Thursday, October 20, 2016

TƯỞNG NĂNG TIẾN -NGUYỄN NGỌC SẴNG - MỸ

Saturday, May 11, 2013

TƯỞNG NĂNG TIẾN * RỒI HẾT CHIẾN TRANH

Rồi Hết Chiến Tranh

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến


"Khi đất nuớc tôi không còn chiến tranh, trẻ thơ đi hát đồng dao ngoài đuờng."
T.C. S
  
Hơn bốn mươi năm trước, khi cuộc chiến ở Việt Nam còn đang ở giai đoạn khốc liệt, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã mường tượng ra một viễn ảnh thanh bình làm say đắm lòng nguời: "Khi đất nuớc tôi không còn chiến tranh, trẻ thơ đi hát đồng dao ngoài đuờng."
Sau cuộc chiến, quả nhiên, trẻ con có la cà và tụm năm tụm ba hơi nhiều trên đường phố. Chỉ có điều là tuyệt nhiên không nghe một đứa nào hát đồng dao; đã thế, phần lớn tụi nhỏ đều tham dự tích cực vào nhiều sinh hoạt không thích hợp cho lắm với tuổi thơ: bới rác, móc túi, ăn mày, bán cần sa, và nài nỉ mời khách mua... dâm – với một thứ ngôn ngữ sỗ sàng và sống sượng đến độ có thể làm đỏ mặt một người da đen hay da đỏ: “Chú ơi, chú chơi cháu đi…” (Hoàng Hữu Quýnh– Tôi Bỏ Đảng, Tập I: Bản Cáo Trạng Chế Độ Hà Nội, trang 140, 1989, trích từ Phản Tỉnh Phản Kháng Thực Hay Hư của Minh Võ, Thông Vũ xuất bản năm 1999).
Đó là những chuyện chỉ có tính cách “hiện tượng,’’ xẩy ra mấy thập niên về trước, khi hòa bình mới đuợc vãn hồi, và xã hội còn nhiều tệ đoan do tàn tích của chiến tranh và xã hội cũ để lại. Với thời gian, bản chất của chế độ cộng sản Việt Nam mỗi lúc được nhận biết rõ ràng hơn.
Từ Hà Nội, ký giả Huw Watkin tường thuật rằng “cứ năm đứa bé đang lê trên vỉa hè của ba mươi sáu phố phuờng là có một đứa... ăn xin. Bốn đứa còn lại, xem chừng, cũng bận: đánh giầy, năn nỉ người đi đường mua vé số, dắt mối, bán ma túy...”(“VIETNAM: CHILDREN SOLD INTO BEGGING, PIMPING AND DRUG DEALING”).

Cũng vẫn theo y như lời Huw Watkin thì lực lượng trẻ con đi ăn mày, làm ma cô và bán ma túy... ở Việt Nam đang dần được đưa vào tổ chức (“... recent media reports that children are being increasingly used by organized begging gangs, pimps and drug dealers”). Chuyện này thì thằng chả nói hơi... thừa! Ở một xứ sở mà nhà nước bao biện mọi chuyện, và lãnh đạo khắp nơi – kể cả chùa chiền, giáo đuờng hay thánh thất... – làm sao để cho trẻ em (những mầm non tương lai của tổ quốc) sống vô tổ chức được, cha nội?


Trong tương lai gần, lũ trẻ thơ bụi đời ở Việt Nam (dám) sẽ được đoàn ngũ hoá – và cho thắt khăn quàng có màu sắc khác nhau – để dễ điều phối. Đại loại như, khăn quàng xanh: đánh giầy; khăn quàng tím: dắt mối; khăn quàng trắng: ma túy; khăn quàng hồng: mãi dâm; khăn quàng nâu: ăn mày; khăn quàng đỏ: thu thuế và theo dõi hoạt động, cũng như tư tưởng, của những loại khăn quàng khác!
Chiến tranh Việt Nam kết thúc cũng chấm dứt luôn sự chia cách giữa hai miền Nam - Bắc. Viễn tuợng thống nhất (cũng) đã đuợc hình dung bởi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn truớc đó, và cũng là một hình ảnh khiến cho không ít kẻ phải ước mơ: “Một đoàn tầu đi tỏa khói trắng hai bên đường...’’

Một lần nữa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lại đúng, dù vẫn chưa đúng hết. Sau cuộc chiến, quả nhiên là có đoàn tầu Thống Nhất xuôi ngược Bắc - Nam. Điều đáng tiếc là hành khách lại luôn luôn ở tâm trạng bất an. Kẻ lo bị móc túi, nếu có tí tiền. Người lo bị công an xét hỏi và tịch thu hàng hoá, nếu là dân buôn lậu. Và tất cả đều lo sợ bị ném đá vỡ đầu. Những hòn đá xanh, to bằng nắm tay, được trẻ con dọc hai bên đuờng – đợi xe lửa đi qua – thi nhau ném vun vút vào cửa sổ!

Do vậy, tầu Thống Nhất đuợc “cải tiến” bằng cách rào kín mọi khung cửa bởi dây kẽm theo hình mắt cáo. Từ đó, nó trông y như những toa xe dùng để chở tù. Những đoàn tầu như thế mà đi phom phom, hớn hở hú còi, và hân hoan thơ thới, sung sướng ’’toả khói trắng hai bên đuờng’’ thì trông (e) hơi mỉa mai và (có phần) lố bịch!
Trịnh Công Sơn chỉ gần hoàn toàn đúng khi mô tả thảm cảnh sau đây: “Khi đất nuớc tôi không còn chiến tranh, mẹ già lên núi tìm xuơng con mình...’’ Nói là “chỉ gần hoàn toàn đúng” vì cuộc chiến đã tàn từ lâu. Thế hệ của những “mẹ già lên núi tìm xuơng’’ đã qua nhưng chuyện đào bới hài cốt vẫn được tiếp tục bởi anh chị em, hay bạn đồng đội của những người đã khuất –  theo như tuờng thuật của Rajiv Chandrasekaran, trên The Washington Post: ’’Vietnamese Families Seek Their MIAs.”

Tổ Quốc Ghi Công. Nguồn ảnh: tranhung09



Bài báo mở đầu bằng một câu chuyện thương tâm. Ông Nguyễn Dinh Duy tử trận ngày 29 tháng 3 năm 1975. Suốt mấy muơi năm qua, chị của ông ta (Bà Thắm) vẫn không ngừng đi tìm kiếm xác em trong... vô vọng. Ông Duy chỉ là một trong 300.000 lính Bắc Việt chết trận mất xác – và kể như là mất luôn (Duy is one of about 300,000 North Vietnamese soldiers killed in the war whose remains have not been located - and likely never will be).
Tiếp theo là một câu chuyện cảm động về tình đồng đội: “Mỗi tuần một lần, ông Ban thức dậy lúc 5 giờ sáng, leo lên chiếc xe gắn máy màu xanh lá cây đã cũ, đi đến những nơi mà ông còn nhớ khi còn là một y tá trong quân đội. Trí nhớ của ông quả tốt; mười năm qua, ông tuyên bố, đã đào được 2.000 xác chết và đã nhận diện được một nửa trong số này...’’  Vẫn theo lời ông Ban: “Là kẻ sống sót, tôi tự thấy mình phải có bổn phận với những nguời đã chết (Being still alive, I feel responsible for the dead people).

Quan niệm sống của ông Ban, tiếc thay, không được chia sẻ bởi những người hiện đang nắm quyền bính ở Việt Nam – dù họ đều là những kẻ sống sót sau cuộc chiến vừa rồi. Khi bị chất vấn về thái độ vô trách nhiệm này, giới chức có thẩm quyền của Hà Nội, ông tướng Trần Bạch Đằng nào đó đã giải thích với phóng viên Rajiv Chandrasekaran như sau: ’’...tìm kiếm những binh sĩ quá tốn kém mà tiền thì phải dùng vào việc chăm lo cho cho những kẻ còn sống sót.’’ (Dang said the cost of searching for missing soldiers must be weighed against the need to care for the survivors of the war).

Vì đảng viên Cộng Sản Việt Nam là những nguời theo chủ thuyết duy vật nên không quan tâm đến những việc làm có tính cách duy tâm chăng? Nói vậy e không được ổn. Nhìn cái cách họ ’’thờ’’ ông Hồ Chí Minh thì biết. Họ có cả một Bộ Tư Lệnh để bảo vệ lăng ông ta mà. Họ đâu phải là những kẻ vô tâm và lo tốn kém.
Họ ướp xác ông Hồ và bảo trì cũng như bảo vệ nó tới cùng chỉ vì nó có giá trị như một thứ môn bài (patent) cho phép họ tiếp tục hành nghề cách mạng –  hay ít nhất thì họ cũng tưởng hoặc mong như thế; còn 300.000 ngàn bộ xuơng của đám binh sĩ chết dấm chết dúi đâu đó,
Rõ ràng họ không phải là những người duy vật, cũng không phải là những kẻ duy tâm mà là những tên duy... lợi ! Hãy nhìn vào thực tế, xem cô nhi quả phụ hay bố mẹ của những kẻ đã hy sinh được “chăm lo’’ ra sao – từ nửa thế kỷ qua ?
‘’Lúc ấy nguời ta sợ nhất là nhìn thấy người phát thơ. Hàng ngày hàng trăm cái thơ báo tử để trong xắc cốt nguời cán bộ xã. Anh ta đi đến nhà nào là mang đau thương tang tóc đến nhà đó... họ sợ nhất là sau cái ’lễ truy điệu trọng thể để ’Tổ Quốc ghi công’ là họ bị đẩy ra lề xã hội, không ai nuôi dưỡng.’’ (sđd trang 136 -138).
“’Lúc ấy’’, qua đoạn văn vừa dẫn, là hình ảnh của xã hội miền Bắc vào thập niên 60 và đầu 70 - khi mà Đảng Cộng Sản Việt Nam còn cần động viên xương máu nguời dân cho chinh chiến. Cuộc chiến đã tàn. Bây giờ thì họ còn cần gì đến ai nữa? (Nói chi đến mộ phần của những tên “lính ngụy” ở Nghĩa Trang Quân Đội!)
Phế binh: Nguồn ảnh: tranhung09



Do đó, khi thấy một phế nhân lê la xin ăn trên hè phố Sài Gòn hôm nay đừng vội nghĩ đó là thương binh của quân đội miền Nam. Không nhất thiết như thế đâu. Bây giờ ăn mày là một cơ hội đồng đều (equal opportunity), không phân biệt tuổi tác, giới tính hay thành phần xã hội.

Ranh giới giữa kẻ thắng và người bại đã bị xoá nhòa từ lâu ở đất nước này. Nơi đây – trước đói rách, khủng bố và mọi bất công xã hội – tất cả đều bình đẳng. Việt Nam hôm nay chỉ còn một nhóm nguời thu tóm hết quyền bính, đất đai, cũng như sở hữu mọi tài sản xã hội, và cả một dân tộc bị trị vì đã bị lừa gạt trắng trợn - thế thôi.
Bài báo của Rajiv Chandrasekaran kết thúc bằng một tâm sự não lòng: “Tháng 4 năm nay khi cả nước đang chuẩn bị kỷ niệm 25 năm sau ngày ’giải phóng miền Nam’ và thống nhất đất nước nhiều gia đình đã đến nghĩa trang để thăm mộ thân nhân. Riêng bà Thắm thì có cảm tưởng mình bị bỏ rơi. Theo bà ta thì ’em tôi đáng lẽ phải nằm trong nghĩa trang liệt sĩ chứ đâu phải ở rừng sâu.’(My brother belongs in the Martyrs’ Cementery,’’ Tham said, ’’not out in the jungle’’).
Người ta có thể hiểu được tình thuơng yêu vô hạn của bà Thắm đối với người em vắn số nhưng thực khó mà chia sẻ với bà ta cái ảo tưởng rằng ông Nguyễn Dinh Duy là liệt sĩ. Cùng với hàng triệu nguời khác nữa, sự hy sinh của ông Duy – chung cuộc – chỉ đẩy cả một dân tộc vào cảnh lầm than và băng hoại.

Bà Thắm vẫn chưa nhận ra được rằng cái đuợc mệnh danh là cuộc chiến “chống xâm luợc’’ và  “giải phóng miền Nam’’ vừa qua chỉ là những canh bạc bịp. Nhờ vào gian manh, thủ đoạn và tất cả những mánh khoé lường gạt cần thiết nên Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thắng. Còn nhân dân thì thua trắng tay.
Họ mất ráo mọi thứ, kể cả xương cốt của người thân, để đổi lấy... những bảng ghi công: Liệt Sĩ, Gia Đình Có Công Với Cách Mạng, Mẹ Việt Nam Anh Hùng... Hoặc giản dị hơn nữa là một cái bãi đất mênh mông (chi chít bia mộ) với bốn chữ  “Nghĩa Trang Liệt Sĩ" treo ở cổng vào, và chấm hết.
Chỉ có thế thôi mà bà Thắm vẫn bị đứng ngoài. Bà ta có lý do để buồn, dù đó một nỗi buồn “không lấy gì làm chính đáng.’’ Buồn hơn nữa là gần một phần hai thế kỷ sau khi chiến tranh chấm dứt, một số nguời Việt ở hải ngoại –  những kẻ có nhiều cơ hội để nhìn vấn đề một cách khách quan hơn – vẫn tiếp tục tranh cãi và xỉ vả lẫn nhau về những chuyện rất không cần thiết và cũng chả chính đáng tí nào.
Họ giống như những nguời đàn bà nhà quê đi chợ bằng xe lam. Trên xe bị một thằng lưu manh dụ chơi bài ba lá, lột hết tiền, và đuổi xuống xe. Thay vì xúm nhau, túm cổ thằng khốn nạn, vả cho nó rụng hết răng rồi lấy lại tiền thì họ quay ra xa xả đổ thừa lỗi lầm cho kẻ này nguời nọ; sau đó, họ cãi vã và xỉa xói lẫn nhau – bằng những ngôn từ nặng nề và thô tục đến độ khó ngờ.
  

NGUYỄN HƯNG QUỐC * TRÍ THỨC VÀ ĐỘC TÀI


Blog / Nguyễn Hưng Quốc

Trí thức và độc tài

Chân dung Kim Nhật Thành (Kim Il-sung, 1912-1994) và Kim Chính Nhật (Kim Jong-il, 1942-2011) tại Quảng trường Kim Il-Sung ở Bình Nhưỡng.Chân dung Kim Nhật Thành (Kim Il-sung, 1912-1994) và Kim Chính Nhật (Kim Jong-il, 1942-2011) tại Quảng trường Kim Il-Sung ở Bình Nhưỡng.
CỠ CHỮ
Đọc lịch sử các chế độ độc tài, từ độc tài phát xít với những Hitler và Mussolini đến độc tài cộng sản với những Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Nicolae Ceauşescu, và Kim Chính Nhật (bây giờ là Kim Chính Ân) hay độc tài quân phiệt với những Saddam Hussein, Muammar Gaddafi, Robert Mugabe…chúng ta không thể không ngạc nhiên.

Có rất nhiều điều để ngạc nhiên.

Thứ nhất, tất cả các tên độc tài, dưới nhiều nhãn hiệu khác nhau, đều vô cùng tham lam và độc ác. Chúng thâu tóm toàn bộ quyền lực trong tay và với quyền lực vô tận ấy, giết vô số người, từ những kẻ thù thực sự đến những kẻ thù tưởng tượng, trong đó phần lớn là chính dân chúng ở nước chúng.

Thứ hai, tất cả đều mắc bệnh huyễn tưởng, tự xem vị thế và quyền lực của mình như một thứ gì thuộc về thiên mệnh; và vì thiên mệnh, chúng nằm ngoài hoặc nằm trên không những luật pháp mà còn cả các nguyên tắc đạo lý thông thường của con người. Giết người, thậm chí, giết vô số người, với người khác, là tội ác; với chúng, là thiêng liêng và cao cả.

Thứ ba, vì căn bệnh huyễn tưởng ấy, rất nhiều nhà độc tài trở thành lố bịch, không khác những tên hề. Ceauşescu tự xưng mình là “Thiên tài của vùng Carparthians”, một vùng núi rộng lớn ở Trung Âu, kéo dài từ Slovakia qua miền Nam Ba Lan, miền Tây Ukraine đến tận phía Đông Bắc của Romania. Còn vợ của ông, Elena, người được cử làm Phó Thủ tướng, thì được tuyên truyền như một “Quốc mẫu”, một nhà khoa học vĩ đại (dù bà thực sự bỏ học từ năm 14 tuổi, và tất cả các cái gọi là “công trình khoa học”, kể cả luận án tiến sĩ của bà, đều do người khác viết). Rafael Trujillo, nhà độc tài ở Dominican Republic từ 1930 đến 1938 và từ 1942 đến 1952 thì tự xem mình là Thượng đế. Ông ta ra lệnh cho mọi nhà thờ trong nước phải khắc câu “Chúa ở trên Trời, Trujillo ở dưới Thế” (God in Heaven, Trujillo on Earth) và mọi bảng xe đều khắc câu “Trujillo vạn tuế”. Francisco Macias Nguema, nhà độc tài ở Equatorial Guinea từ năm 1968 đến 1979 cũng thế. Cũng tự xưng mình là Thượng đế. Dưới thời ông, biểu ngữ chính trong nước ghi “Không có Thượng đế nào khác ngoài Macias Nguema”. Saparmurat Niyazov, Tổng thống xứ Turkmenistan từ năm 1990 đến 2006 thì ra lệnh đổi tên 12 tháng trong năm theo tên ông và người thân trong gia đình của ông. Ông cũng viết sách và ra lệnh bất cứ người dân nào, để được thi lấy bằng lái xe, cũng phải thuộc lòng nguyên cả cuốn sách của ông.

Thứ tư, tất cả đều giả dối, đều sử dụng vô số huyền thoại láo khoét để biến mình thành thần tượng, thành những lãnh tụ anh minh, đầy viễn kiến, mở ra những chân trời mới cho đất nước hoặc cho cả nhân loại. Những huyền thoại ấy nhiều khi rất ngây ngô, ví dụ chuyện Kim Chính Nhật điều khiển đội tuyển bóng đá Bắc Triều Tiên trong giải World Cup 2010 bằng cách chỉ dẫn từng đường đi nước bước trong suốt trận đấu cho huấn luyện viên Kim Jong-Hun qua một chiếc điện thoại di động vô hình!

Nhưng cả bốn điều “đáng ngạc nhiên” trên đều không đáng ngạc nhiên bằng hai điều này:

Một, mặc dù tham lam, độc ác, mắc bệnh huyễn tưởng và giả dối như vậy, những tên độc tài ấy lại cầm quyền, hơn nữa, cầm quyền một cách tuyệt đối, trong thời gian rất dài, có khi cả đời hoặc nhiều đời, hết đời con đến đời cháu, chắt.

Hai, dù đầy khuyết điểm như vậy, những tên độc tài ấy vẫn được nhiều người, kể cả giới trí thức, thậm chí là trí thức xuất sắc ở Tây phương, ngưỡng mộ và hết sức bênh vực cũng như góp phần tuyên truyền cho chúng một cách nhiệt tình.

Trong hai điều trên, điều thứ hai quan trọng hơn. Giải thích điều thứ nhất, người ta có thể nói: Bởi các nhà độc tài đã xây dựng được một bộ máy tuyên truyền hữu hiệu đủ để nhồi sọ tất cả mọi người và một bộ máy quyền lực mạnh mẽ đủ để nghiền nát bất cứ người nào dám chống đối. Nhưng không có một bộ máy xã hội và chính trị nào có thể tồn tại độc lập. Vấn đề chính là ở con người, tức ở khía cạnh thứ hai, chúng ta vừa nêu ở trên: Tại sao người ta lại khiếp sợ và ngưỡng mộ các tên độc tài đến như vậy? Tại sao người ta lại để cho các tên độc tài dễ dàng lừa dối mình đến như vậy?

Trên thế giới, cũng có nhiều người từng ngạc nhiên như vậy. Có thời, những kẻ như Hitler, Mussolini, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Fidel Castro, thậm chí, Kim Chính Nhật đã trở thành thần tượng của nhiều trí thức và văn nghệ sĩ Tây phương. Đạo diễn Oliver Stone khen Fidel Castro là một kẻ “rất vị tha và đạo đức. Một trong những người khôn ngoan nhất trên thế giới.” Một đạo diễn khác, Steven Spielberg, cho “gặp gỡ Fidel Castro là tám giờ quan trong nhất” trong cuộc đời của ông.

Trước đó, ở Ý, Gabriele D’Annunzio, một nhà thơ lớn, cũng như nhiều nhà thơ thuộc trường phái Vị Lai khác, từng là những kẻ ủng hộ nhiệt thành Mussolini. Ở Đức, Hitler không thiếu người ngưỡng mộ, kể cả một trong những triết gia lớn nhất của thế kỷ, Heidegger, một trong những họa sĩ lớn nhất của thế kỷ, Salvador Dali, một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ, Ezra Pound. Nhà văn Na Uy từng đoạt giải Nobel năm 1920, Knut Hamsun, cũng rất ủng hộ Hitler.

Đối với các nhà độc tài cộng sản, số trí thức ngưỡng mộ nhiều hơn hẳn. Nhà văn Anh George Bernard Shaw (1856-1950) suốt đời ủng hộ Lenin, Stalin, và cả Hitler nữa. Cả Andre Gide và Doris Lessing đều từng ủng hộ Stalin tuy cả hai, sau đó, tự nhận là mình lầm.  Picasso, Bertolt Brecht, Pablo Neruda, W.E.B. Du Bois, Graham Greene, v.v. cũng đều ủng hộ Stalin; trong đó, có người vừa ủng hộ Stalin vừa ủng hộ Mao Trạch Đông.

Jean-Paul Sartre cũng từng là người ủng hộ Stalin và chế độ cộng sản rất nồng nhiệt. Ông là tác giả của một câu nói gây rất nhiều tai tiếng: “Mọi kẻ chống cộng đều là chó” (every anti-communist is a dog). May, sau đó, ông thay đổi thái độ. Khi quân đội Sô Viết xâm lăng Hungary vào tháng 11 năm 1956, ông lên án Liên Xô kịch liệt. Sự phê phán của Sartre đối với Liên Xô càng mạnh mẽ hơn nữa vào năm 1968 khi quân đội Xô Viết trấn áp dân chúng Czechoslovakia trong sự kiện được gọi là “mùa xuân Prague”. Trước năm 1975, trong chiến tranh Việt Nam, ông là người tích cực ủng hộ miền Bắc và lên án Mỹ một cách gay gắt.  Sau năm 1975, chứng kiến thảm cảnh của người Việt Nam vượt biển, ông lại lên tiếng phê phán chính quyền Việt Nam và kêu gọi chính phủ Pháp cứu giúp người tị nạn.

Chúng ta lại phải tự hỏi: Tại sao nhiều người trí thức lại dễ dàng bị các nhà độc tài lừa bịp đến như vậy? Tại sao họ lại nhẹ dạ và cả tin đến như vậy?

Nhớ, trước đây, trong những lần về Việt Nam, tôi gặp khá nhiều văn nghệ sĩ và trí thức ở miền Bắc. Nhiều người kể lại, trước phong trào đổi mới, đặc biệt, trước năm 1975, họ gần như tuyệt đối tin tưởng vào giới lãnh đạo và chế độ. Trong các buổi học tập chính trị và văn hóa, họ lắng nghe cán bộ giảng bài như nghe những lời thánh phán. Họ cắm cúi ghi chép rồi về nhà, đọc lại một cách thành kính. Sau này, cũng theo lời họ, đọc lại các cuốn sổ tay cũ, họ thấy những ý kiến trong ấy rất hời hợt, thậm chí, ngô nghê. Họ tự hỏi: Tại sao thời ấy họ lại xem những ý kiến ấy như những lời vàng ngọc như vậy? Chính họ, họ cũng không biết rõ câu trả lời. Tất cả đều cho: Đó chỉ là hậu quả của việc nhồi sọ.

Lại nhớ, mấy năm đầu sau 1975, một số trí thức Việt kiều ở Pháp về thăm nước rồi viết bài đăng tải trên báo chí ở Paris. Họ khen Việt Nam không tiếc lời. Trong lúc người Việt Nam đói đến xanh xao mặt mũi, họ khen đời sống rất sung túc. Trong lúc cả hàng chục ngàn người bị bắt đi cải tạo và con cái họ không được vào đại học, họ khen “chính quyền cách mạng” thực tâm hòa giải, không có bất cứ một chính sách kỳ thị nào đối với những người thuộc chế độ cũ trước đó. Trong lúc cả hàng triệu người bất chấp nguy hiểm tìm cách vượt biên tìm tự do, họ cho Việt Nam là một quốc gia dân chủ và ao ước một ngày nào đó được về nước sống hẳn (dù trên thực tế, không bao giờ họ về cả!)

Trí thức trong nước bị nhồi sọ. Nhưng còn trí thức ngoài nước thì sao?

Trong lúc loay hoay tìm cách trả lời cho câu hỏi ấy, cũng như câu hỏi về sự nhẹ dạ và cả tin của trí thức thế giới nói chung, tự dưng tôi nhớ đến mấy câu thơ của Nguyễn Quốc Chánh trong bài “Tao là đứa bé ngoẻo trên lưng Linda Lê”:

“Có 3 thứ không thể kết hợp với nhau nổi. Đó là: Thông minh, lương thiện & cộng sản.

Một người thông minh & lương thiện thì không thể cộng sản,
Một người thông minh mà cộng sản thì không thể lương thiện, &
Một người lương thiện mà cộng sản thì chắc chắn không thông minh.”

Những câu thơ ấy ám ảnh tôi đến độ tôi không thể nghĩ tiếp được nữa.

Đành dùng chúng thay cho lời kết luận của bài viết.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Nguyễn Hưng Quốc

Nhà phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về văn học Việt Nam.

Friday, May 10, 2013

NGUYỄN NGỌC SẲNG * VƯỢT BIÊN

Người Việt Nam tiếp tục trốn khỏi "thiên đường Xã Hội Chủ Nghĩa"

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sẵng (Danlambao) - Viết theo bản tin của hãng Thông Tấn AP ngày 9 tháng 5 năm 2013 
Tấm hình dưới đây được chụp vào rạng sáng ngày 14 tháng Tư năm 2013, một nhóm người tị nạn Việt Nam đổ bộ vào cầu tàu Đảo Giáng Sinh (Christmas Island) của Úc. Sau gần 40 năm sống với chế độ cộng sản, nhóm khoảng 40 người Việt Nam dùng tàu đánh cá vượt biển lần nữa, theo lời kể của những người chúng kiến tại bãi biển.
(Ảnh - Chris Brummitt, Associated Press, May 9, 2013) 
Chỉ trong năm nay, 460 người Việt Nam gồm đàn ông, đàn bà và trẻ em đã đến bờ biển Úc. Sự tăng vọt nầy liên quan đến sự vi phạm nghiêm trọng về nhân quyền, dù rằng sự suy sụp kinh tế cũng có thể giải thích cho chuyến đi đầy mạo hiểm nầy. 
Chiếc ghe gỗ chở người tị nạn Việt Nam cập vào đảo Giáng Sinh vào buổi sáng tháng Tư năm nay xuất phát từ tỉnh Kiên Giang, miền Nam Việt Nam cách đảo Giáng Sinh 2300 cây số. 
Sau khi đến Úc, những người tị nạn Việt Nam nầy bị giam cách ly. Nhà cầm quyền không tiết lộ bất cứ chi tiết nào về tôn giáo, nguyên quán của họ tại Vi ệt Nam. 
Được phỏng vấn qua điện thoại từ trại giam Villawood Immigration Detention Center, ngoại ô thủ đô Sydney, ông Trương Chi Liêm từ chối cho biết về trường hợp của ông, nhưng ông nói “thà tôi chết ở đây chớ không trở về Việt Nam”. 
Người đàn ông 23 tuổi nầy đã rời Việt Nam 5 năm qua và bị giam tại Nam Dương 18 tháng trên đường tìm đến Úc. Ông nói nếu người Việt Nam chỉ ra đi vì lý do kinh tế, họ sẽ không chấp nhận hành trình nguy hiểm nầy, đối diện với đàn áp, đe dọa bởi chánh quyền họ mới phải chấp nhận ra đi. 
Một số người Việt đến nước Úc từ Việt nam qua ngả Nam Dương, theo cùng hành trình mà những người Nam Á và Trung Đông đã đánh dấu từ nhiều thập niên trước dù là chặng đường nầy dài và đầy gian nguy. 
Chánh quyền Úc và Việt Nam liệt những người nầy là dân tị nạn kinh tế, không cho họ được hưởng quyền tị nạn chánh trị, nhưng những nhà hoạt động xã hội, những luật sư Việt nam tại Úc phản bác lại cách thức phân loại nầy và họ nghi ngờ cách thức thanh lọc của Úc. 
Những nhà hoạt động xã hội, những luật gia nầy nêu lên những quan ngại rằng nếu Úc không cho họ định cư, Việt Nam không chấp nhận họ hồi hương. Họ sẽ đi đâu. 
Vấn đề tị nạn là vấn đề nhạy cảm với chánh quyền Việt Nam, nó phơi bày bề trái cuộc sống mà họ tuyên truyền rằng cuộc sống của người dân trong nước rất tốt đẹp. 
Ngay sau chiến thắng của người cộng sản, người Việt bị ngược đãi, hành hạ, bỏ nước ra đi gây chấn động lương tri nhân loại. Thảm trạng đó làm se lòng người Hoa Kỳ và đồng minh họ, và họ lập tức chấp nhận tình trạng tị nạn của người Việt Nam. Gần 900,000 người Việt vượt biển, vượt biên bằng đường bộ được chấp nhận định cư tại Hoa Kỳ, Canada và Úc. 
Việt Nam vẫn duy trì chế độ độc đảng. Nhà cầm quyền cộng sản gia tăng đàn áp, bỏ tù dài hạn những người bất đồng chính kiến, kể cả những nhà báo mạng, những vị lãnh đạo tôn giáo đòi hỏi quyền tự do tôn giáo. Tổ chức Theo Dỏi Nhân Quyền (Human Rights Watch) cáo buộc nhà cầm quyền Hà Nội tra tấn tù nhân thường xuyên. Nhóm Thiên Chúa Giáo đã công bố những phúc trình về những cái chết đầy nghi vấn của những người bị giam giữ trong nhà tù Việt Nam. 
Những quan sát viên độc lập về nhân quyền cho biết tình trạng đàn áp tại Việt Nam trong hai năm qua gia tăng nghiêm trọng. 
Những thuyền nhân vừa mới đến Úc nầy, theo ông Kaye Bernard, người ủng hộ dân tị nạn, cho rằng một nhóm trong họ là những người Thiên Chúa Giáo biểu tình đòi tự do tôn giáo gần nhà thờ Chánh Tòa Hà Nội, những người khác là dân oan khiếu kiện việc họ bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam cướp đất họ. 
Ông Peter Hansen, một luật sư, và là chuyên gia về Việt Nam cố vấn cho một số người tị nạn, trong những khiếu nại mà ông lưu ý, ông cho rằng ông không thể giải thích được lý do tại sao con số người tị nan gia tăng trong năm nay, nhưng có điều ông biết chắc là những người nầy không phải đi tị nạn kinh tế. Và ông cũng lưu ý chánh quyền Úc là chưa có những qui chế cho những người tị nạn tôn giáo của những giáo phái nhỏ ở Việt Nam. 
Nước Úc là điểm chọn lựa của nhiều người tị nạn, nhưng trong năm nay họ đã có quá nhiều người tị nạn đến rồi. Trước áp lực của dân chúng, chánh quyền Canberra đã tìm cách làm nản lòng người tị nạn bằng cách giam họ nơi các đảo để cách ly với luật sư họ. Những nhà phê bình cho rằng Úc tránh né trách nhiệm quốc tế khi áp dụng các biện pháp nầy. 
Úc có chủ đích gây khó khăn cho người tị nạn Việt nam để chánh quyền Hà Nội nhận lại những công dân họ, nhưng họ thất vọng vì Hà Nội không bày tỏ dấu hiệu nào muốn nhận những người mà họ cho rằng không thể nào sống với họ được. Họ muốn phủi gánh nặng đó cho nhà cầm quyền Úc. 
Trong 101 người tị nạn Việt Nam đến Úc năm 2011, chỉ có 6 người bị từ chối cấp qui chế tị nạn ở Úc. 
Gần 40 năm sống dưới thiên đường xã hội chủ nghĩa, nơi mà người cộng sản cho rằng người dân của họ có mọi quyền tự do một ngàn lần hơn người dân tại các nước tư bản. Tại sao người Việt Nam vẫn liều chết trong những chiếc thuyền đánh cá nhỏ cố vượt đại dương để đi tìm điều gì? Điều nầy một lần nữa xác nhận rằng với người cộng sản, chúng ta không thể nào biết được khi nào họ bắt đầu sự chân thật, và khi nào họ chấm dứt sự lừa dối. 

TIN TỨC GẦN XA

 

 Đệ trình dự luật Nhân quyền Việt Nam 2013
Hòa Ái, phóng viên RFA
2013-05-08
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
20130508_093722-305.jpg
Dân biểu Ed Royce phát biểu tại buổi đệ trình lên Quốc Hội bản dự thảo “Đạo luật Nhân Quyền VN năm 2013” ở tòa nhà Hạ viện Rayburn hôm 8/5.
RFA


Tiếp theo sự kiện điều trần về VN vi phạm nhân quyền diễn ra hôm mùng 10/4, ngày hôm qua, mùng 8/5, cũng tại tòa nhà Hạ viện Rayburn, các Dân biểu thuộc hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ đệ trình lên Quốc Hội bản dự thảo “Đạo luật Nhân Quyền VN năm 2013”.

Vận động cho dân chủ ở VN

Với mục đích vận động cho tự do và dân chủ ở VN, bản dự thảo “Đạo luật Nhân quyền Việt Nam năm 2013” được đệ trình với nhiều triển vọng sẽ được Hạ viện và Thượng viện thông qua trong năm nay. Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Hạ viện, Dân biểu Ed Royce nhấn mạnh trong lời phát biểu của mình rằng:
“Vì chỉ trong vòng 6 tuần lễ đầu tiên trong năm nay, có rất nhiều các trường hợp những nhà bất đồng chính kiến ở VN bị bắt và giam giữ so với năm trước đây. Có đến 40 trường hợp bị giam giữ được thông báo. Thật sự là điều không thể tin nổi khi VN đang cố gắng trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ mà càng ngày lại càng tiếp tục có nhiều hành động chống lại nhân quyền. Tự do ngôn luận - tự do lập hội - tự do tôn giáo, VN đều không có.”
Trước tình trạng vi phạm nghiêm trọng về tự do tôn giáo của nhà cầm quyền Hà Nội, Dân biểu Ed Royce lên tiếng yêu cầu Hoa Kỳ cần phải đưa VN trở lại danh sách CPC.
Thật sự là điều không thể tin nổi khi VN đang cố gắng trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ mà càng ngày lại càng tiếp tục có nhiều hành động chống lại nhân quyền.
-Dân biểu Ed Royce
Trong số những người ủng hộ cho “Đạo luật Nhân quyền VN”, cựu Đại sứ Hoa Kỳ - ông Grover Joseph Rees chia sẻ rằng những lý giải của chính quyền VN trong thời gian ông làm việc trao đổi với họ về dân chủ - nhân quyền là không thể chấp nhận được. Hà Nội luôn luôn cho rằng không có tù nhân chính trị ở quốc gia họ. Những tù nhân mà phía Hoa Kỳ đề cập đến được giải thích đó là vì vi phạm luật pháp của VN. Và VN cho rằng nền dân chủ ở đây có phần khác biệt. Ông Grover Rees, một người làm việc trong Quốc Hội và công việc chính phục vụ cho nền dân chủ đa sắc tộc, nói rằng một quốc gia như VN mà những người dân bình thường trong xã hội phải tuân thủ theo những quy định sai trái của chính quyền thật giống như địa ngục nơi trần gian. Vị cựu Đại sứ Hoa Kỳ này quả quyết tiếp tục theo đuổi vận động cho tự do và nhân quyền cho người dân ở VN.

Tác giả bản dự thảo “Đạo luật Nhân quyền Việt Nam năm 2013”, Dân biểu Chris Smith tuyên bố năm 2013 là thời điểm để Hoa Kỳ cần đưa VN trở lại danh sách CPC vì 7 năm trước VN được loại ra khỏi danh sách này với hy vọng tự do dôn giáo được cải thiện theo như hứa hẹn của Hà Nội. Tuy nhiên, trước các bằng chứng qua buổi điều trần về VN vi phạm nhân quyền hôm mùng 10/4 cho thấy rõ ràng tình trạng vi phạm nhân quyền và đàn áp tôn giáo ở VN ngày càng trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết.

20130508_093934-250.jpg
Dân biểu Chris Smith phát biểu tại buổi đệ trình lên Quốc Hội bản dự thảo “Đạo luật Nhân Quyền VN năm 2013” ở tòa nhà Hạ viện Rayburn hôm 8/5. RFA PHOTO.
Một nhạc sĩ Việt Khang, một blogger Điếu cày, một Mục sư Phạm Công Chính, một Linh mục Nguyễn Văn Lý và còn có những bác sĩ, luật sư, nhiều người dân sắc tộc Khmer Krom, người Thượng ở Tây Nguyên cùng rất nhiều người dân bình thường khác đang phải chịu bắt bớ, giam cầm đọa đày trên chính quê hương vì đã cất lên tiếng nói chính kiến của mình, vì theo đuổi tự do tín ngưỡng cũng như thực thi những quyền con người căn bản nhất.
Tác giả dự thảo “Đạo luật Nhân Quyền Việt Nam năm 2013” lên tiếng yêu cầu chính quyền Obama chỉ viện trợ cho VN ngoài các chương trình nhân đạo khi nào Nhà nước VN tôn trọng tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do lập hội đoàn, trả tự do cho các tù nhân lương tâm, cần phải hủy bỏ và sửa đổi các điều luật trong Bộ luật Hình sự cáo buộc người dân tội “chống phá Nhà nước”, phải tuân theo các tiêu chuẩn nhân quyền Quốc tế mà VN đã ký kết tham gia, tôn trọng các nhóm người sắc tộc thiểu số và cần tiến hành các bước đúng đắn để chấm dứt tình trạng các quan chức hỗ trợ cho tệ nạn buôn người.

Quốc hội sẽ thông qua?

Lúc này là lúc chúng ta nhìn vào thực trạng, xem họ đã vi pham các tiêu chuẩn về nhân quyền quốc tế thế nào, chúng ta quyết định các biện pháp trừng phạt cho những hành xử không đúng.
-Dân biểu Chris Smith
Trả lời câu hỏi của đài ACTD rằng có nhiều hy vọng cho “Đạo luật Nhân quyền Việt Nam” sẽ được cả Hạ viện và Thượng viện thông qua trong năm 2013 này, Dân biểu Chris Smith nói là khả năng được thông qua ở Hạ viện là rất lớn vì buổi điều trần tại hội đồng được được mọi người quan tâm. Dân biểu Chris Smith cho rằng đối với Thượng viện, theo như Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Hạ viện, Dân biểu Ed Royce nói là thất vọng trong vài năm trước vì đã không được thông qua bởi một hoặc hai cá nhân. Trong năm 2013 này, các Dân biểu đồng bảo trợ “Đạo luật Nhân quyền Việt Nam” cùng với tác giả Chris Smith thuyết phục Nhà Trắng áp dụng các biện pháp chế tài đối với VN vì những hành xử không đúng về nhân quyền của Hà Nội. Dân biểu Chris Smith nói:
“Chính phủ của tổng thống Bush và Obama đã không giải quyết vấn đề vi phạm nhân quyền VN một cách có hiệu quả, cho nên lúc này là lúc chúng ta nhìn vào thực trạng, xem họ đã vi pham các tiêu chuẩn về nhân quyền quốc tế thế nào, chúng ta quyết định các biện pháp trừng phạt cho những hành xử không đúng. Năm 2013, có thể có người nói là cho VN thêm một hai năm nữa để cải thiện tình hình, thương mại hai bên đã tăng mạnh lên đến 25 tỉ đô la giữa 2 nước giữa hai nước nhưng tình hình nhân quyền đã xuống dốc quá mức, nếu chúng tôi không lên tiếng thì ai sẽ lên tiếng?”
Các Dân biểu đồng bảo trợ cho “Đạo luật Nhân quyền Việt Nam” khác cũng lên tiếng kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam cần phải thay đổi tích cực để có cơ hội thảo luận với Hoa Kỳ về Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và cần có hành động đúng đắn để cải thiện tình trạng tự do-nhân quyền để giúp cho việc xây dựng quốc gia trên giá trị căn bản quyền con người.
Hòa Ái tường trình từ Quốc hội Hoa Kỳ.

Những trở ngại của Project Vietnam trong công tác y khoa thiện nguyện

Thanh trúc, phóng viên RFA
2013-05-10
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Trang web của Chương trình Project Vietnam
Trang web của Chương trình Project Vietnam
RFA
Nghe bài này
Project Vietnam, Dự Án Việt Nam, tổ chức y khoa thiện nguyện ở Nam California  với những toán bác sĩ và nhân viên y tế chuyên môn người Mỹ và người Việt, một năm hai lần về Việt Nam từ năm 1996  đến nay.


Làm khó những đoàn thiện nguyện?
Ba mục tiêu chính yếu của Project Vietnam là chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em tại những vùng sâu vùng xa, giảm thiểu tử vong trẻ sơ sinh, huấn luyện và đào tạo về cấp cứu hồi sức sơ sinh cho bác sĩ và nhân viên y tế tại những vùng miền mà phương tiện y khoa tân  tiến còn bị nhiều  hạn chế.
Bao năm qua, Project Vietnam chỉ tường trình về công việc, thành quả, những chuyến đi, những lần trở về, rồi là dự tính và chuẩn bị cho đợt tới, chứ không nghe gì đến trở ngại hay vấn đề mà một phái đoàn vốn đặt trọng tâm phục vụ cũng như theo đúng nguyên tắc và lịch trình công tác lên trên hết, phải đương đầu:

Năm nay là năm thứ 18, chuyến  đi Việt Nam lần này thì thực sự nó cũng phức tạp và kéo dài hơn các chuyến đi bình thường. Trước giờ chúng tôi gặp khó khăn về nhiều mặt. Trước giờ đã xảy ra là ba lần rồi. Một lần chúng tôi  đến tận nơi rồi thì  họ nói lúc trước bảo năm ngày nhưng bây giờ chỉ có thể làm hai ngày thôi, thì mình phải đi kiếm nơi khác cho phái đoàn làm việc thêm ba ngày. Lần đó là  nó đã xảy ra hồi 2010 ở Bắc Cạn. Nhưng lần này là lần đầu tiên mà chúng tôi gặp khó khăn ở tại guồng máy hành chánh của Sở Y Tế.
Đó là lời bác sĩ Quỳnh Kiều, người sáng lập Project Việt Nam, kể về chuyến công tác tháng Ba năm nay mà phái đoàn gồm các bác sĩ Mỹ và Việt cùng hơn 70 thiện nguyện viên đa số người nước ngoài, đã phải lưu lại miền Trung dài ngày hơn dự tính do những khó khăn mà đoàn gặp phải đối với Sở Y Tế địa phương
.
Các cháu bé phải được chăm sóc kỹ lưỡng sau khi lọt lòng mẹ
Các cháu bé phải được chăm sóc kỹ lưỡng sau khi lọt lòng mẹ
Trước giờ chúng tôi gặp khó khăn về nhiều mặt. Trước giờ đã xảy ra là ba lần rồi. Mộtlần chúng tôi đến tận nơi rồi bảo năm ngày nhưng bây giờ chỉ có thể làm hai ngày thôi...Nhưng lần này là lần đầu tiên mà chúng tôi gặp khó khăn ở tại guồng máy hành chánh của Sở Y Tế
BS Quỳnh Kiều
Theo chương trình, tuần lễ đầu nhóm phẫu thuật sang làm việc tại vùng Takeo bên Kampuchia, là vùng biên giáp Việt Nam, có nhiều người Việt nghèo khó cư ngụ:
Đó là tuần lễ đầu tiên là tuần lễ từ cuối tháng Hai tới đầu tháng Ba. Tuần lễ thứ hai thì chúng tôi có một nhóm là nhóm khám bệnh ở vùng sâu vùng xa, dự tính làm việc ở Quảng Ngãi. Và nhóm thứ ba, luôn có và làm việc trong hai tuần lễ của tháng Ba, về phương diện đào tạo huấn luyện. 


Đào tạo huấn luyện luôn được Project Vietnam coi là sự thành công, trong lúc nhóm phẫu thuật cũng gặt hái được nhiều thành quả rất tốt. Đây là lần đầu tiên mà nhiều trẻ em Việt ở Kampuchia được mổ mắt vì trước giờ bệnh viện lớn này ở Kampuchia do thiếu phương tiện gây mê cũng như kiến thức chuyên môn về nhãn khoa thiếu nhi nên chỉ mổ mắt cho ngưới lớn mà thôi:
Đây cũng là dịp mà chúng tôi vừa giúp cho các trẻ em một cách thực tế mà cũng vừa đem lại một số hiểu biết mới cũng như xây  dựng cho những bác sĩ ở tại nơi.
Thế nhưng lấn cấn nhiều nhất, bác sĩ  Quỳnh Kiều trình bày tiếp, chính là công việc của nhóm khám bệnh ở Quảng Ngãi, một tỉnh mà theo đánh giá toàn quốc năm 2012 là nơi có nhiều tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh cao nhất nước:

Chúng tôi đã chuẩn bị không những về sơ sinh mà cũng có một bác sĩ chuyên môn về sản phụ khoa để làm việc ở đó hơn mười ngày. Đó là chúng tôi đã được Tòa Lãnh Sự Việt Nam ở San Francisco giới thiệu và đã có giấy mời của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Ngãi. Chúng tôi cứ theo đó mà làm việc, đã mua vé máy bay và làm những gì cần thiết vì phái đoàn chúng tôi là luôn luôn phải tự lo tự trả tiến lấy những vấn  đề ăn ở. Chúng tôi đã tuyển mộ những người tự nguyện, chuẩn bị mua thuốc, trang thiết bị vân vân... 

Những buổi hướng dẫn cho các bà mẹ trẻ của  Project Vietnam
Những buổi hướng dẫn cho các bà mẹ trẻ của Project Vietnam

Thế nhưng một tuần trước khi sẳn sàng tới Quảng Ngãi, Project Vietnam nhận được một thư cho hay  trong thời gian tới không thể tiếp phái đoàn do có một số vấn đề nội bộ phải tập trung giải quyết:
Thơ đó là do Sở Ngoại Vụ của tỉnh Quảng Ngãi, nhưng mà lúc đó chúng tôi cũng được Tòa Lãnh Sự cho biết là Quảng Ngãi đang qua một thời gian khủng hoảng về y tế vì  có quá nhiều vấn đề về tử vong bà mẹ sơ sinh. Lúc đó là lãnh đạo bên Sở Y Tế và lãnh đạo ở bệnh viện là thay đổi hoàn toàn. Chúng tôi được biết như vậy nhưng trong thơ họ chỉ nói là có một số vấn để phải tổ chức lại trong nội bộ.
Vì đặt nặng vấn đề đào tạo khám chữa bệnh cũng như huấn luyện y tế, hai lãnh vực mang lại phúc lợi cho người bệnh cũng như sự thay đổi hữu hiệu trong cách làm việc của nhân viên y tế, đặc biệt được  Bệnh Viên Nhi Đồng 2 của Việt Nam hưởng ứng và khuyến khích, đoàn của Project Vietnam nhất quyết phải thực hiện cho được những khóa đào tạo huấn luyện đã được trang bị kỹ càng cho Quảng Ngãi:
Lúc nhận được thơ từ chối là ngày cuối cùng trước khi họ nghỉ Tết...Và như vậy các chuyên gia bên Project Vietnam, bác sĩ, y sĩ chuyên môn về sơ sinh vẫn tới để đào tạo cho họ, nhưng nhóm khám bệnh thì họ nói họ không thể tiếp được. Nhóm đào tạo thì làm việc ngay tại bệnh viện mà không đông, chỉ khoảng mười người
Lúc nhận được thơ từ chối là ngày cuối cùng trước khi họ nghỉ Tết. Nguyên một tuần lễ thì mình đâu thể làm gì được. Sau khi họ trở lại làm việc thì lúc đó Bệnh Viện Nhi Đồng 2 là đối tác của chúng tôi ở trong nước, làm việc với họ. 


Và như vậy nhóm của mình vừa các chuyên gia bên Project Vietnam, bác sĩ, y sĩ chuyên môn về sơ sinh vẫn tới để đào tạo cho họ, nhưng nhóm khám bệnh thì họ nói họ không thể tiếp được. Nhóm đào tạo thì làm việc ngay tại bệnh viện mà không đông, chỉ khoảng  mười người thôi, nhưng dù sao cũng đòi hỏi là bên Sở Y Tế phải tập trung những bác sĩ ở bệnh viện, nhân viên ý tế và y sĩ từ các trạm xá.
Năm nay chúng tôi khởi đầu một chương trình mẫu, một chương trình mới, của Hàn Lâm Viện Y Khoa Hoa Kỳ, kêu là giúp cho trẻ em thở. Chương trình này rất phù hợp với vùng sâu vùng xa, nó đơn giản , nó là phương pháp giảng dạy dễ nhớ và dễ thực hiện.


Bất cần hay quan liêu?
Đây  cũng là  lần đầu tiên Project Vietnam được phép của Hàn Lâm Viện Y Khoa Hoa Kỳ để giảng dạy chương trình này và đã  bỏ ra nhiều công sức để dịch tài liệu ra tiếng Việt. Công việc này được bệnh viện Đà Nẵng và Sở Y Tế Đà Nẵng đón tiếp rất nhiệt tình, bác sĩ Quỳnh Kiều nói:
Nhưng khi đến bệnh viện đa khoa Quảng Ngãi chúng tôi mới thấy Khoa Sản Phụ nói với chúng tôi là họ sẵn sàng chờ đợi bác sĩ sản phụ khoa đến để giảng dạy cho họ,  họ đã chuẩn bị sẵn bệnh nhân để được phẩu thuật các thứ.
Như vậy, theo bác sĩ Quỳnh Kiều, lãnh đạo tỉnh làm gì hay tính gì đều không cho các bác sĩ tại bệnh viện biết:
Tuy một mắt trả lời là không thể đón tiếp chúng tôi được, nhưng mắt khác thì có nhu cầu rõ ràng về những kỹ năng mới đó. Bệnh nhân đã đến rồi, chờ đợi rồi, mà có thay đổi chương trình cũng không thông báo cho họ biết
BS Quỳnh Kiều
Tuy một mắt trả lời là không thể đón tiếp chúng tôi được, nhưng mắt khác thì có nhu cầu rõ ràng về những kỹ năng mới đó. Bệnh nhân đã đến rồi, chờ đợi rồi, mà có thay đổi chương trình cũng không thông báo cho họ biết.
Chúng tôi đến là thực hiện được khóa huấn luyện. Huấn luyện hồi sức cấp cứu sơ sinh nâng cao là chúng tôi đã có một dự án về Việt Nam thực hiện từ năm 2008. Bởi vậy  ở Bệnh Viện Nhi Đồng 2 nhân viên giảng dạy của họ rất lành nghề rất bài bản. Sau khi giảng dạy thì chúng tôi tặng cho họ 50 bộ hồi sức cấp cứu trị giá năm ngàn đô. Họ rất mừng.
Đó là phần huấn luyện đào tạo tại bệnh viện Quảng Ngãi mà đoàn đã vượt qua trở ngại để thực hiện như chương trình vạch ra. Về phần nhóm chữa bệnh gồm hơn bảy chục tình nguyện viên, đã bị từ chối tiếp đón thì sao. Project Vietnam và bác sĩ Quỳnh Kiều đã phải vận động và kiếm ra một nơi khác cho đoàn làm việc:
Trong tuần lễ sau khi nghỉ Tết thì chúng tôi làm việc nào là bên Lãnh Sự, nào là các cơ quan trong nước, giúp chúng tôi kiếm những địa điểm cũng là  ở miền Trung để chúng tôi có thể đem phái đoàn tới khám bệnh. Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Khánh Hòa đã nhận lời đón tiếp chúng tôi. Tỉnh Khánh Hòa thì trước giờ chúng tôi đã mang phái đoàn đến bốn lần rồi,  để làm những công tác đào tạo, khám bệnh, phẫu thuật. Khánh Hòa cũng là điểm mẫu cho chương trình sơ sinh của chúng tôi hồi 2005.
Tôi không biết cô Phượng đó có phải là cao cấp trong đảng không mà có thái độ bất cần như vậy. Giống như là tự cô quyết và ông phó giám đốc Sở Y Tế vẫn không giải quyết được cho chúng tôi. Tưởng tượng một nhân viên chánh văn phòng mà có quyền quyết, trong lúc ông xếp thì bảo thôi thì bây giờ phải ông giám đốc quyết
BS Quỳnh Kiều
Thay vì bay ra Đà Nẵng rồi đi xe xuống Quảng Ngãi, mọi người phải  mua vé mới để bay ra Nha Trang. Cả đoàn có mặt ngày Chủ Nhật 3 tháng Ba và chuẩn bị sẳn sàng cho ngày làm việc hôm sau.
Tuy  đã có thơ của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Khánh Hòa giao cho Sở Y Tế làm việc với đoàn về phương diện chuyên môn để đoàn có thể thực hiện dự án của mình, nhưng:

Khi chúng tôi tiếp xúc thì lại gặp cô chánh văn phòng của Sở Y Tế, cô nói hãy còn thiếu rất nhiều giấy tờ và cho chúng tôi một danh sách rất là dài những giấy tờ cần phải cung cấp, trong lúc tuần trước đó là mình  đã cung cấp những thông tin thường xuyên cần phải có về chuyên  gia, thành phần phái đoàn, về thuốc mình sử dụng và những hoạt động của đoàn. Và mình đã được họ cho ba xã để hoạt động trong vòng ba ngày và sau đó nửa ngày ở một trung tâm xã hội. Tức là làm việc hết ba ngày rưỡi.
Thế thì  đã có tên  của những xã đó mà thứ Hai thì cô ấy lại  đòi hỏi sáng thứ Ba đầu giờ phải có tất cả những gì cô cần, trong đó phải kiểm kê thuốc men mang qua. 


Cho rằng đòi hỏi này cũng hợp lý, mọi người trong đoàn đã thức suốt đêm để kê khai các loại dược phẩm cũng như các trang thiết bị mang theo dù như đã cung cấp trước đó rồi:
Cô còn đòi những chuyện lặt vặt như ống nghe, máy đo huyết áp là những chuyện mà mình coi rất thông thường. Kề như nhóm lãnh đạo là không ngủ luôn. Tám giờ họ mở cừa thì trước 8 giờ chúng tôi đã có mặt  ở Sở Y Tế, cầm những danh sách đó để giao cho cô chánh văn phòng.
Tuy nhiên sáng đó thì cô Phượng, chánh văn phòng của Sở Y Tế tỉnh Khánh Hòa, vẫn trả lời là không thể cho đoàn khám bệnh chữa bệnh làm việc:

Cô ấy trả lời là gấp quá không thể làm được, thôi hẹn năm sau, hẹn kỳ sau, mà đúng ra thì mình phải làm việc thứ Tư, thứ Năm và thứ Sáu.
Sau đó đoàn yêu cầu một buổi họp với Sở Y Tế với yêu cầu phải cho biết rõ ràng vì sao không thể khám chữa bệnh được:

Khi chúng tôi ngồi suốt trong đó để giải quyết vấn đề thì cô ấy mới bảo là đưa bác sĩ phó giám đốc ra để gặp, trong lúc tôi đã nhờ liên hệ trực tiếp với bên Liên Hiệp Hữu Nghị tức cơ quan chuyên giúp các tổ chức thiện nguyện, cũng như bên Tòa Lãnh Sự.
Họ nói chuyện với ông phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân, ông nói cái này đã giao cho Sở Y Tế. Tức nhiên theo Ủy Ban Nhân Dân thì không có gì thay đổi. 

Khi đó đoàn mới vỡ lẽ  rằng mọi trở ngại đến từ phía Sở Y Tế, chính xác hơn là đến từ một nhân viên Sở Y Tế, cô Phượng, bên cạnh đó là cả một sự quản lý kém rất hiển nhiên:
Tôi không biết cô Phượng đó có phải là cao cấp trong đảng không mà có thái độ bất cần như vậy. Giống như là tự  cô quyết và ông phó giám đốc Sở Y Tế vẫn không giải quyết được cho chúng tôi. Tưởng tượng một nhân  viên chánh văn phòng mà có quyền quyết, trong lúc ông xếp thì bảo thôi thì bây giờ phải ông giám đốc quyết, mà ông giám đốc thì cũng kể như lặn luôn.
Là một tổ chức y khoa có uy tín và trách nhiệm, từng về Việt Nam một năm đôi ba lần trong 18 năm qua, Project Vietnam không thể lần này đi không lại về không:

Tụi tôi phải trực tiếp đến Ủy Ban Nhân Dân, Ủy Ban Nhân  Dân có một buổi họp khẩn, sau đó chỉ thị xuống Sở Y Tế  giải quyết thì thứ Năm chúng tôi mới làm việc được, mất nguyên một ngày. Huyện mà chúng tôi làm việc là Cam Lâm ở vùng sâu vùng xa thuộc Cam Ranh.
Thay vì làm việc ở ba xã như được hứa thì Sở Y Tế đã thay đổi, gởi đoàn xuống một bệnh viện mới xây ở Cam Lâm. Vì mới nên bệnh viện rất đẹp và rất sách, tiếc rằng chỉ khám cho bệnh nhân có bảo hiểm, trong lúc đoàn của Project Vietnam chỉ muốn khám cho người nghèo:
Khi chúng tôi đến bệnh viện này thì khoảng 10 giờ họ đã xong hết rồi tại vì người bảo hiểm đâu có bao nhiêu, dân  chúng được báo thì có hạn thôi. Thành ra ngày đó chúng tôi giải quyết được khoảng 500 người thôi.
Đến hôm sau, khi dân chúng được thông báo thì quá đông, kể như trong vòng một ngày rưỡi mà chúng tôi khám khoảng 1.200 người bệnh.
Người nghèo, sức khỏe bà mẹ trẻ em,  hồi sức cấp cứu sơ sinh là những lý do níu kéo Project Vietnam trở lại, còn khó khăn là chuyện không đáng kể:
Trong 64 tỉnh thì chỉ còn 12 tỉnh chưa nhận được chương trình hồi sức cấp cứu sơ sinh, trong đó có Quảng Ngãi và Cao Bằng. Trong chuyến đi này chúng tôi đã thành công là đem chương trình hồi sức cấp cứu sơ sinh đến hai tỉnh đó.
Ngoài những cái khó khăn mà mình gặp thì cũng phải có những cái động lực làm cho những thiện nguyện viên của mình và ban quản trị muốn vượt qua để tiếp tục trở lại.
Mục Đời Sống Người Việt Khắp Nơi xin tạm dừng ở phút này. Thanh Trúc sẽ tái ngộ quí thính giả tối thứ Năm tuần tới.
 http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/probl-for-womedi-tea-05082013151941.html

Xâm lược không tiếng súng

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2013-05-09
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Trung Quốc đưa hơn 30 tàu cá lớn cùng nhiều tàu hải giám xuống quần đảo Trường Sa (tháng 5, 2013)
Trung Quốc đưa hơn 30 tàu cá lớn cùng nhiều tàu hải giám xuống quần đảo Trường Sa (tháng 5, 2013)
RFA
Nghe bài này

Trung Quốc lại một lần nữa tìm cách bẻ gãy sự hợp lực của ASEAN qua chuyến công du của Ngoại trưởng Vương Nghị nhưng xem ra không thành công. Con bài tiếp theo nhằm khống chế các nước đang tranh chấp trong khu vực có phải là cuộc chiến lấn biển bằng tàu dân sự, bằng giàn khoan khổng lồ và các khảo sát mang tên khoa học trong vùng biển hoàn toàn  không phải của họ?
Vừa đánh trống vừa ăn cướp
Chuyến công du đầu tiên của ông Vương Nghị sau khi nhậm chức Bộ trưởng Ngoại Giao Trung Quốc đã làm các nước hiếm hoi còn nằm trong khối cộng sản bỡ ngỡ khi ông này không ghé Việt Nam như thường lệ mà lại dừng chân tại Thái Lan nhằm đưa một thông điệp cho nước này rằng mối quan hệ Trung - Thái là kho báu và cần được nuôi dưỡng bởi hai quốc gia.
Điều mà Ngoại trưởng Vương Nghị gọi là kho báu ấy có khác với 16 chữ vàng và bốn tốt như từng đưa ra với Việt Nam hay không thì khối ASEAN đã biết rất rõ và vì vậy mặc dù ông Vương Nghị thăm thêm ba nước nữa là Indonesia, Singapore và Brunei nhưng khi hội nghị ASEAN kết thúc Trung Quốc vẫn không nhận được lợi lộc nào như từng nhận tại Campuchia trong phiên họp ASEAN trước đây.
Trước cách hành xử này TS Luật sư Trần Công Trục nguyên Trưởng ban Biên giới chính phủ nhận xét:
Ván bài Trung Quốc lập đi lập lại mỗi khi ASEAN tổ chức gặp nhau là y như Trung Quốc phải vận động các nước không có phần tranh chấp trên biển Đông nhằm lôi kéo và bẻ từng chiếc đũa trong khối qua sức mạnh kinh tế của mình.
Trong chuyến thăm vừa rồi của ông Ngoại trưởng mới Vương Nghị của Trung Quốc thăm một số nước Đông Nam Á nói rằng ông ta sẵn sàng thúc đẩy xúc tiến đàm phán COC nhưng ông ta cũng nói rằng cho đến hôm nay sở dĩ vấn đề đàm phán COC chưa thể đàm phán được là vì các nước trong khu vực thiếu sự tôn trọng về tuyên bố ứng xử trên biển Đông DOC. Thế nhưng rõ ràng trong thực tế họ vừa nói xong thì họ tiếp tục có những hành động tiếp tục một loạt các hành động trắng trợn và mạnh mẽ. Tôi nghĩ đấy là một sự thật rõ ràng họ nói một đàng nhưng làm một nẻo.


Một đội tàu cá hơn 30 chiếc của Trung Quốc làm lễ xuất phát tại Hải Nam trước khi di chuyển xuống khu vực đảo Trường Sa đánh bắt hải sản
Một đội tàu cá hơn 30 chiếc của Trung Quốc làm lễ xuất phát tại Hải Nam trước khi di chuyển xuống khu vực đảo Trường Sa đánh bắt hải sản
Việt Nam hơn ai hết biết chủ tâm của Trung Quốc khi không ghé Hà Nội. Ván bài Trung Quốc lập đi lập lại mỗi khi ASEAN tổ chức gặp nhau là y như Trung Quốc phải vận động các nước không có phần tranh chấp trên biển Đông nhằm lôi kéo và bẻ từng chiếc đũa trong khối qua sức mạnh kinh tế của mình.
Trong khi công du với những lời lẽ mềm mỏng hiền hòa như vậy thì trên Biển Đông, Trung Quốc lại công khai phát động những việc làm hoàn toàn khác. Đem dân ra Hoàng Sa du lịch, cơ cấu lãnh đạo cấp ủy tại Tam Sa, dùng súng bắn nước tấn công tàu cá ngư dân và cuối cùng xua hơn 30 tàu công suất lớn vào vùng biển Trường Sa, nơi Việt Nam đang có chủ quyền hợp pháp từ hàng trăm năm qua. TS Luật sư Trần Công Trục cho biết nhận xét của ông về những mục tiêu này của Bắc Kinh:
Tháng trước các phương tiện thông tin đã thông báo là họ có công bố ban hành việc phát triển hải dương 5 năm lần thứ 12 do Cục Hải dương Quốc gia là cơ quan quản lý cấp bộ của Trung Quốc ban hành. Trong nội dung đó nhằm mục tiêu tiến hành xúc tiến việc khai thác tài nguyên như dầu khí, đánh cá, khai thác năng lượng nước biển…thì bây giờ trên thực tế họ đang làm. Rõ ràng đây là một sự tính toán trong khi muốn kéo dài thời gian bằng vận động ngoại giao.


Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị ( Wang Yi) (trái) và Ngoại trưởng Marty Natalegawa của Indonesia (phải)  trong một cuộc họp báo chung sau cuộc gặp song phương tại Jakarta vào ngày 02 tháng Năm 2013.
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị ( Wang Yi) (trái) và Ngoại trưởng Marty Natalegawa của Indonesia (phải) trong một cuộc họp báo chung sau cuộc gặp song phương tại Jakarta vào ngày 02 tháng Năm 2013. AFP

Trong khi công du với những lời lẽ mềm mỏng hiền hòa như vậy thì trên Biển Đông, Trung Quốc lại công khai phát động những việc làm hoàn toàn khác. Đem dân ra Hoàng Sa du lịch, cơ cấu lãnh đạo cấp ủy tại Tam Sa, dùng súng bắn nước tấn công tàu cá ngư dân và cuối cùng xua hơn 30 tàu công suất lớn vào vùng biển Trường Sa
Chiến lược và âm mưu
Trung Quốc bất chấp công pháp quốc tế vì Bắc Kinh biết rõ lổ hỗng trong hệ thống này giúp cho những hành vi của họ không bị chế tài khi một nước bị kiện ra tòa án có quyền không tham gia tố tụng. Đây là yếu tố lợi hại khiến Bắc Kinh luôn dùng kèm theo sức mạnh đang lên của họ.
Ông Dương Danh Dy, một nhà ngoại giao kỳ cựu có thâm niên kinh nghiệm đối với Trung Quốc cho biết nhận xét của ông:
Cái thủ đoạn ở biển Đông của Trung Quốc vừa rồi nhìn chung là vừa đấm vừa xoa. Mặc dù báo chí Việt Nam gần đây nói xấu Trung Quốc rất nhiều nhưng họ lại không nói xấu không công kích Việt Nam như trước đây. Điều này chứng tỏ cái gì? Trung Quốc muốn xoa dịu Việt Nam: “ tôi vẫn tử tế với chú đấy nhé!” Nhưng qua canh bạc này thì thấy rõ cái chuyện vừa đấm vừa xoa vì họ đang lấn biển Đông. Trên thực chất họ vừa công bố danh sách bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Tam Sa rồi đến chuyện cho tàu phun nước vào tàu cá Việt Nam tại Trường Sa rồi xua hàng chục tàu cá đến Trường Sa…Đây là một trong âm mưu bá chiếm Biển Đông của Trung Quốc một cách lặng lẽ. Từ chỗ chiếm bằng lời nói, tới chiếm bằng bản đồ rồi tiến tới chiếm bằng hành động thực tế.

Tàu cung cấp mang tên Quỳnh Tam Á F8138 và lực lượng chức năng của Cục Ngư chính Nam Hải cũng tham gia hỗ trợ cho đoàn 30 tàu cá Trung Quốc ở Trường Sa. (China News)
Tàu cung cấp mang tên Quỳnh Tam Á F8138 và lực lượng chức năng của Cục Ngư chính Nam Hải cũng tham gia hỗ trợ cho đoàn 30 tàu cá Trung Quốc ở Trường Sa. (China News)
Trong lần họp này, ASEAN tỏ ra cương quyết hơn khi yêu cầu Trung Quốc có thiện chí trong vấn đề Biển Đông qua việc đàm phán DOC và điều này cho thấy âm mưu chia rẽ ASEAN bằng kinh tế của Trung Quốc không thành công ít nhất là vào thời điểm này.
Trên thực chất họ vừa công bố danh sách bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Tam Sa rồi đến chuyện cho tàu phun nước vào tàu cá VN tại Trường Sa rồi xua hàng chục tàu cá đến Trường Sa…Đây là một trong âm mưu bá chiếm Biển Đông của Trung Quốc một cách lặng lẽ.
Ông Dương Danh Dy
Sự cương quyết trở lại Châu Á thái Bình Dương của Mỹ và phản ứng quyết liệt của Nhật trong hồ sơ Senkaku cho Việt Nam thấy Trung Quốc chưa thể sử dụng vũ lực đối với Việt Nam cũng như các nước đang có tranh chấp. Bắc Kinh đang thử nghiệm thủ thuật lấn biển một cách tiệm tiến, không tiếng súng nổ nhưng các nước như Việt Nam và Philippines không dễ dàng đối phó. Khi các hoạt động lấn biển chín muồi Bắc Kinh sẽ khẳng định chủ quyền một cách trơ tráo để đòi hỏi thế thượng phong khi ngồi vào bàn đàm phán.
Con bài tẩy đã được Bắc Kinh tự ý lật ra nhưng toàn bộ các cây bài của đối phương lại quá yếu do đó Bắc Kinh sẽ bất chấp mọi lý lẽ kể cả sĩ diện của một nước lớn nhằm bá chiếm Biển Đông để rồi sau đó xâm lăng toàn phần nước nào không đủ nội lực để gìn giữ biên giới trên bộ, đặc biệt là Việt Nam. Ông Dương Danh Dy thẳng thắn đưa ra cách mà chính phủ cần phải giải quyết:
Cứ như thế này thế nay mai tôi giả dụ họ cho lính giả làm dân tới làm một giàn khoan, xây dựng một nhà giàn tại một hòn đảo không người ở như họ đã từng làm tại những hòn đảo ở Trường Sa thì Việt Nam sẽ ứng xử như thế nào? Hay thậm chí họ chiếm một hai đảo, bãi ở Trường Sa mà hiện nay Việt Nam đang chiếm giữ thì chúng ta sẽ làm gì?
chúng ta phải có những hành động thực tế và nhất là sau khi họ vượt ra khỏi phạm vi Hoàng Sa để tiến vào Trường Sa hoặc tiến vào khu vực đường lưỡi bò thì chúng ta không thể im lặng được nữa mà phải có những hành động cụ thể để mà đối phó với họ
Ông Dương Danh Dy
Cho nên tôi nghĩ đây là những bước lấn tới, lấn tới và chưa phải là cuối cùng, chưa phải là những hành động xấu nhất của Trung Quốc. Cho nên cách duy nhất để mà ngăn chặn mưu đồ này thì tôi xin nói thật: chúng ta phải có những hành động thực tế và nhất là sau khi họ vượt ra khỏi phạm vi Hoàng Sa để tiến vào Trường Sa hoặc tiến vào khu vực đường lưỡi bò thì chúng ta không thể im lặng được nữa mà phải có những hành động cụ thể để mà đối phó với họ.
Việt Nam có chọn lựa nào trong ván bài thua trước này? Tuy không nhiều phương án vượt ra khỏi sự bao vây kín kẽ của Trung Quốc nhưng lòng dân là lợi thế gần như duy nhất có khả năng chuyển bị động thành thế chủ động qua sự khuấy động dư luận quốc tế. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh nói quan điểm của ông:
Tôi cho rằng mỗi lần nó xâm phạm hoành hành như thế thì chính phủ ta phải có phản ứng mạnh mẽ không vì hữu nghị mà không phản ứng. Phải phản ứng mạnh mẽ hơn chứ không phải thỉnh thoảng mới có như người phát ngôn ta trả lời phỏng vấn thì nó nhẹ lắm. Một là phải có công hàm phản đối, hai nữa là một người nào đó có vị trí tương đối khá để lên tiếng phản đối. Mặt khác thì phải để cho dân chúng người ta tham gia biểu tình phản đối thì sức mạnh quần chúng nó cũng có tác dụng. Phải quan hệ chặt chẽ hơn nữa với các nước lớn. Tuy rằng không phá vỡ hữu nghị với Trung Quốc nhưng đồng thời phải thắt chặt hữu nghị với các nước như Nga, Nhật, Ấn Độ và cả Mỹ nữa. Tôi từng phát biểu như vậy nhưng tiếc rằng lãnh đạo chúng tôi lại làm theo kiểu của họ, tôi không hiểu được.
Xâm lược bằng những hoạt động dân sự trên biển là phương pháp mà Trung Quốc đang áp dụng. Vấn đề lớn nhất đối với Việt Nam phải chăng cần lấy lòng yêu nước của dân mình để đối phó với khối dân đại Hán tuy đông nhưng kinh tế mới là điểm nhắm?


Nửa số thất nghiệp ở VN là thanh niên'

Cập nhật: 15:11 GMT - thứ sáu, 10 tháng 5, 2013
Thanh niên đăng ký việc làm ở Hà Tĩnh. Ảnh: ILO


Gần một nửa số người thất nghiệp ở Việt Nam là thanh niên 15-24 tuổi, theo ILO
Tỉ lệ thất nghiệp trong thanh niên Việt Nam cao hơn ba lần so với tỉ lệ ở người trưởng thành và gần một nửa con số thất nghiệp năm 2012 thuộc nhóm thanh thiếu niên từ 15-24 tuổi, theo một phúc trình quốc tế vừa ra.
"Thật không dễ dàng khi là thanh niên trong thị trường lao động vào thời điểm này," Giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO) bộ phận tại Việt Nam, ông Gyorgy Sziraczki nói.
"Khủng hoảng kinh tế đã ảnh hưởng mạnh tới lực lượng lao động năng động nhất".
Tuy nhiên thất nghiệp trong thanh niên mới chỉ là một phần nhỏ của vấn đề thiếu việc làm hoặc việc làm bấp bênh tại Việt Nam, theo ILO.
Bốn triệu người, tức hơn 53% thanh niên đang ở trong tình trạng lao động bấp bênh, trong khi số còn lại bị coi là thất nghiệp.
Những người trong tình trạng có việc làm không ổn định là người tự kinh doanh, làm việc cho gia đình, trong những nghề có thu nhập rất ít ỏi, với điều kiện lao động kém và thiếu bảo hiểm xã hội.
Cải cách giáo dục và đào tạo đang diễn ra hiện nay là yếu tố chủ chốt để có thể tận dụng tài năng, năng lượng và sức sáng tạo của thanh niên và phục vụ cho quá trình phát triển năng động, bản phúc trình viết.
"Một hệ thống đào tạo và dạy nghề có thể nâng cao khả năng kiếm việc của thanh niên và đáp ứng được các nhu cầu hiện tại và tương lai của các doanh nghiệp là tối quan trọng cho tăng năng suất lao động, tăng tính cạnh tranh và tạo công ăn việc làm," ông Sziraczki nói.
"Đã tới lúc cần tăng cường mối liên hệ giữa giáo dục đào tạo với tăng trưởng xuất khẩu, đa dạng hóa nền kinh tế và tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn và có công việc làm tốt hơn."

Cần cải cách

ILO cho rằng khai phá tiềm năng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ qua việc cắt giảm các thủ tục hành chính và cung cấp tài chính và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh là một cách khác để khuyến khích cơ hội việc làm cho thanh niên.
Theo ông Matthieu Cognac, chuyên gia ILO khu vực châu Á Thái Bình Dương về công ăn việc làm cho thanh niên thì cũng cần chú trọng tới khu vực nông thôn nơi đa số thanh niên sống và làm việc.
"Tư vấn việc làm, các khóa về kinh doanh và dẫn dắt chỉ bảo về làm ăn có thể giúp nhiều thanh niên bắt đầu và phát triển công việc kinh doanh riêng của mình," ông Cognac nói.


"Một hệ thống đào tạo và dạy nghề có thể nâng cao khả năng kiếm việc của thanh niên và đáp ứng được các nhu cầu hiện tại "
Giám đốc ILO Việt Nam, Gyorgy Sziraczki
Hiện Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã quyết định kết hợp giáo trình giáo dục kinh doanh của ILO (Know About Business) - một chương trình đào tạo nhằm đưa kiến thức phát triển doanh nghiệp tới thanh niên đang được áp dụng tại 50 quốc gia - vào chương trình học phổ thông trên toàn quốc khi sửa đổi chương trình học vào năm 2015.

Theo Giám đốc ILO Việt Nam, những thách thức về công ăn việc làm mà thanh niên Việt Nam đang phải đương đầu không thể giải quyết được nếu không có những thay đổi về cơ cấu nhằm thúc đẩy phát triển, các chính sách kinh tế vĩ mô và những khuyến khích tài chính hỗ trợ việc làm, cải thiện tiếp cận tài chính cà tăng đầu tư hiệu quả.
"Thanh niên xứng đáng được hưởng một khởi đầu tốt hơn và đối xử công bằng nếu không Việt Nam sẽ mất đi một nguồn đóng góp lớn cho phát triển kinh tế xã hội," ông Sziraczki nói.
Trên toàn cầu, trong khi nhiều thanh niên ở các nước phát triển đã từ bỏ tìm kiếm việc làm hoặc hạ thấp yêu cầu để làm bất cứ công việc nào có thể tìm được, ở khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương, tỷ lệ thất nghiệp được dự báo sẽ tăng hơn 14% năm 2017.
“Những con số này cho thấy cả một thế hệ đang gặp vấn đề; hàng triệu thanh niên không có việc làm hoặc thiếu việc và giai đoạn sống phụ thuộc vào bố mẹ và nhà nước bị kéo dài,” ông José Manuel Salazar-Xirinachs, trợ lý Tổng Giám đốc ILO phụ trách về Chính sách cho biết.

ÂU DƯƠNG THỊ * THƠ NGUYỄN KHOA ĐIỀM

Nghĩ gì về bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn !”

Âu Dương Thệ
 cau-hoi-thiet-ke-website 
Đúng vào dịp kỉ niệm 38 năm “giải phóng” nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm công bố bài thơ “Đất nước những tháng năm thật buồn” trên Blog Quê Choa của nhà văn Nguyễn Quang Lập. Từ cái tên chọn cho bài thơ này cũng đã nói tất cả tâm tư của Nguyễn Khoa Điềm về chế độ hiện nay, nhất là những người cầm đầu chế độ toàn trị đã mang lại cho đất nước và nhân dân gần 40 năm  “giải phóng” như thế nào! Đấy là chưa kể việc Nguyễn Khoa Điềm đã chọn một Blog của báo “lề dân” để phổ biến bài thơ của mình, chứ không gởi cho báo “lề Đảng”, cũng là một việc đáng suy nghĩ! 
Mọi người đều biết, Nguyễn Khoa Điềm đã từng là Bộ trưởng Văn hóa Thông tin, sau đó trở thành Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương và kiêm Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (khóa 9 , 2001-06). Chính vì thế không ngạc nhiên, một số nhà dân chủ và văn nghệ sĩ tên tuổi đã bày tỏ lập trường khen và chê của mình khi bài thơ  “Đất nước những tháng năm thật buồn” của Nguyễn Khoa Điềm được phổ biến .
 Tuy nhiên, nếu cân nhắc các mặt trong sứ mệnh chung là chống độc tài và xây dựng dân chủ, có lẽ nên trân trọng lòng thành thực hiện nay của ông Điềm. Bước vào tuổi 70 Nguyễn Khoa Điềm đã ngộ ra được những sai lầm nguy hiểm và những hậu quả vô cùng tai hại của chế độ độc tài toàn trị, và ông đã dám nói công khai tình trạng của xã hội XHCN tuy đã sau 38 năm “giải phóng” nhưng:
“ …tìm một tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc!”
 Đây là thái độ dám vượt lên chính mình thật đáng khen và khuyến khích. Ông Điềm nay đã biết  “giỏ giọt nước mắt” vì còn biết  “xấu hổ”. Tinh thần biết tìm lại lòng tự trọng như thế hầu như không có ở những người đang có quyền lực và cũng rất hiếm ngay trong những người đã từng cầm quyền nay đã về hưu!
 Để cùng tiến về phía trước, xã hội cần có những phản biện công khai thẳng thắn, nhưng cũng biết trân trọng và khoan dung với những ai thực tâm muốn trở lại nhập cuộc đấu tranh mở con đường mới cho đất nước để các  “tin lành” trải rộng từ Bắc chí Nam!
 Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng như các đảng viên tiến bộ biết quí lòng tự trọng nên vững tin rằng, hàng vạn  “con cá hanh” đang chào đón chân tình những “con cá hanh khác” để cùng nhập cuộc ra khơi, vì “Chúng ta là Người Tự do!”
 Ông Điềm ạ, không ai khác, chính
 Chúng ta “nắm vận mệnh chúng ta!”
Để một ngày không xa
“buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường
Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi!”
28.4.2013
Tác giả gửi Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả.
About these ads

No comments: