi thì miếng xôi tấm bánh. Người thì tỏ ra khó chịu, không tiếc lời xỉ vả. Đôi khi những đứa trẻ tinh nghịch còn đến đấm hắn vài cái, hắn cũng trơ trơ, chẳng nói chẳng rằng. Có lẽ hắn cũng biết thân, làm cái nghề như hắn, đâu còn hơn thua với ai nữa nên chịu trận vậy thôi.
Dần dà, người ta biết được lý lịch của hắn. Hắn nguyên là một Sĩ quan trong Binh chủng Biệt Động Quân, quê ở tận miền Trung. Sau ngày giải phòng, hắn cũng được học tập cải tạo từ Nam ra Bắc, rồi trước khi được thả lại vào Nam. Trong thời gian cải tạo, bà mẹ của hắn đã theo bố của hắn về cõi Phật. Vợ hắn đã bồng bế con theo ai đó vượt biên, chẳng còn biết tin tức gì. Tứ cố vô thân, hắn nghiễm nhiên trở thành tên ăn này trên khắp vùng đất nước, rồi sau cùng lạc bước về đây, “định cư” tại trụ sở ban công an phường này. Có lẽ chổ này ăn nên làm ra, kiếm ăn được nên hắn chẳng muốn dời địa bàn đi đâu nữa.
Có người thương tình, động lòng trắc ẩn, đưa hắn về nhà cho tắm rửa, cơm mước đàng hoàng, rồi sai làm việc vặt trong nhà ngoài vườn. Nhưng cố lắm thì cũng chỉ được đến ngày thứ 3 là lại phải trả hắn về địa bàn hoạt động của hắn. Thời buổi khó khăn, ai mà cung ứng và nuôi nổi thêm một người nữa.
Đối với mấy anh Công An, thì cũng đã quá quen, có anh lúc rảnh rỗi cũng trò chuyện, hỏi thăm được hắn dăm ba câu, cho hắn điếu thuốc hút. Những lúc ấy trông hắn có vẻ giống con người nhiều hơn, ánh mắt nhìn đối tượng như thầm cảm ơn.
Lâu dần mấy anh Công An thỉnh thoảng sai hắn quét dọn và làm vài việc vặt chung quanh trụ sở, thưởng công cho hắn là những chén cơm, những điếu thuốc có cán hẳn hoi. Những lúc ấy thấy hắn vui hẳn lên…
Hôm nay là một ngày thật đặc biệt của ban Công An phường, vì có các đồng chí từ quận và thành phố đến thanh tra, hoạch định phương hướng cho kế hoạch 5 năm sắp tới. Một ngày thật trọng đại nên ban Công An phường đã tăng viện công tác làm cho ban mình có một bộ mặt thật đẹp và sạch sẽ từ trong ra ngoài. Kế hoạch đã được sắp xếp từ cả mấy tuần trước. Cả gã ăn mày cũng được tham gia vào công tác làm sạch sẽ. Người ta thấy hắn thật hớn hở vì được làm công việc vệ sinh, dọn dẹp, lau chùi. Và hắn cũng được ăn uống đầy đủ cùng các anh công an, lâu lâu còn được điếu hút, điếu sơ cua trên vành tai nữa kìa. Hắn lăng xăng dọn chỗ này, dẹp chỗ kia, lau chùi, phủi bụi, hốt rác.
Quan trọng nhất là phòng họp của ban, vì tất cả các đồng chí thành ủy, quận, cũng như ban công an phường sẽ tụ tập đầy đủ ở đây để hội họp, bàn bạc, thảo luận và hoạch định kế hoạch ngũ niên.
Hắn trịnh trọng lau chùi thật kỹ, sắp xếp những chậu kiểng, bàn ghế, dàn loa phóng thanh lớn 4 góc 4 cái thật chu đáo. Nhất là bục của diễn giả, tất tất đều sạch sẽ, bóng loáng, không chê vào đâu được. Các anh công an rất hài lòng, nên thưởng công cho hắn nguyên một bao “3 số” chưa bóc tem. Hắn trịnh trọng bỏ ngay vào túi áo phía trước, hắn cố ý độn cái gì ở dưới để bao thuốc lòi lên khoảng 1/3, ai nhìn cũng thấy ngay được sự tin tưởng của các anh công an đối với hắn, và thấy được sự tưởng thưởng hậu hĩ của các anh công an. Và lẽ dĩ nhiên là hắn chưa dám bóc, gói thuốc còn nguyên si.
Cái ngày trọng đại đã đến, các đồng chí trên thành và quận đến bằng 8 chiếc ô tô thật lộng lẫy, cỡ trên dưới 30 người.
Sau thời gian gần cả ngày làm việc và thảo luận, đến xế chiều là phần sinh hoạt và trao bằng ban thưởng công trạng cho các anh em ban công an phường. Nên tất cả các anh em trong ban công an phường đều có mặt đầy đủ, không thiếu một ai.
Bỗng đồng chí trưởng ban công an quận trỏ tên ăn mày và hỏi :
- Còn anh kia, chức vụ gì mà ăn mặc bê bối thế ?
Anh trưởng công an Phường vội đỡ lời:
- Dạ thưa đồng chí, hắn ta là một tên lính ngụy đã học tập và được nhà nước khoan hồng cho về. Nhưng bây giờ không còn chỗ nương náu, vợ con hắn đã lỉnh ra nước ngoài, không liên lạc được, nên tới đây giúp ban, nhất là trong dịp này. Một tay hắn lau chùi, quyét dọn và sắp xếp bàn ghế đâu ra đấy, đấy ạ.
Sau một lúc suy nghĩ, ông công an quận nói :
- Thôi thế cũng được, nó làm sáng tỏ chính sách của nhà nước ta: giáo dục và khoan hồng. Đồng chí sắp xếp công tác cho hắn, cho hắn một chân gác gian, sai vặt. Nhất là để nhân dân trông vào đó mà thấy rõ được chính sách nhân đạo của đảng và nhà nước ta.
- Dạ, thưa đồng chí, em sẽ bố trí cho hắn sau.
Quay sang tên ăn mày, đồng chí công an quận dạy dỗ :
- Này anh kia, anh tên gì vậy ?
- Dạ thưa ông, em tên là Hận.
- Tên gì mà nghe chán thế ?
- Dạ đúng ra em tên là Tiến, Nguyễn quyết Tiến. Nhưng bây giờ em thù hận những thằng Chỉ huy cũ của em, hận vợ con em đã bỏ em mà đi, em hận tất cả, nên em đổi tên thành Hận đấy ạ.
Những tràng cười nổi lên rộn rã trong phòng họp.
- Thôi được, để đồng chí công an phường sắp xếp công tác cho anh sau. Nhưng anh biết đấy. Đảng và nhà nước ta nặng về giáo dục và khoan hồng. Mấy thằng chỉ huy cũ của anh đã hèn nhát buông súng đầu hàng cách mạng, có thằng còn bỏ trốn còn bỏ chạy cả trước khi đầu hàng. Vợ con anh thì chỉ sống trên vật chất nên đã bỏ anh lại một cách dễ dàng. Ráng mà công tác tốt đấy nghe chưa.
- Dạ cám ơn lời dạy bảo của ông, em sẽ cố gắng hết sức mình để làm công tác này một cách gọn ghẽ và toàn vẹn.
- Thôi anh ra ngoài đi.
- Dạ.
Hận quay bước ra đi, được vài bước, hắn bỗng quay lại, hướng về đồng chí quận và nói :
- Em quên, còn một điều chưa thưa rõ với ông.
- Thì nói đi.
- Em hận nhất là bè lũ đảng Cộng Sản đã tàn phá đất nước này, đặt để ách thống trị lên đầu, lên cổ người dân, bóc lột xương máu của người dân đến tận cùng . . .
Cả hội trường nhốn nháo lên, tên công an quận đập bàn đứng lên, móc súng ngắn ra chĩa thẳng vào Hận. Trong khi có vài tên khác định nhào đến hận. Hận khoác tay và thò vào túi áo lôi ra bao thuốc “3 số”, dõng dạc :
- Chúng mày có biết cái này là cái gì không ?. Tao chỉ cần nhấn một cái là tất cả chúng mày trong phòng này sẽ nát như tương, không còn hình thù gì nữa cả.
Trong phòng im lặng như tờ, Hận tiếp :
- Chúng mày nhìn cho kỹ. Trong mỗi cái loa, tao để 3 trái “Claymore”, trên trần 6 trái, các chậu kiểng, chậu hoa ít ra là một trái. Còn chất nổ, thì mọi chỗ, mọi góc đều đầy đủ. Sức tàn phá như thế nào thì chúng mày biết rõ chứ ? không một đứa nào có thể thoát được. Và tao thì cũng chẳng thiết sống nữa, tao sẽ chết cùng với lũ chúng mày. Nhưng cho chúng mày rõ, tao sẽ nhân danh đồng bào, nhân danh tổ quốc Việt Nam thân yêu. Hôm nay sẽ quét hết lũ ác ôn chúng bay, để trả thù cho những người bạn và đồng bào đã hy sinh vì sự tàn ác và ngu xuẩn của lũ chúng bay, của thể chế Cộng Sản . . .
Tên công an quận khai hỏa, nhắm Hận nhả đạn, Hận cũng kịp nhấn nút kíck hỏa.
Những tiếng nổ kinh hồn phát ra từ trụ sở ban công an phường và tiếp theo là đám cháy lớn. Ban cứu hỏa thành phố không cứu vãn được tình thế, đành phải bó tay cho thần hỏa hoành hành. Đến xế chiều hôm sau mới dập tắt được ngọn lửa, thì toàn trụ sở ban công an phường chỉ còn là đống tro tàn, và những bộ xương khó mà nhận diện được.
Bản tin vài tuần sau trên tờ Nhân Dân được ghi như sau : “Vì bất cẩn, một vụ hỏa hoạn đã xảy ra gây tổn thất cho toàn bộ trụ sở ban công an, và các đồng chí đã hy sinh vì nhiệm vụ”
Buổi lễ truy điệu được cử hành trong âm thầm lặng lẽ.
Có người tỏ ra biết chuyện nói vụ nổ và cháy là âm mưu phá hoại cách mạng của tập đoàn C.I.A, và chúng làm chu đáo thật, không để lại một dấu vết gì. Cũng có người chặc lưỡi xót thương cho tên ăn mày hẩm hiu đã chịu chung số phận với bọn công an.
Trước mặt trụ sở ban công an phường X, Quận Cai Lậy. Có một tên ăn mày, hắn luôn luôn mặc một cái áo của mấy người lính ngụy cũ . . .
THƠ Ý NGA
XẾP HÀNG.
Em vẫn thế, vẫn dịu dàng, kiên nhẫn
Vẫn đợi chờ bằng tin tưởng, lạc quan
Vẫn mỉm cười thay cho tiếng thở than
Viết vì nước, anh đừng chê thơ thẩn.
Họ chỉ thích dòng thơ tình mùi mẫn
Nên dân mình chẳng biết khóc, kêu ai
Bao nhiêu năm Vô Sản, xếp dài dài
Dân mất nước, xếp hàng đi đâu trước?
Ý Nga, 22.7.2009.
NÁT NƯỚC
“Lính bận uống rượu
Quan bận làm giàu”
Không rõ tác giả.
Bão lụt, đảng mặc kệ
Xem như chuyện tào lao
Có “Việt Kiều” lo lắng,
Ai làm gì được nhau?
Bận khoe sang, khoe giàu
Nhà nào cũng cao… cao…
Chúng ăn trên, ngồi trốc
Rình rang đón Cộng Tàu.
Vũng thấp: nước đến trước
Có chi mà ồn ào?
Lăng Ba Đình chễm chệ
“Bác” cao. Nước? Tính sau!
Ý Nga, 28.11.2009.
VIỆT NAM ANH HÙNG
VỊ QUỐC VONG THÂN.
“Anh hùng Tử, Khí hùng bất tử!”
30 tháng 4 Quốc Hận,
Cả Miền Nam chết lặng bàng hoàng.
Ôi VietNam - Viêt Nam!
Lịch sử sang trang.
Cây cỏ, núi sông, hàng hàng dư lệ.
4000 năm, 1 chiều dài lịch sử,
Bao Anh hùng, liệt nữ đã ghi lưu danh.
1975: buông súng đoạn đành.
Quân-Dân-Cán-Chính: đau lòng thương Nước.
30/4, Ngậm ngùi thê thiết,
Một trời mây đen, khủng khiếp bao trùm.
Miền Nam thất thủ,
Tướng tử theo thành,
Lẫy lừng, oanh liệt.
Ôi! Những phát súng bỏ mình cho Tổ Quốc,
Gương oai linh vạn kiếp chẳng mờ phai.
H.H.
Sent: Tue, May 28, 2013 3:00 pm
XEM HÌNH XÓM CŨ.
Những
con đường hôm qua
Bây
giờ sao lạ xa?
Nhà
đâu mà nhiều quá?
Không
nhìn ra cảnh nhà!
Cộng
Bắc đầy miền Nam
Túi
nào cũng tham lam,
Căn
nào cũng “cán bộ”,
Chẳng
còn ai “thông tầm”*!
Ý
Nga, 19.6.2009.
----
*”Thông
tầm” chữ của VC = làm từ sáng đến chiều, không được về nghỉ trưa.
Tầm
= tầm mức.
Làm
“thông tầm” = làm cật lực.
Những
học sinh tại Mỹ Đức, Hà Nội tới trường trong chiếc xe tải bịt kín cũ kỹ.
"Đây
là những hình ảnh tôi bắt gặp thường xuyên trên đường đi làm, trông rất tội
nghiệp".
Nguyễn Hữu Hùng - tác giả tấm hình chia sẻ.
Hát Cho Tuổi Trẻ
Phương Uyên - Nguyên Kha
Nhạc & Lời: Thi Nhạc
Sĩ HUỲNH CÔNG ÁNH
Giọng Hát Ca Sĩ: THU SƯƠNG
Trình bày: Nhạc Sĩ Việt
Thơ - TTYN
GAI
MẮT, TRÁI TAI.
Lửa Sân phừng phực trong tim
Làm sao tu được mà tìm thiền môn?
Quê hương biến động dập dồn
Thương Ca vần điệu trầm buồn tỉ tê.
Chính trường toàn những tên hề
Đóng tuồng, bán nước, tung hê giặc Tàu.
Hỏi dân, ai tạo khổ đau?
Nỗi lo mất nước tôi gào nát… thơ.
Ý Nga, 281109.
Mô hình Tượng Đài Tưởng Niệm năm Vị Tướng VNCH
Những
tác phẩm điêu khắc do Phạm Thế Trung sáng tác:
tượng chân dung 5 vị Tướng lãnh
VNCH tuẫn tiết ngày 30/4/1975.
TƯ LỆNH QUÂN KHU, 5 VỊ TƯỚNG TÀI,
SỐNG OANH LIỆT, CHẾT TRÊN ĐÀI TRUNG DŨNG.
(Nhân ngày Chiến sỹ Trận
vong 27/5/2013
viết để tưởng nhớ những Anh
hùng Vị Quốc Vong Thân.)
30/4 Đau lòng bỏ súng,
Thương Chi Binh ngang dọc chiến trường xa.
Gìn giữ núi sông, mong Nam Bắc Nở Hoa,
Bảo vệ sơn hà, cho nhà nhà no ấm.
Nội chiến 20 năm-20 năm lệ đẵm.
Mà 1 ngày! Mà 1 ngày!
Ai để mất giang san?
5 Anh Hùng Trung Liệt, Nam Việt Nam,
Cùng tự sát để bảo toàn khí tiết.
Đất nước nghiêng mình,
Toàn dân thương tiếc,
Những Anh hùng VỊ QUỐC VONG THÂN.
Dũng-Liệt-Oai linh,
Ngạo khí ngất trời xanh.
Chẳng hổ Quang Trung-Trưng,Vương-Hưng Đạo.
Và Huynh Đệ Chi Binh ''tù cải tạo'' núi rừng sâu.
38 năm qua, Nhật nguyệt cau mày,
Thương dân Việt, sao quên Ngày Quốc Hận!
Dâng nén hương thơm, ngậm ngùi tưởng niệm
Những Anh hồn vì Đất Nước hy sinh.
Tưởng nhớ, xót thương :
Quân-Cán-Chính, thương bệnh Binh.
Và Cầu nguyện Tự Do cho Quê Hương yêu dấu.
H.H.
KHÔNG
QUÊN.
Không đếm hết bao nhiêu người nằm
xuống?
Chẳng nhớ ra bao nước mắt phân ly?
Chỉ không quên bổn phận giữ quốc kỳ,
Gom tang tóc nhuộm cho vàng chính
nghĩa!
Ý Nga, 8.12.2009.
HH.
Quê Hương Ngày Về
Sáng tác: Vũ Chính Nam - Hoàng
Nhật Thông - Việt Khang
Giọng Ca: Nhạc Sĩ Huỳnh
Công Ánh
Trình bày: Nhạc Sĩ Việt
Thơ - TTYN
NHÂN
Ai
lôi ai xềnh xệch
Sau
trận đòn nhừ thân
Máu
rỉ rả từng giọt
Người
với … người-bất-nhân.
Ý
Nga, 190609.
THƠ
CHIỀU.
Buồn ơi! Buồn đến não nùng
Buồn sao buồn quá! Lạ lùng, rối rem
Tuyết rơi mọi vật bao trùm
Áo cơm tất bật sớm hôm đi về
Gió hòa thêm điệu tỉ tê
Nhớ Nhà, nhớ đến thảm thê thơ chiều.
Ý Nga, 081209.
BIẾN HOẠI.
Bay cùng chuyến, người cùng nhau chờ đợi
Hạng đắt tiền, tấm thảm nhỏ phân chia
Một bước thôi, hạng nhất, đỏ mượt mà
Kìa… kia… kỉa… lại nhập dòng đồng hạng*
Bay cùng chuyến, người rượu, bia… quá đáng
Trẻ khóc, vòi một miếng bánh, không ra
Tôi ngồi giữa những khệnh khạng, khề khà
Dỗ em bé bằng tấm hình Biến Hoại.*
Ý Nga, 210609.
---
*Hành
khách có vé hạng nhất, trước khi bước vào điểm kiểm soát vé và “pass-port” để
lên phi cơ, “phải” bước qua một lối đi nhỏ
và hẹp hơn, vì bị rào lại, để “được” đi trên một tấm thảm đỏ nhỏ xíu, khác
với hành khách có vé các hạng khác thì cứ lối rộng thênh thang mà đi. Xong đoạn
đường ngắn độ 3 thước ấy thì vé hạng nào cũng chỉ chung một lối để bước lên phi
cơ.
**Tất
cả đều vô thường, đều biến hoại theo dòng thời gian.
KHAM
NHẪN.
|
Một giấc ngủ bắt đầu bằng thiện niệm
|
Hỷ xả người nên dưỡng tánh từ bi
|
Trời về khuya, suy nghĩ lợi lộc gì?
|
Tập nhẫn nhục cho quên đời rối rắm.
|
Ý Nga, 281109.
|
VÔ SẢN: SỐNG TRONG NỖI CHẾT!
Họ
ca ngợi quá trời! Quên uốn lưỡi?
Những
phương trời chào hỏi, “đỏ” dặm ngàn
Thật
hoàn toàn bế tắc nỗi hân hoan
Đời
nhàm chán trong điêu tàn cộng sản.
Thật
ngao ngán cảnh lầm than, kiệt cạn!
Dân
Bắc Hàn có hé miệng thở than?
Hay
hoàn toàn ngoan ngoản: đói miên man?
“Đại
đồng” dạng “thiên đàng” kìa: VÔ sản!
Đời
có chán? Trần gian xin mời Bạn!
Cứ
lang thang lai vảng mà ngó ngàng
Nếu
rảnh rang, rủ đảng sang làm tàng
Đỏ
hay vàng Bạn tha hồ chọn lựa!
Ý
Nga – Canada,
280513.
No comments:
Post a Comment