THẢO LUẬN VỂ CÔNG HÀM BÁN NƯỚC
Công hàm Phạm Văn Đồng, những vấn đề liên quan và luật quốc tế
Posted by adminbasam on 27/05/2014
viet-studies
Một cuộc đàm thoại giữa Phạm Phan Long, Dương Danh Huy, Phạm Quang Tuấn và Phùng Liên Đoàn
14-05-2013
Đây là cuộc đàm thoại giữa Phạm Phan Long (PPL), Dương Danh Huy (DDH), Phạm Quang Tuấn (PQT) và Phùng Liên Đoàn (PLĐ), diễn ra từ ngày 9/5/2013 đến 14/5/2013.
PPL: Ý kiến của anh từ góc độ pháp lý về vấn đề CHPVĐ năm 1958 như thế nào?
DDH: CHPVĐ và các hành vi khác của VNDCCH để lại 3 vấn đề mà người Việt ngày nay phải giải quyết, đó là:
Những lập luận đã được đưa ra nhằm “hóa giải CHPVĐ”, thí dụ như “CHPVĐ không nói gì về HSTS” chỉ có thể giải quyết được vấn đề (1) và (2), nhưng không giải quyết được vấn đề (3). Nếu ra tòa mà chỉ giải quyết được (1) và (2) nhưng không giải quyết được (3) thì khả năng thua sẽ là không nhỏ.
Để giải quyết (3), tôi cho rằng tối hậu phải dựa trên lập luận
Tôi và một số thành viên QNCBĐ có 1 bài ngắn về vấn đề này: Công nhận VNCH vì biển đảo ngày nay?
PPL: Có nhận xét là Công Hàm PVĐ chỉ công nhận lãnh hải của TQ, không công nhận chủ quyền TQ về HSTS, không nói gì về HSTS, như thế có đúng không ?
DDH: Thứ nhất, lập luận đó không giải quyết được vấn đề thứ (3), tức là trong gia đoạn 54-75/76 VNDCCH đã không duy trì chủ quyền Việt trên hai quần đảo HSTS. Như vậy, vẫn cần phải có một quốc gia Việt nào đó duy trì CQ trên hai quần đảo này.
Thứ nhì, lập luận “PVĐ chỉ công nhận lãnh hải TQ, không công nhận gì về đảo” cũng là chưa đủ về khía cạnh khác. Giả sử VN dùng lập luận đó như một phần của quan điểm chính thức của mình, TQ sẽ nói
“OK, vậy thì các anh phải tôn trọng quy định của TQ trong lãnh hải 12 hl chung quanh Spratlys: tàu thuyền máy bay quân sự của các anh muốn vào lãnh hải 12 HL chung quanh Spratlys phải xin phép chúng tôi, ngư dân các anh không được đánh cá trong lãnh hải đó.”
Như vậy thì cũng khá kẹt cho mình trên thực tế (mặc dù nó không phải là công nhận HSTS là của TQ). Tức là VN sẽ phải dùng những lập luận như “CHPVĐ đã không gây ra nghĩa vụ ràng buộc” và “VNDCCH là một quốc gia khác với CHXHCNVN ngày nay”.
PPL: Thế còn lập luận theo luật VNDCCH thì Thủ tướng PVĐ không có thẩm quyền để phê chuẩn hiệp định về chủ quyền lãnh thổ, chỉ có QH VNDCCH thì mới có thẩm quyền?
DDH: Thứ nhất, lập luận đó không giải quyết được vấn đề thứ (3), tức là trong gia đoạn 54-75/76 VNDCCH đã không duy trì chủ quyền Việt trên hai quần đảo HSTS. Như vậy, vẫn cần phải có một quốc gia Việt nào đó duy trì CQ trên hai quần đảo này.
Thứ nhì, lập luận đó sẽ không đứng vững được trước luật quốc tế. Nếu Tòa án Công lý Quốc tế xử vấn đề HSTS thì Tòa sẽ áp dụng luật quốc tế, chứ không áp dụng luật nội địa của VNDCCH. Và luật quốc tế thì quy định rằng thủ tướng là một trong những người có thẩm quyền để đại diện quốc gia trong việc thỏa thuận với quốc gia khác về lãnh thổ. Trên thực tế, trong phiên tòa xử tranh chấp Eastern Greenland, Na Uy đã dùng lập luận tương tự như anh nói, và cãi rằng theo luật Na Uy thì bộ trưởng ngoại giao không có thẩm quyền để thỏa thuận với Đan Mạch về chủ quyền lãnh thổ, nhưng Tòa đã bỏ qua lập luận đó, và cho rằng theo luật quốc tế thì bộ trưởng ngoại giao có thẩm quyền.
PPL: Thế còn lập luận CHPVĐ chỉ là một tuyên bố đơn phương cho nên không có tính ràng buộc?
DDH: Thứ nhất, lập luận đó không giải quyết được vấn đề thứ (3), tức là trong gia đoạn 54-75/76 VNDCCH đã không duy trì chủ quyền Việt trên hai quần đảo HSTS. Như vậy, vẫn cần phải có một quốc gia Việt nào đó duy trì CQ trên hai quần đảo này.
Thứ nhì, theo luật quốc tế thì có tuyên bố đơn phương có tính ràng buộc, có tuyên bố đơn phương không có. (Nhưng trong trường hợp cụ thể này thì tôi nghĩ CHPVĐ không có tính ràng buộc).
PPL: Thế còn lập luận CHPVĐ đã không gây ra estoppel ?
DDH: Lập luận đó giải quyết được vấn đề thứ (2), và đó là một điều cần thiết, nhưng nó là chưa đủ, vì nó chưa giải quyết được vấn đề thứ (3).
PPL: Thế còn lập luận HSTS nằm dưới sự quản lý của VNCH chứ không phải VNDCCH ?
DDH: lập luận đó là hướng đúng, nhưng chúng ta phải giải thích tại sao “nằm dưới sự quản lý của VNCH chứ không phải VNDCCH” có nghĩa VNCH có thẩm quyền về chủ quyền lãnh thổ đối với HSTS trong quan hệ với các quốc gia khác, còn VNDCCH thì không có thẩm quyền.
Nếu lúc đó chỉ hiện hữu duy nhất một quốc gia, và nếu CP VNCH không phải là đại diện hợp pháp của QG đó, thì chúng ta có thể dùng lập luận gì để cho rằng chính quyền VNCH có thẩm quyền về chủ quyền lãnh thổ đối với HSTS trong quan hệ với các quốc gia khác, còn chính quyền VNDCCH thì không có thẩm quyền?
Vì vậy, tôi cho rầng lập luận, “HSTS nằm dưới sự quản lý của VNCH chứ không phải VNDCCH” tối hậu phải dựa trên việc VNCH và VNDCCH là hai quốc gia.
PPL: Băn khoăn của tôi dựa vào lẽ thường không dựa vào luật mà vào tư thế VN và TQ dưới mắt người quan sát.
Dùng quan điểm ba nước VN và TQ có nhiều lý lẽ dễ nghe cho mình nhưng e không thuyết phục đựơc người ngoài vì:
CHXHCNVN cỏ thể bất lợi hơn TQ vì chiến tranh tạo ra CHXHCNVN tàn khốc hơn.
Việc LHQ công, nhận CHXHCNVN là chấp nhận thực trạng sau khi việc chiếm đoạt đã xong rồi, không phải LHQ công nhận việc chiếm đoạt này là hợp pháp.
Làm sao lý giải tính hợp pháp giừa hai chiếm đoạt phi pháp.
DDH: Anh đã nhận ra chính xác một trong những khó khăn trong việc giải quyết vấn đề thứ (3) trong 3 vấn đề tôi nêu ra trong một trả lời trước:
Để giải quyết được vấn đề (3), tôi nghĩ phải chứng minh được 2 điều:
● 3.1 Từ 58 (hay sớm hơn) đến 76 bắc và nam vĩ tuyến 17 là hai quốc gia.
● 3.2 Sự thống nhất của VN là hợp pháp.
Sự khó khăn anh nêu ra là cho 3.2.
Như anh nêu ra, có người có thể cho rằng trên phương diện thực chất việc thống nhất là, dùng chữ của anh, “VNDCCH chiếm miền Nam VN bằng võ lực”. Trong bài này: Tính pháp lý của việc kế thừa hai quần đảo, Phạm Thanh Vân và tôi có viết:
Vấn đề ở đây là nếu cho rằng CHXHCNVN là quốc gia phía Bắc vĩ tuyến 17 thụ đắc lãnh thổ của quốc gia phía Nam bằng bạo lực thì, với Nghị quyết 2734 (XXV) của LHQ cấm thụ đắc lãnh thổ của quốc gia khác bằng bạo lực, CHXHCNVN sẽ không có chủ quyền hợp pháp với bất cứ vùng lãnh thổ nào phía Nam vĩ tuyến 17, bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa.
Nhưng trên phương diện hình thức pháp lý thì tôi cho rằng cho rằng việc thống nhất không phải là “VNDCCH chiếm miền Nam VN bằng võ lực” ngày 30/4/75, mà là quá trình sau
Sau 30/4/1975, khi Chính phủ Cách mạng Lâm thời CHMNVN thay thế chính phủ VNCH, tư cách pháp lý của hai quốc gia ở hai bên vĩ tuyến 17 tiếp tục được khẳng định bởi một số thực tế ngoại giao, thí dụ như,
Tháng 10/1975, Bộ trưởng Ngoại giao Úc viết có ít nhất 75 nước công nhận cả hai chính phủ VNDCCH và CHMNVN như hai chính phủ của hai quốc gia độc lập. Trong số 75 nước đó bao gồm cả Trung Quốc, và những nước không thuộc khối XHCN như Thụy Điển, Ấn Độ, Úc, Nhật, Anh, Pháp, Ý, Bỉ, Canada v.v…Hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN đã tham gia hai tổ chức WHO và WMO với tư cách là những thành viên độc lập. Cả hai đều có tư cách quan sát viên thường trực riêng biệt ở LHQ.
Các văn kiện chính thức của VNDCCH và CHMNVN cũng ghi nhận đó là hai Nhà nước và hai Chính phủ khác biệt.
Như vậy, rõ ràng VNDCCH và VNCH/CHMNVN là hai quốc gia khác biệt.
Vì thế, VNCH/CHMNVN có thẩm quyền trong việc duy trì chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. VNDCCH là bên thứ ba trong tranh chấp và các tuyên bố hay sự im lặng của VNDCCH không ảnh hưởng gì đến chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa của VNCH/CHMNVN.
…
Trên thực tế, vì mỗi chính phủ CHMNVN và chính phủ VNDCCH đều được cộng đồng thế giới công nhận là đại diện hợp pháp của một quốc gia, quyết định của hai chính phủ đó để thống nhất hai quốc gia CHMNVN (vốn được đổi tên từ VNCH) và VNDCCH, qua quá trình pháp lý từ 25/4/1976 đến 2/7/1976, bắt đầu bằng cuộc tổng tuyển cử toàn quốc để bầu ra Quốc hội thống nhất, dẫn đến (a) một quốc gia thống nhất và (b) một chính phủ đại diện cho quốc gia đó.
Trên thực tế, sự tồn tại của quốc gia thống nhất đó, và thẩm quyền của chính phủ đó trên toàn bộ lãnh thổ, đã không bị LHQ hay quốc gia nào lên tiếng phản đối. Một năm sau, năm 1977, quốc gia thống nhất, CHXHCNVN, được chấp nhận tham gia LHQ, với chính phủ CHXHCNVN được công nhận là đại diện cho quốc gia đó.
Vì thế, trên phương diện luật quốc tế, CHXHCNVN, là quốc gia thừa kế không bị phản đối của hai quốc gia trước, mặc nhiên thừa kế tất cả các vùng lãnh thổ thuộc chủ quyền VNCH/CHMNVN.
Trên thực tế, CHXHCNVN đã kế thừa vai trò của VNCH/CHMNVN trong các hiệp định và các tổ chức quốc tế như WHO, WMO, ILO, ITU, UPU, UNESCO hoặc IAEA, IMF. Và CHXHCNVN cũng mặc nhiên thừa kế các yêu sách chủ quyền và thềm lục địa của VNCH/CHMNVN trong các tranh chấp với Campuchia, Thái Lan, Malaysia và Indonesia. Tương tự, CHXHCNVN mặc nhiên thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa từ VNCH/CHMNVN.
Như vậy, chúng tôi cho rằng (3.2.1) Trên phương diện hình thức pháp lý thì sự thống nhất của VN là ngày 2/7/1976 và là hợp pháp.
Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng trên phương diện thực tế quân sự (chủ lực của “Quân Giải Phóng Miền Nam” là quân đội của VNDCCH) và quyền lực chính trị (Hà Nội có nhiều ảnh hưởng đối với CPCMLT) thì có người có thể cho rằng (3.2.2) sự thống nhất đó là VNDCCH xâm lăng VNCH, và CPCMLT chỉ là một bù nhìn, một hình thức không có giá trị.
Một trong những câu hỏi cho Việt Nam, cho trí thức Việt Nam, là nếu Tòa xét điểm 3.2 thì Tòa sẽ chọn 3.2.1 hay 3.2.2?
Tôi tin rằng Tòa sẽ chọn 3.2.1 và do đó sẽ công nhận rằng sự thống nhất của VN là hợp pháp, hay, ít nhất, Tòa sẽ công nhận rằng nước VN thống nhất được kế thừa danh nghĩa CQ đối với HSTS.
PPL: Nhưng tôi vẫn còn ít nhiều ngờ vực khả năng thuyết phục toà án.
Vì dựa vào việc được các tổ chức, LHQ và nước khác công nhận ba chính phủ VN và từ đó lý giải ra quyền thừa kế HS TS cho CHXHCNVN.
Khi công nhận các chính phủ không có nghĩa LHQ cũng công nhận chủ quyền tất cả lãnh thổ họ tuyên bố là của họ.
Công nhận CPCMLT suy ra CPCMLT có chủ quyền TS HS có thể không vững; không khác gì công nhận TQ là cho rằng công nhận đảo Điếu Ngư là của họ.
Sự kiện ba thành phần VN thực ra là chung một dân tộc và lãnh thổ vốn thống nhất trứơc đó để phân biệt với việc TQ là ngoại xâm có tăng giá trị pháp lý lịch sử gì cho VN không?
DDH: Anh lập luận rất chuẩn xác.
Nhưng tôi nghĩ vấn đề không phải là (a) công nhận HSTS là của CHMNVN mà là (b) công nhận rằng quốc gia CHMNVN chính là quốc gia VNCH với một tên mới, và, đo đó, có tất cả những danh nghĩa chủ quyền mà VNCH có.
Nói cách khác,
PQT: Theo tôi, vấn đề không phải là VNCH-CPCMLT có chủ quyền trên HSTS hay không, mà là VNCH-CPCMLT có CLAIM chủ quyền trên HSTS không. Vì CNDCCH không bao giờ claim, và không phản đối khi Tàu claimed HSTS, nên theo luật quốc tế thì VNDCCH đã chấp nhận (acquiesce) chủ quyền trên HSTS, và bây giờ không thể đòi được nữa. Còn nếu VNCH-CPCMLT đã claimed HSTS và VN bây giờ thừa kế cái claim đó, thì mới có vị thế để đòi.
Cơ bản là tôi đồng ý với anh, dù tôi có thể diễn đạt hơi khác.
Vấn đề CQ có 3 giai đoạn sau (sách của GS Chemilllier Gendreau về HSTS viết rất rõ):
Đúng như anh nói, vấn đề trong context 54-75 mà chúng ta đang nói tới là maintenance of the title/duy trì danh nghĩa chủ quyền, mà anh diễn đạt bằng cụm từ “CLAIM chủ quyền trên HSTS”.
Rõ ràng VNDCCH đã không maintain the title, không chỉ trong CHPVĐ mà còn trong hơn 20 năm.
CPCMLT thì cũng không rõ ràng là đã duy trì chủ quyền đầy đủ. Tới 1969 CPCMLT mới ra đời: không rõ là khi MTGP chưa tuyên bố mình là 1 CP thì MTGP có được Tòa công nhận rằng MTGP có thể đại diện cho một quốc gia trong việc khẳng định CQ hay không? Tới 1974, khi TQ chiếm HS, thì CPCMLT mới ra tuyên bố, mà đó chỉ là một tuyên bố chung chung với 3 điểm
Vì vậy cần phải lập luận trên cơ sở
Cũng xin mói thêm là việc cho rằng VNCH/CHMNVN là 1 quốc gia duy trì danh nghĩa CQ đầy đủ và cho rằng CHXHCNVN đã thừa kế hợp pháp danh nghĩa CQ đó riêng nó chưa nói gì về HSTS có phải là của VN hay không. Để chứng minh rằng HSTS là của VN, cần có thêm chứng minh rằng danh nghiã chủ quyền mà VNCH/CHMNVN duy trì là mạnh hơn danh nghiã chủ quyền của các nước đối phương.
Nhưng trong context chúng ta đang nói tới, vấn đề là VNCH/CHMNVN có phải là 1 quốc gia trong thời kỳ 58-76 hay không, VNCH/CHMNVN có claim CQ (ie maintain danh nghĩa CQ) hay không (như anh Tuấn nói), và CHXHCNVN có đã thừa kế danh nghĩa CQ đó một cách hợp pháp hay không.
Để xét “Danh nghiã chủ quyền mà VNCH/CHMNVN duy trì có mạnh hơn danh nghiã chủ quyền ca các nước đối phương hay không?” cần xét về 2 điểm
PPL: Mạn phép tạm đúc kết và đưa ra hai câu hỏi:
1. Điều then chốt là tòa án QT sẽ thẩm định chứng cứ các bên tranh chấp để quyết định chủ quyền bên nào mạnh hơn.
Do đó việc phải làm là công bố các chứng cứ lịch sử này trên các diễn đàn quốc tế.
2. Tòa án QT không tự họ ra lệnh cho các bên ra tòa nên phải thúc đẩy VN kiện TQ.
Đã có thỉnh nguyện thư gởi đến Mỹ, Úc và Phi yêu cầu khởi kiện TQ.
Chưa có thỉnh nguyên thư yêu cần CP VN khởi kiện TQ.
Việc VN dè dặt như thế chỉ có thể suy ra là VN đã bị TQ khống chế ngấm ngầm từ nội bộ hai Đảng CS.
Nếu thế bao giờ tranh chấp mới giải quyết trong khi càng lâu TQ càng củng cố quân sự và cơ sở vừng chắc nới rộng vùng chiếm đoạt của họ.
Trong khi dân VN và kế mưu sinh vẫn bị TQ hãm hại liên tục.
Các trí thức trong nước đã gởi CP nhiều thư nổi tiếng nhưng chưa yêu cầu kiện TQ.
So với việc TQ chiếm đoạt lãnh thổ của dân tộc khác thì hoàn toàn không hợp pháp.
Đây có phải là một khía cạnh pháp lý giúp gì cho VN không?
DDH: Trong luật quốc tế thì chủ quyền lãnh thổ là thuộc về quốc gia, không có khái niệm “cùng một dân tộc” hay “khác dân tộc”. Điều đó có nghĩa:
1 Nếu là cùng trong 1 QG thì các thế lực chính trị bên trong QG đó tha hồ lật đổ nhau, chủ quyền lãnh thổ vẫn thuộc về QG đó. Eg, phe cách mạng lật Gaddafi thì vùng lãnh thổ nào của Lybia vẫn là của Lybia. Điều này có nghĩa nếu CPCMLT lật CP Dương Văn Minh thì nếu HSTS là của MN trước 30/4/75 thì HSTS cũng là của MN sau 30/4/75.
2 Nếu là 2 QG “thụ đắc” lãnh thổ cuả nhau thì việc dân tộc trong 2 QG đó cùng là 1 dân tộc là irrelevant. Sự “thụ đắc” lãnh thổ đó có là hợp pháp hay không là điều được quy định theo luật quốc tế. Mà luật quốc tế thì không racist, không có chuyện “Việc QG A chiếm lãnh thổ của QG B là hợp pháp, vì dân chúng trong 2 QG đó là cùng 1 dân tộc.”
Thành ra chúng ta phải chứng mình rằng sự thống nhất của VN là hợp pháp theo luật quốc tế. Không thể nói rằng VNDCCH và VNCH là 2 QG có cùng 1 dân tộc cho nên nếu VNDCCH chiếm VNCH bằng bạo lực thì cũng là hợp pháp.
Điều này cũng là quan trọng, vì nếu chúng ta (hay kể cả phía TQ) chứng minh rằng VNDCCH là 2 QG thì chúng ta cũng phải chứng minh được rằng sự thống nhất là hợp pháp. Nếu chứng minh “2 QG” mà không chứng minh được “thống nhất hợp pháp” thì cũng như là bác sĩ mổ người ta ra nhưng không may lại được.
PPL: Tôi rất muốn nghe thêm nên tiếp tục hỏi và bàn:
“Trong luật quốc tế thì dân tộc không phải là một chủ thể, quốc gia là chủ thể, và chủ quyền lãnh thổ là thuộc về quốc gia.”
Nhân dân mà tôi gọi là dân tộc là chủ thể tối hậu của quốc gia, là chủ thể của chính quyền nên nhân dân có chủ quyền của lãnh thổ của quốc gia họ không?
DDH: Trong luật quốc tế thì CQ lãnh thổ là thuộc về QG. Chúng ta hiểu là với 1 QG văn minh thì lãnh thổ đó ultimately thuộc về nhân dân, nhưng mà trong luật quốc tế thì nhân dân không phải là 1 chủ thể deal trực tiếp với các QG khác về chủ quyền lãnh thổ. Trong luật quốc tế thì trên bình diện quốc tế nhân dân không đại diện quốc gia trong vấn đề chủ quyền lãnh thổ trong quan hệ với các QG khác.
Đúng là theo Hiến Chương LHQ thì các dân tộc có quyền tự quyết, nhưng quyền tự quyết đó được thể hiện qua việc các dân tộc có quyền lập ra những quốc gia độc lập cho mình, bình đẳng với các QG khác, và trong mỗi QG thì người dân có quyền lựa chọn chính phủ để đại diện cho mình (cũng như để thực thi những chức năng khác của chính phủ).
Nhưng khi tòa quốc tế xét về CQ lãnh thổ, tòa sẽ không xét quan điểm của nhân dân mà chỉ xét quan điểm của CP. Điều này không mâu thuẫn với điều trên.
Trong trường hợp CP được cho là đại diện hợp pháp của QG không đòi chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ X, thì dù nhân dân có đòi thì điều đó cũng không có giá trị pháp lý. Trong trường hợp đó, nhân dân phải chọn ra 1 CP khác đòi chủ quyền đối với X – nếu không làm điều đó thì coi như là QG đó không đòi CQ.
PPL: Anh nói: “1. Nếu là cùng trong 1 QG thì các thế lực chính trị bên trong QG đó tha hồ lật đổ nhau, chủ quyền lãnh thổ vẫn thuộc về QG đó. Eg, rebels lật Gaddafi thì vùng lãnh thổ nào của Lybia vẫn là của Lybia. Điều này có nghĩa nếu CPCMLT lật CP Dương Văn Minh thì nếu HSTS là của MN trước 30/4/75 thì HSTS cũng là của MN sau 30/4/75.:”
Hy vọng thế nhưng có thể không dễ giải thích như vậy, hình như cờ treo trên dinh độc lập ngày 30 tháng 4 là cờ VNDCCH không phải cờ CPCMLT của MTGPMN.
DDH: Trong bài của chị Vân và tôi (chưa công bố), chúng tôi có viết về vấn đề này.
Xe tăng ủi sập cổng Dinh Độc Lập ngày 30/4 thực chất là xe tăng của VNDCCH, lính xe tăng là của VNDCCH, nhưng cờ treo trên ăng ten là cờ của CHMNVN. Lá cờ được treo trên Dinh ĐL là lá cờ CHMNVN này.
Viên chỉ huy trưởng cầm súng áp giải Dương Văn Minh đến đài phát thanh, là sĩ quan VNDCCH. Hai sĩ quan soạn tuyên bố đầu hàng cho DVM đọc là sĩ quan VNDCCH, nhưng bản tuyên bố đó nói là đầu hàng Quân Giải Phóng Miền Nam (thay vì Quân Đội Nhân Dân – ie quân đội VNDCCH) và trao quyền cho CPCMLT chứ không phải là cho VNDCCH.
Câu hỏi cho chúng ta là hình thức đó có đủ để Tòa cho rằng sự kết thúc của cuộc chiến là một vấn đề giữa CPCMLT và CP VNCH không?
PPL: Anh nói: “2. Nếu là 2 QG “thụ đắc” lãnh thổ cuả nhau thì việc dân tộc trong 2 QG đó cùng là 1 dân tộc là irrelevant. Sự “thụ đắc” lãnh thổ đó có là hợp pháp hay không là điều được quy định theo luật quốc tế. Mà luật quốc tế thì không racist, không có chuyện “Việc QG A chiếm lãnh thổ của QG B là hợp pháp, vì dân chúng trong 2 QG đó là cùng 1 dân tộc.”
Trong tình huống giả sử bỗng nhiên TQ và VN tranh nhau một đảo hoang thì đúng race không phải là điều đáng xét và nếu favor một bên nào là racist.
Nhưng đây không phải là kỳ thị chủng tộc mà là yếu tố chủ quyền đã là của một chủng tộc đã lãnh thổ này trước rồi không có vấn đề tranh chấp giữa hai chủng tộc này trước đó.
Viêc TQ chiếm đoạt bằng võ lực là phi pháp, TQ một quốc gia bên ngoài và khác chủng tộc khác chiếm đoạt lãnh thổ của QG gia khác chắc chắn là phi pháp có tính cách ngoại xâm.
Nên race là important relevant fact không thể không cân nhắc và thẩm định.
Dân tộc VN bây giờ thống nhất lãnh thổ vốn đã từng có chủ quyền HS (một phần TS) dù là từ mấy CP hay quốc gia vẫn là của một nhân dân sẽ không phi pháp hay ít ra không phi pháp bằng bằng TQ
DDH: Trong LQT thì chủ quyền lãnh thổ không thuộc về chủng tộc. Trong LQT thì CQ đối với STS chỉ có thể thuộc về quốc gia phong kiến VN, quốc gia VN dưới sự bảo hộ của Pháp, quốc gia VN trước khi VN trở thành 2 QG, 1 trong 2 QG trong giai đoạn chia đôi, và QG Việt thống nhất sau giai đoạn chia đôi. Nếu không phải như vậy thì HSTS là đất vô chủ hoặc là CQ là thuộc về 1 QG nào khác. LQT không tính đến khái niệm HSTS thuộc về chủng tộc nào.
Dĩ nhiên là việc TQ chiếm HS là phi pháp, nhưng đó không phải là vì dân tộc TQ là 1 dân tộc khác với VN, mà là vì TQ là 1 QG khác với VNCH.
Nhưng nếu VNCH và VNDCCH là 2 QG, và nếu Tòa cho rằng VNDCCH chiếm HSTS từ VNCH cho mình bằng bạo lực, thì việc chiếm đó cũng là phi pháp. Việc nhân dân VNDCCH và nhân dân VNCH cùng là 1 dân tộc không làm cho việc chiếm đó trở thành hợp pháp. Yếu tố “cùng dân tộc” không thể nào làm cho cái phi pháp trở thành hợp pháp.
http://anhbasam.wordpress.com/2014/05/27/2272-cong-ham-pham-van-dong-nhung-van-de-lien-quan-va-luat-quoc-te/
Một cuộc đàm thoại giữa Phạm Phan Long, Dương Danh Huy, Phạm Quang Tuấn và Phùng Liên Đoàn
14-05-2013
Đây là cuộc đàm thoại giữa Phạm Phan Long (PPL), Dương Danh Huy (DDH), Phạm Quang Tuấn (PQT) và Phùng Liên Đoàn (PLĐ), diễn ra từ ngày 9/5/2013 đến 14/5/2013.
PPL: Ý kiến của anh từ góc độ pháp lý về vấn đề CHPVĐ năm 1958 như thế nào?
DDH: CHPVĐ và các hành vi khác của VNDCCH để lại 3 vấn đề mà người Việt ngày nay phải giải quyết, đó là:
1 Phản biện lập luận cho rằng VNDCCH đã công nhận chủ quyền TQ đối với HSTS.
2 Phản
biện lập luận cho rằng CHPVĐ hay các hành vi khác của VNDCCH đã gây ra
một nghĩa vụ có tính ràng buộc pháp lý cho VNDCCH.
3 Chứng minh rằng trong giai đoạn 54-75/76 có một quốc gia Việt nào đó duy trì chủ quyền trên hai quần đảo HSTS.
Vấn đề ở đây không chỉ là CHPVĐ mà còn
là việc VNDCCH không hề khẳng định chủ quyền đối với HSTS trong hơn 20
năm, trong khi các nước khác đòi CQ.Những lập luận đã được đưa ra nhằm “hóa giải CHPVĐ”, thí dụ như “CHPVĐ không nói gì về HSTS” chỉ có thể giải quyết được vấn đề (1) và (2), nhưng không giải quyết được vấn đề (3). Nếu ra tòa mà chỉ giải quyết được (1) và (2) nhưng không giải quyết được (3) thì khả năng thua sẽ là không nhỏ.
Để giải quyết (3), tôi cho rằng tối hậu phải dựa trên lập luận
● (a)
từ 58 đến 76 bắc và nam vĩ tuyến 17 là hai quốc gia (từ “quốc gia” ở đây
có nghĩa State/État trong luật quốc tế, như được định nghĩa trong Công
ước Montevideo 1933),
● (b) Năm 1976 hai quốc gia đó đã thống nhất một cách hợp pháp thành một quốc gia.
Tuy nhiên, hiện nay có những người chưa
chấp nhận lập luận trên. Một số thì không chấp nhận rằng trong giai đoạn
từ 58 (hay sớm hơn) đến 76 bắc và nam vĩ tuyến 17 là hai quốc gia. Một
số thì không chấp nhận rằng sự thống nhất của VN là hợp pháp.Tôi và một số thành viên QNCBĐ có 1 bài ngắn về vấn đề này: Công nhận VNCH vì biển đảo ngày nay?
PPL: Có nhận xét là Công Hàm PVĐ chỉ công nhận lãnh hải của TQ, không công nhận chủ quyền TQ về HSTS, không nói gì về HSTS, như thế có đúng không ?
DDH: Thứ nhất, lập luận đó không giải quyết được vấn đề thứ (3), tức là trong gia đoạn 54-75/76 VNDCCH đã không duy trì chủ quyền Việt trên hai quần đảo HSTS. Như vậy, vẫn cần phải có một quốc gia Việt nào đó duy trì CQ trên hai quần đảo này.
Thứ nhì, lập luận “PVĐ chỉ công nhận lãnh hải TQ, không công nhận gì về đảo” cũng là chưa đủ về khía cạnh khác. Giả sử VN dùng lập luận đó như một phần của quan điểm chính thức của mình, TQ sẽ nói
“OK, vậy thì các anh phải tôn trọng quy định của TQ trong lãnh hải 12 hl chung quanh Spratlys: tàu thuyền máy bay quân sự của các anh muốn vào lãnh hải 12 HL chung quanh Spratlys phải xin phép chúng tôi, ngư dân các anh không được đánh cá trong lãnh hải đó.”
Như vậy thì cũng khá kẹt cho mình trên thực tế (mặc dù nó không phải là công nhận HSTS là của TQ). Tức là VN sẽ phải dùng những lập luận như “CHPVĐ đã không gây ra nghĩa vụ ràng buộc” và “VNDCCH là một quốc gia khác với CHXHCNVN ngày nay”.
PPL: Thế còn lập luận theo luật VNDCCH thì Thủ tướng PVĐ không có thẩm quyền để phê chuẩn hiệp định về chủ quyền lãnh thổ, chỉ có QH VNDCCH thì mới có thẩm quyền?
DDH: Thứ nhất, lập luận đó không giải quyết được vấn đề thứ (3), tức là trong gia đoạn 54-75/76 VNDCCH đã không duy trì chủ quyền Việt trên hai quần đảo HSTS. Như vậy, vẫn cần phải có một quốc gia Việt nào đó duy trì CQ trên hai quần đảo này.
Thứ nhì, lập luận đó sẽ không đứng vững được trước luật quốc tế. Nếu Tòa án Công lý Quốc tế xử vấn đề HSTS thì Tòa sẽ áp dụng luật quốc tế, chứ không áp dụng luật nội địa của VNDCCH. Và luật quốc tế thì quy định rằng thủ tướng là một trong những người có thẩm quyền để đại diện quốc gia trong việc thỏa thuận với quốc gia khác về lãnh thổ. Trên thực tế, trong phiên tòa xử tranh chấp Eastern Greenland, Na Uy đã dùng lập luận tương tự như anh nói, và cãi rằng theo luật Na Uy thì bộ trưởng ngoại giao không có thẩm quyền để thỏa thuận với Đan Mạch về chủ quyền lãnh thổ, nhưng Tòa đã bỏ qua lập luận đó, và cho rằng theo luật quốc tế thì bộ trưởng ngoại giao có thẩm quyền.
PPL: Thế còn lập luận CHPVĐ chỉ là một tuyên bố đơn phương cho nên không có tính ràng buộc?
DDH: Thứ nhất, lập luận đó không giải quyết được vấn đề thứ (3), tức là trong gia đoạn 54-75/76 VNDCCH đã không duy trì chủ quyền Việt trên hai quần đảo HSTS. Như vậy, vẫn cần phải có một quốc gia Việt nào đó duy trì CQ trên hai quần đảo này.
Thứ nhì, theo luật quốc tế thì có tuyên bố đơn phương có tính ràng buộc, có tuyên bố đơn phương không có. (Nhưng trong trường hợp cụ thể này thì tôi nghĩ CHPVĐ không có tính ràng buộc).
PPL: Thế còn lập luận CHPVĐ đã không gây ra estoppel ?
DDH: Lập luận đó giải quyết được vấn đề thứ (2), và đó là một điều cần thiết, nhưng nó là chưa đủ, vì nó chưa giải quyết được vấn đề thứ (3).
PPL: Thế còn lập luận HSTS nằm dưới sự quản lý của VNCH chứ không phải VNDCCH ?
DDH: lập luận đó là hướng đúng, nhưng chúng ta phải giải thích tại sao “nằm dưới sự quản lý của VNCH chứ không phải VNDCCH” có nghĩa VNCH có thẩm quyền về chủ quyền lãnh thổ đối với HSTS trong quan hệ với các quốc gia khác, còn VNDCCH thì không có thẩm quyền.
Nếu lúc đó chỉ hiện hữu duy nhất một quốc gia, và nếu CP VNCH không phải là đại diện hợp pháp của QG đó, thì chúng ta có thể dùng lập luận gì để cho rằng chính quyền VNCH có thẩm quyền về chủ quyền lãnh thổ đối với HSTS trong quan hệ với các quốc gia khác, còn chính quyền VNDCCH thì không có thẩm quyền?
Vì vậy, tôi cho rầng lập luận, “HSTS nằm dưới sự quản lý của VNCH chứ không phải VNDCCH” tối hậu phải dựa trên việc VNCH và VNDCCH là hai quốc gia.
PPL: Băn khoăn của tôi dựa vào lẽ thường không dựa vào luật mà vào tư thế VN và TQ dưới mắt người quan sát.
Dùng quan điểm ba nước VN và TQ có nhiều lý lẽ dễ nghe cho mình nhưng e không thuyết phục đựơc người ngoài vì:
● TQ chiếm HS trong tay VNCH bằng võ lực vi phạm luật quốc tế.
● VNDCCH chiếm miền Nam VN.bằng võ lực cũng vi phạm luật quốc tế.
● TQ và VNDCCH là đồng minh đều vi phạm luật quốc tế.
● Bây giờ TQ và VN tranh chấp nhau chủ quyền HS TS.
Như thế không bên nào có lợi thế hơn.CHXHCNVN cỏ thể bất lợi hơn TQ vì chiến tranh tạo ra CHXHCNVN tàn khốc hơn.
Việc LHQ công, nhận CHXHCNVN là chấp nhận thực trạng sau khi việc chiếm đoạt đã xong rồi, không phải LHQ công nhận việc chiếm đoạt này là hợp pháp.
Làm sao lý giải tính hợp pháp giừa hai chiếm đoạt phi pháp.
DDH: Anh đã nhận ra chính xác một trong những khó khăn trong việc giải quyết vấn đề thứ (3) trong 3 vấn đề tôi nêu ra trong một trả lời trước:
1 Phản biện lập luận cho rằng VNDCCH đã công nhận chủ quyền TQ đối với HSTS.
2 Phản
biện lập luận cho rằng CHPVĐ hay các hành vi khác của VNDCCH đã gây ra
một nghĩa vụ có tính ràng buộc pháp lý cho VNDCCH.
3 Chứng minh rằng trong giai đoạn 54-75/76 có một quốc gia Việt nào đó duy trì chủ quyền trên hai quần đảo HSTS.
Tôi nghĩ là khả năng giải quyết vấn đề
(1) & (2) là tương đối cao, và vấn đề (3) là khó nhất và bao hàm
nhiều rủi ro cho VN nhất.Để giải quyết được vấn đề (3), tôi nghĩ phải chứng minh được 2 điều:
● 3.1 Từ 58 (hay sớm hơn) đến 76 bắc và nam vĩ tuyến 17 là hai quốc gia.
● 3.2 Sự thống nhất của VN là hợp pháp.
Sự khó khăn anh nêu ra là cho 3.2.
Như anh nêu ra, có người có thể cho rằng trên phương diện thực chất việc thống nhất là, dùng chữ của anh, “VNDCCH chiếm miền Nam VN bằng võ lực”. Trong bài này: Tính pháp lý của việc kế thừa hai quần đảo, Phạm Thanh Vân và tôi có viết:
Vấn đề ở đây là nếu cho rằng CHXHCNVN là quốc gia phía Bắc vĩ tuyến 17 thụ đắc lãnh thổ của quốc gia phía Nam bằng bạo lực thì, với Nghị quyết 2734 (XXV) của LHQ cấm thụ đắc lãnh thổ của quốc gia khác bằng bạo lực, CHXHCNVN sẽ không có chủ quyền hợp pháp với bất cứ vùng lãnh thổ nào phía Nam vĩ tuyến 17, bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa.
Nhưng trên phương diện hình thức pháp lý thì tôi cho rằng cho rằng việc thống nhất không phải là “VNDCCH chiếm miền Nam VN bằng võ lực” ngày 30/4/75, mà là quá trình sau
● Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời lật đổ CP VNCH ngày 30/4/75
● CPCMLT đổi tên của quốc gia phía nam vĩ tuyến 17 từ VNCH thành Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam
● Ngày 2/7/1976 CHMNVN thống nhất với VNDCCH một cách hợp pháp
Chúng tôi có viết về quá trình này trong bài trên BBC:Sau 30/4/1975, khi Chính phủ Cách mạng Lâm thời CHMNVN thay thế chính phủ VNCH, tư cách pháp lý của hai quốc gia ở hai bên vĩ tuyến 17 tiếp tục được khẳng định bởi một số thực tế ngoại giao, thí dụ như,
Tháng 10/1975, Bộ trưởng Ngoại giao Úc viết có ít nhất 75 nước công nhận cả hai chính phủ VNDCCH và CHMNVN như hai chính phủ của hai quốc gia độc lập. Trong số 75 nước đó bao gồm cả Trung Quốc, và những nước không thuộc khối XHCN như Thụy Điển, Ấn Độ, Úc, Nhật, Anh, Pháp, Ý, Bỉ, Canada v.v…Hai quốc gia VNDCCH và CHMNVN đã tham gia hai tổ chức WHO và WMO với tư cách là những thành viên độc lập. Cả hai đều có tư cách quan sát viên thường trực riêng biệt ở LHQ.
Các văn kiện chính thức của VNDCCH và CHMNVN cũng ghi nhận đó là hai Nhà nước và hai Chính phủ khác biệt.
Như vậy, rõ ràng VNDCCH và VNCH/CHMNVN là hai quốc gia khác biệt.
Vì thế, VNCH/CHMNVN có thẩm quyền trong việc duy trì chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. VNDCCH là bên thứ ba trong tranh chấp và các tuyên bố hay sự im lặng của VNDCCH không ảnh hưởng gì đến chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa của VNCH/CHMNVN.
…
Trên thực tế, vì mỗi chính phủ CHMNVN và chính phủ VNDCCH đều được cộng đồng thế giới công nhận là đại diện hợp pháp của một quốc gia, quyết định của hai chính phủ đó để thống nhất hai quốc gia CHMNVN (vốn được đổi tên từ VNCH) và VNDCCH, qua quá trình pháp lý từ 25/4/1976 đến 2/7/1976, bắt đầu bằng cuộc tổng tuyển cử toàn quốc để bầu ra Quốc hội thống nhất, dẫn đến (a) một quốc gia thống nhất và (b) một chính phủ đại diện cho quốc gia đó.
Trên thực tế, sự tồn tại của quốc gia thống nhất đó, và thẩm quyền của chính phủ đó trên toàn bộ lãnh thổ, đã không bị LHQ hay quốc gia nào lên tiếng phản đối. Một năm sau, năm 1977, quốc gia thống nhất, CHXHCNVN, được chấp nhận tham gia LHQ, với chính phủ CHXHCNVN được công nhận là đại diện cho quốc gia đó.
Vì thế, trên phương diện luật quốc tế, CHXHCNVN, là quốc gia thừa kế không bị phản đối của hai quốc gia trước, mặc nhiên thừa kế tất cả các vùng lãnh thổ thuộc chủ quyền VNCH/CHMNVN.
Trên thực tế, CHXHCNVN đã kế thừa vai trò của VNCH/CHMNVN trong các hiệp định và các tổ chức quốc tế như WHO, WMO, ILO, ITU, UPU, UNESCO hoặc IAEA, IMF. Và CHXHCNVN cũng mặc nhiên thừa kế các yêu sách chủ quyền và thềm lục địa của VNCH/CHMNVN trong các tranh chấp với Campuchia, Thái Lan, Malaysia và Indonesia. Tương tự, CHXHCNVN mặc nhiên thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa từ VNCH/CHMNVN.
Như vậy, chúng tôi cho rằng (3.2.1) Trên phương diện hình thức pháp lý thì sự thống nhất của VN là ngày 2/7/1976 và là hợp pháp.
Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng trên phương diện thực tế quân sự (chủ lực của “Quân Giải Phóng Miền Nam” là quân đội của VNDCCH) và quyền lực chính trị (Hà Nội có nhiều ảnh hưởng đối với CPCMLT) thì có người có thể cho rằng (3.2.2) sự thống nhất đó là VNDCCH xâm lăng VNCH, và CPCMLT chỉ là một bù nhìn, một hình thức không có giá trị.
Một trong những câu hỏi cho Việt Nam, cho trí thức Việt Nam, là nếu Tòa xét điểm 3.2 thì Tòa sẽ chọn 3.2.1 hay 3.2.2?
Tôi tin rằng Tòa sẽ chọn 3.2.1 và do đó sẽ công nhận rằng sự thống nhất của VN là hợp pháp, hay, ít nhất, Tòa sẽ công nhận rằng nước VN thống nhất được kế thừa danh nghĩa CQ đối với HSTS.
PPL: Nhưng tôi vẫn còn ít nhiều ngờ vực khả năng thuyết phục toà án.
Vì dựa vào việc được các tổ chức, LHQ và nước khác công nhận ba chính phủ VN và từ đó lý giải ra quyền thừa kế HS TS cho CHXHCNVN.
Khi công nhận các chính phủ không có nghĩa LHQ cũng công nhận chủ quyền tất cả lãnh thổ họ tuyên bố là của họ.
Công nhận CPCMLT suy ra CPCMLT có chủ quyền TS HS có thể không vững; không khác gì công nhận TQ là cho rằng công nhận đảo Điếu Ngư là của họ.
Sự kiện ba thành phần VN thực ra là chung một dân tộc và lãnh thổ vốn thống nhất trứơc đó để phân biệt với việc TQ là ngoại xâm có tăng giá trị pháp lý lịch sử gì cho VN không?
DDH: Anh lập luận rất chuẩn xác.
Nhưng tôi nghĩ vấn đề không phải là (a) công nhận HSTS là của CHMNVN mà là (b) công nhận rằng quốc gia CHMNVN chính là quốc gia VNCH với một tên mới, và, đo đó, có tất cả những danh nghĩa chủ quyền mà VNCH có.
Nói cách khác,
● (a)
Sau 30/4/75, tài sản, lãnh thổ, territorial claims và titles của VNCH là
của CHMNVN. Cụ thể, sau 30/4/75 danh nghĩa chủ quyền của VNCH đối với
HSTS là của CHMNVN, vì đó là cùng một quốc gia với một sự đổi chính phủ
và đổi tên.
● (b)
Còn claims và titles có có mạnh hơn của TQ hay Philippines hay không thì
là chuyện khác, nếu ra tòa thì tòa sẽ trả lời câu hỏi đó.
Sự công nhận của thế giới về CHMNVN sau 30/4/75 chỉ nói về (a), không nói về (b).PQT: Theo tôi, vấn đề không phải là VNCH-CPCMLT có chủ quyền trên HSTS hay không, mà là VNCH-CPCMLT có CLAIM chủ quyền trên HSTS không. Vì CNDCCH không bao giờ claim, và không phản đối khi Tàu claimed HSTS, nên theo luật quốc tế thì VNDCCH đã chấp nhận (acquiesce) chủ quyền trên HSTS, và bây giờ không thể đòi được nữa. Còn nếu VNCH-CPCMLT đã claimed HSTS và VN bây giờ thừa kế cái claim đó, thì mới có vị thế để đòi.
Cơ bản là tôi đồng ý với anh, dù tôi có thể diễn đạt hơi khác.
Vấn đề CQ có 3 giai đoạn sau (sách của GS Chemilllier Gendreau về HSTS viết rất rõ):
● Acquisition of the inchoate title – thụ đắc danh nghĩa chủ quyền phôi thai.
● Consolidation of the title – củng cố danh nghĩa chủ quyền.
● Maintenance of the title – duy trì danh nghĩa chủ quyền.
Báo chí VN thường nhấn mạnh về điểm 1 và 2, nhưng ít phân tích về điểm 3 trong giai đoạn 54-75.Đúng như anh nói, vấn đề trong context 54-75 mà chúng ta đang nói tới là maintenance of the title/duy trì danh nghĩa chủ quyền, mà anh diễn đạt bằng cụm từ “CLAIM chủ quyền trên HSTS”.
Rõ ràng VNDCCH đã không maintain the title, không chỉ trong CHPVĐ mà còn trong hơn 20 năm.
CPCMLT thì cũng không rõ ràng là đã duy trì chủ quyền đầy đủ. Tới 1969 CPCMLT mới ra đời: không rõ là khi MTGP chưa tuyên bố mình là 1 CP thì MTGP có được Tòa công nhận rằng MTGP có thể đại diện cho một quốc gia trong việc khẳng định CQ hay không? Tới 1974, khi TQ chiếm HS, thì CPCMLT mới ra tuyên bố, mà đó chỉ là một tuyên bố chung chung với 3 điểm
- Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là thiêng liêng.
- Giữa các nước láng giềng thường có tranh chấp.
- Cần xem xét vấn đề này trên tinh thần bình đẳng tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt và phải giải quyết bằng thương lượng.
Vì vậy cần phải lập luận trên cơ sở
● (a) Từ 58/sớm hơn đến 76 có 2 QG và CP VNCH là đại diện hợp pháp cho QG đó cho đến khoảng 74-75.
● (b) Sự thống nhất của VN là hợp pháp theo luật quốc tế, không phải là VNDCCH thôn tính VNCH.
Nhìn từ góc độ pháp lý thì tôi thấy 2 lập luận trên là logical và cũng có cơ sở (tuy nhiên cũng có rủi ro).Cũng xin mói thêm là việc cho rằng VNCH/CHMNVN là 1 quốc gia duy trì danh nghĩa CQ đầy đủ và cho rằng CHXHCNVN đã thừa kế hợp pháp danh nghĩa CQ đó riêng nó chưa nói gì về HSTS có phải là của VN hay không. Để chứng minh rằng HSTS là của VN, cần có thêm chứng minh rằng danh nghiã chủ quyền mà VNCH/CHMNVN duy trì là mạnh hơn danh nghiã chủ quyền của các nước đối phương.
Nhưng trong context chúng ta đang nói tới, vấn đề là VNCH/CHMNVN có phải là 1 quốc gia trong thời kỳ 58-76 hay không, VNCH/CHMNVN có claim CQ (ie maintain danh nghĩa CQ) hay không (như anh Tuấn nói), và CHXHCNVN có đã thừa kế danh nghĩa CQ đó một cách hợp pháp hay không.
Để xét “Danh nghiã chủ quyền mà VNCH/CHMNVN duy trì có mạnh hơn danh nghiã chủ quyền ca các nước đối phương hay không?” cần xét về 2 điểm
● Acquisition of the inchoate title – thụ đắc danh nghĩa chủ quyền phôi thai.
● Consolidation of the title – củng cố danh nghĩa chủ quyền.
Và các dẫn chứng là các tuyên bố và hành
động trong thời quân chủ và thời Pháp thuộc (ie ngoài phạm trù của
những gì chúng ta đang nói tới).PPL: Mạn phép tạm đúc kết và đưa ra hai câu hỏi:
1. Điều then chốt là tòa án QT sẽ thẩm định chứng cứ các bên tranh chấp để quyết định chủ quyền bên nào mạnh hơn.
Do đó việc phải làm là công bố các chứng cứ lịch sử này trên các diễn đàn quốc tế.
2. Tòa án QT không tự họ ra lệnh cho các bên ra tòa nên phải thúc đẩy VN kiện TQ.
Đã có thỉnh nguyện thư gởi đến Mỹ, Úc và Phi yêu cầu khởi kiện TQ.
Chưa có thỉnh nguyên thư yêu cần CP VN khởi kiện TQ.
Việc VN dè dặt như thế chỉ có thể suy ra là VN đã bị TQ khống chế ngấm ngầm từ nội bộ hai Đảng CS.
Nếu thế bao giờ tranh chấp mới giải quyết trong khi càng lâu TQ càng củng cố quân sự và cơ sở vừng chắc nới rộng vùng chiếm đoạt của họ.
Trong khi dân VN và kế mưu sinh vẫn bị TQ hãm hại liên tục.
Các trí thức trong nước đã gởi CP nhiều thư nổi tiếng nhưng chưa yêu cầu kiện TQ.
Các trí thức bên ngoài chưa làm các trí thức trong nước sao cũng chưa yêu cầu CP làm việc này?
DDH: Vì cả 2 VN và TQ
đều chưa tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ),
nếu VN đơn phương kiện TQ ở ICJ, tòa sẽ không thụ lý.
Trên lý thuyết, VN có thể đơn phương
kiện TQ trước 1 tòa trọng tài của UNCLOS (như Phi đang làm), nhưng vì TQ
đã tuyên bố (theo điều 298 của UNCLOS) không chấp nhận compulsory
dispute settlement procedure của UNCLOS, cho nên tòa trọng tài không có
thẩm quyền để giải quyết các vấn đề liên quan đến phân định ranh giới
biển. Điều đó giới hạn rất nhiều những gì VN có thể kiện TQ nhằm đem lại
lợi ích cho mình.
Nhiều người nói VN nên kiện TQ như Phi
kiện TQ, nhưng sự thật không đơn giản như thế. Vì phần lớn QĐTS nằm
trong phạm vi 200 HL từ Palawan, Phi có nhiều điều có thể kiện TQ nhằm
đem lại lợi ích cho họ hơn là VN có thể làm.
PLĐ: VNCH có tiếng nói tại hội
nghị San Francisco, trong khi TQ không được chấp nhận những đòi hỏi.
Việc này có quan hệ gì với HS TS không?
DDH: (Chính xác là dự
hội nghị SF là Quốc Gia Việt Nam (State of Viet Nam) chứ không phải VNCH
– tới 1956 thì tên VNCH mới ra đời – anyway, that’s a small point).
HĐ SF chỉ nói Nhật phải bỏ danh nghĩa CQ
và claims với HSTS nhưng không nói cụ thể HSTS là thuộc về nước nào. Cả
2 bên China (CS và QDĐ) đều không được mời tham gia HĐ SF, không có bên
nào ký kết SF.
Vì vậy, HĐ SF không có giá trị pháp lý
để nói HSTS là của nước nào. Nhưng chúng ta có thể đưa ra điểm “không
nước nào phản đối tuyên bố của VN, đa số phản đối đề nghị của LX về công
nhận HSTS là của TQ” để phản biện việc TQ mạo nhận rằng HĐ Đài Bắc 1952
(giữa Nhật và TQ) công nhận HSTS là của TQ, và cũng là một cách để
tranh thủ dư luận.
PPL: Tôi thấy giữa VN và TQ, cả
bốn CP VN có chung một yếu tố quan trọng là thuộc cùng một dân tộc Việt
mà trước đó dân tộc này vốn thống nhất trên cùng lãnh thổ Việt Nam mà
lãnh thổ đó đã có TS và HS.
VN đã bị chia rẽ ra vì chính trị
và tranh chấp nhau có thể coi là chiếm đoạt của nhau, nhưng khi thống
nhất rồi, chủ quyền của dân tộc trên lãnh thổ và tài sản đã có từ trước
không thể mất đi như thế dưới luật QT. Sự tiếp quản tài sản của CP trước
của CP sau ở nước ngoài không bị nước ngoài từ chối. HÌnh nhu anh Giang
có dề cập và tôi thấy các tòa đại sứ và tài sản của VNCH ơ” các nước
khác đều được trao lại cho VNDCCH/CHXHCNVN không có tranh chấp. Luật QT
có điều khoản nào về sự tiếp quản này hay không tôi không rõ, nhưng CQ
CHXHCNVN đã không bi QT phản đối gì nữa dù đã tiếp quản cả miền Nam.
Việc CHMNVN và VMDCCH chiếm đoạt
lãnh thổ của VNCH nếu không hợp pháp thì vẫn có chỗ phản biện là việc
pháp lý của (dân tộc) chúng tôi với nhau.So với việc TQ chiếm đoạt lãnh thổ của dân tộc khác thì hoàn toàn không hợp pháp.
Đây có phải là một khía cạnh pháp lý giúp gì cho VN không?
DDH: Trong luật quốc tế thì chủ quyền lãnh thổ là thuộc về quốc gia, không có khái niệm “cùng một dân tộc” hay “khác dân tộc”. Điều đó có nghĩa:
1 Nếu là cùng trong 1 QG thì các thế lực chính trị bên trong QG đó tha hồ lật đổ nhau, chủ quyền lãnh thổ vẫn thuộc về QG đó. Eg, phe cách mạng lật Gaddafi thì vùng lãnh thổ nào của Lybia vẫn là của Lybia. Điều này có nghĩa nếu CPCMLT lật CP Dương Văn Minh thì nếu HSTS là của MN trước 30/4/75 thì HSTS cũng là của MN sau 30/4/75.
2 Nếu là 2 QG “thụ đắc” lãnh thổ cuả nhau thì việc dân tộc trong 2 QG đó cùng là 1 dân tộc là irrelevant. Sự “thụ đắc” lãnh thổ đó có là hợp pháp hay không là điều được quy định theo luật quốc tế. Mà luật quốc tế thì không racist, không có chuyện “Việc QG A chiếm lãnh thổ của QG B là hợp pháp, vì dân chúng trong 2 QG đó là cùng 1 dân tộc.”
Thành ra chúng ta phải chứng mình rằng sự thống nhất của VN là hợp pháp theo luật quốc tế. Không thể nói rằng VNDCCH và VNCH là 2 QG có cùng 1 dân tộc cho nên nếu VNDCCH chiếm VNCH bằng bạo lực thì cũng là hợp pháp.
Điều này cũng là quan trọng, vì nếu chúng ta (hay kể cả phía TQ) chứng minh rằng VNDCCH là 2 QG thì chúng ta cũng phải chứng minh được rằng sự thống nhất là hợp pháp. Nếu chứng minh “2 QG” mà không chứng minh được “thống nhất hợp pháp” thì cũng như là bác sĩ mổ người ta ra nhưng không may lại được.
PPL: Tôi rất muốn nghe thêm nên tiếp tục hỏi và bàn:
“Trong luật quốc tế thì dân tộc không phải là một chủ thể, quốc gia là chủ thể, và chủ quyền lãnh thổ là thuộc về quốc gia.”
Nhân dân mà tôi gọi là dân tộc là chủ thể tối hậu của quốc gia, là chủ thể của chính quyền nên nhân dân có chủ quyền của lãnh thổ của quốc gia họ không?
DDH: Trong luật quốc tế thì CQ lãnh thổ là thuộc về QG. Chúng ta hiểu là với 1 QG văn minh thì lãnh thổ đó ultimately thuộc về nhân dân, nhưng mà trong luật quốc tế thì nhân dân không phải là 1 chủ thể deal trực tiếp với các QG khác về chủ quyền lãnh thổ. Trong luật quốc tế thì trên bình diện quốc tế nhân dân không đại diện quốc gia trong vấn đề chủ quyền lãnh thổ trong quan hệ với các QG khác.
Đúng là theo Hiến Chương LHQ thì các dân tộc có quyền tự quyết, nhưng quyền tự quyết đó được thể hiện qua việc các dân tộc có quyền lập ra những quốc gia độc lập cho mình, bình đẳng với các QG khác, và trong mỗi QG thì người dân có quyền lựa chọn chính phủ để đại diện cho mình (cũng như để thực thi những chức năng khác của chính phủ).
Nhưng khi tòa quốc tế xét về CQ lãnh thổ, tòa sẽ không xét quan điểm của nhân dân mà chỉ xét quan điểm của CP. Điều này không mâu thuẫn với điều trên.
Trong trường hợp CP được cho là đại diện hợp pháp của QG không đòi chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ X, thì dù nhân dân có đòi thì điều đó cũng không có giá trị pháp lý. Trong trường hợp đó, nhân dân phải chọn ra 1 CP khác đòi chủ quyền đối với X – nếu không làm điều đó thì coi như là QG đó không đòi CQ.
PPL: Anh nói: “1. Nếu là cùng trong 1 QG thì các thế lực chính trị bên trong QG đó tha hồ lật đổ nhau, chủ quyền lãnh thổ vẫn thuộc về QG đó. Eg, rebels lật Gaddafi thì vùng lãnh thổ nào của Lybia vẫn là của Lybia. Điều này có nghĩa nếu CPCMLT lật CP Dương Văn Minh thì nếu HSTS là của MN trước 30/4/75 thì HSTS cũng là của MN sau 30/4/75.:”
Hy vọng thế nhưng có thể không dễ giải thích như vậy, hình như cờ treo trên dinh độc lập ngày 30 tháng 4 là cờ VNDCCH không phải cờ CPCMLT của MTGPMN.
DDH: Trong bài của chị Vân và tôi (chưa công bố), chúng tôi có viết về vấn đề này.
Xe tăng ủi sập cổng Dinh Độc Lập ngày 30/4 thực chất là xe tăng của VNDCCH, lính xe tăng là của VNDCCH, nhưng cờ treo trên ăng ten là cờ của CHMNVN. Lá cờ được treo trên Dinh ĐL là lá cờ CHMNVN này.
Viên chỉ huy trưởng cầm súng áp giải Dương Văn Minh đến đài phát thanh, là sĩ quan VNDCCH. Hai sĩ quan soạn tuyên bố đầu hàng cho DVM đọc là sĩ quan VNDCCH, nhưng bản tuyên bố đó nói là đầu hàng Quân Giải Phóng Miền Nam (thay vì Quân Đội Nhân Dân – ie quân đội VNDCCH) và trao quyền cho CPCMLT chứ không phải là cho VNDCCH.
Câu hỏi cho chúng ta là hình thức đó có đủ để Tòa cho rằng sự kết thúc của cuộc chiến là một vấn đề giữa CPCMLT và CP VNCH không?
PPL: Anh nói: “2. Nếu là 2 QG “thụ đắc” lãnh thổ cuả nhau thì việc dân tộc trong 2 QG đó cùng là 1 dân tộc là irrelevant. Sự “thụ đắc” lãnh thổ đó có là hợp pháp hay không là điều được quy định theo luật quốc tế. Mà luật quốc tế thì không racist, không có chuyện “Việc QG A chiếm lãnh thổ của QG B là hợp pháp, vì dân chúng trong 2 QG đó là cùng 1 dân tộc.”
Trong tình huống giả sử bỗng nhiên TQ và VN tranh nhau một đảo hoang thì đúng race không phải là điều đáng xét và nếu favor một bên nào là racist.
Nhưng đây không phải là kỳ thị chủng tộc mà là yếu tố chủ quyền đã là của một chủng tộc đã lãnh thổ này trước rồi không có vấn đề tranh chấp giữa hai chủng tộc này trước đó.
Viêc TQ chiếm đoạt bằng võ lực là phi pháp, TQ một quốc gia bên ngoài và khác chủng tộc khác chiếm đoạt lãnh thổ của QG gia khác chắc chắn là phi pháp có tính cách ngoại xâm.
Nên race là important relevant fact không thể không cân nhắc và thẩm định.
Dân tộc VN bây giờ thống nhất lãnh thổ vốn đã từng có chủ quyền HS (một phần TS) dù là từ mấy CP hay quốc gia vẫn là của một nhân dân sẽ không phi pháp hay ít ra không phi pháp bằng bằng TQ
DDH: Trong LQT thì chủ quyền lãnh thổ không thuộc về chủng tộc. Trong LQT thì CQ đối với STS chỉ có thể thuộc về quốc gia phong kiến VN, quốc gia VN dưới sự bảo hộ của Pháp, quốc gia VN trước khi VN trở thành 2 QG, 1 trong 2 QG trong giai đoạn chia đôi, và QG Việt thống nhất sau giai đoạn chia đôi. Nếu không phải như vậy thì HSTS là đất vô chủ hoặc là CQ là thuộc về 1 QG nào khác. LQT không tính đến khái niệm HSTS thuộc về chủng tộc nào.
Dĩ nhiên là việc TQ chiếm HS là phi pháp, nhưng đó không phải là vì dân tộc TQ là 1 dân tộc khác với VN, mà là vì TQ là 1 QG khác với VNCH.
Nhưng nếu VNCH và VNDCCH là 2 QG, và nếu Tòa cho rằng VNDCCH chiếm HSTS từ VNCH cho mình bằng bạo lực, thì việc chiếm đó cũng là phi pháp. Việc nhân dân VNDCCH và nhân dân VNCH cùng là 1 dân tộc không làm cho việc chiếm đó trở thành hợp pháp. Yếu tố “cùng dân tộc” không thể nào làm cho cái phi pháp trở thành hợp pháp.
Điều có thể làm cho biến cố 1975 trở
thành hợp pháp là vai trò của CPCMLT: nếu Tòa cho rằng biến cố đó là
CPCMLT lật đổ chính quyền Dương Văn Minh, như hai thế lực chính trị
trong cùng 1 QG lật đổ nhau (dù là với sự giúp đỡ của quân đội VNDCCH),
thì Tòa sẽ cho rằng biến cố đó là hợp pháp. Ở đây tôi xũng xin nói là
trên the giới không có nước nào trên thế giới phản đối rằng biến cố 1975
là VNDCCH chiếm 1 QG khác; LHQ, nhiều nước và một số phân tích luật học
cho rằng CHMVNV chính là quốc gia VNCH với một tên khác và CP khác;
không nước nào phản đối rằng sự thống nhất giữa VNDCCH và CHMNVN năm
1976 là bất hợp pháp, và nước VN thống nhất đã thừa kế các tài sản của
VNCH, cũng như các yêu sách của VNCH về thềm lục địa, hay trong tranh
chấp lãnh thổ với CPC. Như vậy, chúng ta có cơ sở để cho rằng nước VN
thống nhất được thừa kế danh nghĩa CQ đối với HSTS từ VNCH (qua CHMNVD),
mà không cần phải viện dẫn đến lập luận chủng tộc,vốn là một lập luận
khó đứng vững trước Tòa.
Như tôi đã trình bày, tôi nghĩ race
không phải là relevant factor. Nếu yếu tố “cùng dân tộc” có thể làm cho
việc xâm chiếm trở thành hợp pháp thì cũng nguy hiểm. Eg, Ngày nào đó TQ
có thể nói Singapore phần lớn là cùng dân tộc Chinese cho nên chúng tôi
chiếm là hợp pháp.
Tôi xin nói thêm chút nữa về vai trò của nhân dân khi Tòa cân nhắc lý lẽ chủ quyền của các bên trong tranh chấp.
Khi phân xử về chủ quyền, Tòa chỉ xét
xem lập trường và hành động của đại diện của QG là gì, Tòa không xét đến
quan điểm của nhân dân. Các hành động của nhân dân, nếu không nằm dưới
chính sách của nhà nước về vùng lãnh thổ đó, không do đại diện của quốc
gia, sẽ không có giá trị pháp lý.
Trong một số trường hợp, các hoạt động của nhân dân có thể tạo ra quyền lịch sử, nhưng quyền lịch sử là khác với chủ quyền.
PPL: Luật quốc tế hay luật nói
chung không thể đủ kín để đối phó với mọi trường hợp; khi áp dụng phải
xem đến các yếu tố và diễn biến đưa đến tranh chấp.
DDH: Đúng vậy. Và chúng ta cần phải xây dựng 1 lập luận có nhiều khả năng được tòa hay các nhà luật học chấp nhận nhất.
PPL: Việc VN versus TQ phức tạp,
càng bàn càng thấy khó nên càng phải tiếp tục phân tích mổ xẻ sâu hơn
vào sự việc mà tìm ra lối thoát.
DDH: Đúng vậy. Tôi đã
thảo luận với nhiều người, và kết luận của tôi là người nào cho rằng VN
dễ thắng trước Tòa là người đó chưa hiểu bài toán. Và tôi nghĩ rằng một
số lập luận trong các sách trắng của VN, trong sách của ông Lưu Văn Lợi,
và trong các bài viết của một số người sẽ không đứng vững được trước
tòa, và những lập luận có thể đứng vững cũng có thể là chưa đủ, hay chưa
được phát triển đầy đủ. Tôi tin rằng khả năng thắng của chúng ta là cao
hơn thua, nhưng không phải là không có rủi ro. Chúng ta không nên bi
quan, không nên chủ quan, mà phải nghiên cứu rạch ròi nhất có thể về các
chiến lược pháp lý và các rủi ro khác nhau.
DDH gửi cho viet-studies ngày 17-5-13http://anhbasam.wordpress.com/2014/05/27/2272-cong-ham-pham-van-dong-nhung-van-de-lien-quan-va-luat-quoc-te/
VĂNHÓA & XÃ HỘI VIỆT NAM
Nhiều bệnh án trùng tên, địa chỉ, mã thẻ bảo hiểm y tế được Bệnh viện Nhi Nam Định lập mới sau khi các bệnh nhi đã tử vong, để thanh toán với bảo hiểm xã hội.
Hồ sơ bệnh án của BV Nhi Nam Định lập khống để trục lợi tiền BHYT - Ảnh: Nguyễn Tuấn Các hồ sơ bệnh án ở BV Nhi Nam Định nghi bị làm giả - Ảnh: Nguyễn Tuấn |
Trẻ tử vong thành “khỏi bệnh”
Từ tài liệu mà nguồn tin riêng của Thanh Niên cung cấp,
phóng viên lần theo những thông tin ghi trên hồ sơ, bệnh án của Bệnh
viện (BV) Nhi Nam Định, đến địa chỉ ở số 37 (cũ) phố Hoàng Ngân, TP.Nam
Định. Theo bệnh án lưu trữ số 6673, đây là nơi ở của bệnh nhi Trần Thị
Minh Th. (sinh ngày 21.8.2009). Hỏi thăm tình hình sức khỏe của cháu
Th., phóng viên vô cùng sửng sốt khi được ông Trần Văn Hùng (46 tuổi),
bố cháu Th., nói “cháu đã tử vong”.
Ông Hùng kể, khoảng 21 giờ ngày 26.9.2012, cháu Th. nhập Khoa Cấp cứu
BV Nhi Nam Định trong tình trạng sức khỏe yếu, liên tục nôn mửa vì căn
bệnh tim bẩm sinh, tới 3 giờ sáng 27.9 thì tử vong. Thế nhưng, hồ sơ
6673 lập ngày 14.11.2012 lại ghi bệnh nhi Trần Thị Minh Th. (cùng địa
chỉ, tên mẹ Nguyễn Thị Ng., mã số thẻ BHYT) đã khỏi bệnh và ra viện
trong tình trạng “tỉnh táo, ổn định”.
Tương tự, bệnh án của bệnh nhi Nguyễn Huy H. (sinh ngày 26.4.2011, ở
Nghĩa Phúc, Nghĩa Hưng, Nam Định) được BV lập ngày 13.7.2012 với số lưu
trữ là 4054 ghi “qua 8 ngày điều trị, cháu H. ổn định và ra viện”. Khi
chúng tôi tìm đến địa chỉ ghi trong bệnh án, chị Trần Thị Th., mẹ bệnh
nhi H., sững sờ thốt lên: “Tên, ngày sinh, địa chỉ, mã thẻ BHYT trong hồ
sơ đúng là của con tôi nhưng thông tin bệnh án thì sai hoàn toàn. Đêm
18.4.2012, con tôi đã tử vong sau 3 giờ nhập viện cấp cứu tại BV Nhi Nam
Định”. Theo chị Th., sau khi cháu H. tử vong, thẻ BHYT của bệnh nhi
được các bác sĩ yêu cầu nộp lại cho BV.
Tiếp tục lần theo địa chỉ của bệnh nhi Cao Thị Thúy Ng. (sinh ngày
19.10.2011, ở xã Giao Xuân, H.Giao Thủy, Nam Định), chúng tôi cũng phát
hiện thêm những nghi vấn tương tự. Chị Trần Thị Nh., mẹ cháu Ng., kể vào
khoảng 21 giờ ngày 26.2.2012 cháu Ng. đã tử vong
sau 2 ngày điều trị tại BV Nhi Nam Định. Thế nhưng, khoảng 5 tháng sau,
ngày 13.7.2012, một bệnh án có trùng số thẻ BHYT của cháu Ng. được BV
lập mới (số lưu trữ 4002), ghi cháu Ng. vào viện ngày 4.7.2012, sau 9
ngày điều trị thì “khỏi bệnh và ra viện”. “Sau khi con tôi tử vong tại
BV, các bác sĩ xin lại thẻ BHYT, còn hồ sơ bệnh án của cháu gia đình
không hề biết”, chị Nh. nói.
|
Ngoài những dấu hiệu bất thường trên, toàn bộ phiếu khám, phiếu xét nghiệm, phiếu nội soi trong hồ sơ bệnh án cũng được những người của BV “sáng tác”, trong đó có rất nhiều phiếu chụp, nội soi; giấy thử phản ứng thuốc; phiếu theo dõi chức năng sống, phiếu chăm sóc; tờ điều trị...
Chị Trần Thị Th., mẹ cháu H., khẳng định: “Con tôi nhập viện, bác sĩ vừa tiến hành truyền dịch đã tử vong, chưa kịp thực hiện xét nghiệm, chẩn đoán nào, nhưng trong hồ sơ bệnh án có hàng loạt các phiếu xét nghiệm”. Tại bệnh án 4002 của cháu Cao Thị Thúy Ng. còn đính lẫn phiếu nội soi của một cháu khác tên Ngô Đức M. (2 tuổi) có địa chỉ viết chung chung “NĐ”.
“80% là có”
Theo quy định, trẻ em dưới 6 tuổi có thẻ BHYT sẽ được miễn phí toàn
bộ viện phí, thuốc trong quá trình khám chữa bệnh. BV sau khi khám, điều
trị sẽ thanh toán các chi phí với bảo hiểm xã hội (BHXH). Qua tìm hiểu,
với mỗi một hồ sơ bệnh án “lạ” kể trên BV được thanh toán 1,2 - 1,3
triệu đồng, bao gồm đủ các loại tiền xét nghiệm; chẩn đoán hình ảnh;
tiền thuốc, tiền máu; phẫu thuật
thủ thuật; vật tư y tế tiêu hao; tiền ngày giường… Trong đó, tiền thuốc
chiếm nhiều nhất, có hồ sơ được ghi lên tới 700.000 đồng/bệnh án. Theo
phiếu thanh toán BHXH tỉnh Nam Định cung cấp, hồ sơ bệnh án của bệnh nhi
Cao Thị Thúy Ng. đã thanh toán được hơn 1,28 triệu đồng; hồ sơ bệnh nhi
Nguyễn Huy H. thanh toán hơn 1,36 triệu đồng; hồ sơ bệnh nhi Trần Thị
Minh Th. thanh toán hơn 1,19 triệu đồng.
Tiếp nhận thông tin phản ánh từ phóng viên, bà Trần Kim Dung, Trưởng
phòng Giám định thẻ BHYT tỉnh Nam Định, khẳng định: “80% là có hiện
tượng trục lợi BHXH”. Tuy nhiên, theo bà Dung, “mục đích trục lợi, ai là
người trục lợi thì phải tiến hành xác minh, kiểm tra làm rõ mới biết
chính xác” và khẳng định BHXH sẽ phối hợp Sở Y tế kiểm tra làm rõ vụ
việc.
Nguyễn Tuấn
>> Vụ 'gian lận xét nghiệm ở BV Hoài Đức': Người tố cáo rơi nước mắt>> Phát hiện thu sai tiền xét nghiệm với giá trị lớn
>> Gian lận xét nghiệm ở BVĐK Hoài Đức: Kiểm điểm trước toàn ngành y tế Hà Nội
>> Người tố cáo gian lận xét nghiệm
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140526/truc-loi-tren-benh-nhi-tu-vong.aspx
Hà Nội mùa vắng những cơn mưa
“Hà Nội mùa vắng những cơn mưa” cũng là tên một ca khúc của
nhạc sĩ Trương Quí Hải viết về vẻ đẹp Hà Nội theo những mảnh rời ký ức,
hoài niệm và thực tại trong mối giao thoa của không gian, thời gian của
phố và người Hà Nội. Trong những ngày gần đây, thời tiết khắc nghiệt,
nắng nóng đã khiến cho người Hà Nội thèm một cơn mưa đúng điệu của mưa
Hà Nội. Đặc biệt, không khí đang nóng lên trong bối cảnh nước Nga đứng
về phía Trung Quốc và bênh vực cho Trung Quốc về vấn đề xâm chiếm biển
Đông, đặc biệt, bài báo mới nhất: “Những thỏa thuận giữa Moskva và Bắc
Kinh tốt hơn mọi thông báo” của tác giả Dmitri Kosyrev đăng trên trang
nhất của hãng tin RIA Novosti càng làm cho Hà Nội trở nên nóng bức, ngột
ngạt bởi sự phản kháng và thất vọng của nhân dân.
Hà Nội nóng bức, ngột ngạt
Một nhà văn ở phố Khâm Thiên, Hà Nội, chia sẻ: “Căng lắm! Mới đây
có cái bài của thằng Dmitri Kosyrev sinh năm 1955 của báo Novosti ấy, nó
viết rất bậy về Việt Nam. Nó nói Việt Nam như là Crimea, Ukraine của
Nga vậy, bố láo, làm gì có chuyện đó! Một là nó bẻ cong, hai là nó có
một vấn đề là sau khi Nga bị Mỹ và Châu Âu cấm vận thì Nga quay lưng lại
Châu Âu đã chuyển sang Trung Quốc, có thể hiểu là Nga đã đổi gió. Nga
và Tàu khựa mà cấu kết lại với nhau là đã được tính trước. Quá nguy hiểm
khi mà tất cả những bí mật quân sự của mình, khí tài của mình đều do
Nga cung cấp hết.”
Theo nhà văn này, thành phố Hà Nội mấy ngày gần đây trở nên nóng bức
và ngột ngạt không thể tả. Sự ngột ngạt này ngoài nguyên nhân thời tiết
còn do yếu tố tâm lý gây nên. Phần đông những người trí thức, người có
hiểu biết và chịu suy nghĩ về hiện tình đất nước trước nạn ngoại xâm đều
thấy lo âu, buồn bã và hoang mang.
Vấn đề là sau khi Nga bị Mỹ và Châu Âu cấm vận thì Nga quay lưng lại Châu Âu đã chuyển sang Trung Quốc, có thể hiểu là Nga đã đổi gió. Nga và Tàu khựa mà cấu kết lại với nhau là đã được tính trước. Quá nguy hiểm khi mà tất cả những bí mật quân sự của mình, khí tài của mình đều do Nga cung cấp hết
Một nhà văn ở phố Khâm Thiên
Bởi dù sao chăng nữa, thời thơ ấu của ông và thế hệ ông ở Hà Nội cũng
gắn liền với tờ báo RIA Novosti lúc đó, người ta thường gọi là báo Liên
Xô, in bằng giấy bóng, có hình màu và cách thiết kế, trình bày rất đẹp
mắt. Tờ báo đó cùng những hình ảnh của nó khiến cho ông luôn tin vào
thiên đường xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô xa xôi và ao ước khi lớn lên sẽ
được một lần ghé chân đến nước Liên Xô đàn anh xã hội chủ nghĩa, thiên
đường Cộng sản của thế giới.
Thế rồi càng lớn lên, ông càng nhận ra Liên Xô cũng chẳng có gì là
một thiên đường, tờ báo Liên Xô lúc tuổi thơ chỉ là một kỉ niệm đẹp ông
dùng để bao vở, gói sách. Mỗi khi nhìn thấy nó, một khoảng trời tuổi thơ
lại hiện về với tiếng tàu diện leng keng, phố cở nghèo nàn và thiên
đường gói gọn trong tờ báo giấy láng. Mãi cho đến vài ngày trước đây,
cái tên tờ báo này lại hiện ra với một bài viết hết sức bất ngờ, làm ông
đi từ thất vọng sang tuyệt vọng.
Ông thất vọng về cái gọi là đàn anh Liên Xô một thuở và ông tuyệt
vọng khi nhìn thấy Trung Cộng xâm lăng Việt Nam trong khi đó, Liên Xô
lại bắt tay với Trung Cộng và đưa ra luận điệu Việt Nam là một Ukraine
của Trung Quốc. Bài báo vừa mang tính bành trướng đại Hán, vừa phủi sạch
tình anh em Việt Nam – Liên Xô lại vừa kích động chủ nghĩa bành trướng Á
Đông.
Trong lúc dầu sôi lửa bỏng như thế này, Việt Nam vốn không có bất kỳ
nước nào là liên minh quân sự, phe trục, chỉ dựa vào Nga và Trung Quốc,
bây giờ Trung Quốc xâm chiếm, Nga đứng vỗ tay và đồng tình với sự xâm
chiếm của Trung Quốc thì Việt Nam chẳng khác nào một trái bóng ném trong
tay của họ. Ông cảm thấy quá buồn và tuyệt vọng cho tương lai con em
Việt Nam.
Và điều này cũng nói lên rằng khối Cộng sản chưa bao giờ tôn trọng
những khế ước của nó. Tất cả những mỹ từ như ‘Cộng sản Quốc tế’ hay
‘Quốc tế Cộng sản’ đều cho thấy chỉ là kiểu nói đẩy đưa để qui mọi thứ
tài nguyên của thế giới về một mối, trong đó có tài nguyên sức người và
tài nguyên thiên nhiên. Những đàn anh Cộng sản, suy cho cùng cũng chỉ là
những tên buôn lợn có số má và đầy mưu mô, xảo quyệt. Họ có thể đạp lên
danh dự và lương tri con người để đạt mục đích.
Chỉ vì mới bị Mỹ và các nước Châu Âu ly khai, Nga đã nghĩ ngay đến
thị trường hơn một tỉ rưỡi người ở Trung Quốc và sẵn sàng chà đạp lên
mối quan hệ quốc tế mấy chục năm nay với đàn em Việt Nam. Và cách hành
xử của Nga cho thấy Nga vẫn còn chìm đắm trong thứ tư duy Cộng sản độc
tài và bá quyền, vừa xâm chiếm Ukraine lại vừa cổ vũ cho Trung Quốc xâm
chiếm Việt Nam. Không còn gì đáng sợ hơn những loại tư tưởng tàn nhẫn
này.
Trung Quốc hung hăng không những với Việt Nam, khu vực mà cả trên thế giới nữa, lâu nay, đặc biệt là những năm trở lại đây, cái bài báo đó kích động cực cao và nguy hiểm. Hình ảnh Trung Quốc lâu nay đang nằm trong phạm vi hình ảnh của chủ nghĩa bành trướng, ác tặc như muốn biến thế giới thành nô lệ của mình
Một nhà giáo
Một nhà giáo ở phố Hàng Bạc, Hà Nội, chia sẻ: “Thật là rối loạn,
tức là kích động chiến tranh. Nó làm cho con người nhất là những người
đang có thể có gì đó hung hăng, những người Trung Quốc hung hăng không
những với Việt Nam, khu vực mà cả trên thế giới nữa, lâu nay, đặc biệt
là những năm trở lại đây, cái bài báo đó kích động cực cao và nguy hiểm.
Hình ảnh Trung Quốc lâu nay đang nằm trong phạm vi hình ảnh của chủ
nghĩa bành trướng, ác tặc như muốn biến thế giới thành nô lệ của mình.
Chủ nghĩa bành trướng và sự tàn bạo.”
Theo vị nhà giáo này, ông cảm thấy mình đang sống trong một thế giới
bệnh hoạn mà căn bệnh này đã di căn trên toàn cơ thể của nó, khó có cơ
may cứu vãn. Dấu hiệu đầu tiên cho thấy căn bệnh này khó mà cứu vãn là
sự sủng bái thái quá những thần tượng vốn là lãnh tụ Cộng sản, từ Lê nin
cho đến Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Hồ Chí Minh và
Fidelcastro… Tất cả những lãnh tụ này đều được thánh hóa và biến thành
lá bùa hộ mệnh của chế độ.
Mà sự nguy hiểm tột cùng trong cuộc sống lại nằm ở điểm này, nghĩa là
khi các thần tượng này lên ngôi và chính thức được thánh hóa, họ nghiễm
nhiên trở thành mẫu mực, chuẩn mực chung, những hành động nhỏ nhất của
họ cũng được phù phép thành vĩ đại và lấy làm tấm gương cho mọi thế hệ.
Chính vì thế, sự lựa chọn tư tưởng của họ dẫu có độc tài vẫn là chuẩn
mực của quốc gia, dân tộc. Và những gì liên quan đến họ đều có tính tiên
phong, lãnh đạo, vô tiền khoáng hậu.
Bởi vì quá sai lầm và bệnh hoạn trong lựa chọn hệ thống mà những lãnh
tụ Cộng sản các nước đàn anh tiếp tục nghĩ ra khái niệm Quốc tế Cộng
sản nhằm thu về một mối. Đương nhiên là những lãnh tụ của các nước đàn
anh này phải có máu bành trướng và ôm mộng hoàng đế dưới lớp vỏ lãnh tụ
quốc tế, chuyên chính vô sản. Sự tan vỡ của khối Cộng sản Đông Âu là một
bước tiến của lịch sử, tuy nhiên, những mầm mống độc tài và ôm mộng
hoàng đế thế giới vẫn còn âm ỉ cháy trong các con cháu của họ.
Mãi cho đến khi Liên Xô đã là nước giải trừ chủ nghĩa Cộng sản thì
một tổng thống Nga với tiền nhân là bộ sậu Trung ương Cộng sản đã ngang
nhiên sáp nhập Ukraine vào lãnh thổ Nga mặc dù người dân nước này không
muốn thế. Và chưa dừng ở đó, những người Nga nuôi mộng bành trướng thế
giới tiếp tục vỗ tay cổ động cho một nước bành trướng khác là Trung Quốc
với luận điệu trước đây 2000 năm, Việt Nam vốn là của Trung Quốc.
Với vị thầy giáo này, chưa bao giờ Hà Nội trở nên nóng bức, ngột ngạt
như thời điểm hiện nay, bởi vì Hà Nội là trung tâm của chuyên chính vô
sản hiện đại và là một thủ đô có diện tích cũng như thân phận chính trị
quá nhỏ nhoi trong khối Cộng sản hiện đại. Không có gì đáng sợ hơn nếu
như suy nghĩ bệnh hoạn của một tay nhà báo Nga lại trở thành hiện thực,
Việt Nam trở thành thuộc địa của Trung Quốc. Điều đó chẳng khác nào nhốt
tù thập thể quốc dân Việt Nam.
Hơn bao giờ hết, Hà Nội cần một cơn mưa làm mát lòng người, cơn mưa của dân chủ và tiến bộ!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.http://www.rfa.org/vietnamese/reportfromvn/hnoi-abs-of-rains-05262014063704.html
NGUYỄN NGỌC GIÀ * CÔNG HÀM BÁN NƯỚC
Bí mật không thể bị mất
Một nửa ổ bánh mì là bánh mì, một nửa sự thật không phải là sự thật - tục ngữ Châu Âu.
Có vẻ cách đưa tin từ các trang báo "theo định hướng" tại Việt Nam
vẫn không thoát câu tục ngữ nói trên, khi họ vẫn không có đủ thông tin
để chỉ thẳng ra nguyên nhân đầu tiên mà từ đó ông Phạm Văn Đồng đặt bút
ký công hàm vào ngày14/9/1958 (?).
Phủ định sạch trơn?
Với tư cách Thủ tướng, ông Phạm Văn Đồng đang bị dư luận "mổ xẻ" khá
nhẹ nhàng: công hàm đó "không có giá trị pháp lý" [1] - ông Trần Duy
Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới, Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết
trong cuộc họp báo quốc tế ngày 23/5/2014.
Lần đầu tiên, nước CHXHCNVN cho thấy một "chế độ pháp trị" thật phũ
phàng: một viên chức nhà nước cấp trung đủ tư cách công khai trước báo
chí thế giới để bác bỏ ý kiến của Thủ tướng, mà vị Thủ tướng này đảm
nhận trọng trách, từ nước VNDCCH cho đến nước CHXHCNVN liên tục suốt 32
năm (1955 - 1987).
Ngoài ra, báo Lao Động cho biết "Trung Quốc cố tình viện dẫn sai công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng" [2].
Chỉ riêng cách, lúc thì gọi "công hàm", khi lại kêu "công thư" đủ cho
thấy truyền thông Việt Nam tiếp tục "tránh né chữ nghĩa" sao cho có vẻ
nhẹ nhất khi đề cập đến nó?
Rất tiếc, bút tích từ lịch sử của người CS đã gọi đích danh chữ "công
hàm", nó còn nguyên đó (trích): "Sáng ngày 21-9-1958, đồng chí Nguyễn
Khang, Đại Sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Trung Quốc, đã gặp đồng
chí Cơ Bàng-phi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung
hoa và đã chuyển bức công hàm..." (hết trích) [3]. Nghĩa là, sau 7 ngày khi ông PhạmVăn Đồng ký, công hàm đó được chuyển đến Trung Cộng.
Từ bút tích lịch sử, chúng ta cũng thấy ngày 4/9/1958, phía Trung
Cộng ra tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc bằng tiếng Hoa, sau đó có
bản dịch tiếng Anh và tiếng Việt, trong nói rõ [4] tại điểm 1 (trích):
Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải
lý. Điều lệnày áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Quốc bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài
khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả)
và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu[4.1], quần đảo Đông Sa [4.2], quần
đảo Tây Sa [4.3], quần đảo Trung Sa [4.4],quần đảo Nam Sa [4.3] và các
đảo khác thuộc Trung Quốc. (hết trích)
Có vẻ các quan chức Việt Nam cấp trung phớt lờ chứng cớ lịch sử nói
trên mà từ đó, nó lý giải nguyên nhân "khai sinh" ra "công hàm Phạm Văn
Đồng"? Hình như họ nghĩ cả thế giới không biết "tuyên bố" ngày 04/9/1958
là nguyên nhân khởi đầu cho "công hàm Phạm Văn Đồng"? Hình như họ đang
chú mục vào "quả" (nghĩa là "công hàm Phạm Văn Đồng") mà không đề cập
đến "nhân" (nghĩa là "tuyên bố 04/9/1958" củaTrung Cộng)?
Bán một mảnh đất sở hữu tư nhân cũng khiến chủ nhân phải tính toán
thật kỹ lưỡng trước khi quyết định. Dường như các chuyên gia trong cuộc
họp báo không quan tâm nguyên nhân vì sao chỉ cách có 10 ngày để từ đó
ông Phạm Văn Đồng, có vẻ hời hợt, nhanh nhảu với lời lẽ "êm ái" viết ra
"công hàm", gây ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng cho sự vẹn toàn lãnh thổ
Việt Nam, kéo dài cho đến ngày nay mà người dân đang lên án kịch liệt và
chỉ trích mạnh mẽ?
Hậu quả rất nghiêm trọng có thể tiếp tục xảy ra?
CHXHCNVN sẽ không "thua" Trung Cộng với cái công hàm đó, nếu như
không "thắng "VNCH vào ngày 30/4/1975 bằng việc vi phạm hầu hết nội dung
Hiệp định Paris 1973. Lịch sử không có chữ "nếu". Lịch sử thật nghiệt
ngã. Nhân-quả thật công bằng. Và số phận dân tộc Việt Nam thật cay đắng!
Người cộng sản vẫn mãi không nhận ra?
Lịch sử không phải "nửa ổ bánh mì". Lịch sử cũng không phải "cái sọt
rác" phi tang quá khứ (lời ông Dương Trung Quốc, một sử gia). Lịch sử
không phải nơi ẩn nấp, quanh co, đôi chối. Lịch sử cũng không phải là
"cuốntự truyện của kẻ chiến thắng" như ai đó đã nói.
Lịch sử nước nhà là quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển của
dân tộc, dù lúc thịnh khi suy. Lịch sử là khoa học. Không được bóp méo
lịch sử và chính trị hóa nó bằng các thủ đoạn lừa lọc, bởi như thế là
phỉ báng lịch sử - điều không một sử gia nào, không một quốc gia nào,
không một dân tộc nào có thể chấp nhận.
Lên tiếng về lịch sử với tư duy coi công hàm Phạm Văn Đồng là "nửa ổ
bánh mì "càng không giải quyết được bất cứ việc gì tốt đẹp hơn. Thay vào
đó, nó làm cho dòng họ con cháu ông Phạm Văn Đồng càng ê chề trước một
"cuộc đấu tố" kiểu mới với mọi trách nhiệm đổ trút cho cá nhân ông. Điều
cay đắng,"cuộc đấu tố" do chính "hậu bối" cộng sản gây ra. Đó chẳnglẽ
là cách mà người cộng sản "tưởng niệm" một người "đồng chí" nắm quyền
Thủ tướng lâu nhất tại Việt Nam (?)
Lên tiếng về lịch sử như thế là có tội với dân tộc Việt Nam cũng như
lừa dối dân tộc Trung Hoa. Lên tiếng về lịch sử như thế, các quốc gia
khác càng có đủ bằng chứng để không thể nào tin được sáo ngữ "Việt Nam
muốn làm bạn với thế giới".
Khi trả lời phỏng vấn nhà báo Gia Minh - RFA, bản thân người viết đã
đề ra một biện pháp ba điểm [5]: lịch sử, ngoại giao và pháp luật quốc
tế. Trong ba điểm này thì cái sau là hệ quả sinh ra từ cái trước. Thật
xấu hổ, khi tình hình nghiêm trọng như hiện nay mà "người ta" vẫn chưa
chịu trả lại sự thật cho lịch sử một cách khách quan, không thiên vị.
Chỉ có SỰ THẬT mới giải quyết rốt ráo mọi vấn đề.
Ai dám đảm bảo, sau khi công hàm 1958 bị phơi ra với hình ảnh "nửa ổ
bánh mì" như vậy trước toàn thế giới, một "cơn địa chấn" nào đó không
tiếp tục xuất hiện tựa như "trận bão tố cuồng điên" từ những nội dung
tuyệt mật của hội nghị Thành Đô? Có vẻ hội nghị mà từ đó ông Nguyễn Cơ
Thạch phải thốt lên "một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu",
dung chứ nội dung còn ghê gớm hơn gấp nhiều lần so với công hàm Phạm Văn
Đồng? Nếu việc này diễn ra, nước CHXHCNVN sẽ trả lời ra sao trước dân
tộc Việt Nam? Và còn biết bao lời đàm tiếu, thị phi cũng như đầy khuất
tất nghiêm trọng xoay quanh các ông cộng sản cấp cao, dù người mất,
người còn như: Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh v.v...
Có lẽ nhiều người vẫn chưa quên Trung Cộng sỉ nhục lăng ông Hồ Chí
Minh tựa như nhà xí thời La Mã. Đó là hậu quả chua chát cho thảm
nạn"sùng bái cá nhân" mà nhiều người vẫn bưng tai không chấp nhận.
Những cái bẫy?
Ông Hoàng Việt - thạc sĩ Luật trả lời báo chí về vụ giàn khoan HD-981 [6]: "Tôi
vẫn hy vọng Trung Quốc sẽ kéo giàn khoan trở lại đảo Tri Tôn hoặc ra
ngoài vùngđặc quyền kinh tế của Việt Nam. Nhưng để Trung Quốc rút giàn
khoan không phảilà điều dễ dàng".
Điều dễ nhận ra, đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa. Ông Hoàng Việt "hy vọng Trung Quốc sẽ kéo giàn khoan trở lại đảo Tri Tôn hoặc ra ngoài vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam" đồng nghĩa coi Hoàng Sa không còn của ViệtNam? Một nhận định có vẻ thiếu chín chắn và đầy nét phấp phỏng của một luật sưcó nghiên cứu về biển Đông?
Điều dễ nhận ra, đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa. Ông Hoàng Việt "hy vọng Trung Quốc sẽ kéo giàn khoan trở lại đảo Tri Tôn hoặc ra ngoài vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam" đồng nghĩa coi Hoàng Sa không còn của ViệtNam? Một nhận định có vẻ thiếu chín chắn và đầy nét phấp phỏng của một luật sưcó nghiên cứu về biển Đông?
"Phản khách vi chủ" ( của Tôn Tử) nghĩa là đổi địa vị khách thành địa
vị chủ. Kế sách này cần luôn ở thế chủ động trong bất kỳ cuộc đấu tranh
nào, bởi có chủ động mới khống chế được cục diện. Hoàng Sa là của Việt
Nam. Chủ nhân là dân tộc Việt Nam. Trong khi đó, ý kiến ông Hoàng Việt
dường như chấp nhận tính bị động và ở vào thế "khách" mất rồi. Dường như
ông Hoàng Việt có tư tưởng "mọi việc đã rồi" đối với Hoàng Sa? Đó là tư
tưởng chủ bại rất tai hại trong tình hình hiện nay.
Ông Nguyễn Quang A - Tiến sĩ kinh tế, trả lời phỏng vấn RFA [7]:
"Ở đây Chính phủ Việt Nam và các chuyên gia ở Việt Nam hiểu rất rõ ràng,
đây không phải là kiện về vấn đề chủ quyền. Bởi vì khi kiện về vấn đề
chủ quyền thì hai bên kiện tụng đều phải công nhận quyền phán quyết của
tòa án đó. Như thế đơn phương kiện thì không ai người ta giải quyết cả
và ở đây không đặt vấn đề kiện về chủ quyền mà kiện cụ thể là Trung Quốc
đã đặt đã cắm cái giàn khoan ấy trong vùng của ViệtNam và tòa sẽ không
phán vùng ấy thuộc về Việt Nam hay Trung Quốc. Nhưng chắc chắn tòa sẽ phán nó thuộc vùng tranh chấp...”. Nội dung này đã mắc vào bẫy của kế sách "Vô trung sinh hữu".
Kế sách này có nghĩa: từ không mà tạo thành có. Rõ ràng, nơi
Trung Cộng cắm giàn khoan cách đảo Tri Tôn trong khoảng 17 - 18 hải lý
(tạm giả thuyết công nhận đảo Tri Tôn - Hoàng Sa đã thuộc về Trung Cộng
như suy nghĩ chủ bại và bị động của ông Hoàng Việt), nghĩa là từ Tri
Tôn, Trung Cộng cùng lắm chỉ được"làm chủ" 12 hải lý (như họ tuyên bố).
Trong khi đó, Trung Cộng đã "vươn ra" thêm 5 - 6 hải lý. Do đó, lý luận
của ông Nguyễn Quang A không chỉ nguy hiểm về mặt đấu tranh ngoại giao,
pháp lý quốc tế mà còn vô hình chung chấp nhận vùng đặt giàn khoan
HD-981 là "vùng có tranh chấp"giữa đôi bên. Đây là một lý lẽ rất nguy hại, cần phải gạt bỏ ngay lập tức.
Có lẽ Trung Cộng đang hí hửng với việc kiện này một khi nó xảy ra?
Kết
Tất cả những quan chức Việt Nam xuất hiện trong cuộc họp báo không
phải là những người có trách nhiệm cao nhất mang tầm quốc gia của nước
CHXHCNVN hiện nay.
Do đó, những ý kiến của họ hay của các ông thạc sĩ, tiến sĩ như Hoàng
Việt, Nguyễn Quang A, đều chỉ có giá trị tham khảo và không thuyết phục
cũng như đầy mâu thuẫn, guy hiểm trong việc bảo vệ chủ quyền Việt Nam.
Có lẽ người dân Việt Nam trong và ngoài nước cũng như các quốc gia
khác đang nghĩ về những tuyên bố cao nhất và hành động cẩn trọng nhất,
sao cho đảm bảo đúng tính chất: "Nhân danh nước..." trong những ngày sắp
tới, đối với công hàm đầy tai tiếng, đối với lịch sử Việt Nam trung
thực, cũng như giàn khoan HD-981 - biểu hiện xâm lăng chủ quyền của Việt
Nam trắng trợn nhất từ saukhi đảo Gạc Ma bị cướp đoạt cách đây 26 năm?
Những ai, những tổ chức nào đủ tư cách, đủ uy tín để đứng ra thay mặt
toàn dânViệt Nam chu toàn mọi việc trước sự xâm lược ngày càng nghiêm
trọng và ngạo nghễ từ Trung Cộng?
Nguyễn Ngọc Già, Việt Nam 26/05/2014
Nguyễn Ngọc Già, Việt Nam 26/05/2014
*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/thoisu-052714-nngia-05272014132705.html
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/thoisu-052714-nngia-05272014132705.html
TƯỞNG NĂNG TIẾN * THỦ TƯỚNG
Phía sau ông Thủ Tướng có ai?
Tưởng Năng Tiến (Danlambao) - Tuyên
bố đúng lúc, ngang tâm nguyên thủ (e) chưa đủ đâu. Dân Việt ở
cả ba miền, cũng như miền ngược - hiện nay - đều đã thuộc nằm
lòng: Đừng tin những gì cộng sản nói hãy nhìn kỹ những gì
cộng sản làm. Yêu cầu ông Dũng thử làm vài việc trong tầm tay,
và ngay trước mắt coi: Nếu không thể phóng thích tất cả
những tù nhân lương tâm tức khắc, và cùng lúc, ít nhất hãy
trả tự do cùng với lời xin lỗi cho hai người tù Nguyễn Văn Hải
và Tạ Phong Tần. Họ không có tội gì ngoài tội thấy sớm hơn các ông cái thứ “ngoại viển vông” Hoa-Việt...
*
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: "Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới".
Câu nói nghe tuy hơi cường điệu (và cũng có phần hợm hĩnh) nhưng sự
hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền
tác quyền hậu hĩ dành cho hai tác giả này, chắc chắn, vượt rất xa
rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời.
Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng điệp viên James Bond vẫn 007
sống mãi trong sự nghiệp của... giới làm phim và trong... lòng khán
giả. Tương tự, nhiều nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ
tiếp tục là những "chiếc bóng đậm màu" trong tâm tư của vô số người
Việt, kể cả giới lãnh đạo cộng sản hiện nay. Ngôn ngữ hàng
ngày của họ (nghe) có “mùi” tiểu thuyết Kim Dung thấy rõ:
- Sau nửa tháng im lặng, ngày16 tháng 5 năm 2014: “Trong
cuộc gặp cử tri Sài Gòn... ông Sang nhìn nhận Việt Nam đang trong giai
đoạn khó khăn, cần phải bình tĩnh, có bình tĩnh mới sáng suốt. Bên cạnh
sự cương quyết phải hết sức kiên nhẫn, song không ‘thay đổi mục tiêu’ là
bảo vệ chủ quyền quốc gia, đồng thời chăm lo phát triển kinh tế, nâng
cao nội lực quốc gia.”
- Trước đó không lâu, T.T Nguyễn Tấn Dũng cũng kêu gọi “phải phát huy nội lực để tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài hay “phát huy nội lực để đồng bằng sông Cửu Long phát triển nhanh và bền vững.”
Và người vận dụng nội lục đều đều là TBT Nguyễn Phú Trọng:
- Hôm 11 tháng 7 năm 2013, ông khuyến cáo nhân dân Hải Phòng “cần phát huy nội lực để phát triển.”
- Qua ngày 21 tháng 8 năm 2013, ông chỉ thị nhân dân Bắc Giang cũng “phải phát huy nội lực địa phương để vươn lên phát triển, không thua kém các tỉnh bạn.”
- Bữa 18 tháng 3 năm 2014 vừa rồi, trong chuyến đi công tác miền Trung, TBT lại nhắc nhở giới công nhân địa phương “tiếp tục phát huy truyền thông thi đua lao động sản xuất và tích cực... phát huy nội lực.”
Người tiền nhiệm của Nguyễn Phú Trọng - bác Lê Khả Phiêu - cũng hễ mở miệng ra là đòi... “phát huy nội lực” liền liền. Ông còn giải thích (một cách văn hoa) rằng đó là "sức
mạnh văn hóa của dân tộc Việt Nam, đạo đức trí tuệ Việt Nam... để chúng
ta vượt mọi khó khăn trong những thời điểm gian nguy nhất..." - khi trả lời phỏng vấn của báo Sài Gòn Giải Phóng, số ra ngày 16 tháng 6 năm 2000.
Dù nghe có hơi kiếm hiệp, kêu gọi dân chúng “phát huy nội lực” -
nói nào ngay - là chuyện phải làm khi hữu sự. Ðiều đáng phàn nàn là
giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam rất hiếu sự nên đất nước “hữu
sự” hoài hoài. Kể từ khi giành được quyền bính đến nay, họ luôn luôn
tìm mọi cách để đưa dân tộc này vào những hoàn cảnh “khó khăn” hay
những “thời điểm gian nguy.” Nếu không phải đấu tố lẫn nhau cho
đến chết thì người dân cũng bị nhà nước Việt Nam lôi kéo, lê
lết hết từ trận chiến này qua trận chiến khác. Không tử thương
thì cũng bị thương vô số kể.
Thôi tạm gác lại chuyện đã cũ đi, và chỉ nhìn lại vài những
sự kiện nho nhỏ vừa mới xẩy ra - trong thời gian cầm quyền của
bộ ba Sang, Trọng, Dũng mà coi:
- Khi kêu gọi người dân Hải Phòng “cần phải phát huy nội lực để phát triển,”
họ quên bẵng đi rằng sau vụ cầm tù anh em Đoàn Văn Vươn (cùng
với chuyện thăng tướng của ông đại tá Đỗ Hữu Ca) người dân nơi
đây đã gần tiêu ma nội lực, và đã mất ráo niềm tin vào chính
quyền - từ địa phương tới trung ương - rồi.
- Nếu biết qua về mức sống khốn cùng ở Bắc Giang, chắc chắn,
họ cũng sẽ không đủ mặt dầy mày dạn kêu gọi người dân miền
núi “phát huy nội lực để vươn lên” đâu.
- Hãy nhìn qua hình ảnh một góc chợ ở địa phương này, qua ghi nhận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: “Người
ta nói, đi qua một khu chợ sẽ biết đời sống của cư dân ở đó. Mình tin
điều đó. Và nhìn món hàng bày trước mặt những người phụ nữ vùng cao,
mình hình dung được nồi cơm, căn bếp, cuộc đời... ”
Ảnh: Nguyễn Ngọc Tư
Hình ảnh vài “bó củi co ro,” hay “nụm nịu hai ba nải chuối,”
và “lèo tèo mấy bó rau xanh” - ở một phiên chợ ở Bắc Giang -
chỉ khiến cho tôi muốn rơi nước mắt, và không thể nghĩ đến
chuyện họ có thể “phát huy nội lực để vươn lên.” Vươn lên gì
nổi, mấy cha? Tôi cũng không tin rằng giới công nhân Việt Nam còn
có nội lực để phát huy sau những ngày làm việc tăng ca (liên
tục) mà đồng lương chưa chắc đã đủ mua một cái bánh kẹp thịt
ở cửa tiệm McDonalds.
Vắt cạn kiệt sức dân, đẩy trăm họ tới mức khốn cùng rồi vẫn
thản nhiên kêu gọi vận dụng “nội lực” của mọi người khi đất
nước lâm nguy chắc (chắn) không phải là điều khôn ngoan, nếu chưa
muốn nói là bất nhẫn. Bởi vậy, khác với nhà báo Huy Đức, tôi không "bảo đảm" là dân chúng sẽ đứng sau giới lãnh đạo Việt Nam trong tình cảnh hiện nay:
“Giàn khoan 981 xuất hiện trước thềm Hội nghị ASEAN ở Myanmar và Diễn
đàn kinh tế Manila như một trái banh được đặt vào chân Thủ tướng khi
ông đang ở gần khung thành nhất. Những tuyên bố đúng lúc, ngang tầm
nguyên thủ, đã khiến ông trở thành một người hùng. Thưa Thủ tướng, ông
đã cùng bước, cùng dùng một ngôn ngữ sục sôi với người dân Việt Nam. Ông
đã đi một đoạn đường khá xa. Đừng quay lại vì phía sau là dân chúng.”
Huy Đức, có thể, vì may mắn chưa thấy quan tài nên chưa đổ lệ.
Người Việt, thuộc những thế hệ trước ông (hẳn) không mấy ai
lạc quan như vậy. Trong cuốn Hồi Ký Vi Đức Hồi, tác giả đã nhắc đi nhắc lại (đến chục lần) rằng “Đảng luôn luôn nói một đằng,làm một nẻo.” Có gì bảo đảm là ông TT sẽ không tiếp tục cái “chiến thuật” cố hữu và vô liêm sỉ này của Đảng?
Không đánh đổi chủ quyền lấy ngoại giao viển vông.
Tuyên bố đúng lúc, ngang tâm nguyên thủ (e) chưa đủ đâu. Dân Việt
ở cả ba miền, cũng như miền ngược - hiện nay - đều đã thuộc
nằm lòng: Đừng tin những gì cộng sản nói hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm. Yêu cầu ông Dũng thử làm vài việc trong tầm tay, và ngay trước mắt coi:
- Nếu không thể phóng thích tất cả những tù nhân lương tâm tức
khắc, và cùng lúc, ít nhất hãy trả tự do cùng với lời xin
lỗi cho hai người tù Nguyễn Văn Hải và Tạ Phong Tần. Họ không
có tội gì ngoài tội thấy sớm hơn các ông cái thứ “ngoại viển
vông” Hoa-Việt.
- Ngưng ngay cái chủ trương lớn (và ngu) của Đảng về chuyện khai thác bauxite Tây Nguyên.
- Trả lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân, quyền tự do ngôn
luận cho những người cầm bút, và quyền thành lập công đoàn
cho công nhân. Đến đón Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc
Hùng, Đoàn Huy Chương tại cửa nhà tù để ôm xin họ tha lỗi.
Cùng lúc, cũng phải công khai về chuyện “mất tích” của Lê Trí
Tuệ (Phó Chủ Tịch Công Đoàn Độc Lập Việt Nam) người đã bị “bắt
cóc” ở Cambodia vào từ hôm 16 tháng 5 năm 2007.
- Trả lại tài sản và quyền tự do tín ngưỡng cho tất cả những giáo hội và giáo phái.
- Xin làm hòa với người Việt nước ngoài bằng cách xin phép xây
lại Bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân ở Mã Lai và Nam Dương. Vứt cái
Nghị Quyết rẻ tiền 36 vào thùng rác, đuổi việc những nhân viên
ngoại giao lấc xấc và lấc cấc như Nguyễn Thanh Sơn đi cho thiên
hạ đỡ bực mình.
- Nếu chưa có thể công bố thời điểm chính xác để huỷ bỏ điều
bốn hiến pháp và tổ chức tổng tuyển cử tự do vào lúc này
thì ít nhất cũng phải ngưng ngay cái cung cách cầm quyền như
một đạo quân chiếm đóng như hiện nay, để người dân toàn quyền
tự do làm những gì mà luật pháp không cấm, và trừng phạt
nghiêm khắc mọi hành vi lộng quyền hay lạm quyền của viên chức
các cấp.
Những điều trên trước sau gì cù̃ng phải được thực hiện ở Việt
Nam thôi nhưng nếu không làm ngay hôm nay thì trước mặt ông T.T.
là kẻ thù, và sau lưng sẽ chả có ai đâu. Hai bên cũng không có
bạn bè đồng minh nào ráo. Nhân loại văn minh tiến bộ giờ đây
không ai muốn làm bạn với những kẻ độc ác, trí trá, giáo dở
lươn lẹo, ngu (lâu) và ngoan cố. Hãy chứng tỏ thiện chí và nỗ
lực muốn thoát cộng đi thì mới có hy vọng thoát Tầu. Nếu
không là đi tầu suốt.
KÍNH HÒA * HỆ THỐNG ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
Hệ thống song trùng Đảng - Nhà nước VN
Hệ thống song trùng Đảng- Nhà nước là một hệ thống rất đặc biệt trong
các quốc gia có thể chế cộng sản. Trong hệ thống này cứ mỗi một vị trí
hành pháp là có một người đương nhiệm bên phía đảng cộng sản cầm quyền.
Đặc biệt hơn nữa là người của bên phía hành pháp cũng là đảng viên
đảng cộng sản. Ví dụ như tương đương với vị trí Bộ trưởng bộ ngoại giao
sẽ có một vị là Trưởng ban đối ngoại trung ương của đảng cộng sản. Những
người cộng sản gọi hệ thống này là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý.
Có thể là trong các quốc gia có nhiều đảng phái thì trong các đảng
phái ấy sẽ có những người theo dõi các công việc của hành pháp để từ đó
đưa ra chính sách của đảng mình trong công cuộc cạnh tranh chính trị.
Nhưng ở các quốc gia cộng sản, các đảng cộng sản nắm quyền tuyệt đối,
không phải cạnh tranh với ai, nhưng hệ thống song trùng Đảng - Chính phủ
cứ tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử cộng sản của các quốc gia này.
Trong lịch sử cầm quyền của đảng cộng sản Việt nam, cho mãi đến những
năm 80 của thế kỷ 20, hệ thống song trùng vẫn tồn tại, nhưng chỉ về mặt
hình thức vì quyền lực tuyệt đối lần lượt nằm trong tay các ông Hồ Chí
Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, và Nguyễn Văn Linh dù chức vụ của các ông
này có thể khác nhau. Sau cái chết của ông Linh, người ta không thấy
quyền hành tập trung vào một người nữa mà thường có sự xuất hiện một
cách song song, một người bên đảng và một người bên chính phủ. Nếu bên
chính phủ có lần lượt các ông Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, và bây giờ là
Thủ tướng đương nhiệm Nguyễn Tấn Dũng thì bên kia cũng lần lượt là các
ông Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và bây giờ là Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng.
Trống đánh xuôi kèn thổi ngược
Ở những tầng mức thấp của hệ thống quyền lực, đã có lúc truyền thông
của nhà nước Việt Nam từng nói đến sự dẫm chân nhau của hệ thống song
trùng này, cụ thể là các công việc thường nhật của các vị chủ tịch hành
chính và bí thư đảng ở cấp tỉnh và huyện.
Những sự khác biệt đảng-chính phủ thấy rõ nhất là trong các quan hệ
đối ngoại. Chuyện đầu tiên xảy ra vào năm 2000 trong chuyến viếng thăm
Việt Nam của Tổng thống Hoa kỳ Bill Clinton. Trong lúc bên hành pháp của
thủ tướng Phan Văn Khải tất bật hoan nghênh kẻ thù cũ, thì ông tổng bí
thư lúc đó là Lê Khả Phiêu lên tiếng chỉ trích nặng nề người bạn mới
trong một cuộc gặp gỡ mặt đối mặt.
Sự khác biệt trong đối ngoại thấy rõ nhất trong mối quan hệ với với
Trung Quốc. Cứ mỗi lần có xung đột gì đó giữa hai quốc gia thì bên cơ
quan ngoại giao của chính phủ lên tiếng chỉ trích, trong khi bên cơ quan
đảng cộng sản vẫn là những câu chữ ca ngợi tình hữu nghị như 16 chữ
vàng, bốn tốt.
Bình luận về vai trò của Bộ ngoại giao, trong một lần trao đổi với
chúng tôi, Tiến sĩ Vũ Tường, một
người quan sát chính trị Việt Nam từ
đại học Oregon, Hoa Kỳ nói rằng:
Bộ trưởng Ngoại giao VN Phạm Bình Minh tham dự cuộc họp các bộ trưởng ngoại giao ASEAN tại Thái Lan tháng 8/2013. AFP photo
Đó là đặc biệt ở Việt Nam, nó do các cơ chế chính trị của Việt Nam
thực ra là từ xưa đến nay các chính sách ngọai giao lớn đều do Bộ chính
trị và ban bí thư quyết định, ngay từ thời ông Lê Duẩn đã vậy. Sau này
nó vẫn như thế, chỉ có trong một thời gian ngắn ông Nguyễn Cơ Thạch đóng
một vai trò đặc biệt làm nổi lên vai trò của Bộ ngoại giao vào thời kỳ
bắt đầu đổi mới, nhưng sau đó thì không có ai. Tức là Bộ ngoại giao đóng
vai trò làm theo những quyết định chiến lược của Bộ chính trị. Trong Bộ
chính trị thì Tổng bí thư, hay trưởng ban đối ngoại trung ương, trong
một tình huống nào đó có thể đóng vai trò quan trọng hơn Bộ trưởng Bộ
ngoại giao.
Sự lấn lướt này của quyền lực đảng trong hệ thống song trùng đối với
những vấn đề ngoại giao càng rõ hơn trong bối cảnh thế giới chỉ còn có
vài đảng cộng sản cầm quyền. Trong bối cảnh đó có vẻ như đảng cộng sản
Việt Nam đặt tầm quan trọng rất cao mối quan hệ giữa họ và đảng cộng sản
TQ.
Trớ trêu thay, đảng cộng sản TQ lại đang lãnh đạo một quốc gia hay
thể hiện sức mạnh cơ bắp với những nước láng giềng nhỏ hơn trong thời
gian gần đây. Đối với trường hợp Việt Nam thì quan hệ lịch sử với TQ lại
còn có cả chiều dài lịch sử phức tạp hàng nghìn năm. Đứng trước thực tế
không muốn làm phật lòng một đảng cộng sản lớn hơn, những động thái đối
ngoại của đảng cộng sản Việt Nam chịu nhiều chỉ trích. Ông Hà Sĩ Phu,
một trí thức bất đồng chính kiến, đồng thời đã sống và làm việc nhiều
năm ở Đông Âu cộng sản nói với chúng tôi:
“TQ phải giữ Việt Nam ở chế độ cộng sản, vì chỉ có ở chế độ cộng
sản thì mới có cái kiểu hai đảng làm việc với nhau, nhượng bộ quyền lợi
với nhau, còn nhân dân thì chẳng có vai trò gì.”
Chuyện làm việc với nhau giữa hai đảng cộng sản trong cuộc khủng
hoảng biển Đông vào thời điểm tháng 5/2014 có vẻ không được xuôi chèo
mát mái lắm khi nhiều cơ quan truyền thông đưa tin rằng ông Nguyễn Phú
Trọng tổng bí thư đảng cộng sản VN bị từ chối lời đề nghị gặp mặt của
ông để giải quyết cuộc khủng hoảng.
Về mặt chính thức, khi TQ bắt đầu kéo dàn khoan nước sâu vào vùng đặc
quyền kinh tế Việt Nam, người đứng đầu đảng cộng sản Việt nam và các cơ
quan truyền thông của nó không có một tuyên bố nào. Hai tuần lễ sau đó
trang thông tin điện tử của đảng cộng sản VN mới đăng bài chỉ trích TQ,
còn ông Nguyễn Phú Trọng vẫn không nói gì. Trong khi đó bên hành pháp
của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng liên tục đưa ra những chỉ trích mạnh mẽ,
mà đỉnh cao là lời tuyên bố của ông tại Manila rằng hành động của TQ vi
phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế.
Sự xung đột phe phái
Sự xung đột bên trong hệ thống song trùng đảng – chính phủ được cho
là lên rất cao khi hồi năm 2013, một hội nghị trung ương đảng đã không
kỷ luật được ông Dũng vì những tệ hại của nền kinh tế quốc gia. Nay
trong cuộc xung đột với TQ, dường như một lần nữa sự xung đột ấy lại lên
cao. Ngay sau khi cuộc khủng hoảng giàn khoan bùng nổ, Tiến sĩ Vũ Tường
có nhận định rằng sự lấn lướt của TQ có thể làm phe của ông Nguyễn Tấn
Dũng mạnh lên.
Tuy nhiên cũng theo Tiến sĩ Tường thì những người lãnh đạo công an và
quân đội Việt Nam có khuynh hướng nghiêng về phe của đảng hơn.
Và trong cuộc khủng hoảng đang xảy ra, người ta thấy rằng Đại tướng
Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ quốc phòng có nói với người đồng nhiệm
Trung Quốc rằng Việt nam vẫn tìm cách giải quyết vấn đề một cách hữu
nghị, không sử dụng quân đội, dù rằng ông Bộ trưởng quốc phòng TQ vượt
qua cả sự tế nhị
ngoại giao mà công kích gay gắt rằng Việt Nam là một quốc gia gây sự trong cuộc gặp đôi bên.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng (giữa) cùng các thành viên trong đoàn
tại nơi diễn ra lễ bế mạc hội nghị thượng đỉnh ASEAN 24 tại Myanmar hôm
11/5/2014. AFP photo
ngoại giao mà công kích gay gắt rằng Việt Nam là một quốc gia gây sự trong cuộc gặp đôi bên.
Trong hoàn cảnh một nền chính trị không công khai, những tuyên bố
trái khoáy giữa những người của đảng và của chính phủ, mà lại cũng là
của đảng, càng tăng thêm sự đồn đoán về sự xung đột phe phái. Điều này
thấy rõ nhất trong cuộc bạo loạn Bình Dương-Vũng Áng với sự chậm trễ của
công an, sự can thiệp của quân đội…
Nhưng điều mà mọi người có thể thấy rõ nhất trong gần một tháng qua
là sự leo thang xung đột Việt Trung, người chết và nhà xưởng bị đốt
cháy,…
Hệ thống song trùng đảng chính phủ đương đầu thế nào với thách thức
mới trong những ngày sắp tới? Liệu họ sẽ đồng thuận chống lại đe dọa của
nước ngoài? Hay họ thu xếp để trở về nguyên trạng với sự phân công đảng
lo hữu nghị, còn chính phủ lo phản đối, trong bối cảnh cuộc xung đột
với nước cộng sản anh em lắng dịu? Hay đi xa hơn là không còn hệ thống
song trùng nữa?
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/bicephalou-system-party-state-kh-05272014115801.html
SƠN TRUNG * SỰ IM LẶNG TRƯỚC CƠN BÃO
SỰ IM LẶNG TRƯỚC CƠN BÃO
SƠN TRUNG
Trong bao nhiêu năm nay, Việt Nam luôn náo động về các cuộc biểu tình. Có hai mục tiêu lớn nhất của nhân dân là biểu tình chống Trung Cộng xâm lược và biểu tình chống Cộng sản cướp đất, cướp nhà. Dù chỉ có hai, ba chục người, dân ta cũng biểu tình chống cộng sản và họ đã bị cộng sản đánh đập tàn nhẫn và bỏ tù. Có những người biểu tình đã bị công an đánh chết. Đối với các quốc gia khác, công an không đàn áp các cuộc biểu tình bất bạo động, và công an đánh chết dân ngoài đường, hoặc trong trụ sở công an hay trong nhà tù đều bị pháp luật xét xử nhưng tại Việt Nam công an và côn đồ là một, công an mặc sức làm điêu ác, pháp luật không can thiệp. Điều này là hiển nhiên vì từ thời Lenin, cộng sản thi hành chuyên chính vô sản bằng mọi thủ đoạn và quyền hạn không hạn chế bởi pháp luật.
Cộng sản thường nêu cao khẩu hiệu vì dân cho dân, phục vụ nhân dân, tranh đấu cho quyền lợi đa số, cho vô sản, nhưng tất cả chỉ là nói láo. Họ không làm gì ich lợi cho nhân dân mà còn tàn sát nhân dân, phá hoại đât nước. Chế độ quân chủ còn tôn trọng nhân dân chứ không tàn ác, giả dối như cái dân chủ giả cầy của cộng sản. Cụ Nguyễn Sinh Sắc- bố của bác Cáo- uống rưọu say sai lính đánh chết người nên bị cách chức. "Đồng chí " Mai Chí Thọ hồi chỉ là một anh trương tuần đã cậy uy quyền đánh chết người. Quan phủ sai lính truy nã, khiến đ/c phải bỏ làng xóm theo cộng sản. Nay thì cộng sản tha hồ đánh giết nhân dân!
Chủ nhật 18-5, công an đã đàn áp dã man.Đàn áp biểu tình là chuyện thông thường tại Việt nam. Nhưng cuộc biểu tình ngày 18-5 là ở trong tình thế đặc biệt do Trung cộng trắng trợn đem giàn khoan 981 vào lãnh hải Việt Nam. Dù bao lâu nhẫn nhục, nay thì các yếu nhân Mỹ đến Việt Nam và hội nghị ASEAN tại Miến Điện gần kề, không thể im lặng nhục nhã để cho thế giới cười chê, Phạm Bình Minh họp báo rụt rè báo cáo với thế giới việc giàn khoan Trung cộng tiến vào lãnh hải Việt Nam. Nguyễn Tấn Dũng ngày 15-5. kêu gọi bảo vệ tổ quốc ; nhưng sau đó lại y kêu gọi đừng biểu tình. Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang kêu gọi “bình tĩnh và đoàn kết” , và y cũng nói biểu tình là quyền thiêng liêng của người dân. Ngày 17-5, Trung Quốc đòi Việt Nam dẹp biểu tình ngày 18-5-2014. Tuân lệnh Trung cộng, Việt cộng dẹp biểu tình 18-5.
Như vậy là bọn cộng sản vẫn hành động tráo trở, nói năng tiền hậu bất nhất theo phong thái bọn lưu manh đầu đường xó chợ. Cái hăng hái yêu nước chống Trung quốc là xạo, là không chắc chắn. Nếu ngày mai, Trung Cộng hạ lệnh bắt đầu hàng thì bọn Trọng Dũng, Sang, Hùng cũng tuân lệnh mà đầu hàng.
Nếu tình thế khó khăn, tại sao không giải thích? Tuyên truyền, lý luận là nghề của chàng sao nay lại câm miệng hến? Cổ nhân nói :"danh bất chính, ngôn bất thuận, ngôn bất thuận, sự bất thành ". Hành động và ngôn ngữ của cộng sản bán nước là không đúng với chủ nghĩa yêu nuớc. Việc khủng bố, đàn áp nhân dân là không thuận với mục đích phục vụ nhân dân của danh từ công an nhân dân, quân đội nhân dân. Việc cướp bóc tài sản quốc gia và nhân dân là trái với lý tưởng cộng sản san bằng bất công xã hội, chống bóc lột. Nói và làm khác nhau, danh nghĩa trái với thực tế cho nên cuối cùng cộng sản sẽ thất bại. Chính nhân dân là kẻ đào mồ chôn cộng sản.
Cộng sản quen dối trá, che đậy nay trong hoàn cảnh này cũng vẫn che đậy, giấu diếm, dối trá. Thái độ đó chỉ làm cho nhân dân căm thù. Gương thất nhân tâm của Hồ Quý Ly còn đó, nhưng Việt cộng quen đàn áp, khủng bố và tàn sát không thể thay đổi được. Và như vậy, những lời tuyên bố trước ASEAN, với ngoại trưởng Mỹ, phải chăng cũng dối trá ?
Ngoại trưởng Mỹ mời Việt Nam ngày 21-5, nay gần một tuần lễ mà Phạm Bình Minh chưa đi. Còn trở ngại gì, còn toan tính gì? Ta khó tin lòng dạ bọn lưu manh gian dối, lương gạt. Phải chờ khi đến Mỹ, Phạm Bình Minh ký kết những gì và về Việt Nam y làm những gì. Và chúng ta cũng chờ thời gian nữa, bọn Việt Công các phe sẽ làm gì. Chúng ta cũng chờ xem khi Trung quốc tấn công, bọn họ sẽ chiến đấu hay đầu hàng dù rằng hiện nay có những kẻ tuyên bố rất hăng. Năm 1975, chúng ta đã thấy những tấn bi hài kịch của những kẻ đầu hàng, ninh hót, tráo trở.. Sắp tới, quân Trung Cộng tấn công, chúng ta cũng sẽ thấy những trò khỉ của bọn lưu manh, hèn nhát, bất nhân, bất nghĩa.
Bản chất tráo trở và hèn hạ của Việt cộng đã làm thế giới khinh bỉ. Cuộc họp ASEAN tại Miến địện ngày 19-5, ASEAN đã không nhiệt liệt ủng hộ cộng sản bởi vì trước đây, khi các nước lên tiếng tố Trung cộng thì bọn Cộng sản Việt Nam hèn hạ cúi mặt làm thinh vì sợ Trung Quốc.
Tuy biết rõ bộ mặt và tâm địa gian manh của Việt cộng, ngoại trưởng Mỹ và Tổng thư ký ASEAN đã lên tiếng bênh vực Việt nam vì họ nghĩ đến quyền lợi chung, và bản tâm họ là những người nhân hậu và lịch sự. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, Việt cộng phải chứng tỏ chút lòng thành mới được quốc tế tín nhiệm. Còn hiện nay, nhân dân ta và thế giới đều không tin tưởng con người Việt cộng.
Phạm Bình Minh muốn liên minh với Mỹ nhưng Nguyễn Chí Vịnh tuyên bố Việt Nam không kết liên minh với nước nào, không cho nước nào đóng quân, như vậy thì làm sao liên minh với Mỹ? Không liên minh với ai thì càng dễ cho Trung Cộng xâm chiếm Việt Nam. Bộ chính trị Việt Cộng theo Phạm Bình Minh hay theo Nguyễn Chí Vịnh ? Rốt cuộc phe nào thắng ? Bọn họ dám chống Trung cộng không? Được Trung Cộng tín nhiệm, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Chí Vịnh sẽ hành động ra sao để phục vụ quyền lợi của chúng và của Trung Cộng ?
Muốn chống Trung Cộng thì chính quyền phải được nhân dân ủng hộ. Hãy từ bỏ chủ nghĩa cộng sản độc tài, tàn bạo và phản khoa học, phải thực thi dân chủ, trả lại nhân quyền và dân quyền cho nhân dân. Trong lúc này nhân dân ta cần một cuộc giải phẩu hoàn chỉnh để loại bỏ khối ung thư trong cơ thể Việt nam bênh hoạn. Đừng nghĩ rằng nhân từ là không loại bỏ vi trùng và sán lãi trong thân thể ta. Đừng nghĩ đoàn kết là liên minh với bọn tay sai Trung cộng. Đừng giả danh nhân từ. Nếu các anh là cộng sản, bàn tay đã nhuốm máu đồng bào, thì mở miệng nói nhân nghĩa là giả dối. Nếu anh là tay sai cộng sản, các anh phục vụ kẻ gian ác, cái nhân nghĩa của anh cũng chỉ là bề ngoài xảo quyệt. Dù bản tâm các anh muốn hòa hợp với bọn thân Trung cộng, chưa chắc họ đã chịu vì họ phải tuân lệnh chủ, và họ cũng có giòng máu cộng sản như anh, nghĩa là hiếu sát và gian xảo.
Theo Trung Cộng thì sớm muộn cũng bị Trung Cộng tàn sát và bánh xe lịch sử sẽ nghiến nát. Ai đứng về phía nhân dân thì sẽ tồn tại. Cuộc chiến tranh xâm lược sẽ khó tránh được. Lúc đó nhân dân ta sẽ đứng lên chống Việt cộng bán nước và Trung cộng xâm lược để xây dựng một nước Việt nam độc lập , dân chủ và cường thịnh.
Chủ nhật 25-5 là một chủ nhật im lặng. Đây là một sự im lặng có ý nghĩa. Đó là sự im lặng, không gió, không mưa, không khí ngột ngạt, mây như dừng lại, mặt trời như có như không. Bỗng nhiên, mây đen kéo tới, sấm sét ầm ầm, bão kéo tới. Mưa đổ ào ào, gió thổi đổ cây, làm sập nhà cửa.. . Sự im lặng ngày chủ nhật 25-5 là một sự im lặng báo hiệu một cơn bão lớn sắp tới.
Trung cộng đã vẽ bản đồ lưỡi bò và tuyên bố hầu hết Biển Đông là đất đai của họ. Họ nói rõ Hoàng Sa, Trường Sa, Scarborough, Điếu Ngư là của họ. Nếu họ lấy được các đảo này, cứ từ các đảo này tính ra 12 hải lý là đất liền của họ. Việc cãi cọ, kiện tụng chỉ là bước đầu của kẻ yếu, rốt cuộc cũng phải đi đến chiến tranh vì Trung cộng muốn giết chứ không muốn tha mạng kẻ đầu hàng.
Việt nam luôn khoe khoang đã đánh thắng 4 tên xâm lược mạnh nhất thế giới, nhưng họ nói sai. Chính Mỹ đánh thắng Nhật chứ không phải Trung Cộng và Việt Nam. Chính Trung cộng dánh thắng Pháp chứ không phải Việt Nam. Chính Mỹ rút lui khỏi Trung Hoa Dân Quốc , Việt Nam và bỏ ngõ Thái Bình Dương trong không thành kế để rồi dùng đà đao kế giết Trung Cộng, chứ Trung Cộng, Việt Cộng không thắng Mỹ.
Việt cộng đã thua trong chíến tranh Hoa Việt tại Lạng Sơn1979 và trận Gac- ma năm 1988 cho nên bây giờ Việt Cộng rất sợ Trung Cộng. Nhất là năm 1990, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng sang quỳ lạy ở Thành Đô xin bảo hộ, thì Việt cộng đã cam tâm phận khuyển mã. Trận Lạng Sơn, trận Gac-Ma như thế thì sao huyênh hoang là thắng Trung cộng ? Cuộc triều cống Thành Đô như thế là Việt cộng đã xuống hàng nô lệ, chứ đâu là đồng chí anh em? Ông Hồ khoác lác "độc lập, tự do", "tình đồng chí anh em " nhưng chính ông cũng là tay sai Nga, Hoa vì mỗi việc ông phải sang Nga Hoa xin chỉ thị và nạp bản báo cáo thường xuyên cho chủ.
Hồ Chí Minh đã sai Phạm Văn Đồng ký công hàm bán nước. Việt cộng giấu
diếm, và bọn tay sai ngu muội tin rằng bác Hồ, bác Đồng không bán nước,
chỉ là tin do bọn Mỹ ngụy tạo ra để nói xấu. Nay Trung cộng đưa ra công
hàm Phạm Văn Đồng, và nay mai họ sẽ công bố các văn kiện do Nguyễn
VănLinh, Đỗ Mười bán nước. Không biết bọn ngu muội này có còn tin vào sự
dối trá của bọn cộng sản gộc nữa thôi ?
Hiện nay, Trung cộng không nói ra hiệp ước Thành Đô nhưng họ nói Việt
Nam là thuộc địa xưa của Trung Quốc, và họ đã trưng công hàm Phạm Văn
Đồng. Hơn nữa , 300.000 quân Trung Cộng đã tiến sát biên giới Việt
Trung, và 130 tàu chiến đã đậu tại dàn khoan HD 981, và giờ G. Trung
cộng sẽ tấn công Việt Nam sau khi họ đã rút người về. Chiến thuật 1979
nay được lập lại. Ngoài ra lực lượng Việt Cộng tay sai Trung Quốc như
Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn chí Vịnh, Trần Đại Quang... rất mạnh. Tại Việt
nam cũng có quân Trung cộng ẩn tại núi rừng và các công ty, hãng xưởng,
lúc súng nổ, họ sẽ xông ra. Điều này thì dân ta ai cũng biết, cũng thấy,
cho nên họ phải lo các biện pháp cần thiết để đối phó với quân Trung
Cộng xâm lược. Và các nhà tranh đấu cũng phải đặt các biện pháp để cứu
nguy đất nước khi Trung cộng xâm lược và bọn tay sai nổi lên làm nội
ứng..
Bọn tay sai ỷ có thế mạnh của chủ sẽ quyết tâm sát hại, đàn áp nhân dân ta. Cái truyền thống tàn sát, các đồng chí cộng sản đã có từ hai phe Bolshevik và Menlshevik, và là một cuộc tàn sát đẫm máu. Cộng sản thân Trung cộng sẽ theo lệnh chủ mà tàn sát nhân dân và phe chống Trung cộng. Hơn nữa, bọn chúng cũng tích cực vì giết đối thủ chúng sẽ độc chiếm quyền lợi. Đôi mắt và bộ mặt của Nguyễn Chí Vịnh đầy sát khí cho thấy bọn họ sẽ ra tay rất tàn độc. Thời điểm đã đến. Cái số công an dày đặc ngày chủ nhật 18-5 chỉ là một phần nhỏ chưa kể bọn công an chìm, bọn Trung cộng trà trộn trong nhân dân và chính quyền. Nhân dân ta sẽ thấy một lúc hai tai họa; bọn tay sai Trung cộng sẽ vùng lên giết hại nhân dân ta, và bọn Trung cộng sẽ đem xe tăng, đại bác, hỏa tiễn cày nát quê hương ta. Cuộc bạo loạn ngày 11-5 là do Trung Cộng và bọn chân tay thực hiện cho ta thấy Trung Cộng đã tiến vào Bình Duơng và Hà Tĩnh, sắp mở màn cuộc chiến tranh như ở Lạng Sơn năm 1979, gạch ngói không còn. .Và cuộc khủng bố ngày 18-5 đã cho nhân dân ta thấy Việt Cộng đã tuân lệnh Trung cộng, vẫn tàn ác với dân và hèn nhát với quân thù!' Tất cả đều báo hiệu bão tố sắp đổ ụp xuấng quê hương ta.
Ngày chủ nhật 25-5 là một ngày chủ nhật im lặng, ngột ngạt, báo hiệu một cơn bão sắp tới. Cầu xin ơn trên phù hộ cho nhân dân và đất nước Việt Nam thoát ách Trung Cộng xâm lược và Việt Cộng bán nước.
Bọn tay sai ỷ có thế mạnh của chủ sẽ quyết tâm sát hại, đàn áp nhân dân ta. Cái truyền thống tàn sát, các đồng chí cộng sản đã có từ hai phe Bolshevik và Menlshevik, và là một cuộc tàn sát đẫm máu. Cộng sản thân Trung cộng sẽ theo lệnh chủ mà tàn sát nhân dân và phe chống Trung cộng. Hơn nữa, bọn chúng cũng tích cực vì giết đối thủ chúng sẽ độc chiếm quyền lợi. Đôi mắt và bộ mặt của Nguyễn Chí Vịnh đầy sát khí cho thấy bọn họ sẽ ra tay rất tàn độc. Thời điểm đã đến. Cái số công an dày đặc ngày chủ nhật 18-5 chỉ là một phần nhỏ chưa kể bọn công an chìm, bọn Trung cộng trà trộn trong nhân dân và chính quyền. Nhân dân ta sẽ thấy một lúc hai tai họa; bọn tay sai Trung cộng sẽ vùng lên giết hại nhân dân ta, và bọn Trung cộng sẽ đem xe tăng, đại bác, hỏa tiễn cày nát quê hương ta. Cuộc bạo loạn ngày 11-5 là do Trung Cộng và bọn chân tay thực hiện cho ta thấy Trung Cộng đã tiến vào Bình Duơng và Hà Tĩnh, sắp mở màn cuộc chiến tranh như ở Lạng Sơn năm 1979, gạch ngói không còn. .Và cuộc khủng bố ngày 18-5 đã cho nhân dân ta thấy Việt Cộng đã tuân lệnh Trung cộng, vẫn tàn ác với dân và hèn nhát với quân thù!' Tất cả đều báo hiệu bão tố sắp đổ ụp xuấng quê hương ta.
Ngày chủ nhật 25-5 là một ngày chủ nhật im lặng, ngột ngạt, báo hiệu một cơn bão sắp tới. Cầu xin ơn trên phù hộ cho nhân dân và đất nước Việt Nam thoát ách Trung Cộng xâm lược và Việt Cộng bán nước.
MINH TÂM * VIỆT NAM TỈNH DẬY
26-05-2014
Xung đột Biển Đông sẽ 'đánh thức một VN ngủ quên'
Minh Tâm Thực hiện
Nhà văn Hà Thủy Nguyên. |
Giàn khoan Hải Dương 981 như cơ hội để toàn thể người dân nước
Việt đồng lòng đoàn kết vì mục tiêu chung. Tuần Việt Nam trò chuyện với
nhà văn Hà Thủy Nguyên, người sáng lập của Book Hunter Club, một cộng
đồng tri thức trẻ có uy tín trên Internet, về vai trò và trách nhiệm
của tuổi trẻ với chủ quyền đất nước.
Người Việt trẻ, đứng dậy thôi!
Chào chị, mới đây trên Book hunter club có đăng tải "Lời kêu gọi VN trỗi dậy" của chị. Như chị nói, đây là lời kêu gọi "với
tư cách của một người VN trẻ tuổi đứng trước nguy cơ xâm lấn của TQ
trên Biển Đông".Trong lời kêu gọi ấy, chị có nhấn mạnh một chi tiết "đã đến lúc chúng ta cần làm điều gì đó hơn là biểu lộ". Chị có thể nói rõ hơn?
Thực ra lời kêu gọi không phải là của tôi, nó được viết
dựa trên ý tưởng và phương hướng hoạt động mà chúng tôi vốn đã đề ra từ
khi mới thành lập, đó là truyền cảm hứng xây dựng đất nước bằng kiến
thức, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành và lương tâm đối với xã hội đến với
các bạn trẻ. Nhưng có vẻ lâu nay các bạn trẻ ít ai để ý. Cho đến lúc
này.
Với bối cảnh như hiện nay, ai cũng hiểu rằng rằng biểu lộ là không đủ,
mà phải biến sự biểu lộ đó thành hành động, hành động không đủ mà còn
phải hành động hiệu quả.
Diễn viên Bình Minh cùng nhiều bạn trẻ xuống đường phản đối Trung Quốc đặt giàn khoan trái phép. Ảnh: VNN |
Bất
cứ người dân nào cũng mong điều đó, nhưng cũng là chuyện lâu dài. Vậy
còn cách hành xử trước mắt? Chị nghĩ sao về cách hành xử của những người
cùng thế hệ hoặc trẻ hơn mình?
Khi bạn hỏi câu này, chắc bạn
có ngầm ẩn ý đến việc nhiều bạn trẻ tỏ ra kích động, xuống đường biểu
tình, thậm chí sẵn sàng nhập ngũ. Đó là một điều tốt, chứng tỏ rằng các
bạn trẻ vẫn còn rất quan tâm đến đất nước, không giống như những gì mà
những thế hệ trước vẫn lo ngại.
Nói đến giới trẻ thì rất rộng, có
thể thu gọn lại là những bạn trẻ quan tâm đến tình hình. Rất đáng mừng
là con số này ngày càng gia tăng so với những năm trước, vì theo tôi
được biết rằng những sự kiện xung đột giữa VN và TQ trong nhiều năm qua
không có được nhiều sự quan tâm đến thế. Tôi xin phép được chia thành
một số cách cách biểu lộ sau:
Trước hết và dễ nhận biết nhất là
những bạn trẻ biểu lộ lòng yêu nước mãnh liệt trên mạng xã hội. Họ thật
sự lo lắng nguy cơ và chuẩn bị tinh thần kỹ, thậm chí bài trừ TQ... Tuy
nhiên, cách biểu lộ này chỉ là sự bốc đồng. Các bạn phải hiểu rõ rằng TQ
là một đất nước, một nền văn minh, còn điều các bạn đang phản đối lại
chỉ liên quan đến chính phủ TQ thôi. Biểu lộ lòng yêu nước là cần
thiết, vì nó có sức mạnh truyền cảm hứng lớn lao, nhưng tôi mong sao sau
khi biểu lộ, các bạn ấy nên tìm hiểu vấn đề một cách cẩn thận hơn.
Bên
cạnh đó cũng có nhiều bạn trẻ không biểu lộ cảm xúc trên mạng, mà đẩy
mạnh hơn các thông điệp về học tập và xây dựng đất nước. Họ là những
người nhìn thấy được vấn đề rằng sở dĩ VN bị TQ chèn ép đến thế là vì
đất nước của chúng ta không giàu mạnh. Lịch sử rõ ràng đã chứng minh, cứ
mỗi khi nước Việt ta yếu thế, chia rẽ thì đó là lúc phải đối mặt với
nguy cơ ngoại xâm.
Có một cách yêu nước khác cũng thiên về biểu
lộ, nhưng có mục đích hơn và tỏ rõ thái độ hơn, đó là biểu tình. Trong
suốt tuần qua, những cuộc biểu tình diễn ra khắp nơi từ Nam chí Bắc.
Biểu tình quả nhiên cũng có tác dụng, đó là không chỉ bày tỏ với TQ mà
còn bày tỏ với dư luận thế giới về thái độ bảo vệ chủ quyền của người
dân VN, để thế giới biết rằng người VN không nhu nhược.
Tuy nhiên,
chỉ trong gang tấc, biểu tình có thể biến thành hỗn loạn. Tôi mong
rằng các bạn trẻ có thể giữ vững thái độ ôn hòa mà cương quyết, để mình
không trở thành con rối trong tay kẻ khác.
Vì một Việt Nam trỗi dậy
Vậy theo chị, cách nào là tốt nhất để các bạn trẻ hành xử đúng đắn trong bối cảnh hiện nay?
Có
lẽ, bên cạnh việc dạy các bạn trẻ kĩ năng thích nghi với môi trường
sống ngoài đời thực, các nhà giáo dục nên quan tâm đến việc hướng dẫn
cho các thế hệ đi sau thích nghi với đời sống ảo là Internet.
Trước hết, mỗi người trẻ cần tự ý thức về con người Việt Nam trong bản
thân mình nhiều hơn. Một dân tộc không thể mạnh nếu các bạn cứ đứng ở
góc nhìn của Mỹ, của Âu, của TQ để nhìn về người VN và chỉ nhận ra
"người Việt xấu xí" rồi chê bai này nọ, cứ như thể rằng người Việt chúng
ta với những mã số gen do cha ông để lại là một lũ người mọi rợ, ngu
dốt, tiểu nhược.
Tại sao chúng ta phải cố gắng bắt chước đặc tính của những cường quốc
khác. Đặc tính của một dân tộc được xây dựng bằng thói quen thích nghi
hay đối phó với các điều kiện tự nhiên và quá trình giao thoa hay chiến
đấu với các dân tộc khác trong suốt quá trình lịch sử. Thế nên đặc tính
nào cũng luôn có tính hai mặt của nó, sẽ là tích cực nếu ta biết đặt
đúng chỗ, sẽ là tiêu cực nếu chúng ta đặt sai chỗ.
Ngoài tăng khả
năng nhận thức về bản thân, chúng ta cũng cần tăng khả năng nhận thức về
các vấn đề thế giới. Chúng ta thiếu những nhận thức này cho nên đến khi
xảy ra sự cố hay phải đối mặt với biến đổi lớn nào đó của thế giới,
chúng ta thường lúng túng. Hạn chế này một phần do ngôn ngữ, một phần vì
vấn đề này chưa được xem trọng đúng mức.
Tôi hi vọng rằng, các
bạn trẻ, với sự nhiệt tình tìm hiểu tri thức và ước muốn giúp ích cho
đất nước, có thể chủ động hơn trong việc trang bị cho mình các kiến thức
về tình hình thế giới.
Chúng ta đã trò chuyện về trách nhiệm,
về điều cần làm, vậy vai trò thật sự của giới trẻ trong bối cảnh hiện
nay là như thế nào?
Giới trẻ ở một đất nước còn trẻ như Việt
Nam (tôi gọi Việt Nam là một đất nước trẻ bởi cuộc sống ở Việt Nam luôn
luôn biến đổi và bất định) lại càng có cơ hội nhiều hơn để xây dựng một
thế giới mới tốt đẹp hơn.
Đã bao giờ bạn nghĩ rằng, Việt Nam không
giống TQ, không giống phương Tây, nói một cách tiêu cực là "chẳng giống
ai", là bởi vì có thể từ Việt Nam sẽ xuất hiện những đột phá mới, việc
ngủ quên bấy lâu nay của chúng ta có thể giống như một sự "dự trữ" cho
một tương lai xa hơn.
Những biến cố gần đây ở trên thế giới đã chỉ
ra rằng mô hình nhà nước của Mỹ không ổn, của Trung Quốc không ổn, của
Nga cũng không ổn. Nhưng tại sao các cường quốc này vẫn luôn muốn áp đặt
các mô hình nhà nước của mình lên các nước đang phát triển, bởi vì họ
muốn các nước đang phát triển trở thành "sân sau", thành "công xưởng"
phục vụ đất nước của họ chứ không quan tâm đến việc phát triển sức mạnh
nội tại ở các nước này. Đó là một nguy cơ Việt Nam phải đối mặt khi bị
kẹt giữa ba cường quốc ấy.
Nói chuyện vĩ mô này thì rất lan man,
tóm lại điều tôi muốn nói rằng: thay vì các bạn lựa chọn sự lệ thuộc hay
bắt chước vào một cường quốc nào đó, thì có lẽ đã đến lúc các bạn hãy
suy tư, tưởng tượng về một đất nước được xây dựng từ những đặc tính của
người Việt.
Hà
Thủy Nguyên tên thật là Nguyễn Thị Phương Thảo, sinh năm 1986, là người
sáng lập và quản lý Book Hunter Club -một nhóm hỗ trợ và trao đổi về
các vấn đề học thuật và sáng tạo: vốn là nền tảng căn bản để tạo nên một
cách tư duy đúng đắn và phù hợp với hiện trạng cuộc sống".
Từ năm
16 tuổi, Hà Thủy Nguyên đã xuất bản tiểu thuyết dày 1.000 trang có tên
"Điệu nhạc trần gian", và sau đó là các tác phẩm "Cầm Thư Quán","Thiên
Mã", "Bên kia cánh cửa".
Bên cạnh việc sáng tác văn chương, Hà
Thủy Nguyên còn viết kịch bản cho các phim "Vòng nguyệt quế", "Blog nàng
dâu" (đạo diễn Mai Hồng Phong), "Rubic tình yêu" (đạo diễn Nguyễn
Quang), "Nếp nhà" (đạo diễn Vũ Trường Khoa)...
PHỎNG VẤN NGUYỄN THANH GIANG
Khủng hoảng Biển Đông: Việt Nam nên liên minh với Mỹ ?
Chiến hạm USS Cowpens trên Biển Đông (U.S. Navy / Josiah Connelly)
Vào lúc mà nguy cơ chiến tranh Việt Trung tái diễn đang gia
tăng, ngày càng có nhiều tiếng nói kêu gọi Việt Nam phải tìm cách thoát
khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc để tăng cường hơn nữa quan hệ với Hoa
Kỳ, nhất là về quân sự. Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ từ Hà Nội, nhà
bất đồng Nguyễn Thanh Giang cho rằng Việt Nam cần dựa vào những thế lực
của thế giới tiên tiến, phải lập liên minh với Hoa Kỳ, kể cả về mặt quân
sự, để không bị mất Biển Đông, bị mất độc lập.
Nhưng để có thể tăng cường quan hệ với Mỹ,
trước hết Việt Nam
phải thoát ra khỏi sự ràng buộc với Trung Quốc. Vấn đề là hai nước, đúng
hơn là chế độ Hà Nội và Bắc Kinh, đang có mối quan hệ như thế nào. Đây
phải chăng là quan hệ giữa hai chế độ có cùng ý thức hệ Cộng sản ? Đối
với ông Nguyễn Thanh Giang, thực chất không phải như thế.
Về quan hệ giữa hai chế độ Bắc Kinh và Hà Nội, trong bài viết tựa đề “
Sợi xích nào trói chặt Hà Nội vào Bắc Kinh” đăng trên trang mạng Ba Sàm
ngày 22/05 vừa qua, nhà báo Võ Văn Tạo cũng đã viết : “Lâu nay, đôi
khi các học giả chẳng cần viết cụ thể cái ý thức hệ mà Việt Nam và Trung
Quốc “có chung” là cái gì, hầu ai như cũng hiểu đó là “ý thức hệ XHCN”,
hay “lý tưởng cộng sản”. Và hầu như ai cũng tin đó là sợi dây liên kết
chặt chẽ chóp bu hai nước, là sợi xích trói chặt Hà Nội vào Bắc Kinh từ
nhiều thập kỷ nay.
Nhưng thực tế, theo nhà Võ Văn Tạo, không phải là như thế và ông cho
rằng “những luận điệu hoa mỹ “4 tốt”, “16 chữ vàng” do Bắc Kinh rêu rao
để ru ngủ, che đậy bộ mặt thật bành trướng hiểm độc, được Hà Nội hợp
xướng phụ họa, đầu độc nhân dân.” Kết luận của ông là “không phải ý thức
hệ, mà chính quyền lực và lợi ích vị kỷ của “vua tập thể” mới là sợi
xích trói chặt Hà Nội dưới chân Bắc Kinh”.
Nhưng thật ra trong ban lãnh đạo Hà Nội, các phản ứng trước hành
động xâm lấn vùng biển Việt Nam không hoàn toàn đồng nhất. Tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng, trên nguyên tắc là nhân vật lãnh đạo số 1 của Việt
Nam, cho tới nay chỉ mới lên tiếng gián tiếp qua bài phát biểu bế mạc
hội nghị trung ương Đảng ngày 14/05, với vài dòng về Biển Đông mà chẳng
dám nhắc đến tên Trung Quốc: "Đặc biệt là, tình hình Biển Đông hiện đang
diễn biến rất phức tạp, nghiêm trọng, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt, tăng cường đoàn kết, cả nước
một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và
phát triển đất nước."
Về phần chủ tịch nước Trương Tấn Sang, thay vì đưa ra một tuyên bố
long trọng với tư cách nguyên thủ quốc gia, thì đã đợi đến ngày 17/05
mới phát biểu về tình hình Biển Đông nhân lúc tiếp xúc với các cử tri ở
Sài Gòn.
Trong bộ ba lãnh đạo tối cao của Việt Nam, chỉ có thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng là lên án Trung Quốc mạnh mẽ nhất, đặc biệt là qua tuyên bố tại
hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Miến Điện ngày 11/05. Đặc biệt, nhân
chuyến viếng thăm Manila ngày 21/05, ông Dũng đã thẳng thừng lên án
Trung Quốc “đe dọa nghiêm trọng hòa bình”và đã tuyên bố Việt Nam “nhất
định không chấp nhận đánh đổi chủ quyền lãnh thổ, biển đảo để nhận lấy
một thứ hòa bình, hữu nghị viễn vông, lệ thuộc nào đó”. Thủ tướng Việt
Nam còn tuyên bố Hà Nội đang xem xét khả năng kiện Trung Quốc ra trước
tòa án quốc tế.
Tuyên bố cứng rắn của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã gây sự chú ý và
người ta hy vọng đấy sẽ không phải là những lời nói xuông, như ý kiến
của ông Nguyễn Thanh Giang.
Nhưng một khi đã thoát khỏi sự kềm tỏa của Trung Quốc, liệu Việt Nam
có dễ dàng được Hoa Kỳ và các nước dân chủ khác chấp nhận như đồng minh
thực thụ hay không, điều có còn tùy thuộc vào việc Việt Nam có quyết tâm
thay đổi dân chủ, theo lời ông Nguyễn Thanh Giang.
Trong bài viết tựa đề “ Việt Nam thoát thế kẹt ở Biển Đông thế nào?”,
đăng trên VietnamNet ngày 13/05/2014, ông Lê Quang Bình, Viện trưởng
Viện nghiên cứu Kinh tế, Xã hội và Môi trường (iSEE) cũng đã cho rằng
Việt Nam cần tự thoát khỏi tình thế này bằng cách tự đổi mới mình.
Theo ông Lê Quang Bình, Mỹ và Việt Nam có chung lợi ích đó là tự do
hàng hải và ổn định ở Biển Đông. Tuy nhiên, vẫn có những rào cản để Mỹ
và Việt Nam trở thành đồng minh. Ông Bình cho rằng “Mỹ muốn Việt Nam là
liên minh để duy trì vai trò lãnh đạo ở Châu Á, nhưng không muốn gánh
vác trách nhiệm bảo vệ Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh khác biệt về
chế độ chính trị và giá trị quốc gia.”
Cho nên tác giả bài viết cho rằng, “ việc Việt Nam cải tổ theo hướng
thúc đẩy nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường, và một xã hội dân sự
phát triển chắc chắn sẽ kết nối Việt Nam với các nước phát triển. Khi
đó, sự ủng hộ Việt Nam sẽ mạnh hơn nhiều”.
Chưa biết giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam có sẽ chuyển biến theo
chiều hướng như thế hay không, nhưng trước mắt có vẻ như mối quan hệ
khắng khít với Đảng Cộng sản Trung Quốc dường như đã bắt đầu rạn nứt do
vụ giàn khoan HD-981. Bằng chứng là Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
ngày 23/05 vừa qua đã đăng một bài lên án máu “ đại Hán” hung hăng của
Trung Quốc, với tựa đề “ Nói một đằng, làm một nẻo”.
Tác giả bài báo viết: “ Có thể nói, những hành động của Trung Quốc
trên Biển Đông vừa gia tăng các hành động gây hấn, vừa cố gắng “la làng”
nhằm tạo hình ảnh là nạn nhân đã đặt Trung Quốc vào thế tự “vạch mặt”
mình, “nói một đằng làm một nẻo”, đây là bản chất của những nhà đương
cục Trung Quốc. Dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và
giữa nước, hơn ai hết hiểu được "bụng dạ" thật, của "ông láng giềng"
này. "Vỏ quýt dày có móng tay nhọn", nhân dân Việt Nam quyết không sợ,
đoàn kết một lòng, với tất cả lực lượng và trí tuệ, bảo vệ vững chắc
từng "tấc biển" của Tổ quốc.”
Giọng điệu của bài báo bắt đầu phảng phất thời kỳ những năm
1978-1979, khi mà Hà Nội không ngớt lên án “bọn bành trướng Bắc Kinh”.
Nhưng vấn đề là Trung Quốc ngày nay mạnh hơn rất nhiều so với Trung Quốc
thời ấy và Việt Nam sẽ khó có thể đương đầu với một cuộc chiến tranh
mới, nếu không có sự hỗ trợ của một thế lực khác, mà thế lực đó hiện nay
chỉ có thể là Hoa Kỳ.
Để được Hoa Kỳ nói riêng và quốc tế nói chung ủng hộ mạnh mẽ trong
cuộc đối đầu hiện nay với Trung Quốc, Việt Nam phải có những thay đổi
căn bản, đó là nội dung chính trong bài trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ,
của giáo sư Jonathan London, hiện giảng dạy City Universiy of Hong Kong.
Hiện nay, ông Jonathan London đang ở Việt Nam, trả lời RFI qua Skype
ngày 24/05 vừa qua, trước hết ông cho biết cảm nhận về không khí của xã
hội Việt Nam hiện nay trong bối cảnh căng thẳng Việt- Trung:
PHILIP BOWRING * BĂC KINH NGẠO MẠN
Sự ngạo mạn nguy hiểm của Bắc Kinh ở Biển Đông
Chiến hạm và tàu tuần duyên Trung Quốc hộ tống giàn khoan HD-981 - REUTERS /Nguyen Minh
RFI xin giới thiệu bài viết mang tiêu đề “ Sự Ngạo mạn nguy
hiểm của Bắc Kinh ở Biển Đông, của tác giả Philip Bowring, một cây viết
đã cắm chân ở châu Á từ 39 năm nay chuyên viết về các vấn đề tài chính
và chính trị của khu vực, đăng trên nhật báo Hồng Kông South China
Morning Post hôm 18/5/2014.
Philip Bowring nói rằng sự mặc cảm tự tôn và việc diễn giải có chọn lọc lịch sử Đông Nam Á là những yếu tố nguy hại gây căng thẳng tại Biển Đông.
Thế nhưng, do quần đảo này chưa bao giờ có được một giảp pháp vĩnh viễn, nên khi so sánh với Việt Nam, thì khó có thể nói quần đảo này là trường hợp nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Lịch sử cho chúng ta thấy là bờ biển này vốn là trung tâm của một nhà nước Cham buôn bán, mà cách nay 1000 năm, họ đóng vai trò chủ chốt về thương mại trong khu vực.
Philip Bowring nói rằng sự mặc cảm tự tôn và việc diễn giải có chọn lọc lịch sử Đông Nam Á là những yếu tố nguy hại gây căng thẳng tại Biển Đông.
Cách hành xử hiện nay của Trung Quốc với các nước láng giềng ở Biển
Đông là hung hăng, ngạo mạn và sặc mùi tư tưởng Đại Hán và tự tôn dân
tộc. Thay vì bày tỏ lòng tự hào dân tộc, cách hành xử này gây tiếng xấu
cho lòng ái quốc. Những người Hồng Kông yêu nước cần phải nhận diện ra :
Đó là một mưu kế nguy hiểm.
Không chỉ nhe răng bành trướng đe dọa Việt Nam và Philippines, mà giờ
đây, Bắc Kinh còn đẩy Indonesia từ chỗ có lập trường hành động như
trung gian hòa giải giữa Trung Quốc và các quốc gia ở Biển Đông chuyển
sang thành kẻ thù. Trong những tháng qua, đã hai lần Indonesia tố cáo
Trung Quốc đưa ra đòi hỏi chủ quyền đối với một phần quần đảo Natuna.
Thật là quá thể đối với cái gọi là « sự trỗi dậy hòa bình » khi người ta
gây khó chịu cho các nước láng giềng có tới hơn 400 triệu dân mà người
ta khẳng định là yếu kém.
Tất cả những đòi hỏi về biển đảo của Trung Quốc nằm bên trong đường 9
đoạn, rộng hơn 1000 hải lý kể từ bờ biển Quảng Đông và Hải Nam cho tới
đảo Borneo của Malaysia, Indonesia và Brunei và bao gồm hầu như toàn bộ
vùng biển giữa Việt Nam và Philippines. Đòi hỏi của Trung Quốc chiếm hơn
90% diện tích Biển Đông, cho dù Trung Quốc (kể cả Đài Loan) chỉ có
khoảng 20% bờ biển trong vùng.
Tất cả các đòi hỏi chỉ dựa trên các yếu tố lịch sử, rất thuận tiện
cho việc không cần biết đến sự tồn tại của các dân tộc khác và lịch sử
hàng hải và buôn bán của họ có từ 2000 năm nay, trước cả khi Trung Quốc
đi xuống vùng biển phía nam và xa hơn nữa. Người Indonesia đã tới Châu
Phi và thuộc địa Madagascar trước Trịnh Hòa (Zheng He) hơn 500 năm.
Ngược lại, các dân tộc ở Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của Ấn Độ và thế giới
Hồi giáo hơn là của Trung Quốc.
Trong trường hợp hiện nay với Việt Nam, về việc đưa giàn khoan vào
vùng biển ở phía đông Đà Nẵng, có một vấn đề nhỏ đối với Trung Quốc :
Chính quyền Bắc Kinh hiện làm chủ quần đảo Hoàng Sa, gần với nơi đặt
giàn khoan hơn là Việt Nam. Tuy nhiên, quần đảo này từ lâu là nơi tranh
chấp giữa hai nước, và vụ việc đã được giải quyết với việc Trung Quốc vô
cớ đánh chiếm quần đảo này năm 1974.
Thế nhưng, do quần đảo này chưa bao giờ có được một giảp pháp vĩnh viễn, nên khi so sánh với Việt Nam, thì khó có thể nói quần đảo này là trường hợp nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Lịch sử cho chúng ta thấy là bờ biển này vốn là trung tâm của một nhà nước Cham buôn bán, mà cách nay 1000 năm, họ đóng vai trò chủ chốt về thương mại trong khu vực.
Lẽ ra, đây phải là một trường hợp thỏa hiệp giữa Trung Quốc và Việt
Nam. Malaysia và Thái Lan cũng từ dàn xếp với nhau để quản lý một hòn
đảo trong vùng giàu khí đốt nằm giữa hai nước, ở vịnh Thái Lan. Các quốc
gia khác – Indonesia, Singapore, Malasyia – đưa các vấn đề sở hữu đảo
lên Tòa án Công lý Quốc tế và chấp nhận phán quyết của Tòa. Thế nhưng,
Trung Quốc vẫn không sẵn sàng cho một thỏa hiệp hoặc chấp nhận đưa ra
Tòa. Trong khi đó, không thể có việc cùng khai thác, bởi vì Trung Quốc
đưa ra điều kiện là các bên phải chấp nhận chủ quyền của họ ở đó.
Trong trường hợp các bãi đá ngoài khơi Philippines, đòi hỏi của Trung
Quốc dựa trên một sự pha trộn giữa lịch sử được phóng tác và việc Trung
Quốc là nước đầu tiên đưa ra đòi hỏi chủ quyền ; đây là một chứng cứ
nghèo nàn, bởi vì Trung Quốc không liên tục hiện diện ở đó, trong khi
Philippines đã kế thừa hiệp định được ký kết giữa các cường quốc thực
dân phương Tây.
Bãi đá Scarborough nằm cách đảo Luzon khoảng 200 km và cách Trung
Quốc khoảng 650 km. Đòi hỏi của Trung Quốc về chủ quyền đối với bãi đá
Vành Trăng Khuyết (Half Moon Shoal) còn lố bịch hơn. Tại bãi đá này mà
Philippines đã bắt giữ các ngư dân Trung Quốc bị cáo buộc đánh bắt rùa
biển khổng lồ, một loài động vật được bảo vệ. Theo phản xạ, Bắc Kinh
phản đối. Bãi đá này cách Palawan 110 km và cách Trung Quốc gần 1500 km.
Các đòi hỏi phi lý có từ thời Quốc Dân Đảng và vấn đề không phải là ở
chỗ này hay chỗ khác. Không hề có chuyện là các trước đây, các nước đã
thỉnh thoảng phải triều cống Bắc Kinh. Đối với các nước buôn bán này,
triều cống là một thứ thuế, cái giá phải trả để kinh doanh với Trung
Quốc, nhưng không bao hàm vấn đề chủ quyền. Và nếu Trung Quốc thỉnh
thoảng hành động như một đế quốc trong vùng, thì điều này chắc chắn gây
lo ngại, nhưng không phải là một cơ sở để khẳng định quyền làm chủ đối
với một vùng rộng lớn trên biển Mã Lai. Nếu như vậy, thì Thổ Nhĩ Kỳ có
thể nói Ai Cập là của họ và toàn bộ vùng Trung Á là của Nga.
Một nước Trung Hoa phục hưng muốn giương oai sức mạnh của mình và
chứng tỏ là ông trùm của khu vực – chính đây là điều mà họ tìm cách thể
hiện khi đánh Việt Nam năm 1979 – và nhắc nhở Hoa Kỳ về sự yếu kém của
Washington. Thế nhưng, ở đây, cũng có một sự lưỡng lực trong việc đối xử
bình đẳng với các nước láng giềng không thuộc tộc Hán, các dân tộc này
có lịch sử và văn hóa riêng của họ và ngoại trừ Việt Nam, chưa bao giờ
các nước đó chịu ảnh hưởng nặng nề của Trung Quốc.
Lịch sử về sự tự tôn của Trung Quốc, nhất là đối với các tộc có mầu
da sẫm hơn, có từ lâu đời. Niềm tin về ưu thế sinh học và sự cần thiết
phải bảo vệ và thúc đẩy các đặc trưng di truyền của tộc Hán đã thể hiện
mạnh mẽ trong thời kỳ nền Cộng hòa và có được sự cộng hưởng trong công
luận cũng như chính sách xã hội của cựu lãnh đạo Singapore Lý Quang
Diệu.
Đã từ lâu, tư tưởng này bị bác bỏ ở phương Tây và bị lên án dưới thời
Mao Trạch Đông. Như giờ đây, tư tưởng này đang phục hồi ở Trung Hoa lục
địa, một vài nhà nghiên cứu cảm thấy khó mà chấp nhận được rằng người
hiện đại xuất phát từ Châu Phi và do vậy, Trung Quốc không phải là cội
nguồn duy nhất và riêng rẽ của loài người.
TIN VIỆT NAM & BIỂN ĐÔNG
Trung Quốc bác tuyên bố chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa
CỠ CHỮ
26.05.2014
Trung Quốc gọi tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo tranh
chấp ở Biển Đông là "hết sức nực cười", sau khi Bộ Ngoại giao Việt Nam
tổ chức họp báo quốc tế hôm thứ Sáu nhấn mạnh tuyên bố chủ quyền đối với
quần đảo Hoàng Sa.
Theo tin của thông tấn xã Reuters, trong buổi họp báo hôm thứ Hai, phát
ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương nói rằng quần đảo Tây Sa
(tức Hoàng Sa theo cách gọi của Việt Nam) đã là một phần lãnh thổ của
Trung Quốc từ đời nhà Hán.
Ông Tần còn nói rằng “Việt Nam luôn đi ngược lại lời nói của mình” và rằng “độ khả tín của nước này rất thấp.”
Phát ngôn viên này viện dẫn công hàm năm 1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng mà, theo lời ông, ủng hộ tuyên bố chủ quyền
của Trung Quốc.
Căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc dâng cao đột biến trong những
tuần gần đây sau khi Bắc Kinh đưa một giàn khoan vào khu vực Việt Nam
nói thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Động thái này của Bắc Kinh khiến nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc
nổ ra khắp Việt Nam. Một số vụ bạo động làm vài công dân Trung Quốc
thiệt mạng và gây thiệt hại cho hàng trăm doanh nghiệp do Trung Quốc sở
hữu.
Nguồn: Reutershttp://www.voatiengviet.com/content/trung-quoc-bac-tuyen-bo-chu-quyen-cua-viet-nam-o-hoang-sa/1922857.html
Trung Quốc nói Việt Nam ‘lố bịch’
Cập nhật: 15:18 GMT - thứ hai, 26 tháng 5, 2014
Trung Quốc nói tuyên bố
chủ quyền của Việt Nam với quần đảo Hoàng Sa là “lố bịch” trong bối cảnh
quan hệ song phương rạn nứt vì vụ giàn khoan HD-981.
Hôm 23/5 tại một cuộc họp báo ở Hà Nội, ông Trần
Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia nói Việt Nam có đầy đủ
cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử để khẳng định chủ quyền đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.Ông Tần Cương nói tiếp: “Quần đảo Tây Sa [tức Hoàng Sa] là lãnh thổ không thể tranh cãi của Trung Quốc.”
Người phát ngôn của Trung Quốc lên án Việt Nam “bóp méo lịch sử, bác bỏ sự thật, tự mâu thuẫn mình và phản bội ngôn từ của chính mình”.
“Vị thế quốc tế của nước này rất thấp,” ông Tần Cương lớn tiếng.
Bộ Ngoại giao Việt Nam chưa có phản hồi về những lời nói của người phát ngôn ngoại giao Trung Quốc.
Trước đó tại cuộc họp báo trước đó của Bộ Ngoại
giao Việt Nam, Việt Nam đã nhấn mạnh tuyên bố chủ quyền dựa trên lịch sử
của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa.
Ông Trần Duy Hải nhấn mạnh Trung Quốc “không có bất cứ chứng lý nào” chứng minh chủ quyền đối với hai quần đảo.
Căng thẳng giữa hai nước leo thang sau khi Việt
Nam cáo buộc Trung Quốc đưa một giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh
tế của Việt Nam.
Phát biểu trong chuyến thăm Philippines và tham
dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới Đông Á tuần trước, thủ tướng Việt Nam
Nguyễn Tấn Dũng phê phán Bắc Kinh “vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc
tế”, và cho biết sẽ xem xét những “hành động pháp lý phù hợp” để giải
quyết tranh chấp với Trung Quốc.
Vào Chủ nhật vừa qua, Việt Nam đã bắt đầu tiến
hành các phiên tòa đầu tiên xét xử nghi phạm tham gia các vụ “bạo động,
gây rối và hôi của”, sau khi làn sóng biểu tình chống Trung Quốc biến
thành bạo loạn vào trung tuần tháng Năm.
“Chúng tôi không nghĩ rằng như vậy là đủ,” phát ngôn nhân Tần Cương của Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói về phiên toà.
Ông này yêu cầu Việt Nam điều tra thấu đáo vụ bạo loạn trong thời gian sớm nhất, “trừng trị nghiêm khắc tội phạm”, bồi thường cho các doanh nghiệp và cá nhân chịu thiệt hại, đồng thời bảo đảm an toàn cho doanh nghiệp và công dân Trung Quốc tại Việt Nam, Tân Hoa Xã đưa tin.
“Chỉ như vậy cộng đồng quốc tế mới lấy lại được niềm tin với Việt Nam,” ông Tần nói.
‘Bị tàu Trung Quốc đâm chìm’
Trong khi đó, Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) ngày thứ Hai đưa tin một tàu cá Việt Nam bị tàu cá Trung Quốc đâm chìm ở khu vực cách giàn khoan HD-981 khoảng 17 hải lý.Mười ngư dân rơi xuống biển nhưng sau đó được lực lượng cứu hộ Việt Nam cứu lên. Hiện đang có 40 tàu cá Trung Quốc đang bao vây tàu cá của Việt Nam ở khu vực trên, VTV đưa tin.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/05/140526_china_vietnam_paracels.shtml
Manila lo ngại Bắc Kinh sẽ đặt giàn khoan trong vùng biển Philippines
Tổng thống Philippines Benigno Aquino trong lần gặp Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng tại Manila, 21/05/2014 - REUTERS
Trong cuộc trả lời phỏng vấn báo Financial Times, nguyên thủ
Philippines nói rằng Trung Quốc đang chơi « một trò chơi nguy hiểm và
chính sách ngoại giao pháo hạm », có thể vượt ra ngoài tầm kiểm soát.
Nguyên thủ Philippines cho biết ông đã nhận được các báo cáo về các vụ
tàu nghiên cứu, thăm dò của Trung Quốc vào gần khu vực dầu lửa Galoc,
cách bờ biển đảo Palawan khoảng 60 hải lý.
Khi nhắc đến cách thức Trung Quốc gây ra căng thẳng trong quan hệ với
các nước đang có tranh chấp chủ quyền với Bắc Kinh, Tổng thống
Philippines nói: « Bình thường ra, những gì xẩy ra đối với Việt Nam thì
cuối cùng cũng sẽ xẩy ra đối với Philippines ».
Theo nguyên thủ Philippines, ông được thông báo là đường dây điện
thoại nóng giữa Hà Nội và Bắc Kinh đã không hoạt động. Khi phía Việt Nam
cố gắng liên lạc với Trung Quốc, để thảo luận về vụ giàn khoan dầu HD –
981, thì « không hề có trả lời ở bất kỳ cấp nào » từ phía Trung Quốc.
Sau khi nhắc lại rằng ông không hề muốn khiêu khích Trung Quốc, Tổng
thống Aquino kêu gọi Bắc Kinh tránh có các hành động đơn phương, đi
ngược lại Tuyên bố chung về ứng xử của các bên ở Biển Đông, được ký kết
giữa Trung Quốc và ASEAN năm 2002. Theo lãnh đạo Philippines, 10 nước
thành viên ASEAN, trong đó, một số nước có tranh chấp chủ quyền biển đảo
với Trung Quốc, cần có « một tiếng nói mạnh mẽ và rõ ràng », về cách
thức giải quyết những tranh chấp, phù hợp với luật pháp quốc tế.
Cho đến nay, Trung Quốc vẫn chủ trương giải quyết các tranh chấp chủ
quyền biển đảo ở Biển Đông với từng nước liên quan, trong khuôn song
phương và chống lại các đề xuất « quốc tế hóa », đàm phán đa phương giải
quyết tranh chấp.
Tuần trước, trong chuyến công du Manila, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn
Tấn Dũng tuyên bố Hà Nội đang xem xét khả năng theo gương Philipines,
kiện Trung Quốc ra trước tòa án Liên Hiệp Quốc. Tổng thống Aquino đã
thảo luận với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về việc này và hoan nghênh Việt
Nam có các hành động pháp lý để kiện Trung Quốc.
LỄ TƯỞNG NIỆM PHẬT TỬ LÊ THỊ TUYẾT MAI
Lễ tưởng niệm Phật tử Lê thị Tuyết Mai tại Houston
Tự thiêu phản đối sự xâm lăng của Trung quốc
"Lễ truy điệu nói lên tinh thần bất khuất của Cô. Cô rất là can
đảm. Em không thể tưởng tượng được một người phụ nữ như Cô mà có thể can
đảm, dũng cảm nói lên tiếng nói của người Việt Nam."
Lửa xua tan bóng tối. Lửa gọi Diên Hồng. Lửa hội Bình Than.
Lửa dẹp bạo tàn! Lửa ...
Lửa Triệu Trưng réo gọi dòng Hồng Lạc!
Lửa cường kiệt, đốt cháy mộng xâm lăng.
Lửa Quang Trung, nung nấu chí anh hùng.
Lửa! Lửa cháy! Cho sống còn dân tộc ...
Xin mượn câu cuối của bức tâm thư gửi tang quyến của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, do HT Huyền Việt đọc, để chấm dứt bài phóng sự này:
"Với thương đau vô hạn, thương tiếc vô tận và cũng tự hào vô cùng, thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện, nhân danh Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất xin thành tâm cầu nguyện Hương Linh Phật Tử Đồng Xuân Lê Thị Tuyết Mai cao đăng Phật Quốc và sớm hội nhập Ta Bà để cùng đàn em Gia Đình Phật Tử Việt Nam góp phần làm đẹp thơm Quê Mẹ."
Hiền Vy tường trình từ Houston.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/houst-memo-cer-l-t-t-mai-05262014061125.html
Cùng với nhiều nơi trên thế giới, vào ngày Chủ Nhật, 25 tháng Năm, năm 2014, chùa Pháp Luân tại Houston đã cử hành một buổi lễ tưởng niệm Phật tử Lê thị Tuyết Mai, người đã tự thiêu vì tổ quốc và đạo pháp vào sáng sớm ngày 23 tháng 5 trước Dinh Độc Lập, nay là hội trường Thống Nhất. Hiền Vy tường trình.
Tự thiêu phản đối sự xâm lăng của Trung quốc
Buổi lễ tưởng niệm được cử hành trong ngày Lễ Phật Đản năm nay của
chùa Pháp Luân. Trước hết, Thượng tọa Thích Giác Đẳng, Tổng thư ký Văn
phòng 2 Viện Hóa Đạo, cho biết bà Lê thị Tuyết Mai đã tự thiêu với tâm
nguyện phản đối sự xâm lăng của Trung quốc, đồng thời hưởng ứng bản
tuyên cáo của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ trước việc Trung quốc xâm
lăng biển đảo Việt Nam:
"... để tưởng niệm Phật tử Lê thị Tuyết Mai, pháp danh Đồng Xuân,
vừa phát nguyện tự thiêu để gióng lên tiếng chuông, đánh động dư luận về
hiện trạng rất là phức tạp của đất nước Việt Nam khi Trung quốc xâm
lăng lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam. Một người Việt Nam, trước quốc
nạn, họ nghĩ rằng điều mà mình có thể làm được là đem thân làm ngọn
đuốc. Từ nhiều năm qua, người Tây Tạng đã làm như vậy. Có hàng trăm
người Tây Tạng đã tự thiêu khi quê hương của họ bị xâm lăng và nền văn
hóa của họ bị hủy diệt. Họ đã hy sinh thân của mình để hy vọng thế giới
bên ngoài biết được thực trạng. Là người Việt Nam, trước hoàn cảnh của
đất nước, không thể không nghĩ đến quê hương dân tộc trước nạn ngoại
xâm..."
Hòa thượng Thích Huyền Việt, phó chủ tịch Văn phòng 2 Viện Hóa Đạo,
đọc tâm thư của HT Thích Như Đạt, Viện trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất. Xin trích dẫn một phần trong bức tâm thư:
"Viện Hóa Đạo bàng hoàng xúc động, hết sức đau lòng và thương cảm.
Tuy nhiện trước vận mạng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị Đảng Cộng Sản
tước đoạt Pháp Lý 2000 năm kế thừa Chư Lịch Đại Tổ Sư và bị khủng bố
hơn 30 năm qua không ngừng nghỉ, những Phật Tử trung kiên đang cùng Giáo
Hội đấu tranh giải trừ Pháp Nạn, trong đó có Huynh Trưởng Đồng Xuân Lê Thị Tuyết Mai.
Để tưởng niệm Phật tử Lê thị Tuyết Mai, pháp danh Đồng Xuân, vừa phát nguyện tự thiêu để gióng lên tiếng chuông, đánh động dư luận về hiện trạng rất là phức tạp của đất nước Việt Nam khi Trung quốc xâm lăng lãnh thổ và lãnh hải của VN. Một người Việt Nam, trước quốc nạn, họ nghĩ rằng điều mà mình có thể làm được là đem thân làm ngọn đuốc
Đồng thời trước vận mạng của Tổ Quốc Việt Nam đang bị Cộng
Sản Trung Quốc xâm chiếm biên giới, biển đảo mà gần đây nhất là việc
Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981 ngay trong lãnh hải của Việt Nam
bất chấp các Công Ước Quốc Tế về Luật Biển và bất chấp sự phản đối của
các quốc gia trên Thế Giới. Tất cả người Dân Việt đều sục sôi chí khí
kiên cường chống ngoại xâm trong đó có Huynh Trưởng Đồng Xuân Lê Thị
Tuyết Mai.
Sự hy sinh cao cả của Huynh Trưởng Đồng Xuân Lê Thị Tuyết Mai đã
là biểu tượng của hai trách nhiệm song hành: Đạo Pháp và Dân Tộc như Đức
Ngũ Tăng Thống đã Tuyên Cáo ngày 10.5.2014...."
Có rất nhiều vòng hoa gửi đến để vinh danh Phật tử Lê thị Tuyết Mai
cũng như rất đông đồng hương tham dự buổi lễ tưởng niệm. Trong số này,
có đại diện của Hội đồng Liên Tôn, đại diện của các vị dân cử vùng
Houston, đại diện của các Cộng đồng người Việt quốc gia tại Texas. Cô
Hồng Yến, đại diện Cộng đồng Houston và vùng phụ cận chia sẻ cảm nghĩ
của mình về việc tự thiêu của bà Tuyết Mai:
Đến từ ngoại ô của thành phố Dallas, ông Nguyễn Kinh Luân chia sẻ là
ông đại diện Cộng đồng quận hạt Tarrant để tham dự buổi lễ tưởng niệm:
"Chúng tôi rất là xúc động. Đối với chúng tôi, sự hy sinh của bà Lê thị Tuyết Mai không phải là chỉ riêng cho Phật giáo mà là cho đất nước của chúng ta, nên phải hiện diện trong buổi lễ cầu siêu này để nói lên tâm tình của mình."
Ngay sau vụ tự thiêu của bà lê thị Tuyết Mai, phó chủ tịch Ủy ban
Nhân dân Quận I, thành phố Hồ Chí Minh là ông Lê Trương Hải Hiếu, cho
biết là theo điều tra ban đầu, nguyên nhân khiến bà Tuyết Mai tự thiêu
là do bế tắc về cuộc sống và bức xúc việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan
Hải Dương-981 trái phép, xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Ông Kinh Luân
không đồng ý với giả thuyết "là do bế tắc về cuộc sống".
Ông nói:
"Trước hết phải nói là cuộc sống của đồng bào trong nước, ngoại
trừ một thiểu số nhỏ, là đảng viên hay có liên hệ gì đó, thì có cuộc
sống tương đối sung sướng, hay là khá giả, hay là vui vẻ, ngoài ra đại
đa số dân tộc Việt Nam đều bị sống trong cảnh khổ hết. Cho nên khi nhà
nước cộng sản tuyên bố như vậy thì chúng tôi nghĩ ngay tới chuyện là họ
đang cố tình xuyên tạc cái hành động, cái nghĩa cả của bà Lê thị Tuyết
Mai, trong vấn đề muốn nói lên tiếng nói của một người Phật tử phản đối
sự xâm lấn bờ cõi của Trung cộng và đồng thời phản đối sự đàn áp và trù
dập của đảng sộng sản Việt Nam đối với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất."
Sự hy sinh cao cả của Huynh Trưởng Đồng Xuân Lê Thị Tuyết Mai đã là biểu tượng của hai trách nhiệm song hành: Đạo Pháp và Dân Tộc như Đức Ngũ Tăng Thống đã Tuyên Cáo ngày 10.5.2014.
tâm thư của HT Thích Như Đạt
Cô Hồng Yến không tin là vì lý do gia đình mà có thể đưa đến việc tự thiêu:
"Em không nghĩ là vì bức xúc chuyện gia đình mà có thể làm được việc đó."
Còn anh Quốc Bảo, một thành viên của Hội đồng đại diện Cộng Đồng
người Việt quốc gia Houston, thì cho rằng có lẽ sự đàn áp của nhà nước
Việt Nam đã đưa đến quyết định tự thiêu của bà Lê thị Tuyết Mai:
"Cô rất là phẫn nộ với cách làm việc của chế độ cộng sản bên đó và
cô cảm thấy là cần làm như vậy. Cũng có thể là sự ngăn cấm bên đó,
không cho người ta nói lên tiếng nói của người dân nên đó là sự bức xúc,
đè nén bấy lâu nay. Có thể đó là là một trong các lý do chánh..."
Trong sự kính phục một gương hy sinh, hiến dâng cuộc đời cho đạo pháp
và cho tổ quốc của bà Lê thị Tuyết Mai, những người tham dự buổi lễ,
vẫn không khỏi ngậm ngùi trước sự ra đi của Bà. Nhiều người đã không
ngăn được giòng nước mắt khi nghe bài thơ vừa được viết cho Bà:
Lửa! Lửa cháy! Lửa cháy! Lửa thắp sáng niềm tin.Lửa xua tan bóng tối. Lửa gọi Diên Hồng. Lửa hội Bình Than.
Lửa dẹp bạo tàn! Lửa ...
Lửa Triệu Trưng réo gọi dòng Hồng Lạc!
Lửa cường kiệt, đốt cháy mộng xâm lăng.
Lửa Quang Trung, nung nấu chí anh hùng.
Lửa! Lửa cháy! Cho sống còn dân tộc ...
Xin mượn câu cuối của bức tâm thư gửi tang quyến của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, do HT Huyền Việt đọc, để chấm dứt bài phóng sự này:
"Với thương đau vô hạn, thương tiếc vô tận và cũng tự hào vô cùng, thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện, nhân danh Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất xin thành tâm cầu nguyện Hương Linh Phật Tử Đồng Xuân Lê Thị Tuyết Mai cao đăng Phật Quốc và sớm hội nhập Ta Bà để cùng đàn em Gia Đình Phật Tử Việt Nam góp phần làm đẹp thơm Quê Mẹ."
Hiền Vy tường trình từ Houston.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/houst-memo-cer-l-t-t-mai-05262014061125.html
HÀ NHÂN VĂN * TRANG SỬ MỚI
THỜI ĐÃ ĐẾN! LỊCH SỬ VN SANG CHƯƠNG MỚI
VỚI ĐÔNG ĐÔ ĐẠI PHỐ, HD 981 SẼ DỜI VỀ BIỂN VŨNG TÀU!Hà Nhân Văn
Nếu không xảy ra một biến cố nào bất ngờ từ nay đến 15-8 tới đây, giàn khoan HD 981, "Lãnh thổ Trung quốc di động" sẽ dời xuống biển Vũng Tàu - Côn Sơn rồi Sóc Trăng - Cà Mâu như âm mưu của Trung cộng (TC) đã trù liệu. TC lập nhà máy chất đạm Cà Mâu và lập Đông Đô đại phố ở Bình Dương đều nằm trong âm mưu này theo sách lược "trường kỳ đại dương Nam tiến", đã thành ý thức hệ Đại Hán bành trướng Mao Trạch Đông, Bắc Kinh chuẩn bị thật chu đáo nhưng không qua được "luật Trời". Âm mưu thâm hiểm, "tàm thực", gậm nhấm VN và ĐNA không thoát được hàng trăm đôi mắt thầm kín của thế giới ngay từ trung tâm đầu não ĐCSTQ ở Bắc Kinh. Đau xót thay lãnh đạo VN lại tự bịt mắt và mù lòa do đặt Đảng trên hết, phủ kín đầu bằng tấm khăn "16 chữ vàng, 4 tốt".
TẠI SAO LẠI VŨNG TÀU?
Cách nay vừa tròn 20 năm, nhóm giáo sư kinh tế, tài chính của ĐH Harvard, Hoa Kỳ, thuộc viện phát triển quốc tế đã giúp Hà Nội lập một đại dự án "cải cách kinh tế VN" gọi là Theo hướng Rồng Bay, dành chương X về dự án Năng lượng, do Giáo sư Charles L. Johnson nghiên cứu và soạn thảo công phu chi tiết, thực tế và khả thi, Gs. Johnson phân ra từng đề mục với số liệu từ thực tế hiện trường (field) về "Ngành dầu và khí VN": 1. Trữ lượng và tiềm năng dầu và khí. 2. Quá trình thăm dò dầu và khí. 3. Sản xuất dầu. 4. Tiền thu dầu. 5. Luật dầu khí, thỏa thuận khai thác và vấn đề thuế. 6. Nhà máy lọc dầu. 7. Các công ty dầu khí quốc gia. 8. Ngành khí tự nhiên. 9. Tiềm năng khí đốt tự nhiên. 10. Những trở ngại của việc phát triển công nghiệp khí đốt.
Về trữ lượng và tiềm năng dầu khí, từ vịnh Bắc Việt đến vùng biển trên thềm lục địa VN Quảng Ngãi, Qui Nhơn, dầu và khí vùng này, một vùng rộng lớn trải dài, Gs. Johnson gọi là cỡ tiềm năng trung bình (Medium oil an dgas potential). Thềm lục địa VN từ ngoài khơi Vũng Tàu, bao trùm khu vực đảo Côn Sơn đến tận Cà Mâu, Gs. Johnson đặt vào tầng cấp cao, gọi là "High oil and gas potential", nghĩa là đây là vùng giàu có trữ lượng dầu khí của VN. Theo một bản nghiên cứu tường tận khác của liên công ty dầu khí Hoa Kỳ thì trữ lượng vùng này lớn nhất ĐNA, hơn cả Brunei trước đây. Ngoài ra vùng thềm lục địa VN ngoài khơi Cà Mâu - Rạch Giá cũng phong phú nhưng trung bình (Medium oil & gas potential). Phẩm chất rất tốt. Hẳn nhiên Tổng công ty dầu khí TQ CNOOC có tài liệu quí giá này.
Dầu - khí vùng Đà Nẵng - Quảng Ngãi nơi TQ vừa đặt giàn khoan HD 981 không phải loại tốt, trữ lượng lại không nhiều, không đáng đặt một giàn khoan nước sâu, vĩ đại và tối tân như giàn khoan HD 981. Các đại công ty dầu khí Hoa Kỳ đã biết quá rõ nên không ham vì trữ lượng không đáng, mất công tinh luyện khai thác. Vùng Vũng Tàu - Côn Sơn, Sóc Trăng Cà Mâu và vịnh Thái Lan (phía VN) rất đáng kể và như ta đã biết, các đại công ty dầu khí Mỹ đã đổ vốn vào vùng này như Crestcent, Conoco, kể cả Exxon - Mobil.
Vậy tại sao CNOOC cho HD 981 vào thềm lục địa VN như hiện nay để khởi công khoan sâu? Câu trả lời không phức tạp và khá đơn giản.
1. CNOOC là một đại công ty quốc doanh nằm trong chiến lược kinh tế, quốc phòng và đoạt Biển Đông của ĐNA, do vậy CNOOC có thể chấp nhận lỗ và bất chấp.
2. CNOOC nhắm đến trường kỳ: vùng biển VN ở Vũng Tàu, Côn Sơn, Sóc Trăng, Cà Mâu và vịnh Thái Lan mới là mục tiêu chính yếu. Do tính cách chính yếu ấy, bằng mọi cách TQ dụ VN, để TQ đặt chân trên nóc mái nhà Nam ĐD dưới danh nghĩa cùng VN khai thác mỏ Bô xít Đắc Nông (t. Quảng Đức cũ). Đây chỉ là trái hình để lập đỉnh cao chiến lược với tòa nhà sơn trắng, trung tâm ra đa với tầm nhìn toàn khu vực ĐNA - Nam TBD đường kính 300 km. Nhân Cơ thực sự là một trại lính trá hình công nhân TQ.
Có thể nói, 20 năm trước nhóm Gs. kinh tế ĐH Harvard đã nhìn thấy tiềm năng phong phú dầu khí của VN ở vùng chiến lược kể trên. Do vậy họ đề ra dự án xây 2 cảng Thị Vãi và Vũng Tàu. Dự án xây dựng hải cảng Thị Vãi với công suất 11 triệu tấn và hải cảng Bến Đình và Sao Mai ở Vũng Tàu 10 triệu công suất. Dự kiến (1994) vốn đầu tư vào 2 cảng này là 470 triệu USD, thời gian xây cất từ 1996 đến 2000, kế hoạch lâu dài sẽ nâng lên 60 triệu tấn (Theo Hướng Rồng Bay, ĐH Harvard, 1994, Gs. David O. Dapice, Chương II, tr. II/11).
Các đại công ty Mỹ đã khoan được với trữ lượng lớn nhưng rồi tạm đóng lại vì tình hình chính trị VN chưa thuận tiện. Từ Conoco đến Exxon Mobil tạm ngưng "để đấy" vì VN vẫn còn dưới chế độ CS lại vẫn trong vòng tay TC nên khá bấp bênh. Dự án xây nhà máy lọc dầu Bà Rịa và ống dẫn dầu Vũng Tàu cũng hoãn lại. Có thể nói, Hoa Kỳ đã nhìn thấy viễn tượng sẽ có một ngày TC "đánh" VN, xin lập lại: cách nay 20 năm, viện quốc tế, ĐH Harvard, Hoa Kỳ, trong kế hoạch giúp VN "cải cách kinh tế - theo hướng Rồng Bay" 1994, đã thẳng thắn khuyến cáo VN: "Một đất nước nghèo tăng trưởng chậm sẽ không có thế khi đàm phán (...) VN ngày nay không còn một nước nào bảo vệ, lại nghèo hơn nhiều so với TQ nên sẽ khó có thể chống cự nếu một lần nữa TQ tấn công như trước đây" (Gs. Wright H. Parkins (ĐH Harvard, Theo Hướng Rồng Bay, tlđd, chương mở đầu, tr. I/21 - Bản dịch của Ts. Cao Đức Phát).
Quả nhiên, 20 năm sau, TC không cần đánh mà ngang nhiên cho giàn khoan HD 981 vào thềm lục địa VN.
Viện Quốc Tế Harvard tiên liệu quá đúng. Mà đàm phán với ai? Với kẻ cướp đã vào trong nhà mình? Lẽ tất nhiên TC sẽ không dừng lại, sẽ thẳng đường Nam tiến về vùng biển Vũng Tàu Côn Sơn. Thực tế sẽ như viện PT Quốc tế Harvard đã nhìn thấy rõ. TC mở đầu cuộc tấn công VN trên biển lần thứ 2, VN không có một nước nào bảo vệ mà từ năm 1990 sau Hội nghị Thành Đô, Tứ Xuyên, VN đã dựa vào TC. Cho đến nay vẫn chỉ một TC "bảo vệ" VN theo tiêu chuẩn "16 chữ vàng 4 tốt" đầy dối trá, lừa bịp!
ASEAN: VN ẢO TƯỞNG!
Thượng đỉnh ASEAN ở Miến Điện vừa qua, có thể nói Phạm Bình Minh tận sức vận động để ít nhất ASEAN lên tiếng phản kháng. Nguyễn Tấn Dũng đọc một bài diễn văn phản kháng TC khá mạnh mẽ, kêu gọi ASEAN đứng về lẽ phải ủng hộ VN. Cuối cùng thất bại! Ngày 7-5, Thượng đỉnh bế mạc, Dũng - Minh bẽ bàng tay không về nước, thượng đỉnh ASEAN lờ hẳn, không đưa ra một lời tuyên bố nào. Có thể nói, NT Vương Nghị của TC đã thành công. Vả lại, bản chất ASEAN là như thế! ASEAN chỉ là một hiệp hội, lỏng lẻo, rời rạc, ấy là chưa nói bị TC mua chuộc và xé lẻ. Vả lại cũng không trách được các nước trừ Phi, Nam Dương đến Mã Lai đều sẵn sàng nhưng chính VN lại "câm như hến": ĐCSVN họp hội nghị TƯĐ, một tuần lễ, không hề thảo luận về biến cố nghiêm trọng này. Thậm chí quốc hội VN có nghĩa vụ phải hành động cấp kỳ: vẫn im thin thít, không một lời phản kháng. Mặt trận tổ quốc im lặng! Duy nhất ngày bế mạc hội nghị 14-5: TBT Nguyễn Phú Trọng đọc diễn văn bế mạc, chỉ dành hơn 3 dòng phản kháng chiếu lệ. Vậy làm sao lại trách thượng đỉnh ASEAN không lên tiếng! HĐ Giám mục Công giáo VN ra tuyên cáo phản đối ngay. Đảng CSVN ở đâu? Người ngoại quốc cũng không vô cảm lãnh đạm như Trọng và Hùng, lãnh đạo tối cao Đảng và Nhà nước trong khi Ns. John McCain sốt sắng lên tiếng phản kháng TQ xâm lược VN, trong khi NT John Kerry trực tiếp điện thoại với Vương Nghị, Ngoại trưởng TC, phản đối và gọi TQ là kẻ gây hấn với VN (13-5).
NHỤC NHÃ CHO VN!
Vừa được tin một Thứ trưởng BNG Bắc Kinh tuyên bố có thể khai thông, đàm phán, TBT Trọng đã hớn hở đón nhận ngay, theo tin Hà Nội, Trọng bỏ họp để lên máy bay qua Bắc Kinh xin yết kiến CT Tập Cận Bình. CT Bình từ chối! Rất chính xác, lấy tin từ phía TC, nhật báo The New York Times cho phổ biến tin "nóng" này "Bình từ chối không gặp Trọng" (xem N.Y. Times, bài của Bradsher, "China and Vietnam at impasse over drilling rig in S. Chinasea", 5-12-2014). Sao mà hèn hạ đến như thế! Đàm phán cái gì? Trọng xin gặp Bình để "xin TQ rút giàn khoan HD 981 khỏi lãnh hải VN! Đây là câu trả lời của TQ: Ngày 15-5-2014 nhân chuyến công du thăm Ngũ giác đài, Tướng Phòng Phong Huy, Tổng tham mưu trưởng QĐTQ (GPQ) họp báo chung với Đại tướng Martin Dempsey, Chủ tịch UBTM Liên quân Hoa Kỳ, tướng Huy tuyên bố về vụ giàn khoan HD 981 đặt trên vùng biển VN như sau: "TQ đang áp dụng những biện pháp để bảo vệ giàn khoan 981 và bảo vệ cho nó liên tục hoạt động ở khu vực trên"!
Tướng Huy công khai hóa, hải quân TQ tham dự cuộc chiếm đóng trên biểnVN. Phùng Q. Thanh, Tổng tư lệnh QĐNDVN đang ở đâu vậy? Sao lại dán băng keo trên miệng? Khởi đầu ngày 1-5 hộ tống giàn khoan HD 981 đến sâu vào thềm lục địa VN 80 hải lý, TC huy động 80 tàu trong đó có khu trục hạm hỏa tiễn. NGày 14 tăng lên 86 chiếc. Ngày thứ Sáu 16, tăng lên 99 chiếc bao quanh giàn khoan đã thu hẹp lại 4.5 dặm. Số tàu của TC gồm: 2 hộ tống hạm, 2 vận tải hạm thiết trí các giàn hỏa tiễn, 2 tàu lớn đổ bộ còn lại là các tàu Ngư giám và 30 tàu đánh cá trá hình, bọc thép võ trang. Phía VN gồm 3 tàu lớn của Cảnh sát biển, 26 tàu cở nhỏ, đặc biệt còn có 20 tàu đánh cá nhỏ của ngư dân vòng qua vòng lại để yểm trợ tinh thần.
CẢ NƯỚC VN PHẪN NỘ
Cho đến ngày 15-5 đã có 20 tỉnh và thành phố từ Bắc vào Nam xuống đường biểu tình phản đối TC xâm lăng, hàng ngàn đồng bào đủ mọi thành phần xã hội, giới trẻ khá đông, 1000 sinh viên ĐH Thanh Hóa biểu tình ngày 14-5. Các cuộc biểu tình lớn đáng kể: Móng Cái (Quảng Ninh), Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hóa - Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Bình Dương, Đồng Nai, Vũng Tàu, Cần Thơ, Long Xuyên. TT Dũng trong cuộc gặp cử tri Hải Phòng (15-4), tuyên bố: "Biểu tình phản kháng TQ là chính đáng", nhắc lại "đừng bạo động". Đặc điểm của các cuộc biểu tình như sau: - Sàigòn tiên phong, khoảng trên 5,000, chia làm 3 nhóm: thân chính quân, tự phát và bất đồng, nhóm này chủ động, tập trung hàng ngàn người trước Nhà hát lớn (trụ sở QH cũ của VNCH) - Tại Hà Nội, nhiều cờ đỏ sao vàng và khẩu hiệu tung hô đảng, khoảng trên 3,000 người. - Tại Đà Nẵng, Đảng bộ thành phố sợ hãi "máu Quảng Nam nổi dậy" thì không biết sự gì sẽ xảy ra "có mà Trời ngăn", do vậy không cho phép xuống đường biểu tình mà "mít tinh" tại chỗ, không biểu ngữ, không một bóng cờ đỏ sao vàng. Ngọn lửa Nam - Ngãi đang bừng bừng trong lòng người, quê hương tiền phong đánh giặc ngoại xâm năm 1858. Cả đảo Lý Sơn nổi dậy!
Cần Thơ, rất đáng kể, hầu hết tự phát, đa số sinh viên nam nữ ĐH Cần Thơ tham dự, theo tin báo Đảng khoảng 2,000 nhưng càng lúc càng đông, khoảng 5,000. Đặc biệt không một bóng cờ đỏ sao vàng, các băng rôn biểu ngữ kẻ chữ trắng trên nền vải xanh da trời, chỉ thuần đả đảo TQ xâm lược, "Hoàng Sa Trường Sa là của VN", không một khẩu hiệu nào của Đảng!
THÔNG ĐIỆP GỞI BẮC KINH
Sôi động nhất là khu công nghiệp Bình Dương. Thật quá bất ngờ. Từ lâu nay, Bình Dương coi như nhượng địa của TQ (the concession), nơi Bắc Kinh ngang ngược xây Đông đô đại phố, nghĩa là Bắc Kinh rồi Nam Kinh, nay thêm thủ đô mới của TQ. Từ cổng vào Đông đô, chữ đại tự và câu đối Hoa ngữ hùng tráng. Đây là "Bắc Kinh" ở mieên Nam VN. Sử gia Đỏ Phạm Văn Lân trong bộ "TQ Thông sử giản biên, T.I" sửa lại sử, trắng trợn bịa đặt gọi là Hạ Giao Chỉ (tên gọi VN thời Đô hộ Hán) (xưa là Nam Hà thời chúa Nguyễn Đàng Trong. Năm 1834, vua Minh Mệnh đổi là Nam Kỳ. Ngày 17-4-1945, chính phủ Trần Trọng Kim đổi là Nam Bộ).
Chiều thứ Hai 13-5, công nhân ở một doanh nghiệp TQ vừa tan ca, còn mặc áo xanh đồng phục, thế là tự phát biểu tình "đả đảo TQ xâm lược". Kể cả công nhân làm thêm ca cũng bỏ việc luôn, tham gia biểu tình, khoảng 200. Qua ngày 14 nổ to. Cả khu công nghiệp Sóng Thần - Bình Dương khoảng 5,000 công nhân, có khẩu hiệu "TQ cút về nước". Rồi bạo động, đốt phá! Các công ty Tân Gia Ba và Đài Loan bị vạ lây do bị lầm cùng là người Tàu Hoa Lục. Bỏ qua phần quá khích bạo động (có thể do một âm mưu nào đó) tập thể công nhân đã quên cả "miếng cơm manh áo" thiết thân hàng ngày, đặt sinh mệnh của Tổ quốc VN lên trên hết. Tất cả cùng một tiếng "Đả đảo TQ xâm lược".
- Vụ thứ 2, khu kỹ nghệ Vũng Áng, h. Kỳ Anh, Hà Tĩnh, tưởng rằng đã Hoa hóa. Thị trấn Núi đã Hoa hóa tựa như một thị trấn ở ngoại ô Bắc Kinh hay Thượng Hải. Vậy mà chỉ qua một đêm, Vũng Áng như "trời sập", bão tố nổi lên. Bất hạnh, hãng luyện thép Formosa của Đài Loan bị vạ lây, bị đập phá, 149 người bị thương ở Vũng Áng. Tin từ bệnh viện Kỳ Anh số tử nạn lên tới 21 người, Đài Loan và VN! Đây là tai họa đáng tiếc nhất và cũng là kinh nghiệm máu do các thành phần quá khích không phân biệt được giữa bạn và thù, do ngộ nhận giữa người Hoa Hoa Lục và người Đài Loan.
Tin nóng vừa cho biết, Bắc Kinh đang khai thác vụ Formosa để lôi kéo Đài Loan vào một chiến tuyến, đánh vào "tự hào TQ" nhưng nên nhớ rằng TC hay TQ Đỏ không phải đích thực là TQ! Chắc rằng Đài Loan sẽ thông cảm.
Ngoại trừ vụ bạo động ở Bình Dương và tai nạn rất đáng tiếc và phải chặn đứng như ở Formosa, nói chung, các cuộc biểu tình đã và đang tiếp diễn đã nói lên sức mạnh ái quốc và bất khuất của dân tộc VN. Đây là võ khí mạnh nhất mà VN sẵn có, một thông điệp mà Bắc Kinh không thể coi thường.
Bắc Kinh sẽ đánh tiếp VN bằng đòn kinh tế, lôi kéo theo Đài Loan nhưng không dễ!
Sẽ không đi đến đâu vì cái hèn hạ khiếp nhược của lãnh đạo VN. Ta có câu nói nôm na: "để lâu cứt trâu hóa bùn". Trường Sa và HD 981 lại sẽ như Hoàng Sa 1974. Bao lâu tập đoàn lãnh đạo VNCS tay sai Bắc Kinh còn nhởn nhơ tác yêu tác quái ở bộ CT-ĐCSVN bấy lâu Đại Hán Đỏ vẫn tiếp tục thôn tính VN. Thủ đoạn của TQ Đỏ muôn hình vạn trạng và đã đánh trúng vào cái hèn và bạc nhược của nhóm lãnh đạo ĐCSVN. Với HD 981 xâm lược lại là cơ hội lớn, rất lớn cho một VN chuyển mình lật qua trang sử mới.
HÀ NHÂN VĂN
TRẦN KHẢI * CHỦ NGHĨA THỰC DÂN MỚI
Chủ Nghĩa Thực Dân Mới?
25/05/2014
Có phải VN đã rơi vào bẫy của một chủ nghĩa thực dân mới? Với nhiều nhà nghiên cứu, đã thấy rõ như thế.
Nhưng chủ nghĩa thực dân là gì?
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia giải thích, trích như sau:
“Chủ nghĩa thực dân là chính sách tạo dựng và duy trì hình thức thuộc địa của một người dân ở lãnh thổ này lên một lãnh thổ khác. Mẫu quốc là nước tuyên bố chủ quyền đối với những thuộc địa này. Cấu trúc xã hội, chính quyền và kinh tế của lãnh thổ bị quốc gia thực dân áp đặt thay đổi.
Chủ nghĩa thực dân thường dùng để nhắc đến một giai đoạn lịch sử từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 20 khi những người châu Âu tiến hành xây dựng các thuộc địa của mình tại các lục địa khác. Những lý do để thực hiện chính sách thực dân trong thời kỳ này bao gồm:
- Thu lợi về kinh tế.
- Mở rộng uy quyền của mẫu quốc.
- Trốn thoát sự ngược đãi tại mẫu quốc.
- Cải đạo cho người dân bản xứ sang tín ngưỡng của những người thực dân.”(hết trích)
Và Chủ nghĩa thực dân mới là gì?
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia giải thích:
“Chủ nghĩa thực dân mới là thuật ngữ chỉ việc sử dụng chủ nghĩa tư bản, toàn cầu hóa và các công cụ văn hóa để kiểm soát một quốc gia (thường là cựu thuộc địa của các cường quốc châu Âu ở châu Phi hoặc châu Á) thay vì kiểm soát trực tiếp quân sự hoặc chính trị. Việc kiểm soát có thể thông qua kinh tế, văn hóa, ngôn ngữ; bằng cách thúc đẩy nền văn hóa riêng của một nhóm người, ngôn ngữ hoặc các phương tiện truyền thông ở thuộc địa, làm lan tràn các giá trị văn hóa kiểu phương Tây vốn xa lạ (thậm chí độc hại) vào các nước này. Các Tập đoàn tư bản đa quốc gia thông qua những tác động này sẽ tạo sức ép mở cửa thị trường và thực thi các chính sách có lợi cho họ ở những quốc gia này. Như vậy, mục tiêu cuối cùng của Chủ nghĩa thực dân mới cũng tương tự như chủ nghĩa tư bản, chính là lợi nhuận...
...Thuật ngữ Chủ nghĩa thực dân mới cũng có thể dùng để chỉ sự cai trị trực tiếp của một quốc gia lên một nước khác, vốn vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc cũng như sự can thiệp của các doanh nghiệp tư bản hiện đại vào các nước thuộc địa cũ. Những người chỉ trích Chủ nghĩa thực dân mới cho rằng các tập đoàn đa quốc gia vẫn tiếp tục khai thác các nguồn lực của các quốc gia cựu thuộc địa với giá rẻ mạt, và kiểm soát nền kinh tế của các nước này, tương tự như chủ nghĩa thực dân cổ điển vẫn tiến hành từ thế kỷ 16 đến 20. Trong phạm vi rộng hơn, thuật ngữ chỉ đơn giản là sự chi phối của các cường quốc vào công việc của các nước nhỏ, điều này đặc biệt đúng với Mỹ Latinh hiên nay. Theo nghĩa này, Chủ nghĩa thực dân mới ngụ ý một hình thức của "chủ nghĩa đế quốc kinh tế" hiện đại: các cường quốc có quyền hạn tối thượng với thuộc địa như của chủ nghĩa đế quốc...
...Khác với Chủ nghĩa thực dân cổ điển, Chủ nghĩa thực dân kiểu mới không tiến hành chiến tranh xâm lược, hoặc chỉ tiến hành gián tiếp thông qua chính phủ bù nhìn bản xứ mà nó dựng lên. Trên danh nghĩa, thực dân kiểu mới không trực tiếp dùn từ "thuộc địa" như thực dân cổ điển, và cũng không chính thức sát nhập nước thuộc địa vào lãnh thổ chính quốc. Thay vào đó, chính phủ bù nhìn sẽ giúp chính quốc kiểm soát, khống chế lãnh thổ và khai thác tài nguyên, trên danh nghĩa "hợp tác với đồng minh thân cận"...”(hết trích)
Như thế, Việt Nam đã rơi vào Chủ nghĩa thực dân mới như thế nào?
Bài viết tựa đề “Chiến Lược Thực Dân Kiểu Mới của Trung Quốc ở Việt Nam” của nhà nghiên cứu Minh Nam trên mạng viet-studies.info/ ghi nhận, trích như sau:
“...Chiến lược của Trung Quốc thường bao gồm các bước như sau.
Đầu tiên, Trung Quốc sẽ tuyên bố là không can thiệp vào công việc nội bộ của đối phương, nhưng đồng thời, thông qua các dự án kinh tế và các hỗ trợ tài chính, giúp phe thân Trung Quốc nắm quyền. Trung Quốc sẽ cô lập những cấp lãnh đạo thân Trung Quốc với nhân dân nhằm làm suy yếu tính chính danh của các cấp lãnh đạo này. Các cấp lãnh đạo này muốn giữ quyền do đó phải dựa vào nhóm thân Trung Quốc và do đó các cấp lãnh đạo sẽ bị gián tiếp điều khiển bởi Trung Quốc.
Bước tiếp theo, Trung Quốc giới thiệu mô hình kinh tế của mình như một mô hình mẫu để theo đuổi: mô hình kinh tế độc tài lãnh đạo. Trung Quốc giới thiệu mô hình này với mục đích khuyến khích các quốc gia độc tài tiếp tục duy trì thể chế độc tài, với mục tiêu để phát triển kinh tế. Nhưng bằng cách giúp duy trì một chế độ độc tài thân Trung Quốc như vậy, Trung Quốc dễ dàng tác động và thực thi các chính sách thực dân kiểu mới hơn. Các cấp lãnh đạo độc tài thân Trung Quốc do đó sẽ đóng vai trò như các thái thú của Trung Quốc.
Sau khi nắm được các cấp lãnh đạo, Trung Quốc sẽ cung cấp các khoản tín dụng “hỗ trợ” cho các nước này và các công ty Trung Quốc bắt đầu đổ vào thị trường. Hàng hóa Trung Quốc tràn ngập và nước này nhanh chóng trở thành một thị trường tiêu thụ của Trung Quốc. Các doanh nghiệp của Trung Quốc, cùng với công nhân, theo vào các dự án của Trung Quốc, làm việc và khi xong hợp đồng sẽ tìm cách ở lại. Một mặt khác, các doanh nghiệp Trung Quốc được sự đỡ đầu của chính phủ Trung Quốc sẽ mua các mỏ quặng và tài nguyên với giá rẻ mạt do thông đồng với giới cầm quyền. Chính quyền độc tài địa phương hưởng lợi từ quan hệ Trung Quốc, khi Trung Quốc tuyên bố không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, ngược lại Trung Quốc hưởng lợi từ tài nguyên, các nước này là thị trường tiêu thụ hàng hóa Trung Quốc, và hơn nữa, các chính quyền độc tài này là vây cánh ủng hộ Trung Quốc trên các mặt trận ngoại giao quốc tế.
Các nước độc tài này nghiễm nhiên trở thành một chư hầu của Trung Quốc dưới con mắt của thế giới và bị Trung Quốc khống chế về kinh tế, ngoại giao và chính trị.
Nhìn lại các chiến lược trên, hẳn các bạn sẽ giật mình rằng Việt Nam đã bị Trung Quốc đô hộ với mô hình thực dân kiểu mới từ rất lâu rồi. Mang giàn khoan vào biển chỉ là một trong những bước cuối cùng.”(hết trích)
Như thế, diễn tiến là tất yếu. Bây giờ, nếu không dựa vào sức toàn dân, hẳn là khó gỡ vòng Bắc thuộc vậy.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia giải thích:
“Chủ nghĩa thực dân mới là thuật ngữ chỉ việc sử dụng chủ nghĩa tư bản, toàn cầu hóa và các công cụ văn hóa để kiểm soát một quốc gia (thường là cựu thuộc địa của các cường quốc châu Âu ở châu Phi hoặc châu Á) thay vì kiểm soát trực tiếp quân sự hoặc chính trị. Việc kiểm soát có thể thông qua kinh tế, văn hóa, ngôn ngữ; bằng cách thúc đẩy nền văn hóa riêng của một nhóm người, ngôn ngữ hoặc các phương tiện truyền thông ở thuộc địa, làm lan tràn các giá trị văn hóa kiểu phương Tây vốn xa lạ (thậm chí độc hại) vào các nước này. Các Tập đoàn tư bản đa quốc gia thông qua những tác động này sẽ tạo sức ép mở cửa thị trường và thực thi các chính sách có lợi cho họ ở những quốc gia này. Như vậy, mục tiêu cuối cùng của Chủ nghĩa thực dân mới cũng tương tự như chủ nghĩa tư bản, chính là lợi nhuận...
...Thuật ngữ Chủ nghĩa thực dân mới cũng có thể dùng để chỉ sự cai trị trực tiếp của một quốc gia lên một nước khác, vốn vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc cũng như sự can thiệp của các doanh nghiệp tư bản hiện đại vào các nước thuộc địa cũ. Những người chỉ trích Chủ nghĩa thực dân mới cho rằng các tập đoàn đa quốc gia vẫn tiếp tục khai thác các nguồn lực của các quốc gia cựu thuộc địa với giá rẻ mạt, và kiểm soát nền kinh tế của các nước này, tương tự như chủ nghĩa thực dân cổ điển vẫn tiến hành từ thế kỷ 16 đến 20. Trong phạm vi rộng hơn, thuật ngữ chỉ đơn giản là sự chi phối của các cường quốc vào công việc của các nước nhỏ, điều này đặc biệt đúng với Mỹ Latinh hiên nay. Theo nghĩa này, Chủ nghĩa thực dân mới ngụ ý một hình thức của "chủ nghĩa đế quốc kinh tế" hiện đại: các cường quốc có quyền hạn tối thượng với thuộc địa như của chủ nghĩa đế quốc...
...Khác với Chủ nghĩa thực dân cổ điển, Chủ nghĩa thực dân kiểu mới không tiến hành chiến tranh xâm lược, hoặc chỉ tiến hành gián tiếp thông qua chính phủ bù nhìn bản xứ mà nó dựng lên. Trên danh nghĩa, thực dân kiểu mới không trực tiếp dùn từ "thuộc địa" như thực dân cổ điển, và cũng không chính thức sát nhập nước thuộc địa vào lãnh thổ chính quốc. Thay vào đó, chính phủ bù nhìn sẽ giúp chính quốc kiểm soát, khống chế lãnh thổ và khai thác tài nguyên, trên danh nghĩa "hợp tác với đồng minh thân cận"...”(hết trích)
Như thế, Việt Nam đã rơi vào Chủ nghĩa thực dân mới như thế nào?
Bài viết tựa đề “Chiến Lược Thực Dân Kiểu Mới của Trung Quốc ở Việt Nam” của nhà nghiên cứu Minh Nam trên mạng viet-studies.info/ ghi nhận, trích như sau:
“...Chiến lược của Trung Quốc thường bao gồm các bước như sau.
Đầu tiên, Trung Quốc sẽ tuyên bố là không can thiệp vào công việc nội bộ của đối phương, nhưng đồng thời, thông qua các dự án kinh tế và các hỗ trợ tài chính, giúp phe thân Trung Quốc nắm quyền. Trung Quốc sẽ cô lập những cấp lãnh đạo thân Trung Quốc với nhân dân nhằm làm suy yếu tính chính danh của các cấp lãnh đạo này. Các cấp lãnh đạo này muốn giữ quyền do đó phải dựa vào nhóm thân Trung Quốc và do đó các cấp lãnh đạo sẽ bị gián tiếp điều khiển bởi Trung Quốc.
Bước tiếp theo, Trung Quốc giới thiệu mô hình kinh tế của mình như một mô hình mẫu để theo đuổi: mô hình kinh tế độc tài lãnh đạo. Trung Quốc giới thiệu mô hình này với mục đích khuyến khích các quốc gia độc tài tiếp tục duy trì thể chế độc tài, với mục tiêu để phát triển kinh tế. Nhưng bằng cách giúp duy trì một chế độ độc tài thân Trung Quốc như vậy, Trung Quốc dễ dàng tác động và thực thi các chính sách thực dân kiểu mới hơn. Các cấp lãnh đạo độc tài thân Trung Quốc do đó sẽ đóng vai trò như các thái thú của Trung Quốc.
Sau khi nắm được các cấp lãnh đạo, Trung Quốc sẽ cung cấp các khoản tín dụng “hỗ trợ” cho các nước này và các công ty Trung Quốc bắt đầu đổ vào thị trường. Hàng hóa Trung Quốc tràn ngập và nước này nhanh chóng trở thành một thị trường tiêu thụ của Trung Quốc. Các doanh nghiệp của Trung Quốc, cùng với công nhân, theo vào các dự án của Trung Quốc, làm việc và khi xong hợp đồng sẽ tìm cách ở lại. Một mặt khác, các doanh nghiệp Trung Quốc được sự đỡ đầu của chính phủ Trung Quốc sẽ mua các mỏ quặng và tài nguyên với giá rẻ mạt do thông đồng với giới cầm quyền. Chính quyền độc tài địa phương hưởng lợi từ quan hệ Trung Quốc, khi Trung Quốc tuyên bố không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, ngược lại Trung Quốc hưởng lợi từ tài nguyên, các nước này là thị trường tiêu thụ hàng hóa Trung Quốc, và hơn nữa, các chính quyền độc tài này là vây cánh ủng hộ Trung Quốc trên các mặt trận ngoại giao quốc tế.
Các nước độc tài này nghiễm nhiên trở thành một chư hầu của Trung Quốc dưới con mắt của thế giới và bị Trung Quốc khống chế về kinh tế, ngoại giao và chính trị.
Nhìn lại các chiến lược trên, hẳn các bạn sẽ giật mình rằng Việt Nam đã bị Trung Quốc đô hộ với mô hình thực dân kiểu mới từ rất lâu rồi. Mang giàn khoan vào biển chỉ là một trong những bước cuối cùng.”(hết trích)
Như thế, diễn tiến là tất yếu. Bây giờ, nếu không dựa vào sức toàn dân, hẳn là khó gỡ vòng Bắc thuộc vậy.
unday, May 25, 2014
TÒA ĐẠI SỨ MỸ TẠI HÀ NỘI NHẬN ĐỊNH
Tòa Đại Sứ Mỹ Tại Hà Nội Đánh Giá Tình Hình Việt Nam
AZ
May 24, 20140 Bình Luận
May 24, 20140 Bình Luận
Tài Liệu Đánh Giá Từ Hà-Nội
Nhận
được tập tài liệu rất đáng chú ý từ nguồn ẩn danh, theo nhận định thì
đây đều là những văn bản có xuất xứ từ Tổng cục 2 – Bộ Quốc Phòng Việt
Nam (tức Tổng cục Tình Báo). Nội dung các tài liệu liên quan đến nhiều
vấn đề thời sự mà dư luận đang rất quan tâm. Bên cạnh đó là những đánh
giá, nhận định theo quan điểm của những người hiện đứng trong hàng ngũ
Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN)… Nhưng qua hình thức thì tập tài liệu này
có thể xuất xứ từCục 16, thuộc Tổng cục 2, là các bản báo cáo. Mời quý
độc giả cùng đọc, theo dõi và nhận xét.
Embassy of United States Ha Noi
Toà Đại Sứ Mỹ Tại Hà Nội Đánh Giá Rất Chính Xác Tình Hình Thật Sự Tại Việt Nam Hiện Nay
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Số /2012/BRC Ngày 23 tháng 4 năm 2012 Số trang:4, Nguồn: S(A.199)
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Số /2012/BRC Ngày 23 tháng 4 năm 2012 Số trang:4, Nguồn: S(A.199)
Báo Cáo
Đánh giá của Mỹ về thực trạng tình hình kinh tế,xã hội Việt Nam và thái độ của Mỹ trong việc khai triển chiến lược “Diễn Biến Hòa Bình” đối với Việt Nam.
Đánh giá của Mỹ về thực trạng tình hình kinh tế,xã hội Việt Nam và thái độ của Mỹ trong việc khai triển chiến lược “Diễn Biến Hòa Bình” đối với Việt Nam.
I. TRƯỜNG HỢP LẤY TIN
Tổng hợp qua quá trình tiếp xúc trực tiếp Claire Pierangelo/Phó Đại sứ Mỹ tại Hà Nội, Gary/Phòng chính trị Bộ Ngoại giao Mỹ; Greg/Thiếu tá pháo binh Mỹ; Chuck/Đại úy TQLC Hoa kỳ, từ 20.3.2012 đến nay.
Tổng hợp qua quá trình tiếp xúc trực tiếp Claire Pierangelo/Phó Đại sứ Mỹ tại Hà Nội, Gary/Phòng chính trị Bộ Ngoại giao Mỹ; Greg/Thiếu tá pháo binh Mỹ; Chuck/Đại úy TQLC Hoa kỳ, từ 20.3.2012 đến nay.
II. NỘI DUNG TIN
Bà
Claire Pierangelo 1. Thực trạng tình hình kinh tế – xã hội VN hiện nay:
Theo đánh giá của Claire Pierangelo: “Nền kinh tế Việt Nam hiện nay
đang tồn đọng rất nhiều vấn đề và hao tốn rất nhiều thời gian để khắc
phục. Vấn đề lớn nhất của Việt Nam chính là lợi ích phe nhóm và tính
nhiệm kỳ của các lãnh đạo quá cao, quá điển hình mà không có tầm nhìn
dài hạn. Tất cả các giải pháp chính sách được đưa ra chỉ có tính thời
vụ, tạm thời. Các tập đoàn kinh tế của nhà nước được hưởng quá nhiều lợi
ích và chính phủ Việt Nam hầu như chỉ in tiền phục vụ nhóm này trong
khi hiệu quả đầu tư công vô cùng thấp, tham nhũng tràn lan. Trong khi
đó, các công ty, doanh nghiệp tư nhân là những người sản xuất và đem lại
nhiều lợi ích cho xã hội hơn cả thì lại thiếu đi những sự hỗ trợ và gặp
rất nhiều khó khăn”…
“Ở
Việt Nam hiện nay, danh từ “tái cơ cấu” được chính phủ và báo chí nhắc
tới rất nhiều nhưng không có nội dung và hành động cụ thể đi kèm. Chính
phủ VC hiểu vấn đề của họ, nhưng những lợi ích nhóm và cá nhân đang làm
mờ mắt và chậm bước trên con đường thay đổi”.
Claire Pierangelo phân tích: “Đáng lẽ kinh tế Việt Nam phải vững vàng rất nhiều chứ không phải ở tình trạng bưng bít và vá sửa lung tung như hiện nay. Mặc dù chính phủ VC đang cố gắng che đậy những bất cập, yếu kém của nền kinh tế nhưng người dân Việt Nam ai cũng biết nguyên căn của sự yếu kém đó. Tiền chỉ tập trung vào một số ít người và nhóm nhất định. Bọn lãnh đạo VC ai cũng rất giàu, có tiền gửi ở khắp các Ngân hàng trên thế giới. Điển hình là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hoặc nhiều Bộ trưởng, người nào cũng rất giàu. Tiền của họ chính là tiền của Nhà nước. Rõ ràng, tham nhũng tại Việt Nam đã trở thành một căn bệnh trầm kha, tới mức nói tới cái gì xấu người dân cũng đều gán cho cái mác “Cộng sản”…
Bên
cạnh vấn đề tham nhũng thì vấn đề đất đai cũng đang gặp những bất mãn
và phản ứng gay gắt từ xã hội. Chính phủ VC thực sự đang đánh mất lòng
dân trong khi xã hội Việt Nam lại đang tồn tại quá nhiều vấn đề…
Nhiều nhà khoa học và học giả Việt Nam hiện nay thường đề cập tới các vấn đề của xã hội Trung cộng (TC) và cho rằng, Tc khó có thể phát triển vì quá nhiều vấn đề và bất cập xã hội. Tuy nhiên,thực tế Chính phủ VC cũng đang gặp những vấn đề tương tự Tc, thậm chí còn tồi tệ hơn Tc, vì Chính phủ VC không dám thẳng tay làm gì, ngược lại cố tình bao che, dung túng cho các sai lầm. Đây chính là yếu tố để Việt Nam “tự diễn biến” một cách hết sức hòa bình và tự nhiên”.
Nhiều nhà khoa học và học giả Việt Nam hiện nay thường đề cập tới các vấn đề của xã hội Trung cộng (TC) và cho rằng, Tc khó có thể phát triển vì quá nhiều vấn đề và bất cập xã hội. Tuy nhiên,thực tế Chính phủ VC cũng đang gặp những vấn đề tương tự Tc, thậm chí còn tồi tệ hơn Tc, vì Chính phủ VC không dám thẳng tay làm gì, ngược lại cố tình bao che, dung túng cho các sai lầm. Đây chính là yếu tố để Việt Nam “tự diễn biến” một cách hết sức hòa bình và tự nhiên”.
Ngoài
ra, qua tìm hiểu được biết: Từ 20.3.2012 đến nay, theo sự bố trí, sắp
xếp và điều khiển của Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc Phòng Mỹ, 3 nhân viên Mỹ là
Gary/Phòng chính trị Bộ Ngoại giao Mỹ; Grek/Thiếu tá thuộc Pháo Binh và
Chuck/Đại úy Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (đây đều là những nhân viên
được đào tạo tại Đại học John Hopkins – Lò đào tạo CIA/Mỹ) đã được cử
sang để khảo sát tình hình Việt Nam và báo cáo về Bộ Ngoại giao Mỹ.
Sau
một thời gian ngắn thực hiện nhiệm vụ ở Việt Nam, những nhân viên này
đã được Bộ Ngoại giao Mỹ đánh giá là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và
tiếp tục được chỉ thị ở lại để khảo sát tình hình và nắm bắt tin tức
thêm một thời gian nữa. Một số vấn đề mang tính kết luận liên quan đến
tình hình Việt Nam đã được 3 nhân viên này báo cáo về Mỹ gần đây như
sau:
Thứ
nhất, người dân Việt Nam hiện đang rất bất mãn với chế độ. Tại các quán
café, quán bia, quán trà (phổ biến của giới trẻ Việt Nam)… các vấn đề
mà mọi người thường đề cập là vấn đề tham nhũng, vấn đề biển Đông và
quan hệ Việt – Trung với thái độ chỉ trích cách hành xử của Chính quyền.
Thứ
hai, người dân Việt Nam hiện nay rất ghét Trung cộng (TC). Không chỉ vì
Tc “chơi bẩn” trong vấn đề chủ quyền lãnh thổ mà còn do cách hành xử
của Chính phủ VC với Chính phủ Tc. Đáng chú ý, Mỹ và các vấn đề liên
quan tới Mỹ hiện đã không còn là vấn đề thời sự được người dân Việt Nam
nhắc đến. Trong khi đó, Tc mới thực sự là đối tượng hay được nhắc đến
như một kẻ thù chủ yếu và trực tiếp của Việt Nam. Người Mỹ có thể yên
tâm rằng Việt Nam sẽ không bao giờ thân với người TC. Sự gần gũi của VC
hiện nay đối với TC chỉ mang lại những hiệu ứng tiêu cực, càng làm cho
người dân Việt Nam chán ghét và phản kháng lại Chính phủ nhiều hơn.
Thứ
ba, người dân Việt Nam hiện đang bị Mỹ hóa rất nhanh. Thời gian qua,
cuộc cách mạng về văn hóa của Mỹ đã có sự lan tỏa và phát triển sâu rộng
trong toàn xã hội Việt Nam. Người dân Việt Nam hiện không còn căm ghét
Mỹ như 10 – 15 năm trước nữa, ngược lại trở nên thân thiện với Mỹ nhiều
hơn. Người Việt Nam rất mến khách và dần dần đã coi người Mỹ thực sự là
bạn. Đáng chú ý, rất nhiều người Việt Nam (kể cả giới viên chức) có tư
tưởng bài TC thậm chí còn coi Mỹ là một cứu cánh cho Việt Nam.
Grek bộc
lộ rằng: “Nếu như các nhà hoạch định chính sách Mỹ hiểu rõ hơn về tình
hình Việt Nam như cách chúng tôi hiểu thì người Mỹ chắc chắn sẽ có cách
đến gần Việt Nam khác nhiều so với trước. Người Mỹ chưa hiểu nhiều về
Việt Nam vì họ chưa có dịp sang đây và tiếp xúc với người dân Việt.
Nhiệm vụ của chúng tôi là sẽ làm cho người Mỹ hiểu rõ hơn về Việt Nam.
Đây là một chuyến đi rất thành công của chúng tôi và khi về nước, chúng
tôi sẽ giúp người Mỹ hiểu rõ hơn về Việt Nam, hiện đã ở rất gần Mỹ”.
2.
Một số hành động mới của Mỹ trong triển khai chiến lược “DBHB” đối với
Việt Nam thời gian tới: Claire Pierangelo cho rằng: “Vấn đề của Chính
phủ VC hiện nay không phải do bên ngoài đem tới mà là vấn đề chính của
VC gây ra. Nếu không giải quyết được các vấn đề này thì chính Việt Nam
sẽ gặp rắc rối lớn mà không cần ai/nước nào can thiệp…
Trước đây, Chính phủ Mỹ từng nghĩ rằng, Mỹ sẽ phải bằng cách này hay cách khác đổ thật nhiều tiền vào Việt Nam mới có thể đạt được các mục đích của mình, nhưng hiện nay việc làm này không còn cần thiết nữa. Chính phủ Mỹ không cần phải can thiệp hoặc đổ quá nhiều tiền vào Việt Nam, chỉ cần có những hành động cụ thể trong từng giai đoạn phù hợp, những hoàn cảnh nhất định thì Mỹ có thể đạt được mọi điều mình mong muốn ở Việt Nam”.
Trước đây, Chính phủ Mỹ từng nghĩ rằng, Mỹ sẽ phải bằng cách này hay cách khác đổ thật nhiều tiền vào Việt Nam mới có thể đạt được các mục đích của mình, nhưng hiện nay việc làm này không còn cần thiết nữa. Chính phủ Mỹ không cần phải can thiệp hoặc đổ quá nhiều tiền vào Việt Nam, chỉ cần có những hành động cụ thể trong từng giai đoạn phù hợp, những hoàn cảnh nhất định thì Mỹ có thể đạt được mọi điều mình mong muốn ở Việt Nam”.
Căn
cứ để đưa ra nhận định này đó là: Giới trẻ Việt Nam hiện nay đã khác
hẳn thế hệ đi trước. Tuổi 32 có thể coi là một mốc quan trọng cho ranh
giới giữa các thế hệ ở Việt Nam. Theo các cuộc điều tra, khảo sát và
nghiên cứu của Tòa đại sứ Mỹ tại Hà Nội: Ở Việt Nam hiện nay, những
người từ 32 tuổi trở xuống là một thế hệ mới, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm, tư tưởng rất phóng khoáng, văn hóa và cách nghĩ, cách
sống gần với phương Tây và Mỹ hơn. Thậm chí một số giới trẻ Việt Nam
hiện nay còn thuộc phim ảnh, âm nhạc và thời trang Mỹ nhiều hơn chính
những người Mỹ… Đây là một thành công lớn của Mỹ trong việc truyền bá
văn hóa Mỹ vào Việt Nam trong suốt thời gian vừa qua.
Claire
Pierangelo nói: “Không cần phải làm gì quá nhiều, biên giới Mỹ càng
ngày càng đến gần, thâm nhập sâu và mở rộng hơn tại Việt Nam. Tình trạng
“Mỹ hóa” đang xẩy ra nhanh chóng và ngày càng phổ biến trong giới trẻ.
Giới trẻ Việt Nam hiện nay cũng không còn chịu ảnh hưởng nhiều của thế
hệ đi trước, đặc biệt về tư tưởng, thái độ, lối sống, cách suy nghĩ mà
họ có xu hướng tách ra, độc lập và tự chịu trách nhiệm”… “Điều mà Mỹ lo
lắng là sự bền chặt trong mối quan hệ Việt-Trung. Tuy nhiên, Việt Nam
hiện đã đi xa khỏi vùng ảnh hưởng của văn hóa Tàu. Tư tưởng bài xích TC
luôn xuất hiện trong suy nghĩ của người dân Việt Nam, chính điều này lại
giúp văn hóa Mỹ gần với văn hóa Việt Nam hơn…”Những ưu tiên của Mỹ đối
với Việt Nam trong thời gian tới là:
-
Thứ nhất, trong thời gian tới, Mỹ sẽ tiếp tục khai thác và tập trung
vào giới trẻ Việt Nam nhiều hơn, nhất là lứa tuổi từ 32 trở xuống. Song
song với đó, Mỹ cũng sẽ tìm hiểu và khai thác tin tức từ cộng đồng dân
chúng để hiểu rõ hơn về thực trạng tình hình Việt Nam để có những chính
sách phù hợp. Đối với Mỹ, những tin tức có được qua quá trình tiếp xúc
với dân chúng là rất giá trị,thể hiện rõ thực trạng đất nước và xã hội
Việt Nam, nó khác hẳn với những tin tức từ Chính phủ. Qua sự tìm hiểu,
với các kết quả đạt được trong chuyến công tác Việt Nam vừa qua, Greg và
Chuck đã được Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao Mỹ điều động ở lại và tiếp
tục hỗ trợ cho Tùy viên quân sự Đại sứ Mỹ tại Hà Nội trong một thời gian
nữa để theo dõi sát về tình hình Việt Nam, nhất là những vấn đề liên
quan đến biển Đông và mối quan hệ Việt-Trung.
Đây là nhiệm vụ bất ngờ vì
Tòa đại sứ Mỹ tại Việt Nam vừa nhận được báo cáo mới nhất của Bộ Quốc
phòng Mỹ gửi sang có cho biết rằng: Sự căng thẳng gần đây giữa VC và TC
liên quan tới biển Đông có nguy cơ bùng nổ xung đột và Bộ Quốc phòng Mỹ
hiện đang muốn tìm hiểu quan điểm và phản ứng của Việt Nam về vấn đề
này. Đặc biệt, nhiệm vụ tối quan trọng mà Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng
Mỹ giao cho 2 nhân viên này là tăng cường tiếp xúc với các tầng lớp ở
Việt Nam để xây dựng mạng lưới quan hệ xã hội, tìm hiểu tâm lý và các
vấn đề quan tâm của người dân Việt Nam hiện nay (tự do báo chí, tôn
giáo, Intermet, vấn đề biển Đông, quan hệ Việt-Trung, Mỹ-Việt…) nhằm
phục vụ cho việc hoạch định chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam trong
thời gian tới. Vì chưa phải là giới chức ngoại giao Mỹ nên hoạt động của
2 nhân viên này ở Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi, có thể dễ dàng tiếp
xúc với mọi thành phần trong xã hội Việt Nam.
- Thứ hai, Mỹ sẽ tiếp tục sử dụng vấn đề nhân quyền để gây sức ép mạnh mẽ lên Việt cộng nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược của mình trong quan hệ Mỹ-Việt. Claire Pierangelo bộc lộ: “Trong thời gian tới, Mỹ sẽ tiếp tục quan tâm tới tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Vấn đề này tuy luôn nóng nhưng chỉ là một phương tiện để Chính phủ Mỹ đạt được những mục đích khác chứ không phải đây là mục đích thực sự của Chính phủ Mỹ tại Việt Nam…
Thực tế cho thấy, có rất nhiều chính phủ khác còn vi phạm nhân quyền nhiều hơn Việt Nam nhưng Chính phủ Mỹ không đề cập tới… Trong thời gian tới, dù chính quyền Việt Nam vẫn tiếp tục vi phạm nhân quyền, thậm chí mức độ vi phạm còn nghiêm trọng hơn, nhưng Chính phủ Mỹ có thể sẽ không đề cập nhiều.Tuy nhiên, đó là vấn đề của sau này, còn hiện tại thì nhân quyền vẫn sẽ là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Mỹ, Tòa đại sứ Mỹ sẽ gây sức ép với VC nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược của Mỹ”.
Claire Pierangelo khẳng định: “Với những gì đang diễn ra tại Việt Nam hiện nay có thể đi đến kết luận rằng: Trong 20 năm nữa, diện mạo Việt Nam sẽ thay đổi rất nhiều so với hiện nay. 10 năm tới vẫn sẽ là thời kỳ ‘hỗn loạn’, ‘tranh tối, tranh sáng’ nhưng 10 năm tiếp theo sẽ là một sự chuyển dịch ‘chóng mặt’. Rất có thể Chính phủ cộng sản cũng sẽ không còn tồn tại nữa”.
- Thứ hai, Mỹ sẽ tiếp tục sử dụng vấn đề nhân quyền để gây sức ép mạnh mẽ lên Việt cộng nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược của mình trong quan hệ Mỹ-Việt. Claire Pierangelo bộc lộ: “Trong thời gian tới, Mỹ sẽ tiếp tục quan tâm tới tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Vấn đề này tuy luôn nóng nhưng chỉ là một phương tiện để Chính phủ Mỹ đạt được những mục đích khác chứ không phải đây là mục đích thực sự của Chính phủ Mỹ tại Việt Nam…
Thực tế cho thấy, có rất nhiều chính phủ khác còn vi phạm nhân quyền nhiều hơn Việt Nam nhưng Chính phủ Mỹ không đề cập tới… Trong thời gian tới, dù chính quyền Việt Nam vẫn tiếp tục vi phạm nhân quyền, thậm chí mức độ vi phạm còn nghiêm trọng hơn, nhưng Chính phủ Mỹ có thể sẽ không đề cập nhiều.Tuy nhiên, đó là vấn đề của sau này, còn hiện tại thì nhân quyền vẫn sẽ là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Mỹ, Tòa đại sứ Mỹ sẽ gây sức ép với VC nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược của Mỹ”.
Claire Pierangelo khẳng định: “Với những gì đang diễn ra tại Việt Nam hiện nay có thể đi đến kết luận rằng: Trong 20 năm nữa, diện mạo Việt Nam sẽ thay đổi rất nhiều so với hiện nay. 10 năm tới vẫn sẽ là thời kỳ ‘hỗn loạn’, ‘tranh tối, tranh sáng’ nhưng 10 năm tiếp theo sẽ là một sự chuyển dịch ‘chóng mặt’. Rất có thể Chính phủ cộng sản cũng sẽ không còn tồn tại nữa”.
III. NHẬN XÉT
Tin phản ảnh một số nhận định, đánh giá của nhóm nhân vật Mỹ nhạy cảm thuộc Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng Mỹ về thực trạng tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam và cách giao tiếp của Mỹ đối với Việt Nam trong thời gian tới. Đáng chú ý là nhận định cho rằng: Thực trạng yếu kém, những rắc rối về kinh tế-xã hội Việt Nam, cùng sự xuất hiện những tư tưởng “gần Mỹ”, bài xích TC hiện nay đang khiến người dân mất niềm tin vào Đảng, vào chế độ. Đây chính là nền tảng để Việt Nam “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và chỉ cần một cú hích nhẹ của Mỹ tại các thời điểm, hoàn cảnh phù hợp thì chế độ Việt Nam sẽ sụp đổ. Trước mắt, Mỹ (mà trực tiếp là Tòa đại sứ Mỹ tại Hà Nội) đang tìm cách xây dựng các mạng lưới xã hội Việt Nam, khai thác, lôi kéo và chuyển hóa giới trẻ Việt Nam; đẩy mạnh tuyên truyền, kích động gây chia rẽ mối quan hệ Việt-Trung… nhằm thực hiện được mục tiêu chuyển hóa, lật đổ chính quyền Việt Nam trong 20 năm tới.
Tin phản ảnh một số nhận định, đánh giá của nhóm nhân vật Mỹ nhạy cảm thuộc Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng Mỹ về thực trạng tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam và cách giao tiếp của Mỹ đối với Việt Nam trong thời gian tới. Đáng chú ý là nhận định cho rằng: Thực trạng yếu kém, những rắc rối về kinh tế-xã hội Việt Nam, cùng sự xuất hiện những tư tưởng “gần Mỹ”, bài xích TC hiện nay đang khiến người dân mất niềm tin vào Đảng, vào chế độ. Đây chính là nền tảng để Việt Nam “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và chỉ cần một cú hích nhẹ của Mỹ tại các thời điểm, hoàn cảnh phù hợp thì chế độ Việt Nam sẽ sụp đổ. Trước mắt, Mỹ (mà trực tiếp là Tòa đại sứ Mỹ tại Hà Nội) đang tìm cách xây dựng các mạng lưới xã hội Việt Nam, khai thác, lôi kéo và chuyển hóa giới trẻ Việt Nam; đẩy mạnh tuyên truyền, kích động gây chia rẽ mối quan hệ Việt-Trung… nhằm thực hiện được mục tiêu chuyển hóa, lật đổ chính quyền Việt Nam trong 20 năm tới.
IV. TÀI LIỆU KÈM THEO: Không.
Cục trưởng Cán bộ hoạt động: Đại tá Nguyễn Tân Tiến
* Nơi nhận: – TT Lưu Đức Huy : 01 bản – Ban A : 01 bản
http://www.vietthuc.org/toa-dai-su-my-tai-ha-noi-danh-gia-tinh-hinh-viet-nam/
Cục trưởng Cán bộ hoạt động: Đại tá Nguyễn Tân Tiến
* Nơi nhận: – TT Lưu Đức Huy : 01 bản – Ban A : 01 bản
http://www.vietthuc.org/toa-dai-su-my-tai-ha-noi-danh-gia-tinh-hinh-viet-nam/
VŨ BIỆN ĐIỀN * PHIÊN BẢN TÌNH YÊU
Phiên Bản Tình Yêu
Có lẽ theo câu nói „ Tình yêu là quyển truyện tiểu thuyết còn hôn nhân là quyển sách lịch sử .Và thông thường lịch sử chán hơn tiểu thuyết „ nên Vũ Điện Biền tác giả „ Phiên Bản Tình Yêu „đã cho hai quyển tiểu thuyết và lịch sử đan xen kẻ nhau để kết nên tác phẩm có tầm vóc đồ sộ hơn 1.000 trang sách ,lồng câu chuyện tình yêu cuốn hút vào bối cảnh lịch sử ở giai đoạn rối rắm ,bi thương của dân tộc Việt Nam.
Cuộc đời nhân vật chính Lê Huy từ lúc là Sinh viên Khoa Luật tại Huế trong vai Đặc công biệt động thành,Đảng viên đảng CSVN ,bước qua vai Kỷ sư Canh nông ở Sàigòn và sau cùng là Tổng giám đốc Tổng Công ty Tổng Hợp Xuất nhập khẩu như những đoạn cầu nối kết các quãng đường lịch sử .
Với hành tung ẩn hiện ,một cái đầu đầy ấp kiến thức đông tây kim cổ ,say mê thi hành nhiệm vụ nhưng vẫn biết ăn chơi tài tử và luôn có những bóng hồng bên cạnh,Lê Huy đã khiến độc giả say mê chạy đuổi theo anh qua hơn 1.000 trang giấy như chạy theo dấu vết điệp viên James Bond 007.
Theo cách giàn dựng song hành hiện tại và quá khứ ,tác phẩm có 70 chương A cho tiểu thuyết trong khung cảnh hiện đại .Và 45 chương Z cho lịch sử với dòng thời gian quay ngược về quá khứ ,dĩ vãng . Do đó độc giả mê tiểu thuyết thật khó lòng đọc quyển truyện từ A đến Z mà dễ „ nhảy cóc“ từ A qua A .Hay ngược lại những người nóng lòng tìm câu trả lời trong dĩ vãng lịch sử sẽ chuyên tâm vào những trang Z .
Lối đọc tách biệt A và Z sẽ dẫn người đọc đi ra ngoài ý tác giả, mất đi cảm giác bị bất ngờ ,hụt hẳng khi đi từ khung cảnh dĩ vãng khó khăn với những mộng mơ tươi sáng đến đối diện một thực tế đầy toan tính lạnh lùng, phủ phàng đến tàn nhẩn .
Như vậy cần đọc tác phẩm từ trang đầu đến trang cuối để cùng nhân vật chính bước qua từng mối thất vọng não nề ,rơi vào vùng u uất ,chê chán trong khung cảnh giàu sang ăn chơi thừa mứa vô đạo đức và cay đắng khi nhớ về dĩ vãng.
Tác phẩm xuyên suốt khoảng thời gian lịch sử nóng bỏng của Việt Nam từ trước 1954 cho đến tận những năm gần đây .
Đứng trước không gian lịch sử thật rộng lớn, với nhiều diễn biến phức tạp tác giả đã thật khéo léo dàn dựng lớp lang như đạo diễn dựng vở Opera cho dân tộc.Một vở Opera với sân khấu là mảnh đất Việt Nam ,kịch bản là những diễn biến lịch sử quan trọng, được diễn và dẫn giải qua những mẩu đối thoại của nhiều nhân vật lần lượt xuất hiện theo dòng thời gian xuôi ngược.
Những ai khi đọc xong „ Bên thắng cuộc „ ( tác giả Huy Đức ) vẫn chưa thỏa mãn vì còn nhiều dấu hỏi cho diễn biến lịch sử phức tạp sau 1954 ,muốn biết bề trái xã hội Việt Nam hôm nay,
hãy tìm đọc „ Phiên bản TìnhYêu “ của Vũ Biện Điền.
Qua hơn 1.000 trang “ Phiên bản Tình Yêu “ thực sự là nổ lực tâm huyết của tác giả để người đọc thấy rõ Sự thật của „ Bên thắng cuộc „.
Vũ Biện Điền đã cho các nhân vật :Lê Huy ,Bửu Dương,Hồ Giáo sư,Cẩm Khuê,Phan thị Mơ..vv ..đứng lên nêu câu hỏi và đưa ra câu trả lời cho cả hai phía : Cộng Sản và Việt Nam Cộng hòa để bàn về lý tưởng „ Quốc -Cộng “,về ý nghĩa cuộc chiến tranh, chủ nghĩa Marx ,”Tư bản luận “,cải tạo ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp ,Phật Giáo,Công Giáo .Sự thật về „Thảm sát Mậu thân“,về „Một thời đã mất „ Thời „Kinh tế thị trường theo định hướngXHCN“, bọn „ rút ruột rừng“,bọn „ lái gỗ“.Những phe cánh vùng miền,những công ty ma,công trình cuội.
Đặc biệt về tư tưởng ,nếp suy nghĩ „ tiến nhanh,tiến vững chắc trên con đường sa đọa ,ăn chơi „ của „Bên thắng cuộc „ sau 1975 : bia ôm ,gái gọi,với những cách ăn chơi „chó má“,sa đọa, những „mệnh phụ phu nhân cách mạng“.
Những ai mê tiểu thuyết mộng mơ chạy đuổi theo mối tình cuốn hút trong truyện sẽ có thể bỏ qua những câu nói thú vị ở „người đại diện cho hôn nhân nói về lịch sử„, : cô vợ Phan thị Mơ .
Những câu nói lên „Sự thật phủ phàng „về diễn biến thời cuộc ,lịch sử,đặc biệt về lịch sử Đảng và chế độ xã hội hiện hành ,hiện tượng thoái hóa của đất nước :
„Hà nội ba mươi sáu phố phường như Thạch lam tô vẽ giờ bán buôn hổ lốn hổ láo,có còn phường nào đâu ?Hà nội ngàn năm văn hiến như bao sách sử đã ghi sao nhiều hàng thịt chó quá?Hà nội đa phong cách! Nhưng sao rặt màu cỏ úa kaki Bắc kinh từ đầu đến chân,nhìn xa tưởng chừng thành phố đang hành quân..“
(Phiên bản Tình Yêu –quyển 2- chương A39 – trang 9)
Trãi dài theo hơn 1.000 trang sách có rất nhiều nhận xét về „con người Hà nội mới“„nỗi thất vọng về Chùa Một Cột, di tích văn hóa bị bỏ phế,sự thật của „ chiến thắng Điện Biên Phủ“,sự thật „Nhà sàn bác Hồ“ và lăng của ông ta ,cùng về toàn bộ giới lảnh đạo :
„..Anh biết không,giờ này dân Hà nôi thấy rõ mồn một bộ mặt thật của bè lũ chuyên chính.Cũng như Kim Nhật Thành ở Bắc Hàn,ông Hồ là tay sai mạt hạng của Staline,ăn lương tháng của điện Kremlin,thi hành nhiệm vụ của quốc tế Cộng sản,chẳng có chút nào vì nước vì dân.Nhờ thủ đoạn ông ta chỉ giỏi đóng kịch và khéo lừa bịp.Đằng sau bộ mặt giả nhân giả nghĩa là con người tham lam ,tàn bạo, dâm loạn.Ngoài chức năng đề ra sách lược,bộ Chính trị còn là một lũ ma cô cung phụng gái cho ông ta rất bài bản..“..
( Phiên bản Tình Yêu –quyển 2- chương A40 – trang 94)
Và không chỉ riêng về Hồ Chí Minh,Phan Thị Mơ kể tuốt tuột thêm nhiều cái tên khác „nổi danh“ trong „thâm cung bí sử“ của đám „ công thần“ trong „triều đại Hồ Chí Minh“ với những hành vi sa đọa, vô đạo đức, hành vi bán nước
“Ăn xôi chùa ngọng miệng các cụ phó mặc cho gian thần lộng hành,mãi quốc cầu vinh và đẩy mạnh chiến tranh Nam Bắc!Năm 1958,Mao trạch Đông cho công bố bản đồ lãnh hải Trung Quốc vơ luôn cả Hoàng Sa và Trường Sa của ta vào .Hồ Chí minh và toàn bộ Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam họp bàn rồi nhất trí giao cho thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi công hàm thừa nhận.Đầu năm 1974,Trung Quốc đánh bại hải quân Việt Nam Cộng Hòa,chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa,đích thân Phạm Văn Đồng còn đánh điện chúc mừng!“
( Phiên bản Tình Yêu –quyển 2- chương A40 – trang 95)
Cho thấy lịch sử cận đại của Việt Nam có thể được xem xét qua câu nói của nhà văn Balzac mà tác giả Vũ Điện Biền đã nêu lên :
Lịch sử rao giảng là lịch sử giả dối ,lịch sử đích thực là lịch sử trong bóng tối !
Để từ đó mọi người có những câu hỏi giống như Bảo Trọng Cư, người giới thiệu tác phẩm đã đưa ra:
“Treo bảng Cộng Hòa sao lại Vô Sản Chuyên Chính?
Treo bảng Độc Lập sao nhất nhất mỗi việc phải thông qua Nga, qua Tàu?
Treo bảng Tự Do sao độc đảng đơn nguyên?
Treo bảng Hạnh Phúc sao nhân dân đói rặt từ Nam chí Bắc?
Staline dựng chiêu bài giải phóng Đông Âu khỏi họa Phát Xít Đức rồi áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản, nay các quốc gia đó đã ngẩng cao đầu sau khi Liên Xô sụp đổ.
Hồ Chí Minh dựng chiêu bài độc lập kêu gọi nhân dân chống thực dân Pháp rồi áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản, nay Việt Nam vẫn còn trầm luân.
Liên Xô sụp đổ rồi, không nói nữa, nhưng đại Hán Trung Hoa còn đó, mất đất trên bộ mất đảo ngoài biển làm sao đây?
Phật Giáo Quốc Doanh đang lan tỏa và nuốt chửng Phật Giáo Thống Nhất, những Phật tử vì đạo pháp vì dân tộc nghĩ sao?
Và cả Công Giáo nữa, cuộc chiến chống Cộng Sản mang ý nghĩa gì?”
Những câu hỏi trên đã là câu trả lời cho những vấn nạn của toàn dân Việt Nam , cho tình trạng bi thương của đất nước hiện nay .
Một tình yêu si dại dành cho một chủ nghĩa bạo cuồng đã chết khi „người hùng cách mạng“ Lê Huy sau vai diễn trong tấm thảm kịch“giải phóng quê hương“ đã được „ sáng mắt sáng lòng“ khi nhận ra mình bị sử dụng theo cách „ vắt chanh bỏ vỏ“.Và não nề hơn khi phải đứng trước những hiện thực xã hội sau khi đất nước được„giải phóng“ ,để được „ đáo bỉ ngạn“ đến tận cuối con đường mình theo đuổi .
Để thật tủi nhục khi nghe câu hỏi „Sau anh không về kêu đòi cơm áo,dân chủ tự do cho nhân dân“?
Phải cay đắng thốt lên : Rõ ràng mấy năm nay tôi ngụy tín miệt mài phấn đấu liên tục,phấn đấu đến hộc máu ,tranh thủ bằng bất cứ giá nào cái mà anh em mình bắt đầu chối bỏ ,phỉ nhổ . (Phiên bản TY-Quyển 2-chương Z 32-Nỗi đau từ một giấc mơ tự do- trang 310)
Cuộc sống mới của Lê Huy Phong bắt đầu với những mánh khóe tranh giành quyền lợi thô bạo giữa những „ công thần“,“cán bộ“, phe phái ,công ty ,công đoàn, tạo lập bất công qua việc phân biệt lý lịch ,đập bể tan tành “ mơ ước hồng“, „ lý tưởng hiến thân“ Với những toan tính tranh quyền ,tranh chức,tham ô ,bóc hốt , ăn chơi sa đọa trong những bửa nhậu tràn lan bỏ phế cả những suy tư theo Tàu,theo Mỹ hay theo Nga. những “ cán bộ cách mạng”đã ra sức thu vén tíchcóp của cải và sau cùng là ý định„ hạ cánh an toàn“ với những toan tính đem tài sản ra nước ngoài.
Điểm nhấn đáng kể nơi„ Phiên Bản Tình Yêu „ là tác phẩm đã cho thấy sự tha hóa không chỉ ở những„ cha căng chú kiết „ nổi lên sau 30 .04.75 mà ở cả chính những người từng có lý tưởng chân chính“.Những con người với bầu nhiệt huyết tuổi trẻ sôi sục khi xưa đã nhanh chóng bị tha hóa ,bị cột chân vào bả danh lợi , đổi nhanh cách sống theo lối„ trên đội dưới đạp „qua hai gương mặt điển hình , hai nhân vật chính của tác phẩm :vợ chồng Lê Huy Phong và Phan thị Mơ.
Sau khi đọc hơn 1.000 trang giấy với vô số tình tiết lịch sử dẫn giải những hệ lụy đau thương ,cho thấy hiện tình bi đát của đất nước, độc giả „ Phiên bản Tình Yêu „ càng tăng thêm mối suy tư về tình hình diễn biếnViệt Nam với câu hỏi Việt Nam sẽ đi về đâu ?
Những hệ lụy máu xương chồng chất của người Việt liệu sẽ được giải tỏa để mở lối cho dân tộc bước vào một con đường tươi sáng ?
Phải chăng từ những suy tư này tác giả Vũ Biện Điền đã đưa ra hình ảnh „Tường Vi „ một loài hồng dại hoang sơ để đại diện cho một „ Phiên bản Tình Yêu“.
Qua bao sóng gió cuối cùng còn sót lại chỉ là Tình yêu sâu thẩm dành cho loài hoa dại đang vươn lên với vẽ đẹp kiêu sa được thừa hưởng từ „loài hoa hồng vương giả Việt Nam Cộng Hòa „: Cẩm Khuê.
Cô bé Tường Vi, mầm xanh đại diện thế hệ mới vươn lên với chí hướng quả quyết đi theo con đường kinh doanh, theo „chủ nghĩa Tư bản“ như câu trả lời lý thú cho nhân vật Lê Huy “người anh hùng của chủ nghĩa vô sản„, trả lời cho những năm tháng anh nghiền ngẫm „ Tư bản luận“ của Karl Max .
Và đây cũng là câu trả lời thật rõ ràng cho câu hỏi „Bên nào thắng cuộc „ ?
Hình ảnh cô bé Tường Vi phải chăng là biểu tượng mở đầu thời đại nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ước mơ: „Khai sáng kỷ nguyên tã trắng thắng cờ hồng!
Qua bao nhiêu năm tháng chiến tranh ,đấu tranh gian khổ ,con đường trước mặt của dân tộc Việt còn con đường nào khác hơn là con đường lo làm ăn để xây dựng cuộc sống no ấm cho chính mình mà không cần một chủ nghĩa hay một „Biện chứng học“ nào dẫn dắt.
Kết thúc tác phẩm “ Phiên bản Tình Yêu” có thể không là kết thúc đơn thuần một câu chuyện tình mà chất chứa ước mơ lớn dành cho Dân tộc,cho Quê hương :
Ước mơ về một “ Phiên bản Tình Yêu” tươi mới dành cho Việt Nam.
Dương Hoàng Dung
Munich
18.04.2013
Bài đọc thêm:
Trò chuyện với Uyên Thao về “Phiên Bản Tình Yêu”
http://url9.de/Bfb
Vũ Biện Điền là ai, người mà chúng ta có thể mới nghe tên lần đầu tiên trong làng văn, làng báo. Theo người viết lời giới thiệu ở đầu quyển sách, Vũ Biện Điền, bút danh mới của quyển “Phiên bản tình yêu”
Lê Dinh
Tình cờ tôi nhận được một món quà của một thân hữu bên Mỹ biếu, đó là quyển “Phiên bản tình yêu” (gồm hai quyển, quyển 1 và quyển 2 - tất cả 1240 trang) của một tác giả có bút danh lạ hoắc: Vũ Biện Điền.
Vũ Biện Điền là ai, người mà chúng ta có thể mới nghe tên lần đầu tiên trong làng văn, làng báo. Theo người viết lời giới thiệu ở đầu quyển sách, Vũ Biện Điền, bút danh mới của quyển “Phiên bản tình yêu”, là một cây viết cũ, được nhiều người biết với sáu, bảy quyển sách đã xuất bản trước đây. Nhưng tác giả không thể dùng bút hiệu trước được cho nên phải tạm lấy bút danh mới này, bởi một lý do rất dễ hiểu là ông còn ở trong nước. Vũ Biện Điền đã lột trần hết những sự ngu dốt, những việc xấu xa, đê tiện, những hành động dã man, những mánh lới gian manh và sức mạnh cường hào để trấn lột của cải dân chúng, những mưu mô thâm độc để giết hại dân lành của bọn chóp bu CS - hạng ngồi trên, ăn trước - trong quyển truyện này. Tác giả là một nhân chứng sống, là người trong cuộc, là người phụ trách một tổng công ty của nhà nước Cộng sản ở một thị xã miền Bắc, có nhân viên khoảng 1200 người. Những gì tác giả thuật lại trong tác phẩm “Phiên bản tình yêu” này là chuyện thật dưới mắt, trước mặt, không phải là chuyện tác giả tưởng tượng ra để bêu xấu Việt Cộng. Vậy chúng ta hãy tin tưởng Vũ Biện Điền.
Trong một tác phẩm dày 1240 trang, viết về chế độ mafia này thì cũng có ít nhất hàng trăm chuyện để kể. Nhưng, với cảm nghĩ của một nhạc sĩ, tôi thích nhất đoạn tác giả kể lại chuyện tác giả đi tìm người yêu nhỏ bé, trong trắng và ngây thơ của ông, bị đưa vào động và bị bọn ăn trên ngồi trước của tỉnh đưa vào phòng riêng VIP của một khách sạn để bày trò “orgy”, qua sự cấu kết của một bà chủ nhà hàng và một bà chủ quán Karaoke mê tiền. Thôi thì có mặt hầu hết các quan lớn trong tỉnh mà tác giả đều biết rõ mặt mày, biết rõ tên tuổi như Phó Chủ tịch thị xã, Chi Cục trưởng khu nghiệp, Giám đốc Sở Thể dục Thể thao, Trưởng Phòng Vật tư, Giám đốc Cầu Đường bộ, Trưởng Phòng Thuế vụ, Phó Giám đốc Sở Khoa học Công nghệ và một số phụ tá của những tai to mặt lớn này. Trò chơi cũng kỳ dị, lạ đời, với những tiếng hét “Dô! Dô! Ay da!”, “Houra, houra, hê! Houra, hê! – như Bạch Tuyết và bảy chú lùn, như Thủy thủ và các nàng tiên người cá hay sự sinh hoạt của một bộ lạc rừng rú nào đó bởi những tiếng “À um! À um” như cọp rống bên những thiếu nữ mơn mởn, hơ hớ, không một mảnh vải che thân, trong đó có người yêu trinh trắng của tác giả và nhìều cô gái khác. Thì ra bọn quỷ sa tăng này đang chia nhau uống rượu máu màng trinh đựng trong một cái bồn men trắng đặt ngay chính giữa phòng, để được cải lão hoàn đồng, sống lâu trăm tuổi, học theo sách vở quan thầy Tàu ô của chúng.
Nhưng điều chính yếu mà tôi muốn kể lại trong bài viết này là ngoài những tiếng hô, những tiếng la hét man di, như những tiếng gào thét lên đồng hay trần truồng, nhảy nhót điên cuồng như một bộ lạc bán khai ở rừng Amazone, là lúc mà một tay chơi bất ngờ nổi hứng, cất tiếng gào to lên bài hát “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng” và được những tay khác đồng thanh ú ớ phụ họa theo. Tác giả sững sờ khi nghe “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng – Lời bác nay thành chiến thắng huy hoàng… Việt Nam! Hồ Chí Minh! Việt Nam! Hồ Chí Minh!” Họ hát để chi vậy? Tác giả suy đoán, họ hát để kích thích sự dâm loàn, họ dùng âm thanh bài hát này để tự kích dục, cũng như dùng tiếng kèn thúc quân nung lòng chiến sĩ khi xông pha trận mạc vậy.
Trời ơi! Một bài hát được một tác giả VC say sưa mừng đại thắng mùa Xuân, được viết vội trong vòng 24 tiếng đồng hồ sau ngày CS cướp miền Nam, để tỏ lòng tôn thờ, đời đời nhớ ơn, đời đời đội ơn lãnh tụ, có ba chữ Hồ Chí Minh vô vàn kính yêu của họ trong đó, sao lại đem ra hát lên ở chỗ ăn chơi trụy lạc, lầu hoa nhơ nhớp này? Say máu, say tình hay là say dâm? Có tên còn hăng tiết, vừa chui qua háng của một cô đứng chàng hảng, không mảnh vải che từ trên xuống dưới, vừa hau háu nhìn lên chỗ kín của thiếu nữ, miệng oang oang bài hát chiến thắng “Việt Nam, Hồ Chí Minh! Việt Nam, Hồ Chí Minh!” cùng với sự phụ họa của các tên khác. Ngày vui đại thắng… Chiến thắng huy hoàng là đây à? Ba mươi năm đấu tranh giành toàn vẹn non sông, để làm chi? Có phải để có được một đêm như đêm hôm nay? Thật không uổng bao nhiêu xương máu… của người khác.
Tôi nghĩ bài hát “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng” là một bài hát ngắn, chỉ có mấy câu, dễ nhớ dễ thuộc, cho nên bọn uống máu màng trinh thiếu nữ này mới hát được. Rất may cho nhiều nhạc sĩ VC khác - mỗi người cũng có vài chục ca khúc ca tụng bác Hồ của họ vậy -nhưng vì bài hát của họ dài và khó nhớ, cho nên những tay chơi này không thể nhớ để mà hát ở đây, hôm nay.
Và tôi lại nghĩ thêm – không biết có phải vậy không – những kẻ này, những tên 45 hay 50 tuổi đảng này, những tên tai to mặt lớn dâm dật, trụy lạc, sa đà, trong thị xã này, trước những thiếu nữ lõa lồ, duyên dáng, quyến rũ và mời gọi như vậy, trong giờ phút đó họ coi vị lãnh tụ của họ như một mẫu thuốc lá hút dở mà họ quăng đi, hay một miếng giấy lau tay dính đầy máu trinh mà họ vứt trong thùng rác. Hồ Chí Minh - trước rượu, thuốc lá và gái - đối với họ, không có chút nghĩa lý gì cả.
Một chuyện khác mà tôi kể tiếp theo đây, quý thân hữu nghe xong cũng thấy buồn cười cho tình người tị nạn. Một ông nọ cư ngụ bên Mỹ, qua e-mail làm quen với tôi, vì biết tôi là người viết nhạc và tỏ ý cho tôi biết là ông ta thích nhạc của tôi, mến mộ tôi, thường hay sưu tầm những bài nhạc của tôi để làm tài liệu. Thư từ e-mail qua lại, tôi nhận thấy ông ta có tinh thần quốc gia và ngoài ra, ông ta còn là một cựu quân nhân. Có lẽ quý thân hữu cũng còn nhớ là trước đây khá lâu, tôi có viết một bài ngắn có tựa đề “Không viết không chịu được”. Mà thật vậy, cho đến bây giờ, nếu những điều mà tôi được biết cứ để mãi ấm ức trong lòng chắc tôi phải ray rứt cho đến nay.
Đó là lúc Nguyễn Cao Kỳ qua đời, và có vài điều tôi biết về ông Kỳ, cho nên tôi phải nói ra vì thời đó, khi NCK vừa qua đời, có nhiều bài viết ca tụng ông ta một cách thái quá đến trắng trợn. Ông ta là một cựu Phó Tổng thống mà lại trở cờ, sỉ nhục quân lực VNCH và có những lời nói khó nghe đối với những người Việt tị nạn CS. Mặc dù những kẻ bênh vực NCK đã rào trước đón sau rằng “nghĩa tử là nghĩa tận”, để không ai nói về người ấy nữa. Thế mà họ khen ông Kỳ thì được, còn ai có lời nói thật về ông này thì họ chống đối.
Trong bài viết của tôi, tôi kể rằng tôi được một người bạn thuở còn học Trung Học Le Myre de Vilers (Mỹ Tho) là Nguyễn Thanh Lịch, cùng học lái phi cơ ở Marrakech (Maroc) chung khóa với ông Kỳ và sau khi về nước, vì là đồng môn của ông Kỳ cho nên Joseph Lịch (tức Nguyễn Thanh Lịch) được ông Kỳ nâng đỡ, đưa qua Hàng Không VN lái phi cơ dân sự đi Hong Kong, Đài Bắc. Quen với Lịch cho nên một hôm tôi được Lịch rủ vào Câu Lạc Bộ Huỳnh Hữu Bạc để xem một màn biểu diễn có một không hai của một cô gái Đài Loan - dùng cái đó của phụ nữ để làm đủ thứ trò - do ông Kỳ mời từ Đài Bắc qua biểu diễn ở Câu Lạc Bộ Huỳnh Hữu Bạc duy nhất có một đêm và ngay sáng hôm sau, đàn em của ông Kỳ lái phi cơ quân đội đưa cô gái Đài Loan này trở về Đài Bắc. Thời kỳ đó (1964-1967), VC đã mở nhiều cuộc tấn công miền Nam chúng ta, chiến tranh đã lan rộng khắp nơi, cho nên tôi có ý nói lên sự việc đó, trong khi chiến sĩ VNCH phải lo lùng địch, diệt địch ở mọi nơi thì tại Saigon một ông Phó Tổng Thống lại bày trò ăn chơi đàng điếm, khả ố như vậy.
Bài viết của tôi được phổ biến chừng hai tuần, thì ông bạn quen biết qua Internet này của tôi nói rằng tôi không nên viết những bài như vậy. Những người viết bài loại này – lời ông ta nói - là những người chỉ muốn nổi danh mà thôi. Tôi không trả lời gì ông ta cả mà chỉ âm thầm đơn phương cắt đứt sự liên lạc vì đối với tôi, trắng cho ra trắng, đen cho ra đen. Tôi không bênh vực hay nói xấu ai cả, tôi chỉ nói ra sự thật, những điều tôi biết mà có nhiều người không được biết, nếu để trong lòng, tôi không chịu được, vậy thôi. Nếu một người làm chuyện xấu xa, khi chết rồi, không ai được đụng tới được hay sao? Vã lại tôi không nói gì quá đáng đối với thần tượng của ông bạn này, chỉ trách cứ ông NCK về việc ăn chơi hư đốn, trụy lạc không đúng lúc, đúng thời của ông ta mà thôi. Mất một người bạn hay mất mười người bạn như vậy, cũng chẳng làm sao.
Một cậu khác ở bên Úc, có vẻ còn trẻ tuổi, đã có gia đình, vợ hai con, cũng quen với tôi qua Internet. Anh này cũng tập tành viết nhạc và gửi nhạc nhờ tôi sửa chữa giùm. Và tôi đã ân cần chỉ bảo anh ta – không quản ngại mất thì giờ - từ kỹ thuật viết nhạc cho đến cách viết lời ca, trong một thời gian khá lâu.
Cho đến một hôm, khi tôi được đọc một bài thơ bằng tiếng Anh của cô Nguyễn P. Thúy trên Internet, tựa là “In the name of Peace”, nói lên lòng căm hận của dân Việt Nam trước sự hống hách, phách lối và ý đồ xâm lăng Việt Nam của Tàu cộng, và thấy bài thơ thích hợp với khí thế của người dân VN đang bừng bừng sôi sục, tuổi trẻ biểu tình chống Trung quốc khắp nơi, tôi mới viết nhạc với lời bài thơ này. Bài nhạc “In the name of Peace” được ca sĩ Tường Vi thu thanh. Sau khi đưa lên Youtube, tôi và cô Nguyễn P Thúy được không biết bao nhiêu người, ở hải ngoại cũng như ở trong nước, viết thư khen ngợi bài hát ra đời hợp với lòng dân chúng, đúng lúc, đúng thời.
Thế mà - chỉ có một người duy nhất lội dòng nước ngược - đó là người bạn ở Úc, người học trò trên Internet của tôi, không biết có phải là người Tàu mà tên Việt hay không, chẳng những không khen ngợi, khuyến khích ông thầy nhạc của mình thì thôi mà lại còn có những lời lẽ vô lễ, khiếm nhã. Ông bạn trẻ này nói tại sao tôi chửi người Tàu quá thậm tệ như vậy, suốt cả bài nhạc cứ lập đi lập lại China, China, nghe thấy ghét. Tôi bảo với anh ta đây là một bài thơ, không có nói gì tới người dân nước Tàu, chúng tôi gọi China, chứ có đá động gì đến người Chinese đâu? E-mail trả lời tôi, anh ta cho tôi biết rằng anh ta kêu gọi bạn bè anh ta cùng thử nghe bài nhạc này để cho ý kiến, tất cả cũng đều đồng ý với anh ta là bài nhạc nghe không vô, chửi China làm họ rất khó chịu và các người bạn này của anh ta không thèm nghe tiếp nữa.
Anh bạn ở Úc này cũng là người tị nạn như chúng ta mà lại phản đối một bài hát chống Tàu xâm lăng, kẻ thù của Việt Nam thì tôi không biết anh ta là người gì? Mất Hoàng Sa, Trường Sa, mất Bản Giốc, mất đất, mất rừng, mất biển, mất gần hết nước… anh ta không đau lòng sao? Vậy anh ta là ai? Anh ta là người Tàu, anh ta là VC, hay anh ta là Việt gian hoặc anh ta là con cháu của VC gửi qua Úc du học? Anh ta cũng có gia đình, đã có con, nghĩa là thuộc lớp người đứng tuổi mà thật sự hay giả đò không biết việc Tàu Cộng đang xâm lăng Việt Nam, rồi đi phản đối một bài nhạc chống Tàu. Thật tình tôi không hiểu nổi. Thôi thì giã từ anh học trò bướng bỉnh, khó thương và thiếu lịch sự này, cho đỡ phải nhức đầu.
Một trường hợp khác cũng khá buồn cười: Tôi có thằng cháu ở Toronto, tuy kêu nó bằng “thằng” nhưng nó cũng đã 57 tuổi rồi và còn độc thân. Tôi kêu nó bằng thằng vì nó là cháu của vợ tôi, kêu vợ tôi bằng dì. Bấy lâu nay, qua những câu chuyện trao đổi, tôi nhận thấy nó cũng là một người biết điều, biết chuyện nào phải, chuyện nào trái, biết thế nào là người quốc gia, thế nào là cộng sản, cái gì thơm, cái gì thúi. Vì cũng sợ VC và oán ghét VC như chúng ta cho nên nó mới bỏ xứ, đi tị nạn.
Chắc quý thân hữu cũng thấy trong việc giao thiệp bằng e-mail, có một số người gửi e-mail cho bạn bè, hoặc nói chuyện với bằng hữu mà lập lại những chữ mà báo chí và đài phát thanh VC thường xài từ ngày chúng cướp miền Nam tới nay. Có người nói không ngượng miệng, nói một cách rất ư là tự nhiên… “từ ngày giải phóng” tới giờ… tôi thấy thật là không gì vô ý thức bằng, giải phóng con khỉ gì mà gọi là giải phóng, giải phóng để đem lại sự cùng cực, khổ sở, đói nghèo, khốn nạn cho dân miền Nam, như vậy mà gọi là “giải phóng” được hay sao? Có cướp miền Nam thì có. Chiếm đoạt đất đai, chiếm cứ ruộng vườn, nhà cửa, tài sản của người dân miền Nam thì có. Nếu anh hay chị là một bác nhà quê ruộng đồng, ít học thì không nói làm chi. Đàng này, người nói ra hai tiếng đó là những người miền Nam có học, trước 1975, cũng làm việc, ăn lương của chính phủ VNCH, thế mà bây giờ ra hải ngoại lại thốt lên hai tiếng phản nghĩa đó. Nếu anh chị là người quốc gia, tại sao không nói rõ ràng là từ ngày VC cướp miền Nam, từ ngày Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam, từ ngày VC vô, từ ngày mất nước, từ ngày đổi đời…thiếu gì cách nói. Rồi còn những thứ tiếng khó nghe mà VC xài, họ cũng bắt chước nói theo như vậy, nghe rất chói tai, không chịu được.
Thằng cháu “dễ thương” này của tôi chuyển cho tôi một e-mail trong dịp Tết với nhiều hình ảnh chợ hoa ở đường Nguyễn Huệ ngày xưa (không biết ngày nay tên gì), nhưng tựa đề của bài báo VC là “Lễ hội hoa Xuân…” Tôi mới e-mail lại cho thằng cháu này, lưu ý nó trước nhất là đừng quảng cáo cho VC, thây kệ nó làm chợ hoa, chợ quả gì mặc xác nó, mình bỏ xứ đi rồi thì cần gì biết tới những cảnh chợ búa này. Hai là nó đừng xài hai chữ “lễ hội”, tiếng VC khó nghe lắm. Người ta nói Lễ Hai Bà Trưng, Lễ Hùng Vương, Lễ Phật Đản, Lễ Vu Lan… chứ sao lại phải Lễ hội Hai Bà Trưng, Lễ hội Hùng Vương, lễ hội này, lễ hội nọ. Tôi bảo với nó rằng tiếng VC để chúng nó xài với nhau, còn tiếng của mình, mình xài, thế thôi. Tưởng đâu thằng này là người biết phải trái như từ trước đến nay, chuyện gì không nên làm thì bảo nó đừng làm, chuyện gì nó không biết thì nói cho nó biết, thế mà bỗng dưng nó trả lời một cách hỗn xược: “Không có ‘từ’ nào là ‘từ’ của Cộng sản và cũng không có ‘từ’ nào là ‘từ’ của quốc gia cả, dượng Tám ơi. Chỉ có tiếng Việt Nam thôi”. Nghe nó phản ứng như vậy, tôi đành chịu thua và cúp máy, không liên lạc với nó nữa, chứ đứng đó mà lai nhai, lải nhải để giải thích với một đứa – không biết ăn cái bả gì của VC – mà ăn nói một cách hồ đồ, vô phép và không đúng chút nào, chỉ làm mất thì giờ vô ích thôi.
.Trốn CS, bỏ xứ ra đi từ ngày đó, chúng ta tưởng rằng tất cả những người tị nạn CS như chúng ta đều giống chúng ta hết. Thật sai bét! Cái ý nghĩ ngây thơ này có trong đầu tôi từ ngày tôi vượt biên. Nào ngờ, đi xa cả mấy chục ngàn cây số rồi, cho đến 39 năm sau, mùi hôi thúi của VC vẫn còn nặc nồng đâu đó, quanh đây. Người Việt tị nạn CS đi đâu, CS bu theo đó, như đá nam châm, như mật với ruồi
Đã bảo là trốn CS nhưng ra được hải ngọai rồi, được an cư lạc nghiệp rồi, anh lại quay về, nói là về thăm quê hương. Đúng, anh về thăm quê hương khi nào quê hương không còn bóng CS, nhưng anh lại về khi CS còn sờ sờ ra đó thì anh bảo về thăm quê hương là quá mâu thuẫn. Anh sợ bọn cướp giết anh khi bọn cướp vào chiếm đoạt của cải trong nhà anh, anh dẫn vợ con anh chạy trốn bên nhà hàng xóm để khỏi bị chúng nó giết, rồi anh lại mon men về, trong khi bọn cướp vẫn còn trong nhà anh mà anh nói về thăm nhà là nghĩa lý gì? Đã bảo là trốn CS, ra hải ngoại, anh vẫn làm những chuyện có lợi cho CS, có những hành động như luyến tiếc, nhớ nhung CS, làm đau lòng người tị nạn, anh có biết không? Nếu anh là CS trá hình, như mấy ông sư, mấy ông cha VC, nếu anh là Việt gian, hay anh là người quốc gia - mà vì một lý do khó nói gì đó - anh phải ”ăn cây nào rào cây nấy”, ơn đền nghĩ trả, thì chúng tôi cũng còn hiểu được đôi chút. Đằng này, anh dở dở ương ương, núp bóng quốc gia để làm lợi cho CS thì thà rằng anh trở về sống chung với CS còn hơn. Đừng làm ô nhiễm vùng đất êm ả này, trả lại không khí tươi mát, trong lành cho người tị nạn ở nơi đây.
Trên đời - suy đi nghĩ lại, chúng ta thấy không sai chút nào – chỉ có 3 thứ làm cho con người dễ dàng sa ngã: đó là danh - tiền - và gái. Chưa có thì bằng mọi cách làm cho có. Và khi có một thứ rồi, lại thấy chưa đủ. Phải hai thứ, ba thứ mới đầy tham vọng của họ. Có danh thì muốn có thêm tiền, có tiền rồi thì muốn có gái. Danh dự, nghĩa lý, đạo đức không còn nữa trước cái bả vinh hoa, tiền tài và gái đẹp của VC đưa ra để nhữ những kẻ háo danh, ham tiền và mê gái. VC hiểu tâm lý ấu trỉ này cho nên chúng đem ra áp dụng và áp dụng thành công đối với một số người lửng lơ, nói đó rồi quên đó, hành động không đi đôi với lời nói, lời nói không cánh mà bay. Không biết họ có thuộc thành phần “nhất trụ” (Nhất trụ, nhì tù, tam xanh, tứ kết) của VC hay không mà họ bám trụ dữ quá. Sống đục sao bằng thác trong, tội lắm các người ơi!
Danh mà chi, lợi mà chi
Mai kia mốt nọ, cũng thì sắc không.
Lê Dinh
(2014)
(2014)
Vũ Biện Điền & phiên bản tình yêu
Bảo Trọng Cư (Danlambao)
- PHIÊN BẢN TÌNH YÊU là một tác phẩm công phu, tâm huyết, nặng trí tuệ, có tính điển hình cao với một văn phong độc đáo, đa dạng, sắc bén, quyết liệt nhưng cũng đầy chất thơ.
Ắt hẳn vẫn có vài nhược điểm mà độc giả có thể nhìn thấy đâu đó, nhưng
đây là một tác phẩm xứng tầm lịch sử – cho hôm qua, hôm nay và cả mai
sau. Tôi tin PHIÊN BẢN TÌNH YÊU sẽ cùng tồn tại với bi kịch lịch sử mang
tên Việt Nam.
Tự do là cảm hứng vô biên cho mọi loài phát triển năng lực sinh tồn.
Riêng về nhân loại – động vật linh trưởng thượng đẳng – tự do còn là
thuộc tính vinh danh con người hướng tới chân thiện mỹ. Do đó, chiều
hướng chính trị hiện đại của cả thế giới coi tự do không những là cội
nguồn ủa dân chủ, mà còn là cốt lõi của nhân quyền. Nên chi, ngay sau
khi Liên Hiệp Quốc được thành lập đã có bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân
Quyền, minh định một số tự do cơ bản của con người ở khắp mọi miền trên
trái đất.
Các nước văn minh tiến bộ, bước đầu soạn thảo hiến pháp đều xác lập thể
chế Tam Quyền Phân Lập, cũng là cách tỏ rõ quyết tâm đảm bảo tự do.
Riêng các quốc gia chậm phát triển, các nước độc tài, đặc biệt độc tài
Cộng Sản, thì hằm bà lằng một mớ. Sự nhập nhằng luộm thuộm đó, một phần
do ngu dốt hoặc do quán tính bầy đàn như kiểu bộ lạc, một phần do ý đồ
chuyên quyền của một người, một phe nhóm hay một đảng phái.
Nhà văn, cũng như mọi người trên hành tinh, mong được sống an vui trong
một đất nước thanh bình và thể hiện khả năng mình bằng công việc yêu
thích, dùng ngôn ngữ chuyển tải tâm tình, sau đó gởi thành quả nghệ
thuật đến xã hội. Đó là tương giao, là hòa hợp công bằng.
Vậy tại sao trước đây và mãi đến bây giờ trong những quốc gia độc tài,
nhà văn hay đụng độ với chính quyền? Và rồi, vì tay không và đơn lẻ nhà
văn phải bị đọa đày hay ngồi tù với tội danh hình sự chẳng khác côn đồ
du đãng. Rất đơn giản, có độc tài nào mà không độc quyền, đã độc quyền
thì độc lợi, đã độc lợi thì độc ác. Mặc dầu không tranh quyền đoạt lợi
của ai, nhưng sự chẳng đằng đừng, nhà văn xây dựng tác phẩm bằng chất
liệu cuộc sống – sự kiện lịch sử, hiện thực xã hội, biến động thời đại.
Độc tài thì tham quyền vô tận âm mưu thu tóm lập pháp, hành pháp và tư
pháp vào một tay mình, bạo ngược như thế làm sao không ở trong tầm ngắm
của nhà văn. Chưa hết, độc tài thường lưu manh xảo trá và nuôi tham vọng
bất tử, hành xử độc ác nhưng muốn lưu lại lương thiện trong sử sách.
Là con đẻ của Liên Bang Xô Viết đã sụp đổ, là con nuôi của Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Hoa đang xập xình, là huynh đệ với Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân
Triều Tiên và Cu Ba đang đói rách, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
hội đủ những di căn của độc tài quốc tế, từ thượng vàng đến hạ cám. Đã
cùng duộc, Cộng Sản Việt Nam không có sách lược nào khác.
Sau năm 1954, làm chủ được nửa nước, chủ tịch Hồ Chí Minh vội vã thanh
trừng trí thức và văn nghệ sĩ trên đất Bắc, biết bao nhà văn đã treo cổ
tác phẩm của mình lên để xưng tội rồi sau đó lột xác làm bồi bút.
Sau năm 1975, làm chủ cả nước, với hứng khởi đó nhưng thâm hiểm hơn, bí
thư thứ nhất Lê Duẩn hối hả đốt sạch văn hóa phẩm miền Nam, bắt đi tù
cải tạo một số nhà văn, chỉ xuất bản và phát hành sách báo quốc doanh,
gia tăng kiểm duyệt dưới dạng biên tập bản thảo. Hơn nửa thế kỷ qua, với
sách lược đàn áp văn học nghệ thuật ấy, Cộng Sản Việt Nam đã làm nên
những kỳ tích gì?
Đánh tráo văn học nghệ thuật bằng một thứ công cụ phục vụ chính trị đang
đi vào ngõ cụt. Rất nhiều nhà xuất bản ăn lương nhà nước, thay vì gạn
đục khơi trong tác phẩm lại làm cái việc chặt chém.
Có một đội ngũ hung thần gọi là công an văn hóa ăn lương nhân dân và sẵn
sàng tiêu diệt văn hóa chân chính. Đã hình thành một đoàn quân bồi bút
hùng hậu, cực kỳ dốt nát văn học nhưng nhanh nhạy tung hô lãnh tụ, ngợi
ca chế độ. Lập một trường viết văn sản xuất bồi bút từng lứa như gà vịt
đẻ. Cho ra một khối lượng lớn sách báo vô chất lượng và không mấy người
đọc…
Xem ra khá chỉn chu, công phu, đồ sộ. Mặc dầu đã có tuyên huấn mỗi tỉnh
mỗi huyện, mặc dầu rất tốn kém nuôi cơm hội Nhà Văn Việt Nam, và một số
hội Văn Học Nghệ Thuật ở các tỉnh thành, nhưng Cộng Sản Việt Nam vẫn
luôn cảnh báo nội bộ, bóng gió đe dọa những người cầm bút tự do.
Vì sao? Dưới bàn tay sắt máu, Cộng Sản biết có những nhà văn chân chính
coi sự nghiệp sáng tác như một thiên lương, như một sứ mệnh đối với nhân
dân và lịch sử, không bao giờ khuất phục bạo quyền, không chịu bán mình
bằng cách uốn cong ngòi bút.
Không ai rõ đội ngũ văn nghệ sĩ thầm lặng ấy có bao nhiêu người, nhưng
quyết chắc họ sống đời cơ cực, thiếu thốn tiện nghi và đôi khi bị coi
khinh. Tôi biết Vũ Biện Điền, bạn tôi, là một cây bút kiên cường trong
số ấy. Vậy Vũ Biện Điền là ai mà thoáng nghe mới toanh trong làng văn?
Xin thưa đó chỉ là bút hiệu tạm thời.
Đáng ra với chức năng của người giới thiệu, tôi sẽ nói rõ chân tơ kẽ tóc
tác giả với độc giả. Nhưng oái ăm thay, tôi không được phép và cũng
không nên làm vậy.
Chỉ sơ lược thế này, Vũ Biện Điền là một người sinh ra và lớn lên trong
cả hai cuộc chiến, mẹ bị Tây giết, chú và anh bị Cộng Sản giết, cha một
thời miệt mài theo kháng chiến chống ngoại xâm. Sinh ra ở phố, ba năm
sống ở ruộng đồng. Trước khi vào đời, anh đã tốt nghiệp hai trường đại
học.
Một năm sau mùa xuân đại thắng 1975, anh xin thôi dạy học dưới mái
trường xã hội chủ nghĩa. Rồi vì cuộc sống, anh làm nhiều nghề không phải
chuyên môn của mình, rất vất vả mới nuôi nổi vợ yếu con thơ.
Vũ Biện Điền viết văn từ hồi còn là sinh viên, trước và sau 1975 đều có
tác phẩm gây tiếng vang. Gần mười năm làm việc và ăn lương của chế độ
Việt Nam Cộng Hòa, vì sự nghiệp sáng tác, anh bị ganh ghét vu cho là
Việt Cộng. Khi Việt Cộng chiến thắng, cũng vì sự nghiệp sáng tác, báo
đảng và cán bộ quy chụp anh là tay sai Mỹ Ngụy.
Tôi biết chế độ nào cũng muốn mua anh. Người ta thường phấn đấu vào đảng
để tranh thủ chức quyền, tôi biết anh suốt 50 năm đã năm lần tinh tế
phấn đấu để được ở ngoài các đảng phái, kể cả đảng Cộng Sản. Và khi gạ
gẫm mà mua không được, người ta ghét anh như muốn đào mà đổ đi.
Lao đao quá, nhọc nhằn quá và nguy hiểm quá, có một thời gian dài anh im
hơi lặng tiếng. Thấy anh khổ, một người bà con, nay đang định cư ở Mỹ,
giúp anh vượt biên miễn phí, nhưng anh quyết không rời đất nước.
Quẫn quá, đôi lần không nơi thu giấu, không ai dám cất giùm, anh đã đốt
một số sáng tác của mình. Trong chúng tôi, anh là người viết khá khỏe,
có sáu bảy tập đã xuất bản – tiểu thuyết và truyện ngắn, ở trong và
ngoài nước – và một số lượng lớn coi như tồn cảo. Như người ta, ở cái
tuổi bảy mươi, lão giả an chi, thì đã bằng lòng, nhưng anh thì không.
Bạn bè bảo anh có những truyện để đời rồi, nhưng anh cảm thấy mình chưa
viết được gì!
Có lẽ vì thế mà sáu năm qua, khi các con đã tự lực mưu sinh, anh âm thầm
ngồi viết PHIÊN BẢN TÌNH YÊU (*). Đó là một khoảng thời gian dài cô đơn
và khổ hạnh trên một thị trấn miền cao heo hút, rót tinh lực cuối đời
vào tác phẩm với mong muốn thể hiện những gì đã sống, đã trải qua với
con tim tự do vui buồn và phẫn nộ trước hiện thực của đất nước đầy tai
ương và bi kịch. Anh nói với tôi, quá trình sáng tác, rất nhiều đêm ngồi
trước máy vi tính, anh đã khóc với nhân vật của mình.
Tác động chính trị rền rĩ xuyên suốt tác phẩm, cốt lõi PHIÊN BẢN TÌNH
YÊU là chuyện đời và chuyện tình của một nhân vật rất đặc biệt nhưng
không cá biệt, nhiều tình tiết rất ly kỳ cũng rất hiện thực... Tác phẩm
có cả trăm nhân vật thuộc nhiều thành phần xã hội của hai thời kỳ.
Ở Miền Nam trước 1975, có các nhân vật là sinh viên, học sinh, sĩ quan
Việt Nam Cộng Hòa, giáo sư đại học, bác sĩ, vợ lính, những Việt Cộng nằm
vùng, Việt Cộng ở núi, người dân vùng xôi đậu.
Và sau 1975, có đủ loại nhân vật liên quan đến guồng máy chế độ mới, chủ
yếu là quan chức đảng, chính quyền, các ban ngành từ tỉnh đến cơ sở. Họ
có nguồn gốc xuất thân khác nhau, từ đảng viên cải cách đến cán bộ tập
kết, cán bộ chi viện, cán bộ nằm vùng, những kẻ ăn theo. Đặc biệt có vài
nhân vật là gái điếm.
Chính vì thời gian của tác phẩm xuyên suốt từ 1954 đến tận hôm nay, với
những nhân vật đặc trưng và dụng ý rõ rệt của tác giả, đây không phải
chỉ là chuyện đời, chuyện tình của nhân vật chính và một số người liên
quan mà gắn kết với những vấn đề lịch sử và chính trị hệ trọng của đất
nước thông qua suy tư, tranh luận và hành vi của các nhân vật.
Nguồn gốc cuộc chiến tranh Việt Nam, nhận định và phê phán các nhân vật
lịch sử cả hai miền Nam Bắc, sai lầm và tác hại của chủ nghĩa Cộng Sản,
bản chất của chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa… Những vấn đề này không được trình
bày khô khan qua lý thuyết mà bằng những hình ảnh sống động của các nhân
vật trong từng giai đoạn và sự cố.
Các nhân vật có quá trình và tính cách hoàn toàn khác nhau được mô tả
một cách sắc sảo và chân xác, hình thành một bức tranh tổng thể, một vở
kịch lịch sử bi tráng, phần nào lý giải sự thất bại của miền Nam dù có
tự do dân chủ và mức sống cao hơn miền Bắc, trong cuộc chiến vừa qua.
Miền Nam là một chế độ dân chủ còn phôi thai, với những cấp lãnh đạo bất
tài, một số đảng phái xôi thịt, nhưng lại có những con người trong
sáng, nhân hậu, lý tưởng dù theo hay chống chính quyền. Ngoài thiếu sót
phát huy chính nghĩa độc lập dân tộc, miền Nam chưa có người đáng mặt vì
dân vì nước đứng lên lãnh đạo, lại thêm nhận thức lệch lạc của đồng
minh Mỹ về truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của Việt Nam.
Xốn xang làm sao, chính cái thiện, cái đẹp trong những con người thành
tâm lại vô tình góp một phần vào nguyên nhân thất bại khi đối đầu với
Cộng Sản lưu manh, xảo trá nhưng nhanh nhạy khai thác sơ hở của đối
phương, kích động căm thù đấu tranh giai cấp giữa thôn quê và thành thị,
sẵn sàng xử dụng bạo lực tối đa để khủng bố trấn áp, bỏ đói rồi bày trò
hứa hẹn hão huyền…
Ngay sau chiến thắng, Cộng Sản mở trại tù khắp đất nước, đẩy dân thành
phố lên vùng sâu vùng xa, tịch thu nhà cửa đất đai ruộng vườn, tận thu
lương thực và thực phẩm, cải tạo công thương…
Càng thi hành chính sách bao nhiêu, nhân dân càng đói khổ bấy nhiêu,
Cộng Sản vẫn to mồm tiếp tục huênh hoang. Trên đà say men chiến thắng,
họ nào ngờ bây giờ không còn che giấu được ai nữa. Mỹ và những quốc gia
đồng minh của Mỹ cấm vận Việt Nam. Liên Xô chiếm Cam Ranh để cấn nợ.
Khmer Đỏ mở mặt trận quấy rối biên giới Tây Nam. Trung Quốc xua quân xâm
chiếm sáu tỉnh phía Bắc. Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bất hợp tác.
Công Giáo âm thầm chống đối. Nhân dân bất mãn và một số đã quyết tử đứng
dậy. Từ Bắc vô Nam, nông dân đồng loạt đấu tranh đòi lại đất đai. Những
trò hề bầu bán giả hiệu dân chủ khiến người ta đã ngấy đến lợm mửa.
Tham ô từ trung ương đến địa phương.
Quả thật đây là một “cú lừa lịch sử vĩ đại”, đầu nậu là Hồ Chí Minh, bài
bản là của Mác–Mao... Nhưng canh bạc bịp nay đã lộ tẩy. Treo bảng Cộng
Hòa sao lại Vô Sản Chuyên Chính? Treo bảng Độc Lập sao nhất nhất mỗi
việc phải thông qua Nga, qua Tàu? Treo bảng Tự Do sao độc đảng đơn
nguyên? Treo bảng Hạnh Phúc sao nhân dân đói rặt từ Nam chí Bắc?
Staline dựng chiêu bài giải phóng Đông Âu khỏi họa Phát Xít Đức rồi áp
đặt chủ nghĩa Cộng Sản, nay các quốc gia đó đã ngẩng cao đầu sau khi
Liên Xô sụp đổ. Hồ Chí Minh dựng chiêu bài độc lập kêu gọi nhân dân
chống thực dân Pháp rồi áp đặt chủ nghĩa Cộng Sản, nay Việt Nam vẫn còn
trầm luân.
Tại sao? Đang nhờ Trung Quốc chống lưng. Có người bảo cái gì đã qua hãy
cho qua đi. Nhưng theo tôi chưa qua được. Hãy cùng Vũ Biện Điền thảo
luận một lần cho rốt ráo. Tháp Eiffel ngất nghểu, De Gaule trắng trợn
phủi tay, được chưa? Người Mỹ không phải thực dân, đúng rồi, nhưng vì nể
thực dân mà coi nhẹ độc lập của một dân tộc đang bị nô lệ dưới chiêu
bài bảo hộ, liệu có đáng mặt lãnh đạo đồng minh chiến thắng trong thế
chiến II? Liên Xô sụp đổ rồi, không nói nữa, nhưng đại Hán Trung Hoa còn
đó, mất đất trên bộ mất đảo ngoài biển làm sao đây? Phật Giáo Quốc
Doanh đang lan tỏa và nuốt chửng Phật Giáo Thống Nhất, những Phật tử vì
đạo pháp vì dân tộc nghĩ sao? Và cả Công Giáo nữa, cuộc chiến chống Cộng
Sản mang ý nghĩ gì?
Chúng ta cứ trung thực trao đổi, xé toạc bức màn vô minh như mây mù lưng
lửng bao quanh mỗi cá nhân, mỗi phe phái…không cho chúng ta nhận ra
nhau. Theo tôi, nếu can đảm, thẳng thắn, khách quan, bỏ qua định kiến
cục bộ, vượt lên những tham vọng hèn hạ, chúng ta sẽ thấy được con đường
Việt Nam... Riêng với người Cộng Sản, 70 năm qua, sức tàn lực tận rõ
rồi, không cần biện bác nữa. Chỉ có điều muốn hỏi, năm 1975 tổng thống
Dương Văn Minh và nội các của ông ta chịu gập mình vác cờ trắng để chấm
dứt cái họa cốt nhục tương tàn, nay những người Cộng Sản đến bao giờ mới
chịu chuyển giao – chí ít cũng đổi thay từ gốc rễ, cho Việt Nam ta vươn
lên?
Tuy nhiên, trước và sau, PHIÊN BẢN TÌNH YÊU vẫn là một câu chuyện tình.
Một chuyện tình xuyên thời gian, xuyên chế độ chính trị, xuyên thế hệ,
xuyên hoàn cảnh, xuyên tuổi tác, vượt qua mọi ràng buộc luân lý, thói
tục, quan điểm…nhưng cũng rất người, rất phải đạo, và cũng rất thánh
thiện.
Mới nghe qua ai cũng nghĩ đây là cuộc gặp gỡ định mệnh, nhưng theo tôi,
PHIÊN BẢN TÌNH YÊU là dồn nén đau nhức của cả một dân tộc từ nửa thế kỷ
vừa qua. Vì thế PHIÊN BẢN TÌNH YÊU có thể coi như một loại “quốc sử diễn
ca” cho một giai đoạn.
Tác phẩm viết theo lối song tuyến đồng hiện. Quá khứ và hiện tại xen kẽ,
từng bước làm hiện rõ cuộc đời và biến chuyển của từng nhân vật trước
và sau dấu mốc lịch sử năm 1975. Việc đưa các vấn đề tư tưởng, chính trị
vào suy tư và đối thoại của các nhân vật, hòa quyện với chuyện đời,
chuyện tình ở đây là một thủ pháp nhà nghề để đạt tới một bức tranh hiện
thực sinh động.
Thông qua hình tượng để phê phán, nhiều đoạn là những bài chính luận sắc
bén. Thông qua những đôi co oái ăm, nhiều đoạn rất trào lộng nhưng mỉa
mai cay độc. Thông qua những tình cảm chân thành, nhiều đoạn là những
khúc tình ca não nuột…
Trong tác phẩm có nhiều chương đắng cay đến đau thắt, tưởng như tác giả
bi lụy hóa. Nhưng rồi tôi nhìn quanh, ôn cố suốt nửa thế kỷ đau thương
của dân tộc, nghiệm lại rất ư là hiện thực. Trong tác phẩm có rất nhiều
chương đoạn rất ly kỳ tưởng như tác giả đã đi quá xa trong hư cấu. Nhưng
rồi tôi nhìn vào tim tôi, ôn cố suốt một đời người, nghiệm lại rất ư là
trung thực.
Trong tác phẩm có nhiều chương đoạn huyền ảo tưởng như tác giả đi quá xa
trong hoang tưởng. Nhưng rồi tôi hướng về khát vọng, tra cứu sử sách,
nghiệm lại rất xác thực.
Vũ Biện Điền nói với tôi, anh mất sáu năm, nhưng theo tôi, anh đã chung
chi vào đó cả cuộc đời. Một nhà văn nữ, bạn anh, cũng có hân hạnh đọc
bản thảo, đã đề nghị tác giả tự xuất bản, cô ta hứa sẽ bới cơm tù cho
anh tới ngày mãn hạn. Nhưng anh không đồng thuận, không phải ngại lao tù
mà muốn dành khoảng thời gian cuối đời tiếp tục sáng tác.
Tôi đã đọc PHIÊN BẢN TÌNH YÊU theo ba cách. – Đọc từ A01 đến A70 (chữ
đứng) rồi từ Z01 đến Z45 (chữ nghiêng), cảm giác đi từ hiện tại lùi dần
về quá khứ, mỗi bước một xót xa. – Đọc từ Z01 đến Z45 rồi từ A01 đến
A70, cảm giác đi từ quá khứ dần về hiện tại. mỗi bước một uất hận. Hai
cách này giúp ta nắm bắt cốt truyện và tình tiết dễ dàng. – Hay hơn cả,
theo tôi, là đọc chương đoạn A và Z xen kẽ như đã trình bày, cảm giác
cùng tác giả, cùng nhân vật sống chung một giai đoạn lịch sử. Nhưng đọc
cách nào, tôi thấy tác phẩm vẫn không giảm sức cuốn hút. Được thế, không
những do tình tiết ly kỳ, miêu tả chính xác sinh động, bút pháp sắc
sảo, còn do đóng góp của hàng trăm chú thích tỉ mỉ, đầy thuyết phục. Một
lối kết cấu tiểu thuyết độc đáo, khá lạ lùng!
Tóm tắt, PHIÊN BẢN TÌNH YÊU là một tác phẩm công phu, tâm huyết, nặng trí tuệ, có tính điển hình cao
với một văn phong độc đáo, đa dạng, sắc bén, quyết liệt nhưng cũng đầy chất thơ.
Ắt hẳn vẫn có vài nhược điểm mà độc giả có thể nhìn thấy đâu đó, nhưng
đây là một tác phẩm xứng tầm lịch sử – cho hôm qua, hôm nay và cả mai
sau. Tôi tin PHIÊN BẢN TÌNH YÊU sẽ cùng tồn tại với bi kịch lịch sử mang
tên Việt Nam. Đôi dòng giới thiệu trên không là gì cả đối với một
trường thiên tiểu thuyết hơn bốn trăm ngàn từ. Đó là chưa lý tới hạn chế
khi tôi đang trong tình trạng sức khỏe không được tốt và phải nhấp nhem
đọc tác phẩm ngay trên máy vi tính. Nhưng dù gì, lời chào mời thô thiển
này hy vọng cũng làm được nhịp cầu tri ngộ nho nhỏ giúp bạn đọc bước
vào tác phẩm, chung chia với tác giả gánh đau thương của dân tộc đang
nổi trôi trên non sông Việt Nam.
Trong tâm thái sáng tác, một mình một cõi, tác giả có được tự do múa
bút. Nhưng khi công bố, tác giả không thể không đắn đo vì nội dung
“khủng khiếp” của tác phẩm. Lại nữa, kinh cung chi điểu, tác giả đã từng
no đòn vì “họa văn chương” trong chế độ độc tài.
Vì thế anh đã chọn cách dùng bút hiệu mới khi xuất bản tác phẩm. Tôi hân
hạnh được đọc tác phẩm khi còn là bản thảo với đề nghị viết đôi lời
giới thiệu để ghi nhớ 50 năm tình bạn sắt son, đầy ắp hoài bão sáng tác,
cũng lấy một bút hiệu khác. Đây là một hạn chế không tránh khỏi nhưng
hy vọng độc giả có thể cảm thông. Vấn đề là nội dung và giá trị tác
phẩm. Dù là của bất cứ tác giả nào, dưới bút hiệu nào, tác phẩm có sức
nặng và tỏa sáng hay không mới là điều đáng kể.
Ảnh bìa 2 tập sách
Việt Nam, tháng 8.2012
(*) Quý độc giả yêu sách ở xa muốn có tác phẩm quý giá xin viết chi
phiếu 25 MK cho (25 MK tiền sách + 5 MNK cước phí bưu điện) trả cho
VLAC/TQH (Vietnamese Litterary & Artistic Club of Washington) và gửi
về địa chỉ:
Mr Trần Phong Vũ, 4 Sand Pointe, Laguna Niguel, CA 92677. tphongvu@yahoo.com.
ĐT: (949) 485 – 6078.
Mua hai cuốn tập I và II cũng chỉ phải tra 5 MK cước phí.
Mr Trần Phong Vũ, 4 Sand Pointe, Laguna Niguel, CA 92677. tphongvu@yahoo.com.
ĐT: (949) 485 – 6078.
Mua hai cuốn tập I và II cũng chỉ phải tra 5 MK cước phí.