Tuesday, November 8, 2016

SAIGON SẼ CHÌM XUỐNG BIỂN *QUỐC GIA VÀ CỘNG SẢN

Wednesday, March 12, 2014

NGUYỄN THƯỢNG CHÁNH * THẾ GIỚI KHÔNG ĐÀN BÀ

HÃY TƯỞNG TƯỢNG

MỘT THẾ GIỚI KHÔNG ĐÀN BÀ

Mồng 8 tháng 3 là ngày trọng đại của phụ nữ khắp năm châụ. Ngày Quốc tế phụ nữ nói lên những nỗi bất công đối với phụ nữ. Tại Canada cũng như tại nhiều quốc gia khác đều có những buổi hội thảo, những cuộc đi bộ nhầm tranh đấu cho quyền bình đẳng giới tính. Phự nữ đòi được đối xử công bằng như đàn ông, được quyền tự do phá thai và chống lại tệ nạn bạo hành gia đình.
Nhiều tiến bộ đã được thấy rõ trong xã hội Tây phương, nhưng còn các quốc gia Á châu, châu Mỹ La tinh và khối Hồi giáo thì sao ? Đoạn đường của người phụ nữ tại những xứ nầy chắc cũng còn khá dàị.
Thế giới không đàn bà, chuyện không tưởng
Thế giới không có đàn bà là một chuyện không tưởng và chắc chắn rằng ít có ai nghĩ tới lắm. Nó vượt ra ngoài cái tầm suy nghĩ bình thường của mọi ngườị
Thiên nhiên, loài vật và loài người đều bắt buộc phải có âm có dương, đực cái, đàn ông và đàn bà. Đó là quy luật tự nhiên của tạo hóa. Tuy nhiên, ai ai cũng có thể có ý kiến riêng tư của mình hết. Tùy theo đàn ông hay đàn bà, độc thân, sống như vợ chồng hạnh phúc, tình trường éo le, đổ vỡ, ly dị, hay đang phải chịu cảnh trai già, gái già, bóng, đồng hệ, ô môi, les, pê đê, v.v…
Mỗi người, mỗi kinh nghiệm sống khác nhau cho nên họ cũng nhìn vấn đề theo cảm quan, 
 
 và góc cạnh khác nhau. Có cha bị vợ cặm sừng, bị bồ đá, bị bỏ rơi thì thường hay có lời gay gắt đắng cay đối với phái nữ : “ôi đàn bà là những niềm đau…là con dao làm tim nhỏ máu …”
Có nhiều tác giả Tây phương đã từng đề cập đến vấn đề nầy rồi, chẳng hạn như Sarah Sands (nhà báo chuyên nghiệp Anh quốc) qua bài “A world without men ? Easy, but if there were no women , what then ?” (Thế giới không đàn ông ? Xí ! dễ òm, nhưng nếu không có đàn bà thì sao ?).
Nên biết Sarah Sands là một phư nữ cho nên ý kiến bà đưa ra chắc chắn phải thiên về phía nình bà. Cũng dễ hiểu mà thôi. Theo bà Sarah, sự hiện diện của đàn ông trong tương lai chỉ là ân huệ mà thôi vì tinh dịch của các đấng mày râu có thể được sản xuất ra rất dễ dàng trong phòng thí nghiệm. Ý bà nói là nếu cần mang thai, thì chỉ bỏ ra vài ngàn đô để mua tinh dịch rồi nhờ bác sĩ gieo cho là bảo đảm có bébé ngay lập tức. Phương pháp thụ tinh nhân tạo theo kiểu nầy bên thú y đã làm từ khuya rồi. Cần gì phải có chồng làm chi cho phiền phức và bị ràng buộc lôi thôi. Có lẽ các bà nầy mang nặng ý tưởng bi quan “con là nợ, chồng là nghiệp chướng. Có chồng như đeo gông vào cổ.”
Bà còn hù rằng thế giới không đàn bà thì đàn ông khổ lắm như Kinh thánh đã cho biết. Ai lo cơm nước, chợ búa, dọn dẹp nhà cửa cho tươm tất, ai cạo gió cho mỗi khi đau yếu, quản lý chi tiêu, canh giữ tiền bạc gia đình để khỏi bị mấy ổng phung phí hoặc lén đem làm từ thiện… nuôi gái làm phước.
Trong kinh Sáng thế Genesis, Chúa đã nói rất rõ nhiệm vụ của chồng và của vợ trong đời sống gia đình: Đó là sự bình đẳng, thương yêu, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau.  Chồng là xếp vợ là phụ tá, nhưng trong thực tế của xã hội ngày nay thì hầu như đa số mấy ông chồng chỉ làm xếp khi bà vợ đi vắng mà thôi.Thật vậy, không có đàn bà thì khổ lắm mấy ông ơi.
 
 Trước khi có Eva, Adam sống một cách bừa bãi, chán phèo, lũi thũi có một mình, tối ngày chỉ biết đi săn mà thôi. Sáng thế Genesis là nhựt ký ghi chép theo thứ tự thời gian vô số hành động và sinh hoạt của Adam nhưng lại thiếu phần phân tách tình cảm, trạng thái tâm lý của anh ta ra sao. Cho đến ngày Adam bị mất đi một cái xương sườn và sự xuất hiện của người đẹp Eva bên cạnh. Đó chính là lúc cuộc đời của Adam bắt đầu đi vào một ngã rẽ mới. Eva dạy anh ta nhiều điều mới lạ như phải biết ăn mặc cho kín đáo để che bớt thân thể… thấy ghê quá.
Bà Sarah Sands còn nói them : Nếu bạn hỏi một người đàn bà là chuyện gì có thể xảy ra nếu không có mặt người đàn ông ? Bà ta sẽ trả lời với ít nhiều sung sướng trước viễn tượng sẽ có một tương lai tươi sáng hơn, không có sách báo, quần áo, giày dép vung vải, rác rến tùm lum tà la trong nhà.
Nếu hỏi các ông thế nào là một cuộc sống không có đàn bà thì họ sẽ mìm cười, tỏ vẻ khoái trá : đó là thế giới của phụ tùng, máy móc lỉnh kỉnh, của thể thao, của rượu, của beer…là được tự do sướng quá xá, hết bị nghe cằn nhằn nhức đầu.
Sự có mặt của phụ nữ trong các nguồn máy kinh tế tài chánh cũng mới đây thôi.
Theo bà Helen Alexander, President CBI (Confederation of British Industry) cho biết sau khi bà được đề cử nắm giữ chức vụ then chốt đó, “ người ta mới nghĩ đến sự cần thiết  phải có sự hiện diện của phái nữ bên cạnh số nhân viên nam giới”. Nhờ có bà mà các hợp đồng thương mại tăng nhanh hơn trước. Bà Helen Alexander còn chêm thêm một câu nữa : “hãy nghĩ xem nếu một người đàn ông được bổ nhiệm trong chức vụ điều khiển CBI thì thử hỏi ông ta có cùng một quyết định như thế không?”
Không có đàn bà, đàn ông thường hay áp dụng cách suy nghĩ của đa số (group think). Họ cùng chia sẻ một cái nhìn chung của thế giới, có những sở thích giống nhau, có cùng một sân golf, v.v…
Một thế giới không đàn bà là một thời gian trong đó người đàn ông có thể nói hết những câu mà họ muốn nói ra. Chắc đó là những câu đơn điệu chán phèo. Những chuyện, những ý kiến, tình cảm nhầm vào phái nữ họ chỉ dành riêng trong những sinh hoạt riêng tư mà thôi (lời của bà Sarah Sands).
Đàn ông, đặc biệt là con trai cần sự dịu dàng từ bàn tay phụ nữ mà nhất là đó là bàn tay của một người mẹ.
Đàn bà cũng làm nên sự nghiệp, tranh đấu cho dân chủ, cho nhân quyền, cho bình đẳng xã hội tại nhiều quốc gia trên thế giới cũng như tại Việt Nam.
Đàn bà cũng từng đóng một vai trò quan trọng các cuộc tranh đấu đòi giải phóng phụ nữ tại các quốc gia hồi giáo cực đoan như Iran và Afghanistan.
Sarah Sands nghĩ rằng thế giới không đàn bà sẽ làm sụp đổ kỹ nghệ sắc đẹp, kỹ nghệ hàng vải và thời trang may mặc.
Một thế giới không đàn bà, đàn ông có thể được nhiều tự do sử dụng những bàn viết rộng rãi, loại bỏ những khung ảnh gia đình và thế vào đó bằng những khung ảnh người mẫu trẻ đẹp mát mẻ. Họ có thể mang những đôi vớ cũ và tạm khâu áo quần bằng kim Tâỵ Họ có thể huýt sáo với nhau, v.v… Một thế giới không đàn bà đối với đàn ông có thể được xem như một sự xả hơi. Cái mà họ đánh mất là sự đa dạng (variety) và sự thay đổi trong nếp sinh hoạt.
Không có đàn bà, một thế giới của đàn ông ?
Mara Hvistendahl đã nêu lên một sự thật, đó là sự mất quân bình giữa số nam và nữ tại các quốc gia Á châu và Đông Âụ Chúng ta có thể nêu ra : Trung Quốc, Ấn Độ, Taiwan, Việt Nam, Azerbaijan, Georgia, Armenia và Albenia. Chính sách hạn chế sinh sản của Trung Quốc cho phép mỗi gia đình 
 chỉ có quyền được có một đứa con trai mà thôi. 
 
Đây là nguyên nhân gây ra sự khan hiếm phụ nữ ngày nay.
Có lối 160 triệu phụ nữ đã giảm đi trong dân số của các quốc gia Á châu và Đông âu.
Quyền được phá thai cũng như việc chọn trai hay gái theo ý muốn đã làm lệch lạc đi cán cân dân số và giới tính trên thế giới.
Ai cũng biết là ngày nay khoa học rất tiến bộ. Việc chọn trai hay gái trở nên rất dễ dàng. Phòng thí nghiệm có thể lựa tinh trùng mang tính nam (Y) của chồng cho thụ trong óng nghiệm với noãn mang tính nữ (X) của bà vợ. Thế là có con trai (XY). Nếu muống có con gái thì chọn X với X. Sau đó, đem trứng thụ gắn vào tử cung của bà vợ. Thế là xong. Đây là phương pháp Preimplantation Genetic Diagnosis PGD. Tại Hoa Kỳ tốn 20 000$. Một số không ít cặp vợ chồng Mỹ lại thích có con gái hơn là con trai. Vì theo họ, con gái có thể cho ăn mặc đồ hồng rất dễ thương, lại nữa con gái thường rất dễ dạy ít phá phách, và học hành cũng giỏi hơn con trai.
Không có đàn bà, kinh tế thế giới sẽ lâm nguy và suy sụp xuống tức khắc.
Ai cũng biết việc mua sắm từ món nhỏ đến món lớn là cái thú vui của mấy bà.
Đó là nữ trang, quần áo, thời trang, mỹ phẩm, dụng cụ điện tử hi tech như laptop, ipad, ipod… Tại Hoa kỳ 80% khách hàng của kỹ nghệ xe hơi là phái nữ (có thể bà không trực tiếp mua xe, nhưng các bà quyết định hiệu xe, kiểu xe phải mua).
Không có đàn bà, thế giới loài người sẽ tự diệt
Dân số đàn bà trên thế giới càng ngày càng giảm vì nhiều nguyên nhân. Nhiều cô không muốn lấy chồng và cũng không thích có con vì sợ bị ràng buộc mất hết tự do trong cuộc sống. Vui vẻ với bồ với kép thì được nhưng nhất định không cho có bầu, không lấy nhau thành vợ chồng. Điển hình nhất là phụ nữ Hong Kong không muốn lấy chồng vì sợ phải mang gông vào cổ. Hậu quả là sanh sản ít đị. Đến một lúc nào đó, có thể là bảy tám trăm năm nữa) dân số Hong Kong sẽ không còn một mống nào cả. Theo dự đoán thì người đàn bà Hong Kong cuối cùng sẽ ra đời vào năm 2798 (?)
Không còn đàn ông, không còn loài ngườỉ
Vừa qua (23/2/2012) một khảo cứu đăng trong tạp chí Nature cho biết đàn ông sắp bị tuyệt chủng vì nhiễm sắc thể chromosome Y (quyết định giới tính nam) chỉ còn có 30 genes (thay gì 800). 
 
 Vậy thì không thể đẻ con trai được. Tưởng tượng đến lúc (vài ngàn năm nữa) không còn đàn ông, thì mấy bà làm sao đẻ một mình được. Thế giới loài người sẽ tự hủy diệt. Nhưng sau đó, các nhà khoa học lại trấn an dư luận là tuy chỉ còn có 30 genes nhưng chúng rất ổn định từ mấy chục triệu năm rồi, không có gì phải lo. Hú hồn. Nói đi nói lại cũng họ thôi.
Chỉ có các lão ông 7-8 bó là rất dững dưng trước tin trên vì có lo cho lắm nó cũng vậy mà thôi.
Nhà tâm lý học Aude de Thuin nói về đàn bà.
Bà Aude de Thuin là một nhà tâm lý học và đồng thời cũng là một nhà kinh doanh thành công tại Pháp. Bà là người sáng lập ra diễn đàn phụ nữ (Women’s forum). Qua tác phẩm “Femmes si vous osiez, le monde s’en porterait mieux” (Nếu các bà dám làm, thế giới sẽ trở nên khá hơn). Ý bà muốn nói kẻ thù của người đàn bà chính ở nơi họ, như thiếu tự tin, ràng buộc vì gia đình, học vấn…
“Be the change you want to be” thánh Gandhi đã dạy chúng ta phải tự mình thay đổi nội tâm để có thể thay đổi thế giới. Bà Aude de Thuin hô hào phụ nữ phải mạnh dạn nói lên tiếng lòng của họ, và hãy can đảm ngồi bên cạnh các ông, đễ cùng suy nghĩ và xây dựng một tương lai chung.
 
Thăm dò bỏ túi do người gõ thực hiện
Anh hay chị cho biết cảm tưởng một “thế giới không có đàn bà”.
Sau đây là một vài câu trả lời đã nhận được :
1/- Câu hỏi tào lao quá. Buôn bán  sẽ ế ẩm là cái chắc (vì từ thương xá cao cấp cho đến cửa hàng bình dân 1$  như Dollarama, 99 cents only stores số khách đàn bà chiếm hết 80%). Không có đàn bà, thì nhà cửa chắc bầy hầy, bừa bãi lắm, không còn đồng xu dính túi (chắc suy bụng ta ra bụng người).(Má sắp nhỏ)
Người gõ thêm vô nhận xét là mấy xạp ăn hàng rong bên nhà, trong chợ sao thấy toàn là mấy bà mấy cô không hà. Đàn bà cũng ngoan đạo hơn đàn ông, nên trong chùa thấy thiện nam ít hơn tín nữ (Người gõ).
2/- Đại loại thì người VN mình cũng không thể ra ngoài quy luật của thiên nhiên trên sự liên hợp giữa đàn ông và đàn bà trong một xã hội. Có thể có những cách cư xử của người VN mình có đôi chút khác biệt với những giống dân khác trên thế giới, nhưng kết cục lại thì cũng có thể không ít thì nhiều, đàn ông vẫn luôn luôn là nô lệ của đàn bà chăng?!! (Một người Montreal).
 
3/- Đặt vấn đề : Giả sử có một đảo hoang toàn là đàn ông không hà thì sao ? Một đảo khác hoàn toàn là đàn bà thì thế nào ? Tại sao đàn ông lại biến thành đàn bà, con gái đẹp nhất thấy mê mệt như bọn gái mới ở Thái Lan (mới chuyển đổi giống).
Còn con gái có biến thành đàn ông không ? Sau khi thảo luận sơ sơ thì xã hội hoàn toàn như thế là không có. Đi ngược lại tự nhiên của tạo hóa. Cây, cỏ, thực vật cũng có đực và cái mới có thảm thực vật, thú vật và con người ngày naỵ
4/- Thế giới không đàn bà như cây thiếu nước, như đất không hoạ, chán thiệt. Tuy đàn bà có nhiều vấn đề nhưng không phải tại họ mà do cuộc sống mà thôi. Không có đàn bà thì thế giới nầy đi lần tới hủy diệt. Ông Trời khá thông minh thiệt. (Một người Montreal).
5/- Không có bà nội, bà ngoại không có mẹ, không có cô giáo, không có chị , không có em gái không có phụ nữ, thì không có gì hết.
Ng Thuong Chanh 1 
Thêm nữa phụ nữ là yếu tố cũa tình yêu, của hòa bình. (Một cư sĩ Cali)
Kết luận
Một thế giới không đàn bà là chuyện không tưởng. Giả sử có thật đi nữa thì ông Trời phải phú  cho con người những cách, những cơ chế tinh thần, tình cảm và thể xác để có thể thích nghi vào hoàn cảnh và điều kiện mớị
Đàn bà là mẹ đàn ông – Đàn ông là cha đàn bà. /.
Nguyễn Thượng Chánh (Montreal)

NATIONAL GEOGRAPHIC: * SAIGON SẼ CHÌM XUỐNG BIỂN

National Geographic: SAIGON  SẼ CHÌM XUỐNG BIỂN NẾU NẾU NAMBẮC CỰC BĂNG TAN


Kênh 14 - 11/11/2013 10:54 1 tin đăng lại

Khá nhiều tỉnh ở miền Bắc cũng chịu chung số phận "bị nhấn chìm" khi toàn bộ băng trên Trái đất bị tan chảy hoàn toàn.

Chúng ta đều biết rằng, Trái đất đang ngày một nóng lên, vùng Bắc Cực nóng lên nhanh gấp 2 lần mức trung bình trên toàn cầu, cùng với đó, băng tan nhanh khiến diện tích của biển Bắc Cực đang ngày một thu hẹp lại.
Câu hỏi được đặt ra là chuyện gì sẽ xảy ra khi toàn bộ băng ở hai cực Trái đất tan hết? Liệu chúng ta có "chết chìm" trong biển nước?

Các nhà khoa học đã khẳng định rằng, tất cả chúng ta sẽ không chết chìm hết khi mực nước biển dâng cao. Tuy nhiên, rất nhiều thành phố ven biển chắc chắn sẽ bị nhấn chìm.

Dưới đây là hình ảnh vừa được đăng trên tạp chí National Geographic với tiêu đề "Khi tất cả băng trên thế giới tan chảy". Bức ảnh đã mô tả hình ảnh lúc mực nước biển dâng cao hơn 216feet (khoảng 65,6m) so với hiện tại.


Hình ảnh băng tan khiến mực nước biển dâng cao ở châu Á. (Màu xanh nhạt biểu trưng cho mức nước biển dâng cao).

Hình ảnh bản đồ chụp lại khu vực Việt Nam và các nước lân cận.

Nhìn vào bản đồ, chúng ta có thể "nói lời tạm biệt" với Thành phố Hồ Chí Minh. Ở phía Bắc, những điểm như Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định cũng chịu chung số phận. Các tỉnh thành ven biển miền Trung như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh cũng bị nước biển lấn sâu...

Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất chịu ảnh hưởng của vấn đề băng tan chảy. Những thành phố lớn như Karachi, Baghdad, Dubai, Calcutta, Bangkok, Singapore, Hồng Kông, Thượng Hải, Tokyo và Bắc Kinh cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp và chịu chung số phận.


SAIGON sẽ chìm trong biển nước nếu băng trên Trái đất tan chảy hết.

Những nước láng giềng như Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Philippines, hay ngay cả Hồng Kông cũng chịu chung số phận.

Băng tan sẽ dẫn đến nhiều hậu quả khôn lường, bởi vậy mà chính phủ các nước luôn quan tâm và thúc đẩy các kế hoạch để đối phó với mô hình thời tiết cực đoan trong tương lai.
Dưới đây là một số hình ảnh các nước bị nhấn chìm nếu băng tan chảy trên khắp châu lục thế giới.

Khu vực châu Âu.

Khu vực Bắc Mỹ.

Khu vực châu Phi.


Tất cả hãy cùng hành động để làm chậm quá trình trái đất nóng lên, chỉ bằng những việc làm thường ngày:
- Chuyển dần sang đi bộ, đạp xe đạp, sử dụng xe bus thay vì để bố mẹ đèo xe máy hay ôtô khi đi học, đi chơi.
- Tìm cách hạn chế sử dụng nguồn năng lượng từ củi/than đốt hay gas. Thay vào đó, chúng ta có thể tìm hiểu việc sử dụng năng lượng mặt trời.
- Tích cực trồng cây xanh (mỗi bạn có thể trồng một cây cảnh nhỏ xinh vừa để trang trí, vừa giúp môi trường sạch hơn).

(Nguồn tham khảo: National Geographic/ Business Insider)
http://www.baomoi.com/National-Geographic-TP-Ho-Chi-Minh-se-bi-nhan-chim-neu-bang-2-cuc-tan-chay/79/12389333.epi


VẠN MỘC CƯ SĨ BÌNH

 Trước đây hơn 100 năm, ông Nguyễn Văn Thới, Phật tử thuộc phái Bửu Sơn Kỳ Hương đã soạn quyển " Kim Cổ Kỳ quan" gồm 21 ngàn câu thơ lục bát, tiên đoán nhiều điều. 
Trước tiên, Việt  Nam thay đổi hình thể, phần nhiều bị chìm xuống biển:

 Núi biển ít sau lại nổi thêm
Đồng Nai, đất Bắc không êm núi nào
(KCKQ, 795-796)

Đất Bắc-kỳ sau lại ruộng sâu,
Mười phần thác chín khó âu cho người.

(Cổ kim audio 2B; KCKQ, c. 1072-74)

Đất Bắc địa giăng câu đặt lọp,
Ăn cá đồng không cọp ở rừng(KT, 271, 6; câu 233)

Đất Sài gòn giăng câu đặt lọp,
Ăn cá đồng không cọp ở rừng.
(Cáo thị, 777-778)

Theo lời thuật của thiếu tướng Nguyễn Văn  Chức  ( qua ghi chép của ôngNguyễnVăn Hiệp ) về tiên đoán của ông đạo Nhỏ Hòa Hảo về Việt Nam:
  Ông cầm cây viết mỡ vẽ một lằn từ bên Tàu phía trên Hồng Kông từ ngoài biển kéo vô một lằn tới dãy Himalaya (Hy-mã-lạp-sơn) rồi ông kéo trở lại cắt ngang phía Bắc Việt Nam từ miền Thượng du Bắc Việt tức vùng Cao bằng- Lạng sơn ra tới phía Bắc của Hải phòng. Rồi ông lấy viết xanh ông gạch gạch rồi cho biết “tất cả chỗ đó sẽ trở thành biển”, ông viết một chữ “biển” lên đó.Nguyên phần đất nầy sẽ tan biến, tức là ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ thành một cái biển lớn. HồngKông không còn rồi qua đến phiá Bắc của Lào, một phần của Thái lan, một phần của Miến Điện rồi vô tới dãy Himalaya sẽ bị sụp mất hết, Việt nam chỉ mất có bấy nhiêu đó thôi.

Cái vạt Bắc Kinh- Thượng Hải được ông gạch nát hết, Đài Loan cũng lặn mất. Xong rồi, tôi để bản đồ trước mặt Ông, chỉ vào từng vùng, từng vùng thì ông cho thấy quốc gia nào cũng bị khó khăn hết. Nước Mỹ nầy thì ông vẽ Tiểu Bang Washington, Oregon, California đi xuống biển, còn ở phía miền Đông thì bể nhiều lỗ, Nữu Ước không còn nữa tức cũng thành biển, nước Mỹ chỉ bị mất mấy vùng hai bên bờ biển phiá Đông và phiá Tây, rồi ông làm một bài thơ cho biết Địa cầu chuyển trục, nước Mỹ trở thành một vùng nằm ngay giữa đường Xích đạo. Đường Xích đạo đi ngang qua nước Mỹ biến nước Mỹ trở thành một quốc gia bị nóng như Sa mạc.Còn bên Âu châu thì quốc gia nào cũng bị thiệt hại một phần hết. Nước nào ông cũng bôi bỏ chỗ nầy, chỗ kia rồi chỗ kia, chỗ nọ; cuối cùng chỉ còn lại hai chỗ là Úc châu và Tân Tây lan.



Những tiên đoán này phù hợp với những tiên đoán của khoa học.




Trong Kim Cổ Kỳ Quan, ông Nguyễn Văn Thới đã tiên đoán về Việt Nam.
Cái nguy khốn cho Việt Nam là Hồ Chí Minh theo Trung Cộng, là người của Trung Cộng, đưa Trung cộng tàn phá Việt Nam, bắt dân ta làm nô lệ cho Trung Cộng:

Thương người biết đạo ra bài,
Ghét là thiệt ghét Tàu thầy An Nam.

(Tiền Giang tr.208, cột27, 1115-1116)

Nên muôn dân kẻ dọc người ngang,
Cũng vì bởi Tàu man quấy rối
(KT, 278, 20)

Việt Cộng bị Trung Cộng chiếm hải đảo và biên cuơng để xiết nợ:
Cây héo mà tươi thấy tươi mà héo
Muốn ăn cho béo nợ kéo mà trừ biên thùy giỏi nữa.
(Cáo thị, 712-713)

Thế chiến thứ ba sẽ xảy ra, quân Mỹ trở laị Việt Nam
Việc Phong-Thần như thể ra thai
Âm thinh thức dậy thấy tai ó rằn

(KCKQ, 1533- 1534)

Lúc này quân đồng Mỹ cũng vào Việt nam đấu với Trung Cộng
Mãn nhứt thinh các nước đều vô,
Đầu sơn giao chiến Nam-mô tranh tài.
Thập bát quốc vây phủ ở ngoài,
Thiền trung xuất trận phép tài quan thiên,
(KT 295-298)


Trung cộng gian ác nên bị mất nước;
Tiều Tàu kinh thơ phế thất,
Phật xử người tuyệt quốc tùng bang
Qua nước Nam lấn lướt dọc ngang.
. .
(KT 277, 18, 699-71)


Khi Trung Cộng bị tiêu diệt thì Việt Nam được hòa bình, thịnh vượng:
Bắc kinh mất, nước Nam nhờ
(Tiền giang, 209, 29; câu 1183)

Qua nhiều tai họa, Việt Nam sau này sẽ quang phục.
Việt Nam sẽ trở thành một cường quốc, thành một liên bang gồm nhiều nước:

Nam-triều sau có quân sư
Coi mười tám nước chư châu phục tùng
Ngày sau nhiều kẻ anh hùng
Nghề văn nghiệp võ trí trung không cùng.

(Vân Tiên, 683-686)

Nước Nam như thể cái chùa
Ngày sau các nước bốn mùa bán buôn

(Vân Tiên 749-750)

Phật sẽ xuất hiện tại An Giang;
Chừng nào Phật xuất An-Giang
Nhơn dân lục tỉnh thanh nhàn tấm thân

(Giác Mê, 392-93)

Ông Nguyễn Văn Thới đã tiên đoán đúng hơn một nửa rồi. Hãy xem tiếp nửa sau khi cơ trời chuyển động.

XIN XEM TẠI:
  .TÀI LIỆU VỀ CÁC NHÀ TIÊN TRI .
  NGUYỄN THIÊN THỤ * KIM CỔ KỲ QUAN CHÚ GIẢI


THƠ TRANH ĐẤU


Khai bút đón xuân
 Trần Đức Thạch (Nghệ An)
Câu thơ mang tinh thần tranh đấu
 Đón xuân về khí thế mới thêm hăng
 Lửa khát vọng Tự Do nung nấu
 Cho ngày mai Dân chủ Công bằng.
 Xin chào cháu! Phương Uyên nơi ngục thất
 Vẫn xinh tươi như đóa mai vàng
 Xin chào anh! Lê Quốc Quân bất khuất
 Thắm sắc đào trong giá lạnh hiên ngang.
 Chào năm mới! Chào những người yêu nước
 Chào non sông chào dân tộc Tiên Rồng!
 Bừng hào khí Đông A thuở trước
 Khắp năm châu người Việt một lòng.
 Đất nước đang " Ngàn cân treo sợi tóc"
 Cả thù trong cấu kết với giặc ngoài
 Hãy chặn đứng những âm mưu thâm độc
 Trách nhiệm này không phải của riêng ai...
 Nào! Rầm rập đi vào mùa xuân mới
 Già trẻ gái trai hừng hực xuống đường
Niềm vinh dự phía tương lai đang đợi
 Những trái tim nhiệt huyết với quê hương.
 Trần Đức Thạch
GƯƠM BÉN
 Lưu Hậu Thế (Ottawa)
 Bao anh hùng tổ tiên khi trước
 Đuổi ngoại xâm dựng nước Việt Nam
 Đã chiến đấu muôn vàn cực khổ
 Giữ non sông đất tổ bình an .
 Mấy nghìn năm trước đến đời nay
 Trừ Hán, đánh Mông, đuổi giặc Tây
 Người Việt toàn dân đều nhất trí
 Súng ghìm, gươm bén sẵn trong tay
 Trách nhiệm bây giờ của chúng ta
 Cùng nhau gìn giữ nước non nhà
 Xâm lăng nước Việt không tha thứ
 Người Việt trong ngoài giữ quốc gia
 Hạng người theo giặc núp đằng sau
 Là loại chó săn hãy bảo nhau :
Vạch mặt chỉ tên loài khuyển mã
 Việt gian bán nước phải bêu đầu
 Giặc nào xâm lấn đất nước ta
 Tiêu diệt noi gương trận Đống Đa
 Già trẻ , gái trai chung việc nước
 Cùng nhau đoàn kết giữ sơn hà
 Dân ta yêu chuộng sự thanh bình
 Nước Việt yên lành sống hiển vinh
 No ấm toàn dân trong hạnh phúc
 Thăng hoa thịnh vượng khắp gia đình ./-
  
  
 THÁCH NGƯỜI ĐẤU TRANH VỀ NƯỚC
 (Thơ chiến sĩ Kiều Phong )
  Có cơ hội ngẩng cao đầu, tại sao lại cúi mặt ? !
 Chỉ những kẻ KHÔNG HỀ BIẾT NHỤC như cao cầy, phạm duy
 Tên tuổi, điạ vị kể như vứt đi
 Thiên hạ khinh khi như hai con chó ghẻ !!!
 Trong Nước lo việc trong Nước
 Hải Ngoại cũng là mặt trận gay go
 Vì có khá nhiều những kẻ sống vật vờ
Nào khác chi KÝ SINH TRÙNG ăn hại ? !
 Chẳng ý thức Đạo Làm Người, Bổn Phận Công Dân
 Tổ Quốc cũng như Tổ Cò vậy thôi !
 Có những kẻ ra đi kiếp sống nổi trôi
 Không chút xót thương Quê Hương, Dân Tộc
 Biết rằng nơi đất Tự Do, Dân Chủ tha hồ sinh hoạt
 Ai có đầu óc cầu tiến vẫn có cơ hội thăng hoa
 Nhưng không phải vì thế chối bỏ trách nhiệm với Cộng Đồng, Quê Nhà
 Nếu một người chỉ nghĩ đến Cá Nhân và Gia Đình phè phởn!
 Kẻ đó đã phủi trách nhiệm Tồn Vong cuả Đất Nước
 Bất cứ kẻ nào được sinh ra và lớn lên trên Quê Hương
 Cũng đều gánh một phần trách nhiệm việc Đất Nước Tồn Vong
 Lại thách Người Đấu Tranh về chống Việt Cộng ngay trong nước
Ngu sao đưa đầu cho chúng Đập ? !
 Làm như Hải Ngoại toàn là VÀNG RÒNG ???
 Lũ Nằm Vùng và bọn Trở Cờ Ăn Phân khá đông
 Nào phải là Hậu Phương An Bình thư thả ? !
 Nếu không giữ vững ngọn Cờ Vàng Quốc Gia
 Trong Nước còn Tinh Thần đâu để tranh đấu ???
 Kẻ đầu óc hẹp hòi, ích kỷ sống cho riêng mình còn giả bộ tài khôn
 KHÔN VẶT thì GIỎI, KHÔN LỚN chỉ là số KHÔNG tổ bố !!!
 KIỀU PHONG ( Toronto)
  
Nhớ Nắng Quê Hương
 Việt Phương
 (Brampton)
Có đôi khi ngồi bên kia khung cửa
 Nhớ nắng quê hương, nhớ nắng Sài Gòn
 Đời lưu lạc đôi khi như kiếm sắc
 Một nhát làm đau (nên) đành đoạn tủi hờn
 Có đôi khi không dưng lòng muốn khóc
 Ở chỗ trái tim (nghe) tắc nghẹn không lời
 Em có biết ở ngàn trùng diệu vợi
 Vẫn thấy con tàu chìm khuất (giữa) biển khơi
 Có đôi khi ngồi nghe bài ca cũ
 Thấy bóng Cờ xưa (chợt) nước mắt lưng tròng
 Như thấy lại tiền nhân thời dựng nước
 Vị Quốc quên mình nghĩa dũng hy sinh
 Có đôi khi quay lưng đời êm ấm
 Ờ chuyện xa xưa bỏ lại sau lưng
 Mà có được không (khi) da vàng máu đỏ
 Và Lá Cờ thiêng biểu tượng của Tiên Rồng
 Đêm nay ngồi xem Anh Hùng Nghĩa Sĩ
 Những Khúc Quân Hành mà nước mắt chảy quanh
 Là tuổi trẻ phải giương cao ngọn đuốc
 Vì Việt Nam cho Sông Núi chuyển mình
 Phải đánh cho tan lũ hung tàn bạo ngược
 Đòi giặc Bắc phương trả lại Nam Quan
 Đòi no ấm tự do cho Dân Tộc
 Một giải Non Sông gấm vóc Lạc Hồng
 ...
 Có đôi khi ngồi đây lòng nung lửa
 Xác quyết với mình lời Trưng Triệu VIỆT NAM
 Việt Phương
 Lời của biển
 Hoàng-minh-Phú

Biển vì ai thét gào giận dữ?
 Nổi sóng ngầm khuấy động kình ngư.
 Làm cuồng phong bão táp mịt mù.
 Sóng cuộn sóng trùng trùng lớp sóng.

Lòng đại dương ngút ngàn sâu thẩm.
 Biển mênh mông hun hút bến bờ.
 Biển hờn căm sương khói dật dờ.
 Nên nghẹn ngào sụt sùi đổ lệ.
 Ta nào muốn chôn vùi thế hệ.
Vạn người trong tăm tối bao la.
 Cuộc hải du: vĩnh biệt quê nhà.
 Giờ ngủ yên dưới lòng biển lạnh.
 Ta làm gì cho nguôi cơn giận.
 Những người con nay ở nơi đâu?
 Khắp đất trời bốn bể năm châu.
 Phút sa cơ chưa là tuyệt lộ!
 Ta muốn gì trong cơn thịnh nộ?
 Hoàng-Trường Sa mất chủ, lạc thầy.
 Mấy mươi năm giấc ngũ đã dài.
 Nầy thủy thủ ! Hãy mau tỉnh giấc.
 Phải lấy lại những gì đã mất.
 Hỡi thủy quân con cháu Ngô Quyền.
 Đồng bào ta dù đã nằm yên.
 Vẫn miệt mài thiên thu trăn trở.
 Phải đứng dậy khi còn hơi thở.
 Tổ quốc còn thì tất cả còn.
 Cùng đồng bào cả nước nhanh chân.
 Phất cờ vàng cho ngày phục quốc.

Tuesday, March 11, 2014

ĐẶNG TẤN HẬU $ BITCOIN $

$BITCOIN $
Đặng Tấn Hậu

Biên tập viên Evan Applegate đưa ra “Bảng Điểm 2013” (Scorecard 2013) đăng trên tuần báo thương mại Bloomberg Businessweek phát hành vào tuần cuối của tháng 12 năm 2013 (23/12/2013 – 5/1/2014), nơi trang 51 là giá tiền của 1 Bitcoin đã tăng lên đến 6,548 % so với giá vàng bị sụt xuống 26% trong năm 2013.


Giá $1 Bitcoin (BTC) chỉ đáng 1 vài xu vào đầu năm 2013 tăng lên $1,147 mỹ kim vào tháng 12, 2013. Nếu bạn đầu tư $4 mỹ kim để mua 400 BTC vào đầu năm 2013 thì bạn sẽ có 400 x $1,147 = $458,800 mỹ kim (gần ½ triệu mỹ kim) vào cuối năm 2013. Nếu bạn đầu tư $10 mỹ kim để mua Bitcoin vào đầu năm 2013, bạn sẽ trở thành triệu phú (1,000x $1,147) trong năm vừa qua.


Vậy, chúng ta thử tìm hiểu Bitcoin (BTC) là gì? Bài viết chia ra làm 2 phần: phần đầu trình bày về hệ thống tiền tệ, phần 2 đề cập đến hệ thống tiền $ Bitcoin. Bài viết dựa trên hệ thống tiền tệ Canada , có lẽ các quốc gia khác cũng có cùng hệ thống tương tự. Để giản dị hóa, bài viết không đề cập đến tỷ lệ dự trử (taux de réserve), tiền lời, thuế má, cổ phiếu hay kỷ thuật điện toán.


Hệ Thống Tiền Tệ


Muốn hiểu về hệ thống tiền tệ Canada, cách hay nhất là chúng ta lần theo từng bước (step by step) dựa trên giả thuyết $1GK= $1 US=$1 lượng vàng=1 ổ bánh mì, ngân hàng X và Y là 2 ngân hàng thương mại tư (commercial bank) và ngân hàng quốc gia là ngân hàng trung ương (Banque du Canada).

Hình #1: Hệ Thống Tiền Tệ

(Xem D-o^` Thi. I trong attachment)


1. Ông A và ông B đi đào vàng. Ông A tìm được 500 lượng vàng, ông B có 300 lượng vàng.

2. Ông A bán vàng cho 1 chi nhánh của ngân hàng X, ông B liên hệ với ngân hàng Y.

3. Chi nhánh ngân hàng X mở 1 trương mục (account) cho ông A và đưa cho ông A 1 quyển sổ nợ $500 (livret bancaire). Trường hợp ông B có quyển sổ ngân hàng (nợ) $300 tại chi nhánh của ngân hàng Y.
4. Chi nhánh báo cáo (chuyển) sổ sách và số vàng về ngân hàng mẹ X (head office) vào cuối ngày. Chi nhánh của ngân hàng Y cũng làm công việc tương tự.


5. Cả hai ngân hàng mẹ X và Y đều báo cáo sổ sách hoặc vàng về ngân hàng quốc gia. Lấy thí dụ trên, ngân hàng quốc gia có 500 lượng vàng của ngân hàng tư X và 300 lượng của ngân hàng tư Y nên ngân hàng quốc gia phát hành $800 cho các ngân hàng tư để các ngân hàng bỏ vào trương mục của ông A tại chi nhánh của ngân hàng X; trường hợp ông B, ngân hàng sẽ bỏ tiền vào trương mục của ông B tại chi nhánh của ngân hàng Y.


Ghi Chú:

i. Ngân hàng tư X hay Y có thể tính lệ phí (bank charge) khi khách hàng ký ngân phiếu. Ngân hàng cũng có thể lấy tiền của khách hàng cho người khác vay để lấy lời.


ii. Mỗi ngày, các chi nhánh / ngân hàng mẹ phải báo cáo tình hình tài chánh cho ngân hàng quốc gia và mỗi tuần vào ngày thứ tư, ngân hàng quốc gia đưa ra bảng tổng kết số tiền lưu hành (masse monétaire) cho dân chúng. Vật giá tăng giảm thường dựa theo bản tổng kết. Thí dụ, $800 đồng tiền lưu hành mà có 800 lượng vàng thì ai cũng biết $1 đồng = 1 lượng. Nếu có 800 ổ bánh mì thì $1 = 1 ổ bánh mì v.v.


iii. Lạm phát (inflation) xảy ra khi đồng tiền mất giá; thí dụ, nếu chỉ có 400 ổ bánh mì thì có $2 đồng mới mua được 1 ổ hay chính phủ in thêm gấp đôi số tiền $800 (tức là $1,600). Trường hợp giảm phát (deflation) thì ngược lại; thí dụ, số lượng bánh mì tăng lên gấp đôi thì 50 xu có thể mua được 1 ổ bánh mì.


iv. Lạm phát cũng có cái hay là người dân cảm thấy có tiền nhiều hơn, nhưng thực ra bị giãm. Thí dụ, lương $1/tháng; bây giờ tăng lên $1.5/tháng có nghĩa là tiền lương bị giãm (vì $2 mới mua được 1 ổ). Lạm phát quá cao cũng có cái tai hại làm cho người dân mất tin tưởng vào giá trị của đồng tiền do quốc gia phát hành.


v. Thí dụ trên lấy giả thuyết đồng tiền dựa trên vàng. Thực tế, không có một quốc gia nào trên thế giới có đồng tiền dựa trên vàng mà chỉ dựa trên sự tin tưởng (trust), tổng số lượng sản xuất của quốc gia v.v. Do đó, người ta gọi tiền giấy là tiền ảo tưởng (monetary illusion).


vi. Chính phủ cần tiền thì bán công trái phiếu (bond) trả tiền lời, người dân mua công trái phiếu để có tiền lời bảo đảm (vì chính phủ là con nợ). Chính phủ không đủ sức trả nợ (mua lại công trái phiếu đúng thời hạn), chính phủ phải in thêm tiền để trả nợ (có nghĩa là chấp nhận đồng tiền mất giá).

Trở lại thí dụ trên (về trường hợp hai ông A và B).


6. Ông A đặt mua 100 ổ bánh mì của ông B

7. Ông B mang 100 ổ bánh mì đến ông A

8. Ông A trao ngân phiếu $100 (cheque) cho ông B

9. Ông B để (deposit) $100 vào sổ nợ tại ngân hàng Y (ngân hàng ghi vào sổ nợ của ông B là $300+$100= $400), nhưng ông B không có quyền rút tiền $400 vì phải chờ ngân hàng Y của ông coi ngân phiếu của ông A có tiền bảo chứng hay không? (thông thường, ông B phải chờ từ 7 ngày đến 10 ngày mới có thể xử dụng được số tiền $100 do ông A trả).


10. Ngân hàng Y của ông B trao tấm ngân phiếu của ông A (của ngân hàng X) đến ngân hàng X thì ngân hàng X mới chuyển số tiền $100 qua ngân hàng Y của ông B; đồng thời ngân hàng X của ông A ghi trên sổ nợ của ông A giãm xuống chỉ còn lại $400 ($500-$100).


Ghi Chú:


i. Ngày nay, kỷ thuật điện toán có thể giải quyết dịch vụ ngân hàng nhanh chóng; ngoài ra, chúng ta có thể mua bán hàng hóa qua thẻ tín dụng (credit card) nghĩa là người bán trao hàng cho người mua, nhưng người trả tiền cho người bán là ngân hàng (người có thẻ tín dụng có trả hay không trả số tiền cho ngân hàng là chuyện giữa người có thẻ tín dụng với ngân hàng, không liên hệ với người bán).

ii. Dù có mở trương mục tại chi nhánh của ngân hàng, dù có dùng thẻ tín dụng hay ký ngân phiếu v.v tất cả sự mua bán, trao đổi ngân phiếu, thẻ tín dụng đều phải khai báo tên tuổi, địa chỉ chứ không thể xử dụng tên giả (anonym); ngoại trừ người mua/ bán trả tiền bằng tiền mặt không để lại dấu vết thì không kể.


Tóm lại, hệ thống tiền tệ chỉ là tiền ảo tưởng, tập trung (centralized) vào ngân hàng quốc gia và do chính phủ quyết định giá trị của đồng tiền nên $1 đồng 10 năm về trước khác với $1 đồng ngày hôm nay. Ngoài ra, mỗi quốc gia có đồng tiền riêng, có giá trị riêng; nhưng có một số tiền chỉ xử dụng trong nước và hoàn toàn không có giá trị gì hết trên thế giới; thí dụ, tiền Hồ CSVN.


Đó là lý do tại sao CSVN kêu gọi làm từ thiện gởi tiền về VN qua hình thức để tiền đô (deposit) vào trương mục của cán bộ CSVN ở hải ngoại, sau đó, người làm từ thiện về VN lãnh tiền Hồ do cán bộ CSVN đưa cho họ tại VN. Cán bộ cộng sản giữ tiền có giá trị (mỹ kim hay gia kim) ở hải ngoại và đưa cho người làm từ thiện tiền vô giá trị tại VN. Đây cũng là hình thức rửa tiền “không hợp pháp” mà một số tổ chức từ thiện hải ngoại đang hoạt động.


Hệ Thống Tiền Bitcoin

Bitcoin (BTC)


Thế giới bị khủng hoảng tiền tệ vào năm 2008 thì có 1 người (hay 1 nhóm người) lấy tên giả Satoshi Nakamoto cho luân chuyển tiền điện tử trên mạng Internet dưới tên gọi là Bitcoin làm đơn vị căn bản ví như $1 mỹ kim là đơn vị căn bản. Nếu $1 mỹ kim có 100 xu thì đơn vị nhỏ nhất là 1 xu. Cùng thế đó, 1 Bitcoin có tất cả 100 triệu satoshi (8 con số 0) tức là 1 satoshi = 1BTC/100 triệu = là đơn vị nhỏ nhất của đồng tiền điện tử BTC (Bitcoin).


Mặc dù tiền giấy không dựa trên vàng, nhưng một người có thể cầm tiền giấy để mua (đổi lấy) vàng; ngược lại, tiền Bitcoin (viết tắt là $BTC ví như $US, $ CDN) không phải là tiền giấy mà là tiền mật mã điện tử do máy điện tử in ra, phát không (free) 25 BTC mỗi 10 phút, tối đa (maximum) là 21 triệu BTC theo quy ước, (nhưng lấy gì làm chắc là máy điện tử không in thêm tiền BTC?).


Trước khi tìm hiểu về hệ thống Bitcoin, chúng ta cần minh định một số danh từ:


- mining company là hãng (hay 1 nhóm người) chuyên đi tìm tiền BTC miễn phí trên mạng lưới qua hình thức giải đáp phương trình toán học nhanh nhất trên máy điện tử để có $25 BTC miễn phí trong mỗi 10 phút. Do đó, mining company (đào tiền Bitcoin) cần có mining software để giải đáp phương trình toán học.


- mining pool là tổ chức gồm có nhiều người hùn vốn chuyên môn đi tìm tiền BTC vì công việc đi tìm rất phức tạp và cần vốn. Người bỏ tiền vào nhóm này sẽ được chia lời dựa trên tỷ lệ bỏ tiền vào trong nhóm “pool”.


- blockchain là 1 người (hay 1 nhóm) có dịch vụ cung cấp “sổ sách chung” (general ledger) để giúp cho người mua / bán bitcoin trao đổi dịch vụ vì một người có thể vừa trả tiền cho ông A, vừa có thể trả tiền cho ông B mà họ không có tiền Bitcoin trong wallet (trương mục). Lẽ tất nhiên, người mua / bán dịch vụ phải trả lệ phí cho tổ chức “blockchain” y như chúng ta trả lệ phí cho dịch vụ ngân hàng.


- wallet software giúp cho một người có “wallet” (y như mở trương mục ngân hàng) và chìa khóa (mật mã) mở wallet của mình nhằm mục đích bỏ Bitcoin vào hay rút Bitcoin ra để trả hay bán dịch vụ bằng Bitcoin. Điều cần biết, người chủ của một wallet không bắt buộc phải khai tên tuổi, nhà cửa y như trường hợp mở trương mục (account) tại một ngân hàng tư.

Hình #2 giản lược 3 dịch vụ vào cùng 1 tổ chức ming co.. Ba dịch vụ là: - đào vàng (kiếm BTC miễn phí) – bán / mua BTC – cung cấp dịch vụ

TS . NGUYỄN PHÚC LIÊN *DỨT HIỆN TẠI & CHỌN TƯƠNG LAI

DÂN UKRAINE & VIỆT NAM:
DỨT HIỆN TẠI & CHỌN TƯƠNG LAI
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 06.03.2014
Tuần trước, chúng tôi viết bài Quan Điểm với đầu đề BÀI HỌC UKRAINE CHO VIỆT NAM vì thấy  hoàn cảnh Việt Nam giống hoàn cảnh Ukraine. Dân Ukraine đã NỔI DẬY và thành công. Đó là bài học cho Dân Việt Nam. Chúng tôi nhấn mạnh đến việc anh dũng NỔI DẬY của Dân Ukraine để thúc đẩy việc ĐỨNG LÊN của Dân Tộc Việt Nam để DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN, điều kiện tiên quyết phải thực hiện để có thể thăng tiến Xã Hội và phát triển Kinh tế quốc dân.
Trong bài Quan Điểm tuần này, với đầu đề DÂN UKRAINE & VIỆT NAM: DỨT HIỆN TẠI & CHỌN TƯƠNG LAI, chúng tôi khai triển chính yếu về việc CHỌN LỰA TƯƠNG LAI sau khi dân chấm DỨT HIỆN TẠI Cơ chế CSVN.
Chúng tôi đề cập đến những điểm sau đây:
=>       Hoàn cảnh phá sản Kinh tế giống nhau Ukraine & Việt Nam
=>       Cuộc NỔI DẬY anh dũng và thành công của Dân Ukraine
=>       Một lựa chọn tương lai hữu lý của hai Dân tộc
=>       Nga ngụy biện để vào Ukraine và Tầu sẽ lấy cớ gì để lính chệt vào Việt Nam

Hoàn cảnh phá sản Kinh tế
giống nhau Ukraine & Việt Nam

Dân tộc Ukraine anh dũng, thông minh và chịu khó làm ăn mong phát triển Đất nước của họ. Nước Ukraine đang phải sống trong tình trạng phá sản Kinh tế mà lý do là Viktor Ianoukovitch và bè lũ vẫn mang những gian xảo cai trị do Cơ chế cộng sản trước đào tạo cho, làm tràn tham nhũng đục khoét rỗng nền Kinh tế Đất Nước.  Dân Ukraine cảm thấy buồn tủi khi nhìn thấy nước Ba Lan đã phát triển về Kinh tế gấp 5 lần nước mình.
Tại Việt Nam, những người cai trị không phải là tàn tích sót lại của Cộng sản như Viktor Ianoukovitch và bè lũ, mà là Cộng sản chính hiệu còn sống với đầy tham lam vơ vét của chung, cướp bóc dân chúng làm của riêng. Đó là lý do làm phá sản Kinh tế quốc dân Việt Nam hiện nay và làm cho Đất nước thụt lùi sánh với những quốc gia trong vùng. Dân Việt Nam chịu khó làm ăn, thông minh, thấy đất nước mình thụt lùi sánh với các nước trong vùng, cũng cảm thấy buồn tủi như dân Ukraine.

Cuộc NỔI DẬY
anh dũng và thành công của Dân Ukraine   
           
Cuộc NỔI DẬY của Dân tộc Ukraine là trong mục đích tẩy trừ Viktor Ianoukovitch và bè lũ tham nhũng  để thực hiện một tương lai thăng tiến Xã Hội và phát triển Kinh tế. Chúnh tôi xin kể lại cuộc NỔI DẬY anh dũng này:
*          Ngày 21.11.2013: Chính phủ Ukraine đã khép lại hồ sơ sửa soạn ký để vào Liên Au, trong khi đó lại thắt chặt thêm mối quan hệ với Mạc Tư Khoa. Cuộc NỔI DẬY nhằm phản đối thái độ độc đoán của TT.Ianoukovitch.  
*          Ngày 29.11.2013: TT.Viktor Ianoukovitch dứt khoát từ chối việc ký hồ sơ ở thượng đỉnh với Liên Au tại Vilnius, Lithuanie
*          Ngày 30.11.2013: Công an đã tàn nhẫn đàn áp một sinh viên tại Công trường Độc Lập Kiev.
*          Ngày 01.12.2013: Những trăm ngàn người biểu tình tại Công trường Độc Lập kể từ cuộc Cách Mạng Mầu Cam năm 2004. Cuộc biểu tỉnh 01.12.2013 nhằm phản đối rõ rệt việc không ký vào Liên Au và việc sử dụng bạo lực đàn áp. Đoàn người biểu tình quyết định cắm trại tại Công trường.
*          Ngày 10.12.2013: Công an chống nổi dậy tấn công những hàng rào của dân tại Công trường. Dân chúng đẩy lui Công an để bảo vệ những hàng rào chắn giữ.
*          Ngày 17.12.2013: TT.Ianoukovitch ký giấy nhận sự trợ giúp USD.15 tỉ do Mạc Tư Khoa và việc giảm 30% trên giá cung cấp Khí đốt của Nga.
*          Ngày 15.01.2014: Luật phạt bỏ tù tới 15 năm những ai tham dự biểu tình.
*          Dân chúng không lùi bước và sợ hãi trước những đe dọa bỏ tù bằng gian xảo luật pháp. Đoàn người NỔI DẬY tăng cường chiếm các công sở. Vào những ngày đầu tuần thứ 3 của tháng 2, Công an Berkut núp ở các tầng nhà quanh Công trương , dùng súng đạn thiệt, bắn sẻ vào những người biểu tình và những người cắm trại tại Công trường.
*          Đêm 18.02 sang 19.02.2014, một đêm điên loạn chết chóc. Một cuộc dàn trận giữa đoàn người biểu tình và công an chống nổi dậy đã xẩy ra khiến dân biểu tình chết đến gần 60 người. Trước tình hình chết chóc như vậy, một số những Ngoại trưởng của Pháp, Đức, Anh, Bỉ, Ba Lan ... đến tận Kiev để tổ chức gặp gỡ giữa TT.Inoukovitch và phe đối lập. TT.Inoukovitch ký những lời hứa như từ chức chẳng hạn, nhưng dân chúng không tin tưởng và vẫn giữ vững những vị trí đã chiếm đóng.
Về phía TT.Ianoukovitch: ra đi không từ gĩa
Nhật báo LE MONDE, ngày 24.02.2014, trang 3, viết như sau:
“Selon les médias ukrainiens, le président Viktor Inoukovitch aurait quité Kiev après avoir signé, vendredi 21 février, l’accord avec l’opposition. Accompagné du chef de son administration, Andrei Kliouev, et du président du Parlement, Vladimir Rybak, M.Inoukovitch serait monté à bord de son avion, direction Kharkiv, à l’est du pays òu le Front ukrainien, une nouvelle formation politique proche de Moscou, doit tenir un congrès samedi. Mais samedi matin, l’avion prèsidentiel n’avait toujours pas atterri à Kharkov et les médfias spéculaient sur la destination finale du président, dont le plan de vol mentionnait la Russie comme la destination finale, après une visite à Kharkiv et à Marioupol. “ (Theo giới thông tin Ukraine, Tổng thống Viktor Inoukovitch đã rời Kiev sau khi ký , thứ sáu 21 tháng hai, thỏa hiệp với đối lập. Hộ tống bởi người trưởng của nội, Andrei Kliouev, và bởi chủ tịch Quốc Hội, Vladimir Rybak, Oâng Inoukovitch lên máy bay riêng, đi hướng Kharkiv, miền đông Ukraine, ở đây Mặt trận Ukraine, một tổ chức chính trị mới  thân Mạc Tư Khoa, đang mở đại hội trong ngày thứ bẩy. Nhưng sáng thứ bẩy, máy bay của Tổng thống  vẫn chưa hạ cánh ở Kharkov và giới thông tin dự đoán về hướng đi cuối cùng của Tổng thống, mà chương trình bay đã nói tới Nga như hướng đến cuối cùng sau khi thăm Kharkiv và Marioupol. “
Về phía Quốc Hội: những quyết định nhanh chóng
Trước những chết chóc, Quốc Hội Ukraine nghiêng về phía dân. Và rất nhanh chóng, Quốc Hội Ukraine đã lấy những quyết định dứt khoát cho tình hình. Tờ báo International New York Times, ngày 24.02.2014, trang 16, với đầu đề LAWMAKERS TAKE CONTROL IN UKRAINE, viết:
“A day after President Viktor Yanukovych fled the Ukrainian capital and was removed from power by unanimous vote in Parliament, lawmakers moved swiftly on Sunday to dismantle the remaining vestiges of his government by firing top cabinet members, including the foreign minister. With Parliament , led by the speaker, Oleksandr Turchynov, firmly in control of the federal government. Lawmakers began an ermergency session on Sunday by adopting a law  restoring state-ownership of Mr.Yanukovych’s opulent presidential palace, which he has privatized. Parliament voted to grant Mr. Turchynov authority to carry out the duties of president of Ukraine, adding his authority to lead the government that lawmakers has approved on Saturday “ (Một ngày sau khi Tổng thống Viktor  Inoukovitch bỏ Thủ đô Ukraine và bị truất hết quyền lực bằng cuộc bầu phiếu đồng thuận của Quốc Hội, những Dân biểu đã nhanh chóng cất chức, vào Chúa nhật, những vết tích cuối cùng của chính phủ của ông bằng hủy bỏ chức vụ của những thành phần nội các, gồm cả ngoại trưởng. Với Quốc Hội, điều hành bởi Phát ngôn nhân, Oleksndr Turchynov, cứng rắn kiểm soát Chính quyền Liên bang. Những Dân biểu đã bắt đầu cuộc họp khẩn cấp ngày Chúa nhật bằng chấp nhận một đạo luật lấy lại  Dinh thự huy hoàng của Tổng thống về cho Quốc gia mà Tổng thống đã chiếm như tư hữu của ông. Quốc Hội đã bỏ phiếu chấp thuận cho Oâng Turchynov những quyền điều hành như một Tổng thống của Ukraine, chấp thuận thêm cho ông quyền điều hành một Nội các y như đã chấp thuận ngày thứ bẩy vừa rồi.)  
Ngoài ra Quốc Hội cũng quyết định trả tự do cho Bà Julia Timochenko, lãnh tụ đảng đối lập với phía ông Viktor Ianoukovitch. Thời điểm bầu Tổng thống mới cũng được quyết định là ngày 25.05.2014.
            Đây là một cuộc NỔI DẬY rất anh dũng và đứng đắn. Ngày nay, truyền thông của Nga mở phong trào mạ lỵ cuộc nổi dậy để lấy cớ đem quân đội vào Ukraine. TT.Putin và Đại sứ Nga tại Liên Hiệp quốc nói rằng:
=>       Đây là cuộc tụ họp phá phách của những thành phần cực đoan. Việc Quốc Hội ủng hộ cuộc NỔI DẬY để truất phế TT.Viktor Ianoukovitch chỉ là một cuộc “đảo chánh“. Do đó Nga vẫn coi Viktor Ianoukovitch còn là Tổng thống của Ukraine. 
=>       Những thành phần cực đoan này có thể đi đến hành hung những người Nga hoặc  những người nói tiếng Nga hay phá phách cướp bóc tài sản của những này hoặc của nước Nga trên lãnh thổ Ukraine. Do đó Nga phải đem quân đội vào Ukraine để bảo vệ sinh mạng những người Nga cùng với tài sản.
            Nếu xem những hình ảnh của cuộc NỔI DẬY, thì Quốc tế đều nhận thấy rằng:
*          Những người tham dự NỔI DẬY gồm rất đông lớp tuổi trẻ sinh viên, gồm những Bà, những Oâng đã lớn tuổi, gồm ngay cả những Linh mục Chính thống giáo xếp hàng cản ngăn những tấn công của phía Cảnh sát, Công an.   
*          Việc quần chúng phải dùng sức mạnh chống trả chỉ là hành động TỰ VỆ mỗi lần Công an, Cảnh sát tấn công họ. Xem những diễn biến NỔI DẬY trên đây, chúng ta thấy rằng chỉ khi nào nhà nước dùng bạo lực đàn áp tấn công dân chúng, thì dân chúng mới dùng SỨC MẠNH TỰ VỆ để phản ứng. Chính nhà nước đẩy dân đến hành động mạnh.
*          Cả Thế giới đều nhìn thấy hình ảnh của đoàn Công an, Cảnh sát quỳ gối xuống để xin lỗi người dân Ukraine. Hình ảnh này là do hãng Reuter chụp được và phổ biến khắp Thế giới. Hình ảnh này mang ý nghĩa rằng khối dân NỔI DẬY không phải là những thành phần côn đồ quá khích mà Putin,  Đại sứ Nga ở Liên Hiệp Quốc và Truyền Thông Nga cố tình ngụy biện mạ lỵ !

Một lựa chọn tương lai hữu lý
của hai Dân tộc
            Cuộc NỔI DẬY ở Ukraine xẩy ra trong tình trạng phá sản Kinh tế. Người dân biểu tình nói lên hướng LỰA CHỌN HỮU LÝ để giải quyết hoàn cảnh tê liệt Kinh tế ngắn hạn hiện nay va nhằm phát triển Kinh tế lâu dài trong tương lai.
            Trong cấp thời ngắn hạn, Nga hay Tây phương đã đề nghị những giải pháp mà Ukraine không phải khó khăn lựa chọn. Nhưng chính việc lựa chọn hướng phát triển Kinh tế quốc gia trong lâu dài mới là điều phải đắn đo cho hữu lý vì sự lựa chọn này liên hệ đến chính việc lựa chọn hướng đi chính trị : chọn Nga hay chọn Tây phương và chỉ có thể chọn một hướng.
            Việc phát triển Kinh tế phải nhắm vào Thị trường Tiêu thụ về bề rộng và về khả năng tài chánh tiêu thụ của dân sống trong Thị trường ấy:
a)         Thị trường Tiêu thụ Nga: Tại Thị trường này, khả năng tiêu thụ rất cao nằm trong tay một thiểu số triệu phú, tỉ phú đang nắm quyền cai trị.  Thiểu số này lại cho tản tài sản ra khỏi lãnh thổ Nga. Khối đa số quần chúng tiêu thụ nằm trong lãnh thổ lại có một mức Mãi lực tương đối thấp. Chính vì vậy mà việc lựa chọn Nga để làm động lực phát triển Kinh tế lâu dài cho Ukraine sẽ đi vào ngõ bí cho sản xuất.
b)         Thị trường Tiêu thụ Liên Au & Hoa kỳ: Hai Thị trường Liên Au và Hoa kỳ rất rộng lớn với khối người đồng đều có Mãi lực cao. Ngoài ra hai Thị trường lại bao trùm tự do Mậu dịch khắp Thế giới. Lựa chọn đi với hai Thị trường này để phát triển Kinh tế lâu dài và bền vững là một LỰY CHỌN hoàn toàn HỮU LÝ.
Xin nhắc lại rằng đây là tiêu chuẩn lựa chọn về Kinh tế. Nếu lựa chọn về văn hóa, ngôn ngữ, đó là những tiêu chuẩn tâm tình. Dân Québec nói tiếng Pháp, nhưng chọn sống ở Gia Nã Đại. Nước Thụy sĩ có ba vùng: vùng nói tiếng Đức, vùng nói tiếng Pháp và vùng nói tiếng Ý, nhưng cả ba vùng cùng chọn một hướng phát triển Kinh tế dựa vào hai Thị trường lớn Liên Au và Hoa kỳ.
            Đối với Việt Nam, Dân tộc cũng phải sống trong hoàn cảnh phá sản Kinh tế do tham nhũng của cả một đảng CSVN. Người dân Việt Nam cũng phải đứng trước những vấn đề giống như Ukraine:
1)         Phải loại trừ cái nguyên nhân chính yếu phá sản Kinh tế đất nước do việc tràn lan tham nhũng.  Việc phát sinh và tràn lan tham nhũng là do chủ trương độc tài Chính trị nắm Chủ đạo Kinh tế. Tham nhũng không phải là từ cá nhân mà do cái môi trường (Cơ chế) gắn liền độc tài Chính trị với Chủ đạo Kinh tế. Việc loại trừ nguyên nhân cốt yếu làm phá sản Kinh tế chính là phải DỨT BỎ CÁI CƠ CHẾ CSVN hiện hành.  Cơ chế hiện hành không thể cải tổ mà là phải chôn vùi nó đi. Khi mà CSVN vẫn cối chầy cố thủ giữ lấy Cơ chế sau bao chục năm trường Dân Tộc VN va Quốc tế đã kiên nhẫn đề nghị góp ý, thì chỉ còn một cách là Dân Tộc NỔI DẬY làm công việc đó như trường hợp Ukraine.
2)         Dứt bỏ Cơ chế CSVN rồi, Dân Tộc mới có thể lựa chọn hướng giải quyết việc cứu vãn cấp thời tình trạng bệnh hoạn Kinh tế lúc này và lo lắng phát triển Kinh tế quốc dân lâu dài trong tương lai. Giải quyết cấp thời hay phát triển Kinh tế lầu dài, cái hướng LỰA CHỌN HỮU LÝ là phải đi với Tây phương Liên Au và Hoa kỳ. Thực vậy:
a)         Hướng Việt Nam chọn lựa đi với Trung quốc chỉ là đi vào tử huyệt. Trung quốc không cho Việt Nam tiền tỉ để giải quyết cấp thời Kinh tế mà chỉ tống xuống Việt Nam những hàng hóa tồn kho và độc hại. Về phát triển Kinh tế Việt Nam trong dài hạn, thì đi với Trung quốc là đi vào ngõ cụt bởi lẽ quần chúng Trung quốc còn nghèo không đủ mãi lực tiêu thụ chính hàng hóa Trung cộng sản xuất ra. Nếu CSVN tiếp tục lựa chọn Trung quốc, đó chỉ vì tiêu chuẩn cố thủ giữ lấy quyền hành Chính trị cho đảng, chứ không phải là tiêu chuẩn Kinh tế cho ích quốc lợi dân.
b)         Con đường duy nhất, theo tiêu chuẩn HỮU LÝ KINH TẾ, là Dân tộc Việt Nam lựa chọn hướng đi với Tây phương Liên Au và Hoa kỳ. Chúng ta có một Thị trường rộng lớn với mãi lực dân chúng rất cao để giải quyết tình trạng kinh tế phá sản lúc này và phát triển Kinh tế trong dài hạn.

Nga ngụy biện để vào Ukraine và
Tầu sẽ lấy cớ gì để lính chệt vào Việt Nam ?
Như chúng tôi đã viết ở phần trên đây, Putin, Đại sứ Nga tại Liên Hiệp Quốc và Truyền Thông Nga đã đưa ra những lý do ngụy biện trắng trợn để đem quân đội xâm nhập Crimea, vi phạm chủ quyền của Ukraine.
Đã nhiều năm nay, chứ không phải nhân trường hợp Ukraine, chúng tôi đã viết về những lý do mà Trung quốc nại ra để cho lính chệt xâm nhập lãnh thổ Việt Nam. Đã từ nhiều năm nay, trong nội địa Việt Nam, chúng ta đã nhận thấy:
*          Những số lớn các Dự án của Việt Nam do Trung quốc trúng thầu. Trung quốc đưa công nhân sang Việt Nam làm việc cho những Dự án vào thiết lập những làng cho công nhân chệt chung quanh Dự án.
*          Trung quốc cũng khai thác rất nhiều những hầm mỏ, những tài nguyên với những công nhân của họ và lập làng xóm chung quanh những nơi khai thác.
*          Thương nhân Trung quốc đã tràn sang Việt Nam để lập những khu phố, những khu thương mại từ Bắc chí Nam.
*          Điều nguy hiểm hơn cả là nhiều Tỉnh Việt Nam đã cho những cánh đồng, những khu đồi cho người Tầu sang trồng cấy với thời hạn dài như 50 năm chẳng hạn.
            Như vậy, người Tầu đã thiết lập nhiều những khu cư ngụ của họ và chiếm hữu tài sản trên lãnh thổ Việt Nam. Cũng như trường hợp Nga ngụy biện lý lẽ để đưa quân đội vào Ukraine, Tầu cũng có thể lấy lý do bảo vệ kiều bào và tài sản của người Tầu mà đưa lính chệt vào Việt Nam.  Thực vậy, khi Dân Tộc Việt Nam NỔI DẬY DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN, thì Trung Cộng có thể đưa ra quốc tế những lý do sau đây để biện minh cho việc cho quân đội xâm nhập vào Việt Nam:
=>       Người Việt NỔI DẬY gồm những thành phần quá khích có thể khủng bố người Tầu
=>       Những thành phần quá khích này có thể phá hoại những tài sản của người Tầu tại lãnh thổ Việt Nam.
            Vì vậy Trung quốc gửi quân đội vào Việt Nam để bảo vệ an toàn sinh mạng và tài sản cho kiều bào của họ.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 06.03.2014


VẠN MỘC CƯ SĨ * AI YÊU BÁC HỒ?



AI YÊU BÁC HỒ?
VẠN MỘC CƯ SĨ

Ai yêu bác Hồ Chí Minh
Hơn ông Mao Trạch Đông
Vì bác đã bán non sông
Cho Trung Cộng
với giá rẻ mạt
vài đồng
để đổi lấy mấy chữ
Thành công ! đại thành công!

Đảng Việt Cộng của bác
Là đội quân lê dương
Của Đệ tam quốc tế
Của Trung Cộng
Đi tiên phong
Trong mục tiêu chiếm Biển Đông
và toàn thế giới!


Ai yêu bác Hồ Chí Minh
Hơn dân Lạng Sơn, Cao Bằng
Vi nhờ bác và Đặng Tiểu Bình
Dân ta được rõ mối tình Việt Hoa!


Ai yêu bác Hồ Chí Minh
Hơn các cháu nhi đồng
Bác rất yêu gái Nùng
Tuổi 13, 14, 15
Ngày ngày bác ẳm bồng
Đêm đêm bác cho nằm chung
Như Nông thị Trưng, Nông thị Xuân..


Ai yêu bác Hồ Chí Minh
Hơn Trần Quốc Hoàn
Tên trộm cắp đầu đường xó chợ
Thành bộ trưởng công an
Được bác ban ân huệ
"Share" Nông Thị Xuân!
Theo tinh thần cộng sản quốc tế!
Và đạo đức Hồ Chí Minh!

Ai yêu bác Hồ Chí Minh
Hơn Võ Nguyên Giáp
Đã ra tay tàn sát Việt Quốc, Việt Cách
và các chiến sĩ quốc gia,
Được bác phong làm đại tướng
Và cũng nhờ đảng quang vinh
Ban chức trưởng ban Kế hoạch
Đứng đầu ngành hộ sinh
Nay đã chết
được đưa ra đảo vắng Quảng Bình


Để thưởng một đời hy sinh
Một đời cúi mình
Có người đề nghị lập đài tưởng niệm
Trên đài cao là cái Cửa Mình
Ôm hình Võ Nguyên Giáp
Với hàng chữ
Hoan hô đại tướng anh hùng
Hoan hô đảng quang vinh
Đã làm  cả thế giới rùng  mình!      

                                                              
                                   



Monday, March 10, 2014

PHAN CHÂU THÀNH * HỒ CHÍ MINH

 


 10 điều giống nhau kỳ lạ giữa Hồ Chí Minh và đồng chí Lai Teck 
 
Phan Châu Thành (Danlambao) - Với những người ít quan tâm, không biết đồng chí Lai Teck là ai, tôi xin thưa, đó là cựu Tổng bí thư Đảng Cộng sản Malaysia từ 1938 đến 1947. Đảng Cộng sản Malaysia thành lập bởi Comintern và các đảng viên người Hoa tại Singapore năm 1930, và tự giải tán năm 1989 tại Thailand khi đảng này bị Malaysia “cấm cửa” phải hoạt động chui ở Nam Thái từ 1960…

Điều giống nhau đầu tiên, đó là hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck đều là người Việt (đối với những ai tin Hồ Chí Minh là người Việt), hay hai đồng chí trên đều là người là người Việt gốc Hoa (đối với những ai tin đồng chí HCM là người Hoa). Đồng chí Lai Teck tên Việt là Trương Phước Đạt, sống ở Việt Nam như một người Hoa hoạt động trong phong trào cách mạng cộng sản nhưng lại kiêm nghề chỉ điểm (spy) cho Pháp đến năm 1933 thì biến mất khỏi Việt Nam và năm 1934 xuất hiện ở Malaysia, Singapore với tên Tầu là Lai Teck (Lai Te)...

Điều giống nhau thứ hai là hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck là hai người Việt gốc Hoa đồng niên, cùng sinh năm 1901. Riêng đồng chí Hồ Chí Minh thì còn điều mơ hồ, vì năm 1934 khi từ TQ quay về Moscow đồng chí tự khai với Quốc tế CS là mình sinh năm 1901 (hồ sơ còn lưu), nhưng lại quên trước đó năm 1924 đống chí đã đến Nga từ Pháp và khai sinh từ bên Pháp mà đảng CS Pháp giới thiệu sang thì đồng chí Nguyễn Ái Quốc sinh năm 1890..., trừ khi đó là hai đồng chí khác nhau hoàn toàn (Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh). Những năm 1930s ở Moscow đồng chí Stalin và đồng chí Beria đang “oanh tạc”, à quên: thanh trừng, các đảng viên cộng sản rất ác liệt, nhất là thành viên Quốc tế CS (vốn do Lenin và Troskit lập nên), nên khả năng đồng chí Hồ Chí Minh khai man là rất ít, vì chỉ có... dựa cột.


Điểm giống nhau kỳ lạ thứ ba là cả hai đồng chí cùng sinh ra trên quê hương cách mạng Nghệ Tĩnh!
Như vậy, hai đồng chí Nguyễn Sinh Cung hay Hồ Tập Chương (sau “biến thành” Hồ Chí Minh) và Trương Phước Đạt (Lai Teck sau này) cùng là người Việt gốc Hoa, cùng sinh năm 1901, cùng quê Nghệ Tĩnh và cùng tham gia các hoạt động của đảng cộng sản ngay từ những năm 1930. Liệu họ có biết về nhau, có gặp nhau, có thân nhau, có là đồng chí trong một tổ chức? Câu hỏi trên tôi chỉ đặt ra thôi, chưa có trả lời.


Điểm giống nhau kỳ lạ thứ tư là cả hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck đều cùng xuất hiện trên chính trường với tên mới (và sau trở thành tên thành danh lãnh tụ trong số rất nhiều cái tên bí danh mà hai người đều có) là Hồ Chí Minh và Lai Teck từ năm 1934. Một đồng chí đi Moscow, còn đồng chí kia đi Malaysia, đều xuất phát từ đất mẹ Trung Hoa với sự dọn đường “giúp đỡ” tận tình của đảng CSTQ... để lên nắm quyền hai đảng cộng sản đàn em của Đảng CSTQ là đảng CS Đông Dương- CSĐD (bao gồm cả Đông Dương) và đảng CS Malaysia - CSM (bao gồm cả Singapore).


Điều giống nhau kỳ lạ thứ năm là cả hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck đến với hai đảng CS Đông Dương và Malaysia đều với tư cách cán bộ của Comintern (Quốc tể CS) nhưng lại do đảng CSTQ phao tin về “lãnh tụ mới”, giới thiệu hoành tráng nhưng mơ hồ về “lãnh tụ” (vì lý do bí mật), và chính đảng CSTQ đã đưa “lãnh tụ của Comintern” về Việt Nam và Malaysia (chứ không phải do Comintern từ Moscow có công văn cử đến).


Chúng ta nên nhớ, những năm 1933-1939 Stalin chỉ lo thanh trừng nội bộ đảng CS Nga (giết hàng triệu đảng viên) và đối phó với các nước trong Liên bang Sô viết (giết mấy chục triệu người các dân tộc), và nhất là phải đối phó với Hitler và Châu Âu lúc đó đang chuẩn bị rơi vào đại chiến Thế giới 2, nên không hề quan tâm đến các đảng CS thế giới và nhất là các đảng CS Phương Đông (mà Stalin rất khinh ghét)... Stalin cũng chẳng phân công việc “quản lý các đảng châu Á” đó cho đảng CSTQ... mà đảng CSTQ đã tự ôm “trách nhiệm quốc tế cao cả” đó, với những mưu đồ riêng.


Điều giống nhau kỳ lạ khủng khiếp thứ sáu (chữ khủng khiếp ở đây phải hiểu theo cả hai nghĩa đen và bóng) là từ năm 1933-1934 sau khi hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck xuất hiện lờ mờ trên “chân trời cách mạng” Việt Nam và Malaysia thì hàng loạt và hầu hết các lãnh tụ kỳ cựu và “khai quốc công thần” của hai đảng CSĐD và CSM đều bị lần lượt “vô tình” rơi vào tay mật thám Pháp (ở Việt Nam) và Anh (ở Malaysia, Singapore), tạo nên lỗ hổng quyền lực và sự khan hiếm lãnh tụ khủng khiếp cho hai đảng CSĐD và CSM.


Điều đó - sự “ra đi anh dũng” “vô tình” và “đau thương” của hầu hết các lãnh tụ của hai đảng CSĐD và CSM đã diễn ra trong những năm cuối 30s đầu 40s đó trùng với những năm ròng rã đảng CSTQ (qua cộng đồng người Hoa ở khắp nơi) rỉ tai, truyền miệng, thì thầm, “dấm da dấm dứ” trong dân đen hai nước về hai lãnh tụ Hồ Chí Minh và Lại Teck của họ. Hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck chỉ việc “trở về cứu nước” Việt Nam và Malaysia như hai vị lãnh tụ cứu tinh của đảng và của dân tộc, như mưa về ruộng hạn!


Điểm giống nhau kỳ lạ thứ bảy của hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck là khi về nước hầu như ngay lập tức họ trở thành lãnh tụ, và dường như họ biết trước và đã chuẩn bị cho điều đó. Trong hành trang “về nước” của họ đều đã chuẩn bị sẵn hai lá cờ đảng và cờ nước cho hai đảng và hai nước của họ, cứ như là họ đều biết trước mình sẽ là lãnh tụ sáng lập đảng và sáng lập nước! Cờ đảng cho hai đảng của họ đã được chuẩn bị giống y chang nhau và giống như (100%) cờ của đảng CSTQ là cờ đỏ búa liềm, mà cờ đảng CSTQ thì vẫn hơi khác cờ đảng CS Nga một chút. Tức là ba đảng CSTQ, CSĐD và CSM chung một lá cờ...

Kỳ lạ hơn nữa là hai lá quốc kỳ mà họ (được) chuẩn bị mang về cho hai nước Việt Nam và Malaysia cũng gần giống nhau và gần giống quốc kỳ mà đảng CSTQ chuẩn bị cho đất nước họ sau này. Đó là, quốc kỳ do đồng chí Hồ Chí Minh chuẩn bị cho Việt Nam là Cờ đỏ một Sao vàng, còn quốc kỳ do đồng chí Lai Teck chuẩn bị cho Malaysia là Cờ đỏ Ba sao vàng, và quốc kỳ do đồng chí Mao Trạch Đông chuẩn bị cho Trung Quốc sau này là Cờ đỏ năm Sao vàng...

Về “gia đình” những lá cờ đỏ sao vàng này tôi đã có một bài viết riêng trên Dân Luận vài tháng trước. Chỉ xin nói lại ở đây là cũng thời gian này, những năm 1930-1940, người Hoa ở các nước Miến điện, Indonesia… cũng lập nên là trở thành lãnh tụ các đảng cộng sản Miama và Indonesia với những lá cờ đảng y chang cờ đảng mà hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck mang về Việt Nam và Malaysia, còn cờ nước cho Indonasia là cờ đỏ Hai sao vàng, và cho Miến điện là Cờ đỏ Bốn sao vàng... Trong bài viết đó tôi cũng đã chỉ ra số lượng sao vàng trên cờ đỏ là tùy theo số sắc tộc chính của các nước đó...


Điều giống nhau và kỳ lạ thứ tám mà hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck cùng chia sẻ, đó là cả hai đồng chí đều rất tự tôn sùng cá nhân, tự biến mình thành thánh nhân trên đảng và dân. Đồng chí Hồ Chí Minh thì tự gọi mình là cha già dân tộc khi 55 tuổi (hay 44 tuổi?), và tự viết sách ca ngợi mình với những bút danh khác như Trần Dân Tiên, T. Lan... còn đồng chí Lai Teck thì tự xưng và tự gọi mình là Mr. Wright - Ngài Chân lý, và bắt toàn đảng CS Malaysia gọi mình là Mr. Wright - ngài Chân lý, ngài Đúng đắn, ngài Không sai!


Hơn thế nữa, cả đồng chí Hồ Chí Minh và đồng chí Lai Teck - Mr. Wright đều luôn có một nhà xuất bản và nhà in mang tên Hồng Kỳ thầm lặng, ẩn dật (đặt bản doanh bí mật ở Hongkong hay đâu đó) luôn viết và in sách, tài liệu ca ngợi cá nhân hai đồng chí đó bằng tiếng Việt và tiếng Malay, tiếng Hoa rồi tung vào Việt Nam, Malaysia, Singapore... tạo uy tín lãnh tụ cho các đồng chí đó trong đảng và trong dân hai nước. Nhà xuất bản Hồng Kỳ này cũng là nơi chuyên viết và in sách “hộ” cho các “lãnh tụ” các đảng cộng sản Indonesia (hai sao) và Miama (bốn sao) nữa.


Điều giống nhau, nhưng không kỳ lạ nữa mà ghê tởm, thứ chín, của hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck là sau khi trở thành lãnh tụ đảng và tìm mọi cách tự ca ngợi mình hay để nhà xuất bản Hồng Kỳ bí mật ca ngợi mình như trên, giai đoạn cầm quyền lãnh tụ đầu tiên của hai đồng chí trong nhiều năm đều dành để thanh trừng nội bộ, thực chất là tiêu diệt hết những người giỏi hơn mình, cách mạng chân chính hơn mình, công lao hơn mình, hoặc những người không phải phe đảng của mình, dù họ đã về phe cách mạng. Đồng chí Hồ Chí Minh làm việc này ráo riết trong 4-5 năm, từ 1945 đến 1949, thường là bằng thủ tiêu kín hay bán thông tin cho Pháp xử lý hộ.

Còn đồng chí Lai Teck thì làm nhanh gọn hơn, trong vòng 1-2 năm, thậm chí có lần đồng chí Lai Teck tổ chức Hội nghị TW đảng trong hang Batu gần Kuala Lumpur mà không đến chủ trì (do “hỏng xe”) mà “điều” cảnh sát Anh đến giết chết trên 100 cán bộ chủ chốt của đảng CSM... không phải vì họ nghi ngờ tài đức đồng chí Tổng Bí thư - Ngài Chân lý, mà vì họ muốn đấu tranh độc lập không theo sự chỉ đạo của “một tổ chức người Hoa” tên là Min Yen ở Singapore (thực chất là bộ phận hải ngoại của đảng CSTQ), và vì đồng chí Lai Teck muốn tập trung quyền lực quân sự (của Quân giải phóng Malaysia lúc đó rất mạnh) vào tay mình...


Và điều giống nhau thư mười, tất yếu, của hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck, là sau khi nắm toàn bộ quyền lực chính trị và quân sự trong tay, chiến lược đấu tranh duy nhất của hai đống chí “lãnh tụ dân tộc” đó là... dựa vào đảng CSTQ.

Từ năm 1940 đến 1947, dù bản thân còn chìm trong chiến tranh chống Nhật rồi nội chiến, đảng CSTQ và quân Giải phóng Nhân dân TQ đã đào tạo và trang bị, cung cấp toàn bộ cho quân đội của đảng CS Malaysia lúc đó lên đến 39-40 ngàn người. Rất may cho đất nước Malaysia là họ không có chung biên giới với TQ, nếu không thì họ đã bị cộng sản “giải phóng” và là cờ đỏ ba sao của Lai Teck mang về đã là quốc kỳ hôm nay của họ rồi!


Tương tự, như vậy, sau khi diệt hết mọi lực lượng Dân tộc tham gia giải phóng đất nước năm 45 mà không phải cộng sản, đồng chí Hồ Chí Minh mới tổ chức Đại hội Việt Minh năm 1949 chỉ còn toàn cộng sản, rồi “mở chiến dịch Biên giới” mà 1950 cho sĩ quan TQ mang 15 nghìn quân Việt được TQ trang bị và đào tạo hoàn toàn đánh vào 256 quân Pháp ở đồn Đình Lập, mà sau mấy ngày bao vây và tấn công 26 lính Pháp vẫn thoát được về Hà Nội...

Tóm lại là, toàn bộ sự nghiệp lãnh đạo chiến tranh đánh Pháp, rồi cải cách ruộng đất, cải cách thương nghiệp hay văn hóa, rồi đánh Mỹ, đồng chí Hồ Chí Minh đều làm theo chỉ đạo của các đồng chí CSTQ, và cho CSTQ (những người đã đưa hai lá cờ đỏ cho đồng chí Hồ mang về và đã làm mọi việc đặt đồng chí lên “ngôi” lãnh tụ đất nước, cha già dân tộc Việt lúc đồng chí mới 44 tuổi...)


Đến đây, lẽ ra là đã hết câu chuyện 10 điều giống nhau kỳ lạ của hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck, hai cựu lãnh tụ của hai đảng CSVN và CSM, như trên. Nhưng để kết thúc bài này tôi xin nói thêm về điều giống nhau thứ 11 của hai đồng chí đó. Đó là hai cái chết khá giống nhau của họ.


Đồng chí Lai Teck, sau gần 10 năm làm lãnh tụ tối cao đảng CSM, năm 1947 đã bị các đồng chí mình phát hiện là gián điệp nhị trùng (cho Anh và cho Nhật) để hại các đồng chí mình và tập trung quyền lực. Thế là Lai Teck đã ôm luôn quĩ đảng (hơn 1 triệu USD năm 1947) chuồn về Hongkong.


Các đồng chí Malaysia cử đồng chí Chin Peng (lúc đó 29 tuổi, sau chính là người kế vị Lai Teck) đi bắt Lai Teck về xét xử. Chin Peng về Hongkong báo cáo và hỏi Comintern về Lai Teck thì Comintern nói Lai Teck là người Việt nên do đảng CSVN phụ trách. Chin Peng lại hỏi các đồng chí Việt Nam thì được biết Lai Teck đã đi Bangkok. Chin Peng cùng các đồng chí Việt Nam ở Bangkok đã tìm ra chỗ Lai Teck đang ở, đã đến thắt cổ Lai Teck chết. Tóm lại là đồng chí Lai Teck của chúng ta đã chết dưới tay các đồng chí cộng sản Việt Nam nhà mình. (Đó là theo hồi ký của Chin Peng - My sides of History).
Còn đồng chí Hồ Chí Minh chết ở Hà Nội năm 1969, cũng có thể nói là dưới tay các đồng chí cộng sản Việt Nam. Cụ thể là, từ năm 1958 đồng chí Hồ Chí Minh đã bị các đồng chí của mình (đứng đầu là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ) giam lỏng và sử dụng như bù nhìn. Không biết có phải vì các đồng chí cộng sản Việt Nam đã nhìn ra gốc gác gián điệp Tàu của đồng chí Hồ Chí Minh mà làm thế không? Chỉ biết là, bị các đồng chí mình o ép mọi mặt quá suốt hơn chục năm, ngày 2/9/69 đồng chí Hồ Chí Minh đã tự chọn cái chết cho mình bằng cách không nhận sự hỗ trợ y tế nữa... Thế nên cũng có thể gọi là đồng chí Hồ Chí Minh đã chết dưới tay các đồng chí của mình.

Lịch sử thật rối ren mà cũng thật rõ ràng. Chẳng ai có thể lừa được tất cả mọi người mãi mãi. Đồng chí Lai Teck đã thế mà đồng chí Hồ Chí Minh cũng sẽ thế thôi. Đảng CSVN cũng thế, mà đảng CSTQ cũng sẽ vậy thôi.

NGUYỄN THIÊN THỤ * QUỐC GIA VÀ CỘNG SẢN

                      


                QUỐC GIA VÀ CỘNG SẢN
                    NGUYỄN THIÊN THỤ


So sánh hai chế độ quốc gia và cộng sản thì đòi hỏi phải ra công nghiên cứu  nhiều, và cũng mất nhiều giấy bút. Ở đây, chúng tôi chỉ trình bày sơ lược để đôc giả có thể thấy sự dị biệt của hai chế độ sau khi đã phân tích sự dị biệt giữa lý thuyết và thực hành của chế độ cộng sản.Chúng tôi sẽ điểm qua các khía cạnh giáo dục, y tế, xã hội, chính trị,văn hóa

I. GIÁO DỤC

Thời Pháp thuộc, nước ta có ba bậc giáo dục: tiểu học, trung học và đại học nhưng ban đầu chưa phổ biến. Tại Hà nội có trường Đại học và Cao đẳng, các tỉnh lớn có trường trung học, các thành phố đều có trường tiểu học . Các vị trưởng sở các cơ sở giáo dục, các giáo sư, giáo viên đều do triều đình và chính quyền Pháp bổ nhiệm. Học trò không phải đóng học phí. 

Thời Viêt Nam cộng hòa, sau hiệp định Geneve, các trường trung, tiểu học mở khắp nước. Các trường đại học công và tư mở khắp Saigon, Huế, Tây Ninh, Cần Thơ, Đà Lạt, Long Xuyên.  Tại Đại Học, sinh viên đóng học phí tượng trưng. Các giáo sư có tự do giảng dạy. Học sinh đỗ bằng tú tài toàn phần đều có thể ghi danh bất cứ đại học nào, Chỉ có hai trường đại học thi tuyển là đại học Sư Phạm và Đại Học Quốc gia hành chánh để chọn sinh viên ưu tú. Học sinh trung học, tiểu học trường công không phải đóng học phí. Học sinh nhập học trường công lập phải qua kỳ thi tuyển.
Tại Việt Nam khu vực cộng sản, người ta tuyển chọn giáo viên là những kẻ cô thân và kém cỏi:"Nhất Y, nhì Dược, 
Sư Phạm bỏ qua,
Bách Khoa tạm được."
Giáo viên không được tôn trọng, thường bị cán bộ địa phương bắt nạt vì truyền thống cộng sản khinh trí thức, trọng công nông. Sau 1955, Cải Cách Ruộng Đất, con nhà tư sản, địa chủ, phú nông không được đi học. Sau 1975, cộng sản ưu tiên cho con em cán bộ. Con em nhà cộng sản 5- 6 điểm là có thể vào đại học, con nhà thường dân và "nguỵ quân, ngụy quyền" phải 17-19 điểm mới được vào đại học. Tốt nghiệp đại học, hạng này cũng khó có việc làm. Chương trình giáo dục có tính ngu dân và nhồi sọ, lấy việc học chính trị làm đầu. Vì theo đường lối tuyên truyền cho cộng sản nên nội dung là ca tụng cộng sản, xuyên tạc sự thật.  Khoảng năm 2000, cộng sản chủ trương bán bằng cấp, họ đặt chỉ tiêu mấy chục ngàn tiến sĩ, thạc sĩ một năm cho nên có nhiều tiêu cực trong việc này.
Theo Báo Mới, (HQ Online)- Theo kế hoạch mà Bộ GD-ĐT công bố tại Hội nghị Kế hoạch ngân sách năm 2014, trong năm 2014, tỷ lệ đào tạo tiến sỹ sẽ tăng khoảng 7% và chỉ tiêu thạc sỹ tăng 5% so với chỉ tiêu năm 2013 để phục vụ cho mục tiêu mà Bộ GD-ĐT đưa ra là đào tạo 20.000 tiến sỹ năm 2020.http://www.baomoi.com/Bo-GDDT-chay-dua-de-dat-muc-tieu-20000-tien-si/108/12773942.epi

Giáo viên bị học sinh làm mật thám theo dõi và báo cáo với nhà trường. Cuộc sống khó khăn, cô giáo phải bán kẹo trong lớp hoặc mở lớp kèm tại nhà, còn nam giáo viên phải đạp xich lô để sống.
Tạp chí "Người Lao Động" cho biết:
Một công trình nghiên cứu, khảo sát lương giáo viên vừa công bố cho thấy: Thu nhập bình quân của giáo viên từ 3-3,5  triệu đồng/tháng. Lương mới ra trường ở cả 3 cấp trên dưới 2 triệu đồng/tháng; lương trung bình giáo viên sau 13 năm từ 3-3,5 triệu đồng/tháng; sau 25 năm từ 4,1 - 4,7 triệu đồng/tháng. Từ đó, nhóm nghiên cứu kết luận: Thu nhập và phụ cấp lương của giáo viên không bảo đảm  nhu cầu đời sống của họ. Trên 40% giáo viên khảo sát muốn bỏ nghề sư phạm.

http://nld.com.vn/giao-duc-khoa-hoc/hay-tra-luong-dung-cho-nguoi-thay-201210071135676.htm
Học sinh các cấp phải đóng học phí cao, và phải đóng nhiều thứ khác. Một giáo sư trung học lương 3-5 triệu, nhưng mỗi đưá con học trung học phải trả học phí từ 500 ngàn đến một triệu mỗi tháng nếu học ở các trường danh tiếng. 
 Tạp chí Thanh Niên Online cho biết như sau:

Mức thu học phí các trường mầm non, phổ thông và GDTX được quy định như sau:

Cấp học
Năm học 2013 – 2014
Đơn vị tính : đồng/học sinh/tháng
Năm học 2014 – 2015
Đơn vị tính : đồng/học sinh/tháng
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhà trẻ
150.000
90.000
200.000
140.000
Mẫu giáo
120.000
60.000
160.000
100.000
Tiểu học
Không thu
Không thu
Trung học cơ sở
75.000
60.000
100.000
85.000
Bổ túc trung học cơ sở
112.000
90.000
150.000
130.000
Trung học phổ thông
90.000
75.000
120.000
100.000
Bổ túc trung học phổ thông
135.000
112.000
180.000
150.000
Trong đó: Nhóm 1 là học sinh học tại các trường ở các quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Gò Vấp, Tân Bình, Tân Phú, Thủ Đức và quận Bình Tân; Nhóm 2 là học sinh học tại các trường ở các huyện Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi, Cần Giờ và Nhà Bè.
Học sinh hệ chuyên trong các trường THPT chuyên và trường THPT công lập có lớp chuyên không thu học phí (theo quy định của Bộ GD-ĐT).
Các trường THPT Lê Quý Đôn, THPT Nguyễn Hiền, THPT Nguyễn Du thực hiện cơ chế thu học phí theo “mô hình trường tiên tiến theo xu thế hội nhập” với mức thu hiện hành như sau (cho đến khi Đề án của các trường được duyệt sẽ áp dụng mức thu mới): Lớp 10: 890.000 đồng/học sinh/tháng; Lớp 11: 850.000 đồng/học sinh/tháng; Lớp 12: 900.000 đồng/học sinh/tháng.
Đối với trường Mầm non Nam Sài Gòn và THPT Nam Sài gòn: thu theo mức thu hiện hành. Cụ thể: Nhà trẻ: 400.000 đồng/học sinh/tháng; Mẫu giáo: 400.000 đồng/học sinh/tháng; Tiểu học: 400.000 đồng/học sinh/tháng; THCS: 600.000 đồng/học sinh/tháng; THPT: 600.000 đồng/học sinh/tháng.

http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130905/muc-hoc-phi-moi-va-cac-khoan-thu-tu-nam-2013-2015.aspx

II.Y TẾ
Tại các thành phố, người Pháp đã lập nhà thương, mọi người đều có thể vào bệnh viện mà không phải trả viện phí. Tại Việt Nam có hai loại nhà thương, nhà thương công và nhà thương tư. Nói chung, dân nghèo được chữa bệnh miễn phí.
Trong chế độ cộng sản, các thôn xã có trạm y tế nhưng chỉ là hình thức vì thiếu thuốc men, dụng cụ y tế, và thiếu bác sĩ, y tá giỏi. Các y tá lâu năm có thể được thăng làm bác sĩ. Sau 1985, cộng sản bỏ bao cấp, nhân dân phải trả viện phí và các khoản hối lộ cho bác sĩ, y tá, y công và các loại dịch vụ khác. Cộng sản thu nhiều tiền bạc nhưng không mở thêm bệnh viện khiến cho bệnh viện bị tràn ngập. Các bệnh nhân phải nằm chung sáu, bảy người một giường. Họ phải nằm ngoài hành lang, dưới gậm giường. 

III. XÃ HỘI

Xã hội Việt Nam là một xã hội nông nghiệp, trước 1945 là một xã hội an bình mặc dầu thực dân Pháp cai trị, đàn áp và bóc lột nước ta. Sau 1945, Cộng sản cướp chính quyền, sát hại các chiến sĩ quốc gia, và tạo ra một không khí khủng bố. Cộng sản chiếm núi rừng, lấy núi rừng uy hiếp nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị, phá hoại nhà cửa, cầu đường, ám sát, bắn sẻ gây ra cuộc  chiến tranh đẫm máu giữa anh em đồng bào. Những ai không theo cộng sản thì bị giết hại. Những ai theo cộng sản thì trở thành giai cấp thống trị, còn nhân dân bị coi là phản động, cộng sản có quyền bắn giết và gán cho họ là Việt gian, phản động.

Đảng Cộng sản Việt Nam là phân bộ của đệ tam quốc tế, là tay sai Nga Tàu. Hồ Chí Minh lãnh chỉ thị của Stalin và Mao Trạch Đông tiến hành cuộc chiến tại Việt Nam để mở rộng biên cương quốc tế cộng sản. Sau 1954, Cộng sản chiếm nửa nước, đảng cộng sản công khai hoạt động.Trong CCRD, cộng sản đã giết hại, tù đày hàng trăm ngàn nông dân trong đó có nông dân nghèo và dán cho họ nhãn hiệu tư sản, địa chủ. Ngoài ra các cán bộ thuộc diện phong kiến, tư sản và có liên hệ với thực dân.
Tại miền Nam, tuy bị cộng sản đánh phá, chính phủ quốc gia đã bảo vệ được an ninh cho nhân dân. Dân chúng được tự do sinh sống. Một phần nông dân đã dùng cày máy, phân hóa học, thuốc trừ sâu trong  nông nghiệp. Việc chăn nuôi tuy không theo quy mô lớn như Âu Mỹ mà theo phương pháp tư nhân tự túc. Heo được nuôi bằng cám, gạo, được tắm rửa sạch sẽ.
Tại miền Bắc, cộng sản dùng chiêu bài chia  ruộng cho nông dân nhưng sau CCRD, mỗi nông dân chỉ được vài thước đất "con chó nằm ló đuôi ra ngoài". Được khoảng một năm, khoảng 1967-1968, cộng sản thu hồi ruộng đất, lập các HTX nông nghiệp, bắt dân làm nô lệ trong các nông trại tập thể. Cộng sản tố cáo tư sản bóc lột, địa chủ tàn ác nhưng cộng sản càng bóc lột tàn tệ trăm ngàn lần tư bản và địa chủ. Thời trước, nông dân làm rẽ, phải trả hoa màu cho địa chủ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, thường thì nông dân tại miền Trung được hưởng một nửa hoặc 2/3 lợi tức.Sau 1955, chính phủ Ngô Đình ban hành luật thu tô. Nội dung cải cách điền địa của Ngô Đình Diệm chủ yếu trong bốn đạo dụ:
Dụ số 2 (8/1/1955) quy định mức thu tô (giá thuê đất) tối đa và lãi suất mà điền chủ được áp dụng.Mức tô tối đa từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoạch cho ruộng làm 1 mùa / năm.Mức tô tối đa từ 15 đến 25% cho mùa gặt chính của ruộng 2 mùa / năm (Cải cách điền địa .Wikipedia).
 Dẫu sao, nông dân cũng hưởng được 75%-50% hoa màu, trong khi tại các HTX, cộng sản chiếm 90% lợi tức. Những nông dân lao động hạng nhất mỗi ngày được một ký lúa tức hơn nửa ký gạo. Nủa ký gạo tức hai lon sữa bò. Một nông dân ăn mỗi bữa hơn một lon gạo, không đủ cho ngày ba bữa. Ngoài ra không có tiền mắm muối,quần áo. Những một ký lúa này chỉ được trả vào cuối vụ mùa. Tại miền Bắc, sau khi lập HTX, cộng sản đưa máy cày về biểu diễn, được it lâu thì thu hồi. Dân chúng phải bón phân người trong canh tác nhưng dân Trung Kỳ cũng như Nam Kỳ không dám làm việc này. Nói chung, đời sống dân chúng rất khổ. Trong công trường, nông trường, công nông phải làm việc ngày đêm không nghỉ:
Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày nghỉ".
Chế độ cộng sản bất công. Trong khi giai cấp công nông lao động cực nhọc thì đói khổ, còn bọn nịnh hót, gian dối thì sung sướng:
Thằng làm thì đói,
Thằng nói thì no,
Thằng bò thì sướng"

Kinh tế HTX không có hiệu quả, vì mọi người làm chiếu lệ "Mười người khiêng một cộng rơm".Nông dân không tích cực vì đói, và vì thấy sức lao động của họ bị cộng sản chiếm đoạt:
Một người làm việc bằng hai,
Để cho cán bộ mua đài sửa sân"
Một người làm việc bằng ba,
Để cho cán bộ xây nhà sắm xe."
Một người làm việc bằng năm,
Để cho cán bộ vửa nằm vừa ăn."

Sau 1986, Việt cộng theo Trung Quốc, quay trở lại tư bản chủ nghĩa, kêu gọi tư bản đầu tư, bãi bỏ kinh tế chỉ huy thì giai cấp tư sản đỏ phát triển mạnh. Họ cướp tài sản công, cướp ruộng đất, nhà cửa của các giáo hội và nhân dân đem bán lấy tiền bỏ túi, khiến cho nhân dân mất nhà cửa trở thành dân oan. Họ và các nhà tranh đấu dân chủ bị cộng sản đánh đập tàn nhẫn, có người bị chết, một số phải ngồi tù. Công cuộc tranh đấu cho độc lập, tự do, dân chủ đang phát triển mạnh tại Việt Nam.


 IV.VĂN HÓA
Thời Pháp đô hộ, nước ta bắt đầu có báo chí. Ban đầu là báo chí của Pháp nhằm mục đích thông tin và truyền bá quốc ngữ cùng văn học, nghệ thuật của Pháp. Sau tư nhân Việt Nam cũng được ra báo, có loại văn học nghệ thuật, có loại tranh đấu chính trị.Thời VNCH, tại miền Nam có báo chí và nhà xuất bản tư nhân. Ai muốn viết gì thì viết miễn là đừng làm tay sai cho cộng sản. Cộng sản lợi dụng sự dễ dãi của chính quyền đã dùng báo chí để tuyên truyền phá hoại. Khi chưa cầm quyền, cộng sản đòi hỏi quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội đoàn nhưng khi đã nắm quyền, cộng sản độc quyền báo chí và xuất bản.
 Năm 1956, vừa tiếp thu Hà Nội, cộng sản còn để lại một vài tờ báo tư nhân và cho tư nhân ra báo. Nhân Văn, Giai Phẩm ra đời lúc này và bị đánh phá dã man. Những nhà văn trong phong trào này và những người liên hệ đều bị trả thù một cách dã man.Những văn thi sĩ có tinh thần dân chủ thì bị bỏ tù. Những tác phẩm văn học nghệ thuật thì bị chỉ trich gắt gao bởi những công an văn nghệ. Những tác phẩm nào không theo đường lối" hiện thực xã hội chủ nghĩa" nghĩa là nói láo, là tuyên truyền cho cộng sản đều bị chụp mũ " phản động, lãng mạn, đồi trụy."

Miền Bắc phải theo khuôn mẫu "Thép đã Tôi Thế Đấy "," Ruồi Trâu" của quốc tế cộng sản. Những tác phẩm của  Hồ Chí Minh, Tố Hữu,Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan ... đã trở thành sách giáo khoa trong nhà trường XHCN. Ca nhạc cũng phải theo đường lối tuyeên truyền.Tân nhạc với nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu, đây là đề tài chính của nhiều bài hát: Anh vẫn hành quân (Huy Du), Chào anh giải phóng quân (Hoàng Vân), Lời anh vọng mãi ngàn năm (Vũ Thành), Bài ca năm tấn (Nguyễn Văn Tý), Lá thư hậu phương (Phạm Tuyên), Trai anh hùng, gái đảm đang (Ðỗ Nhuận), Bài ca may áo (Xuân Hồng), Hành khúc giải phóng (Lưu Nguyễn Long Hưng, tức Lưu Hữu Phước), Giải phóng miền Nam (Huỳnh Minh Siêng, tức Lưu Hữu Phước)... trong đó bài Giải phóng miền Nam được dùng làm bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1960 tới năm 1975.

Nhân dân miền Nam thích văn nghệ. Các văn nghệ sĩ tự do  sáng tác và biểu diễn.Đa số thích tân nhạc. Đài phát thanh và truyền hình được nhân dân ưa thích vì có tính nghệ thuật cao với các ca sĩ Thái Thanh,  Thanh Lan, Hoàng Oanh, Thái Châu, Hùng Cường, Mai Lệ Huyền, Duy Trác, Duy Khánh, Thanh Thúy Thanh Tuyền. Miền Nam cũng yêu nhạc tiền chiến và các nhạc sĩ Phạm Duy, Văn Cao, Văn Phụng.
 Nhân dân miền Nam rất thích Cải lương nhưng sau 1975, đa số nhân dân bị thất nghiệp và ngồi tù, không có tiền đi xem cải lương cho nên bộ môn này bị đào thải. Sau 1975, Cộng sản mở các trung tâm ca nhạc với các ca sĩ miền Bắc như Tô Long Phương với các bản Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây,Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Những cô gái đồng bằng sông Cửu LongCô gái Sài Gòn đi tải đạn thì chẳng ai đi nghe. Sau cộng sản bỏ nhạc cộng sản, hát nhạc vàng, nhạc Âu Mỹ thì dân chúng nhiệt liệt ủng hộ. Từ đây, nhạc tình cảm chiếm ngôi vị cao quý. Sau 1975, dân Bắc Kỳ đổ xô vào Nam mua sách báo, tiểu thuyết , kinh Phật. Về quân sự, miền Nam tạm thời thoái lui, nhưng văn hóa miền Nam đã ngự trị miền Bắc.

TỔNG QUÁT


So với cộng sản, quân chủ và thực dân dễ sống hơn.Thi sĩ  Hữu Loan viết :
Một loạt các quyền tự do đã tồn tại ngay cả dưới chế độ thuộc địa. Hãy để tôi liệt kê một số điểm đáng nhớ trong Pháp chiếm Việt Nam vẫn còn trong bộ nhớ của nô lệ này: Đầu tiên, tự do bầu cử. Hầu hết các cơ quan hành chính là đối tượng phổ thông đầu phiếu. Các quan chức Pháp tỉnh chỉ đơn giản là đóng vai trọng tài.  Khác thấp hơn [Việt Nam] các quan chức không dám nhận hối lộ.Mọi người có thể kiện và thậm chí còn buộc tội các quan chức từ các vị trí của họ. Quan chức tham nhũng đã khinh miệt bởi tất cả mọi người. Tham nhũng dẫn đến thiệt hại cho đời sống, thậm chí còn tồi tệ hơn. Một viên quan ở một huyện ở Huế tham nhũng thì cả nước đều biết.
Điều thứ hai là có tự do báo chí, và quyền phát biểu tư tưởng
 Các cá nhân được phép thành lập báo chí riêng của họ. Họ từ chối chấp nhận trợ cấp của chính phủ. Trong số các tạp chí nổi tiếng nổi tiếng là tờ Nam Phong ( Gió Nam) Tạp chí, Phụ Nữ) Tạp chí, Phụ Nữ Thời Đàm, Tạp chí, Tiếng Dân , Phong Hóa Ngày Nay  vv. Trong số những nhà văn có uy tín và các phóng viên là Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Thụy An, Huỳnh Thúc Kháng, etc.
 Các thí sinh bất kỳ vị trí nào phải tham gia kỳ thi vòng loại. Những người có tài năng sẽ vượt qua. Lương của người lao động đã đủ để trả tiền cho sinh sống và một số tiền tiết kiệm của họ. Một giáo viên của hai lớp sơ đẳng và dự bị, thu được 12 piasters một tháng, tương đương với 2 "chỉ " của vàng ngày hôm nay.
Sinh viên không phải nộp học phí. Chỉ có giáo dục đại học phải nộp một đồng một tháng. Học sinh giỏi đã được trao học bổng, thậm chí học bổng du học ở  bên Pháp. Bệnh nhân được cho thuốc tại trạm xá huyện. Bệnh viện tỉnh đã dành khu vực cho bệnh nhân nghèo đã được điều trị và ăn uống miễn phí. Những bệnh viện này đã được biết đến như bệnh viện từ thiện.
Ngày nay, y đức từ lâu đã biến mất. Các bệnh viện ở khắp mọi nơi lấy tiền của bệnh nhân nhưng chắc không có hiệu quả điều trị. Chế độ thực dân Pháp thực sự là khủng khiếp, nhưng nó vẫn là một giấc mơ xa cho người dân dưới các chế độ vỗ ngực khoe khoang của họ về độc lập và quay lại đàn áp người dân của họ
.
( TÁC PHẨM HỮU LOAN).

Nguyễn Chí Thiện  wrote:

Ôi thằng Tây mà trước khi người dân không tiếc máu xương đánh đuổi.

Nay họ xót xa luyến tiếc vô chừng.

Nhờ vuốt nanh của lũ thú rừng.

Mà bàn tay tên cai trị thực dân hóa ra êm ả [1]



Trần Độ so sánh lực lượng an ninh xã thôn  ngày xưa và bộ máy công an cộng sản ngày nay:

 Ngày xưa còn bé, ở nhà quê, tôi chỉ thấy làng xã tôi có một trương tuần và 4 anh tuần phiên. Ngày nay tôi thấy ở phường có công an phường có trụ sở, có mấy chục người và chỉ huy là một cấp tá; bây giờ mình nhiều sĩ quan thật!.....Lực lượng Công an nhân dân hiện nay được giới thiệu như một lực lượng của nhân dân, trong nhân dân và vì nhân dân. Nhưng sao mà trong thực tế nó lại hay giống nhưng cái ngày xưa ở ta, và giống các nước tư bản quá. Nhiều người nhìn vào nó, thấy rõ nó tiêu biểu cho một lực lượng đàn áp và khủng bố. Dân sợ nó nhiều hơn và cho đó là một nghề "thất đức" và quả nhiên nó làm cho nhiều người sợ thật:

Nó có một lực lượng cảnh sát chiến đấu trang bị rất sắc bén và hùng hậu. Nó được trang bị tất cả những công cụ khủng bố hiện đại và phong phú hơn cả các lực lượng bảo vệ chế độ cũ (phong kiến và thực dân) như dùi cui, súng, vòi rồng phun nước, hơi cay, khiên và côn, xe phân khối lớn, chó nghiệp vụ v.v...Nó có một hệ thống trụ sở, đồn, nhà giam và nhà tù và đều là những chỗ đáng sợ, ít ai vui vẻ muốn tới đó. Trình độ nghiệp vụ của nó rất cao: thẩm vấn, hỏi cung, theo dõi, điều tra, phong tỏa thư tín, nghe trộm điện thoại v.v... yêu cầu dân và tìm người đưa tin chỉ điểm. Hỏi cung thì mớm cung, gài bẫy, tạo chứng cớ, bắt nọn và hành hạ người bị hỏi cung rất kịch liệt và dài ngày. Tất cả những điều nói trên đều là những điều mà khi ta chưa có chính quyền thì ta nguyền rủa, chống đối, khinh bỉ. Lúc đó những chữ mật thám, tay sai, chỉ điểm được nhắc đến như những gì xấu xa và lý tưởng của ta là quét sạch nó như quét sạch những rác rưởi ở chợ. Mà ngày nay ta lại sử dụng nó tích cực và ca ngợi, bênh vực nó ghê gớm



Trong Đêm Giữa Ban Ngày, Vũ Thư Hiên  ghi lại lời mẹ ông, bà Vũ Đình Huỳnh, người đã có kinh nghiệm với mật thám Pháp đã đưa ra một nhận định để đời:  Chúng nó đến, con có tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám Pháp nữa kia!  ....Thời Pháp thuộc, mẹ còn chống chọi được, bọn thực dân tiếng thế chứ không đến nỗi ác như bọn này. Bây giờ khó lắm, mọi sự làm ăn đều khó, chúng nó bít kín mọi đường, bắt mọi người muốn sống phải phụ thuộc chúng nó .[2]


Trần Độ  kể li lời ch họ của ông:" Tôi có một bà chị có chồng là tù nhân trong thời đế quốc phong kiến, nay có con rể là tù cách mạng. Chị có kể chuyện về hai cuộc đi thăm tù : trước đi thăm chồng, nay (sau năm 1975) đi thăm con rể. Chị có một ấn tượng rất nặng nề khi phải so sánh hai cuộc đi thăm ấy : tù nhân thời nay cực hơn thời đế quốc (BÚT kÝ * MỘT CÁI NHÌN TRỞ LẠI I, 4)



Trần Độ viết ":Cuộc cách mạng ở Việt Nam đã đập tan và xoá bỏ được một chính quyền thực dân phong kiến, một xã hội nô lệ, mất nước, đói nghèo, nhục nhã. Nhưng lại xây dựng nên một xã hội chưa tốt đẹp, còn nhiều bất công, nhiều tệ nạn, một chính quyền phản dân chủ, chuyên chế, của một chế độ độc đảng và toàn trị, nhiều thói xấu giống như và tệ hơn là trong chế độ cũ (TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN II, 3)
 

Sau đây là những đoạn văn so sánh tù thực dân và tù cộng sản.Trước tiên là việc Trần Văn Giàu ngồi tù thời thực dân: 
 Phải thừa nhận rằng, ở “biệt thự S”, suất ăn của chúng tôi thịt cá nhiều hơn bình thường, mỗi bữa ăn đều có miếng cơm cháy vàng tươi, dòn rụm, chỉ những ai đã lãnh án tử hình mới được ăn (trang12)



Ở căng Tà Lài cuộc sống không đến nỗi cực khổ quá, có thể nói thảnh thơi là khác, được như vậy không phải do chế độ của trại giam mà do tổ chức tù nhân của chúng tôi; công việc khoán phần lớn ở trong rừng, chỉ có mã tà đi theo cốt để giữ không cho chúng tôi trốn hơn là để thúc bách tù làm.. .

 .Ăn, thì gạo thừa, cá khô đủ; chúng tôi còn đánh cá trên sông, mua thịt rừng, rượu cần ở đồng bào thiểu số. Rau thì thiếu gì trong rừng. Thuốc men không biết đâu là đủ, nhưng sốt rét thì có ký ninh, uống nước thì có nước sông lọc bằng thuốc tím. Ở, thì nhà tranh vách nứa, tự làm, nhưng được phát mùng, phát chiếu. Tây nó cốt được yên bằng việc tách tụi tôi khỏi nhân dân, không cốt được kết quả lao động khổ sai.( TRẦN VĂN GIÀU * HỒI KÝ I  ,42) 


  Qua vài trang nhật ký của Trần Văn Giàu, ta thấy tù nhân ăn uống thuốc men đầy đủ, không bị tra tấn đánh đập dã man. Có thể nói ở tù mà như đi dạo chơi. Còn trong trại tủ cộng sản, họ dùng cái đói, cái rét để hành hạ và kiềm chế tù nhân.Đa số tù nhân người quốc gia đều viết về cái đói trong trại tù cộng sản. Phan Lạc Phúc trong tác phẩm Bè Bạn Gần Xa viết như sau:


 Lũ tù cải tạo chúng tôi ra Bắc nếm mùi xã hội chủ nghĩa, đói quanh năm suốt tháng, đói triền miên, đói dài dài, miếng sắn, miếng khoai là ước mơ to lớn nhất. Từ sự kiện này, tôi mới nhận ra rằng cái nghệ thuật cao tay của người Bôn sê  vich trong việc quản trị là nghệ thuật nắm cái dạ dày. Ngày ấy, ngoài Băc chế độ tem, phiếu còn đang thịnh hành, lương thực còn do tay nhà nước quản lý. Anh em tù lên huyện Phù Yên lĩnh gạo về cho hay rằng nhân dân không ai có quyền được có quá 5 ký gạo trong nhà  [3] 

Hà Thúc Sinh viết:

" Khoai mì này là loại khoai già, được xắt cả vỏ và phơi khô lâu ngày. Vì để cả vỏ, và lại được phơi khô, do đó khi nấu lên khoai mì mang một màu tím than quắt queo như đống cứt chó bị dầm mưa dãi nắng nhiều ngày với một mùi vị vừa hôi mốc vừa nhầm nhậm đắng như có lộn một hai vị thuốc bắc. Được phát kèm với bát khoai mì ân huệ của bác và đảng là ít cộng rau muống, hoặc một tí bí ngô, hoặc tí củ cải kho nước muối  [3] 


 Cái tàn ác thứ hai là bắt lao động quá sức trong khi thực dân không bắt tù nhân lao động. Hà Thúc Sinh kể cho ta nghe một cảnh đốn cây và kéo cây về trại:

Đội 17 hiện có công tác phụ trách kéo những thân cây lớn đã được anh em đốn ngã. Những thân cây này nhiều khi có đường kính hơn nửa thước tây và dài cả 20 thước phải kéo qua địa thế gồ ghề những gò mối, bụi rậm và ao tù làm cực khổ vô cùng. Những thân cây này được kéo thẳng về khối mộc nằm gần bệnh xá cho khối mộc khai thác. Nhà 2 đội 17 và nhiều nhà khác có cùng công tác, chỉ việc kéo với chỉ tiêu 8 cây mỗi ngày, kéo một đoạn đường rừng dài 500 thước và kéo dọc con đường chính của căn cứ vào tới trại mộc quãng một cây số [4]


Cái tàn ác thứ ba là  cộng sản còn đánh người và dùng cực hình tra tấn. Hà Thúc Sinh kể chuyện một công an trẻ dùng báng súng đánh các bác sĩ già nua, trong đó có bác sĩ Triển và Lý Trung Dung:
Mày! Thằng già này! Từ lâu tao đã chú ý đến cái lông mày rậm rạp của mày.Nội cái lông mày thôi trông cũng đủ muốn đánh rồi!.  .  .  Không hiểu ông trả lời ra sao mà thình lình thằng vệ binh xốc lại đập luôn một báng súng vào mặt ông [4]


Và sau đây là môn "tuốt nứa" của trại Đầm Đùn do Trần Văn Thái thuật lại:

 Đầu Trâu nhấc cây nứa đã lựa rồi bảo thợ rèn:Bổ làm tư.Thợ rèn ngồi xuống lúi húi sửa soạn.. .. Tù thợ rèn thận trọng nhấc một trong bốn mảnh nứa, vòng ra sau lưng 983, lom khom cúi xuống, lựa khe hở giữa hai bắp đùi, đút đầu nứa cho lọt qua chừng gang tay. Y ngắm nghía sửa lại cho hai mép nứa ngậm đều vào bắp đùi nạn nhân. Mặc dầu 983 gầy gò nhưng vì hai đầu gối bi cột khít  với nhau nên hai cạnh của mảnh nứa úp chặt vào thớ thịt, chỉ khẽ cử động là tinh nứa cắt đứt bắp đùi liền. Mãy người tù trong phòng tra tấn lấm lét nhìn nhau rợn người. Họ thừa biết tinh nứa sắc là đường nào. Hai cẳng chân Toàn run lẩy bẩy, đứng không vững. Trong mảnh nứa sắc sắp cắt lem lém da thit người đồng cảnh, anh rợn khắp chân thân liên tiếp. . 
   .   Một tiếng rú rùng rợn nổi lên, xiên vào óc mọi người..  .  .Y đảy ngược mảnh nứa để ấy đà tay rồi giật xuôi mạnh một cái. Tức thì 983 thét lên một tiếng rùng rợn.Giám thị lại lùi theo một tốc độ đồng đều, đến đoạn chót của mảnh nứa dài thì vừa vặn ngưng như đã có cỡ tay. .(5)

 Qua những so sánh trên, ta thấy cộng sản dã man nhất, tàn bạo nhất. Thực dân, đế quốc tuy ác nhưng vẫn có it nhiều tính nhân bản. Nói tóm lại, lý thuyết của Marx sai lầm, dối trá, đảng cộng sản từ đầu cũng đã sai lầm dối trá. Từ trước cho đến nay, thế giới đã hiểu rõ chủ nghĩa Marx gian xảo, những lãnh đạo cộng sản như Lenin, Stalin, Mao, Hồ, Pol Pot là những con thú mang lốt người, và đảng cộng sản là một đảng cướp.

Trong lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam, có những trang đen tối là lịch sử thời cộng sản. Đó là những trang sử chứa đầy máu và nước mắt của một nửa thế giới bất hạnh, trong đó có Việt Nam chúng ta. Cộng sản Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ, còn lại Trung Quốc, Việt Nam, Cambodia, Lào, Tây Tạng, Bắc Hàn. Chúng ta phải đoàn kết với nhân dân thế giới đang tranh đấu chống Trung Cộng xâm lược. Chúng ta phải quyết tâm tranh đấu để giải phóng chúng ta và giải phóng nhân loại khỏi gông cùm và tai họa cộng sản.

Trần Độ là một vị tướng của cộng sản nhưng ông là người cộng sản giác ngộ
Cũng như Nguyễn Chí Thiện, Hữu Loan, bài thơ ngắn của ông là một lời phê phán ngay thẳng vào chế độ cộng sản:
Những mơ xoá ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện
Ai hay, biến đổi, ác luân hồi.

TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN I

Trên đây là những so sánh giữa hai phe cộng sản và quốc gia Việt Nam. Nhìn xa hơn, chúng ta sẽ thấy cộng sản gây tai họa cho hơn nửa thế giới. Các nhà văn, nhà chính trị đã nhận định và so sánh hai phe cộng sản và tư bản như sau:


Triệu Tử Dương (1919-2005) là một người cộng sản giác ngộ. Ông khác hẳn những cộng sản giáo điều.Trong Đại hội Đảng năm 1987 Triệu Tử Dương tuyên bố Trung Quốc đang ở trong "một giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội" có thể kéo dài 100 năm. Theo tiền đề này, Trung Quốc cần thử nghiệm nhiều hệ thống kinh tế nhằm kích thích sản xuất. Triệu Tử Dương đã đề xuất tách biệt các vai trò của Đảng và Nhà nước, một đề xuất từ đó đã trở thành chủ đề cấm kỵ. Theo các nhà quan sát phương Tây, 2 năm làm Tổng bí thư của Triệu Tử Dương là thời gian mở cửa nhất trong lịch sử Trung Quốc hiện đại—nhiều hạn chế về tự do ngôn luận và tự do báo chí đã được nới lỏng, cho phép giới trí thức tự do đề xuất các cải thiện cho đất nước.(Wikipedia, Triệu Tử Dương)

Trần Độ nhận định rằng đảng cộng sản là tai họa, làm chậm bước tiến của dân tộc: 
Trên thế giới có đến hơn 100 nước không cần chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội, không cần có Đảng cộng sản “tài tình” và “sáng suốt” mà cứ phát triển đến trình độ giàu có, văn minh cao. (TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN I ,1) Nguyễn Kiến Giang vẽ lên toàn bộ cảnh vật bi thảm của Việt Nam sau ngày hòa bình:

Khủng hoảng trong lĩnh vực kinh tế biểu hiện chủ yếu ở tình trạng lạc hậu kinh tế và kỹ thuật của đất nước. Trong khi nhiều nước trên thế giới đang bước qua giai đoạn văn minh hậu công nghiệp (điện tử - tin học), thì nước ta vẫn chưa ra khỏi giai đoạn văn minh tiền công nghiệp (văn minh nông nghiệp); sản xuất không đủ ăn (1.932 kilôcalo mỗi người mỗi ngày so với yêu cầu 2.300 kilocalo); không tạo được nguồn tích luỹ bên trong đáng kể, chưa đủ bảo đảm tái sản xuất giản đơn, chưa nói tới tái sản xuất mở rộng, trong khi sức ép dân số và thoái hóa môi trường sinh thái ngày càng tăng; lạm phát vẫn ở mức nghiêm trọng; mức tăng giá cả khá cao; tài sản quốc gia ngày càng giảm sút, không ít xí nghiệp đứng trước nguy cả bị mất dần tài sản, kể cả tài sản cố định; ngân sách thiếu hụt nghiêm trọng, dù mức chi ngân sách cho các hoạt động kinh tế và văn hóa rất thấp; nạn buôn lậu hoành hành, thị trường hỗn loạn...SUY TƯ 2 * KHỦNG HOẢNG & LỐI RA
   Những tính toán gần đây cho biết các doanh nghiệp nhà nước phần lớn đều thua lỗ, chỉ có 21% có lãi, [..]. Hơn nữa, các doanh nghiệp nhà nước đang mắc nợ tới khoảng 200 ngàn tỉ đồng, xấp xỉ 1/2 tống sản phẩm quốc dân (SUY TƯ 4 , 3).

Richard Pipes nhận định về hai nước Triều Tiên như sau:
Ở nước Bắc Triều Tiên cộng sản, trong những năm 1990 phần lớn trẻ em bị mắc các căn bệnh do đói ăn mà ra; theo các số liệu hiện có, trong nửa sau của thập kỉ 1990 gần hai triệu người Bắc Hàn đã bị chết vì đói. Tại nước này tỉ lệ tử vong ở trẻ em sơ sinh là 88 trên 1000, trong khi ở Hàn Quốc là 8 trên 1000; tuổi thọ của đàn ông Bắc Hàn là 48,9 trong khi ở Nam Hàn là 70,4. Tính the GDP mỗi người  Bắc Hàn  $900  còn Nam Hàn $ 13.000 (Pipes, 152)
Milovan Djilas viết:"  Ta biết rằng năng suất là thấp và các nhà kinh tế Nam Tư tính ra rằng (dĩ nhiên là trong giai đoạn mâu thuẫn với Liên Xô) ngay trên những cánh đồng màu mỡ của Ukraine năng suất cũng không được 1 tấn một hecta. Số lượng gia súc và gia cầm trong giai đoạn hợp tác hoá cũng giảm hơn 50%, và cho đến nay vẫn chưa đạt mức như thời nước Nga Sa Hoàng lạc hâu. (GIAI CẤP MỚI 4 ,1, 58)

 Barry Loberfeld viết về kinh tế Liên Xô :" Trong khoảng 1861, nông dân là nông nô, nhưng có cây trồng và gia súc. Nhưng sau đó, khoảng 1935,  canh tác tập thể, một nông trường xuống cấp, nông dân vẫn là nông nô, một hộ gia đình nông dân thu được  từ 247 rúp một năm, chỉ đủ để mua một đôi giày  [6].

 KẾT LUẬN

Chủ nghĩa Marx được xây dựng trên triết thuyết của Marx. Triết thuyết của Marx lại được Lenin phù trợ nhưng tập thể nào cũng đưa đến dị biệt và mâu thuẫn, nhất là chủ nghĩa Marx. Dị biệt và mâu thuẫn là do lý luận của Marx, Lenin tự thân mang nhiều hủy thể. Mầm hủy thể đó là sự kết hợp của ước mơ, tưởng tượng và dối trá, là sự mâu thuẫn giữa lý thuyết và thực hành, mâu thuẫn giữa thiện và ác. Hủy thể đó là tham, sân, si. Tự thân có hủy thể, bên ngoài cũng đầy những yếu tố hủy thể xâm nhập. Có áp bức là có tranh đấu, tranh đấu gắn liền với áp bức và tiêu diệt áp bức.Andre Malraux  nói:"Cộng sản phá hủy dân chủ, Dân chủ cũng phá hủy cộng sản. [7]

  Chính lực lượng dân chủ sẽ tiêu diệt cộng sản để xây dựng thế giới hòa bình và thịnh vượng.

___

CHÚ THICH

[1].Nguyễn Chí Thiện (1939-2012). Hoa Dia Nguc II, ấn bằng hai sinh ngữ, then complete in Vietnamese in 2006.
[2]. Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày. Văn Nghê. California. 1997, tr.28, 139.
[3].Phan Lạc Phúc . Bè Bạn Gần Xa. (bút ký, Văn Nghệ Hoa Kỳ, 2000. 2nd ed. Australia 2001,78.
[4].Hà Thúc Sinh .Đại Học Máu, ký, Nhân Văn USA, 1985. 2ed.USA, 1985.tr. 463., 637,721
[5].Trần Văn Thái. Trại Đầm Đùn" .Nxb Nguyễn Trãi, 1969, Sài-gòn, Việt-nam
[6]. Barry Loberfeld FrontPageMagazine.com | June 12, 2006
[7]. Communism destroys democracy. Democracy can also destroy Communism.http://www.brainyquote.com/quotes/authors/a/andre_malraux.html

Tuesday, March 11, 2014

ĐẶNG TẤN HẬU $ BITCOIN $

$BITCOIN $
Đặng Tấn Hậu

Biên tập viên Evan Applegate đưa ra “Bảng Điểm 2013” (Scorecard 2013) đăng trên tuần báo thương mại Bloomberg Businessweek phát hành vào tuần cuối của tháng 12 năm 2013 (23/12/2013 – 5/1/2014), nơi trang 51 là giá tiền của 1 Bitcoin đã tăng lên đến 6,548 % so với giá vàng bị sụt xuống 26% trong năm 2013.


Giá $1 Bitcoin (BTC) chỉ đáng 1 vài xu vào đầu năm 2013 tăng lên $1,147 mỹ kim vào tháng 12, 2013. Nếu bạn đầu tư $4 mỹ kim để mua 400 BTC vào đầu năm 2013 thì bạn sẽ có 400 x $1,147 = $458,800 mỹ kim (gần ½ triệu mỹ kim) vào cuối năm 2013. Nếu bạn đầu tư $10 mỹ kim để mua Bitcoin vào đầu năm 2013, bạn sẽ trở thành triệu phú (1,000x $1,147) trong năm vừa qua.


Vậy, chúng ta thử tìm hiểu Bitcoin (BTC) là gì? Bài viết chia ra làm 2 phần: phần đầu trình bày về hệ thống tiền tệ, phần 2 đề cập đến hệ thống tiền $ Bitcoin. Bài viết dựa trên hệ thống tiền tệ Canada , có lẽ các quốc gia khác cũng có cùng hệ thống tương tự. Để giản dị hóa, bài viết không đề cập đến tỷ lệ dự trử (taux de réserve), tiền lời, thuế má, cổ phiếu hay kỷ thuật điện toán.


Hệ Thống Tiền Tệ


Muốn hiểu về hệ thống tiền tệ Canada, cách hay nhất là chúng ta lần theo từng bước (step by step) dựa trên giả thuyết $1GK= $1 US=$1 lượng vàng=1 ổ bánh mì, ngân hàng X và Y là 2 ngân hàng thương mại tư (commercial bank) và ngân hàng quốc gia là ngân hàng trung ương (Banque du Canada).

Hình #1: Hệ Thống Tiền Tệ

(Xem D-o^` Thi. I trong attachment)


1. Ông A và ông B đi đào vàng. Ông A tìm được 500 lượng vàng, ông B có 300 lượng vàng.

2. Ông A bán vàng cho 1 chi nhánh của ngân hàng X, ông B liên hệ với ngân hàng Y.

3. Chi nhánh ngân hàng X mở 1 trương mục (account) cho ông A và đưa cho ông A 1 quyển sổ nợ $500 (livret bancaire). Trường hợp ông B có quyển sổ ngân hàng (nợ) $300 tại chi nhánh của ngân hàng Y.
4. Chi nhánh báo cáo (chuyển) sổ sách và số vàng về ngân hàng mẹ X (head office) vào cuối ngày. Chi nhánh của ngân hàng Y cũng làm công việc tương tự.


5. Cả hai ngân hàng mẹ X và Y đều báo cáo sổ sách hoặc vàng về ngân hàng quốc gia. Lấy thí dụ trên, ngân hàng quốc gia có 500 lượng vàng của ngân hàng tư X và 300 lượng của ngân hàng tư Y nên ngân hàng quốc gia phát hành $800 cho các ngân hàng tư để các ngân hàng bỏ vào trương mục của ông A tại chi nhánh của ngân hàng X; trường hợp ông B, ngân hàng sẽ bỏ tiền vào trương mục của ông B tại chi nhánh của ngân hàng Y.


Ghi Chú:

i. Ngân hàng tư X hay Y có thể tính lệ phí (bank charge) khi khách hàng ký ngân phiếu. Ngân hàng cũng có thể lấy tiền của khách hàng cho người khác vay để lấy lời.


ii. Mỗi ngày, các chi nhánh / ngân hàng mẹ phải báo cáo tình hình tài chánh cho ngân hàng quốc gia và mỗi tuần vào ngày thứ tư, ngân hàng quốc gia đưa ra bảng tổng kết số tiền lưu hành (masse monétaire) cho dân chúng. Vật giá tăng giảm thường dựa theo bản tổng kết. Thí dụ, $800 đồng tiền lưu hành mà có 800 lượng vàng thì ai cũng biết $1 đồng = 1 lượng. Nếu có 800 ổ bánh mì thì $1 = 1 ổ bánh mì v.v.


iii. Lạm phát (inflation) xảy ra khi đồng tiền mất giá; thí dụ, nếu chỉ có 400 ổ bánh mì thì có $2 đồng mới mua được 1 ổ hay chính phủ in thêm gấp đôi số tiền $800 (tức là $1,600). Trường hợp giảm phát (deflation) thì ngược lại; thí dụ, số lượng bánh mì tăng lên gấp đôi thì 50 xu có thể mua được 1 ổ bánh mì.


iv. Lạm phát cũng có cái hay là người dân cảm thấy có tiền nhiều hơn, nhưng thực ra bị giãm. Thí dụ, lương $1/tháng; bây giờ tăng lên $1.5/tháng có nghĩa là tiền lương bị giãm (vì $2 mới mua được 1 ổ). Lạm phát quá cao cũng có cái tai hại làm cho người dân mất tin tưởng vào giá trị của đồng tiền do quốc gia phát hành.


v. Thí dụ trên lấy giả thuyết đồng tiền dựa trên vàng. Thực tế, không có một quốc gia nào trên thế giới có đồng tiền dựa trên vàng mà chỉ dựa trên sự tin tưởng (trust), tổng số lượng sản xuất của quốc gia v.v. Do đó, người ta gọi tiền giấy là tiền ảo tưởng (monetary illusion).


vi. Chính phủ cần tiền thì bán công trái phiếu (bond) trả tiền lời, người dân mua công trái phiếu để có tiền lời bảo đảm (vì chính phủ là con nợ). Chính phủ không đủ sức trả nợ (mua lại công trái phiếu đúng thời hạn), chính phủ phải in thêm tiền để trả nợ (có nghĩa là chấp nhận đồng tiền mất giá).

Trở lại thí dụ trên (về trường hợp hai ông A và B).


6. Ông A đặt mua 100 ổ bánh mì của ông B

7. Ông B mang 100 ổ bánh mì đến ông A

8. Ông A trao ngân phiếu $100 (cheque) cho ông B

9. Ông B để (deposit) $100 vào sổ nợ tại ngân hàng Y (ngân hàng ghi vào sổ nợ của ông B là $300+$100= $400), nhưng ông B không có quyền rút tiền $400 vì phải chờ ngân hàng Y của ông coi ngân phiếu của ông A có tiền bảo chứng hay không? (thông thường, ông B phải chờ từ 7 ngày đến 10 ngày mới có thể xử dụng được số tiền $100 do ông A trả).


10. Ngân hàng Y của ông B trao tấm ngân phiếu của ông A (của ngân hàng X) đến ngân hàng X thì ngân hàng X mới chuyển số tiền $100 qua ngân hàng Y của ông B; đồng thời ngân hàng X của ông A ghi trên sổ nợ của ông A giãm xuống chỉ còn lại $400 ($500-$100).


Ghi Chú:


i. Ngày nay, kỷ thuật điện toán có thể giải quyết dịch vụ ngân hàng nhanh chóng; ngoài ra, chúng ta có thể mua bán hàng hóa qua thẻ tín dụng (credit card) nghĩa là người bán trao hàng cho người mua, nhưng người trả tiền cho người bán là ngân hàng (người có thẻ tín dụng có trả hay không trả số tiền cho ngân hàng là chuyện giữa người có thẻ tín dụng với ngân hàng, không liên hệ với người bán).

ii. Dù có mở trương mục tại chi nhánh của ngân hàng, dù có dùng thẻ tín dụng hay ký ngân phiếu v.v tất cả sự mua bán, trao đổi ngân phiếu, thẻ tín dụng đều phải khai báo tên tuổi, địa chỉ chứ không thể xử dụng tên giả (anonym); ngoại trừ người mua/ bán trả tiền bằng tiền mặt không để lại dấu vết thì không kể.


Tóm lại, hệ thống tiền tệ chỉ là tiền ảo tưởng, tập trung (centralized) vào ngân hàng quốc gia và do chính phủ quyết định giá trị của đồng tiền nên $1 đồng 10 năm về trước khác với $1 đồng ngày hôm nay. Ngoài ra, mỗi quốc gia có đồng tiền riêng, có giá trị riêng; nhưng có một số tiền chỉ xử dụng trong nước và hoàn toàn không có giá trị gì hết trên thế giới; thí dụ, tiền Hồ CSVN.


Đó là lý do tại sao CSVN kêu gọi làm từ thiện gởi tiền về VN qua hình thức để tiền đô (deposit) vào trương mục của cán bộ CSVN ở hải ngoại, sau đó, người làm từ thiện về VN lãnh tiền Hồ do cán bộ CSVN đưa cho họ tại VN. Cán bộ cộng sản giữ tiền có giá trị (mỹ kim hay gia kim) ở hải ngoại và đưa cho người làm từ thiện tiền vô giá trị tại VN. Đây cũng là hình thức rửa tiền “không hợp pháp” mà một số tổ chức từ thiện hải ngoại đang hoạt động.


Hệ Thống Tiền Bitcoin

Bitcoin (BTC)


Thế giới bị khủng hoảng tiền tệ vào năm 2008 thì có 1 người (hay 1 nhóm người) lấy tên giả Satoshi Nakamoto cho luân chuyển tiền điện tử trên mạng Internet dưới tên gọi là Bitcoin làm đơn vị căn bản ví như $1 mỹ kim là đơn vị căn bản. Nếu $1 mỹ kim có 100 xu thì đơn vị nhỏ nhất là 1 xu. Cùng thế đó, 1 Bitcoin có tất cả 100 triệu satoshi (8 con số 0) tức là 1 satoshi = 1BTC/100 triệu = là đơn vị nhỏ nhất của đồng tiền điện tử BTC (Bitcoin).


Mặc dù tiền giấy không dựa trên vàng, nhưng một người có thể cầm tiền giấy để mua (đổi lấy) vàng; ngược lại, tiền Bitcoin (viết tắt là $BTC ví như $US, $ CDN) không phải là tiền giấy mà là tiền mật mã điện tử do máy điện tử in ra, phát không (free) 25 BTC mỗi 10 phút, tối đa (maximum) là 21 triệu BTC theo quy ước, (nhưng lấy gì làm chắc là máy điện tử không in thêm tiền BTC?).


Trước khi tìm hiểu về hệ thống Bitcoin, chúng ta cần minh định một số danh từ:


- mining company là hãng (hay 1 nhóm người) chuyên đi tìm tiền BTC miễn phí trên mạng lưới qua hình thức giải đáp phương trình toán học nhanh nhất trên máy điện tử để có $25 BTC miễn phí trong mỗi 10 phút. Do đó, mining company (đào tiền Bitcoin) cần có mining software để giải đáp phương trình toán học.


- mining pool là tổ chức gồm có nhiều người hùn vốn chuyên môn đi tìm tiền BTC vì công việc đi tìm rất phức tạp và cần vốn. Người bỏ tiền vào nhóm này sẽ được chia lời dựa trên tỷ lệ bỏ tiền vào trong nhóm “pool”.


- blockchain là 1 người (hay 1 nhóm) có dịch vụ cung cấp “sổ sách chung” (general ledger) để giúp cho người mua / bán bitcoin trao đổi dịch vụ vì một người có thể vừa trả tiền cho ông A, vừa có thể trả tiền cho ông B mà họ không có tiền Bitcoin trong wallet (trương mục). Lẽ tất nhiên, người mua / bán dịch vụ phải trả lệ phí cho tổ chức “blockchain” y như chúng ta trả lệ phí cho dịch vụ ngân hàng.


- wallet software giúp cho một người có “wallet” (y như mở trương mục ngân hàng) và chìa khóa (mật mã) mở wallet của mình nhằm mục đích bỏ Bitcoin vào hay rút Bitcoin ra để trả hay bán dịch vụ bằng Bitcoin. Điều cần biết, người chủ của một wallet không bắt buộc phải khai tên tuổi, nhà cửa y như trường hợp mở trương mục (account) tại một ngân hàng tư.

Hình #2 giản lược 3 dịch vụ vào cùng 1 tổ chức ming co.. Ba dịch vụ là: - đào vàng (kiếm BTC miễn phí) – bán / mua BTC – cung cấp dịch vụ

TS . NGUYỄN PHÚC LIÊN *DỨT HIỆN TẠI & CHỌN TƯƠNG LAI

DÂN UKRAINE & VIỆT NAM:
DỨT HIỆN TẠI & CHỌN TƯƠNG LAI
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 06.03.2014
Tuần trước, chúng tôi viết bài Quan Điểm với đầu đề BÀI HỌC UKRAINE CHO VIỆT NAM vì thấy  hoàn cảnh Việt Nam giống hoàn cảnh Ukraine. Dân Ukraine đã NỔI DẬY và thành công. Đó là bài học cho Dân Việt Nam. Chúng tôi nhấn mạnh đến việc anh dũng NỔI DẬY của Dân Ukraine để thúc đẩy việc ĐỨNG LÊN của Dân Tộc Việt Nam để DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN, điều kiện tiên quyết phải thực hiện để có thể thăng tiến Xã Hội và phát triển Kinh tế quốc dân.
Trong bài Quan Điểm tuần này, với đầu đề DÂN UKRAINE & VIỆT NAM: DỨT HIỆN TẠI & CHỌN TƯƠNG LAI, chúng tôi khai triển chính yếu về việc CHỌN LỰA TƯƠNG LAI sau khi dân chấm DỨT HIỆN TẠI Cơ chế CSVN.
Chúng tôi đề cập đến những điểm sau đây:
=>       Hoàn cảnh phá sản Kinh tế giống nhau Ukraine & Việt Nam
=>       Cuộc NỔI DẬY anh dũng và thành công của Dân Ukraine
=>       Một lựa chọn tương lai hữu lý của hai Dân tộc
=>       Nga ngụy biện để vào Ukraine và Tầu sẽ lấy cớ gì để lính chệt vào Việt Nam

Hoàn cảnh phá sản Kinh tế
giống nhau Ukraine & Việt Nam

Dân tộc Ukraine anh dũng, thông minh và chịu khó làm ăn mong phát triển Đất nước của họ. Nước Ukraine đang phải sống trong tình trạng phá sản Kinh tế mà lý do là Viktor Ianoukovitch và bè lũ vẫn mang những gian xảo cai trị do Cơ chế cộng sản trước đào tạo cho, làm tràn tham nhũng đục khoét rỗng nền Kinh tế Đất Nước.  Dân Ukraine cảm thấy buồn tủi khi nhìn thấy nước Ba Lan đã phát triển về Kinh tế gấp 5 lần nước mình.
Tại Việt Nam, những người cai trị không phải là tàn tích sót lại của Cộng sản như Viktor Ianoukovitch và bè lũ, mà là Cộng sản chính hiệu còn sống với đầy tham lam vơ vét của chung, cướp bóc dân chúng làm của riêng. Đó là lý do làm phá sản Kinh tế quốc dân Việt Nam hiện nay và làm cho Đất nước thụt lùi sánh với những quốc gia trong vùng. Dân Việt Nam chịu khó làm ăn, thông minh, thấy đất nước mình thụt lùi sánh với các nước trong vùng, cũng cảm thấy buồn tủi như dân Ukraine.

Cuộc NỔI DẬY
anh dũng và thành công của Dân Ukraine   
           
Cuộc NỔI DẬY của Dân tộc Ukraine là trong mục đích tẩy trừ Viktor Ianoukovitch và bè lũ tham nhũng  để thực hiện một tương lai thăng tiến Xã Hội và phát triển Kinh tế. Chúnh tôi xin kể lại cuộc NỔI DẬY anh dũng này:
*          Ngày 21.11.2013: Chính phủ Ukraine đã khép lại hồ sơ sửa soạn ký để vào Liên Au, trong khi đó lại thắt chặt thêm mối quan hệ với Mạc Tư Khoa. Cuộc NỔI DẬY nhằm phản đối thái độ độc đoán của TT.Ianoukovitch.  
*          Ngày 29.11.2013: TT.Viktor Ianoukovitch dứt khoát từ chối việc ký hồ sơ ở thượng đỉnh với Liên Au tại Vilnius, Lithuanie
*          Ngày 30.11.2013: Công an đã tàn nhẫn đàn áp một sinh viên tại Công trường Độc Lập Kiev.
*          Ngày 01.12.2013: Những trăm ngàn người biểu tình tại Công trường Độc Lập kể từ cuộc Cách Mạng Mầu Cam năm 2004. Cuộc biểu tỉnh 01.12.2013 nhằm phản đối rõ rệt việc không ký vào Liên Au và việc sử dụng bạo lực đàn áp. Đoàn người biểu tình quyết định cắm trại tại Công trường.
*          Ngày 10.12.2013: Công an chống nổi dậy tấn công những hàng rào của dân tại Công trường. Dân chúng đẩy lui Công an để bảo vệ những hàng rào chắn giữ.
*          Ngày 17.12.2013: TT.Ianoukovitch ký giấy nhận sự trợ giúp USD.15 tỉ do Mạc Tư Khoa và việc giảm 30% trên giá cung cấp Khí đốt của Nga.
*          Ngày 15.01.2014: Luật phạt bỏ tù tới 15 năm những ai tham dự biểu tình.
*          Dân chúng không lùi bước và sợ hãi trước những đe dọa bỏ tù bằng gian xảo luật pháp. Đoàn người NỔI DẬY tăng cường chiếm các công sở. Vào những ngày đầu tuần thứ 3 của tháng 2, Công an Berkut núp ở các tầng nhà quanh Công trương , dùng súng đạn thiệt, bắn sẻ vào những người biểu tình và những người cắm trại tại Công trường.
*          Đêm 18.02 sang 19.02.2014, một đêm điên loạn chết chóc. Một cuộc dàn trận giữa đoàn người biểu tình và công an chống nổi dậy đã xẩy ra khiến dân biểu tình chết đến gần 60 người. Trước tình hình chết chóc như vậy, một số những Ngoại trưởng của Pháp, Đức, Anh, Bỉ, Ba Lan ... đến tận Kiev để tổ chức gặp gỡ giữa TT.Inoukovitch và phe đối lập. TT.Inoukovitch ký những lời hứa như từ chức chẳng hạn, nhưng dân chúng không tin tưởng và vẫn giữ vững những vị trí đã chiếm đóng.
Về phía TT.Ianoukovitch: ra đi không từ gĩa
Nhật báo LE MONDE, ngày 24.02.2014, trang 3, viết như sau:
“Selon les médias ukrainiens, le président Viktor Inoukovitch aurait quité Kiev après avoir signé, vendredi 21 février, l’accord avec l’opposition. Accompagné du chef de son administration, Andrei Kliouev, et du président du Parlement, Vladimir Rybak, M.Inoukovitch serait monté à bord de son avion, direction Kharkiv, à l’est du pays òu le Front ukrainien, une nouvelle formation politique proche de Moscou, doit tenir un congrès samedi. Mais samedi matin, l’avion prèsidentiel n’avait toujours pas atterri à Kharkov et les médfias spéculaient sur la destination finale du président, dont le plan de vol mentionnait la Russie comme la destination finale, après une visite à Kharkiv et à Marioupol. “ (Theo giới thông tin Ukraine, Tổng thống Viktor Inoukovitch đã rời Kiev sau khi ký , thứ sáu 21 tháng hai, thỏa hiệp với đối lập. Hộ tống bởi người trưởng của nội, Andrei Kliouev, và bởi chủ tịch Quốc Hội, Vladimir Rybak, Oâng Inoukovitch lên máy bay riêng, đi hướng Kharkiv, miền đông Ukraine, ở đây Mặt trận Ukraine, một tổ chức chính trị mới  thân Mạc Tư Khoa, đang mở đại hội trong ngày thứ bẩy. Nhưng sáng thứ bẩy, máy bay của Tổng thống  vẫn chưa hạ cánh ở Kharkov và giới thông tin dự đoán về hướng đi cuối cùng của Tổng thống, mà chương trình bay đã nói tới Nga như hướng đến cuối cùng sau khi thăm Kharkiv và Marioupol. “
Về phía Quốc Hội: những quyết định nhanh chóng
Trước những chết chóc, Quốc Hội Ukraine nghiêng về phía dân. Và rất nhanh chóng, Quốc Hội Ukraine đã lấy những quyết định dứt khoát cho tình hình. Tờ báo International New York Times, ngày 24.02.2014, trang 16, với đầu đề LAWMAKERS TAKE CONTROL IN UKRAINE, viết:
“A day after President Viktor Yanukovych fled the Ukrainian capital and was removed from power by unanimous vote in Parliament, lawmakers moved swiftly on Sunday to dismantle the remaining vestiges of his government by firing top cabinet members, including the foreign minister. With Parliament , led by the speaker, Oleksandr Turchynov, firmly in control of the federal government. Lawmakers began an ermergency session on Sunday by adopting a law  restoring state-ownership of Mr.Yanukovych’s opulent presidential palace, which he has privatized. Parliament voted to grant Mr. Turchynov authority to carry out the duties of president of Ukraine, adding his authority to lead the government that lawmakers has approved on Saturday “ (Một ngày sau khi Tổng thống Viktor  Inoukovitch bỏ Thủ đô Ukraine và bị truất hết quyền lực bằng cuộc bầu phiếu đồng thuận của Quốc Hội, những Dân biểu đã nhanh chóng cất chức, vào Chúa nhật, những vết tích cuối cùng của chính phủ của ông bằng hủy bỏ chức vụ của những thành phần nội các, gồm cả ngoại trưởng. Với Quốc Hội, điều hành bởi Phát ngôn nhân, Oleksndr Turchynov, cứng rắn kiểm soát Chính quyền Liên bang. Những Dân biểu đã bắt đầu cuộc họp khẩn cấp ngày Chúa nhật bằng chấp nhận một đạo luật lấy lại  Dinh thự huy hoàng của Tổng thống về cho Quốc gia mà Tổng thống đã chiếm như tư hữu của ông. Quốc Hội đã bỏ phiếu chấp thuận cho Oâng Turchynov những quyền điều hành như một Tổng thống của Ukraine, chấp thuận thêm cho ông quyền điều hành một Nội các y như đã chấp thuận ngày thứ bẩy vừa rồi.)  
Ngoài ra Quốc Hội cũng quyết định trả tự do cho Bà Julia Timochenko, lãnh tụ đảng đối lập với phía ông Viktor Ianoukovitch. Thời điểm bầu Tổng thống mới cũng được quyết định là ngày 25.05.2014.
            Đây là một cuộc NỔI DẬY rất anh dũng và đứng đắn. Ngày nay, truyền thông của Nga mở phong trào mạ lỵ cuộc nổi dậy để lấy cớ đem quân đội vào Ukraine. TT.Putin và Đại sứ Nga tại Liên Hiệp quốc nói rằng:
=>       Đây là cuộc tụ họp phá phách của những thành phần cực đoan. Việc Quốc Hội ủng hộ cuộc NỔI DẬY để truất phế TT.Viktor Ianoukovitch chỉ là một cuộc “đảo chánh“. Do đó Nga vẫn coi Viktor Ianoukovitch còn là Tổng thống của Ukraine. 
=>       Những thành phần cực đoan này có thể đi đến hành hung những người Nga hoặc  những người nói tiếng Nga hay phá phách cướp bóc tài sản của những này hoặc của nước Nga trên lãnh thổ Ukraine. Do đó Nga phải đem quân đội vào Ukraine để bảo vệ sinh mạng những người Nga cùng với tài sản.
            Nếu xem những hình ảnh của cuộc NỔI DẬY, thì Quốc tế đều nhận thấy rằng:
*          Những người tham dự NỔI DẬY gồm rất đông lớp tuổi trẻ sinh viên, gồm những Bà, những Oâng đã lớn tuổi, gồm ngay cả những Linh mục Chính thống giáo xếp hàng cản ngăn những tấn công của phía Cảnh sát, Công an.   
*          Việc quần chúng phải dùng sức mạnh chống trả chỉ là hành động TỰ VỆ mỗi lần Công an, Cảnh sát tấn công họ. Xem những diễn biến NỔI DẬY trên đây, chúng ta thấy rằng chỉ khi nào nhà nước dùng bạo lực đàn áp tấn công dân chúng, thì dân chúng mới dùng SỨC MẠNH TỰ VỆ để phản ứng. Chính nhà nước đẩy dân đến hành động mạnh.
*          Cả Thế giới đều nhìn thấy hình ảnh của đoàn Công an, Cảnh sát quỳ gối xuống để xin lỗi người dân Ukraine. Hình ảnh này là do hãng Reuter chụp được và phổ biến khắp Thế giới. Hình ảnh này mang ý nghĩa rằng khối dân NỔI DẬY không phải là những thành phần côn đồ quá khích mà Putin,  Đại sứ Nga ở Liên Hiệp Quốc và Truyền Thông Nga cố tình ngụy biện mạ lỵ !

Một lựa chọn tương lai hữu lý
của hai Dân tộc
            Cuộc NỔI DẬY ở Ukraine xẩy ra trong tình trạng phá sản Kinh tế. Người dân biểu tình nói lên hướng LỰA CHỌN HỮU LÝ để giải quyết hoàn cảnh tê liệt Kinh tế ngắn hạn hiện nay va nhằm phát triển Kinh tế lâu dài trong tương lai.
            Trong cấp thời ngắn hạn, Nga hay Tây phương đã đề nghị những giải pháp mà Ukraine không phải khó khăn lựa chọn. Nhưng chính việc lựa chọn hướng phát triển Kinh tế quốc gia trong lâu dài mới là điều phải đắn đo cho hữu lý vì sự lựa chọn này liên hệ đến chính việc lựa chọn hướng đi chính trị : chọn Nga hay chọn Tây phương và chỉ có thể chọn một hướng.
            Việc phát triển Kinh tế phải nhắm vào Thị trường Tiêu thụ về bề rộng và về khả năng tài chánh tiêu thụ của dân sống trong Thị trường ấy:
a)         Thị trường Tiêu thụ Nga: Tại Thị trường này, khả năng tiêu thụ rất cao nằm trong tay một thiểu số triệu phú, tỉ phú đang nắm quyền cai trị.  Thiểu số này lại cho tản tài sản ra khỏi lãnh thổ Nga. Khối đa số quần chúng tiêu thụ nằm trong lãnh thổ lại có một mức Mãi lực tương đối thấp. Chính vì vậy mà việc lựa chọn Nga để làm động lực phát triển Kinh tế lâu dài cho Ukraine sẽ đi vào ngõ bí cho sản xuất.
b)         Thị trường Tiêu thụ Liên Au & Hoa kỳ: Hai Thị trường Liên Au và Hoa kỳ rất rộng lớn với khối người đồng đều có Mãi lực cao. Ngoài ra hai Thị trường lại bao trùm tự do Mậu dịch khắp Thế giới. Lựa chọn đi với hai Thị trường này để phát triển Kinh tế lâu dài và bền vững là một LỰY CHỌN hoàn toàn HỮU LÝ.
Xin nhắc lại rằng đây là tiêu chuẩn lựa chọn về Kinh tế. Nếu lựa chọn về văn hóa, ngôn ngữ, đó là những tiêu chuẩn tâm tình. Dân Québec nói tiếng Pháp, nhưng chọn sống ở Gia Nã Đại. Nước Thụy sĩ có ba vùng: vùng nói tiếng Đức, vùng nói tiếng Pháp và vùng nói tiếng Ý, nhưng cả ba vùng cùng chọn một hướng phát triển Kinh tế dựa vào hai Thị trường lớn Liên Au và Hoa kỳ.
            Đối với Việt Nam, Dân tộc cũng phải sống trong hoàn cảnh phá sản Kinh tế do tham nhũng của cả một đảng CSVN. Người dân Việt Nam cũng phải đứng trước những vấn đề giống như Ukraine:
1)         Phải loại trừ cái nguyên nhân chính yếu phá sản Kinh tế đất nước do việc tràn lan tham nhũng.  Việc phát sinh và tràn lan tham nhũng là do chủ trương độc tài Chính trị nắm Chủ đạo Kinh tế. Tham nhũng không phải là từ cá nhân mà do cái môi trường (Cơ chế) gắn liền độc tài Chính trị với Chủ đạo Kinh tế. Việc loại trừ nguyên nhân cốt yếu làm phá sản Kinh tế chính là phải DỨT BỎ CÁI CƠ CHẾ CSVN hiện hành.  Cơ chế hiện hành không thể cải tổ mà là phải chôn vùi nó đi. Khi mà CSVN vẫn cối chầy cố thủ giữ lấy Cơ chế sau bao chục năm trường Dân Tộc VN va Quốc tế đã kiên nhẫn đề nghị góp ý, thì chỉ còn một cách là Dân Tộc NỔI DẬY làm công việc đó như trường hợp Ukraine.
2)         Dứt bỏ Cơ chế CSVN rồi, Dân Tộc mới có thể lựa chọn hướng giải quyết việc cứu vãn cấp thời tình trạng bệnh hoạn Kinh tế lúc này và lo lắng phát triển Kinh tế quốc dân lâu dài trong tương lai. Giải quyết cấp thời hay phát triển Kinh tế lầu dài, cái hướng LỰA CHỌN HỮU LÝ là phải đi với Tây phương Liên Au và Hoa kỳ. Thực vậy:
a)         Hướng Việt Nam chọn lựa đi với Trung quốc chỉ là đi vào tử huyệt. Trung quốc không cho Việt Nam tiền tỉ để giải quyết cấp thời Kinh tế mà chỉ tống xuống Việt Nam những hàng hóa tồn kho và độc hại. Về phát triển Kinh tế Việt Nam trong dài hạn, thì đi với Trung quốc là đi vào ngõ cụt bởi lẽ quần chúng Trung quốc còn nghèo không đủ mãi lực tiêu thụ chính hàng hóa Trung cộng sản xuất ra. Nếu CSVN tiếp tục lựa chọn Trung quốc, đó chỉ vì tiêu chuẩn cố thủ giữ lấy quyền hành Chính trị cho đảng, chứ không phải là tiêu chuẩn Kinh tế cho ích quốc lợi dân.
b)         Con đường duy nhất, theo tiêu chuẩn HỮU LÝ KINH TẾ, là Dân tộc Việt Nam lựa chọn hướng đi với Tây phương Liên Au và Hoa kỳ. Chúng ta có một Thị trường rộng lớn với mãi lực dân chúng rất cao để giải quyết tình trạng kinh tế phá sản lúc này và phát triển Kinh tế trong dài hạn.

Nga ngụy biện để vào Ukraine và
Tầu sẽ lấy cớ gì để lính chệt vào Việt Nam ?
Như chúng tôi đã viết ở phần trên đây, Putin, Đại sứ Nga tại Liên Hiệp Quốc và Truyền Thông Nga đã đưa ra những lý do ngụy biện trắng trợn để đem quân đội xâm nhập Crimea, vi phạm chủ quyền của Ukraine.
Đã nhiều năm nay, chứ không phải nhân trường hợp Ukraine, chúng tôi đã viết về những lý do mà Trung quốc nại ra để cho lính chệt xâm nhập lãnh thổ Việt Nam. Đã từ nhiều năm nay, trong nội địa Việt Nam, chúng ta đã nhận thấy:
*          Những số lớn các Dự án của Việt Nam do Trung quốc trúng thầu. Trung quốc đưa công nhân sang Việt Nam làm việc cho những Dự án vào thiết lập những làng cho công nhân chệt chung quanh Dự án.
*          Trung quốc cũng khai thác rất nhiều những hầm mỏ, những tài nguyên với những công nhân của họ và lập làng xóm chung quanh những nơi khai thác.
*          Thương nhân Trung quốc đã tràn sang Việt Nam để lập những khu phố, những khu thương mại từ Bắc chí Nam.
*          Điều nguy hiểm hơn cả là nhiều Tỉnh Việt Nam đã cho những cánh đồng, những khu đồi cho người Tầu sang trồng cấy với thời hạn dài như 50 năm chẳng hạn.
            Như vậy, người Tầu đã thiết lập nhiều những khu cư ngụ của họ và chiếm hữu tài sản trên lãnh thổ Việt Nam. Cũng như trường hợp Nga ngụy biện lý lẽ để đưa quân đội vào Ukraine, Tầu cũng có thể lấy lý do bảo vệ kiều bào và tài sản của người Tầu mà đưa lính chệt vào Việt Nam.  Thực vậy, khi Dân Tộc Việt Nam NỔI DẬY DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN, thì Trung Cộng có thể đưa ra quốc tế những lý do sau đây để biện minh cho việc cho quân đội xâm nhập vào Việt Nam:
=>       Người Việt NỔI DẬY gồm những thành phần quá khích có thể khủng bố người Tầu
=>       Những thành phần quá khích này có thể phá hoại những tài sản của người Tầu tại lãnh thổ Việt Nam.
            Vì vậy Trung quốc gửi quân đội vào Việt Nam để bảo vệ an toàn sinh mạng và tài sản cho kiều bào của họ.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 06.03.2014


VẠN MỘC CƯ SĨ * AI YÊU BÁC HỒ?



AI YÊU BÁC HỒ?
VẠN MỘC CƯ SĨ

Ai yêu bác Hồ Chí Minh
Hơn ông Mao Trạch Đông
Vì bác đã bán non sông
Cho Trung Cộng
với giá rẻ mạt
vài đồng
để đổi lấy mấy chữ
Thành công ! đại thành công!

Đảng Việt Cộng của bác
Là đội quân lê dương
Của Đệ tam quốc tế
Của Trung Cộng
Đi tiên phong
Trong mục tiêu chiếm Biển Đông
và toàn thế giới!


Ai yêu bác Hồ Chí Minh
Hơn dân Lạng Sơn, Cao Bằng
Vi nhờ bác và Đặng Tiểu Bình
Dân ta được rõ mối tình Việt Hoa!


Ai yêu bác Hồ Chí Minh
Hơn các cháu nhi đồng
Bác rất yêu gái Nùng
Tuổi 13, 14, 15
Ngày ngày bác ẳm bồng
Đêm đêm bác cho nằm chung
Như Nông thị Trưng, Nông thị Xuân..


Ai yêu bác Hồ Chí Minh
Hơn Trần Quốc Hoàn
Tên trộm cắp đầu đường xó chợ
Thành bộ trưởng công an
Được bác ban ân huệ
"Share" Nông Thị Xuân!
Theo tinh thần cộng sản quốc tế!
Và đạo đức Hồ Chí Minh!

Ai yêu bác Hồ Chí Minh
Hơn Võ Nguyên Giáp
Đã ra tay tàn sát Việt Quốc, Việt Cách
và các chiến sĩ quốc gia,
Được bác phong làm đại tướng
Và cũng nhờ đảng quang vinh
Ban chức trưởng ban Kế hoạch
Đứng đầu ngành hộ sinh
Nay đã chết
được đưa ra đảo vắng Quảng Bình


Để thưởng một đời hy sinh
Một đời cúi mình
Có người đề nghị lập đài tưởng niệm
Trên đài cao là cái Cửa Mình
Ôm hình Võ Nguyên Giáp
Với hàng chữ
Hoan hô đại tướng anh hùng
Hoan hô đảng quang vinh
Đã làm  cả thế giới rùng  mình!      

                                                              
                                   



Monday, March 10, 2014

PHAN CHÂU THÀNH * HỒ CHÍ MINH

 


 10 điều giống nhau kỳ lạ giữa Hồ Chí Minh và đồng chí Lai Teck 
 
Phan Châu Thành (Danlambao) - Với những người ít quan tâm, không biết đồng chí Lai Teck là ai, tôi xin thưa, đó là cựu Tổng bí thư Đảng Cộng sản Malaysia từ 1938 đến 1947. Đảng Cộng sản Malaysia thành lập bởi Comintern và các đảng viên người Hoa tại Singapore năm 1930, và tự giải tán năm 1989 tại Thailand khi đảng này bị Malaysia “cấm cửa” phải hoạt động chui ở Nam Thái từ 1960…

Điều giống nhau đầu tiên, đó là hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck đều là người Việt (đối với những ai tin Hồ Chí Minh là người Việt), hay hai đồng chí trên đều là người là người Việt gốc Hoa (đối với những ai tin đồng chí HCM là người Hoa). Đồng chí Lai Teck tên Việt là Trương Phước Đạt, sống ở Việt Nam như một người Hoa hoạt động trong phong trào cách mạng cộng sản nhưng lại kiêm nghề chỉ điểm (spy) cho Pháp đến năm 1933 thì biến mất khỏi Việt Nam và năm 1934 xuất hiện ở Malaysia, Singapore với tên Tầu là Lai Teck (Lai Te)...

Điều giống nhau thứ hai là hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck là hai người Việt gốc Hoa đồng niên, cùng sinh năm 1901. Riêng đồng chí Hồ Chí Minh thì còn điều mơ hồ, vì năm 1934 khi từ TQ quay về Moscow đồng chí tự khai với Quốc tế CS là mình sinh năm 1901 (hồ sơ còn lưu), nhưng lại quên trước đó năm 1924 đống chí đã đến Nga từ Pháp và khai sinh từ bên Pháp mà đảng CS Pháp giới thiệu sang thì đồng chí Nguyễn Ái Quốc sinh năm 1890..., trừ khi đó là hai đồng chí khác nhau hoàn toàn (Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh). Những năm 1930s ở Moscow đồng chí Stalin và đồng chí Beria đang “oanh tạc”, à quên: thanh trừng, các đảng viên cộng sản rất ác liệt, nhất là thành viên Quốc tế CS (vốn do Lenin và Troskit lập nên), nên khả năng đồng chí Hồ Chí Minh khai man là rất ít, vì chỉ có... dựa cột.


Điểm giống nhau kỳ lạ thứ ba là cả hai đồng chí cùng sinh ra trên quê hương cách mạng Nghệ Tĩnh!
Như vậy, hai đồng chí Nguyễn Sinh Cung hay Hồ Tập Chương (sau “biến thành” Hồ Chí Minh) và Trương Phước Đạt (Lai Teck sau này) cùng là người Việt gốc Hoa, cùng sinh năm 1901, cùng quê Nghệ Tĩnh và cùng tham gia các hoạt động của đảng cộng sản ngay từ những năm 1930. Liệu họ có biết về nhau, có gặp nhau, có thân nhau, có là đồng chí trong một tổ chức? Câu hỏi trên tôi chỉ đặt ra thôi, chưa có trả lời.


Điểm giống nhau kỳ lạ thứ tư là cả hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck đều cùng xuất hiện trên chính trường với tên mới (và sau trở thành tên thành danh lãnh tụ trong số rất nhiều cái tên bí danh mà hai người đều có) là Hồ Chí Minh và Lai Teck từ năm 1934. Một đồng chí đi Moscow, còn đồng chí kia đi Malaysia, đều xuất phát từ đất mẹ Trung Hoa với sự dọn đường “giúp đỡ” tận tình của đảng CSTQ... để lên nắm quyền hai đảng cộng sản đàn em của Đảng CSTQ là đảng CS Đông Dương- CSĐD (bao gồm cả Đông Dương) và đảng CS Malaysia - CSM (bao gồm cả Singapore).


Điều giống nhau kỳ lạ thứ năm là cả hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck đến với hai đảng CS Đông Dương và Malaysia đều với tư cách cán bộ của Comintern (Quốc tể CS) nhưng lại do đảng CSTQ phao tin về “lãnh tụ mới”, giới thiệu hoành tráng nhưng mơ hồ về “lãnh tụ” (vì lý do bí mật), và chính đảng CSTQ đã đưa “lãnh tụ của Comintern” về Việt Nam và Malaysia (chứ không phải do Comintern từ Moscow có công văn cử đến).


Chúng ta nên nhớ, những năm 1933-1939 Stalin chỉ lo thanh trừng nội bộ đảng CS Nga (giết hàng triệu đảng viên) và đối phó với các nước trong Liên bang Sô viết (giết mấy chục triệu người các dân tộc), và nhất là phải đối phó với Hitler và Châu Âu lúc đó đang chuẩn bị rơi vào đại chiến Thế giới 2, nên không hề quan tâm đến các đảng CS thế giới và nhất là các đảng CS Phương Đông (mà Stalin rất khinh ghét)... Stalin cũng chẳng phân công việc “quản lý các đảng châu Á” đó cho đảng CSTQ... mà đảng CSTQ đã tự ôm “trách nhiệm quốc tế cao cả” đó, với những mưu đồ riêng.


Điều giống nhau kỳ lạ khủng khiếp thứ sáu (chữ khủng khiếp ở đây phải hiểu theo cả hai nghĩa đen và bóng) là từ năm 1933-1934 sau khi hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck xuất hiện lờ mờ trên “chân trời cách mạng” Việt Nam và Malaysia thì hàng loạt và hầu hết các lãnh tụ kỳ cựu và “khai quốc công thần” của hai đảng CSĐD và CSM đều bị lần lượt “vô tình” rơi vào tay mật thám Pháp (ở Việt Nam) và Anh (ở Malaysia, Singapore), tạo nên lỗ hổng quyền lực và sự khan hiếm lãnh tụ khủng khiếp cho hai đảng CSĐD và CSM.


Điều đó - sự “ra đi anh dũng” “vô tình” và “đau thương” của hầu hết các lãnh tụ của hai đảng CSĐD và CSM đã diễn ra trong những năm cuối 30s đầu 40s đó trùng với những năm ròng rã đảng CSTQ (qua cộng đồng người Hoa ở khắp nơi) rỉ tai, truyền miệng, thì thầm, “dấm da dấm dứ” trong dân đen hai nước về hai lãnh tụ Hồ Chí Minh và Lại Teck của họ. Hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck chỉ việc “trở về cứu nước” Việt Nam và Malaysia như hai vị lãnh tụ cứu tinh của đảng và của dân tộc, như mưa về ruộng hạn!


Điểm giống nhau kỳ lạ thứ bảy của hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck là khi về nước hầu như ngay lập tức họ trở thành lãnh tụ, và dường như họ biết trước và đã chuẩn bị cho điều đó. Trong hành trang “về nước” của họ đều đã chuẩn bị sẵn hai lá cờ đảng và cờ nước cho hai đảng và hai nước của họ, cứ như là họ đều biết trước mình sẽ là lãnh tụ sáng lập đảng và sáng lập nước! Cờ đảng cho hai đảng của họ đã được chuẩn bị giống y chang nhau và giống như (100%) cờ của đảng CSTQ là cờ đỏ búa liềm, mà cờ đảng CSTQ thì vẫn hơi khác cờ đảng CS Nga một chút. Tức là ba đảng CSTQ, CSĐD và CSM chung một lá cờ...

Kỳ lạ hơn nữa là hai lá quốc kỳ mà họ (được) chuẩn bị mang về cho hai nước Việt Nam và Malaysia cũng gần giống nhau và gần giống quốc kỳ mà đảng CSTQ chuẩn bị cho đất nước họ sau này. Đó là, quốc kỳ do đồng chí Hồ Chí Minh chuẩn bị cho Việt Nam là Cờ đỏ một Sao vàng, còn quốc kỳ do đồng chí Lai Teck chuẩn bị cho Malaysia là Cờ đỏ Ba sao vàng, và quốc kỳ do đồng chí Mao Trạch Đông chuẩn bị cho Trung Quốc sau này là Cờ đỏ năm Sao vàng...

Về “gia đình” những lá cờ đỏ sao vàng này tôi đã có một bài viết riêng trên Dân Luận vài tháng trước. Chỉ xin nói lại ở đây là cũng thời gian này, những năm 1930-1940, người Hoa ở các nước Miến điện, Indonesia… cũng lập nên là trở thành lãnh tụ các đảng cộng sản Miama và Indonesia với những lá cờ đảng y chang cờ đảng mà hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck mang về Việt Nam và Malaysia, còn cờ nước cho Indonasia là cờ đỏ Hai sao vàng, và cho Miến điện là Cờ đỏ Bốn sao vàng... Trong bài viết đó tôi cũng đã chỉ ra số lượng sao vàng trên cờ đỏ là tùy theo số sắc tộc chính của các nước đó...


Điều giống nhau và kỳ lạ thứ tám mà hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck cùng chia sẻ, đó là cả hai đồng chí đều rất tự tôn sùng cá nhân, tự biến mình thành thánh nhân trên đảng và dân. Đồng chí Hồ Chí Minh thì tự gọi mình là cha già dân tộc khi 55 tuổi (hay 44 tuổi?), và tự viết sách ca ngợi mình với những bút danh khác như Trần Dân Tiên, T. Lan... còn đồng chí Lai Teck thì tự xưng và tự gọi mình là Mr. Wright - Ngài Chân lý, và bắt toàn đảng CS Malaysia gọi mình là Mr. Wright - ngài Chân lý, ngài Đúng đắn, ngài Không sai!


Hơn thế nữa, cả đồng chí Hồ Chí Minh và đồng chí Lai Teck - Mr. Wright đều luôn có một nhà xuất bản và nhà in mang tên Hồng Kỳ thầm lặng, ẩn dật (đặt bản doanh bí mật ở Hongkong hay đâu đó) luôn viết và in sách, tài liệu ca ngợi cá nhân hai đồng chí đó bằng tiếng Việt và tiếng Malay, tiếng Hoa rồi tung vào Việt Nam, Malaysia, Singapore... tạo uy tín lãnh tụ cho các đồng chí đó trong đảng và trong dân hai nước. Nhà xuất bản Hồng Kỳ này cũng là nơi chuyên viết và in sách “hộ” cho các “lãnh tụ” các đảng cộng sản Indonesia (hai sao) và Miama (bốn sao) nữa.


Điều giống nhau, nhưng không kỳ lạ nữa mà ghê tởm, thứ chín, của hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck là sau khi trở thành lãnh tụ đảng và tìm mọi cách tự ca ngợi mình hay để nhà xuất bản Hồng Kỳ bí mật ca ngợi mình như trên, giai đoạn cầm quyền lãnh tụ đầu tiên của hai đồng chí trong nhiều năm đều dành để thanh trừng nội bộ, thực chất là tiêu diệt hết những người giỏi hơn mình, cách mạng chân chính hơn mình, công lao hơn mình, hoặc những người không phải phe đảng của mình, dù họ đã về phe cách mạng. Đồng chí Hồ Chí Minh làm việc này ráo riết trong 4-5 năm, từ 1945 đến 1949, thường là bằng thủ tiêu kín hay bán thông tin cho Pháp xử lý hộ.

Còn đồng chí Lai Teck thì làm nhanh gọn hơn, trong vòng 1-2 năm, thậm chí có lần đồng chí Lai Teck tổ chức Hội nghị TW đảng trong hang Batu gần Kuala Lumpur mà không đến chủ trì (do “hỏng xe”) mà “điều” cảnh sát Anh đến giết chết trên 100 cán bộ chủ chốt của đảng CSM... không phải vì họ nghi ngờ tài đức đồng chí Tổng Bí thư - Ngài Chân lý, mà vì họ muốn đấu tranh độc lập không theo sự chỉ đạo của “một tổ chức người Hoa” tên là Min Yen ở Singapore (thực chất là bộ phận hải ngoại của đảng CSTQ), và vì đồng chí Lai Teck muốn tập trung quyền lực quân sự (của Quân giải phóng Malaysia lúc đó rất mạnh) vào tay mình...


Và điều giống nhau thư mười, tất yếu, của hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck, là sau khi nắm toàn bộ quyền lực chính trị và quân sự trong tay, chiến lược đấu tranh duy nhất của hai đống chí “lãnh tụ dân tộc” đó là... dựa vào đảng CSTQ.

Từ năm 1940 đến 1947, dù bản thân còn chìm trong chiến tranh chống Nhật rồi nội chiến, đảng CSTQ và quân Giải phóng Nhân dân TQ đã đào tạo và trang bị, cung cấp toàn bộ cho quân đội của đảng CS Malaysia lúc đó lên đến 39-40 ngàn người. Rất may cho đất nước Malaysia là họ không có chung biên giới với TQ, nếu không thì họ đã bị cộng sản “giải phóng” và là cờ đỏ ba sao của Lai Teck mang về đã là quốc kỳ hôm nay của họ rồi!


Tương tự, như vậy, sau khi diệt hết mọi lực lượng Dân tộc tham gia giải phóng đất nước năm 45 mà không phải cộng sản, đồng chí Hồ Chí Minh mới tổ chức Đại hội Việt Minh năm 1949 chỉ còn toàn cộng sản, rồi “mở chiến dịch Biên giới” mà 1950 cho sĩ quan TQ mang 15 nghìn quân Việt được TQ trang bị và đào tạo hoàn toàn đánh vào 256 quân Pháp ở đồn Đình Lập, mà sau mấy ngày bao vây và tấn công 26 lính Pháp vẫn thoát được về Hà Nội...

Tóm lại là, toàn bộ sự nghiệp lãnh đạo chiến tranh đánh Pháp, rồi cải cách ruộng đất, cải cách thương nghiệp hay văn hóa, rồi đánh Mỹ, đồng chí Hồ Chí Minh đều làm theo chỉ đạo của các đồng chí CSTQ, và cho CSTQ (những người đã đưa hai lá cờ đỏ cho đồng chí Hồ mang về và đã làm mọi việc đặt đồng chí lên “ngôi” lãnh tụ đất nước, cha già dân tộc Việt lúc đồng chí mới 44 tuổi...)


Đến đây, lẽ ra là đã hết câu chuyện 10 điều giống nhau kỳ lạ của hai đồng chí Hồ Chí Minh và Lai Teck, hai cựu lãnh tụ của hai đảng CSVN và CSM, như trên. Nhưng để kết thúc bài này tôi xin nói thêm về điều giống nhau thứ 11 của hai đồng chí đó. Đó là hai cái chết khá giống nhau của họ.


Đồng chí Lai Teck, sau gần 10 năm làm lãnh tụ tối cao đảng CSM, năm 1947 đã bị các đồng chí mình phát hiện là gián điệp nhị trùng (cho Anh và cho Nhật) để hại các đồng chí mình và tập trung quyền lực. Thế là Lai Teck đã ôm luôn quĩ đảng (hơn 1 triệu USD năm 1947) chuồn về Hongkong.


Các đồng chí Malaysia cử đồng chí Chin Peng (lúc đó 29 tuổi, sau chính là người kế vị Lai Teck) đi bắt Lai Teck về xét xử. Chin Peng về Hongkong báo cáo và hỏi Comintern về Lai Teck thì Comintern nói Lai Teck là người Việt nên do đảng CSVN phụ trách. Chin Peng lại hỏi các đồng chí Việt Nam thì được biết Lai Teck đã đi Bangkok. Chin Peng cùng các đồng chí Việt Nam ở Bangkok đã tìm ra chỗ Lai Teck đang ở, đã đến thắt cổ Lai Teck chết. Tóm lại là đồng chí Lai Teck của chúng ta đã chết dưới tay các đồng chí cộng sản Việt Nam nhà mình. (Đó là theo hồi ký của Chin Peng - My sides of History).
Còn đồng chí Hồ Chí Minh chết ở Hà Nội năm 1969, cũng có thể nói là dưới tay các đồng chí cộng sản Việt Nam. Cụ thể là, từ năm 1958 đồng chí Hồ Chí Minh đã bị các đồng chí của mình (đứng đầu là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ) giam lỏng và sử dụng như bù nhìn. Không biết có phải vì các đồng chí cộng sản Việt Nam đã nhìn ra gốc gác gián điệp Tàu của đồng chí Hồ Chí Minh mà làm thế không? Chỉ biết là, bị các đồng chí mình o ép mọi mặt quá suốt hơn chục năm, ngày 2/9/69 đồng chí Hồ Chí Minh đã tự chọn cái chết cho mình bằng cách không nhận sự hỗ trợ y tế nữa... Thế nên cũng có thể gọi là đồng chí Hồ Chí Minh đã chết dưới tay các đồng chí của mình.

Lịch sử thật rối ren mà cũng thật rõ ràng. Chẳng ai có thể lừa được tất cả mọi người mãi mãi. Đồng chí Lai Teck đã thế mà đồng chí Hồ Chí Minh cũng sẽ thế thôi. Đảng CSVN cũng thế, mà đảng CSTQ cũng sẽ vậy thôi.

NGUYỄN THIÊN THỤ * QUỐC GIA VÀ CỘNG SẢN

                      


                QUỐC GIA VÀ CỘNG SẢN
                    NGUYỄN THIÊN THỤ


So sánh hai chế độ quốc gia và cộng sản thì đòi hỏi phải ra công nghiên cứu  nhiều, và cũng mất nhiều giấy bút. Ở đây, chúng tôi chỉ trình bày sơ lược để đôc giả có thể thấy sự dị biệt của hai chế độ sau khi đã phân tích sự dị biệt giữa lý thuyết và thực hành của chế độ cộng sản.Chúng tôi sẽ điểm qua các khía cạnh giáo dục, y tế, xã hội, chính trị,văn hóa

I. GIÁO DỤC

Thời Pháp thuộc, nước ta có ba bậc giáo dục: tiểu học, trung học và đại học nhưng ban đầu chưa phổ biến. Tại Hà nội có trường Đại học và Cao đẳng, các tỉnh lớn có trường trung học, các thành phố đều có trường tiểu học . Các vị trưởng sở các cơ sở giáo dục, các giáo sư, giáo viên đều do triều đình và chính quyền Pháp bổ nhiệm. Học trò không phải đóng học phí. 

Thời Viêt Nam cộng hòa, sau hiệp định Geneve, các trường trung, tiểu học mở khắp nước. Các trường đại học công và tư mở khắp Saigon, Huế, Tây Ninh, Cần Thơ, Đà Lạt, Long Xuyên.  Tại Đại Học, sinh viên đóng học phí tượng trưng. Các giáo sư có tự do giảng dạy. Học sinh đỗ bằng tú tài toàn phần đều có thể ghi danh bất cứ đại học nào, Chỉ có hai trường đại học thi tuyển là đại học Sư Phạm và Đại Học Quốc gia hành chánh để chọn sinh viên ưu tú. Học sinh trung học, tiểu học trường công không phải đóng học phí. Học sinh nhập học trường công lập phải qua kỳ thi tuyển.
Tại Việt Nam khu vực cộng sản, người ta tuyển chọn giáo viên là những kẻ cô thân và kém cỏi:"Nhất Y, nhì Dược, 
Sư Phạm bỏ qua,
Bách Khoa tạm được."
Giáo viên không được tôn trọng, thường bị cán bộ địa phương bắt nạt vì truyền thống cộng sản khinh trí thức, trọng công nông. Sau 1955, Cải Cách Ruộng Đất, con nhà tư sản, địa chủ, phú nông không được đi học. Sau 1975, cộng sản ưu tiên cho con em cán bộ. Con em nhà cộng sản 5- 6 điểm là có thể vào đại học, con nhà thường dân và "nguỵ quân, ngụy quyền" phải 17-19 điểm mới được vào đại học. Tốt nghiệp đại học, hạng này cũng khó có việc làm. Chương trình giáo dục có tính ngu dân và nhồi sọ, lấy việc học chính trị làm đầu. Vì theo đường lối tuyên truyền cho cộng sản nên nội dung là ca tụng cộng sản, xuyên tạc sự thật.  Khoảng năm 2000, cộng sản chủ trương bán bằng cấp, họ đặt chỉ tiêu mấy chục ngàn tiến sĩ, thạc sĩ một năm cho nên có nhiều tiêu cực trong việc này.
Theo Báo Mới, (HQ Online)- Theo kế hoạch mà Bộ GD-ĐT công bố tại Hội nghị Kế hoạch ngân sách năm 2014, trong năm 2014, tỷ lệ đào tạo tiến sỹ sẽ tăng khoảng 7% và chỉ tiêu thạc sỹ tăng 5% so với chỉ tiêu năm 2013 để phục vụ cho mục tiêu mà Bộ GD-ĐT đưa ra là đào tạo 20.000 tiến sỹ năm 2020.http://www.baomoi.com/Bo-GDDT-chay-dua-de-dat-muc-tieu-20000-tien-si/108/12773942.epi

Giáo viên bị học sinh làm mật thám theo dõi và báo cáo với nhà trường. Cuộc sống khó khăn, cô giáo phải bán kẹo trong lớp hoặc mở lớp kèm tại nhà, còn nam giáo viên phải đạp xich lô để sống.
Tạp chí "Người Lao Động" cho biết:
Một công trình nghiên cứu, khảo sát lương giáo viên vừa công bố cho thấy: Thu nhập bình quân của giáo viên từ 3-3,5  triệu đồng/tháng. Lương mới ra trường ở cả 3 cấp trên dưới 2 triệu đồng/tháng; lương trung bình giáo viên sau 13 năm từ 3-3,5 triệu đồng/tháng; sau 25 năm từ 4,1 - 4,7 triệu đồng/tháng. Từ đó, nhóm nghiên cứu kết luận: Thu nhập và phụ cấp lương của giáo viên không bảo đảm  nhu cầu đời sống của họ. Trên 40% giáo viên khảo sát muốn bỏ nghề sư phạm.

http://nld.com.vn/giao-duc-khoa-hoc/hay-tra-luong-dung-cho-nguoi-thay-201210071135676.htm
Học sinh các cấp phải đóng học phí cao, và phải đóng nhiều thứ khác. Một giáo sư trung học lương 3-5 triệu, nhưng mỗi đưá con học trung học phải trả học phí từ 500 ngàn đến một triệu mỗi tháng nếu học ở các trường danh tiếng. 
 Tạp chí Thanh Niên Online cho biết như sau:

Mức thu học phí các trường mầm non, phổ thông và GDTX được quy định như sau:

Cấp học
Năm học 2013 – 2014
Đơn vị tính : đồng/học sinh/tháng
Năm học 2014 – 2015
Đơn vị tính : đồng/học sinh/tháng
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhà trẻ
150.000
90.000
200.000
140.000
Mẫu giáo
120.000
60.000
160.000
100.000
Tiểu học
Không thu
Không thu
Trung học cơ sở
75.000
60.000
100.000
85.000
Bổ túc trung học cơ sở
112.000
90.000
150.000
130.000
Trung học phổ thông
90.000
75.000
120.000
100.000
Bổ túc trung học phổ thông
135.000
112.000
180.000
150.000
Trong đó: Nhóm 1 là học sinh học tại các trường ở các quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Gò Vấp, Tân Bình, Tân Phú, Thủ Đức và quận Bình Tân; Nhóm 2 là học sinh học tại các trường ở các huyện Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi, Cần Giờ và Nhà Bè.
Học sinh hệ chuyên trong các trường THPT chuyên và trường THPT công lập có lớp chuyên không thu học phí (theo quy định của Bộ GD-ĐT).
Các trường THPT Lê Quý Đôn, THPT Nguyễn Hiền, THPT Nguyễn Du thực hiện cơ chế thu học phí theo “mô hình trường tiên tiến theo xu thế hội nhập” với mức thu hiện hành như sau (cho đến khi Đề án của các trường được duyệt sẽ áp dụng mức thu mới): Lớp 10: 890.000 đồng/học sinh/tháng; Lớp 11: 850.000 đồng/học sinh/tháng; Lớp 12: 900.000 đồng/học sinh/tháng.
Đối với trường Mầm non Nam Sài Gòn và THPT Nam Sài gòn: thu theo mức thu hiện hành. Cụ thể: Nhà trẻ: 400.000 đồng/học sinh/tháng; Mẫu giáo: 400.000 đồng/học sinh/tháng; Tiểu học: 400.000 đồng/học sinh/tháng; THCS: 600.000 đồng/học sinh/tháng; THPT: 600.000 đồng/học sinh/tháng.

http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130905/muc-hoc-phi-moi-va-cac-khoan-thu-tu-nam-2013-2015.aspx

II.Y TẾ
Tại các thành phố, người Pháp đã lập nhà thương, mọi người đều có thể vào bệnh viện mà không phải trả viện phí. Tại Việt Nam có hai loại nhà thương, nhà thương công và nhà thương tư. Nói chung, dân nghèo được chữa bệnh miễn phí.
Trong chế độ cộng sản, các thôn xã có trạm y tế nhưng chỉ là hình thức vì thiếu thuốc men, dụng cụ y tế, và thiếu bác sĩ, y tá giỏi. Các y tá lâu năm có thể được thăng làm bác sĩ. Sau 1985, cộng sản bỏ bao cấp, nhân dân phải trả viện phí và các khoản hối lộ cho bác sĩ, y tá, y công và các loại dịch vụ khác. Cộng sản thu nhiều tiền bạc nhưng không mở thêm bệnh viện khiến cho bệnh viện bị tràn ngập. Các bệnh nhân phải nằm chung sáu, bảy người một giường. Họ phải nằm ngoài hành lang, dưới gậm giường. 

III. XÃ HỘI

Xã hội Việt Nam là một xã hội nông nghiệp, trước 1945 là một xã hội an bình mặc dầu thực dân Pháp cai trị, đàn áp và bóc lột nước ta. Sau 1945, Cộng sản cướp chính quyền, sát hại các chiến sĩ quốc gia, và tạo ra một không khí khủng bố. Cộng sản chiếm núi rừng, lấy núi rừng uy hiếp nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị, phá hoại nhà cửa, cầu đường, ám sát, bắn sẻ gây ra cuộc  chiến tranh đẫm máu giữa anh em đồng bào. Những ai không theo cộng sản thì bị giết hại. Những ai theo cộng sản thì trở thành giai cấp thống trị, còn nhân dân bị coi là phản động, cộng sản có quyền bắn giết và gán cho họ là Việt gian, phản động.

Đảng Cộng sản Việt Nam là phân bộ của đệ tam quốc tế, là tay sai Nga Tàu. Hồ Chí Minh lãnh chỉ thị của Stalin và Mao Trạch Đông tiến hành cuộc chiến tại Việt Nam để mở rộng biên cương quốc tế cộng sản. Sau 1954, Cộng sản chiếm nửa nước, đảng cộng sản công khai hoạt động.Trong CCRD, cộng sản đã giết hại, tù đày hàng trăm ngàn nông dân trong đó có nông dân nghèo và dán cho họ nhãn hiệu tư sản, địa chủ. Ngoài ra các cán bộ thuộc diện phong kiến, tư sản và có liên hệ với thực dân.
Tại miền Nam, tuy bị cộng sản đánh phá, chính phủ quốc gia đã bảo vệ được an ninh cho nhân dân. Dân chúng được tự do sinh sống. Một phần nông dân đã dùng cày máy, phân hóa học, thuốc trừ sâu trong  nông nghiệp. Việc chăn nuôi tuy không theo quy mô lớn như Âu Mỹ mà theo phương pháp tư nhân tự túc. Heo được nuôi bằng cám, gạo, được tắm rửa sạch sẽ.
Tại miền Bắc, cộng sản dùng chiêu bài chia  ruộng cho nông dân nhưng sau CCRD, mỗi nông dân chỉ được vài thước đất "con chó nằm ló đuôi ra ngoài". Được khoảng một năm, khoảng 1967-1968, cộng sản thu hồi ruộng đất, lập các HTX nông nghiệp, bắt dân làm nô lệ trong các nông trại tập thể. Cộng sản tố cáo tư sản bóc lột, địa chủ tàn ác nhưng cộng sản càng bóc lột tàn tệ trăm ngàn lần tư bản và địa chủ. Thời trước, nông dân làm rẽ, phải trả hoa màu cho địa chủ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, thường thì nông dân tại miền Trung được hưởng một nửa hoặc 2/3 lợi tức.Sau 1955, chính phủ Ngô Đình ban hành luật thu tô. Nội dung cải cách điền địa của Ngô Đình Diệm chủ yếu trong bốn đạo dụ:
Dụ số 2 (8/1/1955) quy định mức thu tô (giá thuê đất) tối đa và lãi suất mà điền chủ được áp dụng.Mức tô tối đa từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoạch cho ruộng làm 1 mùa / năm.Mức tô tối đa từ 15 đến 25% cho mùa gặt chính của ruộng 2 mùa / năm (Cải cách điền địa .Wikipedia).
 Dẫu sao, nông dân cũng hưởng được 75%-50% hoa màu, trong khi tại các HTX, cộng sản chiếm 90% lợi tức. Những nông dân lao động hạng nhất mỗi ngày được một ký lúa tức hơn nửa ký gạo. Nủa ký gạo tức hai lon sữa bò. Một nông dân ăn mỗi bữa hơn một lon gạo, không đủ cho ngày ba bữa. Ngoài ra không có tiền mắm muối,quần áo. Những một ký lúa này chỉ được trả vào cuối vụ mùa. Tại miền Bắc, sau khi lập HTX, cộng sản đưa máy cày về biểu diễn, được it lâu thì thu hồi. Dân chúng phải bón phân người trong canh tác nhưng dân Trung Kỳ cũng như Nam Kỳ không dám làm việc này. Nói chung, đời sống dân chúng rất khổ. Trong công trường, nông trường, công nông phải làm việc ngày đêm không nghỉ:
Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày nghỉ".
Chế độ cộng sản bất công. Trong khi giai cấp công nông lao động cực nhọc thì đói khổ, còn bọn nịnh hót, gian dối thì sung sướng:
Thằng làm thì đói,
Thằng nói thì no,
Thằng bò thì sướng"

Kinh tế HTX không có hiệu quả, vì mọi người làm chiếu lệ "Mười người khiêng một cộng rơm".Nông dân không tích cực vì đói, và vì thấy sức lao động của họ bị cộng sản chiếm đoạt:
Một người làm việc bằng hai,
Để cho cán bộ mua đài sửa sân"
Một người làm việc bằng ba,
Để cho cán bộ xây nhà sắm xe."
Một người làm việc bằng năm,
Để cho cán bộ vửa nằm vừa ăn."

Sau 1986, Việt cộng theo Trung Quốc, quay trở lại tư bản chủ nghĩa, kêu gọi tư bản đầu tư, bãi bỏ kinh tế chỉ huy thì giai cấp tư sản đỏ phát triển mạnh. Họ cướp tài sản công, cướp ruộng đất, nhà cửa của các giáo hội và nhân dân đem bán lấy tiền bỏ túi, khiến cho nhân dân mất nhà cửa trở thành dân oan. Họ và các nhà tranh đấu dân chủ bị cộng sản đánh đập tàn nhẫn, có người bị chết, một số phải ngồi tù. Công cuộc tranh đấu cho độc lập, tự do, dân chủ đang phát triển mạnh tại Việt Nam.


 IV.VĂN HÓA
Thời Pháp đô hộ, nước ta bắt đầu có báo chí. Ban đầu là báo chí của Pháp nhằm mục đích thông tin và truyền bá quốc ngữ cùng văn học, nghệ thuật của Pháp. Sau tư nhân Việt Nam cũng được ra báo, có loại văn học nghệ thuật, có loại tranh đấu chính trị.Thời VNCH, tại miền Nam có báo chí và nhà xuất bản tư nhân. Ai muốn viết gì thì viết miễn là đừng làm tay sai cho cộng sản. Cộng sản lợi dụng sự dễ dãi của chính quyền đã dùng báo chí để tuyên truyền phá hoại. Khi chưa cầm quyền, cộng sản đòi hỏi quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội đoàn nhưng khi đã nắm quyền, cộng sản độc quyền báo chí và xuất bản.
 Năm 1956, vừa tiếp thu Hà Nội, cộng sản còn để lại một vài tờ báo tư nhân và cho tư nhân ra báo. Nhân Văn, Giai Phẩm ra đời lúc này và bị đánh phá dã man. Những nhà văn trong phong trào này và những người liên hệ đều bị trả thù một cách dã man.Những văn thi sĩ có tinh thần dân chủ thì bị bỏ tù. Những tác phẩm văn học nghệ thuật thì bị chỉ trich gắt gao bởi những công an văn nghệ. Những tác phẩm nào không theo đường lối" hiện thực xã hội chủ nghĩa" nghĩa là nói láo, là tuyên truyền cho cộng sản đều bị chụp mũ " phản động, lãng mạn, đồi trụy."

Miền Bắc phải theo khuôn mẫu "Thép đã Tôi Thế Đấy "," Ruồi Trâu" của quốc tế cộng sản. Những tác phẩm của  Hồ Chí Minh, Tố Hữu,Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan ... đã trở thành sách giáo khoa trong nhà trường XHCN. Ca nhạc cũng phải theo đường lối tuyeên truyền.Tân nhạc với nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu, đây là đề tài chính của nhiều bài hát: Anh vẫn hành quân (Huy Du), Chào anh giải phóng quân (Hoàng Vân), Lời anh vọng mãi ngàn năm (Vũ Thành), Bài ca năm tấn (Nguyễn Văn Tý), Lá thư hậu phương (Phạm Tuyên), Trai anh hùng, gái đảm đang (Ðỗ Nhuận), Bài ca may áo (Xuân Hồng), Hành khúc giải phóng (Lưu Nguyễn Long Hưng, tức Lưu Hữu Phước), Giải phóng miền Nam (Huỳnh Minh Siêng, tức Lưu Hữu Phước)... trong đó bài Giải phóng miền Nam được dùng làm bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1960 tới năm 1975.

Nhân dân miền Nam thích văn nghệ. Các văn nghệ sĩ tự do  sáng tác và biểu diễn.Đa số thích tân nhạc. Đài phát thanh và truyền hình được nhân dân ưa thích vì có tính nghệ thuật cao với các ca sĩ Thái Thanh,  Thanh Lan, Hoàng Oanh, Thái Châu, Hùng Cường, Mai Lệ Huyền, Duy Trác, Duy Khánh, Thanh Thúy Thanh Tuyền. Miền Nam cũng yêu nhạc tiền chiến và các nhạc sĩ Phạm Duy, Văn Cao, Văn Phụng.
 Nhân dân miền Nam rất thích Cải lương nhưng sau 1975, đa số nhân dân bị thất nghiệp và ngồi tù, không có tiền đi xem cải lương cho nên bộ môn này bị đào thải. Sau 1975, Cộng sản mở các trung tâm ca nhạc với các ca sĩ miền Bắc như Tô Long Phương với các bản Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây,Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Những cô gái đồng bằng sông Cửu LongCô gái Sài Gòn đi tải đạn thì chẳng ai đi nghe. Sau cộng sản bỏ nhạc cộng sản, hát nhạc vàng, nhạc Âu Mỹ thì dân chúng nhiệt liệt ủng hộ. Từ đây, nhạc tình cảm chiếm ngôi vị cao quý. Sau 1975, dân Bắc Kỳ đổ xô vào Nam mua sách báo, tiểu thuyết , kinh Phật. Về quân sự, miền Nam tạm thời thoái lui, nhưng văn hóa miền Nam đã ngự trị miền Bắc.

TỔNG QUÁT


So với cộng sản, quân chủ và thực dân dễ sống hơn.Thi sĩ  Hữu Loan viết :
Một loạt các quyền tự do đã tồn tại ngay cả dưới chế độ thuộc địa. Hãy để tôi liệt kê một số điểm đáng nhớ trong Pháp chiếm Việt Nam vẫn còn trong bộ nhớ của nô lệ này: Đầu tiên, tự do bầu cử. Hầu hết các cơ quan hành chính là đối tượng phổ thông đầu phiếu. Các quan chức Pháp tỉnh chỉ đơn giản là đóng vai trọng tài.  Khác thấp hơn [Việt Nam] các quan chức không dám nhận hối lộ.Mọi người có thể kiện và thậm chí còn buộc tội các quan chức từ các vị trí của họ. Quan chức tham nhũng đã khinh miệt bởi tất cả mọi người. Tham nhũng dẫn đến thiệt hại cho đời sống, thậm chí còn tồi tệ hơn. Một viên quan ở một huyện ở Huế tham nhũng thì cả nước đều biết.
Điều thứ hai là có tự do báo chí, và quyền phát biểu tư tưởng
 Các cá nhân được phép thành lập báo chí riêng của họ. Họ từ chối chấp nhận trợ cấp của chính phủ. Trong số các tạp chí nổi tiếng nổi tiếng là tờ Nam Phong ( Gió Nam) Tạp chí, Phụ Nữ) Tạp chí, Phụ Nữ Thời Đàm, Tạp chí, Tiếng Dân , Phong Hóa Ngày Nay  vv. Trong số những nhà văn có uy tín và các phóng viên là Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Thụy An, Huỳnh Thúc Kháng, etc.
 Các thí sinh bất kỳ vị trí nào phải tham gia kỳ thi vòng loại. Những người có tài năng sẽ vượt qua. Lương của người lao động đã đủ để trả tiền cho sinh sống và một số tiền tiết kiệm của họ. Một giáo viên của hai lớp sơ đẳng và dự bị, thu được 12 piasters một tháng, tương đương với 2 "chỉ " của vàng ngày hôm nay.
Sinh viên không phải nộp học phí. Chỉ có giáo dục đại học phải nộp một đồng một tháng. Học sinh giỏi đã được trao học bổng, thậm chí học bổng du học ở  bên Pháp. Bệnh nhân được cho thuốc tại trạm xá huyện. Bệnh viện tỉnh đã dành khu vực cho bệnh nhân nghèo đã được điều trị và ăn uống miễn phí. Những bệnh viện này đã được biết đến như bệnh viện từ thiện.
Ngày nay, y đức từ lâu đã biến mất. Các bệnh viện ở khắp mọi nơi lấy tiền của bệnh nhân nhưng chắc không có hiệu quả điều trị. Chế độ thực dân Pháp thực sự là khủng khiếp, nhưng nó vẫn là một giấc mơ xa cho người dân dưới các chế độ vỗ ngực khoe khoang của họ về độc lập và quay lại đàn áp người dân của họ
.
( TÁC PHẨM HỮU LOAN).

Nguyễn Chí Thiện  wrote:

Ôi thằng Tây mà trước khi người dân không tiếc máu xương đánh đuổi.

Nay họ xót xa luyến tiếc vô chừng.

Nhờ vuốt nanh của lũ thú rừng.

Mà bàn tay tên cai trị thực dân hóa ra êm ả [1]



Trần Độ so sánh lực lượng an ninh xã thôn  ngày xưa và bộ máy công an cộng sản ngày nay:

 Ngày xưa còn bé, ở nhà quê, tôi chỉ thấy làng xã tôi có một trương tuần và 4 anh tuần phiên. Ngày nay tôi thấy ở phường có công an phường có trụ sở, có mấy chục người và chỉ huy là một cấp tá; bây giờ mình nhiều sĩ quan thật!.....Lực lượng Công an nhân dân hiện nay được giới thiệu như một lực lượng của nhân dân, trong nhân dân và vì nhân dân. Nhưng sao mà trong thực tế nó lại hay giống nhưng cái ngày xưa ở ta, và giống các nước tư bản quá. Nhiều người nhìn vào nó, thấy rõ nó tiêu biểu cho một lực lượng đàn áp và khủng bố. Dân sợ nó nhiều hơn và cho đó là một nghề "thất đức" và quả nhiên nó làm cho nhiều người sợ thật:

Nó có một lực lượng cảnh sát chiến đấu trang bị rất sắc bén và hùng hậu. Nó được trang bị tất cả những công cụ khủng bố hiện đại và phong phú hơn cả các lực lượng bảo vệ chế độ cũ (phong kiến và thực dân) như dùi cui, súng, vòi rồng phun nước, hơi cay, khiên và côn, xe phân khối lớn, chó nghiệp vụ v.v...Nó có một hệ thống trụ sở, đồn, nhà giam và nhà tù và đều là những chỗ đáng sợ, ít ai vui vẻ muốn tới đó. Trình độ nghiệp vụ của nó rất cao: thẩm vấn, hỏi cung, theo dõi, điều tra, phong tỏa thư tín, nghe trộm điện thoại v.v... yêu cầu dân và tìm người đưa tin chỉ điểm. Hỏi cung thì mớm cung, gài bẫy, tạo chứng cớ, bắt nọn và hành hạ người bị hỏi cung rất kịch liệt và dài ngày. Tất cả những điều nói trên đều là những điều mà khi ta chưa có chính quyền thì ta nguyền rủa, chống đối, khinh bỉ. Lúc đó những chữ mật thám, tay sai, chỉ điểm được nhắc đến như những gì xấu xa và lý tưởng của ta là quét sạch nó như quét sạch những rác rưởi ở chợ. Mà ngày nay ta lại sử dụng nó tích cực và ca ngợi, bênh vực nó ghê gớm



Trong Đêm Giữa Ban Ngày, Vũ Thư Hiên  ghi lại lời mẹ ông, bà Vũ Đình Huỳnh, người đã có kinh nghiệm với mật thám Pháp đã đưa ra một nhận định để đời:  Chúng nó đến, con có tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám Pháp nữa kia!  ....Thời Pháp thuộc, mẹ còn chống chọi được, bọn thực dân tiếng thế chứ không đến nỗi ác như bọn này. Bây giờ khó lắm, mọi sự làm ăn đều khó, chúng nó bít kín mọi đường, bắt mọi người muốn sống phải phụ thuộc chúng nó .[2]


Trần Độ  kể li lời ch họ của ông:" Tôi có một bà chị có chồng là tù nhân trong thời đế quốc phong kiến, nay có con rể là tù cách mạng. Chị có kể chuyện về hai cuộc đi thăm tù : trước đi thăm chồng, nay (sau năm 1975) đi thăm con rể. Chị có một ấn tượng rất nặng nề khi phải so sánh hai cuộc đi thăm ấy : tù nhân thời nay cực hơn thời đế quốc (BÚT kÝ * MỘT CÁI NHÌN TRỞ LẠI I, 4)



Trần Độ viết ":Cuộc cách mạng ở Việt Nam đã đập tan và xoá bỏ được một chính quyền thực dân phong kiến, một xã hội nô lệ, mất nước, đói nghèo, nhục nhã. Nhưng lại xây dựng nên một xã hội chưa tốt đẹp, còn nhiều bất công, nhiều tệ nạn, một chính quyền phản dân chủ, chuyên chế, của một chế độ độc đảng và toàn trị, nhiều thói xấu giống như và tệ hơn là trong chế độ cũ (TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN II, 3)
 

Sau đây là những đoạn văn so sánh tù thực dân và tù cộng sản.Trước tiên là việc Trần Văn Giàu ngồi tù thời thực dân: 
 Phải thừa nhận rằng, ở “biệt thự S”, suất ăn của chúng tôi thịt cá nhiều hơn bình thường, mỗi bữa ăn đều có miếng cơm cháy vàng tươi, dòn rụm, chỉ những ai đã lãnh án tử hình mới được ăn (trang12)



Ở căng Tà Lài cuộc sống không đến nỗi cực khổ quá, có thể nói thảnh thơi là khác, được như vậy không phải do chế độ của trại giam mà do tổ chức tù nhân của chúng tôi; công việc khoán phần lớn ở trong rừng, chỉ có mã tà đi theo cốt để giữ không cho chúng tôi trốn hơn là để thúc bách tù làm.. .

 .Ăn, thì gạo thừa, cá khô đủ; chúng tôi còn đánh cá trên sông, mua thịt rừng, rượu cần ở đồng bào thiểu số. Rau thì thiếu gì trong rừng. Thuốc men không biết đâu là đủ, nhưng sốt rét thì có ký ninh, uống nước thì có nước sông lọc bằng thuốc tím. Ở, thì nhà tranh vách nứa, tự làm, nhưng được phát mùng, phát chiếu. Tây nó cốt được yên bằng việc tách tụi tôi khỏi nhân dân, không cốt được kết quả lao động khổ sai.( TRẦN VĂN GIÀU * HỒI KÝ I  ,42) 


  Qua vài trang nhật ký của Trần Văn Giàu, ta thấy tù nhân ăn uống thuốc men đầy đủ, không bị tra tấn đánh đập dã man. Có thể nói ở tù mà như đi dạo chơi. Còn trong trại tủ cộng sản, họ dùng cái đói, cái rét để hành hạ và kiềm chế tù nhân.Đa số tù nhân người quốc gia đều viết về cái đói trong trại tù cộng sản. Phan Lạc Phúc trong tác phẩm Bè Bạn Gần Xa viết như sau:


 Lũ tù cải tạo chúng tôi ra Bắc nếm mùi xã hội chủ nghĩa, đói quanh năm suốt tháng, đói triền miên, đói dài dài, miếng sắn, miếng khoai là ước mơ to lớn nhất. Từ sự kiện này, tôi mới nhận ra rằng cái nghệ thuật cao tay của người Bôn sê  vich trong việc quản trị là nghệ thuật nắm cái dạ dày. Ngày ấy, ngoài Băc chế độ tem, phiếu còn đang thịnh hành, lương thực còn do tay nhà nước quản lý. Anh em tù lên huyện Phù Yên lĩnh gạo về cho hay rằng nhân dân không ai có quyền được có quá 5 ký gạo trong nhà  [3] 

Hà Thúc Sinh viết:

" Khoai mì này là loại khoai già, được xắt cả vỏ và phơi khô lâu ngày. Vì để cả vỏ, và lại được phơi khô, do đó khi nấu lên khoai mì mang một màu tím than quắt queo như đống cứt chó bị dầm mưa dãi nắng nhiều ngày với một mùi vị vừa hôi mốc vừa nhầm nhậm đắng như có lộn một hai vị thuốc bắc. Được phát kèm với bát khoai mì ân huệ của bác và đảng là ít cộng rau muống, hoặc một tí bí ngô, hoặc tí củ cải kho nước muối  [3] 


 Cái tàn ác thứ hai là bắt lao động quá sức trong khi thực dân không bắt tù nhân lao động. Hà Thúc Sinh kể cho ta nghe một cảnh đốn cây và kéo cây về trại:

Đội 17 hiện có công tác phụ trách kéo những thân cây lớn đã được anh em đốn ngã. Những thân cây này nhiều khi có đường kính hơn nửa thước tây và dài cả 20 thước phải kéo qua địa thế gồ ghề những gò mối, bụi rậm và ao tù làm cực khổ vô cùng. Những thân cây này được kéo thẳng về khối mộc nằm gần bệnh xá cho khối mộc khai thác. Nhà 2 đội 17 và nhiều nhà khác có cùng công tác, chỉ việc kéo với chỉ tiêu 8 cây mỗi ngày, kéo một đoạn đường rừng dài 500 thước và kéo dọc con đường chính của căn cứ vào tới trại mộc quãng một cây số [4]


Cái tàn ác thứ ba là  cộng sản còn đánh người và dùng cực hình tra tấn. Hà Thúc Sinh kể chuyện một công an trẻ dùng báng súng đánh các bác sĩ già nua, trong đó có bác sĩ Triển và Lý Trung Dung:
Mày! Thằng già này! Từ lâu tao đã chú ý đến cái lông mày rậm rạp của mày.Nội cái lông mày thôi trông cũng đủ muốn đánh rồi!.  .  .  Không hiểu ông trả lời ra sao mà thình lình thằng vệ binh xốc lại đập luôn một báng súng vào mặt ông [4]


Và sau đây là môn "tuốt nứa" của trại Đầm Đùn do Trần Văn Thái thuật lại:

 Đầu Trâu nhấc cây nứa đã lựa rồi bảo thợ rèn:Bổ làm tư.Thợ rèn ngồi xuống lúi húi sửa soạn.. .. Tù thợ rèn thận trọng nhấc một trong bốn mảnh nứa, vòng ra sau lưng 983, lom khom cúi xuống, lựa khe hở giữa hai bắp đùi, đút đầu nứa cho lọt qua chừng gang tay. Y ngắm nghía sửa lại cho hai mép nứa ngậm đều vào bắp đùi nạn nhân. Mặc dầu 983 gầy gò nhưng vì hai đầu gối bi cột khít  với nhau nên hai cạnh của mảnh nứa úp chặt vào thớ thịt, chỉ khẽ cử động là tinh nứa cắt đứt bắp đùi liền. Mãy người tù trong phòng tra tấn lấm lét nhìn nhau rợn người. Họ thừa biết tinh nứa sắc là đường nào. Hai cẳng chân Toàn run lẩy bẩy, đứng không vững. Trong mảnh nứa sắc sắp cắt lem lém da thit người đồng cảnh, anh rợn khắp chân thân liên tiếp. . 
   .   Một tiếng rú rùng rợn nổi lên, xiên vào óc mọi người..  .  .Y đảy ngược mảnh nứa để ấy đà tay rồi giật xuôi mạnh một cái. Tức thì 983 thét lên một tiếng rùng rợn.Giám thị lại lùi theo một tốc độ đồng đều, đến đoạn chót của mảnh nứa dài thì vừa vặn ngưng như đã có cỡ tay. .(5)

 Qua những so sánh trên, ta thấy cộng sản dã man nhất, tàn bạo nhất. Thực dân, đế quốc tuy ác nhưng vẫn có it nhiều tính nhân bản. Nói tóm lại, lý thuyết của Marx sai lầm, dối trá, đảng cộng sản từ đầu cũng đã sai lầm dối trá. Từ trước cho đến nay, thế giới đã hiểu rõ chủ nghĩa Marx gian xảo, những lãnh đạo cộng sản như Lenin, Stalin, Mao, Hồ, Pol Pot là những con thú mang lốt người, và đảng cộng sản là một đảng cướp.

Trong lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam, có những trang đen tối là lịch sử thời cộng sản. Đó là những trang sử chứa đầy máu và nước mắt của một nửa thế giới bất hạnh, trong đó có Việt Nam chúng ta. Cộng sản Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ, còn lại Trung Quốc, Việt Nam, Cambodia, Lào, Tây Tạng, Bắc Hàn. Chúng ta phải đoàn kết với nhân dân thế giới đang tranh đấu chống Trung Cộng xâm lược. Chúng ta phải quyết tâm tranh đấu để giải phóng chúng ta và giải phóng nhân loại khỏi gông cùm và tai họa cộng sản.

Trần Độ là một vị tướng của cộng sản nhưng ông là người cộng sản giác ngộ
Cũng như Nguyễn Chí Thiện, Hữu Loan, bài thơ ngắn của ông là một lời phê phán ngay thẳng vào chế độ cộng sản:
Những mơ xoá ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện
Ai hay, biến đổi, ác luân hồi.

TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN I

Trên đây là những so sánh giữa hai phe cộng sản và quốc gia Việt Nam. Nhìn xa hơn, chúng ta sẽ thấy cộng sản gây tai họa cho hơn nửa thế giới. Các nhà văn, nhà chính trị đã nhận định và so sánh hai phe cộng sản và tư bản như sau:


Triệu Tử Dương (1919-2005) là một người cộng sản giác ngộ. Ông khác hẳn những cộng sản giáo điều.Trong Đại hội Đảng năm 1987 Triệu Tử Dương tuyên bố Trung Quốc đang ở trong "một giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội" có thể kéo dài 100 năm. Theo tiền đề này, Trung Quốc cần thử nghiệm nhiều hệ thống kinh tế nhằm kích thích sản xuất. Triệu Tử Dương đã đề xuất tách biệt các vai trò của Đảng và Nhà nước, một đề xuất từ đó đã trở thành chủ đề cấm kỵ. Theo các nhà quan sát phương Tây, 2 năm làm Tổng bí thư của Triệu Tử Dương là thời gian mở cửa nhất trong lịch sử Trung Quốc hiện đại—nhiều hạn chế về tự do ngôn luận và tự do báo chí đã được nới lỏng, cho phép giới trí thức tự do đề xuất các cải thiện cho đất nước.(Wikipedia, Triệu Tử Dương)

Trần Độ nhận định rằng đảng cộng sản là tai họa, làm chậm bước tiến của dân tộc: 
Trên thế giới có đến hơn 100 nước không cần chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội, không cần có Đảng cộng sản “tài tình” và “sáng suốt” mà cứ phát triển đến trình độ giàu có, văn minh cao. (TRẦN ĐỘ * NHẬT KÝ RỒNG RẮN I ,1) Nguyễn Kiến Giang vẽ lên toàn bộ cảnh vật bi thảm của Việt Nam sau ngày hòa bình:

Khủng hoảng trong lĩnh vực kinh tế biểu hiện chủ yếu ở tình trạng lạc hậu kinh tế và kỹ thuật của đất nước. Trong khi nhiều nước trên thế giới đang bước qua giai đoạn văn minh hậu công nghiệp (điện tử - tin học), thì nước ta vẫn chưa ra khỏi giai đoạn văn minh tiền công nghiệp (văn minh nông nghiệp); sản xuất không đủ ăn (1.932 kilôcalo mỗi người mỗi ngày so với yêu cầu 2.300 kilocalo); không tạo được nguồn tích luỹ bên trong đáng kể, chưa đủ bảo đảm tái sản xuất giản đơn, chưa nói tới tái sản xuất mở rộng, trong khi sức ép dân số và thoái hóa môi trường sinh thái ngày càng tăng; lạm phát vẫn ở mức nghiêm trọng; mức tăng giá cả khá cao; tài sản quốc gia ngày càng giảm sút, không ít xí nghiệp đứng trước nguy cả bị mất dần tài sản, kể cả tài sản cố định; ngân sách thiếu hụt nghiêm trọng, dù mức chi ngân sách cho các hoạt động kinh tế và văn hóa rất thấp; nạn buôn lậu hoành hành, thị trường hỗn loạn...SUY TƯ 2 * KHỦNG HOẢNG & LỐI RA
   Những tính toán gần đây cho biết các doanh nghiệp nhà nước phần lớn đều thua lỗ, chỉ có 21% có lãi, [..]. Hơn nữa, các doanh nghiệp nhà nước đang mắc nợ tới khoảng 200 ngàn tỉ đồng, xấp xỉ 1/2 tống sản phẩm quốc dân (SUY TƯ 4 , 3).

Richard Pipes nhận định về hai nước Triều Tiên như sau:
Ở nước Bắc Triều Tiên cộng sản, trong những năm 1990 phần lớn trẻ em bị mắc các căn bệnh do đói ăn mà ra; theo các số liệu hiện có, trong nửa sau của thập kỉ 1990 gần hai triệu người Bắc Hàn đã bị chết vì đói. Tại nước này tỉ lệ tử vong ở trẻ em sơ sinh là 88 trên 1000, trong khi ở Hàn Quốc là 8 trên 1000; tuổi thọ của đàn ông Bắc Hàn là 48,9 trong khi ở Nam Hàn là 70,4. Tính the GDP mỗi người  Bắc Hàn  $900  còn Nam Hàn $ 13.000 (Pipes, 152)
Milovan Djilas viết:"  Ta biết rằng năng suất là thấp và các nhà kinh tế Nam Tư tính ra rằng (dĩ nhiên là trong giai đoạn mâu thuẫn với Liên Xô) ngay trên những cánh đồng màu mỡ của Ukraine năng suất cũng không được 1 tấn một hecta. Số lượng gia súc và gia cầm trong giai đoạn hợp tác hoá cũng giảm hơn 50%, và cho đến nay vẫn chưa đạt mức như thời nước Nga Sa Hoàng lạc hâu. (GIAI CẤP MỚI 4 ,1, 58)

 Barry Loberfeld viết về kinh tế Liên Xô :" Trong khoảng 1861, nông dân là nông nô, nhưng có cây trồng và gia súc. Nhưng sau đó, khoảng 1935,  canh tác tập thể, một nông trường xuống cấp, nông dân vẫn là nông nô, một hộ gia đình nông dân thu được  từ 247 rúp một năm, chỉ đủ để mua một đôi giày  [6].

 KẾT LUẬN

Chủ nghĩa Marx được xây dựng trên triết thuyết của Marx. Triết thuyết của Marx lại được Lenin phù trợ nhưng tập thể nào cũng đưa đến dị biệt và mâu thuẫn, nhất là chủ nghĩa Marx. Dị biệt và mâu thuẫn là do lý luận của Marx, Lenin tự thân mang nhiều hủy thể. Mầm hủy thể đó là sự kết hợp của ước mơ, tưởng tượng và dối trá, là sự mâu thuẫn giữa lý thuyết và thực hành, mâu thuẫn giữa thiện và ác. Hủy thể đó là tham, sân, si. Tự thân có hủy thể, bên ngoài cũng đầy những yếu tố hủy thể xâm nhập. Có áp bức là có tranh đấu, tranh đấu gắn liền với áp bức và tiêu diệt áp bức.Andre Malraux  nói:"Cộng sản phá hủy dân chủ, Dân chủ cũng phá hủy cộng sản. [7]

  Chính lực lượng dân chủ sẽ tiêu diệt cộng sản để xây dựng thế giới hòa bình và thịnh vượng.

___

CHÚ THICH

[1].Nguyễn Chí Thiện (1939-2012). Hoa Dia Nguc II, ấn bằng hai sinh ngữ, then complete in Vietnamese in 2006.
[2]. Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày. Văn Nghê. California. 1997, tr.28, 139.
[3].Phan Lạc Phúc . Bè Bạn Gần Xa. (bút ký, Văn Nghệ Hoa Kỳ, 2000. 2nd ed. Australia 2001,78.
[4].Hà Thúc Sinh .Đại Học Máu, ký, Nhân Văn USA, 1985. 2ed.USA, 1985.tr. 463., 637,721
[5].Trần Văn Thái. Trại Đầm Đùn" .Nxb Nguyễn Trãi, 1969, Sài-gòn, Việt-nam
[6]. Barry Loberfeld FrontPageMagazine.com | June 12, 2006
[7]. Communism destroys democracy. Democracy can also destroy Communism.http://www.brainyquote.com/quotes/authors/a/andre_malraux.html

No comments: