BÙI TÍN * CỘNG SẢN TÀN ÁC ĐÃ GIẾT BÀ NGUYỄN THỊ NĂM
Món nợ 62 năm
Bùi Tín - Ông
Hồ Chí Minh được bộ máy tuyên truyền đảng CS ca tụng là nhà chính trị
tài ba nhất, nhà ngoại giao xuất chúng nhất, nhà thơ sâu sắc nhất, cũng
là nhà báo kiệt xuất nhất trong lịch sử nước ta, mặt hoạt động nào cũng
là số một, không có số hai, là mẫu mực. Nhưng với thời gian mọi sự chỉ
là thêu dệt. Trong bài báo, C.B. kể tội khơi khơi là bà Năm "giết ngót
260 người", nhưng không một dẫn chứng, một tên tuổi, một hình hài, một
chứng minh. Một bài báo bất minh.
Hơn nửa thế kỷ nay, nói đến số người chết và lâm nạn do liên quan
trong Cải cách ruộng đất, bộ máy tuyên truyền của đảng CS leo lẻo rằng
ngay sau đó đã sửa sai nghiêm chỉnh, phục hồi danh dự, đền bù cho những
nạn nhân, nợ đã trả xong. Lại là lời nói dối khổng lồ sau những tội ác
khủng khiếp nhân danh đảng CS...
*
Cám ơn nhà báo Xuân Ba đã viết một bài báo tâm huyết truyền cảm. Tít bài báo là: Chuyện về người phụ nữ đầu tiên bị bắn oan trong Cải cách ruộng đất.
Xuân Ba gửi bài báo này cho báo An ninh thế giới, báo này đăng ngày
15/3/2014, nhưng đã tự xóa bỏ một số đoạn. Do vậy anh gửi cho mạng Tễu
của nhà hán nôm Nguyễn Xuân Diện để đăng nguyên văn toàn bộ bài báo từ
ngày 24/3, chia thành 3 đoạn với các tít:
1-/ Dấu chấm hết thành dấu chấm lửng;
2-/ Tan tác một mái ấm;
3-/ Tìm mộ bà Năm.
Mở đầu, Xuân Ba giới thiệu bài viết ngắn của C.B. đăng trên báo Nhân Dân ngày 21-7-1953, có tít là "Địa chủ ác ghê",
trong đó kể tội ác của địa chủ gian ác Nguyễn Thị Năm: giết chết 14
người ; tra tấn đánh đập hàng chục người nay còn tàn tật; làm chết 200
người thuộc 32 gia đình nghèo đói; hãm chết 30 người trong Chùa Hang.
Tổng cộng là ngót 260 người bị giết chết, với "thủ đoạn tra tấn không
kém thời thực dân Pháp, dội nước lạnh, treo người trên xà nhà, đóng
gióng trâu vào mồm nông dân...".
C.B. là một bí danh khi viết báo của ông Hồ Chí Minh, lúc ấy là chủ tịch
nước, đứng đầu đảng cộng sản Đông dương; khi lần đầu gửi bài cho báo
Nhân Dân, ông viết thư giải thích C.B. là "Của Bác". Bức thư này còn lưu
giữ ở phòng kỷ niệm báo Nhân Dân. Các bài báo lập tức được đăng trên
cao, trang nhất, không sửa một chữ, một dấu chấm, dấu phẩy nào.
Ông Hồ Chí Minh được bộ máy tuyên truyền đảng CS ca tụng là nhà chính
trị tài ba nhất, nhà ngoại giao xuất chúng nhất, nhà thơ sâu sắc nhất,
cũng là nhà báo kiệt xuất nhất trong lịch sử nước ta, mặt hoạt động nào
cũng là số một, không có số hai, là mẫu mực. Nhưng với thời gian mọi sự
chỉ là thêu dệt.
Trong bài báo, C.B. kể tội khơi khơi là bà Năm "giết ngót 260 người",
nhưng không một dẫn chứng, một tên tuổi, một hình hài, một chứng minh.
Một bài báo bất minh.
Hơn nửa thế kỷ nay, nói đến số người chết và lâm nạn do liên quan trong
Cải cách ruộng đất, bộ máy tuyên truyền của đảng CS leo lẻo rằng ngay
sau đó đã sửa sai nghiêm chỉnh, phục hồi danh dự, đền bù cho những nạn
nhân, nợ đã trả xong.
Lại là lời nói dối khổng lồ sau những tội ác khủng khiếp nhân danh đảng CS.
Chỉ một trường hợp bà Nguyễn Thị Năm, theo bài viết của Xuân Ba, sẽ thấy họ sửa sai, trả nợ ra sao.
Trong phần 1 nhan đề "Dấu chấm hết thành dấu chấm lửng", bài báo
cho biết đến tận ngày 28 tháng 1 năm 1987, ông Lê Đức Thọ - Sáu Búa - ủy
viên bộ chính trị, trưởng ban tổ chức trung ương mới cử ông Lưu Văn Lợi
thư ký riêng của mình, tìm ghé đến nhà ông Nguyễn Hanh, con cả của bà
Nguyễn Thị Năm để thăm hỏi. Cái kiểu cách nhận sai lầm, xin lỗi và an ủi
của ông Sáu Búa cũng không giống ai. Đó là lấy cuốn sách in thơ của
mình không có tít, chỉ có chữ Thơ, và tên: Lê Đức Thọ, rồi ghi hàng chữ
ngoài bìa: "Thân mến tặng Công và Hanh, đánh dấu chấm dứt sự đau buồn kéo giài lâu năm của gia đình cũng là của chung. Thọ".
Một kiểu xí xóa tội ác của đảng ông ta đối với gia đình nạn nhân một
cách chủ quan, vô duyên, trịch thượng. Sách mỏng in thơ ông ế ẩm, in ra
từ 7 năm trước, nay tặng gia đình bà Năm sao lại có thể chấm dứt được
đau buồn thê thảm của bao nhiêu người? Sao lại để đến 34 năm sau, bỗng
nhớ ra tội của đảng, mới lên tiếng muộn màng, vuốt đuôi đến vậy. Chưa
nói phạm lỗi chính tả, dài thành "giài’’.
Nhà báo Xuân Ba dùng đầu đề "Dấu chấm lửng" để phủ định cái "dấu
chấm dứt" của ông Thọ, kể ra một loạt điều còn lơ lửng, những đau buồn
còn dai dẳng. Ông Nguyễn Hanh kể rằng khi mẹ ông bị xử bắn, ông đang
cùng đơn vị ở Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc. Người ta giấu ông mọi tin
tức từ trong nước. Hai tháng sau, cuối tháng 6/1953 ông được đưa về
nước, bị tống ngay vào trại giam ở Tuyên Quang vì là con của địa chủ
gian ác. Năm 1954 ông mới được nghe bà vợ ông đến trại để thăm nuôi kể
rõ về sự kiện bi thảm này. Cuộc sửa sai kéo dài, đến năm 1957 ông mới
được về nhận công tác ở Ty kiến trúc Thái Nguyên, rồi sau đó về một công
ty dược ở Hà Nội, để về hưu sớm. Con gái đầu của ông là Phương sau khi
đỗ trường Đại học Bách Khoa, may lắm mới được nhận vào làm việc ở Tổng
cục Thống kê rồi ở Bộ Vật tư. Con trai ông là Nguyễn Tấn cuộc sống cũng
không có lối thoát để vươn lên vì là cháu nội địa chủ. Em ruột ông Hanh
là Nguyễn Cát, bí danh là Hoàng Công, cả 2 anh em đều hoạt động từ thời
kỳ tiền khởi nghĩa 1944 ở vùng Đình Cả, Vũ Nhai. Hoàng Công từng là
trung đoàn trưởng của sư đoàn Quân Tiên Phong 308, cũng bị đưa vào trại
cải tạo năm 1953, năm 1956 mới được tự do, đau ốm, đến năm 1989 ông chết
thảm trong một tai nạn xe máy. Vợ ông, bà Đỗ Kim Chi và con gái - cô
Ngọc Diệp sống cùng gia đình ông Hanh. Ông Hanh năm nay đã 90, vợ ông,
bà Phạm Thị Cúc cũng đã 86 tuổi, lại thiếu niềm vui khi về già, vì 2
con, Phương và em trai cuộc sống đều tẻ nhạt không có tương lai.
Bà Nguyễn Thị Năm |
Trong phần 2 "Tan tác một mái ấm", bài báo tả lại cảnh gia đình
bà Năm tan vỡ ra sao, sau một thời gian là một gia đình đầm ấm, kinh
doanh phát đạt lại cực kỳ nhân hậu, được đồng bào cả một vùng rộng lớn ở
Thái Nguyên một thời quý mến. Khi cách mạng tháng 8 nổ ra chính chiếc
xe ô tô con của cửa hàng Cát Hanh Long đã từ Hải Phòng lên Thái Nguyên
rồi lên tận vùng Vũ Nhai báo tin mừng cho 2 anh em Hoàng Công và Nguyễn
Hanh và đồng đội. Bà Năm đã giao cho Hoàng Công 20 ngàn đồng bạc Đông
Dương (giá trị bằng 700 lạng vàng) để góp vào quỹ cách mạng ở căn cứ
địa. Sau đó trong tuần lễ Vàng ở Hải Phòng nhà kinh doanh Cát Hanh Long
lại đứng đầu bảng đóng góp hơn 100 lạng vàng nữa. Cát là tên người con
thứ, Hanh là tên con cả, Long là tên người bố, một nhà kinh doanh tài ba
lanh lợi, cùng chung với vợ bản chất nhân hậu. Không may ông Long mất
sớm vì bạo bệnh ngay trước Cách mạng tháng Tám.
Ông Hanh kể rằng suốt những năm 1945 đến 1951, vùng Đồng Bẩm tấp nập các
đơn vị vệ quốc đoàn qua lại, đóng quân, tập luyện chuẩn bị cho chiến
dịch biên giới. Các ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, Lê
Văn Lương đều qua đây. Tướng Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh cũng từng ở
đây, hội họp, nghỉ ngơi. Trụ sở và nhà ở của hãng buôn Cát Hanh Long
chuyên kinh doanh tơ lụa rồi cả sắt thép ở Hải Phòng và Hà Nội đều mở
rộng cửa cho cán bộ cộng sản ra vào, nghỉ ngơi như bà con thân thiết
nhất.
Vợ chồng ông Nguyễn Hanh |
Hồi 1987, nhà báo Xuân Ba gặp 2 gia đình ông Hanh và ông Công chung sống
trong một phòng nhỏ trong ngôi nhà 117 hàng Bạc cuối khu phố cổ Hà Nội,
chỉ rộng 20 mét vuông, ngột ngạt, ẩm thấp, bên nhà vệ sinh chung hôi
hám, với chiếc bàn thờ nhỏ nhoi. Hai vợ chồng cụ già tiếp nhà báo Xuân
Ba trong cảnh chật hẹp, buồn thảm, trái ngược với các ngôi nhà xưa, luôn
nhộn nhịp ấm cúng tình người. Ông Hanh kể rằng ngôi nhà gạch bề thế ở
Đồng Bẩm chính bà Năm mẹ anh đã đưa những chiếc búa lớn cho anh em bộ
đội phá tan, thực hiện "vườn không nhà trống" theo lời kêu gọi của ông
Hồ, khi vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đọc đến đoạn này, mọi người không khỏi trách ông Sáu Búa và cả ông Lưu
Văn Lợi sao tệ đến vậy, không chút động tâm để hồi ấy phân phối một nơi ở
tươm tất hơn cho 2 gia đình con cháu Cụ Năm, khi Hà Nội đang xây dựng
lại, có bao nhiêu nhà mới xây. Tệ bạc đến vậy đối với 1 gia đình từng
đóng góp cả 2 con trai và biết bao tài sản cho đất nước.
"Chấm dứt đau buồn" sao được khi ông cụ già Nguyễn Hanh, người đảng viên
CS khi mới 21 tuổi, người sỹ quan QĐND cấp trung đoàn khi mới 24 tuổi
đã mất sạch mọi thứ, từ bà mẹ nhân hậu đảm đang bị 2 phát đạn oan khiên,
đến nhà cửa, tiền bạc, công danh, nay cay đắng thổ lộ rằng ông đã gửi
hàng vài chục lá thư đề nghị các ông lãnh đạo xét cho 2 điều: công nhận
mẹ ông, bà Nguyễn Thị Năm là người có thành tích, có công đóng góp cho
cách mạng, truy thưởng cho bà Huân chương Kháng chiến, và công nhận Bà
là một Liệt Sỹ, nhưng không có một hồi âm nào. Điều duy nhất ông nhận
được đến nay là công văn tháng 6 năm 1987 của ban tổ chức tỉnh ủy Thái
nguyên, quy định lại thành phần giai cấp của bà mẹ là "Tư sản - địa chủ
kháng chiến". Trong nước mắt ông than thở: "Mẹ tôi từng nuôi dưỡng, che
chở cho cả sư đoàn bộ đội, cán bộ, nhiều người biết chuyện nhưng đã cao
tuổi, nên sau khi họ mất đi thì mọi chuyện sẽ rơi vào quên lãng". Cả 2
tiêu chuẩn trên đều ghi rõ trong NQ 28 CP ngày 29-4-1995.
Trong phần cuối "Tìm mộ bà Năm" Xuân Ba kể lại việc tìm ra thi
hài bà Năm cuối cùng đã được thực hiện vào năm 1993, sau 40 năm tìm kiếm
rất kiên trì của gia đình, nhờ nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên ở Tứ Kỳ,
Hải Dương. Bên cạnh một ao sen, ở bên gốc cây phượng hoa đỏ đã tìm ra di
hài Cụ Năm nhờ chiếc vòng ngọc bám chặt cổ tay và chiếc răng vàng cũng
như 2 đầu đạn. Mọi người có mặt đều tin rằng Cụ rất thiêng cứ như hướng
dẫn cụ thể từng bước cho việc tìm ra mộ mình.
Nhiều bạn đọc viết comment ngay dưới bài viết của nhà báo Xuân Ba trên
mạng Tễu và mạng Huỳnh Ngọc Chênh nói lên sự phẫn uất cao độ của mình
đối với lãnh đạo đảng CS tàn ác, bất nhân, vô ân bạc nghĩa với những ân
nhân của mình. Nhiều bạn trào nước mắt thương cảm với thân phận của bà
Năm và gia đình và chân thành an ủi ông bà và các cháu.
Trong bộ chính trị hiện nay tôi nghĩ 3 ông trong bộ chính trị là tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng, trưởng ban tổ chức trung ương Tô Huy Rứa và
trưởng ban tuyên huấn - nguyên tổng biên tập báo Nhân dân, cần sớm ghé
qua thăm hỏi gia đình ông Nguyễn Hanh, thắp một nén hương trên bàn thờ
Cụ Nguyễn Thị Năm và trả lời cho gia đình Cụ Năm về 2 yêu cầu thiêng
liêng nói trên của gia đình. Không thể lờ mãi.
Riêng tôi, tôi xin mạn phép có ý kiến riêng với ông Nguyễn Hanh, bà Phạm
Thị Cúc và bà Đỗ Kim Chi là xin chớ quá bận tâm về việc xin tấm Huân
Chương Kháng chiến cho Cụ Nguyễn Thị Năm. Được thì càng tốt, không được
cũng không sao. Vì trong cuộc kháng chiến ấy đảng CS đã thực hiện việc
tiêu diệt các đảng viên các đảng chính trị khác cũng là những người yêu
nước chân chính, làm vấy bẩn cuộc kháng chiến. Năm 1995, nhân ngày kỷ
niệm 30/4/1975, tôi đã tuyên bố từ bỏ tất cả các huân chương Kháng
chiến, Chiến công, huy hiệu các Chiến dịch, bằng khen... vì nhận ra rằng
về bản chất đây là cuộc chiến huynh đệ tương tàn, một sai lầm lịch sử,
trong hơn 30 năm chiến trận ấy, người Việt Nam ta giết nhau lâu năm
nhất, đẫm máu nhất, hăng hái, say sưa và mù quáng nhất, cho nên không có
một điều gì là vinh hạnh, là vẻ vang để khen thưởng cả. Đảng CS dẫn ép
dân ta làm quân cờ cho 2 phe, để đất nước tan hoang. Món nợ này không
thể trả. Món nợ 62 năm của đảng CS với đại gia đình Cụ Năm cũng là vậy.
Xin gia đình anh Nguyễn Hanh - chị Phạm Thị Cúc, gia đình anh Nguyễn Cát
/Hoàng Công - chị Đỗ Kim Chi cùng các cháu hãy yên tâm nghĩ rằng Cụ
Nguyễn Thị Năm vẫn sống mãi trong lòng mọi người dân yêu nước lương
thiện, trong tình nghĩa và lòng nhân ái của toàn dân. Chắc chắn sau bài
báo của anh Xuân Ba trên các mạng Tễu, Huỳnh Ngọc Liêng, Dân Làm Báo,
Chuyển Hóa... gia đình sẽ nhận được nhiều chia sẻ chân thành, cảm động
của mọi tầng lớp nhân dân, ở trong cũng như ngoài nước.
Không có gì quý hơn sự ấm áp, sâu đậm, vĩnh cửu của lòng dân, quý hơn mọi huân chương hay danh hiệu gì khác.
Xin chúc mừng gia đình ta đã có nơi ở mới ấm cúng, gọn ghẽ, thoáng mát ở
đường Láng - Hà Nội do các cháu tự lực dựng lên. Xin kính nhờ anh Hanh
thắp giúp một nén hương trên bàn thờ Cụ cũng như trên nấm mộ Cụ ở cánh
đồng làng Đại Kim, Thanh Trì, Hà Nội, như một tưởng nhớ quý trọng và tin
yêu của một người con dân đất Việt luôn nhớ nước ta thương dân ta từ
phương trời xa.
* gửi Danlambao
Wednesday, April 2, 2014
ĐỖ QUỐC ANH THƯ * OAN HỒN NGƯỜI TÙ CẢI TẠO
OAN HỒN NGƯỜI TÙ CẢI TẠO
Vì nhà nghèo, nên sau khi học hết lớp 12, anh phải đi làm. Khi đến Xuân Hiệp định cư, anh may mắn, được tuyển chọn làm giáo viên, dạy ở trường tiểu học tư thục của xứ đạo này. Chắc hẳn, nhiều phụ huynh học sinh trường tiểu học Xuân Hiệp còn nhớ, anh Bộ lập gia đình với chị Lan, cô giáo viên xinh đẹp, cùng nghề dạy học với anh.
Phần tôi, khi nhắc đến chuyện cũ, ngoài nỗi đau thương, tôi không thể nào quên được kỷ niệm êm đềm hôm anh Bộ đến nhà, ngỏ ý xin bố tôi làm cha đỡ đầu khi anh theo đạo Công Giáo. Nhất là hình ảnh dễ thương của hai cháu bé Bình và Ban, con của anh Bộ và chị Lan.
Nhờ có liên hệ gia đình thân mật, nên tôi biết rõ chuyện oan khiên và vô cùng đau thương của anh Bộ sau ngày Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam — đúng như thi sĩ Khuyết Danh đã viết:
Hạnh phúc, miền mơ, nhân phẩm, luân thường
Đảng đến là tan nát tất cả!
Nhớ lại thời xa xưa. Vào khoảng đầu năm 1969, sau khi bố tôi được giải ngũ, ông mang gia đình đến Long Khánh định cư. Nhưng vài năm sau, nhờ có chút ít vốn liếng, bố tôi mua đất ở Xuân Hiệp, lập xưởng cưa cây, cung cấp vật liệu xây cất nhà cửa.
Thật ra, Xuân Hiệp là 'vùng đất mới' do chương trình 'khai hoang lập ấp' của chính phủ VNCH — mở rộng việc cấp phát ruộng đất cho dân nghèo, đặc biệt là dân miền Trung chạy giặc vào đó định cư, sau trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
'Vùng đất mới' này có 4 ấp, thường gọi là Ấp 1, 2, 3 và Ấp 4, nằm sát bên Quốc Lộ 1, đoạn đường từ ngã ba Dầu Dây đi ra thị xã Phan Thiết.
Thời đó, dân cư ở đây đều có cuộc sống, tương đối tạm ổn. Nhưng không ngờ, Tháng Tư Đen 1975 ập đến quá nhanh. Nhiều người ở Xuân Hiệp, tìm đủ mọi cách đi lánh nạn Việt Cộng. Nhiều người khác, có lẽ vì bản chất hiền lành, chấc phác, hoặc là chưa có kinh nghiệm với VC, nên lầm tưởng cho rằng, không có điều gì phải lo sợ khi VC cầm quyền!
Như anh Bộ chẳng hạn. Anh chủ quan, nghĩ mình chỉ là giáo viên tiểu học của giáo xứ nghèo, nhất là không hề tham gia bất cứ việc gì của chính phủ VNCH thì có gì mà phải sợ hãi? Vả lại, anh bị khuyết tật bẩm sinh, chân cao chân thấp. Khi nhìn thấy vẻ mặt hiền lành, chân đi khập khiễng, không ai nỡ lòng hại anh.
Còn bố tôi, sau ngày miền Nam thất thủ thì tự an ủi cho rằng, ông đã già yếu và giải ngũ từ lâu thì không có gì mà phải e ngại!
Đồng thời, dư luận hồi đó bàn tán xôn xao về chuyện 'hoà hợp hòa giải' — ghi trong hiệp định Ba-Lê 1973 mà VC đã ký kết. Nên gia đình tôi cùng hàng triệu người khác tin tưởng, không có ai bị VC trả thù.
Thế nhưng, sự việc xẩy ra sau Tháng Tư Đen 1975 hoàn toàn trái ngược: Hàng trăm ngàn Quân Nhân, Công Chức và Cảnh Sát VNCH bị VC đầy đọa dã man trong ngục tù 'cải tạo', trong khi dân chúng bị xô đẩy vào thảm cảnh lầm than, nghèo khổ, ngày đêm lo sợ công an hạch hỏi. Ách cai trị Mác-Lênin sắt máu hơn ách cai trị thời Pháp thuộc bội phần.
Chứng cớ rõ ràng nhất là thời Pháp thuộc, mặc dù thực dân thâm độc, nhưng dân Việt vẫn được mua bán thực phẩm tự do, không hề có quỷ kế 'cai trị bằng bao tử' qua 'sổ hộ khẩu' như thời VC.
Hơn nữa, việc sử dụng bạo lực thời xưa qua hệ thống công an chìm và nổi, không thấm vào đâu so với thời VC. Hầu như ai cũng biết, hiện thời "Công An Nhân Dân" nắm quyền sinh sát 'nhân dân' trong tay. Nên bọn chúng coi mạng sống 'nhân dân' rẻ như bèo. Chuyện công an VC đánh đập, bắt bớ, tống giam, tra tấn, thủ tiêu, hối mại quyền thế, giết người vô tội v.v. đều là chuyện 'bình thường' trong thời XHCN.
Gần gũi nhất là gia đình tôi cùng dân cư ở Xuân Hiệp, ngày đêm bị bọn 'công an nhân dân' hăm dọa, khủng bố tinh thần, hạch hỏi đủ điều. Sau khi VC 'đánh tư sản' thì gia đình tôi trắng tay. Tài sản bị chúng cướp hết, chỉ còn vài rẫy đất để trồng trọt mà sống qua ngày.
Quý vị cao niên từng sống ở Xuân Hiệp, chắc hẳn còn nhớ khu vực này đặt dưới quyền cai trị của bọn công an từ miền Bắc vào, nói giọng Nghệ An, tên đầu xỏ là Trần Đắc.
Bọn này nắm quyền sinh sát dân cư trong tay. Suốt ngày đêm, chúng rình mò, hạch hỏi tất cả các sinh hoạt của từng người. Hễ ai bị tình nghi, hoặc bị chúng ghét thì thể nào cũng có ngày khốn đốn. Thông thường là bị chúng bắt giam, tra tấn, hoặc thủ tiêu.
Tuy nhiên, câu chuyện về anh Bộ xẩy ra - trước lễ Giáng Sinh năm 1975 khoảng vài tuần lễ – làm nhiều người ngỡ ngàng: Anh là người hiền lành như “thóc với khoai” mà cũng bị bọn ác ôn buộc tội là “phản động, cần đi học tập cải tạo”.
Tôi còn nhớ mấy ngày đầu, sau khi anh Bộ bị bắt thì cả Ấp 1 hoang mang. Người nói thế này thế khác. Trong khi đó, bố tôi buồn bực, thở vắn thở dài. Mấy hôm sau, ông mới nói nhỏ cho gia đình biết, anh Bộ bị bắt chỉ vì chị Lan.
Mặc dù đã có hai con với anh Bộ, nhưng chị Lan vẫn còn trẻ đẹp. Vì có nhan sắc, nên chị lọt vào đôi mắt cú vọ của “thằng khốn kiếp”. Đó là biệt danh mà dân cư Ấp 1 thường dùng khi nói chuyện với nhau về Trần Đắc –kẻ tàn ác nhứt khu vực Xuân Hiệp.
Đúng là như vậy. Ngay sau khi anh Bộ đi tù thì Trần Đắc đến nhà chị Lan thường xuyên. Khi thì gã hạch hỏi. Khi thì gã dụ dỗ hoặc dọa nạt chị Lan. Nhiều lần chị Lan sang nhà tôi sụt sùi khóc, rồi than thở hết chuyện này đến chuyện kia. Nhưng trong chế độ VC, ai cũng sợ hãi, không giúp chị được điều gì ngoài mấy lời an ủi.
Thế rổi, khoảng 5, 7 ngày sau, tên Trần Đắc trâng tráo, dọn đến ở trong nhà chị Lan. Đây là căn nhà rất khang trang trong xóm. Ngay khi biết chuyện này, cả nhà tôi cảm thấy buồn bực, rồi phẫn uất. Nhất là bố tôi. Phần vì thương anh Bộ và chị Lan. Phần vì căn nhà này, được tạo dựng là do tiền bạc và công sức của ông khi nhận làm cha đỡ đầu cho anh Bộ.
Từ đó, chị Lan có ý xấu hổ. Nên chị lẩn tránh họ hàng, nhất là bố mẹ tôi. Chắc là chị bị kẻ vô luân “hủ hóa”? Tình cờ gặp ai ở nhà thờ, chị tỏ vẻ thẹn thùng. Đôi mắt chị u sầu như đang ngấn lệ. Gia đình tôi và họ hàng đều thương cảm.
Thật sự, chị Lan chỉ là nạn nhân, không có gì đáng trách. Chuyện ghê tởm, can tội ác phá hoại hạnh phúc gia đình người khác, chính là tên Trần Đắc và đồng bọn công an “ác ôn côn đồ” trong khu vực.
Đây là bằng cớ cụ thể lần thử 1001 cho thấy, sau khi chiếm trọn miền Nam năm 1975, bọn chóp bu VC đã ngấm ngầm 'bật đèn xanh' cho thực hiện quỷ kế 'Hoa Hồng Đỏ' — Vừa để trả thù 'Ngụy Quân, Ngụy Quyền, Ngụy Dân', vừa để 'thưởng công chiến thắng' cho 'bộ đội', công an và 'cán bộ' hành chánh:
Hễ thấy gia đình nào ở miền Nam có thiếu nữ trẻ đẹp thì bọn chúng sử dụng mọi cách để dụ dỗ, lường gạt, hoặc dọa nạt. Dã tâm là chiếm đoạt, hay hủ hoá các cô gái độc thân. Nhất là phá hoại gia đình các thiếu phụ trẻ, có chồng trong ngục tù ‘cải tạo'.
Khi kể lại chuyện này, tôi không quên được thảm cảnh của hai cháu bé Bình và Ban. Trong khi cha đi tù thì mẹ bị tên Trần Đắc ‘hủ hoá‘. Hai cháu sống trong căn nhà, do ông cha dựng lên mà bị bạc đãi thảm thương. Vì bữa no bữa đói, nên hai cháu gầy gò, mặt xanh như lá cây, thường hay sang nhà tôi đòi ăn. Trong xóm thì ai cũng biết, chị Lan bất lực khi hai cháu bị tên Trần Đắc mắng chửi, dọa nạt và nhiều lần phạt không cho ăn. Cuối cùng, chúng bỏ học sang ở bên nhà tôi ‘tỵ nạn‘.
Trong thời gian này, chị Lan còn bị tên Trần Đắc cấm, không cho đi 'thăm nuôi' anh Bộ. Vì vậy, chị mới lén lút, nhờ thân nhân gởi quà cho anh ấy. Không may, chỉ được vài lần thì bại lộ. Nên chị bị tên Trần Đắc hành hung và hăm dọa, nếu tái phạm thì sẽ phải ‘đi học tập cải tạo’.
Chuyện bất hạnh trong gia đình tôi không ngưng ở đó. Phần kế tiếp diễn ra còn bi thảm hơn trước nhiều lần. Giữa đêm khuya, bọn công an VC đến gõ cửa, xông vào nhà bắt bố tôi và hai người anh. Cả nhà tôi hoảng hốt, gào khóc thảm thương.
Thế là gia đình tôi tan nát thêm lần nữa. Hai cháu bé, chưa hết nhớ cha, lại thêm nhớ ông nội. Ngày nào chúng cũng thay phiên nhau hỏi:
"Khi nào ba cháu về"? "Khi nào ông nội về"?
Buồn thê thảm nhất là mẹ tôi. Lúc nào bà cũng lo sợ cho tính mạng của chồng con, không biết VC đầy đoạ ở đâu và đến khi nào, chúng mới thả về.
Khoảng nửa năm Sau, mẹ tôi phải làm ’thủ tục đầu tiên', có nghĩa là 'thủ tục tiền đâu', hối lộ cho công an thì bọn chúng cấp giấy phép và cho biết thân nhân mình ở trại tù nào để đi ’thăm nuôi’.
Không lâu sau, ngoài chuyện mừng mừng tủi tủi — khi đến thăm thân nhân nơi ngục tù 'cải tạo’ – bản thân tôi cũng gia đình, liên tiếp sa vào đại họa, kể cả mấy lần tang gia bối rối. Tôi xin miễn tiến sâu vào chi tiết của những chuyện đau thương này, vì e ngại là 'tràng giang đại hải' và 'lạc đề'. Nên tôi chỉ cô đọng trong câu chuyện về anh Bộ mà thôi.
Thật là tội nghiệp cho anh ấy. Chỉ vì có cô vợ trẻ đẹp và căn nhà khang trang mà bị đầy đọa trong trại ngục tù Bù Gia Mập, tỉnh Phước Long, suốt 4 năm trời.
Khi trở về nhà, vóc dáng anh Bộ, tương tự như bố tôi – được thả trước anh vài tháng: Cả hai người đều đen thui, đôi mắt trũng sâu, gầy yếu đến nỗi chỉ còn da bọc xương.
Tuy nhiên, thương tâm nhất vẫn là anh Bộ. Tôi nhớ mãi hình ảnh anh lúc đến nhà tôi: Anh vừa đi khập khiễng, vừa đưa tay lên lau nước mắt. Khi gặp bố tôi và hai cháu bé, anh khóc nức nở.
Sau đó, anh vừa sụt sùi, vừa kể lại chuyện tàn nhẫn vừa mới xẩy ra. Cả nhà tôi chăm chú lắng nghe, trong lòng xót thương khôn tả.
Từ ngục tù 'cải tạo' trở về, anh Bộ vừa nhìn thấy mái nhà xưa thì mừng mừng tủi tủi, vội vàng bước vào tổ ấm để gặp lại vợ con. Nhưng hỡi ơi! Sự thật phũ phàng, không ngờ hiện rõ trước mắt anh: Tên Trần Đắc đang 'thân mật' ngồi ôm chị Lan, nghe radio trong phòng khách. Vừa nhìn thấy anh Bộ, hắn hùng hổ đứng lên, quát mắng:
“Ai cho mày vào đây? Thằng què ... thằng phản động này... tại sao không gõ cữa” ?
Dứt lời, hắn lại còn vênh mặt hống hách, đuổi anh Bộ ra khỏi nhà và cấm không cho anh bén mảng đến đó nữa! Chuyện này làm cả nhà tôi vừa uất hận, vừa đau lòng. Bố tôi nắm tay anh Bộ an ủi liên tục. Cuối cùng, ông bảo:
"Thôi thì...con ở đây với bố mẹ... Đói no gì, cứ ở đây, phụ làm rẫy mà nuôi hai đứa nhỏ, giả đui giả điếc mà sống... ".
Thú thật, khi kể lại câu chuyện oan khiên của anh Bộ đến đây, tôi vẫn còn cảm thấy thương tâm, nên vừa viểt vừa lau nước mắt. Tôi còn nhớ, sáng hôm sau ngày trở về, anh Bộ lại phải đến văn phòng công an 'làm việc'. Mặc dù anh có 'Giấy Ra Trại', nhưng anh vẫn là người tù 'cải tạo' – vì bị giam lỏng trong tình trạng 'quản chế ' 12 tháng.
Là người dân quê hiền lành, chất phác, anh Bộ âm thầm chịu đựng. Đêm thì khóc thầm. Ngày thì im lặng. Anh nương náu bên cạnh bố tôi, đi vào khu rẫy cũng với hai cháu bé, cuốc đất trồng bắp, trồng đậu.
Thế nhưng, ‘họa vô đơn chí'. Một hôm, Sau khi anh Bộ đi làm ở ngoài rẫy, đến chiều tối không thấy anh về thì cả nhà mong chờ. Hôm ấy bố tôi làm ở khu rẫy khác. Sau khi về nhà thì ông lầm tưởng là anh Bộ ngủ đêm ở rẫy để canh chừng, sợ kẻ trộm đến bẻ bắp, đào đậu. Vì dạo ấy, dân cư Ấp 1 thường rủ nhau cất chòi bên cạnh rẫy và ngủ lại trong đó để canh chừng mỗi khi hoa màu sắp đến kỳ thu hoạch.
Sáng hôm Sau, ra ngoài rẫy tìm kiếm, bố tôi không thấy anh Bộ đâu. Ông hoảng sợ, đi từ nơi này đển nơi khác hỏi thăm những người làm rẫy nhưng không ai thấy anh Bộ ở nơi nào. Bố tôi vội vàng vể nhà báo tin, khiến cả gia đình lo sợ. Hai cháu bé gào khóc, rồi ngây thơ hỏi:
"Ông nội ơi... ba cháu đi đâu rồi. Sao không...thấy ba cháu về"?
Nghe tiếng trẻ thơ gào khóc, bố tôi càng thêm đau lòng. Cả đêm hôm ấy ông thao thức, không sao ngủ được. Đến sáng hôm Sau, hai cháu lại khóc. Bố tôi bí thế, buộc lòng phải nói dối chúng để cho yên chuyện:
"Ba cháu về Sài Gòn, xin dạy học vì làm rẫy cực quá. Ba cháu yếu đuối, không làm nổi ".’
Nhờ vậy, hai cháu bé ngưng khóc. Nhưng rồi, chiều nào chúng cũng hỏi:
"Chừng nào ba cháu về|
Khoảng hơn tuần lễ trôi qua. Bố tôi tiếp tục, đi thăm hỏi khắp xóm Xuân Hiệp, kể cả chuyện đến phòng công an báo cáo, nhưng chuyện về anh Bộ vẫn “biệt vô âm tín”
Khoảng chừng mươi ngày sau, giữa đêm cháu Bình đang ngủ thì vùng dậy, rồi chạy qua, leo lên giường bố tôi. Nó nằm cạnh bên ông, rồi nói:
"Ông ơi, cháu nằm mơ, cháu gặp ba cháu".
Bố tôi nghĩ rằng, cậu bé nhớ ba nó quá độ, nên nằm mơ. Ông an ủi:
"Cháu nằm mơ vậy là ba sắp về rổi đó”.
Cậu bé yên tâm, rổi về giường nó ngủ tiếp. Đêm hôm sau, nó lại chạy qua giường, gọi bố tôi dậy, rồi nói:
"Ông ơi, cháu lại mơ thấy ba cháu nữa, nhưng mà mặt ba cháu ghê lắm, toàn máu không hà"!...
Bố tôi sợ hãi, ngổi dậy. Ông cho rằng, đó là chuyện báo mộng, xuất phát tâm linh cho thấy chuyện bất hạnh. Ông xót xa, ôm cháu bé trong vòng tay, rồi nghĩ ngợi miên man. Đển sáng hôm sau, Ông nói với nó rằng:
"Tối nay trước khi ngủ, cháu cầu nguyện rằng, ba ơi, ba đang ở đâu, ba cho con biết để con với ông nội đi tìm ba..."
Trước khi lên giường ngủ, cháu Bình làm theo với lời cầu khẩn.
Ngày hôm sau, cháu Ban ở nhà với mẹ tôi. Còn cháu Bình đi theo bố tôi lên rẫy phụ nhổ cỏ. Đến khi chiều tàn, hai Ông cháu bẻ bắp đem về để luộc cho că nhà ăn. Hồi đó, cả nhà tôi, ngày ăn hai bữa, chỉ có bắp, hay đậu phụng, khoai lang, hoặc khoai mì, họa may mới có bữa cơm trộn lẫn với bo bo.
Năm ấy, cháu Bình chưa tới 10 tuổi, nhưng phải làm lụng vất vả. Nhờ tính tình giống anh Bộ, cậu bé biết chịu đựng khổ cực và nhanh nhẹn hết sức. Thường ngày, hai tay nó xách hai giỏ bắp, mỗi bên chừng 10 trái mà đi thoăn thoắt.
Chiều hôm ấy, trên đường về nhà, cháu Bình theo bố tôi, đi qua cây Bằng Lăng - mốc ranh giới giữa hai phần đất khác nhau – khoảng mươi bước. Bỗng dưng nó vấp ngã thì gọi bố tôi:
"Ông nội ơi..... cháu té.
Bố tôi đang vác cuốc đi trước, nghe thấy tiếng gọi thì quay lại rầy la nó:
"Thủng thẳng mà đi, chạy chi rồi vấp té".
Cậu bé không cãi lại mà vội vàng, cúi xuống lượm mấy trái bắp cho vào giỏ rồi đi tiếp. Ngày hôm sau, cũng ngay chỗ ấy. Thêm lần nữa, nó không vấp vào cái gì, nhưng không hiểu sao lại bị té, bắp trong giỏ đổ tung, ngay chỗ cũ hôm qua. Nó lại gọi:
"Ông ơi.... chờ cháu với.
Bố tôi quay lại mắng cậu bé:
"Bộ con mắt cháu để sau ót hay sao? "
Lần này cậu bé cũng không nói gì. Như lần trước, nó lượm bắp cho vô giỏ rồi tiếp tục đi. Còn bố tôi thì bắt đầu hoài nghi. Nên sang ngày thứ ba, vào lúc xế chiều, trong khi bẻ bắp thì bố tôi nói với cháu bé:
"Hôm nay ông xách phụ cháu xem cháu còn té nữa không nghe?".
Cháu Bình cười, nhìn ông nội:
"Chắc cháu không té nữa đâu".
Nói xong, cậu bé cùng với bố tôi, dồn tất cả bắp vào cái giỏ lớn để mỗi người xách một bên, mang về nhà. Riêng bố tôi thì có thêm cái cuốc, vác trên vai.
Thật lạ lùng, không hề có khúc cây nào. Không hề có cục đá nào. Không hể có chướng ngại vật nào trên đường mà cậu bé bỗng dưng lại vấp ngã. Không những thế, nó ngã xuổng đúng chỗ cũ. Vì lần thứ ba, nên nó bực bội và tỏ ý thắc mắc, không hiểu tại sao cứ ngã ngay đúng chỗ này? Mặc dù e ngại bố tôi quở mắng, nhưng lúc ấy nó khóc rống lên, rồi hỏi bố tôi:
".... Ông ơi ông!...Sao cháu... ngã ở đây hoài vậy"?
Tự dưng bố tôi cảm thẩy rợn tóc gáy. Trong lúc ông quay lại, đỡ nó đứng lên thì cả người ông nổi da gà khi nhớ đến điềm báo mộng của cháu Bình hôm trước.
Thật ra, điềm báo mộng thuộc lãnh vực tâm Iinh, hiển nhiên là huyền bí, nên có người tin, có người không. Nhưng khi kể lại câu chuyện thật về nỗi oan khiên của anh Bộ, lương tri bắt buộc tôi phải tôn trọng, thuật lại những sự kiện xẩy ra mà tôi được biết
Vì bố tôi tin tưởng vào điềm báo mộng, nên ngay đêm hôm đó, sau khi hai cháu bé lên giường ngủ, ông đển gặp mấy ngưõi bạn thân trong xóm. Sau khi ông trình bày đầu đuôi câu chuyện huyền bí kể trên thì ai cũng đoán là anh Bộ bị bọn ác ôn giết, rồi chôn vùi đâu đó. Giả thuyết này làm bố tôi rùng mình nhớ đến thảm cảnh oan khiên thật sự của hàng ngàn lương dân đã bị VC bắn chểt tại chỗ, hay bắt đem đi chôn sống ở nhiều nơi trong thành phố Huế hồi Tết Mậu Thân 1968.
Thế rồi, đợi qua nửa đêm khuya, trong khi mọi người đã ngủ say, bố tôi cùng mấy người bạn trong xóm, âm thầm mang cuốc, xẻng, đi ra rẫy trồng bấp. Dưới ánh trăng sáng, khi đi đến cây Bằng Lăng thì mỗi người một chỗ, bới đất lên tìm kiểm xem có vểt tích, hay vật liệu nào khả nghi không?
Một lúc lâu sau, bỗng dưng có tiểng kêu lớn làm bố tôi giật mình.
"Ông ơi!.... Này các ông ơi.... lại đây xem".
Bố tôi hấp tấp chạy lại phía rẫy bên kia cây Bằng Lăng. Đây là nơi tình nghi vì có nhiều vết đất mới. Thể là cả toán xúm lại, người dùng xẻng đào, người dùng cuốc bới đất lên. Lớp đất khá dầy nên gần nửa tiếng sau mới nhìn thấy bao ni-lông.
Đúng là xác anh Bộ rồi! Xác anh nằm sấp, quấn trong bọc rất lớn.
Khi mở bọc ra để 'nhận diện' thì ai cũng cảm thấy rùng rợn: Anh Bộ bị đập bể sọ. Nểu không phải là bọn ác ôn Trần Đắc thì ai giết, rồi chôn vùi xác anh Bộ ở đây?
Bất chẩp mùi hôi thối xông lên nồng nặc, mấy ông hàng xóm nhân từ, tiếp tục giúp bố tôi mang xác anh Bộ về nhà. Tiếp theo, họ nhanh nhẹn, phụ bố tôi tẩy uế, rồi tẩm xác anh Bộ. Mọi việc đều thầm kín. Đợi đến sáng hôm sau, bố tôi mới lên phường xã, xin phép chôn cất tử thi.
Chắc chắn, bọn cán bộ VC trong phường xã Xuân Hiệp, nhất là đội ngũ công an, thừa biểt chuyện anh Bộ bị giết từ nhiều hôm trưởc. Nên chúng nhanh nhẹn, cấp giấy phép mà không hề thắc mắc, hỏi han hay kiểm chứng điều gì!
Hôm mai táng, cả nhà tôi sụt sùi khóc. Nhất là lúc tiễn đưa anh Bộ ra nghĩa địa, hai cháu bé Bình và Ban kêu gào thảm thương. Tôi không cầm lòng được, nên khóc theo khi hạ huyệt. Đó là lúc chiểu ngày 2-11-1979.
Sau ngày an táng anh Bộ, khoảng vài ba tuần thì đển lượt chị Lan bị Trần Đắc đuổi ra khỏi nhà. Lẽ dễ hiểu là gã đã thỏa mãn thú tính với chị ấy suốt 4 năm rồi. Hơn nữa, sau khi hoàn tất việc cướp đoạt căn nhà rất khang trang của anh Bộ và chị Lan thì hắn muốn mang vợ con từ Nghệ An đến ở. Chuyện này thì cả Ấp 1, giáo xứ Xuân Hiệp, đều là chứng nhân. Chắc hẳn nhiều vị lão thãnh ở đó vẫn còn nhớ.
Ngay sau khi bị đuổi, chị Lan đến gặp bố mẹ tôi. Chị khóc sướt mướt rồi ngỏ lời, xin mang hai cháu bé về Phan Thiểt để nương náu bên bố mẹ ruột của chị ấy.
Mặc dù chị là nạn nhân đáng thương, không có gì đáng trách. Nhưng không hiểu vì sợ hãi bọn công an ác ôn hăm dọa? Hoặc vì đau thương quá nỗi? Hay vì lý do nào khác mà hôm ấy, chị không hề đề cập đến chuyện của anh Bộ - người chồng của chị đã chết cay đắng ở Xuân Hiệp? Dù sao, bố mẹ tôi vẫn e ngại chị chạnh lòng, nên không nói điều gì khác ngoài chuyện về hai cháu bé.
Đến nay, hàng chục năm trời đã trôi qua, nỗi đau thương đã “thuyên giảm” ít nhiểu. Tôi kể lại chuyện “Oan Hồn Người Tù Cải Tạo” này với hy vọng, có thể góp phần nhỏ bé, để lại chứng tích bên dòng lịch sử trong thời kỳ nước mất nhà tan -- sau Tháng Tư Đen năm 1975.
Do đó, tôi ước mong câu chuyện này được phổ biển rộng rãi và đến tay hai cháu Bình và Ban. Vì câu chuyện kết thúc năm 1979, cháu Bình chưa tới 10 tuổi, cháu Ban mới 8 tuổi. Nên tôi không hiểu, hiện thời hai cháu còn nhớ sự thật oan khiên này không?
Hơn nữa, VC lại có sở trường tuyên truyền lừa bịp thiện nghệ và nhồi sọ giới trẻ ở học đường. Nên nhiều thanh thiếu niên - chưa có nhiều kinh nghiệm về CS – dễ dàng lầm lẫn vể lịch sử, về BẠN và THÙ, về những tội ác tày trời do Hồ Chí Minh và đồng đảng liên tiếp gây ra từ 1945 đến nay.
ĐỖ QUỐC ANH THƯ
VŨ NAM* NHỚ VỀ NHỮNG LỜI CA CŨ
Nhớ về những lời ca cũ
Vũ Nam |
Tháng 10, 1980 gia đình chúng tôi và những người bạn đồng
hành trong cuộc vượt biên nguy hiểm, cùng với gần 600 người vượt biên
khác đã được tàu Cap Anamur Tây Đức cứu vớt ngoài biển Đông mang vào gửi
ở trại tị nạn Palawan, Phi Luật Tân.
Buổi trưa tàu chạy dọc theo đảo Palawan của miền tây nam nước Phi.
Sóng biển khi tàu đi sát bờ không còn dữ dằn như hôm qua hôm kia, lúc
tàu đang giữa biển. Trong cơn bão, dù nhỏ, nhưng tàu vẫn lắc lư, chòng
chành, mặc dù đang chạy. Gió phất trên boong tàu, làm chúng tôi dù nằm
sâu ở dưới lòng tàu cũng thấy chóng mặt. Thỉnh thoảng một cơn gió mạnh,
một con sóng mạnh tạt những làn nước biển xuyên qua cầu thang, xuống tận
nơi chỗ nằm của chúng tôi, cũng làm ướt áo. Thuyền trưởng báo trời đang
có bão, tàu sẽ rời vùng bão, sẵn dịp mang người tị nạn vào gửi ở trại,
không chạy lên chạy xuống, dọc theo ngoài hải phận Viêt Nam để cứu vớt
người vượt biên như mấy hôm nay nữa.
Nghe được tin này chúng tôi thật mừng. Thật tình lúc đó, tôi không
còn nghĩ đến những đồng hương khác đang lặn hụp trong bão tố giữa biển
khơi với những chiếc ghe xuồng nhỏ của họ. Lo cho riêng bản thân và gia
đình mình là suy nghĩ gần như của toàn xã hội trong những ngày khổ sau
khi hòa bình đã lập lại! Và phần khác cũng vì đã mười ngày rồi, đông
người trên tàu quá nên không còn đủ nước ngọt. Chuyện tắm giặt phải hoàn
toàn bằng nước biển. Máy lọc nước mặn thành ngọt của tàu đủ để nấu thức
ăn, nước uống. Mọi người chỉ còn trông sớm lên đảo để có nơi tắm giặt
bằng nước ngọt.
Màu xanh lá cây rừng dọc bờ biển đảo Palawan bạt ngàn nằm trong
màng sương biển. Những hạt mưa nhỏ vì ảnh hưởng của cơn bão ở biển Đông
vẫn còn vây quanh, phủ trùm lên cảnh vật với màu trắng mỏng. Tàu đang
chạy trong vùng vịnh, nên chỉ còn những con sóng nhỏ đánh vào hông tàu.
Mọi người được phép lên boong tàu để xem cảnh vật. Quang cảnh trên đảo
không có núi cao, không thấy những căn nhà, chỉ toàn thấy một màu xanh
của những cánh rừng miền nhiệt đới. Chúng tôi đi tới lui trên tàu và rất
phấn khởi để chuẩn bị lên đất liền, về trại tị nạn, sau khi tàu cập
bến.
Rồi tàu cũng vào bến đậu. Lâu rồi tôi cũng không còn nhớ rõ, nhưng
hình như là đoàn các em Hướng Đạo Sinh ra gần cầu thang tàu đứng thành
hàng để chào đón chúng tôi. Những em thanh thiếu niên mặc áo quần đồng
phục, áo vàng, quần xanh ngắn, khăn quàng cổ cũng màu xanh, đẹp. Mấy em
được các anh chị mặc quần áo đồng phục, dài, tươm tất, hướng dẫn. Chúng
tôi từ giã các bác sĩ, y tá, nhân viên trên tàu, rồi từng người rời tàu,
xuống các ghe nhỏ để vào bờ, nơi đó đã có những chiếc xe buýt đang chờ
để chở chúng tôi về trại.
Đến trại trời đã bắt đầu tối, nên không thấy được toàn cảnh. Mọi người được đưa
vào một phòng lớn, người hướng dẫn nói đó là hội trường. Mỗi người một chiếc chiếu, trải ra nằm tạm, sát nhau, trên nền xi-măng. Trên trần nhà một bóng đèn vàng, đủ ánh sáng để không dẫm đạp lên nhau khi phải đi lại trong đêm.
vào một phòng lớn, người hướng dẫn nói đó là hội trường. Mỗi người một chiếc chiếu, trải ra nằm tạm, sát nhau, trên nền xi-măng. Trên trần nhà một bóng đèn vàng, đủ ánh sáng để không dẫm đạp lên nhau khi phải đi lại trong đêm.
Hôm sau, khi chưa tỉnh ngủ hẳn đã nghe tiếng nhạc ‘đánh thức’ bằng
một giai điệu rất rộn ràng. Điệu nhạc cứ lập đi lập lại. Làm ai không
thức dậy nổi cũng phải dậy để ra phông-tên lấy nước rửa mặt sút miệng,
chuẩn bị lãnh bánh mì ăn sáng.
Nhưng điệu nhạc ‘đánh thức’ vào buổi sáng này không làm tôi ngạc
nhiên bằng những lời ca trong các bản nhạc sau đó được trại cho phát
trong ngày, mà sau này hỏi ra tôi mới biết tựa và tác giả của nó như
‘Lời kinh đêm’, ‘Em vẫn mơ một ngày về’, ‘Một chút quà cho quê hương’,
‘Mời em về’, ‘Mưa Sài Gòn còn buồn không em’… của Việt Dzũng và Nguyệt
Ánh, hai ca nhạc sĩ ra đi tị nạn từ năm 1975.
Lời ca bản nhạc làm tâm hồn những người mới lên đảo đắm chìm lại
trong nỗi ký ức đã hằn dấu từ những năm 75 ở quê nhà: những tù tội, nhọc
nhằn, đổ vỡ, tan thương, xót xa, gào khóc và khổ…, những tỉnh từ trầm
luân này vẫn chưa nói hết nổi những đoạn đường khổ nhọc của người dân
Việt Nam kể từ ngày 30 tháng tư, tôi nghĩ vậy. Lời là thế, nhưng hay hơn
nữa phải nói là điệu nhạc. Có những điệu nhạc sao buồn quá, như bản
‘Một chút quà cho quê hương’, ‘Mưa Sài Gòn còn buồn không em’, ‘Lời kinh
đêm’… Lời và nhạc hòa quyện lại với nhau trong những vần điệu buồn.
“Em gửi về cho anh dăm ba điếu thuốc, anh đốt cháy cuộc đời cháy
mòn trên ngón tay, gửi về cho mẹ trăm chiếc kim may, mẹ may hộ con quê
hương quá đọa đầy…..” Hay: ”Mưa Sài Gòn, ôi mưa Sài Gòn bờ đại dương em
còn chờ đón, ta ra đi mất lối quay về, rồi chiều mưa ai đón đưa em…”
Nhưng có những điệu nhạc và lời ca sao hùng dũng quá, can trường
quá, như trong bài ‘Em vẫn mơ một ngày về’: ”Em vẫn mơ một ngày nào tay
chúng ta chung một màu cờ trên con đường làng…”
Giọng ca Nguyệt Ánh, Việt Dzũng thật truyền cảm. Truyền cảm ở đây
trong ý nghĩa uất nghẹn, đau thương trong tình yêu quê hương đất nước,
tình yêu thương những thành phố, con người còn ở lại VN, con người nằm
dưới lòng biển sâu, con người tấp giạt vào bờ đất Thái, Phi, Indo. với
‘đong đầy nước mắt’. Và truyền cảm trong niềm tin yêu hy vọng cho tương
lai đất nước, chứ không phải là nghĩa truyền cảm thường tình của tình
yêu trai gái.
Và đặc biệt sau cùng là bản nhạc Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa. Chúng
tôi, cùng tất cả người Việt tị nạn trong trại, ra đứng làm lễ chào quốc
kỳ đầu tiên do trại tị nạn tổ chức vào buổi sáng đầu tuần, sau ngày đặt
chân lên đảo:”Này công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi, đồng lòng cùng
đi hy sinh tiếc gì thân sống…..”, cùng với ngọn cờ vàng ba sọc đỏ từ từ
kéo lên, tung bay trong làn gió biển, làm lòng tôi rúng động, ngập tràn
niềm thương cảm, nhung nhớ cho màu cờ, tiếng ca từ bản nhạc, mà đã năm
năm qua tôi không một lần thấy và nghe được khi còn ở Việt Nam.
Trải qua những ngày khổ cực ở quê nhà, hãi hùng tại bờ biển trong
những đêm vượt biên, hôm nay đứng chào cờ và hát quốc ca VNCH trên mảnh
đất xa lạ Phi, dưới ánh nắng ấm áp, chan hòa, mùi hương biển của thành
phố Puerto Princesa trên đảo Palawan, hằng trăm con người tị nạn VN đứng
yên lặng, trầm buồn để nghĩ về thân phận thuyền nhân của thời hiện tại.
Rồi cứ mỗi ngày qua, tiếng nhạc đánh thức, tiếng ca Việt Dzũng,
Nguyệt Ánh cứ vang lên trong trại. Tiếng ca hối thúc, kêu gào, tiếng ca
mang niềm tin yêu lại cho con người, hòa lẫn với con sóng biển vỗ về đập
vào bờ của trại tị nạn, mỗi ngày, mỗi tuần, đã trở thành âm thanh thân
yêu, quen thuộc.
Có những buổi chiều tôi đi dạo dọc theo bờ biển của thành phố này,
đi xa khỏi trại, đi trên những dải cát trắng, dưới những hàng dừa, nhìn
những người Phi chạy bộ thể thao dọc theo bờ biển, nhìn ra xa những con
chim biển, một cảm giác nhớ nhung về nơi làng quê tôi sinh ra, cũng
biển, hiện về, nhưng lập tức phải cố quên ngay vì nơi làng quê đó, những
bờ biển đó, hôm nay bạo lực dãy đầy, mà tôi đã từng chứng kiến cách đây
không lâu, khi những người công an, cán bộ địa phương đã đối xử như thế
nào với những người vượt biển, khi ghe họ bị bão hay hư máy, buộc phải
tấp vào nơi bờ biển quê tôi mong thoát qua cái chết giữa biển, nhưng để
rồi phải hứng chịu những trù dập, đánh đập ngay tại bãi biển của quê
hương VN mình. Cũng như tôi đã từng nghe một phụ nữ lai Tàu, trên tay
đang ẵm con, đã kể cho tôi ghe câu chuyện hãi hùng về chuyến ghe ra đi
„bán chính thức“ của chị. Khi ghe vừa tấp vào một làng làm biển, cạnh
làng tôi:”Ghe vừa gần ra đến hải phận thì bị phá nước, nước vô đầy ghe.
Họ thu vàng nhưng cho đi trên chiếc ghe sắp mục! May mà có cá ông đưa
vào bờ!”.
May mắn tôi và gia đình đã vượt thóat ra khỏi nước cũng ngay tại
bãi biển quê nhà, mà không phải gặp cảnh hãi hùng, tù tội, như các anh
chị em thiếu may mắn khác.
Sau một tháng ở Palawan, chúng tôi được đưa về trại tị nạn Bataan.
Chín tháng dài ở đây tôi không một lần nghe lại được nhạc của Nguyệt
Ánh, Việt Dzũng. Ở miền rừng núi nơi đây chúng tôi chỉ còn nghe tiếng
mưa rơi, tiếng suối reo thay cho lời ca tiếng hát.
Sau này, khi đã định cư ở Đức, tôi mới lại được nghe lời nhạc tiếng
ca của Nguyệt Ánh, Việt Dzũng, từ chiếc máy cassette và tiếp đó là
những bản nhạc viết về đời tị nạn rất hay như ‘Sài Gòn niềm nhớ không
tên”, như “Sài Gòn ơi ta có ngờ đâu rằng, một lần đi là một lần vĩnh
biệt, một lần đi là ta mất nhau rồi, một lần đi là mãi mãi chia xa… ”
Nghe thật nhức nhối.
Nhưng cuộc sống mới ở xứ người, những đứa con tiếp tục lần lượt ra
đời, việc học nghề nghiệp. công ăn việc làm…. Bao việc đó đã làm cho tôi
hầu như dần quên một thú vui: nghe nhạc.
Thú thật, nhiều tháng không nghe nhạc một lần! Không những không
còn nghe những bản nhạc đấu tranh của Việt Dzũng, Nguyệt Ánh, mà ngay cả
những bản tình ca dễ thương mà tôi thích nghe như ‚Hạ trắng’, ‚Diễm
xưa’, hay những tình ca quê hương, tình ca người lính như ‘Khúc ca ngày
mùa’, ‘Chuyện một chiếc cầu đã gãy’, ‘Trên bốn vùng chiến thuật’, ‘Rừng
lá thấp’… bao tháng miệt mài tôi vẫn không một lần được nghe. May mắn là
vào dịp có Tết Nguyên Đán, khi các hội đoàn tổ chức gặp gỡ, văn nghệ
đón xuân giữa mùa đông xứ người, đến, tôi mới nghe lại được những bản
nhạc quê hương thân yêu này. Lòng chùng xuống trong điệu nhạc, lời ca.
Chính những lời ca tiếng hát này đã làm tâm hồn thanh thiếu niên
chúng tôi ngày trước trở nên…hiền. Tôi có ý nghĩ như vậy. Hàng ngàn lời
ca trong hằng trăm bài hát đều nói lên tình yêu. Yêu trong tuổi học trò
…”Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn, chín mươi ngày qua chứa chan tình
thương”… Tình yêu trong thời chinh chiến… “Tôi có người yêu tuổi ngọc
vừa tròn vì chinh chiến ngược chưa về thăm một lần….”; “Về đây bên nhau
ta nối lại tình thương…” Và còn biết bao nhiều là lời ca hiền hậu đầy ân
tình.
Bây giờ, nhìn về xã hội VN, sao ai cũng nói trẻ em bây giờ ngỗ
nghịch quá, ai cũng than sao thanh niên bây giờ dữ quá, từ một cái nhìn,
một câu nói cũng có thể đâm chém nhau; ngay cả các cô nữ sinh 14, 15
tuổi cũng có thể ôm đầu đánh nhau ngoài đường! Lỗi tại ai, chắc ai ai
cũng biết! Với rất nhiều lý do.
Bao giờ con cháu chúng ta không còn nghe những câu hát như “thề
phanh thây uống máu quân thù”, những câu thơ như “giết giết nữa bàn tay
không mệt mỏi”, và khi các giai thoại nhạc quê hương ngày xưa trở lại
thịnh hành, phổ biến, để mỗi con em đều có thể thuộc lòng, ca lên, có lẽ
lúc đó lớp trẻ mới lớn của người Việt trong nước sẽ từ từ hiền hậu lại.
Tôi tin chắc như vậy.
Vũ Nam (Germany)
LÊ NGUYÊN * LẬT ĐỔ CỘNG SẢN
Cách mạng lật đổ đang chờ lãnh đạo đảng cộng sản
Le Nguyen (Danlambao) -
Lý thuyết cộng sản đã phá sản, hệ thống tổ chức xã hội chủ nghĩa đã sụp
đổ là sự thật lịch sử không thể chối cãi nhưng tàn dư cộng sản, những
tên lãnh đạo của các nước cộng sản sống sót sau cơn bão cách mạng dân
chủ quét tận sào huyệt sản sinh ra nhà nước xã hội chủ nghĩa hơn hai
mươi năm về trước, vẫn ngoan cố không buông bỏ quyền lực nhà nước, vẫn
giành độc quyền lãnh đạo kinh tế và xã hội. Ai cũng thấy, đảng cộng sản
Việt Nam ngoan cố tham quyền cố vị, bày mưu tính kế bảo vệ độc quyền
quyền lực chính trị, chống lại sự tiến bộ của loài người văn minh, dù
phải muối mặt làm thân với kẻ thù giai cấp “bóc lột”, bọn tư bản “xấu
xa”, làm hòa với các nhà nước dân chủ tư sản kẻ thù của nhà nước cộng
sản xã hội chủ nghĩa để được truyền ống trợ sinh hầu tồn tại trong thế
giới loài người văn minh.
Trong ý đồ xấu tham quyền cố vị, tham sinh quý tử, đảng cộng sản đã phát
minh ra nhiều thủ đoạn để cứu nguy chế độ độc tài toàn trị bên bờ vực
tan rã. Chẳng hạn như cộng sản Việt Nam hô hào đổi mới kinh tế với “đám
chữ” kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Trung Cộng lập lờ
đổi mới kinh tế với danh xưng kinh tế thị trường mang màu sắc trung
Hoa. Thực chất đổi mới của Việt Cộng lẫn Trung Cộng cũng đều là đánh
tráo khái niệm, là trở lại làm ăn theo kiểu cách kinh tế thị trường, xin
xỏ buôn bán với các nước tư bản giàu có nhằm thu tóm quyền lợi kiếm
được từ kinh tế thị trường hoang dã chia chát cho nhau để tiếp tục độc
quyền chính trị thực hiện các chính sách bạo tàn độc ác, làm nghèo đất
nước làm khổ nhân dân.
Mấy năm gần đây, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần lộ
rõ bản chất tiêu cực, nghĩa là thành quả kinh tế thị trường không đến
tay người dân mà lọt vào túi tham không đáy của các quan chức cán bộ,
đảng viên tay chân của băng đảng cộng sản. Chúng ngang nhiên ăn cắp của
công, ăn cướp của dân trắng trợn trước sự nhắm mắt làm ngơ, đồng tình
của đảng cộng sản, làm khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa, bất công xã
hội ngày càng đáng sợ hơn. Chúng phơi rõ bản chất chế độ độc tài toàn
trị cộng sản dù hô hào, cải sửa áp dụng biện pháp nào đi nữa vẫn không
thể đem đến “nước mạnh dân giàu, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” nên
người dân bị cướp đất, cướp nhà, cướp đi quyền sống, quyền mưu cầu hạnh
phúc, không còn chọn lựa nào khác là đứng lên chống lại áp bức bất công
do chế độ độc tài độc ác cộng sản gây ra.
Đứng trước áp lực phản kháng ngày càng mạnh mẽ, táo bạo và dứt khoát của
người dân bị trị, khiến giai thống trị cộng sản buộc phải thay đổi giả
vờ để giảm áp lực của người dân lẫn các tổ chức quốc tế lên giai cấp cầm
quyền cộng sản, qua việc hứa hẹn tuân thủ luật pháp quốc tế, bảo đảm
nhân quyền cho người dân Việt Nam để được duyệt xét tham gia các tổ chức
xã hôi, kinh tế, chính trị...của quốc tế.
Với các hứa hẹn miệng lẫn trên các văn bản ký kết tôn trọng chuẩn mực
nhân quyền quốc tế, sửa đổi bổ sung một số điều luật theo yêu cầu quốc
tế, chỉ là đối phó tình thế. Trong thực tế cộng sản Việt Nam không hề
thực hiện hứa hẹn, cam kết quốc tế, ngay cả việc không thi hành đúng
theo luật pháp do chúng làm ra lẫn các luật pháp quốc tế mà chúng trưng
ra để thỏa mãn yêu cầu đòi hỏi nhằm nhận được trợ giúp viện trợ của các
tổ chức quốc tế.
Ngày nay kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không còn giá
trị lợi dụng tuyên truyền được nữa, chúng lại tung ra chiêu trò mới với
khẩu hiệu “chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21” để tiếp tục bịp bợm người dân
cũng như một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên lung lay niềm tin, có
dấu hiệu tự chuyển biến, tự chuyển hóa không còn mặn mà với con đường xã
hội chủ nghĩa vì biết chủ nghĩa xã hội là dối trá hoang tưởng, là đường
đi không đến. Thế nhưng không may cho đảng cộng sản Việt Nam là trong
lúc “chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21” được tuyên giáo mở loa đài ca tụng như
là ngọn đuốc soi đường cho nhân loại trong thế kỷ 21, cũng chính là lúc
“chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21” ở nơi khai sinh ra nó không sống hùng, sống
mạnh mà bắt đầu đổ bệnh liệt giường, có dấu hiệu bất trị, hết thuốc
chữa chỉ chờ tắt thở đem chôn thôi.
Trước sự thật không thể chối bỏ là “chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa thế kỷ
21” đã chìm dần vào con đường tự vỡ. Thế cho nên đám đầu sỏ tàn dư cộng
sản Việt Nam không chấp nhận thực tế chủ nghĩa xã hội phải bị xóa sổ là
sự thật không thể đảo ngược. Chúng ngoan cố không chịu buông bỏ độc
quyền quyền lực, chúng chỉ đạo tuyên giáo trung ương nghiên cứu lý luận
nhồi nhét vào đầu tay chân loa đài, văn nô bồi, tuyên truyền viên, dư
luận viên, cò mồi viên... định hướng dư luận, thực hiện âm mưu chính trị
lưu manh để tiếp tục lừa gạt dân tộc Việt Nam, dìm đất nước Việt Nam
xuống vực sâu đói nghèo lạc hậu và chậm tiến.
Hiện nay, đảng cộng sản Việt Nam đang phát động phong trào làm sống lại
chiêu bài “hòa hợp hòa giải dân tộc” một chiêu bài mà đảng cộng sản đã
từng sử dụng và lừa gạt thành công trong quá khứ. Không cần phải nhắc
lại ở đây vì có có rất nhiều người đưa ra dẫn chứng lẫn phân tích các âm
mưu của đảng cộng sản giăng ra cho cái gọi là “hòa hợp hòa giải dân
tộc”, kể từ khi đảng cộng sản sản sinh ra cụm từ hòa hợp hòa giải này.
Để có cơ sở vạch trần âm mưu “hòa hợp hòa giải” của đảng cộng sản chúng
ta có thể tham khảo một số bài viết nằm trong âm mưu phát động chiến
dịch “hòa hợp hòa giải” gồm các bài sau đây: “...Phỏng vấn linh mục
Nguyễn Công Danh về hòa hợp và đoàn kết dân tộc; Nhà báo hải ngoại với
sự nghiệp hòa hợp hòa giải dân tộc; Hòa giải là một mệnh lệnh của cả dân
tộc...Muốn hòa hợp dân tộc thì không nên đem cái tôi ra áp đặt; Chấp
nhận cái khác biệt để hòa hợp hòa giải dân tộc; Nuôi thù hận, cản trở
hòa hợp là có tội với tương lai...”(*)
Bên cạnh chiêu bài “hòa hợp hòa giải dân tộc”, tuyên giáo trung ương
đảng nghiên cứu lý luận học tập đưa vào tuyên truyền định hướng dư luận
về cái gọi là nhà nước dân chủ độc đảng sẽ “giống” như các nhà nước
Singapore, Taiwan, South Korea đã thực hiện và thành công trong xây
dựng, phát triển giúp cho nước họ cất cách bay lên ngang tầm với các
nước dân chủ tiên tiến thời hiện đại. Thế nhưng tuyên giáo cộng sản chỉ
nói một nửa sự thật về các nhà nước này. Theo như định hướng là các nước
Sing, Đài, Hàn cũng độc tài, độc đảng sẽ giống như nhà nước mà đảng ta
thực hiện “sắp tới đây”. Tuyên giáo cộng sản cũng không đá động gì đến
thiết chế chính thể dân chủ là nền tảng, động lực đưa các nước này vươn
lên trong thời gian tương đối ngắn sau hoang tàn đổ nát của chiến tranh.
Sự thật là trong thời chiến tranh lạnh giữa thế giới tự do với độc tài
công sản, các nước Sing, Đài, Hàn cần có một số điều luật khắt khe, hạn
chế quyền tự do cá nhân để ngăn chận làn sóng đỏ cộng sản xâm nhập phá
hoại chương trình xây dựng, phát triển đất nước họ. Thời gian đó, các
nước dân chủ Sing, Đài, Hàn chỉ có một đảng chính trị mạnh cầm quyền
liên tục hàng chục năm không có đối thủ chính trị mạnh để cạnh tranh
quyền lực nhà nước. Thế cho nên ngày nay đảng cộng sản Việt Nam cố tình
đấu nhẹm sinh hoạt chính trị đa đảng và diễn giải sai lệch là các nước
này độc tài độc đảng, vẫn dân chủ, vẫn làm cho nước mạnh dân giàu!
Thật ra là các nước Sing, Đài, Hàn không tổ chức nhà nước độc tài kiểu
cộng sản, họ có thiết chế chính thể dân chủ, không bóp nghẹt các quyền
tự do căn bản của người dân, họ không cấm người dân ra báo tư nhân,
không cấm người dân thành lập hội đoàn, đoàn thể xã hội, các đảng phái
chính trị tham gia đấu tranh với đảng cầm quyền, đấu tranh cho một xã
hội công bằng, dân chủ văn minh... yếu tố hình thành động lực đấu tranh
cho đất nước phát triển đúng hướng ý chí và nguyện vọng của toàn dân.
Giai đoạn hiện tại chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21 đã tự
vỡ và chiêu bài hòa hợp hòa giải chỉ là chiếc loa rè, không còn ăn
khách nữa nên đảng cộng chuyển hướng dư luận về một nhà nước “độc tài
độc đảng”, với luận điệu bịp bợm “độc đảng nhưng dân chủ” như Sing, Đài,
Hàn theo chúng định hướng nhằm mục đích giúp đám tàn dư cộng sản, lãnh
đạo đảng cộng sản tiếp tục độc quyền ngồi trên đầu trên cổ nhân dân Việt
Nam, tàn phá đất nước Việt Nam.
Bổn phận của mọi người Việt Nam yêu nước đấu tranh cho một Việt Nam dân
chủ, chúng ta cần phải lên tiếng để vạch trần âm mưu tuyên truyền láo
khoét về xã hội chủ nghĩa thế kỷ 21, về hòa hợp hòa giải dân tộc, về một
thể chế bịp bợm “dân chủ độc đảng”...
Không khó để chúng ta thấy, mọi giải pháp để củng cố độc quyền quyền lực
cho đảng cộng sản hay biến đổi hình thái độc tài cộng sản sang bất cứ
hình thức độc tài nào khác đều không phải là tương lai của Việt Nam.
Tương lai của công bằng xã hội không nằm trên con đường xã hội chủ nghĩa
hay hoà hợp hoà giải dân tộc nằm dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản và
tương lai nhà nước độc đảng không thể hình thành được thiết chế dân chủ,
nhà nước dân chủ. Tất cả thủ đoạn của đảng cộng sản đang mưu tính đều
không phải là tương lai của Việt Nam, phải bị loại bỏ.
Mọi dự án chính trị hay toan tính chính trị nào cho tương lai Việt Nam
đều không nằm trong độc tài độc đảng! Toan tính cho tương lai Việt Nam,
điều kiện tiên quyết phải tập trung vào dân chủ, chỉ có nhà nước dân
chủ, thiết chế chính thể dân chủ mới là tương lai của Việt Nam. Những
diễn biến dân chủ khắp nơi trên thế giới từ ôn hòa đến bạo động xảy ra
từng ngày và độc tài dù là độc tài nào đi chăng nữa vẫn không thể đảo
ngược khát vọng dân chủ của nhân loại thời hiện đại. Việt Nam cũng không
thể nằm ngoài trào lưu đó và đảng cộng sản Việt Nam phải thấy rằng chỉ
có hai con đường cho việc thực hiện dân chủ cho Việt Nam: một là đảng
cộng sản chủ động chuyển đổi trong hòa bình; hai là người dân đứng lên
làm cách mạng lật đổ chế độ.
Có lẽ lãnh đạo cấp cao của đảng cộng sản cũng đã thấy bạo lực của đàn
áp, tra tấn nhục hình đã không đè bẹp được quyền được sống, quyền tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc của người dân trong thời đại toàn cầu, thời đại
thông tin.
Hơn ai hết đảng cộng sản phải thấy rằng, với khủng bố đàn áp, dùi cui
nhục hình gây chết người trên đường, trong trại tạm giam, tạm giữ ngày
càng nhiều nhưng vẫn không dập tắt được làn sóng phẫn nộ của người dân.
Người dân khắp Bắc, Trung, Nam đã đứng lên đấu tranh thách thức bạo
quyền từ cá nhân đơn lẻ âm thầm đến vang dội khắp cả nước như Đoàn Văn
Vươn, Đặng Ngọc Viết...Từ các nhóm dân oan nhỏ lẻ của mấy mươi tỉnh
thành tập trung về Hà Nội, Sài Gòn đến chuyển biến sang tử thủ chống
giải tỏa cưỡng chế của người nông dân Dương Nội, Hà Tỉnh, Ninh
Thuận...và từ thụ động để yên cho lực lượng côn đồ còn đảng còn mình
đánh đập khiêng vác như heo lúc ban đầu.
Giờ đây phản kháng bắt đầu leo thang, người dân đã biết dùng gạch đá
chống lại lực lượng đàn áp. Những diễn tiến phản kháng của người dân từ
gục đầu cam chịu đến kiên trì khiếu kiện đòi công lý cho gia đình mình
năm này sang năm khác, chuyển sang việc sử dụng các biện pháp thô sơ
“gạch, đá” chống lại lực lượng cưỡng cướp gia tài sự sản của họ. Thực
tiễn cho chúng ta nghiệm ra rằng phản kháng bằng gạch đá, có khả năng
chuyển sang bom xăng, vũ khí tự chế là rất gần và khi bạo loạn bom xăng,
vũ khí tự chế nổ ra khắp nước thì chuyện gì xảy ra? Chắc chắn bạo lực
cách mạng lật đổ sẽ tới, máu người dân sẽ tiếp tục đổ xuống cho khát
vọng tự do dân chủ, cho quyền làm người của họ và cách mạng bạo lực lật
đổ có tốt hơn là cách những người lãnh đạo nắm giữ quyền lực đảng cộng
sản chủ động buông bỏ độc quyền lãnh đạo làm cuộc thay đổi thể chế chính
trị trong hòa bình?
Bạo lực cách mạng lật đổ chế độ độc tài cộng sản đang diễn biến từng
ngày và có diễn ra hay không? Tất cả còn chờ thái độ ngoan cố hay biết
phục thiện, biết “gặp thời thế thế thời phải thế” của thiểu số lãnh đạo
đảng cộng sản Việt Nam!
________________________________
Chú thích và bài đọc thêm:
BÀ THỦ TƯỚNG ĐƯC
BÀ THỦ TƯỚNG ĐỨC VỪA CHƠI CHỦ TỊCH TQ TẬP CẬN BÌNH MỘT VỐ ĐAU
Đức tặng Trung Quốc bản đồ cổ không có
Hoàng Sa, Trường Sa
02/04/2014 19:28 Hoàng Sa, Trường Sa
(Tin Nóng) Trong chuyến thăm Đức vừa qua, ngày 28.3, Thủ tướng Đức Angela Merkel đã tặng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tấm bản đồ Trung Quốc in năm 1735, trên đó biên giới Trung Quốc chỉ tới đảo Hải Nam, theo tạp chí Foreign Policy ngày 1.4.
Tấm bản đồ này do nhà bản đồ học người Pháp, ông Jean-Baptiste
Bourguignon d'Anville vẽ, được một nhà xuất bản Đức in năm 1735. Thủ
tướng Đức tặng bản đồ cổ này cho Chủ tịch Trung Quốc trong buổi chiêu
đãi tối, trong phần trao đổi quà tặng.
Bản đồ của d'Anville dựa trên những khảo sát địa lý của các đoàn truyền giáo Dòng Tên ở Trung Quốc và được xem là "tổng kết hiểu biết của châu Âu về Trung Quốc thế kỷ 18".
Tấm bản đồ này, theo chú thích tiếng Latinh trên đó, chỉ ra một "Trung Quốc đích thực", trong đó khu trung tâm Trung Quốc chủ yếu là người Hán, không có Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ, hay Mãn Châu. Còn hai đảo Đài Loan và Hải Nam được thể hiện bằng biên giới khác màu với biên giới Trung Quốc đích thực.
Dĩ nhiên là hoàn toàn không có Hoàng Sa, Trường Sa trong tấm bản đồ thế kỷ 18 này.
Báo chí Trung Quốc đã không công bố bản đồ d'Anville, mà lại đưa ra bản đồ khác và nói đó là bản đồ bà Merkel tặng (!). Bản đồ này của nhà bản đồ học người Anh tên John Dower, được nhà xuất bản Henry Teesdale & Co. in ở London năm 1844, trong đó bao gồm Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ và một phần lớn Siberia.
Bản đồ của d'Anville dựa trên những khảo sát địa lý của các đoàn truyền giáo Dòng Tên ở Trung Quốc và được xem là "tổng kết hiểu biết của châu Âu về Trung Quốc thế kỷ 18".
Tấm bản đồ này, theo chú thích tiếng Latinh trên đó, chỉ ra một "Trung Quốc đích thực", trong đó khu trung tâm Trung Quốc chủ yếu là người Hán, không có Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ, hay Mãn Châu. Còn hai đảo Đài Loan và Hải Nam được thể hiện bằng biên giới khác màu với biên giới Trung Quốc đích thực.
Dĩ nhiên là hoàn toàn không có Hoàng Sa, Trường Sa trong tấm bản đồ thế kỷ 18 này.
Báo chí Trung Quốc đã không công bố bản đồ d'Anville, mà lại đưa ra bản đồ khác và nói đó là bản đồ bà Merkel tặng (!). Bản đồ này của nhà bản đồ học người Anh tên John Dower, được nhà xuất bản Henry Teesdale & Co. in ở London năm 1844, trong đó bao gồm Tây Tạng, Tân Cương, Mông Cổ và một phần lớn Siberia.
Tấm bản đồ Trung Quốc cổ, của nhà bản đồ học người Pháp Jean-Baptiste Bourguignon d'Anville vẽ, được một nhà xuất bản Đức in năm 1735 - Ảnh: FP |
Tuy nhiên trên các mạng xã hội Trung Quốc lại có thông tin về cả hai bản đồ này. Với bản đồ d'Anville, cư dân mạng Trung Quốc giận dữ với món quà bà Merkel tặng, cho rằng đó là "món quà vụng về", hoặc "Đức chắc có động cơ thầm kín", hay đi xa hơn là cáo buộc bà Merkel muốn hợp pháp hóa các phong trào đòi độc lập của Tây Tạng, Tân Cương v.v.
Còn bản đồ Dower trái lại được đón chào hơn, và có người còn tự hào về lãnh thổ cũng như quyền lực to lớn của đế quốc Trung Hoa trước đây.
Anh Sơn
Các bạn xem ảnh này nhé:
Bức ảnh bà Merkel đang chỉ vào đảo Hải Nam được tờ TIME chú thích là "SO CHINA STOPS HERE?" (Vậy là lãnh thổ Trung Quốc dừng lại ở đây phải không hè?). Ông Tập đứng sau cười ko được mà khóc cũng không được.
Cac bạn nào biết tiếng Anh thì đọc mấy bài tiếng Anh, họ bình hay lắm. Còn phần bình luận bằng tiếng Trung trên newssina mình vừa nghe xong thì tay bình luận viên Thôi Hồng Kiến nói rất cay cú. Hi hi. Đúng là cái tát của bà đầm thép.
Ông Tập cứ nghĩ xách một hầu bao nặng trĩu đi châu Âu là có thể chiêu dụ được thiên hạ. Ai ngờ bị một vố đau. Các bạn xem mấy tờ báo Mỹ và Úc họ sắp xếp thông tin mới đã: xung quanh bài này là nhiều tin vắn và hình ảnh về vụ Philippines kiện TQ, hình ảnh Đức Đạt Lai Lạt Ma và Tây Tạng, tin tức liên quan đến Tân Cương... Họ xâu chuổi lại với nhau để blaim Trung Quốc. Haha.
Nguồn: FB Anh Sơn
PHẠM TRẦN* NGÔ VƯƠNG TOẠI
Ngô Vương Toại – Một thời khó quên (12/04/1947 – 03/04/2014)
“Sinh viên Ngô Vương Toại - Giữa cái sống và cái chết”
Phạm Trần (Danlambao) - Đó
là Tựa đề một bản tin của hãng TV (Tin Việt) viết ngày 18/11/1967 được
các báo ở Sài Gòn đăng tải, hai ngày sau khi sinh viên Ngô Vượng Toại bị
đặc công Cộng sản bắn trọng thương tại Trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn.
Toại bị bắn vào dạ dầy, rách 4 đoạn ruột ở tuổi 20 nhưng anh đã được cứu
sống để tiếp tục đấu tranh không ngơi nghỉ trên mặt trận báo chí-truyền
thông và chính trị thêm 8 năm sau đó ở miền Nam và cho đến khi sức khỏe
cạn kiệt ở tuổi 67 ở Hoa Kỳ.
Biến cố Ngô Vương Toại cuối năm 1967 xảy ra giữa cuộc khủng hoảng chính
trị-quân sự mới ở miền Nam. Đó là năm miền Nam vừa hoàn tất các cuộc bầu
cử Tổng thống đầu tiên của nền Đệ II Cộng hòa và cuộc bầu chọn 60 Nghị
sỹ Thượng nghị viện diễn ra cùng ngày 03/09 (1967). Hơn tháng sau là
cuộc bầu chọn 137 Dân biểu Hạ nghị viện được tổ chức ngày 22/10 (1967).
Kết quả bầu cử đã gây ra tranh cãi vì liên danh Quân đội Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ, mới “hàn gắn chia rẽ vào phút chót” chỉ đạt 34,8% số phiếu để đắc cử Tổng thống và Phó Tổng thống.
Liên danh đối lập cổ võ hòa bình với nhãn “Chim Bồ Câu Trắng” về nhì với 17% của hai ông (Luật sư) Trương Đình Dzu - Trần Văn Chiêu đã mau chóng tố cáo bầu cử gian lận. Các liên danh
hạng ba Phan Khắc Sửu - Phan Quang Đán (13%) và hạng tư Trần Văn Hương - Mai Thọ Truyền (12%) cùng ào ạt tham gia.
Song song với sự ngột ngạt của chính trị bầu cử là tình hình quân sự
trên chiến trường mỗi ngày một gay gắt hơn với cuộc chiến “chiếm đất
dành dân” giữa Việt Nam Cộng Hòa và quân Cộng sản.
Một số vụ ám sát, khủng bố, đặt bom của Đặc công Cộng sản cũng đồng loạt
gia tăng tại các thành phố, kể cả ở Sài Gòn. Hoạt động này xảy ra sau
khi làn sóng biểu tình chống chiến tranh, chống Hoa Kỳ và quân đội Đồng
minh của VNCH của các nhóm sinh viên-học sinh và tu sỹ thân Cộng mới bị
kiềm chế ở một số tỉnh miền Trung, đặc biệt tại Huế và Đà Nẵng.
Giữa bối cảnh này, Ngô Vương Toại và một số Sinh viên chống Cộng đã liên
kết với nhau trong Chi hội Việt Nam của Tổ chức Liên Minh Thế giới và
Liên minh Á Châu chống Cộng do Bác sỹ Phan Huy Quát làm Chủ tịch. Họ tập
hợp với nhau trong tinh thần tự nguyện nhằm mục đích chống lại sự phá
hoại và lôi kéo sinh viên của nhóm sinh viên thân Mặt trận Giải phóng
miền Nam.
Một ranh giới giữa Quốc gia và Cộng sản trong giới sinh viên đã được
Toại vạch ra. Một “Quán Văn” cà phê văn nghệ cũng đã được Toại và một số
bạn sinh viên yêu ca hát, gặp mặt bỏ tiền túi dựng lên sơ sài ngay
trong khuôn viên Đại học Văn Khoa ở đường Cường Để. Các tên tuổi âm nhạc
lớn của Việt Nam như Phạm Duy, Thái Thanh, Khánh Lý và Trịnh Công Sơn
cũng đã từng đến “Quán Văn” hát cho sinh viên nghe.
Và cũng từ “dòng máu văn nghệ và thích đấu tranh”, Đặc công Cộng sản đã
tìm cách sát hại Toại trong đêm Văn nghệ Khánh Ly hát nhạc Trịnh Công
Sơn tối 16/12/1967.
Câu chuyện Toại bị chết hụt
Câu chuyện của phát súng thù hận Cộng sản bắn vào người Ngô Vương Toại
bắt đầu như thế này, theo tường thuật của hãng Tin Việt ngày 18/12/1967:
Khủng Bố Tại Đại học Văn khoa: 1 Sinh viên bị bắn trọng thương
Sài Gòn 16-12 (TV): Hai thanh niên, một nam một nữ, tối nay đã nhảy lên
diễn đàn trình diễn của một nhóm sinh viên Văn khoa để tuyên bố kỷ niệm
bảy năm thành lập Mặt trận Giải phóng miền Nam và đã bắn một sinh viên
trọng thương trong khi sinh viên này nhảy lại giựt máy vi âm.
Một số sinh viên có mặt tại buổi trình diễn thuật lại rằng hai tên khủng
bố đã nhảy lên diễn đàn hồi 21 giờ 15 trong lúc buổi trình diễn bắt đầu
hồi 20 giờ tạm ngưng. Lối 1.000 sinh viên đã đến dự buổi trình diễn này
về đề tài “Việt Nam Quê hương”: tại giảng đường I trường Đại học Văn
Khoa đường Cường Để.
Cũng theo các sinh viên có mặt tại chỗ nói trên, sau khi nhảy lên diễn
đàn tên nữ khủng bố, mặc áo dài mang kính mát, lấy máy vi âm tuyên bố
”Hộm nay chúng ta kỷ niệm bảy năm thành lập Mặt trận Giải phóng miền
Nam…”. Chỉ nói tới đó thì sinh viên Văn khoa Ngô Vương Toại chạy lại
giựt máy vi âm từ tay của tên nữ khủng bố nhưng liền bị tên khủng bố kia
đứng phía sau anh Toại, dùng súng lục bắn vào lung anh, làm anh Toại
trọng thương.
Một số sinh viên khác nhảy vào dùng ghế để đánh và bắt hai tên khủng bố
nhưng đã bị tên nam khủng bố bắn theo vài phát và tẩu thoát.
Sau đó các sinh viên dự khán chạy toán loạn gây thêm một số sinh viên khác bị thương vì chen lấn.
Sinh viên Ngô Vương Toại liền đó được chở ngay đến bịnh viện.”
Sau đó, Tin Việt bổ túc:
Tin Thêm: Nhân vài phút nghỉ giữa chương trình, 2 cán bộ VC một thanh
niên 20 tuổi người gầy, cao đen mặc áo sơ mi bỏ ngoài, cùng một thiệu nữ
trạc 18 uốn tóc, mặc áo dài màu hoa nhạt, choàng áo len đỏ mang kiếng
cận thị bước lên sân khấu.
Thanh niên rút súng trong người ra cầm tay và nói các sinh viên có mặt: “Chúng tôi đã bố trí, an hem đừng hốt hoảng…”
Trong khi ấy thiếu nữ bước tới máy vi âm nói to: “Nhân sắp đến ngày
10-12 kỷ niệm 7 năm thành lập MTGPMN, thì bị anh Toại giựt máy vi âm lại
không cho nói.
Tên VC đứng gần một tay gạt anh Toại một tay chĩa súng vào bụng anh nổ
một phát. Hỗn loạn xảy ra, tên VC bắn thêm mấy phát nữa và thừa lúc lộn
xộn cả hai đã tẩu thoát.
Mấy phát súng đó đã làm cho cô Nguyễn Mỹ Lan, nữ sinh đệ II Lê Văn Duyệt
bị đạn phớt ở lưng, anh Nguyễn Văn Tấn bị đạn trúng đầu gối bên trái,
anh Lê Ngọc Sơn sinh viên Dược Khoa bị đạn bể xương sườn bên trái.
Tất cả được đưa vào bệnh viện Bình Dân cứu chữa. Bệnh trạng anh Ngô
Vương Toại rất trầm trọng. Bác sỹ phải giải phẫn lúc 23 giờ và cho biết
viên đạn xuyên đứt mạch máu ở dạ dầy và rách 4 đọan ruột.”
Không lung lay
Sau khi Tọai bị đặc công Cộng sản bắn trọng thương thì một số sinh viên
thân Cộng đã bỏ Sài Gòn vào bưng với Cộng sản trong vụ Tết Mậu thân năm
1968 dưới cái nhãn “Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình”
Nhưng chàng Sinh viên Văn khoa Ngô Vương Tọai, sau khi bình phục đã
không hề nao núng mà còn tham gia các hoạt động chống Cộng sản mạnh mẽ
hơn.
Toại làm Phóng viên, viết bài cho nhiều báo nhưng rõ nét nhất là trên
các tờ Tìm Hiểu, Tin Sống và Sóng Thần. Hai bút hiệu Thạch Miên và Tiểu
Ba được anh chọn đề tên cho nhiều bài viết trong cuộc đời làm báo.
Khi làm cho đài Phát thanh Á Châu Tự Do ở Hoa Thịnh Đốn trước khi nghỉ hưu thì bút hiệu Phạm Điền đã được Toại sử dụng.
Ngô Vương Toại là người mê làm báo hơn nhiều ông bà Chủ nhiệm các báo
nhận anh làm phóng viên. Toại còn là người bạn của bạn mình và của mọi
người không phân cấp. Và không ai có thể buồn một người lúc nào cũng
nhoẻn miệng cười tươi thân thiện, kể cả những lúc sức khỏe của Tọai đã
tàn dần trên khuôn mặt của chứng suy yếu gan.
Mới tháng 7 năm 2013, khi Ký giả Lê Thiệp, bạn của Tọai qua đời, cựu Ký
giả Việt Nam Thông tấn xã Trần Công Sung từ Pháp qua đưa đám đã bông đùa
với các bạn ngay tại Nhà quan:”Cậu Toại tuy yếu đấy nhưng còn lâu mới
đi dược. Cậu đã qua nhiều phen nên chai rồi.”
Toại cười rộ lên chêm vào:” Tôi đã quá đát rồi!”
Cũng với thái độ sống lạc quan này đã đưa Toại vào làng báo Việt Nam ở
Hoa Kỳ. Vào năm 1983, Toại đã bỏ “làm công cho chủ Building Mỹ” để cùng
làm báo chung với Thi sỹ quá cố Giang Hữu Tuyên trên Tuần báo Hoa Thịnh
Đốn Việt Báo.
Vài năm sau Tọai một mình “ra quân” với Bán Nguyệt báo Diễn Đàn Tự Do
nhưng cũng chỉ cầm cự được một số năm vì Toại không có khiếu làm Chủ
báo.
Tuy sống ngắn nhưng Diễn Đàn Tự Do cũng đã để lại cho độc giả ở mọi nơi,
đặc biệt vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn nhiều kỷ niệm rất đáng trân quý với
nội dung đứng đắn, thông tin trung thực và các buổi “Đêm Diễn Đàn Tự Do”
với nhiều khuôn mặt văn nghệ lớn thời Việt Nam Cộng Hòa.
Cuộc sống của Ngô Vương Toại là một thời khó quên vì tên anh đã gắn liền
với những thăng trầm của cuộc chiến Quốc-Cộng ở Sài Gòn thời 1967.
Khi sống tị nạn ở Mỹ, có lẽ ít người còn nhớ đến tờ Diễn Đàn Tự Do nhưng
không ai có thể quên được hình ảnh một Ngô Vương Toại đã gắng sức vịn
vào chiếc Walker đi hàng đầu trong đoàn biểu tình của một ngày tưởng
niệm 30/4 ở Thủ độ Hoa Thịnh Đốn./-
Ngô Vương Toại sinh ngày 12 Tháng 04 năm 1947 tại Làng Bái Thượng, Tỉnh
Thanh Hóa đã tạ thế lúc 12:22 AM, ngày 03 Tháng 04 Năm 2014 tại Nhà
thương Fairfax, Virginia.
Anh để lại người vợ đảm đang Nghiêm Thị Lan, 3 người con, một con Dâu và 2 cháu nội./-
TRẦN ĐÌNH BÁ * HÀNG KHÔNG VIỆT NAM
Tự hào tàu ngầm Trường Sa và nỗi nhục “thế kỷ” của Hàng không Việt!
Tiến sỹ Trần Đình Bá – Hội Khoa học kinh tế VN
Ảnh bên:Ngày 8.12.2005, chiếc VAM-1 do phi công Phạm Duy Long lái cất cánh tại
sân bay Long Thành đã bay thủ nghiệm thành công - Ảnh: Lê Trọng Sành
Khác
với dự án chế tạo Tàu ngầm Hoàng Sa, Yết Kiêu hay Máy bay trực thăng tự
phát của những tư nhân đam mê sáng tạo …, dự án chế tạo Máy bay “Made
in Vietnam” được Thủ tướng giao nhiệm vụ từ những năm 2003.
Vậy mà đất
của ta, biển của ta, trời của ta mà máy bay VAM – 2 sơn cờ đỏ sao vàng
do các Viện sỹ giáo sư tiến sỹ - chuyên gia hàng không nghiên cứu sản
xuất thành công lại không được phép bay. Quả là một nghịch lý đến mức
ngang với quyền tự quyết của một quốc gia bị xâm phạm .
Có một “bộ Hàng không” dở hơi đến như thế !
Dự
án “chào Thiên niên kỷ mới” có từ những năm “mở màn” của “Thiên niên
kỷ” thứ 3 và thế kỷ XXI. Tự tay Thủ tướng Phan Văn Khải lúc đó đã ký
công văn số 55/TB-VPCP–18/4/2003 giao cho GS.TS -Viện sỹ hàn lâm quốc tế
Nguyễn Văn Đạo – chủ tịch hội Cơ học Việt Nam làm chủ nhiệm đề tài
nghiên cứu chế tạo máy bay cánh quạt loại nhỏ 2 chỗ ngồi để ngành hàng
không VN được bay lên từ đôi cánh của chính mình mang “màu cờ sắc áo”.
GS TS Nguyễn Thiện Nhân lúc đó là phó Chủ tịch UBND TP.HCM đánh giá cao
dự án và cam kết thành phố sẽ hỗ trợ tối đa, huy động các nguồn lực để
tham gia đề án này, sẵn sàng ứng trước một phần chi phí trong giai đoạn
ban đầu.
Nhóm các nhà khoa
học đã cùng với Viện Nghiên cứu và Phát triển công nghệ mới, tập hợp
những kỹ sư trẻ của bộ môn hàng không thuộc Trường ĐH Bách khoa TP.HCM
và Trường ĐH Bách khoa Hà Nội để thiết kế chế tạo máy bay, bắt tay
nghiên cứu chế tạo ngay sau khi có chỉ đạo của Thủ tướng.
Dự
án được các doanh nghiệp Việt Kiều hưởng ứng nhiệt liệt và tài trợ vì
họ có chung dòng máu Lạc Hồng – muốn VN được “sánh vai với các cường
quốc” về công nghệ hàng không. Ông Nguyễn Sang, Giám đốc NT Enterprise
Inc và ông Trần Trung Tín Giám đốc Asean Telecom Network đặt nhiều hy
vọng vào tính khả thi của đề án mà còn hứa sẵn sàng tiêu thụ các sản
phẩm nếu đạt tiêu chuẩn quốc tế, với số lượng đặt hàng đợt đầu tiên là
trên 100 chiếc, đồng thời vận động đầu tư cho dự án 5 triệu USD.
Công
việc nghiên cứu chế tạo máy bay VAM – 1 sớm hoàn thành, nhưng các thủ
tục xin phép bay thử nghiệm VAM-1 kéo dài do sự cửa quyền “xin – cho” từ
Cục HKDD VN nên mãi đến tháng 7-2005 đề tài mới nghiệm thu đợt 1, và
đến 12-2005 mới bắt đầu được bay thử nghiệm.
Chờ
“dài cổ” để được cấp phép, vậy mà việc kéo máy bay ra chạy thử kỹ thuật
tại sân bay Phước Long – Bình Phước phải hoãn vì đơn vị quản lý sân đã
cho thuê mặt sân để phơi nông sản chưa kịp thu hồi.
Mãi
tới 18-12-2005 máy bay VAM-1 sơn cờ VN do phi công Phạm Duy Long lái đã
cất cánh thành công tại sân bay Nước Trong – Đồng Nai với 3 lần cất hạ
cánh nhẹ nhàng. Sau khi tiếp đất phi công Long đã ôm chặt một sỹ quan
không quân khóc nức nở… trước mắt Hội đồng giám khảo bay thử nghiệm gồm
các giáo sư tiến sỹ ở Bộ Khoa học - Công nghệ, Bộ Quốc phòng và Bộ Giao
thông vận tải do đại tá không quân Lương Quốc Bảo làm chủ tịch .
VAM–1
sơn cờ đỏ sao vàng bay cao trên 1.000 m, với kết quả khả quan này, Hội
Cơ học Việt Nam đã quyết định chế tạo máy bay siêu nhẹ VAM–2 hoàn toàn
nội địa hóa, ngoại trừ động cơ máy bay do Áo sản xuất. Các giáo sư tiến
sỹ đã đầu tư nhiều công sức nghiên cứu cải tiến và tạo kinh phí để cho
ra đời VAM–2. Chiếc máy bay siêu nhẹ này nặng khoảng 450 kg, tốc độ bay
140 km/giờ và tầm bay là 400 km, dùng xăng A92 như xe gắn máy với công
suất động cơ 50 mã lực. Chỉ cần khu đất khoảng 1 ha với đường băng dài
200 m là trở thành bãi đáp cho VAM–2. Việc học lái cũng đơn giản và việc
bảo quản dễ dàng như xe gắn máy mở ra một tiềm năng lớn .
Tháng
3-2007, một hội đồng khoa học gồm nhiều GS- TS và chuyên gia có uy tín
đã nghiệm thu kỹ thuật chiếc máy bay VAM-2. Đây cũng là chiếc máy bay
dân dụng siêu nhẹ đầu tiên được sản xuất tại nước ta, mở ra những hứa
hẹn cho ngành hàng không dân dụng Việt Nam.
Những
tưởng với sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng, sức lao động sáng tạo
một đội ngũ Viện sỹ hàn lâm, giáo sư tiến sỹ, kỹ sư, cùng với việc đánh
giá của Hội đồng khoa học, hội đồng nghiệm thu thử ngiệm VAM 1 thành
công thì VAM 2 càng thành công hơn. Thời gian để hoàn tất thủ tục bay
thử của VAM - 1 là 2 năm, còn VAM - 2 từ đó đến nay đợi chờ thủ tục để
cất cánh. Như vậy từ khi có quyết định của Thủ tướng từ 2003 đến nay,
máy bay VAM 2 “made in Vietnam” trở thành “bò sát” ngủ trọn một thập kỷ
trên mặt đất. Dự án tầm quốc gia cùng sự nghiệp chế tạo máy, niềm tự hào
của nền hàng không VN biến mất từ đó do bị “cảnh sát hàng không” tuýt
còi. Cục Hàng không dân dụng cửa quyền tới mức vượt trên cả quyền hạn
của Thủ tướng, thủ tiêu khát vọng cất cánh của cả một dân tộc, phủ nhận
thành quả lao động sáng tạo của tất cả các Viện sỹ - GS.TS đã nỗ lực vì
một sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam.
Một “Bộ
Hàng không” đang kìm hãm bầu trời trong bàn tay của họ ban phát quyền
“xin – cho”, vừa kìm hãm các hãng hàng không trong bần cùng, vừa gây khó
để trục lợi trong việc cấp phép bay và kéo lùi sự nghiệp hàng không tụt
hậu nhất trong ASEAN.
Đã đến lúc phải để máy bay “Made in Vietnam” cất cánh!
Khi
một phi công VN trở thành nhà toán học vạch và tính được quỹ đạo cho
tàu Apollo lên cung trăng và ứng dụng cho tàu “Con Thoi”, người VN trở
thành phi hành gia châu Á đầu tiên bay vào vũ trụ từ những thập niên 60
của thế kỷ trước, thì giấc mơ chế tạo máy bay “Made in VN” để bay lên
vẫn đang trong vòng bao vây cấm vận “vì lý do an ninh” của “cảnh sát
hàng không”!
Chiếc máy bay siêu nhẹ “made in
VN” mang cờ đỏ sao vàng đâu có mang bom đạn để đe dọa an ninh cho VN hay
các nước. Nạn quá tải và thảm họa giao thông trên mặt đất khiến cho các
doanh nghiệp phải bỏ tiền ra mua sắm máy bay và được bay, còn máy bay
do VN sản xuất lại bị cấm bay là một điều phi lý.
Thời
tiết, khí hậu, địa hình cùng trên 70 sân bay nước ta từ đất liền đến
hải đảo đều rất phù hợp cho loại máy bay siêu nhẹ để có thể sử dụng cho
nhiệm vụ điều tra nghiên cứu thổ nhưỡng, phun thuốc trừ sân, quản lý đất
đai, khắc phục thiên tai, cấp cứu ý tế, du lịch, công vụ đến những phi
vụ đặc biệt về quốc phòng – an ninh như tuần tra bờ biển, kiểm soát an
toàn môi trường, thần tốc ngăn chặn tội phạm … trước vấn nạn nạn kẹt xe
và tai nạn giao thông trên các quốc lộ, đặc biệt giúp cho cư dân vùng
biển đảo khó khăn về giao thông được gần hơn với đất liền khi có biến
động.
Câu hỏi: Tại sao lại cấm máy bay do VN
sản xuất cất cánh đang chiếu thẳng trách nhiệm vào lãnh đạo Cục HKVN –
cơ quan quản lý Nhà nước về Hàng không và thực thi luật HKDDVN!
Giữa
lúc Cambodia đã thành công chế tạo xe hơi điều khiển từ xa bằng điện
thoại thông minh Smartphone, vậy mà 1000 giáo sư tiến sỹ GTVT và hàng
ngàn GS.TS về cơ học, động lực học, tự động hóa … với 50 trường đại học
viện nghiên cứu về GTVT, Bách khoa “Made in VN” không có một “dấu ấn”
nào về công nghệ hàng không hay xe hơi là điều đáng hổ thẹn.
Giữa
lúc thế giới hội nhập, giành những thành tựu rực rỡ về khoa học công
nghệ thì hàng trăm tiến sỹ cục HKVN nghẽn mạch tư duy, sợ sệt trói chặt
hàng không trong cảnh “gà què ăn quẩn cối xay”, ngăn cản việc máy bay VN
cất cánh, đưa sự nghiệp hàng không nước nhà từ “bần cùng sinh móc túi”,
“ bần cùng sinh cẩu thả “ tới “ bần cùng sinh … buôn lậu quốc tế”, chưa
thoát ra khỏi tư duy nông dân, tác phong nhếch nhác luộm thuộm, cẩu thả
… đang làm hoen ố hình ảnh VN trên trường quốc tế và nguy cơ bức tử sự
nghiệp hàng không nước nhà .
Hy vọng thành công
của tàu ngầm Trường Sa thế hệ đầu tiên sẽ là “cú hích” cho hàng trăm
giáo sư tiến sỹ Cục HKVN và bộ GTVT để không còn phải hổ thẹn trước nghị
lực sáng tạo của nhân dân!
T.Đ.B.
No comments:
Post a Comment