TRUYỆN TÙ &VƯỢT BIÊN * VIỆT CỘNG & TRANH VIỆT NAM
PHƯƠNG DUY * TRUYỆN TÙ CẢI TẠO
LẶN LỘI ĐƯỜNG XA
Vào truyện – Trên khu cải tạo Bù Gia Mập có một con đường đất đỏ dài trên dưới hai mươi cây số, chạy dài từ khu kinh tế mới Minh Hưng, quận Bù Đăng, đi vào sóc Bombo,vòng qua Đức Hạnh, Bù Đốp. Con đường được thiết lập từ thời Đệ Nhất cộng Hoà của Chính Phủ Ngô Đình Diệm với dự tính khẩn hoang lập ấp, thành lập các khu dinh điền, vừa để chế ngự một an toàn khu của phe Cộng Sản VN. Kế hoạch đã bị bỏ dở sau sự sụp đổ nền Đệ nhất Cộng Hoà. Con đường bị bỏ hoang. Nhiều đoạn, cây rừng mọc lan ra che phủ hết,đi dưới đường nhìn lên không thấy bầu trời.. Con đường nắng lên đầy bụi đỏ, mưa xuống lại lầy lội trơn trợt. Đàn bà con gái lặn lội thăm con thăm chồng, tất cả đều phải ba lô trên vai, dép guốc cầm tay mới ráng lết đi được... Trong truyện ngắn này, người viết xin ghi lại một vài hình ảnh nhỏ bé như một lời tri ân của đứa con đến các bà mẹ, lòng biết ơn của người chồng đến các bà vợ Việt Nam tuyệt vời, một đời vất vả hy sinh cho người thân yêu của họ trong khoảng thời gian cùng quẫn khó khăn nhất của xã hội miền Nam.
Nhận được thư của Thoại gửi về qua tay chị Trang, chị mới đi thăm chồng về, Giang cảm thấy lo lắng. Nói là lá thư cho có vẻ trang trọng. Thực ra, đó chỉ là một mảnh giấy nhỏ nhàu nát. Trong thư, Thoại thăm hỏi gia đình và mẹ con nàng vài câu, thêm vài câu vắn tắt cho biết anh đang bệnh nhiều, cần thuốc thang chữa trị. Thời buổi khó khăn, tìm kiếm cái ăn cho hai mẹ con đã thật vất vả. Mà cả nước đều thế, chứ đâu riêng gì gia đình nàng. Mấy năm trời đi tù cải tạo, Thoại biết hoàn cảnh gia đình không khá, anh chưa bao giờ đòi hỏi xin xỏ gì. Nay tình hình chắc phải tồi tệ lắm mới có chuyện viết thư nhắn gửi như vầy.
Vậy nàng phải thu xếp lên rừng một chuyến. Không đi, lỡ chồng có mệnh hệ gì, có lẽ sẽ ân hận suốt đời. Công việc làm ăn của Giang bây giờ càng lúc càng khó khăn. Ngành may mặc lúc trước gia công cón có đồng ra đồng vào. Kể từ khi bị buộc vào tổ hợp, rồi tiến lên hợp tác xã, chỉ còn đồng lương cố định chết đói hàng tháng cộng với ít tem phiếu mua gạo hẩm, nước mắm thối. Dạo sau này, đến gạo hẩm cũng không còn.
Tháng tháng mang tem sổ đến chỉ mua được khi thì ít mì sợi, lúc vài ký bo bo loại thực phẩm cho ngựa ăn. Nhà nước gọi nó là cao lương, nhưng nuốt vào miệng thế nào thì ỉa ra nguyện hột thế ấy. Vậy mà có khi cũng không có, phải nhận mớ ngô vàng cứng như đá hoặc bao củ lang củ sắn (khoai mì) hư thối hơn nửa. Thời những năm bốn mươi lăm, nghe nói miền Bắc người chết đói hàng loạt, nhưng hồi ấy nàng chưa sinh ra nên chẳng biết.
Còn lớn lên ở cái miền Nam nhiều lúa lắm gạo này, nàng chưa thấy có thời kỳ nào thế thảm như vậy. Lại còn cái vụ phải xin phép nghỉ vài ngày để đi thăm chồng. Rắc rối chứ đâu có đơn giản. Có nên về nhờ vả bố mẹ tí chút nào không? Cả hai bên bố mẹ đều đã già, ruộng vườn co cóp mấy chục năm đã bị tịch thu hết ngay từ những ngày đầu xã hội chủ nghĩa. Số còn lại giờ cũng phải vào tập đoàn làm ăn tập thể, chả còn gì mà trông mong. Lấy gì để mua sắm lên thăm Thoại đây? Giang đành ngó quanh quất trong nhà coi có gì còn tí chút giá trị, có thể tải được ra chợ.
Của đi thay người, nàng ngẫm nghĩ. Cái khánh vàng với bốn chữ Trăm Năm Hạnh Phúc lớn có con rồng và con phượng bao quanh thật lộng lẫy. Quà cưới của bạn bè tặng Thoại ngày xưa, dễ có được vài chỉ, đem bán đi chắc Thoại buồn, nàng cũng buồn. Nhưng thời buổi, cái khó bó cái khôn. Túng phải tính cứ biết làm sao? Giang ngậm ngùi lôi nó ra khỏi cái khung kiếng. Kể từ ngày “giải phóng”, số phận nó cũng giống như Thoại, phải chui vào nằm trong một xó kín trong nhà, không được ngồi trong tủ chè nữa. Chưng ra cho chúng nó dòm ngó, có mà chết. Hôm nay trong lúc túng cùng, thôi thì vĩnh. biệt. Giang gói nó lại bỏ vào giỏ rồi đem ra chợ. Vấn đề tài chánh coi như giải quyết xong.
Không phải cầu cứu tới ai, nhưng cũng nên cho bố mẹ Thoại biết một tiếng. Thoại đang đau ốm cần giúp đỡ. Bố Thoại có nghề y tá dạo, ông biết về thuốc men, thế nào chả có chút đỉnh cho con, còn mẹ ít nhất cũng có ít thức ăn cây nhà lá vườn cho con trai bà sống cầm cự qua ngày.
Tiện thể, nàng kéo thằng Quốc, em trai nàng đi theo. Nó còn trẻ, mạnh khoẻ nhanh nhẹn đỡ đần tay chân chút ít bớt vất vả. Kinh nghiệm của kỳ đi thăm nuôi lần trước vẫn còn nguyên trong trí. Dạo ấy Giang đi cùng mẹ chồng, may mắn liên lạc được ít gia đình rủ cùng đi chung, nương tựa, giúp đỡ khuyến khích nhau. Nếu không chắc đã bỏ về nửa đường. Xe đò từ Sài Gòn đi Phước Long, tới ngã tư Minh Hưng là điểm dừng cuối. Từ đây không còn xe chở khách, ngoại trừ xe bộ đội.
Nhưng xe của “quân đội nhân dân” thường ít khi cho nhân dân đi quá giang. Có lẽ có muốn cũng không còn chỗ, vì hàng ngày chả có mấy chuyến. Và chuyến nào trên xe cũng thường đầy ắp. Tới Minh Hưng trời đã xế chiếu. Muốn vào tới các trại cải tạo lao động ở trong rừng còn phải cuốc bộ rất xa theo con đường Mười.
Trại của Thoại ở gần nhất cũng cách trên mười cây số. Tay xách nách mang, có gia đình còn mang theo con nhỏ không biết làm sao để đi. Cuối cùng phải nhờ vả đến người dân địa phương, những người trong vùng kinh tế mới. Họ rành rẽ đường đi nước bước. Họ, có lẽ, trước đây cũng từ các thành phố đến, nhưng sau một thời gian cực khổ, đã quen lam lũ. Vả lại, đó là cơ hội cho họ kiếm thêm được ít đồng tiền đã trở nên rất hiếm hoi quý giá trên rừng này. Trẻ nhỏ thì dẫn đường. Người lớn thì nhận chuyên chở giùm hành lý.
Họ chịu hy sinh nhiều giờ để vừa giúp đỡ vừa có thêm phần phụ giúp gia đình. Giá cả thỏa thuận xong. Có gia đình cả nhà cùng đi làm hướng dẫn viên một loạt. Đoàn người bắt đầu cất bước từ lúc xế chiều, khi nắng còn đổ gay gắt. Thi thoảng, một chiếc molotova chạy ngang làm tung bụi đỏ mịt mù. Cứ cách quãng dăm bảy trăm thước, đoàn người phải dừng lại nghỉ. Đến được láng trại đầu tiên thì trời đã tối mịt. Mọi người mệt mỏi rã rời. Đoạn đường chỉ hơn mười cây số mà đi tới gần năm tiếng. Đã vậy, khi còn choạng vạng trời lại đổ ập cơm mưa.
Đường đồi lên xuống đã gập ghềnh, bây giờ thành trơn như bôi mỡ. Người đi thăm nuôi toàn là đàn bà con gái chưa quen với những con đường đất trơn trợt, guốc dép cởi ra cầm trên tay mà vẫn té lên ngã xuống, thật khổ ải. Ba lô trĩu nặng bờ vai nhỏ, Mưa lạnh đường trơn, chân đất vương Lặn lội thân cò pha nắng bụi, Đường xa lặng lẽ đến thăm chồng. Lần này, chuyến đi đột xuất, không có ai cùng đi, Giang nghĩ mình nên chuẩn bị kỹ lưỡng. Nàng về quê mang theo lá thư của Thoại cho bố mẹ đọc, cũng may quê Thoại gần thành phố, chỉ chừng hơn tiếng đồng hồ đi xe đò, có thể đi về trong ngày. Gần như dự đoán của Giang, Bố Thoại biết tình trạng sức khoẻ của con, có dự trữ sẵn mớ thuốc Thoại cần, nàng sẽ mua thêm.
Ông gửi kèm theo mấy hộp sữa đặc, một mặt hàng khá hiếm lúc này, cho con trai bổi dưỡng. Bà mẹ thì chuẩn bị một ít ruốc, một hộp mỡ, đậu phộng cây nhà lá vườn. Bà còn bảo mang theo ít cây trái trong vườn. Giang bảo mẹ chồng: - Mẹ đã thấy rồi. Đường xá đi lại rất khó khăn, Con đâu thể mang vác nhiều. - Thì cũng phải có gì cho nó chứ. Chả lẽ lên thăm nuôi chồng tay không. - Bây giờ thế này. Mẹ biết gia đình con, con cái còn nhỏ dại, đời sống cũng khó khăn lắm. Bố mẹ bây giờ già quá rồi. Thời buổi này chẳng làm gì ra tiền.
Thằng Thoại cũng cần chút ít phòng thân. Mẹ không có tiền cho, con cố mang ít quà của mẹ. Phần mày không cần mua sắm nữa, ráng chạy vạy dấm duí cho nó vài đồng. Bà nói mãi. Giang đành chấp nhận mang theo quà của mẹ, ngoại trừ trái cây hoa quả quá nặng nề. Nhưng bà bắt buộc cầm đi mấy cân bột, đậu xanh và ít đường thẻ. Bà bảo trong tù chúng nó thiếu thốn nên thèm ngọt. Nhà có sẵn, ráng mang đi cho bạn bè anh em nó có dịp “liên hoan”.
Thằng Quốc đang lúc rảnh rỗi, cũng sẵn sàng lên rừng. Có nó đi theo giúp đỡ, Giang quyết định cho con đi cùng. Thằng Xuân chưa đầy ba tuổi nhưng lanh và ngoan, có thể yê n tâm. Nên cho nó biết mặt bố. Kỳ trước lên rừng, nó chưa được đi vì nàng chưa biết rõ đường đi nước bước. Bây giờ đã có kinh nghiệm, thêm thằng Quốc bên cạnh. thêm tay thêm chân. Thoại chỉ mới gặp con một lần ở Trảng Lớn. Lúc ấy, thằng Xuân mới mấy tháng chưa biết gì. Hai cái ba lô đã chất cứng, đồ đạc bên ngoài vẫn còn nhiều, không biết nhét vào đâu. Thứ nào nàng cũng thấy cần cho chồng. Quà cáp của bố mẹ và thuốc men tối cần thiết không thể thiếu, dầu ăn, bột ngọt,tôm khô mặt hàng tồn trữ chiến lược không thể bỏ lại.
Còn mấy gói thuốc lá và bánh thuốc lào này thì tính sao? Giang thấy dạo sau này Thoại ngày càng ốm yếu, ho hen luôn miệng, muốn khuyên chàng bỏ hút thuốc đi mà biết nói như thế nào? Rừng núi khí hậu thời tiết lạnh lẽo, thân phận người tù, xa vắng gia đình, cha mẹ vợ con đã nhiều năm, rượu chè đã không có, chỉ còn làn khói thuốc cho ấm lòng, vơi đi nỗi nhớ nhung gia đình. Bỏ thì thương, vương thì tội. Vả lại, không có thuốc lào thuốc lá thật thì họ lại đi hút vớ vẩn những lá cây rừng độc hại thì còn nguy hiểm hơn. Thoại đã chẳng từng kể anh và các bạn tù đã dùng xác bã trà làm thuốc hút đó ư?
Trà khô được pha uống đến khi nước pha trắng gần như nước lã mới đem phơi khô, tẩm vào nước điếu đen thui để thành thuốc hút, chẳng ngon thì, “không mỡ xài đỡ đèn cầy”, cũng tạm ấm lòng “ngục sĩ trong khi vắng nhà”. Xong được mấy món đồ lại lo chuyện giấy tờ. Việc làm trong tổ hợp và đơn nghỉ phép đã có Thu lo giùm. Con nhỏ bạn gái chưa chồng, còn thong thả nên giúp bạn nhiệt tâm. Còn lại cái giấy phép đi đường từ mấy ông ‘kẹ’ ngoài phường là khá rắc rối. Ai đời cả năm mới xin phép đi thăm nuôi chồng một, hai lần mà y như rằng, cứ thấy nàng ló mặt ra tới là chúng hạnh hoẹ đủ thứ.
Nào là mọi việc đã có nhà nước lo, cô không phải lo, phải để cho chồng yên tâm học tập mới có kết quả, cứ thậm thụt lên xuống thăm nuôi thế thì làm sao tiến bộ? Nào là đi hoài như thế mất bao nhiêu công lao động. Ai cũng như cô thì còn ai xây dựng đất nước? Lần nào cũng phải đấm mõm cho bọn chúng, khi thì vài gói Samít, lúc dăm bao trà Thái Đức chúng mới chịu cấp giấy cho, còn ra giọng nhân nghĩa: - Nể lắm mới ký cho đó. Mấy phường khác thì còn lâu nghe chửa… Ra khỏi cánh cổng ủy ban, nàng còn nghe tiếng cười đểu của bọn chúng: - ĐM lũ nguỵ quân Sài Gòn Chúng nó ăn bơ thừa sữa cặn của đế quốc quá nhiều. Hèn chi vợ con chúng đứa nào cũng trắng da dài tóc. Từ nay cho chúng bay chết cả nút…
Xong xuôi giấy tờ, Giang chuẩn bị đi ngay. Nàng cùng em và con ra bến xe thật sớm. Thời buổi này, cái gì cũng của dân, do dân làm chủ, nhưng chủ chỉ đuợc phép ngó, không được phép rờ. Phải ưu tiên cho đầy tớ của dân là cán bộ, bộ đội. Bỏ tiền ra mua vé xe cũng ưu tiên cho cán bộ, thừa ra mới tới dân. Không sao, Giang biết cách xoay xở. Chỉ cần bỏ ra ít tiền lẻ cho người bán dạo hàng quanh bến xe là có vé chợ đen. Bọn cửa hàng thông đồng với đám viên chức cán bộ lợi dụng sự ưu tiên để mua giành hết vé, đem tuồn ra ngoài kiếm lời chia nhau, thành ra dân có chầu chực ba bốn ngày liền cũng chưa chắc có vé.
Chuyện đểu cáng thế nhưng lúc nào bọn chúng cũng giả bộ liêm chính, miệng lưỡi toàn là đạo đức cách mạng. Rặt một bọn vô liêm sỉ. Chiếc xe khách dồn người nêm như cối, không còn chỗ cựa. Hành khách leo lên ngồi cả trên mui, mừng vì may mắn có được một chỗ. Chị em Giang và con bị nhét vào giữa lòng xe nên không nhìn thấy quang cảnh bên đường. Của đáng tội, sau vài năm “giải phóng”, đất nước rặt một màu xám tro. Có còn gì khác để mà nhìn ngắm. Đâu đâu cũng một cảnh nhà cửa điêu tàn, cây cối xác xơ.
Càng đi xa Sài Gòn càng thấy sự hoang sơ tiêu điều của những vùng được mệnh danh là vùng kinh tế mới. Thật là thành quả. Giang nghĩ: hoa hôi kết thành quả đắng. Chiếc xe cũ kỹ già nua, bò ì ạch, thở hổn hển. Mãi rồi cũng lết được tới khu kinh tế mới Minh Hưng, điểm đến cuối cùng khi mặt trời đã bắt đầu ngả về Tây. Xuống xe, Giang cùng em và con bước vào một quán nước bên đường. Nỗi lo lắng bắt đầu dâng lên. Khi còn ở nhà, vì hăm hở muốn gặp chồng để biết đau ốm ra sao, phần vì những lo âu khác, nàng quên đi cái khó khăn này: đường còn xa, phương tiện chuyên chở không có, phải xoay xở ra sao?
Phải ngủ trọ lại một đêm rồi sáng mai lên đường? Vùng này kiếm ra một chỗ trọ cho ba người không dễ. Thằng Quốc liều mạng bàn là cứ đi, mười giờ đêm đến là cùng chứ gì? Thấy được nỗi khó khăn của người đàn bà trẻ, người chủ quán thương hại: - Để tôi hỏi thằng con trai tôi coi nó chịu dẫn đường giúp không? Nó vẫn hay giúp đỡ bà con mình ở thành phố lên. Có nó quen đường quen xá ở xó rừng này mới đi được. Tội nghiệp thằng nhỏ. Lâu nay chịu cực chịu khổ đã quen. Có hôm nó phải đi suốt đêm, gần sáng mới về tới nhà. Giang mừng rỡ theo chủ nhà đi điều đình với người con.
Giá cả thoả thuận xong xuôi, họ ăn uống qua loa rồi chuẩn bị lên đường ngay. Cậu con trai dẫn đường cùng Quốc mỗi người một ba lô, còn Giang bế con. Thỉnh thoảng mỏi tay lại cho thằng Xuân xuống đi bộ. Chỉ mới hơn năm giờ chiều mà trời đã choạng vạng. Ở rừng trời mau tối, người ta bảo vậy. Nàng rất mệt mà vẫn không dám nghỉ nhiều, con đường như dài vô tận. Hai chị em lúc này luân phiên thay đổi, khi thì đeo ba lô, khi bồng thằng Xuân. Nàng hơi hối hận đã mang con theo. Hai tay mỏi rã rời, hai chân như buộc chì không cất lên nổi. Đoạn đường, theo cậu dẫn đường chưa được phần ba. Trời đã thẫm màu. Cậu dẫn đường đi chặt nứa làm đuốc.
Kinh nghiệm đi rừng, lúc nào cũng phải có dao trên tay, cậu bảo thế. Đêm đã về,thằng Xuân sợ hãi không rời mẹ ra nữa. May mắn có một chiếc xe chạy ngang. Chiếc xe quân đội trên sư (đoàn) đi công tác bị hư dọc đường, khách đã chuyển qua xe khác về trước. Bây giờ xe mới sửa chữa xong quay về. Chiếc xe trống rổng dừng lại cho quá giang.
Người bộ đội lái xe còn đủ tình người để thông cảm cho đám người bơ vơ giữa rừng đêm. Giang cám ơn và trả tiền cho cậu bé dẫn đường để cậu quay về nhà, còn ba người leo lên xe. Đến trại cải tạo Thoại đang ở, trời đã hoàn toàn tối mịt, sương đêm rơi xuống ướt lạnh bờ vai, người lái xe dừng lại cho ba người xuống. Giang không quên lục tìm gói thuốc thơm biếu, cám ơn anh đã giúp đỡ. Người bộ đội cười nói không có chi, chúc gặp người thân vui vẻ rồi từ giã phóng xe đi. Anh về sư, còn phải đi thêm một quãng nữa.
Giang nhìn quanh. Bên tay phải ngay chỗ xuống xe, mấy dãy nhà lợp tôn. Là bộ phận khung (khung=ban chỉ huy một trại cải tạo thường cấp tiểu đoàn). Những tấm tôn mà kỳ thăm nuôi trước, Thoại đã kể cho nàng nghe: đó là những tấm tôn vấy máu anh em cải tạo.
Số là khi còn ở tại trại tập trung cải tạo Trảng Lớn, trại tù này trước đây do sư đoàn 25 bộ binh Mỹ thiết lập, sau năm 1972, họ rút về nước đã trao lại cho sư đoàn 25 bộ binh quân lực VNCH sử dụng làm căn cứ. Sau tháng Tư 1975, quân chính quy Bắc Việt tiếp thu đã sử dụng làm một trong những trại tập trung cải tạo Sĩ Quan Miền Nam VN trình diện tại Sài Gòn và vùng phụ cận. Gần hai năm trời tại trại với rất nhiều biến chuyển, những ông cai tù, người từ phía bên kia nhìn thấy cảnh ‘phồn vinh giả tạo’ của miền Nam đã có rất nhiều sáng tạo.
Khởi đầu là phong trào “tam đê” gồm có đài, đồng, đạp. Mỗi người phấn đấu để có một xe đạp làm chân, một đồng hồ trên tay và cái đài trên vai. Đó là thế hệ xã hội chủ nghĩa nhuốm màu tư bản sơ khởi. Khi phong trào đã lắng dịu thì đến chiến dịch “bốn vê”: vào, vơ,vét, về. Sau một thời gian vơ vét hết mọi thứ, kể cả những mảnh vụn kim khí từ những chiếc trực thăng, mang về cho một lực lượng lao động”chùa” khổng lồ, đám sĩ quan tù cải tạo giũa gọt, vẽ khắc, đánh bóng, làm thành những món quà quý giá như gương lược, kẹp trâm, những bộ điếu cày chạm trổ tinh vi. Đến cả những tấm ghi sắt lót làm sân bay cũng được gỡ sạch để phục vụ cho các “anh hùng cách mạng.”
Khi không còn gì để vơ vét, đêm nằm vắt trán suy nghĩ, nhìn lên nóc nhà họ thấy toàn là tôn. Hướng mắt về phía cửa sổ, bên ngoài là những bãi mìn phòng thủ nằm giữa những lớp kẽm gai, cỏ tranh mọc tốt cao quá đầu người. Lại suy nghĩ. Cỏ tranh này miền Bắc có lợp nhà thật tốt. Ở đây bọn Mỹ Nguỵ toàn lợp mái bằng tôn. Giời ơi! Nghĩ ra rồi, của ở trên đầu này chứ còn ở đâu nữa. Trong đầu của người cán bộ, những tấm tôn đã biến thành những hòm lớn hòm nhỏ, mai này đi phép mang về nhà thì quý vô cùng, tiện lợi lại bền hơn gỗ. Miền Bắc hiếm tôn thì chắc chắn có giá. Đúng là sáng tạo. Cụ Mác cụ Lê nói thì chẳng sai. Cám ơn các cụ. Nhờ tư tưởng của các cụ đã soi sáng cho đàn cháu biết tư duy. Bộ phận khung nhất trí soạn thảo kế hoạch.
Chỉ tiêu được đề ra: thi đua lao động lập thành tích mừng sinh nhật ‘Bác’. Quyết tâm đạt được mười ngàn bó tranh. Sau khi đã cắt hết tranh phía trong trại, kể cả quanh sân bay cũng chỉ được một phần ba, bộ phận cho lệnh tiến công ra ngoài rào, tức đi vào khu vực có gài mìn bẫy. Tranh tai đây cao và rất dầy. Cắt được hết thì không phải tới mười nghìn, mà có thể năm bẩy chục nghìn cũng có dư. Còn mìn bẫy thì sao? Có người hỏi. Dễ lắm, thủ trưởng nói: bảo đám tù cẩn thận, vừa cắt tranh vừa để mắt cảnh giác một tí có sao. Chính trị viên tiểu đoàn còn mạnh miệng hơn: Bọn nguỵ quân nguỵ quyền tội ác ngập đầu, được tha chết đã may mắn nhiều. Chúng mình ngày trước còn gian lao nguy hiểm gấp vạn lần ấy. Rồi có sao đâu.
Thôi. cứ thế mà làm. Lên giao ban nhận lệnh từ khung, anh em tù giật nẩy mình. Vài người đi vào bãi có sơ đồ, có dụng cụ dò mìn còn lo lắng, huống chi hàng mấy trăm con người hỗn độn đi vào lao động trong một vùng cỏ dầy chi chit che kín hết các dấu hiệu mìn bẫy, lẫn vào cỏ không nhìn thấy nhau, chết là chắc. Lệnh trên đưa ra không thể không thi hành, bị ghép vào tội nổi loạn, chống lại cách mạng tập thể cũng chết.
Thi hành thì. Mọi người vô cùng lo lắng, cầu trời khấn phật sao cho tai hoạ không xảy đến cho mình. Thật ích kỷ nhưng trước một cái chết vô lý chắc chắn biết nói gì? Hậu quả của buổi sáng lao động hôm ấy thật kinh hồn: chỉ sau hai giờ làm việc, một tiếng nổ long trời lở đất, tám mạng người ra đi, không ai trong số còn nguyện vẹn thi thể. Sự sợ hãi lên đến cao độ khi nhận lệnh đi thu nhặt xác bạn bè tử nạn.
Cũng may tiếng nổ làm quang đi vùng cỏ chung quanh. Buổi lao động được hủy bỏ. Sau ít ngày nghỉ ngơi cho công tác chôn cất những người xấu số, người sống sót lấy lại tinh thần, cán bộ khung vẫn tiến hành kế hoạch với một phương thức khác an toàn và nhân đạo hơn. Họ dùng xe chở đán người tù cải tạo đi về phía Cà Tum,Núi Bà. Ở vùng này có rất nhiều đồi tranh, xa xôi, tốn kém xăng dầu nhưng đỡ tốn máu.
Nhận được thư của Thoại gửi về qua tay chị Trang, chị mới đi thăm chồng về, Giang cảm thấy lo lắng. Nói là lá thư cho có vẻ trang trọng. Thực ra, đó chỉ là một mảnh giấy nhỏ nhàu nát. Trong thư, Thoại thăm hỏi gia đình và mẹ con nàng vài câu, thêm vài câu vắn tắt cho biết anh đang bệnh nhiều, cần thuốc thang chữa trị. Thời buổi khó khăn, tìm kiếm cái ăn cho hai mẹ con đã thật vất vả. Mà cả nước đều thế, chứ đâu riêng gì gia đình nàng. Mấy năm trời đi tù cải tạo, Thoại biết hoàn cảnh gia đình không khá, anh chưa bao giờ đòi hỏi xin xỏ gì. Nay tình hình chắc phải tồi tệ lắm mới có chuyện viết thư nhắn gửi như vầy.
Vậy nàng phải thu xếp lên rừng một chuyến. Không đi, lỡ chồng có mệnh hệ gì, có lẽ sẽ ân hận suốt đời. Công việc làm ăn của Giang bây giờ càng lúc càng khó khăn. Ngành may mặc lúc trước gia công cón có đồng ra đồng vào. Kể từ khi bị buộc vào tổ hợp, rồi tiến lên hợp tác xã, chỉ còn đồng lương cố định chết đói hàng tháng cộng với ít tem phiếu mua gạo hẩm, nước mắm thối. Dạo sau này, đến gạo hẩm cũng không còn.
Tháng tháng mang tem sổ đến chỉ mua được khi thì ít mì sợi, lúc vài ký bo bo loại thực phẩm cho ngựa ăn. Nhà nước gọi nó là cao lương, nhưng nuốt vào miệng thế nào thì ỉa ra nguyện hột thế ấy. Vậy mà có khi cũng không có, phải nhận mớ ngô vàng cứng như đá hoặc bao củ lang củ sắn (khoai mì) hư thối hơn nửa. Thời những năm bốn mươi lăm, nghe nói miền Bắc người chết đói hàng loạt, nhưng hồi ấy nàng chưa sinh ra nên chẳng biết.
Còn lớn lên ở cái miền Nam nhiều lúa lắm gạo này, nàng chưa thấy có thời kỳ nào thế thảm như vậy. Lại còn cái vụ phải xin phép nghỉ vài ngày để đi thăm chồng. Rắc rối chứ đâu có đơn giản. Có nên về nhờ vả bố mẹ tí chút nào không? Cả hai bên bố mẹ đều đã già, ruộng vườn co cóp mấy chục năm đã bị tịch thu hết ngay từ những ngày đầu xã hội chủ nghĩa. Số còn lại giờ cũng phải vào tập đoàn làm ăn tập thể, chả còn gì mà trông mong. Lấy gì để mua sắm lên thăm Thoại đây? Giang đành ngó quanh quất trong nhà coi có gì còn tí chút giá trị, có thể tải được ra chợ.
Của đi thay người, nàng ngẫm nghĩ. Cái khánh vàng với bốn chữ Trăm Năm Hạnh Phúc lớn có con rồng và con phượng bao quanh thật lộng lẫy. Quà cưới của bạn bè tặng Thoại ngày xưa, dễ có được vài chỉ, đem bán đi chắc Thoại buồn, nàng cũng buồn. Nhưng thời buổi, cái khó bó cái khôn. Túng phải tính cứ biết làm sao? Giang ngậm ngùi lôi nó ra khỏi cái khung kiếng. Kể từ ngày “giải phóng”, số phận nó cũng giống như Thoại, phải chui vào nằm trong một xó kín trong nhà, không được ngồi trong tủ chè nữa. Chưng ra cho chúng nó dòm ngó, có mà chết. Hôm nay trong lúc túng cùng, thôi thì vĩnh. biệt. Giang gói nó lại bỏ vào giỏ rồi đem ra chợ. Vấn đề tài chánh coi như giải quyết xong.
Không phải cầu cứu tới ai, nhưng cũng nên cho bố mẹ Thoại biết một tiếng. Thoại đang đau ốm cần giúp đỡ. Bố Thoại có nghề y tá dạo, ông biết về thuốc men, thế nào chả có chút đỉnh cho con, còn mẹ ít nhất cũng có ít thức ăn cây nhà lá vườn cho con trai bà sống cầm cự qua ngày.
Tiện thể, nàng kéo thằng Quốc, em trai nàng đi theo. Nó còn trẻ, mạnh khoẻ nhanh nhẹn đỡ đần tay chân chút ít bớt vất vả. Kinh nghiệm của kỳ đi thăm nuôi lần trước vẫn còn nguyên trong trí. Dạo ấy Giang đi cùng mẹ chồng, may mắn liên lạc được ít gia đình rủ cùng đi chung, nương tựa, giúp đỡ khuyến khích nhau. Nếu không chắc đã bỏ về nửa đường. Xe đò từ Sài Gòn đi Phước Long, tới ngã tư Minh Hưng là điểm dừng cuối. Từ đây không còn xe chở khách, ngoại trừ xe bộ đội.
Nhưng xe của “quân đội nhân dân” thường ít khi cho nhân dân đi quá giang. Có lẽ có muốn cũng không còn chỗ, vì hàng ngày chả có mấy chuyến. Và chuyến nào trên xe cũng thường đầy ắp. Tới Minh Hưng trời đã xế chiếu. Muốn vào tới các trại cải tạo lao động ở trong rừng còn phải cuốc bộ rất xa theo con đường Mười.
Trại của Thoại ở gần nhất cũng cách trên mười cây số. Tay xách nách mang, có gia đình còn mang theo con nhỏ không biết làm sao để đi. Cuối cùng phải nhờ vả đến người dân địa phương, những người trong vùng kinh tế mới. Họ rành rẽ đường đi nước bước. Họ, có lẽ, trước đây cũng từ các thành phố đến, nhưng sau một thời gian cực khổ, đã quen lam lũ. Vả lại, đó là cơ hội cho họ kiếm thêm được ít đồng tiền đã trở nên rất hiếm hoi quý giá trên rừng này. Trẻ nhỏ thì dẫn đường. Người lớn thì nhận chuyên chở giùm hành lý.
Họ chịu hy sinh nhiều giờ để vừa giúp đỡ vừa có thêm phần phụ giúp gia đình. Giá cả thỏa thuận xong. Có gia đình cả nhà cùng đi làm hướng dẫn viên một loạt. Đoàn người bắt đầu cất bước từ lúc xế chiều, khi nắng còn đổ gay gắt. Thi thoảng, một chiếc molotova chạy ngang làm tung bụi đỏ mịt mù. Cứ cách quãng dăm bảy trăm thước, đoàn người phải dừng lại nghỉ. Đến được láng trại đầu tiên thì trời đã tối mịt. Mọi người mệt mỏi rã rời. Đoạn đường chỉ hơn mười cây số mà đi tới gần năm tiếng. Đã vậy, khi còn choạng vạng trời lại đổ ập cơm mưa.
Đường đồi lên xuống đã gập ghềnh, bây giờ thành trơn như bôi mỡ. Người đi thăm nuôi toàn là đàn bà con gái chưa quen với những con đường đất trơn trợt, guốc dép cởi ra cầm trên tay mà vẫn té lên ngã xuống, thật khổ ải. Ba lô trĩu nặng bờ vai nhỏ, Mưa lạnh đường trơn, chân đất vương Lặn lội thân cò pha nắng bụi, Đường xa lặng lẽ đến thăm chồng. Lần này, chuyến đi đột xuất, không có ai cùng đi, Giang nghĩ mình nên chuẩn bị kỹ lưỡng. Nàng về quê mang theo lá thư của Thoại cho bố mẹ đọc, cũng may quê Thoại gần thành phố, chỉ chừng hơn tiếng đồng hồ đi xe đò, có thể đi về trong ngày. Gần như dự đoán của Giang, Bố Thoại biết tình trạng sức khoẻ của con, có dự trữ sẵn mớ thuốc Thoại cần, nàng sẽ mua thêm.
Ông gửi kèm theo mấy hộp sữa đặc, một mặt hàng khá hiếm lúc này, cho con trai bổi dưỡng. Bà mẹ thì chuẩn bị một ít ruốc, một hộp mỡ, đậu phộng cây nhà lá vườn. Bà còn bảo mang theo ít cây trái trong vườn. Giang bảo mẹ chồng: - Mẹ đã thấy rồi. Đường xá đi lại rất khó khăn, Con đâu thể mang vác nhiều. - Thì cũng phải có gì cho nó chứ. Chả lẽ lên thăm nuôi chồng tay không. - Bây giờ thế này. Mẹ biết gia đình con, con cái còn nhỏ dại, đời sống cũng khó khăn lắm. Bố mẹ bây giờ già quá rồi. Thời buổi này chẳng làm gì ra tiền.
Thằng Thoại cũng cần chút ít phòng thân. Mẹ không có tiền cho, con cố mang ít quà của mẹ. Phần mày không cần mua sắm nữa, ráng chạy vạy dấm duí cho nó vài đồng. Bà nói mãi. Giang đành chấp nhận mang theo quà của mẹ, ngoại trừ trái cây hoa quả quá nặng nề. Nhưng bà bắt buộc cầm đi mấy cân bột, đậu xanh và ít đường thẻ. Bà bảo trong tù chúng nó thiếu thốn nên thèm ngọt. Nhà có sẵn, ráng mang đi cho bạn bè anh em nó có dịp “liên hoan”.
Thằng Quốc đang lúc rảnh rỗi, cũng sẵn sàng lên rừng. Có nó đi theo giúp đỡ, Giang quyết định cho con đi cùng. Thằng Xuân chưa đầy ba tuổi nhưng lanh và ngoan, có thể yê n tâm. Nên cho nó biết mặt bố. Kỳ trước lên rừng, nó chưa được đi vì nàng chưa biết rõ đường đi nước bước. Bây giờ đã có kinh nghiệm, thêm thằng Quốc bên cạnh. thêm tay thêm chân. Thoại chỉ mới gặp con một lần ở Trảng Lớn. Lúc ấy, thằng Xuân mới mấy tháng chưa biết gì. Hai cái ba lô đã chất cứng, đồ đạc bên ngoài vẫn còn nhiều, không biết nhét vào đâu. Thứ nào nàng cũng thấy cần cho chồng. Quà cáp của bố mẹ và thuốc men tối cần thiết không thể thiếu, dầu ăn, bột ngọt,tôm khô mặt hàng tồn trữ chiến lược không thể bỏ lại.
Còn mấy gói thuốc lá và bánh thuốc lào này thì tính sao? Giang thấy dạo sau này Thoại ngày càng ốm yếu, ho hen luôn miệng, muốn khuyên chàng bỏ hút thuốc đi mà biết nói như thế nào? Rừng núi khí hậu thời tiết lạnh lẽo, thân phận người tù, xa vắng gia đình, cha mẹ vợ con đã nhiều năm, rượu chè đã không có, chỉ còn làn khói thuốc cho ấm lòng, vơi đi nỗi nhớ nhung gia đình. Bỏ thì thương, vương thì tội. Vả lại, không có thuốc lào thuốc lá thật thì họ lại đi hút vớ vẩn những lá cây rừng độc hại thì còn nguy hiểm hơn. Thoại đã chẳng từng kể anh và các bạn tù đã dùng xác bã trà làm thuốc hút đó ư?
Trà khô được pha uống đến khi nước pha trắng gần như nước lã mới đem phơi khô, tẩm vào nước điếu đen thui để thành thuốc hút, chẳng ngon thì, “không mỡ xài đỡ đèn cầy”, cũng tạm ấm lòng “ngục sĩ trong khi vắng nhà”. Xong được mấy món đồ lại lo chuyện giấy tờ. Việc làm trong tổ hợp và đơn nghỉ phép đã có Thu lo giùm. Con nhỏ bạn gái chưa chồng, còn thong thả nên giúp bạn nhiệt tâm. Còn lại cái giấy phép đi đường từ mấy ông ‘kẹ’ ngoài phường là khá rắc rối. Ai đời cả năm mới xin phép đi thăm nuôi chồng một, hai lần mà y như rằng, cứ thấy nàng ló mặt ra tới là chúng hạnh hoẹ đủ thứ.
Nào là mọi việc đã có nhà nước lo, cô không phải lo, phải để cho chồng yên tâm học tập mới có kết quả, cứ thậm thụt lên xuống thăm nuôi thế thì làm sao tiến bộ? Nào là đi hoài như thế mất bao nhiêu công lao động. Ai cũng như cô thì còn ai xây dựng đất nước? Lần nào cũng phải đấm mõm cho bọn chúng, khi thì vài gói Samít, lúc dăm bao trà Thái Đức chúng mới chịu cấp giấy cho, còn ra giọng nhân nghĩa: - Nể lắm mới ký cho đó. Mấy phường khác thì còn lâu nghe chửa… Ra khỏi cánh cổng ủy ban, nàng còn nghe tiếng cười đểu của bọn chúng: - ĐM lũ nguỵ quân Sài Gòn Chúng nó ăn bơ thừa sữa cặn của đế quốc quá nhiều. Hèn chi vợ con chúng đứa nào cũng trắng da dài tóc. Từ nay cho chúng bay chết cả nút…
Xong xuôi giấy tờ, Giang chuẩn bị đi ngay. Nàng cùng em và con ra bến xe thật sớm. Thời buổi này, cái gì cũng của dân, do dân làm chủ, nhưng chủ chỉ đuợc phép ngó, không được phép rờ. Phải ưu tiên cho đầy tớ của dân là cán bộ, bộ đội. Bỏ tiền ra mua vé xe cũng ưu tiên cho cán bộ, thừa ra mới tới dân. Không sao, Giang biết cách xoay xở. Chỉ cần bỏ ra ít tiền lẻ cho người bán dạo hàng quanh bến xe là có vé chợ đen. Bọn cửa hàng thông đồng với đám viên chức cán bộ lợi dụng sự ưu tiên để mua giành hết vé, đem tuồn ra ngoài kiếm lời chia nhau, thành ra dân có chầu chực ba bốn ngày liền cũng chưa chắc có vé.
Chuyện đểu cáng thế nhưng lúc nào bọn chúng cũng giả bộ liêm chính, miệng lưỡi toàn là đạo đức cách mạng. Rặt một bọn vô liêm sỉ. Chiếc xe khách dồn người nêm như cối, không còn chỗ cựa. Hành khách leo lên ngồi cả trên mui, mừng vì may mắn có được một chỗ. Chị em Giang và con bị nhét vào giữa lòng xe nên không nhìn thấy quang cảnh bên đường. Của đáng tội, sau vài năm “giải phóng”, đất nước rặt một màu xám tro. Có còn gì khác để mà nhìn ngắm. Đâu đâu cũng một cảnh nhà cửa điêu tàn, cây cối xác xơ.
Phải ngủ trọ lại một đêm rồi sáng mai lên đường? Vùng này kiếm ra một chỗ trọ cho ba người không dễ. Thằng Quốc liều mạng bàn là cứ đi, mười giờ đêm đến là cùng chứ gì? Thấy được nỗi khó khăn của người đàn bà trẻ, người chủ quán thương hại: - Để tôi hỏi thằng con trai tôi coi nó chịu dẫn đường giúp không? Nó vẫn hay giúp đỡ bà con mình ở thành phố lên. Có nó quen đường quen xá ở xó rừng này mới đi được. Tội nghiệp thằng nhỏ. Lâu nay chịu cực chịu khổ đã quen. Có hôm nó phải đi suốt đêm, gần sáng mới về tới nhà. Giang mừng rỡ theo chủ nhà đi điều đình với người con.
Giá cả thoả thuận xong xuôi, họ ăn uống qua loa rồi chuẩn bị lên đường ngay. Cậu con trai dẫn đường cùng Quốc mỗi người một ba lô, còn Giang bế con. Thỉnh thoảng mỏi tay lại cho thằng Xuân xuống đi bộ. Chỉ mới hơn năm giờ chiều mà trời đã choạng vạng. Ở rừng trời mau tối, người ta bảo vậy. Nàng rất mệt mà vẫn không dám nghỉ nhiều, con đường như dài vô tận. Hai chị em lúc này luân phiên thay đổi, khi thì đeo ba lô, khi bồng thằng Xuân. Nàng hơi hối hận đã mang con theo. Hai tay mỏi rã rời, hai chân như buộc chì không cất lên nổi. Đoạn đường, theo cậu dẫn đường chưa được phần ba. Trời đã thẫm màu. Cậu dẫn đường đi chặt nứa làm đuốc.
Kinh nghiệm đi rừng, lúc nào cũng phải có dao trên tay, cậu bảo thế. Đêm đã về,thằng Xuân sợ hãi không rời mẹ ra nữa. May mắn có một chiếc xe chạy ngang. Chiếc xe quân đội trên sư (đoàn) đi công tác bị hư dọc đường, khách đã chuyển qua xe khác về trước. Bây giờ xe mới sửa chữa xong quay về. Chiếc xe trống rổng dừng lại cho quá giang.
Người bộ đội lái xe còn đủ tình người để thông cảm cho đám người bơ vơ giữa rừng đêm. Giang cám ơn và trả tiền cho cậu bé dẫn đường để cậu quay về nhà, còn ba người leo lên xe. Đến trại cải tạo Thoại đang ở, trời đã hoàn toàn tối mịt, sương đêm rơi xuống ướt lạnh bờ vai, người lái xe dừng lại cho ba người xuống. Giang không quên lục tìm gói thuốc thơm biếu, cám ơn anh đã giúp đỡ. Người bộ đội cười nói không có chi, chúc gặp người thân vui vẻ rồi từ giã phóng xe đi. Anh về sư, còn phải đi thêm một quãng nữa.
Giang nhìn quanh. Bên tay phải ngay chỗ xuống xe, mấy dãy nhà lợp tôn. Là bộ phận khung (khung=ban chỉ huy một trại cải tạo thường cấp tiểu đoàn). Những tấm tôn mà kỳ thăm nuôi trước, Thoại đã kể cho nàng nghe: đó là những tấm tôn vấy máu anh em cải tạo.
Số là khi còn ở tại trại tập trung cải tạo Trảng Lớn, trại tù này trước đây do sư đoàn 25 bộ binh Mỹ thiết lập, sau năm 1972, họ rút về nước đã trao lại cho sư đoàn 25 bộ binh quân lực VNCH sử dụng làm căn cứ. Sau tháng Tư 1975, quân chính quy Bắc Việt tiếp thu đã sử dụng làm một trong những trại tập trung cải tạo Sĩ Quan Miền Nam VN trình diện tại Sài Gòn và vùng phụ cận. Gần hai năm trời tại trại với rất nhiều biến chuyển, những ông cai tù, người từ phía bên kia nhìn thấy cảnh ‘phồn vinh giả tạo’ của miền Nam đã có rất nhiều sáng tạo.
Khởi đầu là phong trào “tam đê” gồm có đài, đồng, đạp. Mỗi người phấn đấu để có một xe đạp làm chân, một đồng hồ trên tay và cái đài trên vai. Đó là thế hệ xã hội chủ nghĩa nhuốm màu tư bản sơ khởi. Khi phong trào đã lắng dịu thì đến chiến dịch “bốn vê”: vào, vơ,vét, về. Sau một thời gian vơ vét hết mọi thứ, kể cả những mảnh vụn kim khí từ những chiếc trực thăng, mang về cho một lực lượng lao động”chùa” khổng lồ, đám sĩ quan tù cải tạo giũa gọt, vẽ khắc, đánh bóng, làm thành những món quà quý giá như gương lược, kẹp trâm, những bộ điếu cày chạm trổ tinh vi. Đến cả những tấm ghi sắt lót làm sân bay cũng được gỡ sạch để phục vụ cho các “anh hùng cách mạng.”
Khi không còn gì để vơ vét, đêm nằm vắt trán suy nghĩ, nhìn lên nóc nhà họ thấy toàn là tôn. Hướng mắt về phía cửa sổ, bên ngoài là những bãi mìn phòng thủ nằm giữa những lớp kẽm gai, cỏ tranh mọc tốt cao quá đầu người. Lại suy nghĩ. Cỏ tranh này miền Bắc có lợp nhà thật tốt. Ở đây bọn Mỹ Nguỵ toàn lợp mái bằng tôn. Giời ơi! Nghĩ ra rồi, của ở trên đầu này chứ còn ở đâu nữa. Trong đầu của người cán bộ, những tấm tôn đã biến thành những hòm lớn hòm nhỏ, mai này đi phép mang về nhà thì quý vô cùng, tiện lợi lại bền hơn gỗ. Miền Bắc hiếm tôn thì chắc chắn có giá. Đúng là sáng tạo. Cụ Mác cụ Lê nói thì chẳng sai. Cám ơn các cụ. Nhờ tư tưởng của các cụ đã soi sáng cho đàn cháu biết tư duy. Bộ phận khung nhất trí soạn thảo kế hoạch.
Chỉ tiêu được đề ra: thi đua lao động lập thành tích mừng sinh nhật ‘Bác’. Quyết tâm đạt được mười ngàn bó tranh. Sau khi đã cắt hết tranh phía trong trại, kể cả quanh sân bay cũng chỉ được một phần ba, bộ phận cho lệnh tiến công ra ngoài rào, tức đi vào khu vực có gài mìn bẫy. Tranh tai đây cao và rất dầy. Cắt được hết thì không phải tới mười nghìn, mà có thể năm bẩy chục nghìn cũng có dư. Còn mìn bẫy thì sao? Có người hỏi. Dễ lắm, thủ trưởng nói: bảo đám tù cẩn thận, vừa cắt tranh vừa để mắt cảnh giác một tí có sao. Chính trị viên tiểu đoàn còn mạnh miệng hơn: Bọn nguỵ quân nguỵ quyền tội ác ngập đầu, được tha chết đã may mắn nhiều. Chúng mình ngày trước còn gian lao nguy hiểm gấp vạn lần ấy. Rồi có sao đâu.
Thôi. cứ thế mà làm. Lên giao ban nhận lệnh từ khung, anh em tù giật nẩy mình. Vài người đi vào bãi có sơ đồ, có dụng cụ dò mìn còn lo lắng, huống chi hàng mấy trăm con người hỗn độn đi vào lao động trong một vùng cỏ dầy chi chit che kín hết các dấu hiệu mìn bẫy, lẫn vào cỏ không nhìn thấy nhau, chết là chắc. Lệnh trên đưa ra không thể không thi hành, bị ghép vào tội nổi loạn, chống lại cách mạng tập thể cũng chết.
Thi hành thì. Mọi người vô cùng lo lắng, cầu trời khấn phật sao cho tai hoạ không xảy đến cho mình. Thật ích kỷ nhưng trước một cái chết vô lý chắc chắn biết nói gì? Hậu quả của buổi sáng lao động hôm ấy thật kinh hồn: chỉ sau hai giờ làm việc, một tiếng nổ long trời lở đất, tám mạng người ra đi, không ai trong số còn nguyện vẹn thi thể. Sự sợ hãi lên đến cao độ khi nhận lệnh đi thu nhặt xác bạn bè tử nạn.
Cũng may tiếng nổ làm quang đi vùng cỏ chung quanh. Buổi lao động được hủy bỏ. Sau ít ngày nghỉ ngơi cho công tác chôn cất những người xấu số, người sống sót lấy lại tinh thần, cán bộ khung vẫn tiến hành kế hoạch với một phương thức khác an toàn và nhân đạo hơn. Họ dùng xe chở đán người tù cải tạo đi về phía Cà Tum,Núi Bà. Ở vùng này có rất nhiều đồi tranh, xa xôi, tốn kém xăng dầu nhưng đỡ tốn máu.
Dù mở miệng ra là nêu cao chuyên chính vô sản, ca tụng sự tốt đẹp cũa con người xã hội chủ nghĩa, bản năng tham tư của cán bộ bộ đội ngày càng phát triển mạnh hơn. Càng ở lâu thì càng tham. Khi có lệnh chuyển trại lên rừng, các doanh trại được giao lại cho đơn vị khác, số tranh chưa cắt đủ thay thế tôn, nhưng tôn vẫn được tháo gỡ xuống hết để mang theo. Số tranh có sẵn được giàn trải ra thật mỏng cho đủ che kín mái. Vì vậy, khi hoàn thành, ở trong nhà không khác chi ở ngoài trời. Khi đơn vị mới tới, làm sao họ ở? Có anh ngứa miệng hỏi.
Đó là việc của họ, cán bộ trả lời, dĩ nhiên, họ lại sáng tạo, lao động vinh quang là ở chỗ này. Tôn mang lên rừng để lợp mái cho bộ phận khung, để gò thành hòm lớn hòm nhỏ cho cán bộ. Làm nhà cho khung xong mới tranh thủ dựng trại cho anh em. Lại sáng tạo. Không có cỏ tranh, nhưng rừng có đầy tre nứa, lồ ô. Đốn tre đốn gỗ về dựng nhà, mái và vách lợp bằng nứa đập dập đan vào nhau thành những tấm phên. Đó là cảnh những ngày đầu mới lên rừng lao động. Thoại đã kể cho nàng nghe như thế. Nàng đã ngậm ngùi thương cảm những người bất hạnh và gia đình của họ. Những người thân mãi mãi không bao giờ trở về chỉ vì những tấm tôn chẳng đáng giá là bao.
Giờ sau vài mùa mưa nắng, những tấm tôn lợp trên khung đã bắt đầu han rỉ, trông như một chứng tích đẫm máu của tám người bạn tù nằm xuống trên đất Trảng năm nào. Giang bước vào dãy nhà lợp tôn được gọi là bộ phận khung, hay ban chỉ huy trại để trình giấy tờ xin thăm nuôi đột xuất. Được biết thật bất ngờ là hầu hết anh em tù cải tạo đã có nhiệm vụ mới, được chuyển đến một vị trí sâu hơn phía trong cho công tác chuẩn bị xây dựng một nhà máy làm bột củ sắn (khoai mì) lớn nhất Động Nam Á Châu. Họ đã di chuyển cách đây hai ngày, chỉ còn một số ít anh em ở lại phụ giúp tháo gỡ (lại tháo gỡ) bộ phận khung mang đến vị trí mới. Hoàn tất xong sẽ đi sau.
Họ cho phép gia đình nàng tạm trú ngụ trong khu nhà thăm nuôi gọi là nhà khách, đồng thời khuyến cáo hôm sau nên quay trờ về vì đợt thăm nuôi chính thức chưa đến. Thật đau lòng biết bao. Chịu đựng đũ mọi gian khổ cốt để gặp chồng lại không toại nguyện. Giang ôm con vào lòng mà khóc. Có lẽ trời còn thương. Một số anh em cải tạo còn ở lại thấy khu nhà khách có ánh lửa thì họ mò đến. May mắn hơn nữa, trong đó có Quang, người bạn lính cùng đơn vị với Thoại ngày xưa. Chính hai người đã cùng nhau đi trình diện cải tạo, do đó đang ở tù chung một trại.
Quang sắp xếp chỗ ăn ở cho gia đình nàng. Cơm nước của tù chẳng có gì, ít bo bo và củ mì ăn với nước muối và lá tàu bay. Giang đem con xuống dòng suối rửa ráy qua loa. Nước suối lạnh như nước đá, dù bụi bám đầy người cũng chẳng tắm rửa nổi. Thấy bọn Quang loay hoay với nồi sắn luộc, nàng bảo Quốc lấy trong ba lô ra con gà rán sẵn thơm phức, gói xôi đậu xanh cùng ít bánh nếp mẹ chồng làm, bà biết Thoại thích bánh này của mẹ. - Mời anh Quang, các anh đến dùng cơm với chúng em. -
'
Thôi chị ạ! Gia đình chị cứ tự nhiên đi, Quang nói. Tụi tui kham khổ quen rồi. Với lại, để phần cho thằng Thoại nữa chứ. Vợ con lên thăm mà không có gì nó buồn chết. - Đừng ngại các anh ạ! Các thứ này Giang mang theo để dùng trong ngày thôi. Đến mai sẽ thiu thối hết. Các anh ăn thì cũng như anh Thoại thôi. Ảnh không được ăn là tại số ảnh xui không có mặt hôm nay.
Vả lại, em có ít thuốc men và đồ khô, không gặp được chồng thì có lẽ phải nhờ mấy anh chuyển đến giùm. Quốc ơi! chị có mang cà phê trong túi, em mang ra pha mời các anh uống đi em. Quang và các bạn không khách sáo nữa. Tất cả cùng ngồi xuống vừa hỏi thăm chuyện thành phố, tin tức bên ngoài, vừa thưởng thức cái bùi của nắm xôi, miếng thịt gà vừa béo vừa thơm. Thích nhất vẫn là hương vị của ly cà phê đen thật đậm kèm theo điếu thuốc thơm ấm cúng. Nước sôi nấu trong hộp qui gô có quai xách, vợt lọc cà phê làm bằng bao cát, vẫn không kém phần thú vị giữa cái lạnh núi rừng.
Tin tức vẫn chẳng có gì lạ. “Vũ như Cẫn” Thời gian như ngưng lại. Đời sống khó khăn hơn. Mọi việc ngày càng xấu đi. Quang thấy mẹ con nàng lặn lội thật vất vả mới lên được tới đây mà không gặp đuợc chồng thì quá tội nghiệp. Anh nhất định cùng các bạn bàn cách để hai người gặp gỡ nhau. Họ bàn thảo một hồi. Cuối cùng đi dến quyết định. Ngày mai Quang thức dậy thật sớm, khoảng bốn giờ sáng đi lên trại mới. Đường đất khá xa, đi và về cũng mất hơn ba giờ.
Quang sẽ báo cho Thoại biết có gia đình lên thăm. Trại mới chưa có nhà cửa rào dậu gì, chắc chắn mọi người đang trong công tác chặt cây, lấy gỗ về làm nhà. Quang bảo: - Tao sẽ ráng đi nhanh chân để về sớm trước giờ lao động. Tuy nhiên, lỡ có về muộn chút đỉnh thì tụi bay tìm cách bao che. Được rồi, chị Giang chuẩn bị ngay một mớ đồ dùng vào ba lô tôi mang đi trước cho Thoại.
Riêng chi sau tám giờ lên khung xin lấy lại giấy tờ, cho họ biết không gặp được chồng, chị quay trở về nghe không? Nhớ làm sao đừng để họ nghi ngờ và đoán biết kế hoạch của chúng ta, lôi thôi lắm. Sau đó chị giả vờ đi ngược trở về phía Minh Hưng. Khi đã đi xa thoát khỏi tầm mắt của họ, tôi sẽ đón chị đi vào rừng, chúng ta dùng lối mòn mà chúng tôi thường đi lao động ở phía sau trại, khoảng chừng hai cây số lại trổ ra con lộ lớn. Tới đây đã khá an toàn.Tôi đưa chị đi thêm một quãng đường nữa rồi quay trở lại. Chị cứ tiếp tục đi tiếp. Trong khi Thoại ở đầu bên kia đi ngược trở lại. Trên đường đi, chị sẽ gặp một trại cũ, anh em cải tạo đã dơì đi, bây giở trở thành một đơn vị sửa chữa công xa. Bộ đội đóng ở đây ít khi hỏi han tới tù cải tạo, dường như họ không có nhiệm vụ với tù.
Sát lề đường gần cổng trại này có một quán nước gọi là căng tin. Chủ quán là người dân thường được phép đến làm ăn liên hệ với bộ đội, thỉnh thoảng tiếp cả khách cải tạo nếu ai có dịp đi qua., bộ đội cũng không ngăn cấm. Chị vào quán ngồi uống nước quay mặt ra đường. Ai hỏi chuyện cứ bịa đại là thăm chồng đi nghĩa vụ. Khi nào Thoại đi qua, nó liếc vào quán sẽ thấy chị ngay. Tôi sẽ dặn nó khi đi qua quán, nhìn thấy chị rồi cứ tiếp tục đi thẳng. Chờ cho Thoại đi xa khoảng hơn trăm mét, chị hãy trả tiền rồi ra khỏi quán đi theo. Làm sao để nếu có người ngồi trong quán lúc đó không nghi ngờ. Ở một vườn sắn thật rậm rạp um tùm cách đó khoảng nửa cây số có một cái chòi nhỏ nằm rất sâu bên trong.
Cái chòi do bọn tù cải tạo chúng tôi dựng lên tránh mưa nắng khi đi lao động, bây giờ bỏ hoang, có sửa sang lại để làm điểm hẹn bí mật cho những chuyện thăm nuôi đột xuất như vầy. Chòi nằm giữa rẫy nên rất kín đáo. Thoại sẽ đón chị vào đó. Nhớ đừng để ai nhìn thấy chị gặp Thoại. Cũng nhớ nhìn trước nhìn sau truớc khi bước vào bìa rừng. Bây giờ bọn mình về trại cho chị và cháu nghỉ ngơi. Cố làm theo đúng kế hoạch. Bây giờ chị đưa ba lô hành lý đây tôi mang đi truớc. Quang và các bạn chào tạm biệt ra về. Kế hoạch được tiến hành như dự định. Quang báo cho Thoại biết trước và trở lại kịp giờ lao động, rồi đưa gia đình Giang đi vào lối mòn tắt trong rừng. Sau đó ra lộ đi kèm thêm một đoạn nữa rồi phải từ giã.
Hai chị em tiếp tục con đường. Thằng Quốc dường như qua một ngày vất vả hôm trước, không còn bao nhiêu sức, Giang phải chia bớt túi đồ cho nó, trong khi vẫn phải trông chừng con. Đường đồi lên đèo xuống dốc thật khổ. Đi vài chục bước lại phải dừng lại thở. Mãi rồi cái quán bên đường cũng hiện ra. Mừng vui hiện lên khoé mắt, Giang dẫn em và con vào giải khát, nghỉ ngơi, chờ chồng. Bên trong có mấy người bộ đội ngồi uống nước trà hút thuốc đưa đẩy cười nói với cô gái bán quán trông còn rất trẻ. Thấy bọn Giang bước vào, họ ngưng nói, mắt hướng về nàng có ý nghi ngờ. Nhưng họ không nói gì. Giang ngồi vào cái bàn ngay cạnh cửa, giả bộ chăm sóc con ăn uống.
Kỳ thực, đôi mắt cứ liếc nhìn ra đường trông ngóng. Thỉnh thoảng, một hai người tù cải tạo ăn mặc rách rưới, trông thật tang thương, trên tay ai cũng có một dao rựa lớn đi lướt qua nhưng không phải Thoại. Ngồi đã khá lâu, nàng cảm thấy bồn chồn. Đám bộ đội cũng đã bỏ đi. Đến lúc ấy, Thoại mới chợt hiện ra, cũng áo quần rách bươm, cũng con dao rựa trên tay. Anh liếc nhẹ vào quán rồi tỉnh bơ đi thẳng. Quốc thì thầm: “Ảnh tới rồi đó, chị thấy chưa?” - Thấy rồi! Đừng nói gì hết. Để anh đi một quãng xa đã, kẻo tụi nó nghi. Nhìn thân hình tiều tuỵ trong bộ đồ ăn xin của chồng, Giang thật mủi lòng.
Những kỳ thăm nuôi chính thức trước dù sao cũng còn khá tươm tất. Lúc này đang giờ lao động, phải ăn mặc như người đi lao động không thì lộ chuyện. Thật là buồn. Vợ lên thăm chồng mà gặp nhau không dám gọi. Nàng muốn bật khóc mà không dám, chỉ đưa nhẹ khăn tay lên lau mắt như có hạt bụi vướng vào. Ôi! Có thời đại nào người hãi sợ người như cái thời đại này. Vợ chồng thân yêu đầu ấp tay gối, gặp nhau phải làm ngơ như người xa lạ. Chờ cho Thoại đi khuất, nàng mới trả tiền bước ra khỏi quán. Tính đi ngược lại với hướng của Thoại một đoạn rồi mới băng rừng trở ra như dự tính, nhưng sao chân lại cứ theo bước chân chàng. Thì, một liều ba bảy cũng liều, đến đâu hay đến đó.
Thoại dường như cũng không kiềm chế nổi tình cảm, anh đã quay lại, đến gần vợ con, nắm lấy cái túi xách trên vai nàng kêu khẽ: - Em! Con! Giang thổn thức: “ Anh ơi!” rồi nước mắt tuôn rơi. Thoại vội lên tiếng an ủi: - Đừng khóc, tụi nó nghi ngờ là khổ cả lũ. Để anh xách túi đồ đi trước vào vườn sắn. Em cứ thế mà đi theo nhé! Rồi anh bỏ đi trước. Vườn sắn bỏ hoang, cỏ dại cao hơn đầu người mọc chằng chịt xen lẫn với cây sắn. Đang cố vạch đường tìm vào cái chòi giữa vườn, anh bỗng giật nẩy mình dừng lại. Loáng thoáng có tiếng người ở phía chòi. Hoá ra là mấy tay bộ đội đi săn. Bọn họ lần theo dõi dấu heo rừng về đào phá củ mì và tìm ra cái chòi. Thật là tiện cho họ, có chỗ để ẩn nấp rình mồi.
Thật may, Thoại nghĩ, gia đình mình chưa vào tới, không thì đã lộ tẩy. Không thể dùng chòi được nữa. Anh quay lui lại bảo Giang đừng tiến vào sâu nữa. Đáng buồn, vợ con lên thăm mà không có một nơi chỗ yên ổn để mừng rỡ, thăm hỏi, nói gì đến san sẻ tình nghĩa yêu thương. Đưa nhau đi đâu bây giờ? Trở lại căng tin, mỗi cách ấy. Vừa đi vừa nói chuyện. Anh dặn nàng nếu bị tra hỏi cứ trả lời túi xách nặng quá nhờ anh mang hộ nên đãi anh ly nước, hai người không có quan hệ, Một tên bộ đội chạy đến trước mặt anh lên tiếng hạch sách rất hách dịch như muốn ra uy: - Anh kia là cải tạo phải không?
Đang giờ lao động sao lang thang ở đây? Có phải móc nối với gia đình thăm nuôi lén lút chứ gì? Thoại tránh tiếng. Anh đưa con dao rựa ra trước mặt: - Tôi đang đi lao động trong rừng kiếm cây về làm cột. Gặp chị ấy con nhỏ lãi mang xách nặng nề nên giúp một tay, chứ không có liên hệ. Giang cũng đỡ lời: - Em lên sư đây cán bộ ơi! Sắp tới sư chưa? Cán bộ chỉ giùm. Đang mang xách nặng quá chưa biết làm sao thì có anh này giúp mang hộ. Tính lại quán mời ảnh cốc nước trả công ý mà! Anh chàng bộ đội được người đàn bà gọi là cán bộ, ra vẻ mát lòng đổi thái độ: - À cũng sắp tới rồi, đi vài quãng nữa thôi.
Chị có cần tôi giúp một tay? - Thôi, gần tới rồi thì không dám làm phiền cán bộ. Hắn bỏ đi miệng lầm bầm: “cha nào trên sư tốt số thế! Cứ như múi mít ấy”. Thoại không nói gì, nhìn chăm chú vào ly nước trên tay. Chờ hắn đi xa, anh nói nhỏ: - Đi đâu cũng gặp kỳ đà cản mũi, chán thật. Trong quán này tai vách mạch rừng, nói chuyện nguy lắm. Thôi mình đi ra, vừa đi vừa nói chuyện được đâu hay đó. Thuốc men đồ dùng Quang đã đưa cho anh rồi. Gặp nhau lén lút thật bất tiện. Bố mẹ ra sao? Cả bố mẹ em nữa?
Quốc lớn bộn ha?Làm ăn thế nào? Cho anh gửi lời thăm hỏi sức khoẻ mọi người. Nói ông bà cứ yên tâm, anh sẽ ráng giữ gìn sức khoẻ, ráng sống để về với em và con, với gia đình. Thôi, đưa em và con về. Có ở thêm cũng không gặp gỡ nói chuyện được. Theo anh biết, hàng ngày quán này có chuyến xe ra vào thị xã, không biết phía Minh Hưng hay Đức Hạnh. Em thử lại điều đình với chủ quán xem sao? - Đã lâu không gặp anh.
Chưa nói với nhau gì hết đã bảo đi về? Anh đau ốm ra sao?Nói thật cho em biết để em liệu. Giang khóc, “Chả lẽ vừa gặp nhau đã từ biệt ngay?” - Đành chịu vậy! Hoàn cảnh này em biết. Anh thèm muốn được ôm em và con vào lòng một chút mà đâu dám. Tụi nó bắt gặp là cùm chân biệt giam, khổ vô cùng. Em hãy về. Chủ yếu mang thuốc men đến được tay anh để có hy vọng chống chỏi bệnh tật, mới có ngày về với em. Thôi chịu thua số phận đi, đợi dịp thăm nuôi chính thức mình gặp nhau lâu hơn.
Nói bố mẹ đừng lo lắng thái quá. Anh nhất định sẽ trở về. Thoại đã nói thế, Giang còn biết nói sao. Nàng đứng dậy trả tiền, tiện thể hỏi thăm về chuyến xe hàng sắp tới để xin đi theo. Sáng mai mới có. Vậy lại phải cuốc bộ ra thị xã chiều nay. Giữa rừng, chỗ đâu mà trú.Mọi người kéo nhau ra khỏi quán. Đi bộ một quãng,nhìn chung quanh vắng lặng không có ai, Thoại choàng tay qua vai vợ hôn nhẹ lên mái tóc đượm mùi cháy nắng của nàng, ghì vội con vào lòng thì thầm với nó: Xuân con ơi! Ba nhớ thương mẹ và con thật nhiều. Con lên thăm mà ba không thể nói chuyện với con ba thật đau lòng.
Thôi con về nhớ ngoan ngoãn cho mẹ vui nghe không? Nói với ông bà nội ngoại là ba nhớ ông bà lắm. Mi tạm biệt ba cái coi nào! Thằng bé còn đang ngẩn ngơ dãy dụa trên tay anh, người đàn ông đối với nó vẫn còn xa lạ, gầy gò, rách rưới, lôi thôi như người ăn xin nó thường thấy ngoài chợ. Ông lại còn ôm mẹ con nó vào lòng. Chưa kịp cất tiếng khóc, bỗng dưng xuất hiện lù lù hai người bộ đội, một người hai mẹ con mới gặp lúc sáng. Anh này quắc mắt lên: - A ha! Láo lếu thật. Lũ nguỵ dám qua mặt cách mạng. Vậy mà chúng nó bảo là không có quan hệ. Tội lừa dối nhân dân, lừa gạt nhà nước nặng lắm có biết không? Đúng là bản chất Mỹ Nguỵ khó mà gột rửa. Cần phải cho đi cải tạo mút chỉ mới sáng mắt.
Cách mạng đã cách ly gia đình để tạo cơ hội yên tâm học tập, mà còn lén lút móc ngoặc với nhau. Này anh kia! Vi phạm nội qui của trại là mang tội có âm mưu chống đối cách mạng, không thành tâm hối cải… Hắn còn đang thuyết giảng, Thoại vội buông thằng bé xuống đất, quay qua nói nhanh với vợ, “Kiếm đường về đi”, rồi chụp vội con dao dưới chân nhãy phắt vào buị rậm trước mặt. Giang ôm lấy con, cùng đứa em trai đứng ngơ ngác, bơ vơ giữa con đường đất đỏ bụi mờ. Thoại có lủi kịp không? Về trại có sao không? Còn nàng, con nhỏ trên tay, về đâu đêm nay giữa núi rừng bao la với sương đêm lạnh buốt?
Đó là việc của họ, cán bộ trả lời, dĩ nhiên, họ lại sáng tạo, lao động vinh quang là ở chỗ này. Tôn mang lên rừng để lợp mái cho bộ phận khung, để gò thành hòm lớn hòm nhỏ cho cán bộ. Làm nhà cho khung xong mới tranh thủ dựng trại cho anh em. Lại sáng tạo. Không có cỏ tranh, nhưng rừng có đầy tre nứa, lồ ô. Đốn tre đốn gỗ về dựng nhà, mái và vách lợp bằng nứa đập dập đan vào nhau thành những tấm phên. Đó là cảnh những ngày đầu mới lên rừng lao động. Thoại đã kể cho nàng nghe như thế. Nàng đã ngậm ngùi thương cảm những người bất hạnh và gia đình của họ. Những người thân mãi mãi không bao giờ trở về chỉ vì những tấm tôn chẳng đáng giá là bao.
Giờ sau vài mùa mưa nắng, những tấm tôn lợp trên khung đã bắt đầu han rỉ, trông như một chứng tích đẫm máu của tám người bạn tù nằm xuống trên đất Trảng năm nào. Giang bước vào dãy nhà lợp tôn được gọi là bộ phận khung, hay ban chỉ huy trại để trình giấy tờ xin thăm nuôi đột xuất. Được biết thật bất ngờ là hầu hết anh em tù cải tạo đã có nhiệm vụ mới, được chuyển đến một vị trí sâu hơn phía trong cho công tác chuẩn bị xây dựng một nhà máy làm bột củ sắn (khoai mì) lớn nhất Động Nam Á Châu. Họ đã di chuyển cách đây hai ngày, chỉ còn một số ít anh em ở lại phụ giúp tháo gỡ (lại tháo gỡ) bộ phận khung mang đến vị trí mới. Hoàn tất xong sẽ đi sau.
Họ cho phép gia đình nàng tạm trú ngụ trong khu nhà thăm nuôi gọi là nhà khách, đồng thời khuyến cáo hôm sau nên quay trờ về vì đợt thăm nuôi chính thức chưa đến. Thật đau lòng biết bao. Chịu đựng đũ mọi gian khổ cốt để gặp chồng lại không toại nguyện. Giang ôm con vào lòng mà khóc. Có lẽ trời còn thương. Một số anh em cải tạo còn ở lại thấy khu nhà khách có ánh lửa thì họ mò đến. May mắn hơn nữa, trong đó có Quang, người bạn lính cùng đơn vị với Thoại ngày xưa. Chính hai người đã cùng nhau đi trình diện cải tạo, do đó đang ở tù chung một trại.
Quang sắp xếp chỗ ăn ở cho gia đình nàng. Cơm nước của tù chẳng có gì, ít bo bo và củ mì ăn với nước muối và lá tàu bay. Giang đem con xuống dòng suối rửa ráy qua loa. Nước suối lạnh như nước đá, dù bụi bám đầy người cũng chẳng tắm rửa nổi. Thấy bọn Quang loay hoay với nồi sắn luộc, nàng bảo Quốc lấy trong ba lô ra con gà rán sẵn thơm phức, gói xôi đậu xanh cùng ít bánh nếp mẹ chồng làm, bà biết Thoại thích bánh này của mẹ. - Mời anh Quang, các anh đến dùng cơm với chúng em. -
'
Thôi chị ạ! Gia đình chị cứ tự nhiên đi, Quang nói. Tụi tui kham khổ quen rồi. Với lại, để phần cho thằng Thoại nữa chứ. Vợ con lên thăm mà không có gì nó buồn chết. - Đừng ngại các anh ạ! Các thứ này Giang mang theo để dùng trong ngày thôi. Đến mai sẽ thiu thối hết. Các anh ăn thì cũng như anh Thoại thôi. Ảnh không được ăn là tại số ảnh xui không có mặt hôm nay.
Vả lại, em có ít thuốc men và đồ khô, không gặp được chồng thì có lẽ phải nhờ mấy anh chuyển đến giùm. Quốc ơi! chị có mang cà phê trong túi, em mang ra pha mời các anh uống đi em. Quang và các bạn không khách sáo nữa. Tất cả cùng ngồi xuống vừa hỏi thăm chuyện thành phố, tin tức bên ngoài, vừa thưởng thức cái bùi của nắm xôi, miếng thịt gà vừa béo vừa thơm. Thích nhất vẫn là hương vị của ly cà phê đen thật đậm kèm theo điếu thuốc thơm ấm cúng. Nước sôi nấu trong hộp qui gô có quai xách, vợt lọc cà phê làm bằng bao cát, vẫn không kém phần thú vị giữa cái lạnh núi rừng.
Tin tức vẫn chẳng có gì lạ. “Vũ như Cẫn” Thời gian như ngưng lại. Đời sống khó khăn hơn. Mọi việc ngày càng xấu đi. Quang thấy mẹ con nàng lặn lội thật vất vả mới lên được tới đây mà không gặp đuợc chồng thì quá tội nghiệp. Anh nhất định cùng các bạn bàn cách để hai người gặp gỡ nhau. Họ bàn thảo một hồi. Cuối cùng đi dến quyết định. Ngày mai Quang thức dậy thật sớm, khoảng bốn giờ sáng đi lên trại mới. Đường đất khá xa, đi và về cũng mất hơn ba giờ.
Quang sẽ báo cho Thoại biết có gia đình lên thăm. Trại mới chưa có nhà cửa rào dậu gì, chắc chắn mọi người đang trong công tác chặt cây, lấy gỗ về làm nhà. Quang bảo: - Tao sẽ ráng đi nhanh chân để về sớm trước giờ lao động. Tuy nhiên, lỡ có về muộn chút đỉnh thì tụi bay tìm cách bao che. Được rồi, chị Giang chuẩn bị ngay một mớ đồ dùng vào ba lô tôi mang đi trước cho Thoại.
Riêng chi sau tám giờ lên khung xin lấy lại giấy tờ, cho họ biết không gặp được chồng, chị quay trở về nghe không? Nhớ làm sao đừng để họ nghi ngờ và đoán biết kế hoạch của chúng ta, lôi thôi lắm. Sau đó chị giả vờ đi ngược trở về phía Minh Hưng. Khi đã đi xa thoát khỏi tầm mắt của họ, tôi sẽ đón chị đi vào rừng, chúng ta dùng lối mòn mà chúng tôi thường đi lao động ở phía sau trại, khoảng chừng hai cây số lại trổ ra con lộ lớn. Tới đây đã khá an toàn.Tôi đưa chị đi thêm một quãng đường nữa rồi quay trở lại. Chị cứ tiếp tục đi tiếp. Trong khi Thoại ở đầu bên kia đi ngược trở lại. Trên đường đi, chị sẽ gặp một trại cũ, anh em cải tạo đã dơì đi, bây giở trở thành một đơn vị sửa chữa công xa. Bộ đội đóng ở đây ít khi hỏi han tới tù cải tạo, dường như họ không có nhiệm vụ với tù.
Sát lề đường gần cổng trại này có một quán nước gọi là căng tin. Chủ quán là người dân thường được phép đến làm ăn liên hệ với bộ đội, thỉnh thoảng tiếp cả khách cải tạo nếu ai có dịp đi qua., bộ đội cũng không ngăn cấm. Chị vào quán ngồi uống nước quay mặt ra đường. Ai hỏi chuyện cứ bịa đại là thăm chồng đi nghĩa vụ. Khi nào Thoại đi qua, nó liếc vào quán sẽ thấy chị ngay. Tôi sẽ dặn nó khi đi qua quán, nhìn thấy chị rồi cứ tiếp tục đi thẳng. Chờ cho Thoại đi xa khoảng hơn trăm mét, chị hãy trả tiền rồi ra khỏi quán đi theo. Làm sao để nếu có người ngồi trong quán lúc đó không nghi ngờ. Ở một vườn sắn thật rậm rạp um tùm cách đó khoảng nửa cây số có một cái chòi nhỏ nằm rất sâu bên trong.
Cái chòi do bọn tù cải tạo chúng tôi dựng lên tránh mưa nắng khi đi lao động, bây giờ bỏ hoang, có sửa sang lại để làm điểm hẹn bí mật cho những chuyện thăm nuôi đột xuất như vầy. Chòi nằm giữa rẫy nên rất kín đáo. Thoại sẽ đón chị vào đó. Nhớ đừng để ai nhìn thấy chị gặp Thoại. Cũng nhớ nhìn trước nhìn sau truớc khi bước vào bìa rừng. Bây giờ bọn mình về trại cho chị và cháu nghỉ ngơi. Cố làm theo đúng kế hoạch. Bây giờ chị đưa ba lô hành lý đây tôi mang đi truớc. Quang và các bạn chào tạm biệt ra về. Kế hoạch được tiến hành như dự định. Quang báo cho Thoại biết trước và trở lại kịp giờ lao động, rồi đưa gia đình Giang đi vào lối mòn tắt trong rừng. Sau đó ra lộ đi kèm thêm một đoạn nữa rồi phải từ giã.
Hai chị em tiếp tục con đường. Thằng Quốc dường như qua một ngày vất vả hôm trước, không còn bao nhiêu sức, Giang phải chia bớt túi đồ cho nó, trong khi vẫn phải trông chừng con. Đường đồi lên đèo xuống dốc thật khổ. Đi vài chục bước lại phải dừng lại thở. Mãi rồi cái quán bên đường cũng hiện ra. Mừng vui hiện lên khoé mắt, Giang dẫn em và con vào giải khát, nghỉ ngơi, chờ chồng. Bên trong có mấy người bộ đội ngồi uống nước trà hút thuốc đưa đẩy cười nói với cô gái bán quán trông còn rất trẻ. Thấy bọn Giang bước vào, họ ngưng nói, mắt hướng về nàng có ý nghi ngờ. Nhưng họ không nói gì. Giang ngồi vào cái bàn ngay cạnh cửa, giả bộ chăm sóc con ăn uống.
Kỳ thực, đôi mắt cứ liếc nhìn ra đường trông ngóng. Thỉnh thoảng, một hai người tù cải tạo ăn mặc rách rưới, trông thật tang thương, trên tay ai cũng có một dao rựa lớn đi lướt qua nhưng không phải Thoại. Ngồi đã khá lâu, nàng cảm thấy bồn chồn. Đám bộ đội cũng đã bỏ đi. Đến lúc ấy, Thoại mới chợt hiện ra, cũng áo quần rách bươm, cũng con dao rựa trên tay. Anh liếc nhẹ vào quán rồi tỉnh bơ đi thẳng. Quốc thì thầm: “Ảnh tới rồi đó, chị thấy chưa?” - Thấy rồi! Đừng nói gì hết. Để anh đi một quãng xa đã, kẻo tụi nó nghi. Nhìn thân hình tiều tuỵ trong bộ đồ ăn xin của chồng, Giang thật mủi lòng.
Những kỳ thăm nuôi chính thức trước dù sao cũng còn khá tươm tất. Lúc này đang giờ lao động, phải ăn mặc như người đi lao động không thì lộ chuyện. Thật là buồn. Vợ lên thăm chồng mà gặp nhau không dám gọi. Nàng muốn bật khóc mà không dám, chỉ đưa nhẹ khăn tay lên lau mắt như có hạt bụi vướng vào. Ôi! Có thời đại nào người hãi sợ người như cái thời đại này. Vợ chồng thân yêu đầu ấp tay gối, gặp nhau phải làm ngơ như người xa lạ. Chờ cho Thoại đi khuất, nàng mới trả tiền bước ra khỏi quán. Tính đi ngược lại với hướng của Thoại một đoạn rồi mới băng rừng trở ra như dự tính, nhưng sao chân lại cứ theo bước chân chàng. Thì, một liều ba bảy cũng liều, đến đâu hay đến đó.
Thoại dường như cũng không kiềm chế nổi tình cảm, anh đã quay lại, đến gần vợ con, nắm lấy cái túi xách trên vai nàng kêu khẽ: - Em! Con! Giang thổn thức: “ Anh ơi!” rồi nước mắt tuôn rơi. Thoại vội lên tiếng an ủi: - Đừng khóc, tụi nó nghi ngờ là khổ cả lũ. Để anh xách túi đồ đi trước vào vườn sắn. Em cứ thế mà đi theo nhé! Rồi anh bỏ đi trước. Vườn sắn bỏ hoang, cỏ dại cao hơn đầu người mọc chằng chịt xen lẫn với cây sắn. Đang cố vạch đường tìm vào cái chòi giữa vườn, anh bỗng giật nẩy mình dừng lại. Loáng thoáng có tiếng người ở phía chòi. Hoá ra là mấy tay bộ đội đi săn. Bọn họ lần theo dõi dấu heo rừng về đào phá củ mì và tìm ra cái chòi. Thật là tiện cho họ, có chỗ để ẩn nấp rình mồi.
Thật may, Thoại nghĩ, gia đình mình chưa vào tới, không thì đã lộ tẩy. Không thể dùng chòi được nữa. Anh quay lui lại bảo Giang đừng tiến vào sâu nữa. Đáng buồn, vợ con lên thăm mà không có một nơi chỗ yên ổn để mừng rỡ, thăm hỏi, nói gì đến san sẻ tình nghĩa yêu thương. Đưa nhau đi đâu bây giờ? Trở lại căng tin, mỗi cách ấy. Vừa đi vừa nói chuyện. Anh dặn nàng nếu bị tra hỏi cứ trả lời túi xách nặng quá nhờ anh mang hộ nên đãi anh ly nước, hai người không có quan hệ, Một tên bộ đội chạy đến trước mặt anh lên tiếng hạch sách rất hách dịch như muốn ra uy: - Anh kia là cải tạo phải không?
Đang giờ lao động sao lang thang ở đây? Có phải móc nối với gia đình thăm nuôi lén lút chứ gì? Thoại tránh tiếng. Anh đưa con dao rựa ra trước mặt: - Tôi đang đi lao động trong rừng kiếm cây về làm cột. Gặp chị ấy con nhỏ lãi mang xách nặng nề nên giúp một tay, chứ không có liên hệ. Giang cũng đỡ lời: - Em lên sư đây cán bộ ơi! Sắp tới sư chưa? Cán bộ chỉ giùm. Đang mang xách nặng quá chưa biết làm sao thì có anh này giúp mang hộ. Tính lại quán mời ảnh cốc nước trả công ý mà! Anh chàng bộ đội được người đàn bà gọi là cán bộ, ra vẻ mát lòng đổi thái độ: - À cũng sắp tới rồi, đi vài quãng nữa thôi.
Chị có cần tôi giúp một tay? - Thôi, gần tới rồi thì không dám làm phiền cán bộ. Hắn bỏ đi miệng lầm bầm: “cha nào trên sư tốt số thế! Cứ như múi mít ấy”. Thoại không nói gì, nhìn chăm chú vào ly nước trên tay. Chờ hắn đi xa, anh nói nhỏ: - Đi đâu cũng gặp kỳ đà cản mũi, chán thật. Trong quán này tai vách mạch rừng, nói chuyện nguy lắm. Thôi mình đi ra, vừa đi vừa nói chuyện được đâu hay đó. Thuốc men đồ dùng Quang đã đưa cho anh rồi. Gặp nhau lén lút thật bất tiện. Bố mẹ ra sao? Cả bố mẹ em nữa?
Quốc lớn bộn ha?Làm ăn thế nào? Cho anh gửi lời thăm hỏi sức khoẻ mọi người. Nói ông bà cứ yên tâm, anh sẽ ráng giữ gìn sức khoẻ, ráng sống để về với em và con, với gia đình. Thôi, đưa em và con về. Có ở thêm cũng không gặp gỡ nói chuyện được. Theo anh biết, hàng ngày quán này có chuyến xe ra vào thị xã, không biết phía Minh Hưng hay Đức Hạnh. Em thử lại điều đình với chủ quán xem sao? - Đã lâu không gặp anh.
Chưa nói với nhau gì hết đã bảo đi về? Anh đau ốm ra sao?Nói thật cho em biết để em liệu. Giang khóc, “Chả lẽ vừa gặp nhau đã từ biệt ngay?” - Đành chịu vậy! Hoàn cảnh này em biết. Anh thèm muốn được ôm em và con vào lòng một chút mà đâu dám. Tụi nó bắt gặp là cùm chân biệt giam, khổ vô cùng. Em hãy về. Chủ yếu mang thuốc men đến được tay anh để có hy vọng chống chỏi bệnh tật, mới có ngày về với em. Thôi chịu thua số phận đi, đợi dịp thăm nuôi chính thức mình gặp nhau lâu hơn.
Nói bố mẹ đừng lo lắng thái quá. Anh nhất định sẽ trở về. Thoại đã nói thế, Giang còn biết nói sao. Nàng đứng dậy trả tiền, tiện thể hỏi thăm về chuyến xe hàng sắp tới để xin đi theo. Sáng mai mới có. Vậy lại phải cuốc bộ ra thị xã chiều nay. Giữa rừng, chỗ đâu mà trú.Mọi người kéo nhau ra khỏi quán. Đi bộ một quãng,nhìn chung quanh vắng lặng không có ai, Thoại choàng tay qua vai vợ hôn nhẹ lên mái tóc đượm mùi cháy nắng của nàng, ghì vội con vào lòng thì thầm với nó: Xuân con ơi! Ba nhớ thương mẹ và con thật nhiều. Con lên thăm mà ba không thể nói chuyện với con ba thật đau lòng.
Thôi con về nhớ ngoan ngoãn cho mẹ vui nghe không? Nói với ông bà nội ngoại là ba nhớ ông bà lắm. Mi tạm biệt ba cái coi nào! Thằng bé còn đang ngẩn ngơ dãy dụa trên tay anh, người đàn ông đối với nó vẫn còn xa lạ, gầy gò, rách rưới, lôi thôi như người ăn xin nó thường thấy ngoài chợ. Ông lại còn ôm mẹ con nó vào lòng. Chưa kịp cất tiếng khóc, bỗng dưng xuất hiện lù lù hai người bộ đội, một người hai mẹ con mới gặp lúc sáng. Anh này quắc mắt lên: - A ha! Láo lếu thật. Lũ nguỵ dám qua mặt cách mạng. Vậy mà chúng nó bảo là không có quan hệ. Tội lừa dối nhân dân, lừa gạt nhà nước nặng lắm có biết không? Đúng là bản chất Mỹ Nguỵ khó mà gột rửa. Cần phải cho đi cải tạo mút chỉ mới sáng mắt.
Cách mạng đã cách ly gia đình để tạo cơ hội yên tâm học tập, mà còn lén lút móc ngoặc với nhau. Này anh kia! Vi phạm nội qui của trại là mang tội có âm mưu chống đối cách mạng, không thành tâm hối cải… Hắn còn đang thuyết giảng, Thoại vội buông thằng bé xuống đất, quay qua nói nhanh với vợ, “Kiếm đường về đi”, rồi chụp vội con dao dưới chân nhãy phắt vào buị rậm trước mặt. Giang ôm lấy con, cùng đứa em trai đứng ngơ ngác, bơ vơ giữa con đường đất đỏ bụi mờ. Thoại có lủi kịp không? Về trại có sao không? Còn nàng, con nhỏ trên tay, về đâu đêm nay giữa núi rừng bao la với sương đêm lạnh buốt?
QD *ÔNG ĐỊA CỦA CHỊ QUYÊN
ÔNG ĐỊA CỦA CHỊ QUYÊN
Nhóm kỷ sư đìện chúng tôi được gọi là nhóm 787 (787 là model máy bay mới của hãng Boeing), khi nhóm này từ Seattle chuyển về Long Beach thì tôi đã nghe các bạn cùng sở đồn đãi về một phụ nữ ngưòi Á Châu có tục lệ “cầu nguyện” thần linh hàng ngày trước khi bắt đầu làm việc.
Đám bạn Mỹ của tôi đồn rằng chị ta có một khu vực nhỏ ngay tại bàn làm việc để thờ phượng “đấng huyền bí tối cao” của chị. Người ta méc tôi rằng thần thánh của chị là hình tượng nho nhỏ của một ông già to béo bụng phệ, nét mặt hiền lành, miệng cười thoải mái mà chị luôn miệng gọi là “Ông Địa”. ua lời các bạn tôi kể lại về phong tục kỳ lạ của ngưòi phụ nữ Á Châu này, khó khăn lắm tôi mới đoán ra là có một người phụ nữ Việt Nam nào đó lập bàn thờ “Ông Địa” tại bàn làm việc của chị ấy.
Khi người Á Đông chúng ta kính cẩn gọi là ông Địa thì đám bạn Mỹ của tôi lại đọc với âm thanh lệch lạc kể lại với tôi rắng chị khấn vái một ông thánh nào đó có tên được phát âm như ..”Ong Ỉa”…Nghe tên đó tôi bật cười. Thấy tôi cười các bạn cũng khoái chí cười theo. Các bạn tôi cười vì phong tục lạ đời còn tôi buồn cưòi vì lối phát âm độc đáo. Chị Việt Nam nào đó mà biết người ta gọi “Ông Địa” thiêng liêng của chị thành Ông “Ỉa” thì không biết chị ta sẽ phản ứng ra sao?
QD – Hình chụp năm 1977 sau 12 ngày lênh đênh trên biển và mới đến trại tị nan Hồng Kông được 3 ngày
Tôi nghe câu chuyện bàn thờ Ông Địa từ lâu nhưng chưa bao giờ biết các chi tiết cho đến một ngày đầu năm ngoái khi chương trình máy bay dân sự 787 bị đình trệ và nhóm Manufacturing Engineer do tôi quản lý dọn về building 801 tại Long Beach, California để hổ trợ cho các kỷ sư 787. Dọn về chỗ làm mới tôi chẳng ưng ý tí nào vì rất bất tiện. Từ văn phòng làm việc đến nhà vệ sinh và ngay nhà ăn cũng đều xa lạ, nội việc đi tìm mua một ly cà phê cho buổi sáng cũng phải mò mẩm mất hết cả ngày giờ.
Buổi sáng ngày đầu tiên làm việc tại building mới, cầm ly cà phê tôi băng qua các khu văn phòng để tìm đưóng xuống câu lạc bộ. Chợt nghe bên tai vang lên một giọng nói thật trầm bỗng của một phụ nữ Việt nam, vừa tiếng Anh pha với tiếng Việt, giọng nói miền Nam thật quen thuộc.
“Lạy ông Địa, hôm nay Quyên cúng nải chuối, cúng ly cà phê sữa, cúng một ổ bánh mì Ba Lẹ và cúng luôn trái cam tươi! Hôm nay là thứ hai ngày đầu tuần, công việc chúng con rất bận rộn nhưng chúng con xin ông Địa cho chúng con được bình an, xin ông Địa cho mấy ông QA Inspector (nguời kiểm soát kỷ thuật) không làm khó dễ chúng con. Nghe đồn bên mấy nhóm khác bắt đầu cho thôi việc vì ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế. Bọn chúng con có mấy đứa Việt Nam quèn xin ông Địa bảo vệ cho. Nếu có lay-off thì Ông Địa cho Lay-off mấy thằng Mễ hay mấy con Mỹ trắng..Lúc này mà bị lay-off thì cuộc đời tan nát hết, xin Ông Địa phù hộ, trăm lạy Ông Địa , ngàn lạy Ông Địa..”
Đang đi nhanh qua những văn phòng, nghe lời khấn vái tôi không nhịn được tính tò mò nên dừng lại và nhìn vào khu văn phòng bên cạnh. Thật bất ngờ, một cảnh tượng mà suốt 25 năm làm việc cho Boeing tôi chưa bao gìờ thấy qua. Trên bàn giấy làm việc ngổn ngang các họa đồ kỷ thuật (Blue Prints), các hoạch đồ của kỷ sư (Engineering Orders) bên góc bàn là một bàn thờ nho nhỏ. Giữa bàn thờ đúng như các bạn người Mỹ mô tả là hình tượng của ông Địa, nhỏ cở một nắm tay, da trắng trẻo bụng phệ với nụ cười thật tươi thật yêu đời. Trong cùng bàn thờ , dán trên vách là một tấm Bài vị. Trước mặt ông Địa là một hủ gạo, hủ muối và một ly nước đầy .
Giữa bàn thờ là một bát nhang, bát nhang không có nhang, bên cạnh có một ly cà phê, một ổ bánh mì và một trái cam. Nhìn thoáng qua nhưng tôi biết ngay sự bố trí rất là trang nghiêm và kính trọng. Đồi diện bàn thờ là một phụ nữ với mái tóc dài xỏa ngang vai đang lầm thầm khấn nguyện. Nhìn cảnh tượng này tôi thật sự xúc động. Cả một trời Tây và Ta hòa hợp. Ông Địa của Việt Nam đang tươi cười bên cạnh các họa đồ của chiếc phản lực cơ hiện đại nhất thế giới 787. Chiếc máy bay mang tất cả những kỷ thuật tân tiến nhất thế giới của loài người hiện đại.
Như có cảm giác bị người ta nhìn lén, người phụ nữ đột nhiên quay đầu nhìn lại, khi chị nhìn thấy tôi, mặt chị đỏ bừng. Hôm đó là lần đầu tiên tôi biết chị Nguyễn Thị Quyên.
Kỷ sư chương trình 787 của hãng Boeing rất đông tại nhiều nơi khác nhưng nhóm kỷ sư Việt Nam chính thức làm việc cho chương trình 787 tại Long Beach thật ra không bao nhiêu người.
Chị Quyên, Ann Bui, Tony Lưu và tôi là người quản lý và phụ giúp kỷ thuật từ chương trình vận tải cơ quân sự C-17 mới đổi qua để tiếp ứng vì công việc quá nhiều. Vì là nhóm quá nhỏ nên việc kết bạn của chúng tôi thật dễ dàng. Thường thì chúng tôi hẹn nhau xuống câu lạc bộ (Cafeteria) ăn trưa và tán gẩu. Ann Bùi và Tony Lưu tuổi khoảng 40 còn chị Quyên thì tôi không hỏi tuổi nhưng đoán khoảng chừng gần 60, vì tất cả mọi ngưòi đều kêu “chị” nên tôi cũng gọi chị là “chị Quyên”. Chị Quyên xưng chị, xưng em với tất cả mọi ngưòi và có lẽ không biết tuổi hơn con số 60 của tôi chị cũng xưng “chị Quyên” với tôi.
Chị Quyên, Ann Bui, Tony Lưu và tôi là người quản lý và phụ giúp kỷ thuật từ chương trình vận tải cơ quân sự C-17 mới đổi qua để tiếp ứng vì công việc quá nhiều. Vì là nhóm quá nhỏ nên việc kết bạn của chúng tôi thật dễ dàng. Thường thì chúng tôi hẹn nhau xuống câu lạc bộ (Cafeteria) ăn trưa và tán gẩu. Ann Bùi và Tony Lưu tuổi khoảng 40 còn chị Quyên thì tôi không hỏi tuổi nhưng đoán khoảng chừng gần 60, vì tất cả mọi ngưòi đều kêu “chị” nên tôi cũng gọi chị là “chị Quyên”. Chị Quyên xưng chị, xưng em với tất cả mọi ngưòi và có lẽ không biết tuổi hơn con số 60 của tôi chị cũng xưng “chị Quyên” với tôi.
Trong giờ ăn trưa với nhau, chúng tôi thường trêu chọc chị về chuyện cầu Ông Địa. Những lúc đó, chị với nét mặt thật nghiêm nghị giảng thao thao bất tuyệt về sự linh thiêng của Ông Địa. Theo chị Quyên, “Thổ Công hay Ông Địa là một vị Thần được dân gian thờ cúng rất quan trọng. Vì vị Thần nầy trông coi gia đình, dự định họa phúc. Trong gia đình muốn được bình an, và công việc làm ăn muốn được sung túc, tất cả đều do Thần Ông Địa trông coi và phò hộ. Thần Ông Địa đem lại tài lộc cho mọi người.
Đây là một tập quán tín vọng, xưa bày nay theo, cứ thế mà thờ, còn việc linh ứng có không tùy ở nơi người tin. Mỗi lần chị thuyết giảng về Ông Địa tôi thấy trong giọng nói, trong mắt chị thấp thoáng một nỗi buồn man mát. Trong ánh mắt đó tôi thầy có một uẩn khuất sự đau khổ mà dường như chị không muốn nói tới. Cho đến một buổi chiều vào cuối tháng Tư năm ngoái, vì công việc nhiều quá tôi phải ở lại làm thêm gìờ và tình cờ tôi bắt gặp chị đang ôm một tấm bài vị thờ Ông Địa với đôi mắt đỏ hoe. Hơn một giờ trò chuyện, trong cơn xúc động, chị Quyên kể cho tôi nghe câu chuyện thật đau lòng của chị hơn 30 năm về trước.
“Năm đó…năm 1977, cả nước nhất là miền Nam Việt Nam đói khổ lắm. Đối với dân ở thành phố Vũng Tàu như gia đình Quyên mà chính phủ gán cho thuộc thành phần có lý lịch “Ngụy” thì càng khó khăn hơn nữa. Thức ăn chính là hạt bo bo trộn với khoai sắn mà cũng không có đủ tiền để mua. Bao nhiêu vốn liếng tiền bạc dành dụm sau ngày cưới Quyên bán hết để lo cho anh Tuấn ra khỏi trại cải tạo. Tội nghiệp mẹ chồng của Quyên, bà hy sinh bán luôn căn nhà phía trước mà trước đây dùng làm nhà thờ tổ tiên để lo cho anh Tuấn và dự định là có dư chút tiền mua được một chiếc xe Honda cũ để anh chạy xe thồ kiếm sống cho cả gia đình hàng ngày.
Ngày đi đón anh Tuấn về nhà cũng là ngày cán bộ nhà nước đến từng nhà kêu gọi dân Vũng Tàu hợp tác với nhà nước trong chương trình “Kinh Tế Mới”. Mặc kệ họ la gào kêu gọi và kể cả hăm dọa Quyên gặp lại chồng sau mấy năm cách biệt, mừng như cuộc đời đưọc tái sinh. Nước mắt cho sự xum họp sao mà thấm thiết. Chỉ hai năm xa cách chồng mà Quyên cứ tưởng như là cả thế kỷ. Ngày xưa, anh Tuấn là một sĩ quan tốt nghiệp từ Võ Bị Đà Lạt, mỗi khi về phép anh thường đùa với Quyên khi nghe Quyên hát bài thơ Màu Tím Hoa Sim. “Áo anh sứt chỉ đường tà, vợ anh mất sớm mẹ già chưa khâu”, anh nói với Quyên làm gì có chuyện vớ vẫn chồng mất vợ đó. Anh và Quyên sẽ sống với nhau trên trăm tuổi, con cháu đầy đàn… đám cưới chưa đầy 2 tháng thì tháng Tư định mệnh 1975 đã đến và anh đi học tập từ đó…
Ngay ngày đầu tiên khi anh Tuấn được phép về lại với gia đình là Quyên đã thấy sự thay đổi nơi chồng mình. Ngoài vóc dáng ốm và đen đủi bên ngoài, anh Tuấn trở nên lầm lì ít nói. Ngày xưa anh nói nhiều chừng nào thì bây giờ anh lại ít nói chừng đó. Thỉnh thoảng anh cứ nhìn về phiá Tây Ninh nơi anh đã bị cải tạo hơn 2 năm và ngâm nho nhỏ mấy câu thơ thật buồn:
“Chim buồn, chim bay về núi
Cá buồn, cá chúi xuống sông
Người buồn, ra ngõ đứng trông
Ngõ thì thấy ngõ,
Người không thấy người!”
Cá buồn, cá chúi xuống sông
Người buồn, ra ngõ đứng trông
Ngõ thì thấy ngõ,
Người không thấy người!”
Anh ngâm thơ với giọng nghẹn ngào chẳng đúng như anh Tuấn rắn rỏi ngày xưa của Quyên. Quyên hỏi anh nhớ ai vậy, có phải nhớ cô nào không thì anh chỉ lắc đầu. Một đìều thật lạ là cứ mỗi ngày vào khoảng 5 giò sáng là anh thức dậy. Ra ngoài sân sau và 10 phút mới trở vào. Mấy ngày liên tục như vậy, Quyên tò mò len lén rình theo chồng xem thử anh dậy sớm làm gì ngoài đó. Quyên thấy anh đang lom khom qùy lạy một cái bàn thờ Ông Địa nho nhỏ mà anh tự lập ra hồi nào không ai biết. Trên bàn thờ vỏn vẹn có một đìếu thuốc đang bốc khói và anh khấn nguyện nho nhỏ:
“Con lạy ông thần, con lạy ông thần ban phước lành cho gia đình con đừng khổ nữa. Cho Hưng được siêu thoát và ..”.
Trong bóng tối tay Quyên run run đụng vào cánh cửa làm bật tiếng động, anh Tuấn vội im bặt và quay lại nhìn Quyên. Thấy Quyên anh ngượng ngùng và dang tay ôm gọn Quyên vào lòng, Anh bắt đầu kể lại chuyện tù đày của anh hai năm qua. Câu chuyện anh kể làm cả hai cùng khóc. Anh chỉ cho quyên bức tượng Ông Địa anh làm bàn thờ và nhắc đến người bạn cùng tù cải tạo tên Hưng đã hy sinh chết thay cho anh trong lần cả bọn trốn tù cũng là tác giả bài thơ mà anh hay thường ngâm một cách buồn bã.
Nghe anh kể mà Quyên không cầm được nước mắt, những đoạn đường anh đã đi qua đúng là địa ngục của trần gian. Buổi sáng vào rừng đốn cây để khai phá đất cho vùng “Kinh Tế Mới”, buổi trưa theo đoàn đi làm nhiệm vụ gỡ mìn, tối về thì học tập. Chính phủ khoan hồng cho các anh sống nhưng không cho các anh ăn. Các anh phải tự túc tìm cách mưu sinh, tự tìm cách làm ra thức ăn để sống. Sĩ quan cấp Trung Úy đúng ra anh chỉ cải tạo có 6 tháng hay 1 năm mà thôi nhưng đa số anh và các bạn kéo dài trên hai năm vì lý do tư tưởng không được “khai thông” sớm. Riêng anh thì bị thêm tội trốn trại cải tạo.
Từ Tây Ninh anh cùng 3 người bạn nhân chuyến chở gỗ rừng làm cầu để hổ trợ cho chiến tranh lúc đó đang lan tràn bên xứ Miên, anh và các bạn trốn trại thoát được vào rừng hơn 7 ngày đêm. Dự định là trốn qua xứ Thái nhưng thay vì đi Thái Lan các anh đi lạc vào khu vực cắm trại của lính Miên. Họ đánh đập các anh rất tàn nhẫn và giao lại cho bộ đội Việt Nam. Trong những người trốn tù cải tạo có Trung úy Hưng, anh ta độc thân nên vì bạn đã hy sinh cho những người có gia đình, anh Hưng nhận hết tội tổ chức vượt tù. Anh Tuấn chồng Quyên bị đánh gãy xương chân và bị bắt nhịn đói 3 ngày.
Anh Hưng bị đánh nát tay chân, lôi ra treo giữa cột cờ bỏ đói để làm gương cho những ngưòi dám chống đối . Anh Hưng hy sinh vài ngày sau đó, trước khi mất anh giao lại hình Ông Địa cho anh Tuấn nhờ anh giao lại người em gái tên Thu. Về được Sài Gòn anh Tuấn đi tìm Thu thì được biết cô này đã di tản ra nước ngoài từ lâu rồi. Anh Tuấn nói với Quyên rằng niềm tin đã bùng dậy nơi anh khi anh cận kề với cái chết. Ông Địa bây giờ là niềm tin là thần thánh tối cao trong cuộc đời còn lại của anh.
Sau năm 1977, Vũng Tàu cũng các thành phố khác tại Việt Nam bị nạn đói hoành hành. Anh Tuấn thay đổi tính tình rất nhiều. Từ một người lanh lẹ hoạt bát và gan dạ anh trở nên lầm lì và nhút nhác sợ hãi mọi điều. Anh tránh né mọi người và như sống cho thế giới riêng anh. Có lúc Quyên bắt gặp anh ngồi tư lự hàng giờ và thường lẩm bẩm một mình như người mất trí. Thương chồng vô cùng nhưng Quyên chỉ biết âm thầm khóc chứ đâu biết làm gì hơn.
Ngưòi ta nói anh bị ngãi Miên làm mất trí cần phải có bùa của người Miên ở mãi tận Châu Đốc mới trị được. Quyên nghe thì biết vậy chớ ăn còn không đủ cho đời sống hàng ngày lấy tiền đâu mà trị bịnh cho chồng. Hàng ngày, giao cho anh chiếc xe Honda để đi thồ kiếm sống, anh Tuấn cũng đi nhưng ra ngồi bến xe rồi cứ trầm ngâm, mơ màng đọc nho nhỏ bài ca “Chim buồn, chim bay về núi, Cá buồm, cá chúi xuống sông. Người buồn, ra ngõ đứng trông”, sáng đi chiều về anh không có lấy được một người khách nào hết. Trước khi nhập ngũ, anh Tuấn là sinh viên trường kỷ sư Phú Thọ. Quyên là sinh viên trường đại học Khoa Học.
Mớ vốn liến kiến thức của gia đình Quyên không đủ để thuyết phục chính quyền đương thời giúp cho một công việc làm. Không ai cho gia đình “Ngụy” một công việc nào hết, và cứ như vậy gia đình Quyên phải bán hết đồ trong nhà để mua gạo sống hàng ngày. Ngày Quyên đem bộ đồ cưới đi bán, anh Tuấn không nói năng chi chỉ nhìn Quyên bằng ánh mắt buồn vời vợi và tối hôm đó rủ Quyên đi biển dạo mát. Lâu lắm rồi mới có dịp cùng chồng ra biển, cũng lâu lắm rồi Quyên mới tìm thấy một chút hạnh phúc bên chồng.
Vũng Tàu có những bãi biển lý tưởng để nghĩ mát mà thiên nhiên đã ban tặng như Bãi Trước và Bãi Sau, anh Tuấn và Quyên thường đi Bãi Trước. Cũng tại nơi bờ biển này, Quyên gặp và yêu anh, tình yêu tuyệt vời của thời sinh viên đại học trước khi anh Tuấn theo lệnh động viên và nhập ngủ. Bãi Trước còn gọi là bãi Tầm Dương do có thể ngắm mặt trời lặn vào mỗi buổi chiều. Bải Trước có những hàng dừa chạy dọc theo bờ biển và giống như một vịnh nhỏ ít sóng, bãi cát dài phẳng và có hình vòng cung khá đẹp. Tay trong tay, anh Tuấn và Quyên, hai đứa như thường lệ mua hai trái bắp vừa đi dạo trên cát vừa gặm từng hạt bắp ngọt liệm và thơm lừng.
Trong cơn xúc động, Quyên nói nhỏ vào tai anh, báo cho anh biết Quyên đã có thai hơn ba tháng. Đứa con đầu lòng của Tuấn và Quyên. Anh cũng xúc động không kém, xiết chặt Quyên trong vòng tay rắn chắt của anh. Anh không nói gì hết nhưng trong ánh mắt của anh, Quyên thấy cả một bầu trời của sự vui mừng lẫn lo âu.
Chương trình vận động đi Kinh Tế Mới của chính phủ “ưu tiên” cho những gia đình có người mới cải tạo được trả về làm Quyên lo lắng vô cùng. Nhà thì hết gạo, Quyên phải chạy về nhà mẹ vay mượn từng bửa mà khổ nỗi nhà mẹ Quyên cũng nghèo tả tơi ăn cũng không còn đủ thì làm gì giúp Quyên được. Nhìn cái thai, đưá con mình càng càng càng lớn nhưng vì không đủ ăn làm gì có đủ chất dinh dưỡng cho con, Quyên đau đớn âm thầm chỉ biết khóc. Riêng anh Tuấn không biểu lộ sự lo lắng gì hết. Sáng sớm là anh và vài người bạn cứ cầm cần đi câu cá.
Hết Bãi Trước rồi đến Bãi Sau mặc kệ ông tổ trưởng dân phố hàng ngày đến tìm anh để hỏi về việc “trình nguyện” xây đựng vùng kinh tế mới. Anh làm việc gì coi bộ rất bí mật, có lúc anh đóng cửa phòng cả ngày không ra bên ngoài. Cho đến khi anh và các bạn đem những bình xăng thật lớn về chất đầy trong nhà thì anh mới cho biết là anh đang chuẩn bị đi làm ăn xa. Vài ngày sau đó anh mới cho Quyên biết là anh và các bạn tính tổ chức vượt biển đem gia đình đi ra nước ngoài tị nạn chính trị. Đến lúc này thì Quyên thấy anh trở nên hoàn toàn tỉnh trí.
Người chồng đức độ và đầy đàn ông tính của Quyên đã trở lại bình thường. Hàng đêm, hai vợ chồng Quyên thao thức trong những ước mơ thật đơn giản. Ra nước ngoài, anh sẽ tìm việc làm tạm sống và đi học trở lại. Vợ chồng Quyên cầu nguyện ơn lành nuôi dưỡng cho con và lo cho con học nên người. Gia đình Quyên sẽ sống một đời sống không còn thiếu ăn, thiếu mặc, không còn chiến tranh và hận thù, không còn bị kềm kẹp mất tự do căn bản của con người.
Hơn một tháng trời nghiên cứu và thào luận với Mẹ anh Tuấn, gia đình Quyên quyết định đăng ký đi làm ăn tại vùng kinh tế mới Gia Kiệm. Anh Tuấn tin rắng chỉ có cách đó mới tránh được sự dòm ngó của công an khu vực.
Đi kinh tế mới thì có quyền bán nhà và dự trữ lương thực mà không ai để ý tới. Căn nhà trị giá 20 cây vàng (lượng), mẹ anh Tuấn bán lại chỉ có 15 cây. Đóng cho tổ chức vượt biên 12 cây (4 lượng mỗi đầu người) số còn lại chỉ đủ mua lương thực và thuốc men dự trữ. Anh Tuấn lo cho Me và Quyên rất chu đáo, Mẹ đã gần 70 tuổi và Quyên thì mang thai. Như để tạo thêm niềm tin, tối nào anh cũng nhắc nhở Quyên cùng anh cầu nguyện Ông Địa. Anh cầu khẩn rất thành tâm và lúc nào cũng có ly ca phê hay thuốc lá thắp cho anh Hưng người bạn đã khuất bóng.
Ngày 17 tháng 4 năm 1977 là ngày ban tổ chức quyết định khởi hành. Trước đó vài ngày, Quyên cảm thấy trong người khó chịu nhưng vì không dám để chồng lo lắng, Quyên cắn răng chịu đựng. Nguyên một đêm nằm chờ trong thúng chai để được đón ra thuyền đánh cá lớn tại Bãi Sau, bụng dưới của Quyên cứ đau lâm râm. Như đã dự định trước, ban công an biên phòng đã được trả tiền trước nên không kiểm tra đêm đó.
Không một chút trở ngại, nhóm thúng chai chở người di tản ra thuyền lớn. Khoảng 15 người trẻ có già có và kể cả con nít được chuyển hết lên tàu tại Bãi Sau và con thuyền đánh cá từ từ ra khơi. Trong đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần, Quyên nhìn quê hương dần dần khuất sau ngọn đồi mà mắt nhòa lệ.
“Mẹ ơi, vĩnh biệt Mẹ, vĩnh biệt quê hương….Việt Nam ngàn đời yêu dấu…”
Chiếc thuyền đánh cá nhỏ thông thường chỉ có vài người đi làm cá bây giờ mang đi cả hơn 20 người nên nếu nhìn kỷ thì sẽ thấy sức nặng làm con thuyền trùng xuống và nghiêng hẳn qua một bên. Để cân bằng, anh tài công chỉ cách cho mọi ngưòi ngồi đều nhau trên các khu vực của chiếc thuyền. Khi chạy ra đến khu vực gần địa phận quốc tế thì thuyền chúng tôi gặp tàu tuần của chính phủ. Họ đi tuần tiểu vòng vòng khu vực thuộc hải phận Việt Nam. Thực sự đây chỉ là hình thức kiểm soát ngư dân vượt biên và một cách làm tiền của nhóm hải quan Việt Nam. Thấy tàu tuần cảnh chạy đến, anh tài công kêu mọi ngưòi xuống hết dưới lòng tàu (chỗ chứa cá) và cùng vài anh em trong đó có anh Tuấn giả bộ bắt đầu mang luới ra thả.
Đã nhận tiền trước, mấy cán bộ hải quan lờ chúng tôi và cho tàu tuần chạy thẳng về Bến Trước của Vũng Tàu. Chờ cho họ đi thật xa, chiếc thuyền của chúng tôi mới bắt đầu vượt ra hải phận quốc tế và hướng về phiá Nam thuộc địa phận Mã Lai, nơi mà chúng tôi muốn đến trạm trú để nhờ sự giúp đỡ của hội đồng Liên Hiệp Quốc. Đến lúc này thì tinh thần của mọi người mới bắt đầu cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Ra khỏi hải phận Việt Nam, chúng tôi đã bắt đầu thật sự nhận thấy mình đang trên con đường của bến bờ tự do mà chúng tôi từng mơ ước.
Từ Vũng Tàu theo lộ tình đã dự định, nếu thời tiết tốt chúng tôi chỉ cần 4 ngày là đến được bán đảo Mã Lai của Malaysia. Trên thuyền, chúng tôi có đủ nước và thức ăn khô cho 5 ngày. Từ bán đảo Mã Lai, chúng tôi hy vọng sẽ gặp tổ chức Liên Hiệp Quốc và sẽ được đưa về trại tị nạn tại Kuala Lumpur.
Hai ngày đầu tiên mặc dầu sóng êm biển lặng, trừ một vài thanh niên trong nhóm tất cả mọi ngưòi trên thuyền đều bị say sóng nằm liệt. Mẹ chồng Quyên nôn mửa liên tục, còn riêng Quyên thân thể đau nhức không chịu đựng nổi nên nằm liệt trong bong tàu. Thương Quyên, thương Mẹ, anh Tuấn cứ chạy lên chạy xuống lo nước uống và thuốc thang. Bụng dưới của Quyên càng lúc càng đau đớn Quyên lại càng cắn chặt răng chịu đựng không dám than thở một lời nào vì sợ ảnh hưởng tinh thần người chung quanh. Thuyền nhỏ người đông không đủ chỗ nằm, anh Tuấn hàng đêm nhường chỗ cho Mẹ và Quyên nằm.
Anh ra cạnh mé của khoang thuyền nằm canh chừng. Thuyền chở nặng nên mực nước cứ nhấp nhô đánh tạc vào ngưòi anh. Sợ ngủ quên và sóng đánh rớt xuống biển, anh lấy dây cột chặt thân mình vào khoang tàu. Cứ 5 mười phút anh lại trở đầu nhìn Quyên và Mẹ. Trong ánh mắt đầy lo âu của anh, Quyên thấy cả một bầu trời thương yêu trong đó. Lúc đó, tự nhiên bên dưới khoang tàu vang vọng lên bản nhạc “Sợi Nhớ Sợi Thương” của ai đó:
Anh ra cạnh mé của khoang thuyền nằm canh chừng. Thuyền chở nặng nên mực nước cứ nhấp nhô đánh tạc vào ngưòi anh. Sợ ngủ quên và sóng đánh rớt xuống biển, anh lấy dây cột chặt thân mình vào khoang tàu. Cứ 5 mười phút anh lại trở đầu nhìn Quyên và Mẹ. Trong ánh mắt đầy lo âu của anh, Quyên thấy cả một bầu trời thương yêu trong đó. Lúc đó, tự nhiên bên dưới khoang tàu vang vọng lên bản nhạc “Sợi Nhớ Sợi Thương” của ai đó:
”Bên nắng đốt – Bên mưa quây
Em dang tay – Em xòe tay
Chẳng thế nào – xua tan mây
Mà chẳng thế nào, che anh được
Chừ rút sợi thương, ấy mấy chăm mái lợp
Rút sợi nhớ, mấy đan vòm xanh
Nghiêng sườn đông, mà che mưa anh
Nghiêng sườn tây, xòa bóng mát
Rợp trời thương, ấy màu xanh suốt
Mà em nghiêng hết, ấy mấy về phương anh
Mà em nghiêng hết, ấy mấy về phương anh …”
Em dang tay – Em xòe tay
Chẳng thế nào – xua tan mây
Mà chẳng thế nào, che anh được
Chừ rút sợi thương, ấy mấy chăm mái lợp
Rút sợi nhớ, mấy đan vòm xanh
Nghiêng sườn đông, mà che mưa anh
Nghiêng sườn tây, xòa bóng mát
Rợp trời thương, ấy màu xanh suốt
Mà em nghiêng hết, ấy mấy về phương anh
Mà em nghiêng hết, ấy mấy về phương anh …”
Lúc đó Quyên muốn dang hết tay ra, xòe rộng tay, có thể nào che mưa dầm, nắng dãi cho người thương của Quyên. Cơn đau bụng bất chợt lại đến, nhìn hình ảnh của anh Tuấn tự nhiên Quyên thấy như đang đong đưa trước mặt và Quyên ngất liệm dần trong hình ảnh đó.
Không biết ngất đi bao lâu nhưng khi Quyên tỉnh lại thì trời bắt đầu đổ mưa. Cơn mưa tháng Tư thường thì chỉ là mưa phùn nhẹ nhẹ nhưng đối vói con thuyền nhỏ bé đang trôi dạt ngoài đại dương thì sóng biển thật dữ dội. Gío gầm thét đưa những con sóng khổng lồ nhồi chiếc thuyền đánh cá với 23 người vượt biển lên xuống như muốn nhận chìm. Nước tràn ngập hầm tàu vì máy hút nước không kịp hút ra. Anh Tuấn và vài ngưòi bạn nữa phụ giúp nhau dùng tay tát nước ra ngoài. Muốn giúp chồng, Quyên cố gượng dậy nhưng không làm sao gượng nổi. Hai chân tê dại và đầu óc cứ xoay vòng tròn.
Không biết làm gì hơn Quyên chợt nhớ đến lờì anh Tuấn. “Niềm tin sẽ bừng dậy khi con ngưòi đối diện với cái chết.” Quyên ôm chặt ông Thần Địa và lâm râm cầu nguyện: “cầu nguyện ông Thần, con cầu nguyện ông thần cho chúng con tai qua nạn khỏi, xin cơn bão tố hãy dừng và chúng con được thuận buồn xui gió được đến bến bờ tự do, con lạy ông Thần, ngàn lạy ông Thần…”. Không biết có phải vì lời cầu xin thành khẩn liên tục của Quyên chăng mà may mắn thay sau 2 ngày mưa bão và biển động, bầu trời trở lại bình thường trở lại nhưng sau cơn bão con thuyền có vài thiệt hại khá lớn. Cái la bàn dùng để chỉ phương hướng bị đánh văng xuống biển cùng lúc đó trong số những ngưòi đi trên thuyền có một cụ già 76 tuồi vì không chịu được sóng gió nên đã lìa đời trong đêm trước.
Việc mất cái la bàn chính (gắn với bộ phận lái của con tàu) là việc rất tai hại nhưng dầu gì chúng tôi vẫn còn cái la bàn nhỏ cầm tay nên việc định phương hướng cho thuyền đi cũng không khó gì lắm. Tuy nhiên, việc có người chết trên thuyền là một vấn đề lớn. Thuyền đã khởi hành hơn 5 ngày rồi mà chỉ thấy biển nước mênh mông, không thấy bến bờ đâu hết.
Anh Tuấn nói với Quyên là thuyền đã đi lạc hướng và tài công cố gắng định hướng nhưng không dám cho ai biết. Lúc bấy giờ trời thì bắt đầu nóng, xác người chết bắt đầu có mùi nhưng con cháu thân nhân của bà cụ mất đi nhất định thà chết chứ không cho Thủy táng (bỏ xác xuống biển). Anh Tuấn cùng các anh lớn tuổi trong nhóm lo âu vô cùng. Tình trạng này kéo dài chắc cả thuyền cùng chết hết. Đến ngày thứ Bảy thì thêm một em bé nữa bị kiệt sức và tắt hơi thở.
Anh Tuấn nói với Quyên là thuyền đã đi lạc hướng và tài công cố gắng định hướng nhưng không dám cho ai biết. Lúc bấy giờ trời thì bắt đầu nóng, xác người chết bắt đầu có mùi nhưng con cháu thân nhân của bà cụ mất đi nhất định thà chết chứ không cho Thủy táng (bỏ xác xuống biển). Anh Tuấn cùng các anh lớn tuổi trong nhóm lo âu vô cùng. Tình trạng này kéo dài chắc cả thuyền cùng chết hết. Đến ngày thứ Bảy thì thêm một em bé nữa bị kiệt sức và tắt hơi thở.
Quyên nằm bên mẹ anh Tuấn mà lòng vô cùng lo âu. Mẹ rất yếu. Không ăn gì cả đã hai ngày rồi và hơi thở thì thoi thóp thấy rõ. Nhìn ngưòi Mẹ chồng nhân từ với đôi mắt nhắm nghiền mà nước mắt Quyên không ngừng tuôn. Anh Tuấn thấy được điều khó khăn trước mắt nên càng lo buồn hơn nữa. Đến ngày thứ 7 thì thuyền bắt đầu chòng chành nhiều hơn vì gió lớn từ biển Đông Nam thổi vào. Đêm đó trong vòng tay tuyệt vọng của Quyên, Mẹ của anh Tuấn đã ra đi, vì quá kiệt sức nên Mẹ không một lời trối trăn. Ôm xác Mẹ trong tay Quyên cũng ngất liệm đi sau đó.
Từ thuở nhỏ Quyên rất sợ xác chết, chỉ trừ lần Ba Quyên tử trận và khi người ta mang xác Ba về nhà, thương Ba vô cùng nên Quyên mới ôm chầm lấy Ba chớ còn Quyên chưa bao giờ dám đứng gần người chết dầu chỉ nhìn họ trong quan tài. Mẹ anh Tuấn mất đi cả ngày rồi mà Quyên nào dám nói với anh. Quyên âm thầm khóc mà cũng không dám khóc thành tiếng. Anh Tuấn thì cứ tưởng mẹ ngủ mê man nên chỉ nói là để Mẹ ngủ cho lại sức. Đến khi phát hiện Mẹ đã mất anh chết lặng cả người. Trên khuôn mặt hốc hác vì thiếu ngủ, thiếu ăn đã nhiều ngày, Quyên thấy được nỗi khổ đau tột cùng của anh. Anh ôm xác mẹ và ngồi đó hàng giờ mà mắt nhìn đâu đâu của người mất hồn. Ôi còn nỗi đau khổ nào hơn được.
Thương Mẹ, thương chồng, mặc dầu đang bịnh hoạn Quyên cũng rán đứng lên lo công việc, một công việc đau khổ mà trong đời Quyên không bao giờ quên được. Thủy táng người mẹ chồng đáng kính trước đôi mắt khờ khờ dại dại như người điên của chồng mình….
“Thuyền của chúng tôi tiếp tục di chuyển về hướng Nam đến ngày thứ 9 thì cả nước và lương thực đều hết sạch mặc dầu những ngày trước đó chúng tôi đã bị bắt buộc tiết kiệm tối đa. 23 người trong thuyền chúng tôi đã Thủy táng hết 5 người. Anh Tuấn thì tinh thần trở nên rất yếu kém, ngày ngày cứ ngồi mắt nhìn xa xăm hướng về Việt Nam và ngâm nho nhỏ bài thơ.
“Chim buồn, chim bay về núi
Cá buồn, cá chúi xuống sông
Người buồn, ra ngõ đứng trông
Ngõ thì thấy ngõ,
Người không thấy người!”
Cá buồn, cá chúi xuống sông
Người buồn, ra ngõ đứng trông
Ngõ thì thấy ngõ,
Người không thấy người!”
Trước sự ra đi thật đột ngột của người Mẹ thân yêu, sựđau đớn làm cho anh Tuấn trong trình trạng nửa tỉnh nửa điên. Một vài lần chúng tôi thấy những con tàu buôn qua lại. Thấy tàu lớn chúng tôi mừng rỡ vô cùng, mọi ngưòi dầu đói và mệt lã cũng đều đứng dậy kêu gào cầu cứu. Mặc cho tiếng la hét kêu cứu vang trời, mặc cho dầu hiệu SOS (cầu cứu khẩn cấp: Xin hãy cứu lấy linh hồn chúng tôi), mặc cho chúng tôi đốt củi khô cho khói bay lên để làm tín hiệu, các tàu buôn đều làm ngơ và bỏ đi, họ không muốn chuốc lấy phiển toái khi phải đương dầu với làn sóng nguời VN tị nạn lúc đó đang ngập tràn các vùng Đông Nam Á.
Cơn đói khát hành hạ chúng tôi vật vã. Bản thân Quyên có lẽ vì quá đói nên những cơn đau bụng cũng giảm đi nhiều và kiệt sức dần. Khi con người lâm vào đường cùng vì cơn đói, bản năng sinh tốn khiến họ có thể làm những chuyện mà không ai tưởng tượng nổi. Chúng tôi vớt những con cá nhỏ bơi gần thuyền ăn sống mà không biết tanh hôi là gì. Không đủ thức ăn và nước uống, mọi ngươi đều dành nhau và thậm chí đánh nhau chỉ vì một con cá nhỏ. Quyên thì yếu lắm chỉ biết ngồi ôm anh Tuấn mà nước mắt tuôn không ngừng. Lúc đó Quyên vẫn còn nhớ đế cầu nguyện Ông Địa cho mọi người thoát qua khỏi giai đoạn đau khổ này.
Một buổi tối, trong trình trạng tuyệt vọng thì bỗng nhiên trời đổ cơn mưa. May thay trời còn thương cho mưa mà không có gió. Chúng tôi nhờ cơn mưa nên hứng được hơn 10 thùng nước. Nước mưa như những giọt nưóc Cam Lồ của đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu nạn. Nhờ nước mát hầu như mọi nguời trên thuyền đều tỉnh lại kể cả anh Tuấn.
Khi cơn mưa vừa dứt, đang ngủ bỗng nhiên chúng tôi đều bị đánh thức bởi những tiếng động thình thịch như có ai ném cái gì đó lên thuyền. Tỉnh dậy mới biết là đàn cá Chuồn (còn gọi là cá Chuồn Chuồn), ông Địa ơi, cá Chuồn không biết ở đâu mà bay tới tấp vào thuyền chúng tôi. Chúng tôi đồng thức dậy và xúm nhau lượm hết cá bỏ vào bao. Trong vòng không đầy 10 phút thôi chúng tôi lượm được hơn 100 con cá Chuồn. Sau này khi nhập vào trại tị nạn Quyên mới biết là thuyền đã đi qua một vùng cá Chuồn. Mưa làm động nước nên cá chuồn bay và tình cờ nhào vào thuyền của chúng tôi, chắc là do ông Địa dẫn dắt.”
Đói quá, không cần biết cá sống hay chết, đa số những người trên thuyền đều cầm từng con cá Chuồn bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Riêng anh Tuấn thì rất cẩn thận, không dám cho Quyên ăn nhiều, anh chỉ xé lấy thịt cá và mớm cho Quyên ăn như là cho em bé mới tập ăn. Quyên ăn thịt còn anh ăn xương cá. Nhai thịt cá sống Quyên thấy sao mà hương vị thật thơm tho và ngọt liệm. Trong cơn đói chúng tôi lúc đó gần như đã trở thành những con vật không hơn không kém, làm sao chỉ để thỏa mản cái bao tử dẹp lép hơn 5 ngày không có cái gì vào bụng.
“Ngày 29 tháng 4 năm 1977, đúng 12 ngày đêm thuyền chúng tôi rời khỏi Vũng Tàu.”
Kể đến đây giọng chị Quyên tự nhiên lạc đi. Chị khóc nức nở. Tôi biết có việc gì rất quan hệ xảy ra nên kiên nhẫn chờ chị kể tiếp. Giọng chị Quyên bỗng nhiên run run và đứt khoảng, tay chị nắm chặt và mắt cứ trân trối nhìn hình Ông Địa. Khuôn mặt chị trở nên thật …. liêu trai mà nhìn lúc này tôi cũng thấy hơi sợ sợ. Chỉ một thoáng giây thôi khuôn mặt chị Quyên trở lại bình thường và bắt đầu kể tiếp. Tôi biết là chị Quyên đang vào cơn xúc động thật lớn. Giọng chị Quyên lúc này nức nở như khóc.
“Tờ mờ sáng hôm đó, ngày 29 tháng 4 năm 1977 chúng tôi bắt đầu gặp nhiều tàu đánh cá treo cờ Thái Lan. Tàu đánh cá nhưng họ lại trang bị súng đạn đầy mình. Thấy thuyền chúng tôi, hai tàu cá Thái Lan phóng nhanh lại và kèm chặt hai bên. Nhìn cảnh tượng này tự nhiên anh tài công la lên giọng rất là hốt hoảng:
“Tất cả phụ nữ hãy xuống hết hầm tàu, có thể chúng ta gặp hải tặc Thái Lan rồi.” Bình tỉnh để tôi đối phó đừng chống cự nha.
Anh Tuấn vực Quyên đứng dậy và bắt Quyên ngồi núp dưới đống bao tời dùng để che cá khi tàu vớt lưới đem cá lên và dặn Quyên đừng cử động lên tiếng gì hết. Trên tàu còn 3 người phụ nữ khác nữa đều trốn hết dưới bong tàu.
Quyên nghe vài tiếng súng nổ và giọng lơ lớ của một người Thái nói tiếng Việt:
“Dừng lại không thôi tao bắn”
Trong cơn sợ gần như muốn đứng tim thì bỗng nhiên cơn đau bụng của Quyên chợt bùng lên. Đau như da xé thịt. Sau đó Quyên chỉ nghe tiếng la hét, tiếng chưởi thề và tiếng khóc cùng với tiếng súng nổ vang trời. Quyên ngất liệm trong cơn sợ hải và đau đớn tột cùng.
Khi Quyên tỉnh dậy đầu óc còn mơ hồ chưa tỉnh hẳn thì đã thấy anh Tuấn nằm cạnh bên mắt nhắm nghiền, bên ngực anh máu đỏ lan ra hết cả lồng ngực. Trong cơn sợ hãi Quyên cố lay gọi anh, người chồng yêu qúi của Quyên. Anh nằm đó, miệng như còn cười tủm tỉm nhưng không trả lời gì Quyên. Anh đã ra đi từ bao giờ. Quyên hét lên một tiếng hải hùng và một lần nữa ngất liệm bên cạnh xác của chồng mình.
Khi Quyên tỉnh dậy thì mới biết thuyền may mắn gặp tàu buôn của Hong Kong. Họ đi tải hàng đến Mã Lai và khi thấy một con thuyền bị cháy với hơn 10 nguời và vài xác chết trong đó họ đã ra tay cứu vớt. Họ cho biết Quyên bị hư thai đã khá lâu và bịnh rất nặng nên đưa vào bịnh viện cứu cấp còn lại những người khác được mang vào trại tị nạn Mã Lai.
Một tháng sau đó, Quyên cũng nhập trại. Gặp lại những người cùng thuyền thì mới biết trong 23 người chỉ còn 12 người sống sót. Theo những người còn sống sót trên thuyền kể lại, khi bọn hải tặc Thái lên tàu và việc trước tiên là chúng bắt ngay 3 phụ nữ mang lên tàu đánh cá của chúng, cùng lúc họ phát hiện ra Quyên thì anh Tuấn cùng 2 anh nữa trong thuyền vùng lên chống lại. Anh Tuấn chụp được súng của 1 tên hài tặc và bắn lại làm một tên chết và một tên bị thương nặng.
Chúng bắn xối xả vào thuyền và anh Tuấn cùng 2 ngưòi nữa bị trúng đạn. Khi không còn ai chống cự được nữa, trước sự van lạy của anh tài công, bọn hải tặc đốt thuyền để xoá chứng tích và bỏ đi. May mắn ngay sau đó thì có chiếc tàu buôn của ngưòi Hong Kong ngang qua. Thấy cảnh hiểm nghèo của người tị nạn những thương gia Hong Kong động lòng nên ra tay giúp đỡ”.
“Anh D.Q thấy đó (chị Quyên cũng gọi tôi là D.Q, tên mà các bạn Mỹ thường gọi tôi). Sự tự do của gia đình Quyên phải trả một giá bằng máu và nước mắt. Hoàn toàn máu và nước mắt, chị lập lại một cách cả quyết. Hơn 30 năm này Quyên sống hoài với kỷ niệm xưa. Quyên luôn luôn có ông Địa này, mang theo hình bóng người chồng tuyệt vời của Quyên thờ ông Địa. Năm ngoái Quyên và Ông Địa có về VN lại thăm Vũng Tàu. Có dịp đi dạo lại bờ biển cùng với Ông Địa trong xách tay làm Quyên vui lắm. Ông Địa không chịu gặm bắp như anh Tuấn, không cười to, không kể được chuyện vui để chọc Quyên cười như anh Tuấn ngày xưa nhưng Ông Địa lúc nào cũng chỉ cười toe toét. Quyên đem Ông Địa đi cùng hết Bãi Trước rồi Bãi Sau. Vậy mà đã hơn 30 năm..”
Hôm đó sau khi hết giờ làm việc khi chị Quyên đi về rồi thì tôi còn ở lại nhưng câu chuyện của chị làm tôi suy nghĩ nhiều lắm. Thật ra bên cạnh câu chuyện của chị Quyên còn có trăm ngàn câu chuyện “Vượt Biển Đông” khổ đau khác sau thời 1975 mà người ta đã kể đi kể lại từ nhiều năm nay. Rất nhiều người trong chúng ta đã trải qua giai đoạn cùng cực này, trong đó có tôi, Lê Thanh và nhiều bạn Sao Mai khác nữa. Cái khác với chúng tôi là chị Quyên vẫn một mực sống chung thủy với ngưới chồng thương yêu và thay chồng thờ Ông Địa, cầu nguyện ông Địa cho mọi người chung quanh chị được bình an. Điều làm tôi thán phục vô cùng là lòng trung trinh thờ chồng của chị Quyên.
Sau ngày nghe chuyện của chị Quyên, mỗi lần đi ngang qua bàn thờ Ông Địa. Tôi vái một lạy nhưng không bao giờ cầu nguyện gì hết. Mấy nguời bạn Việt Nam thấy vậy có lần hỏi tôi tại sao tôi vái lạy Ông Địa nhưng không cầu nguyện. Tôi chỉ mỉm cười mà không trả lời. Thực ra những lúc vái như thế trong đầu tôi đều thoáng qua một lời cầu nguyện:
“Lạy Ông Địa, xin cho chị Quyên, xin cho những người phụ nữ Việt Nam đầy tình nghĩa thủy chung thôi đừng khổ nữa….Xin Ông Địa luôn giúp chị Quyên có nhiều nghị lực trong đời sống. Xin Ông Địa đừng đi đâu nữa, xin Ông Địa ban cho người dân Việt Nam chúng tôi được những ngày thái bình, ấm no và hạnh phúc ngay trên quê mẹ… ”
QD – Tháng 4, 2010
SƠN TRUNG * CẬU NĂM CHÓ
CẬU NĂM CHÓ
SƠN TRUNG
Khi quân Tây Sơn đánh thắng quân Xiêm và đuổi chúa Nguyễn ra khỏi thành Gia Định, những quan quân chúa Nguyễn đều bị bắt giam. Liêu sinh là một sinh viên giỏi của Trường Tú Lâm cục, thuộc Viện Quốc học ở kinh đô. Chàng chưa đến ba mươi mà đã có ba bằng cử nhân và sau khi đỗ Thạc sĩ, sinh được nhận vào dạy ở Tú Lâm cục.
Lúc bấy giờ các thanh niên, sinh viên Nam hà và Bắc hà đều phải đi lính theo luật tổng động viên, nên Liêu sinh là một thầy giáo và cũng là một sĩ quan trong quân chúa Nguyễn. Vì vậy mà Liêu sinh cũng phải ngồi tù một thời gian. Tại trại giam, Liêu sinh gặp Lâm tiên sinh, cũng bị giam tại đây, vốn là thầy cũ của sinh tại Tú Lâm cục, là người bảo trợ sinh khi sinh làm luận án Thạc sĩ và tiến sĩ. Liêu sinh thông minh, tải ba, mà lại hết lòng đối xử trung hậu với thầy, cho nên Lâm tiên sinh yêu mến là phải.
Trước kia, nước ta tổ chức thi Hương tại các địa phương để lấy cử nhân và tú tài, sau này giáo dục canh tân, khoa học phát triển, thi hương chỉ lấy tú tàI, còn tiến sĩ , cử nhân là do các viện đạI học đào tạo. TạI Nam Hà , người Pháp Lan Tây đã giúp chúa Nguyễn đúc súng đại bác, chế tàu thủy. Viện Đại Học Quốc Gia lúc bấy giờ gồm nhiều trường như Khoa học Cục, Y học cục, Dược học cục, Pháp luật cục, Hành chánh cục, và Tú lâm cục. Tú lâm cục sinh sau đẻ muộn và yếu thế nhất. Trong khi các trường khác đã lập ban tiến sĩ từ hơn hai mươi năm trước, Tú lâm cục chỉ có cử nhân và thạc sĩ. Lâm tiên sinh lúc này làm Tổng thư ký viện Đại học quốc gia.
Do nhiệt tình xây dựng nền giáo dục quốc gia, tiên sinh đã hăng hái lập đề án tiến sĩ cho Tú lâm cục. Dự án của tiên sinh được hội đồng viện đại học Quốc Gia chấp thuận. Lâm tiên sinh tích cực xúc tiến việc thi tiến sĩ cho các sinh viện Tú Lâm cục. Do lòng ưu ái của Lâm tiên sinh, Liêu sinh là người được Lâm tiên sinh chọn làm người trình luận án tiến sĩ đầu tiên và sau đó thêm một hai người nữa thì chấm dứt vì mấy tháng sau, Nam Hà sụp đổ, giang sơn đổi chủ, Liêu sinh và Lâm tiên sinh đều bị bắt giam vì tội theo chúa Nguyễn.
Thầy trò gặp nhau trong trại giam, buổi đầu không biết thế nào, nhưng về sau, thấm nhuần ‘’tư tưởng cách mạng’’, và ‘’tác phong vô sản’’, trong các cuộc sinh hoạt của đội sản xuất, sinh đã tỏ ra tiến bộ vượt bực, thẳng thắn phê bình Lâm tiên sinh. Nguyên Lâm tiên sinh vốn thích hút ống vố, nhưng trong tù không có thuốc, Lâm tiên sinh đành ngậm cái ống vố không theo thói quen. Liêu sinh đứng lên phê bình Lâm tiên sinh là còn luyến tiếc cái cũ, chưa dứt khoát theo cách mạng, ôm ấp tư tưởng phản động, chống đối triều đình.
Vì tỏ ra tiến bộ, Liêu sinh được về nhà sớm. Và vì có chuyên môn về điền thổ, và cũng vì có anh chị đã theo quân Tây Sơn từ trước cho nên Liêu sinh được nhận vào ban Doanh điền Thủ Đức. Làm việc được ít lâu thì Liêu sinh bị tù vì tham nhũng sao đó. It lâu, Liêu sinh ra tù, làm nghề coi bói và tử vi cũng đắt khách. Trong lúc này, kinh tế toàn quốc sụp đổ, miền Nam Hà là vựa lúa mà dân chúng phải ăn khoai sắn thay cơm.
Toàn miền thất nghiệp, kinh tế vào tay tư bản Bắc Hà, bao nhiêu của cải bị vơ vét đem hết ra Bắc. Cơm không có đủ ăn mà cá thịt lại càng khan hiếm. Trong khi đó, kinh tế gia đình của sinh rất khá. vì sinh là người thông minh, tài giỏi và lanh lợi. Sinh rất yêu chó, nuôi hai ba con, ngày tắm hai ba lần, mua từng ký thịt bò cho chó ăn, trong khi đó, cậu không quan tâm đến bố mẹ cậu, mặc cho họ cơm rau qua ngày tháng, sống chết mặc thây! Vì vậy mà dân Thủ Đức gọi sinh là ‘’Cậu năm chó’’. Ai muốn xem bói, hay tìm thăm Liêu sinh, cứ hỏi nhà cậu Năm chó là trẻ già trai gái ai ai cũng biết!
Toàn miền thất nghiệp, kinh tế vào tay tư bản Bắc Hà, bao nhiêu của cải bị vơ vét đem hết ra Bắc. Cơm không có đủ ăn mà cá thịt lại càng khan hiếm. Trong khi đó, kinh tế gia đình của sinh rất khá. vì sinh là người thông minh, tài giỏi và lanh lợi. Sinh rất yêu chó, nuôi hai ba con, ngày tắm hai ba lần, mua từng ký thịt bò cho chó ăn, trong khi đó, cậu không quan tâm đến bố mẹ cậu, mặc cho họ cơm rau qua ngày tháng, sống chết mặc thây! Vì vậy mà dân Thủ Đức gọi sinh là ‘’Cậu năm chó’’. Ai muốn xem bói, hay tìm thăm Liêu sinh, cứ hỏi nhà cậu Năm chó là trẻ già trai gái ai ai cũng biết!
Labels: BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 342
LÊ NGUYỄN * CỘNG SẢN GIAN ÁC
Chẳng hạn như Lê Duẩn nói ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc hay Lê Duẩn công khai chê Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhát như thỏ đế trong cuộc họp nội bộ, chuyện này không thể đổ cho phản động dựng chuyện nói xấu được?... Cũng như chuyện Trường Chinh đấu tố cha mẹ trong cải cách ruộng đất hay kêu gọi bỏ lối viết âu tây trở về với chữ Trung Quốc... bỏ bệnh viện cắt, đục, nạo, khoét dùng lại thuốc dán danh tiếng của Tàu!... Cũng như Hồ Chí Minh không biết Hoàng Sa, Trường Sa là của ai, chỉ biết lờ mờ đó là những bãi hoang chim ỉa nhưng lại mạnh miệng bảo thuộc hạ, nếu đồng chí Trung Quốc có muốn thì cho họ đi?...
Những chuyện như thế, ngày nay ai cũng biết và còn những chuyện khác chỉ có những ai “ở trong chăn cộng sản mới biết chăn có rận”. Rận... vô đạo, vô nhân, vô tâm, vô tư cách, vô nhân cách... chỉ rặt ròng một thứ “làm thì làm bậy, nói thì nói láo” như Hoàng Tùng, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn, Trần Độ, Phạm Quế Dương, Bùi Tín, Nguyễn Tuân, Nguyễn Khải, Dương Thu Hương, Vũ Thư Hiên, Trần Mạnh Hảo, Bùi Ngọc Tấn, Lê Hiếu Đằng, Huy Đức, Trần Đĩnh... Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, Nguyễn Quang Lập... mỗi người một góc nhìn khác nhau, mỗi người tiếp cận một góc nhỏ sự thật về lãnh đạo đảng, nhà nước và con người đảng tính nhiều tính thú của CSVN.
Không phải chỉ có bấy nhiêu tên tuổi là đủ để vẽ nên bức tranh xám xịt manh màu sắc đặc thù cộng sản mà còn một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên vì nhiều lý do, nói theo ngôn ngữ vu vơ của tuyên giáo là “...phần tử xấu, đối tượng bất mãn, không kiên định tự chuyển biến, tự chuyển hóa?...” tiết lộ chuyện thâm cung bí sử của làm bậy, nói láo trong nội bộ đảng CSVN.
Thế nhưng dù lý do nào đi nữa, dù còn hay không còn thần thánh lãnh tụ, dù còn hay không còn mê cuồng cộng sản, tất cả những người cộng sản này đều có chung một kết luận là “Cộng sản làm là làm bậy, nói là nói láo!”
Làm bậy, nói láo là đặc thù của CSVN do những cá nhân nguyên là cộng sản lẫn đang là cộng sản qua quá trình dài trải nghiệm đời sống cộng sản, sống trong nội bộ cộng sản đánh giá cán bộ đảng viên cộng sản chứ không do các thế lực xấu hay phản động lưu vong xuyên tạc, nói xấu... và ai cũng biết xuyên tạc, nói xấu “nói không thành có, cãi có thành không” là sản phẩm đặc thù của băng đảng chuyên làm là làm bậy, nói là nói láo CSVN làm ra, tàng trữ, phát tán tràn lan trong đời sống xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Những việc làm, lời nói của Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn được trích dẫn ở đầu bài là điển hình làm bậy, nói láo của lãnh đạo đảng CSVN và qua quá trình chứng kiến lời nói, việc làm của lãnh đạo to đến lãnh đạo bé, từ cộng sản cha đến cộng sản con cho mọi người thấy, chúng nó có cùng một mẫu số là làm bậy, nói láo truyền đời không thể chối cãi được và làm bậy, nói láo không ngừng phát triển trong đời sống cộng sản, chính xác là CSVN.
Đối với những ai can đảm, vượt qua sợ hãi vạch trần chuyện làm bậy nói láo của chúng trên mọi mặt đời sống. Cụ thể là không ai lạ với chuyện làm bậy, nói láo làm mất thể diện quốc gia của lãnh đạo cộng sản trên diễn đàn quốc tế về nhân quyền, nhân phẩm của người dân Việt Nam bị chà đạp thô bạo ai cũng biết. Thế mà nếu có ai can đảm vượt qua sợ hãi vạch trần chuyện làm bậy của chúng đều bị chúng sử dụng đặc thù làm bậy, nói láo bịa đặt vu khống, gán ghép điền vào sự kiện và thời gian cụ thể cho phù hợp với những con chữ đã qua sử dụng theo từng vụ việc như luận điệu sau đây:
“...Thời gian qua, được sự hà hơi, tiếp sức của các thế lực thù địch, một số cá nhân, tổ chức phản động không ngừng chống phá nhà nước ta bằng nhiều hình thức. Chúng luôn tìm cách móc nối, lôi kéo một số phần tử xấu, những đối tượng bất mãn chế độ ở trong nước để phá hoại, làm ra nhiều tài liệu chống phá nhà nước, phỉ báng chính quyền, tuyên truyền kích động nhân dân, công khai đòi lật đổ chế độ, sử dụng chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền kêu gọi nước ngoài can thiệp vào nội bộ Việt Nam....”
Đọc đoạn văn trên, chỉ nghe thấy những lời kết án, luận tội khơi khơi như “...thế lực thù địch... tổ chức phản động... móc nối, lôi kéo... phần tử xấu, đối tượng bất mãn... chống phá nhà nước, phỉ báng chính quyền... kêu gọi nước ngoài can thiệp vào nội bộ Việt Nam...” tuyệt nhiên bản luận tội không nói rõ, không chỉ ra phần tử xấu, đối tượng bất mãn đã nói viết, đã bày tỏ quan điểm chính kiến chống phá đảng, phỉ báng nhà nước, tuyên truyền kích động như thế nào?
Nội dung kết án quy chụp, vô bằng vô chứng này không khác gì bản luận tội bà Nguyễn Thị Năm - địa chủ yêu nước được bàn tay nhào nặn của tác giả C.B tức Hồ Chí Minh biến thành “địa chủ ác ghê” xử tội chết trong cải cách ruộng đất và không ai có thể phủ nhận, chối bỏ chuyện Hồ Chí Minh qua sự kiện bà Nguyễn Thị Năm là không làm bậy, không nói láo để giết người đàn bà yêu nước góp công, góp của không ít cho kháng chiến chống Pháp.
Đọc một đoạn văn khác về loại kết tội vu vơ của cung cách làm bậy, nói láo cộng sản theo khuôn mẫu Hồ Chí minh. Dù từ ngữ, câu cú có khác nhưng nội dung cũng không có gì khác, cũng chỉ là quy chụp, kết tội lợi dụng “tự do, dân chủ” tuyên truyền chống phá, kích động nhân dân chống đối chính quyền, xuyên tạc sự lãnh đạo của đảng nhà nước... với lời lẽ như sau:
“...Các đối tượng cơ hội chính trị thường lợi dụng bất cứ sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội nổi cộm để bịa đặt, xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước, kích động và vận động nhân dân chống đối chính quyền, xúc phạm danh dự cá nhân, làm mất niềm tin của nhân dân vào các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước...”
Đọc tài liệu lịch sử và chứng kiến tận mắt, nghe tận tai lời nói, việc làm của cán bộ đảng viên cộng sản đến quan chức lãnh đạo thuộc nhiều thế hệ, nhiều đời cộng sản, phải công nhận là kết luận “cộng sản làm là làm bậy, nói là nói láo” của những người sống trong chăn cộng sản quả tuyệt vời, quá chính xác không sai vào đâu được.
Đáng ghê tởm hơn là dù biết đồng bọn làm bậy trắng trợn chúng vẫn hùa vào nói láo lem lẻm để bảo vệ cho việc làm bậy của đồng bọn, bất chấp luật pháp, bất chấp đạo lý với lý lẽ tức cười như sau:
“...Bọn rận chủ phản động này cũng phải công nhận là chúng nó cũng có tài bới móc thật, cơ mà chúng nó quên một điều, đấy là nước Việt Nam chúng ta có luật pháp, có chính quyền chứ không vô bổ như bọn rận chủ phản động các ngươi! Mọi chuyện rồi sẽ có các lực lượng, cơ quan chuyên trách vào cuộc điều tra giải quyết, sẽ đảm bảo những lợi ích tối đa cho mọi người dân!...”
Có lẽ đến thời điểm này, những hành động vô luật vô pháp của cán bộ đảng viên, quan chức lãnh đạo các cấp nhan nhản xảy ra trước mắt hằng ngày đã trở thành phổ biến, chỉ có người mù mới không thấy và mở mồm nói láo trắng trợn như “...Việt Nam chúng ta có luật pháp... rồi sẽ có cơ quan chuyên trách điều tra... đảm bảo lợi ích tối ta cho mọi người dân(?)...”
Ngày nay người dân Việt Nam, có thể có cả những người ngoại quốc quan tâm đến Việt Nam đều biết Việt Nam xã nghĩa có một rừng luật nhưng chỉ sử dụng duy nhất có luật rừng hay diễn tả luật pháp Việt Nam theo cách hài hước, thông minh của những người dân cọ sát với môi trường xã hội chủ nghĩa “công lý xã nghĩa Việt Nam là tên của một diễn viên hài”
Có không biết bao nhiêu vụ án mà công an dùng nhục hình, tra tấn nghi phạm với những tội vớ vẩn gây chết người, cướp đi không ít mạng người dân vô tội với báo cáo cùng một kịch bản là chết do tự tử đến đứa con nít còn thấy sự vô lý của cái gọi là tự tử này? Thế mà khi thân nhân của nạn nhân khiếu nại, tố cáo tội ác của kẻ thủ ác, tố cáo nghi phạm có hành vi phạm tội giết người và để đối phó với chuyện làm bậy: một là cơ quan chức năng không nhận đơn khiếu nại, tố cáo; hai là cơ quan trách nhiệm đưa ra bản kết luận cho rằng không đủ yếu tố buộc tội; ba là cho rằng bản báo cáo của các điều tra viên thực hiện công tác điều tra đúng quy trình, tự tử là khách quan?... cụ thể là các vụ việc gây ra cái chết của ông Trịnh Xuân Tùng, Nguyễn Văn Khương, Hoàng Văn Ngài, Nguyễn Công Nhật, Ngô Thanh Kiều, cô Trần Thị Hải Yến...
Bên cạnh người dân chết trong đồn công an ngày càng tăng, là không biết bao nhiêu người bị tội oan, chết oan bởi tư duy độc ác hơn loài thú dữ “không tội đánh cho có tội, có tội đánh cho chừa...” và đã có biết bao nhiêu người không được may mắn, không có cơ hội như nạn nhân Nguyễn Thanh Chấn, Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng... sống sót để kêu oan mà phải chết oan, chết thế cho “đại gia” lắm tiền, cho quý tử của các quan chức đảng, nhà nước. Những vụ việc đã đang xảy ra trong nước Việt Nam như vừa nhắc đến, có phải là luật pháp xã nghĩa Việt Nam đảm bảo lợi ích tối đa cho mọi người dân?
Chắc chắn những việc làm bậy của công an cộng sản, tức là tra tấn, đánh đập nạn nhân cho đến chết rồi đổ cho tự tử, là làm đúng pháp luật? Chỉ có kẻ thiểu năng trí tuệ mới không biết, chuyện công an cộng sản làm bậy? Vậy vì cớ gì mà có nhiều kẻ bênh vực cho việc làm bậy này?... Có lẽ chỉ có một câu trả lời, một cách giải thích duy nhất là chúng cố tình nói láo, làm chứng gian để bao che cho nhau làm bậy mà thôi.
Thực ra chuyện hùa theo làm bậy nói láo của đám cộng con là công an, văn nô bồi bút, tuyên giáo... một phần do mê cuồng, phần khác do thiểu năng trí tuệ nên đáng thương hơn đáng giận dù hậu quả của chúng gây ra cũng không phải là không nghiêm trọng! Đáng giận chăng là chuyện làm bậy, nói láo của đám cộng sản cha là đám lãnh đạo trung, cao cấp của đảng, nhà nước CSVN. Chuyện làm bậy nói láo của đám lãnh đạo này không những đáng giận mà còn đáng quan ngại bởi làm bậy nói láo của đám cộng cha này đã để lại hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, khó khắc phục.
Cộng sản cha, chúng làm bậy nói láo bất chấp đạo lý nhân cách, bất chấp thể diện quốc gia, bất chấp sự sống còn của đất nước dân tộc – làm bậy chỉ nhằm mục đích duy nhất bảo vệ sự sống còn của đảng và nói láo dù biết rằng xã hội chủ nghĩa cuối thế kỷ này không biết đã có chưa nhưng ngoài miệng vẫn lem lẻm, lẻo lự chủ nghĩa xã hội là sự chọn lựa đúng đắn của toàn dân!
Cộng sản cha, chúng làm bậy nói láo bất chấp đạo lý nhân cách, bất chấp thể diện quốc gia, bất chấp sự sống còn của đất nước dân tộc – làm bậy chỉ nhằm mục đích duy nhất bảo vệ sự sống còn của đảng và nói láo dù biết rằng xã hội chủ nghĩa cuối thế kỷ này không biết đã có chưa nhưng ngoài miệng vẫn lem lẻm, lẻo lự chủ nghĩa xã hội là sự chọn lựa đúng đắn của toàn dân!
Muốn ngăn chận chuyện làm bậy nói láo sinh sôi nẩy nở trong đám cộng con phải dũng cảm đứng lên chống lại những kẻ làm bậy nói láo bất kể chúng là ai. Muốn triệt tận căn con bệnh làm bậy, nói láo của đám cộng cha, không còn cách nào khác là phải giải trừ độc tài cộng sản, xóa bỏ độc quyền lãnh đạo của đảng CSVN và thiết lập thể chế chính trị tự do dân chủ. Dù chính thể dân chủ không phải là chiếc đũa thần vạn năng chữa trị bá bệnh, không phải là chính thể hoàn hảo đẩy lùi ngu dốt, mê cuồng cộng sản nhưng chính thể dân chủ thừa sức ngăn chận, loại trừ chính trị gia, đảng chính trị cầm quyền làm bậy, nói láo tràn lan như trong chế độ độc tài toàn trị CSVN.
NGUYÊN HẠNH * ĐÓA SEN XANH
ĐÓA SEN XANH
NGUYÊN HẠNH *
Viết tặng ni cô Huệ Trân - người học trò cũ của tôi
Không ngờ tôi lại gặp em sau 30 năm trời không có tin tức của nhau. Em ở một phương trời, tôi một phương vậy mà vẫn có ngày hội ngộ trên xứ người, ngay tại thành phố tôi đang ở. Thì ra sông dù có nhiều khúc quanh cũng có lúc xuôi dòng!
Qua lời mời của một cô bạn cho hay là sẽ có một buổi trà đàm tại đạo tràng của cô ta, tôi đã nhận lời ngay bởi vì tôi vốn sẵn yêu thích những phút giây thanh thản và ấm cúng ngồi quây quần bên nhau như vậy!
Bước vào đạo tràng, sau khi yên ổn chỗ ngồi, nhìn lên phía diễn giả, trời ơi! tôi giật thót mình, không ngờ đó là em. Em cắt tóc ngắn, mặc áo tràng màu nâu sậm, dáng vẻ thanh thoát! Ngồi bên cạnh là người bạn đời của em - anh Trần quan Long - nhạc sĩ hay phổ nhạc những bài thơ của em. Thấy tôi, em bất chấp mọi người, vụt đứng dậy chạy xuống ôm chầm lấy tôi, cả thầy trò nước mắt rưng rưng, nhìn nhau nghẹn ngào không nói nên lời! Ôi vòng tay ấm áp tình thầy trò làm cho đôi mắt tôi không ngớt nhạt nhoà! Sau phút giây xúc động, em dìu tôi lên phía chỗ em ngồi, giới thiệu với mọi người đây là cô giáo dạy Toán ngày xưa khi em đang học lớp Đệ tứ trường Trưng Vương Sài Gòn. Em còn nhắc lại kỷ niệm khi tôi vào lớp em, vì sao em đã yêu mến cô giáo ngay sau vài tuần học.
Thì ra em đã bỏ rất nhiều năm tháng nghiên cứu miệt mài về giáo lý đạo Phật, đã từng đi nói chuyện nhiều nơi với người bạn đời cùng chí hướng, rất tâm đầu ý hợp. Sau lần ghé Đức, em sẽ qua Paris tiếp tục cuộc hành trình.
Cuộc gặp gỡ với em đã đưa tôi trở về dĩ vãng xa xưa! Ngày ấy tôi mới ra trường Sư Phạm và được bổ về dạy tại trường Trưng Vương Sài Gòn. Dạo đó, nhà trường chưa bắt học sinh mặc đồng phục, mà tôi lại dạy các lớp Đệ tứ, Đệ tam. Các em nữ sinh quá lớn, mặc áo dài hoa sặc sỡ đủ màu với quần dài đen, trong khi ở Huế, thời nữ sinh chúng tôi chỉ quen mặc những bộ đồ lụa dài nội hoá, màu trắng hoặc màu nhạt như hồng phấn hay mỡ gà mà thôi. Tôi thật quá bỡ ngỡ và hơi khớp khi đặt bước chân đầu tiên vào các lớp học. Còn nhớ khi đến trình diện bà Hiệu trưởng, bà đã nhìn tôi từ đầu đến chân rồi vừa cười vừa nói: "Cô còn nhỏ quá liệu có trị nổi học trò của tôi không?" Cũng may, dần dà các em nữ sinh đã thương mến tôi, coi tôi như một người chị rất gần gũi, không có vẻ gì xa cách giữa thầy trò cả.
Một hôm, tôi cho lớp em làm bài kiểm Toán, cả lớp im phăng phắc chăm chỉ lo làm bài, còn tôi thì đi lui đi tới xem thử các em có làm được không? Ngang qua chỗ em ngồi, thấy ánh nắng chiếu vào bài tập của em, sợ em bị chói mắt, tôi với tay khép bớt một cánh cửa sổ lại. Tôi đã làm với một cử chỉ tự nhiên như với bất cứ em học sinh nào, ai ngờ hành động của tôi đã làm cho em cảm động và em đã thương yêu cô giáo mình từ đó. Em đã dành cho tôi một tình thương đặc biệt và ganh tị ngay cả với những em nào cũng thương tôi như em.
Ngày tôi đổi về dạy trường Đồng Khánh Huế, xa trường, xa Sài Gòn, em đã khóc như mưa làm tôi bước lên máy bay mà vẫn xót xa trong lòng, đành chia tay nhau trong im lặng, buồn nhìn nhau thông cảm mà thôi.
Ngày đám cưới tôi, em đã gởi mừng quà cưới bằng một bức tranh thật lớn in hình đôi chim bồ câu đang âu yếm rù rì bên nhau!
Sau Mậu Thân, tôi vào Sài Gòn thì em đã đi xa, dò hỏi các em học trò cũ được biết em đã có gia đình, có con nhưng lại bị đổ vỡ nửa chừng. Rồi tình cờ khi đi Bưu điện, tôi đã gặp em, thầy trò ôm nhau nức nở nghẹn ngào, hàn huyên một lúc rồi chia tay, em phải về vì đường còn xa lắm!
Từ đó cho đến sau 30.04.75 tôi không hề gặp lại em, cho đến khi qua định cư ở Đức, đi đến đạo tràng lại gặp được em trong một lúc bất ngờ nhất, cuộc đời vẫn còn đem đến cho con người những niềm vui lạ lùng thật!
Qua vài ngày ở München, sau vài bữa cơm thân mật tại gia đình tôi, hai người lại đáp tàu đêm qua Paris trước khi trở về California. Tôi muốn tiễn đưa em một lần cuối, vội vã làm một ít thức ăn mang ra sân ga. Phút chia ly nào cũng ngập tràn luyến lưu bịn rịn nhất là khi mỗi người ở một phương trời quá xa xuôi vạn dặm và nhất là khi không biết có còn gặp lại nhau nữa hay không?
Sau khi về đến Mỹ, em đã gởi cho tôi một thùng quà, mở ra thấy 6 quyển sách đã xuất bản mà chính em là tác giả, kèm theo một bức thư lời lẽ thật dễ thương, đọc xong vẫn còn bùi ngùi vấn vương trong lòng mãi:
"Cô giáo dễ thương ơi!
Em tưởng đã hết duyên sao còn nợ nần nhau quá thế! Anh Long cứ nhìn giỏ thức ăn đêm mà cười hoài.. còn em thì trăn trở, không ngủ được vì bao xúc cảm ngổn ngang. Hai giờ sáng, mở xôi ra, rắc muối mè thơm lừng, vừa nhẩn nha thưởng thức vừa "rên rỉ" ... Cô giáo ơi!
Ngày xưa chỉ đóng cánh cửa sổ đã mệt em rồi, nay xôi đậu muối mè tất tả chạy ra ga cho kịp chuyến tàu đêm, em trả bài sao cho trọn hả cô giáo?
Cám ơn tình Chị
Cám ơn sự ân cần của Anh
Thương, "
Bảo Ngọc
Lật chồng sách ra, tôi càng choáng ngợp, không ngờ em lại còn giỏi viết lách, em đã xuất bản những tác phẩm sau đây:||
Gió sông Hồng
Sông núi thì thầm
Tâm Hương Tải Đạo
Vô Tự Thị Chân Kinh
Bình Thường Tâm Thị Đạo
Bước Chân Cùng Tử
Tôi nghĩ tác giả nào khi cầm bút là viết cho mình trước hết, viết vì nội tâm thúc dục mình muốn giải tỏa những ẩn ức, ước vọng, khao khát, viết vì muốn được cảm thông với kẻ khác. Nhưng còn em, tôi phục em quá, so với em tôi chỉ là một hạt cát giữa sa mạc vì vậy không bao giờ tôi dám nhận mình là nhà văn và cũng chưa bao giờ dám nhận lời mời tham dự các buổi họp mặt của các nhà văn nữ khắp nơi.
Càng đọc tôi càng say mê, càng bị lôi cuốn vào những bài em viết, Em đã thấu hiểu rất cao siêu và thấm nhuần rất nhiều về triết lý đạo Phật. Đạo Phật đã đi vào cuộc đời em như bóng với hình. Em cũng đã dày công nghiên cứu, học hỏi qua nhiều tháng năm mới có được một căn bản vững chắc như vậy. Trong khi sự hiểu biết của tôi chỉ "mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm" mà thôi.
Xin hãy cùng tôi đọc thử một đoạn văn sau đây:
........." Cái gì đây?
Tôi dừng vội lại, đến mức suýt ngã chúi về phía trước. Một bông hoa dại vàng rực rỡ từ khe nứt của lề đường xi măng.
Trời đang hừng hực nắng, nền xi măng tưởng như có thể bốc khói. Vậy mà bông hoa vẫn từ đó vươn lên, nở rộ. Vết xi măng nứt rất nhỏ, có sự tình cờ nào của bụi phấn hoa nhờ gió thoảng đưa qua? Hay sự vụng về của con chim nào tha hạt nhả rơi vào đó? Hay duyên của bông hoa vừa hội đủ từ kiếp nào? Hay duyên của chính tôi đã bước tới đúng Sát na này? Thật là kỳ diệu!
Quỳ xuống chưa đủ, tôi đưa tay sờ nhẹ cánh hoa như để chứng nghiệm đây là thật. Đúng. Đây là thật.
Không phải chỉ bông hoa là thật mà tôi sửng sốt vì thông điệp cực kỳ uyên nguyên, cực kỳ hiển lộ, bông hoa đang mang cho tôi cũng là sự thật. Đó là "THÔNG ĐIỆP CỦA SỰ HIỆN DIỆN CHÂN NHƯ, MẦU NHIỆM"
(Trích Bình Thường Tâm Thị Đạo)
Đúng là đạo Phật đã đi vào cuộc đời em như hình với bóng và em đã thấu hiểu đạo Phật là đạo Giác Ngộ.
Bây giờ tôi được tin em đã xuất gia, tôi càng cảm phục em hơn nữa nhưng tôi không ngạc nhiên và quá ngỡ ngàng khi hay tin này.
Trước đó em đã quan niệm rằng nếu định lực yếu kém, hãy dùng hình thức bên ngoài trợ lực, hình thức nào gần nhất với thân, hình thức nào ta có thể nhìn thấy, nhận thấy từng phút từng giây mới có thể liên tục nhắc nhở ta tinh tấn? Và hình thức bên ngoài gần nhất với thân mà dễ thấy dễ nhận hơn, đó là Mái tóc! Và em đã tìm tới một tu viện Sư Nữ, quỳ trước một Ni Sư xin được chứng minh trước Tam Bảo, lòng sám hối và quyết tâm tinh tấn tu học. Em đã xin xuống tóc như một hình thức tự nhắc nhở mình và em đã đưa lại cho bạn em chiếc lược đồi mồi rất đẹp mà bạn đã mua tặng vì từ nay em không dùng nữa!
Sau đó em đã chụp một tấm hình để gởi tặng tôi và hỏi tôi có ngạc nhiên lắm không? Tôi không ngạc nhiên mà chỉ cảm thấy lòng mình dâng lên một niềm cảm xúc rưng rưng!
Xuất gia là một ý định vô cùng cao quý nhưng cũng là một con đường vạn dặm với muôn ngàn khó khăn và gian nan không thể tưởng tượng, không phải ai cũng đi theo con đường này được. Có lần em đã nói với tôi: Chỉ cần chăm chỉ quét thôi, quét rác quét bụi thì tâm sạch, quét nghiệp thì tâm tịnh, quét vô minh thì trí tuệ hiển bày; dù biết vậy nhưng thực hành cho được đâu có dễ dàng! Và em cũng đã tâm sự rằng từ nhỏ em đã mê tiếng chuông công phu sớm từ đại hồng chung của ngôi Chùa gần nhà em. Tiếng chuông nương tâm người thỉnh chuông đã chậm rãi, nhẹ nhàng vượt không gian hạn hẹp, vượt thời gian cô đọng ngân tới đâu không ai hay, chỉ biết tiếng chuông công phu sớm đó chứng thực sự nhiệm mầu tột cùng của Bát nhã "Sắc tức thị không, không tức thị sắc ... "
Em còn xinh đẹp, dù cuộc tình duyên lần đầu đã tan vỡ nhưng hiện tại em đã có một người bạn đời rất tâm đắc, biết cảm thông và trân quý em, vật chất đầy đủ, nhà cửa khang trang, không vướng bận chuyện con cái phiền muộn, vậy mà em vẫn muốn xuất gia, buông xả tất cả chỉ để theo chân đức Phật mà thôi. Em đã thực hiện theo lời Phật dạy: "Con đường ta đã chỉ, đốt đuốc lên mà đi hay không là nơi mỗi chúng sanh!"
Cô Huệ Trân ơi!
Cô đã tìm con đường giải thoát để mà đi, bỏ lại đằng sau tất cả ưu tư phiền muộn của cuộc đời. Cô muốn theo sát bước chân vị Thái tử đã rời bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, bước những bước chân trần đầu tiên, quyết đi tìm những sự thật mầu nhiệm từng bị vô minh che lấp khiến muôn loài triền miên trong luân hồi đau khổ. Cô đã thắp sáng cho mình một niềm tin, một ngọn lửa tin yêu thuần khiết như phiến gỗ nâu chắc, để mãi mãi lớp than hồng vẫn còn đủ sưởi ấm Cô trong những ngày khoác áo nâu sòng, nương thân nơi cửa Phật.
Từ nơi xa xôi này, xin gởi đến Cô lòng mến phục vô biên của cô giáo ngày xưa. Xin được tặng một Đóa sen xanh tự trái tim người ngưỡng mộ.
Nguyên Hạnh HTD
Cảm tác của LXQuỳnh Như với “Đoá Sen Xanh”
Vô thường
Đời người tựa giấc chiêm bao,
Đang đi giữa hạ bổng vào cuối đông.
Tình yêu đương thuở mặn nồng ,
Bổng dưng bão cuốn theo dòng nước trôi.
Bỏ em lạc bước giữa đời.
Bơ vơ khắp ngã tìm nơi ẩn mình.
Làm sao hết kiếp ba sinh,
Đi sao cho hết đường tình xót xa .
Đời em bổng chốc phong ba ,
Còn đâu giây phút mặn mà thuở xưa?
Đời em đứng giữa gió mưa,
Mặc cho mưa gió đẩy đưa cuối dòng.
Còn đâu ước vọng mà mong,
Nương vào cửa Phật cho lòng bớt đau.
Cho tâm giãm bớt nỗi sầu,
Quỳ xin Đức Phật nhiệm mầu cưu mang.
Đưa tâm về chốn bình an,
Đưa hồn thoát khỏi muôn vàn đắng cay.
Con xin quỳ dưới Phật đài,
Quy y tam bảo, xin Ngài thứ tha.
Hồng trần một kiếp bôn ba,
Lang thang giữa cõi ta bà thế gian.
Chắc là nghiệp quả còn mang,
Tu thân kẻo quá muộn màng kiếp sau.
LXQuỳnhNhư 16- 03 – 2012
__._,_.___
NGUYỄN THỊ TỪ HUY * NGHỊCH LÝ NHÂN SỰ
NGHỊCH LÝ NHÂN SỰ
Fri, 10/24/2014 - 14:32 — nguyenthituhuy
Đánh giá về năng lực của đảng viên, đặc biệt là của các đảng viên đứng ở cương vị quản lý các cấp, hiện nay có hai luồng ý kiến khác nhau, khác đến mức đối lập nhau. Không cần phải so sánh các tin tức trên hai luồng báo chí đối lập (lề phải/lề trái) để có nhận xét này. Chỉ cần đọc báo chính thống cũng thấy được sự mâu thuẫn trong đánh giá về năng lực lãnh đạo và quản lý của hệ thống cán bộ.
Một mặt, bản thân các đảng viên tự coi mình là những người xuất sắc. Họ tự coi mình là « những người con ưu tú của dân tộc », đưa dân tộc « đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác » ; điều này được ghi trong hầu như các sách của nhà nước khi đánh giá về vai trò của đảng, và được ghi trên các khẩu hiệu chăng đầy các đường phố mỗi dịp lễ lạt, kể cả không lễ lạt.
Mặt khác, không ít người nhìn các đảng viên như là các tội phạm lịch sử đã đẩy dân tộc vào những thảm cảnh : nghèo đói, lạc hậu, giáo dục băng hoại, văn hóa suy đồi, tài nguyên kiệt quệ, đất nước lệ thuộc vào Trung Quốc. Nghĩa là xét về năng lực lãnh đạo và quản lý họ là những người rất kém cỏi. Kém cỏi thì mới để xảy ra tình trạng như vậy.
Tại sao cùng một đối tượng mà lại nhận được những đánh giá trái ngược đến như vậy ?
Ai trả lời được câu hỏi này ?
Khi bắt đầu viết blog này tôi đã tự nhủ mình rằng đây sẽ là không gian của các câu hỏi, rằng tôi sẽ đảm nhận cái vai trò của người đặt câu hỏi. Và hy vọng sẽ nhận được câu trả lời từ trí tuệ của mọi người, trong đó hy vọng lớn nhất đặt vào các bạn sinh viên, những người mà trong bối cảnh của nền giáo dục hiện nay chỉ được dạy cho cách học thuộc lòng, bị bắt phải học thuộc lòng, chứ không được dạy cho cách đặt câu hỏi, và cách tự tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi, tức là tự tìm kiếm cách giải quyết các vấn đề của cuộc sống thực tế.
Trở lại với câu hỏi trên đây và hai luồng ý kiến đối nghịch trên đây, bản thân tôi dĩ nhiên chẳng thể nào có được câu trả lời đầy đủ.
Ở đây, xin nhắc lại, tôi chỉ tập trung vào một điểm : ý kiến đánh giá về năng lực quản lý và lãnh đạo của đảng, mà đảng thì không trừu tượng, trái lại đảng hiện thân trong các thành viên của đảng, nghĩa là nói đến đảng là nói đến các đảng viên.
Và tôi giới hạn vấn đề vào một điểm nhỏ hơn nữa : LỰA CHỌN người để kết nạp đảng viên và để đặt vào vị trí quản lý. Về thời gian, chỉ xét từ thời điểm Việt Nam bắt đầu xây dựng và phát triển đất nước một cách độc lập, tức là từ sau 1975 ; bởi vì chính từ thời kỳ này mới có thể đánh giá năng lực quản lý và lãnh đạo công cuộc tái thiết và phát triển quốc gia trong hòa bình, về mọi mặt : kinh tế, giáo dục, văn hóa, khoa học…, nghĩa là bài này không đề cập đến thời kỳ chiến tranh.
Đảng viên cho rằng những người được lựa chọn là những người xuất sắc, có nghĩa là bản thân họ là những người xuất sắc. Trái lại, nhận định của một bộ phận xã hội cho rằng những người được đảng lựa chọn là kém năng lực. Nhận định này dựa trên tình trạng bê bối và băng hoại toàn diện của xã hội Việt Nam hiện nay.
Ta thử xét từ góc độ nhìn nhận của những người đảng viên.
Để công bằng thì phải nói rằng, trước khi việc bổ nhiệm nhân sự được tiến hành theo cách thức mua bán như hiện nay, tiêu chí lựa chọn của đảng quả là từng dựa trên năng lực, đảng đã muốn chọn những người xuất sắc, dĩ nhiên là xuất sắc theo thang đánh giá của đảng, trong đó có điều kiện về lý lịch và nhân thân. Lấy ví dụ về trường hợp kết nạp sinh viên vào đảng : người ta không chọn sinh viên kém để cho vào đảng. Để được vào đảng sinh viên phải thuộc diện xuất sắc, và theo tiêu chí hiện hành thì đó là những sinh viên được điểm cao, có hạnh kiểm tốt.
Tuy nhiên điểm của sinh viên lại tùy thuộc vào cách dạy, cách ra đề và cách đánh giá bài thi của giáo viên. Do vậy, trên thực tế, giữa một sinh viên đạt điểm cao và một sinh viên đạt điểm trung bình, khó biết được trên thực tế ai giỏi hơn ai. Với cách đánh giá kiểu bộ đề, bài văn mẫu, hiện nay, thì phẩm chất được đánh giá cao là trí nhớ tốt, khả năng học thuộc lòng, chứ không phải sự thông minh, sáng tạo và năng lực tư duy độc lập. Tuy vậy, không loại trừ việc những sinh viên đạt điểm cao là những sinh viên giỏi thực sự.
Và tiêu chí hạnh kiểm tốt ở trường học chúng ta đồng nghĩa với khả năng vâng lời, ở trình độ sinh viên thì đó là khả năng trung thành với lý tưởng của đảng. Các phẩm chất được dạy ở trường: yêu tổ quốc, yêu đồng bào, khiêm tốn, thật thà, dũng cảm (tất cả mọi học sinh đều phải học thuộc lòng, vì năm điều này được dán trong mọi trường học), trên thực tế bị xếp ở dưới cái yêu cầu phải trung thành với đường lối và nghị quyết của đảng. Càng về sau, yêu cầu trung thành với đảng càng trở thành tiêu chí thiết yếu trong việc lựa chọn cán bộ cho bộ máy nhà nước.
Trên thực tế, đảng cũng đã chọn được những người có năng lực, và có đạo đức. Bởi như đã nói, đảng không phải là cái gì trừu tượng, mà là từng đảng viên cụ thể, ở những vị trí cụ thể, và ở những địa phương cụ thể. Những con người cụ thể đó vẫn có thể có những cách làm việc, ứng xử riêng của mình, cho dù hiện nay bộ máy gần như muốn đồng hóa tất cả.
Hãy nhìn trường hợp Bí thư Hội An, ông Nguyễn Sự. Người đàn ông gầy gò đi một chiếc xe máy cũ tàng. Ông là người đã giữ linh hồn cho Hội An. Theo một cách khác, cũng có thể nói ông là người mang lại linh hồn cho Hội An, đã biến Hội An thành một thành phố được du khách yêu thích bậc nhất ở Việt Nam, vì đến Hội An họ nhìn thấy lịch sử, quá khứ, nhìn thấy các giá trị tinh thần. Lịch sử, quá khứ, bản sắc, các giá trị tinh thần là những thứ mà các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn đang mất dần. Sự biến dạng của chùa Trăm Gian là nỗi đau của người Hà Nội.
Và Thương xá Tax đang là nỗi đau của người Sài Gòn. Phá hết, hủy hoại hết như vậy thì làm gì còn lịch sử !!! Một dân tộc sẽ như thế nào nếu không có ký ức lịch sử ? Ông Nguyễn Sự không chỉ làm cho Hội An trở thành điểm du lịch yêu thích, ông đã giữ lại ký ức lịch sử cho không chỉ người Việt Nam. Du khách Nhật, du khách Trung Quốc, du khách Pháp đến Hội An đều có thể tìm lại hình ảnh tiền nhân của mình qua các dấu tích để lại ở thành phố nhỏ bé này, nó nhỏ đến mức gây cảm giác luyến tiếc cho những người dạo phố. Đó là cảm giác mà tôi đã có khi đến Hội An. Tôi đã ước gì Hội An rộng hơn, lớn hơn, có nhiều phố xá hơn, để có thể bù đắp thêm phần nào cho sự xuống cấp về tinh thần và văn hóa của đa số các thành phố khác trên đất nước này.
Tuy nhiên, chính ở điểm này mà ta có thể đặt vấn đề ngược lại. Có thể vì Hội An nhỏ như thế nên ông Nguyễn Sự mới giữ được nó như thế. Ở một thành phố lớn, nơi có nhiều quyền lực kinh tế xâu xé lẫn nhau, ông Nguyễn Sự có làm được điều mà ông đã và đang làm cho Hội An ?
Trường hợp Bí thư Hội An cho thấy rằng không phải toàn bộ đảng viên hay toàn bộ những người đang làm việc cho bộ máy đảng đều là những người thiếu năng lực quản lý hay thiếu đạo đức. Trong bộ máy vẫn còn có những người làm việc cho các giá trị chung của cộng đồng, và có đủ khả năng để làm việc đó. Nhưng những người như thế rất hiếm hoi. [Mở ngoặc để nêu một câu hỏi : tại sao, điều gì trong thể chế này không tạo điều kiện để có nhiều người như thế, trái lại khiến cho họ rơi vào tình trạng hiếm hoi, đơn độc, và ngày càng hiếm hoi hơn ? Câu hỏi này sẽ dẫn tới câu hỏi khác (mà câu trả lời không phải là mục đích của bài này) : một thể chế chính trị như thế nào thì khuyến khích được những người như ông Sự phát triển và tạo điều kiện cho họ xuất hiện phổ biến trong xã hội ?]
Nói về trường hợp ông Nguyễn Sự để tự nhắc nhở rằng : cần phải chống lại cỗ máy phi nhân của cơ chế độc đảng hiện hành, nhưng sẽ sai lầm nếu chống lại con người. Nếu một số lãnh đạo trong các cơ chế độc tài có thể từ bỏ lợi ích của mình (trường hợp gần đây nhất là Then Sen, hiện là đương kim tổng thống Miến Điện) là bởi họ có khả năng nhận ra tính phi nhân của bộ máy đang mang lại lợi ích cho riêng cá nhân họ nhưng lại làm hại cho cộng đồng của họ. Và họ nhận ra được điều đó nhờ phần nhân tính ở trong họ, vì họ là con người, và cái phần con người đó khiến họ có đủ lý trí và sức mạnh để tách ra khỏi bộ máy.
Câu hỏi là : trường hợp ông Nguyễn Sự rất hiếm hoi, vậy có nghĩa là việc ông được lựa chọn không đại diện cho cách lựa chọn người để kết nạp đảng viên và bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo các cấp ?
Xin nhắc lại câu hỏi ở cuối phần trước của bài này :
Trường hợp ông Nguyễn Sự rất hiếm hoi, vậy có nghĩa là việc ông được lựa chọn không đại diện cho cách lựa chọn người để kết nạp đảng viên và bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo các cấp ?
Câu trả lời có thể gây ngạc nhiên : kể cả trong bối cảnh mua bán chức quyền hiện nay, đảng vẫn tìm đến những người có năng lực và đạo đức để mời họ vào đảng, với điều kiện là những người đó không biểu hiện các quan điểm khác với quan điểm của đảng. Dĩ nhiên, với đối tượng này đảng bị từ chối nhiều, nhưng cũng không ít người nhận lời.
Trên thực tế, không thể phủ nhận rằng, dù không phải là tất cả thì có một bộ phận đảng viên là những người có năng lực, có trình độ, được đào tạo, hoặc nói theo cách mà họ tự nhìn nhận về mình : họ là những người xuất sắc. Điều này có thể gây ngạc nhiên cho những ai đang nhìn thấy đảng viên như những người yếu kém về năng lực quản lý; nhưng những điều tiếp theo đây sẽ có tác dụng làm giảm sự ngạc nhiên. Những suy nghĩ trong bài này chỉ giới hạn ở bộ phận đảng viên có năng lực.
Vấn đề sẽ là : vì sao những người được lựa chọn vốn là những người xuất sắc mà kết quả công việc của họ lại có thể khiến cho họ bị đánh giá là kém cỏi trong việc điều hành, quản lý, và vì thế phải chịu trách nhiệm lịch sử trước sự suy thoái của dân tộc ? Tại sao họ lại cùng nhau đưa cả đất nước vào tình trạng chung thảm hại hiện tại ?
Dưới đây là một lý giải, dĩ nhiên chỉ mang tính phiến diện.
Đảng vẫn tìm đến những người có năng lực và đạo đức để mời họ vào đảng, NHƯNG với các điều kiện của đảng : phải tham gia một khóa học « cảm tình đảng », sau khi kết thúc khóa học này phải viết một bài thu hoạch và chính dựa trên bài thu hoạch này mà đảng sẽ quyết định có kết nạp hay không.
Ngay từ bước đầu tiên của lớp « cảm tình đảng » này người đảng viên tương lai đã buộc phải lựa chọn giữ lại « năng lực » nào cho mình và phải đánh mất những năng lực nào của mình. Còn muốn làm lãnh đạo, phải học một khóa ở trường đảng Nguyễn Ái Quốc. Và từ lúc đó, mọi nguyên tắc đạo đức không còn quan trọng nữa trước sự trung thành đối với đảng. Trước sự đồng hóa của đảng, trước cám dỗ về lợi ích vật chất có được nhờ đảng, bao nhiêu đảng viên giữ được bản lĩnh của mình như ông Nguyễn Sự ?
Đã có nhiều bài trên báo chính thống nói thẳng rằng ông Nguyễn Sự là trường hợp hiếm hoi trong hàng ngũ lãnh đạo hiện thời. Vả chăng, một mình ông Nguyễn Sự cũng không thể cải thiện guồng máy chung của đảng; tâm huyết của ông, bản lĩnh của ông, đạo đức của ông cũng không ngăn cản được các cán bộ ngay trong thành phố Hội An của ông tham nhũng, vi phạm pháp luật, nghĩa là tha hóa và làm hại người khác, làm hại lợi ích chung để củng cố lợi ích riêng : tại thời điểm này đang diễn ra vụ việc Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự TP.Hội An bị thụ án vì lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản (tham khảo thêm thông tin cụ thể : http://www.thanhnien.com.vn/pages/20141004/tam-giam-chi-cuc-truong-thi-h...).
Trở lại với thực tế của guồng máy đảng để thấy rằng : không ít người có năng lực nhận lời vào đảng. Họ có lý do để tự nhận rằng họ là những người xuất sắc, họ có lý do để nói rằng đảng cũng muốn tập hợp những người xuất sắc vào hàng ngũ của đảng. Nhưng điều mà có lẽ họ không nhận thấy, đó là sự xuất sắc của họ đã mất đi cùng với các lợi ích mà họ nhận được từ đảng.
Hoặc, cũng có thể nhìn theo cách khác : họ đã không dùng sự xuất sắc để phát triển các năng lực của chính họ, và phát triển cộng đồng chung. Trái lại sự xuất sắc của họ chỉ dùng vào việc phát triển lợi ích vật chất cho cá nhân họ và bảo vệ lợi ích của đảng và bảo vệ sự tồn tại vững chắc cho đảng, bởi lợi ích của đảng cũng là lợi ích của chính họ (cần xác định lại điều này : đảng chính là các đảng viên).
Đáng nói hơn, họ dùng sự xuất sắc của họ để làm lụn bại khả năng trí tuệ của những người khác, bằng cách tạo ra những môi trường trong đó năng lực trí tuệ không thể phát triển được, bởi đó là những môi trường nơi tự do bị bóp nghẹt, nơi các điều kiện sống và điều kiện làm việc bị bóp nghẹt. Không phải là họ không hiểu, trái lại họ hiểu rất rõ nhưng chủ động tạo ra môi trường như vậy nhằm hủy diệt các nguồn lực trí tuệ của quốc gia chỉ với mục đích duy nhất là bảo vệ lợi ích vật chất của họ, với cái giá là năng lực trí tuệ của chính họ cũng cùn mòn đi, tiêu biến đi.
Cần hiểu rằng giờ đây, ý thức hệ thuở ban đầu hoàn toàn không còn nữa khi mà bản thân người lãnh đạo cao nhất của đảng thừa nhận rằng chủ nghĩa xã hội là một thứ ảo vọng mà đến « cuối thế kỷ » này cũng chưa thể thấy mặt mũi nó ra sao. Lý tưởng đã hoàn toàn biến mất, cái còn lại chỉ là sức mạnh quái đản của lợi ích vật chất trong một xã hội tiêu thụ.
Điều này góp phần lý giải vì sao Việt Nam càng ngày càng sa sút trên nhiều phương diện, nhưng sự tồn tại của đảng không hề bị đe dọa. Các đảng viên xuất sắc đã dùng sự xuất sắc của họ để làm cho đất nước suy vong, làm băng hoại môi trường học thuật, làm cho trí tuệ của người dân sa sút, và để củng cố sức mạnh của đảng.
Chúng ta thấy rằng các giải pháp được lựa chọn để giải quyết các vấn đề của đất nước này hầu như luôn là những giải pháp đảm bảo cho quyền lợi vật chất của người có quyền quyết định, và quyền lợi của họ lại đi ngược với quyền lợi chung. Do đó mới có chuyện hết công ty này đến công ty kia thua lỗ đến trăm nghìn tỷ này đến trăm nghìn tỉ khác, công ty thua lỗ nhưng các cá nhân lãnh đạo công ty thì được lợi. Do đó mới có chuyện hàng bao nhiêu đại học không đủ tiêu chuẩn vẫn cứ được thành lập, đại học sa sút nhưng những người ký quyết định lập trường thì có lợi. Rồi hàng bao nhiêu dự án thua lỗ trên đất nước này, dự án thì lỗ nhưng người ký quyết định dự án thì lãi. Logic là như vậy, ai cũng có thể tìm thấy vô vàn dẫn chứng cho cái logic này.
Hãy xem xét một lĩnh vực cụ thể là giáo dục. Giám đốc của các đại học quốc gia, hiệu trưởng của các trường đại học, họ có kém không ? Không, không thể nói rằng tất cả họ đều kém cỏi. Trái lại, đa số họ đều là những người có năng lực.
Nhưng tại sao giáo dục lại thảm hại đến như vậy, đến mức chính họ là những người đầu tiên gửi con cái đi học nước ngoài ? Bởi lẽ họ đã không dùng trí tuệ của họ, sự xuất sắc của họ để xây dựng một nền giáo dục tiến bộ và hiệu quả, vì chính điều đó làm tổn hại đến đảng của họ, tức là làm tổn hại đến quyền lực và lợi ích vật chất của họ. Trường học càng thối nát, càng trì trệ, giáo viên càng lạc hậu, càng phục tùng, học sinh/ sinh viên càng kém hiệu biết, càng ngoan ngoãn thụ động, thì lợi nhuận của họ càng lớn, quyền lực của họ càng ổn định. Từ đó, phần nào có thể thấy động cơ làm việc của họ là gì, và ý nghĩa của đời sống đối với họ là gì...
Hoặc nhìn sang một lĩnh vực khác mà đại diện là Vinashin và Vinalines. Không thể nói các lãnh đạo của Vinashin và Vinalines là những người kém cỏi. Các công ty này thua lỗ không phải vì năng lực quản lý của người lãnh đạo kém, mà là vì « năng lực » quản lý được dùng cho việc phát triển túi tiền cá nhân nhờ vào sự thua lỗ của công ty.
Câu hỏi là : tại sao các đảng viên « xuất sắc » của Việt Nam không làm lợi cho mình dựa trên sự phát triển của đơn vị, dựa trên sự lớn mạnh của công ty, mà lại làm lợi cho mình dựa trên sự phá sản của công ty ? Tại sao mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung lại được họ xây dựng thành một mối quan hệ mâu thuẫn, lợi ích riêng hủy hoại lợi ích chung ? Tại sao họ không đặt hai loại lợi
Mong muốn các đảng viên (đặc biệt là các đảng viên cao cấp) biết đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích của đảng và lợi ích cá nhân phải chăng chỉ là một mong muốn huyễn tưởng ? Nó tạo ra một viễn cảnh cũng mang tính chất ảo như cái viễn cảnh chủ nghĩa xã hội mà thôi. Không cần đảng đặt quyền lợi của dân tộc cao hơn quyền lợi riêng của đảng, chỉ cần các đảng viên đặt quyền lợi dân tộc ngang bằng quyền lợi riêng của mình, thì có lẽ Việt Nam đã có một hình ảnh khá hơn rất nhiều hình ảnh mà ngày nay chúng ta đang có.
Liệu các đảng viên, nhất là các đảng viên ở cương vị lãnh đạo cao cấp (cũng như mọi người nói chung trong xã hội hiện thời) có thể xoay chuyển tí ti não bộ của mình để điều chỉnh tí ti chiều hướng suy nghĩ : gắn lợi ích của mình với lợi ích của dân tộc, và không để cho hai loại lợi ích này trở thành đối nghịch, không để cho lợi ích cá nhân đi ngược lại với lợi ích dân tộc. Chỉ cần một tí ti xoay chuyển đó thôi, vận mệnh của xứ sở này sẽ khác nhiều lắm.
Xin nhắc lại, câu hỏi của tôi là : giữa hai giải pháp, 1) vừa làm lợi cho bản thân vừa làm lợi cho đất nước và dân tộc, 2) làm lợi cho bản thân và làm hại đất nước và cộng đồng, tại sao các đảng viên xuất sắc của Việt Nam lại chọn giải pháp 2, nên khiến cho Việt Nam rơi vào tình trạng bi đát hiện nay ? Nghịch lý là các đảng viên càng « xuất sắc » thì đất nước càng thê thảm.
Một câu hỏi khác, không phải là không liên quan đến câu hỏi trên đây : tại sao cùng một mô hình chế độ chính trị độc tài cộng sản, nhưng đảng cộng sản Trung Quốc, với những vấn nạn mà nó tạo ra vẫn có thể đưa Trung Quốc trở thành một sức mạnh kinh tế, quân sự và khoa học ; trong khi đó đảng cộng sản Việt Nam cùng các đảng viên của mình lại đẩy Việt Nam vào tình trạng lạc hậu, nghèo đói, chậm tiến, suy thoái gần như toàn diện, không có một thành tựu nào đáng kể, và đang lệ thuộc càng ngày càng sâu sắc vào Trung Quốc ???
Paris, 30/10/2014
MÁY BAY VIỆT NAM CỘNG HÒA
MÁY BAY VIỆT NAM CỘNG HÒA
Chiếc máy bay đầu tiên được chế tạo tại Việt Nam, nó được sản xuất ở 3 căn cứ khác nhau và được ráp khâu cuối ở Tân Sơn Nhất.
Buổi giới thiệu chiếc máy bay đầu tiên do Không quân Việt Nam chế tạo.
Vietnam_PL-2_TP001_cockpit
Tiền Phong 001 trên bầu trời.
Máy bay đó có tên là "Tiền Phong 001" có nghĩa là “ngọn gió đi trước”, tên là “Tiền Phong 001”, vì dự định sau đó sẽ chế tạo thêm Tiền Phong 002, Tiền Phong 003 và 004 v.v..
Kỹ sư trưởng của công trình này là ông Nguyễn Tú.
Máy bay dùng để huấn luyện căn bản các phi công Việt Nam, vì vậy loại máy bay này được chế tạo theo kiểu máy bay cánh thấp giống khu truc, máy bay có hai ghế ngồi gần nhau với hai cần điều khiển song hành và có khả năng nhào lộn nhẹ nhàng thích hợp cho một chiến đấu cơ căn bản.
Chuyến bay thử nghiệm được thực hiện vào ngày 01/7/1972 (hoặc 1973), phi công đầu tiên bay thử là ông Võ Xuân Lành và ông Nguyễn Tú, máy bay đã bay nhiều vòng trên bầu trời Sài Gòn.
Nguồn ảnh: http://pazmany.com/wp/?attachment_id=286
( ==> https://www.facebook.com/lsvnqa/posts/811068242272016 )
____
Thập niên 1970 , Miền Nam Việt Nam đã chế được
xe La Dalat , máy bay Tiền Phong ... trong khi đó Đại Hàn chưa
chế được gì , nhưng nay thì Đại Hàn là 1 trong 10 nước kỹ nghệ
tiên tiến nhất thế giới còn VNCS chỉ giỏi về xạo .
Chính Không Quân Đại Hàn cũng có ý định này. Lúc đó, Đại Tá BAE, sĩ quan liên lạc Đại Hàn tại Việt nam, cũng là sĩ quan cùng học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu với Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân và Chuẩn Tướng Tham Mưu Phó Tiếp Vận có tới xem phi cơ Tiền Phong của chúng ta, và đã xin chính phủ Đại Hàn cử một phái đoàn do ThiếuTướng Lee, Tham Mưu Phó Tiếp Vận Không Quân Đại Hàn hướng dẫn sang Việt Nam để xem cung cách việc chế tạo.
Ngày nay, năm 2013, trình độ kỹ thuật (nói chung) giữa Việt Nam XHCN và Đại Hàn cao thấp như thế nào?
Vì đâu nên nổi?
HkThành
SI VIS PACEM, PARA BELLUM
TIỀN PHONG: Đây là tên của một chiếc phi cơ do Không Quân Việt Nam chế tạo, dựa theo “blueprint” của hãng Pazmany ở California.
Đây là tên của một chiếc phi cơ do Không Quân Việt Nam chế tạo, dựa theo “blueprint” của hãng Pazmany ở California.
Đáng lý ra, câu chuyện này phải do những người trong cuộc viết lại, vì họ đều có mặt tại Mỹ bây giờ. Chúng tôi sở dĩ viết ra để tự mình giải quyết những thắc mắc mà không ai giúp đỡ. Có viết sai thì mới có người lên tiếng để còn hiểu được sự thật bên trong.
Chiếc phi cơ TIỀN PHONG, có nghĩa là “ngọn gió đi trước”, dự trù sẽ trang bị cho Trường Phi Hành của Bộ Chỉ Huy Huấn Luyện của chúng ta, do ngân sách quốc gia Việt Nam đài thọ. Phần thiết kế dự án do Bộ Tư Lệnh Không Quân/Văn Phòng Tham Mư Phó Tiếp Vận phụ trách. Công tác thực hiện được phân phối cho Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận và các Sư Đoàn Không Quân cùng nhau đóng góp công sức của mình. Chính Không Quân Đại Hàn cũng có ý định này. Lúc đó, Đại Tá BAE, sĩ quan liên lạc Đại Hàn tại Việt nam, cũng là sĩ quan cùng học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu với Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân và Chuẩn Tướng Tham Mưu Phó Tiếp Vận có tới xem phi cơ Tiền Phong của chúng ta, và đã xin chính phủ Đại Hàn cử một phái đoàn do ThiếuTướng Lee, Tham Mưu Phó Tiếp Vận Không Quân Đại Hàn hướng dẫn sang Việt Nam để xem cung cách việc chế tạo. Chính vị này cũng cùng học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu với Trung Tướng TLKQ chúng ta. Dường như sau này, Đại Hàn đã chế tạo được phi cơ này để dùng vào việc huấn luyện.
Sau một thời gian bỏ nhiều công sức, rồi có một ngày, tại phi trường hết sức bận rộn như Tân Sơn Nhất(*), máy bay được mang ra bay thử. Không biết ai là người đầu tiên bay chiếc máy bay độc đáo này, nhưng biết rõ chỉ có ba người đã bay trên Tiền Phong 1. Đó là cố Thiếu Tướng Võ Xuân Lành, Trung Tá Lê Xuân Lan, và Trung Tá Nguyễn Tú.
Trước hết xin kể đến KQ Nguyễn Tú. Lúc đó đang phục vụ tại Văn Phòng Tham Mưu Phó Tiếp Vận, KQ Nguyễn Tú xuất thân khóa 55 Trường Võ Bị Không Quân Pháp, theo ngành kỹ sư cơ khí. Vào những năm 1964-65, anh sang Mỹ lấy bằng Master về Mechanical Engineering. Nói cách khác, anh Tú là người có khả năng vẻ ra một "blue print" để "design" một máy bay loại đồ chơi này chứ không cần phải mua "blue print" của người khác. Chiếc Tiền Phong 1 là máy bay nhỏ, cánh thấp, trang bị bánh mũi, hai chỗ ngồi cạnh nhau như trên T-37, hai đầu cánh có gắn hai bình xăng (**). Về khả năng bay, cũng gần như chiếc T-34 của các quân trường Mỹ một thời gian, nhưng sau được thay bằng T-37 nên không còn sản xuất T-34 nữa. Tuy chưa được bay T-34, nhưng khi nghe các bạn kể lại, chúng tôi rất lấy làm thích , nếu KQVN chúng ta có được một máy bay như vậy để huấn luyện. Một chiếc không khó lắm thì không mấy tốt, vì sau khi tốt nghiệp, khóa sinh sẽ khớp khi lên một chiếc ở đơn vị chiến đấu khó bay hơn máy bay của trường. Nhưng chiếc T-34 có nhiều khả năng, như bay phi cụ, bay nhào lộn không thua gì chiếc T-6 nhưng dễ lái hơn nhờ bánh mũi. Tóm lại, ai bay T-34 rồi thì có thể mường tượng chiếc Tiền Phong 1 cũng có những khả năng tương tự. Phòng lái có mui plastic một mãnh úp lên trông rất xinh đẹp và có vẻ "phản lực" lắm. Như trên đã kể, Nguyễn Tú có phải là một người lái bay thử không? Không! Nhưng Nguyễn Tú có mặt trên nhiều lần bay thử khi các hoa tiêu bay thử có điều không hiểu. Những khuyết điểm ghi nhận trong lúc bay thử đều đươc ghi chép cẩn thận để về sau sửa chữa kỹ càng. Nghĩa là Nguyễn Tú là kỹ sư trưởng dự án và là người theo dõi dự án từ đầu đến cuối, từ A đến Z, từ tổ chức lớn nhất như Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo thuộc Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận Không Quân đến các Không Đoàn Bảo Trì và Tiếp Liệu thuộc các Sư Đoàn Không Quân. Sở dĩ anh Tú phải bay, hay là được bay trong chuyến bay thử đầu tiên, tuy không hưởng lương phi hành, vì anh nắm vững kỹ thuật về máy bay này, vì anh nhận lãnh trách nhiệm hoàn thành phần chế tạo đúng chuẩn những gì thay đổi trong "blue print", vì anh là tinh thần của dự án.
Hoa tiêu bay thử chính là cố Thiếu Tướng Võ Xuân Lành, lúc đó là Tư Lệnh Phó Không Quân chúng ta. Ông xuất thân Trường Võ Bị Thủ Đức, theo học khóa 2 hoa tiêu tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, cùng khóa với các ông Vũ Thượng Văn, Trần Đình Hòe và Nguyễn Khắc Ngọc. Dường như ông cũng đã tốt nghiệp khóa B-25 tại Hoa Kỳ. Về nước,ông phục vụ tại TTHLKQ Nha Trang, chỉ huy phó TTHLKQ dưới quyền ông Từ Bộ Cam. Vào đầu năm 1964, ông chỉ huy Phi Đoàn 514 tại Biên Hòa, và Không Đoàn 23 khi thành lập Không Đoàn này, sau đó về Tân Sơn Nhất làm Tư Lệnh Phó Không Quân cho đến ngày cuối cùng. Ông đã bay trên nhiều loại máy bay của Không Quân Việt Nam, từ máy bay "Bà Già" MS-500, cho đến L-19, T-6, A-1H, T-37, F-5...Thích nghiệp bay, khiêm tốn, anh dũng, hòa mình với mọi người trong nghề hay chỉ là thợ đá banh, anh quân cảnh thục bi-da, uống bia Quân Tiếp Vụ, hút thuốc lá Ruby Queen Quân Tiếp Vụ...Ông là người đơn giản, không thích gái vì ông đã có gia đình mà ông dấu rất kỹ đến độ nhiều người cứ tưởng là ông vẫn sống độc thân, mãi cho đến khi đã sang Mỹ rồi, người ta mới biết ông có một gia đình hoàn chỉnh. Ông làm nhiều, nói ít. Mỗi khi dẫn một phái đoàn thăm viếng đơn vị, đơn vị trưởng đơn vị được, hay bị thăm viếng, đều biết đây không phải là phái đoàn ăn chơi, nên ráo riết chuẩn bị để trả lời những vụ việc đúng theo nhiệm vụ ấn định cho tổ chức liên hệ. Ông giải quyết vấn đề đến nơi đến chốn, và mười lần như một, báo cáo cặn kẽ cho Tư Lệnh Không Quân, đầy đủ, về tình như về lý. Ông là người mà trên dưới Không Quân ai cũng thương mến và cảm phục. Trái lại, ngoài Không Quân, những người biết ông nhiều có lẽ là các đội bóng tròn của sinh viên, các hội bóng lão tướng quanh vùng Saigon, Cho Lon, các đội bóng ở những tỉnh lẻ khi tổ chức giao hữu khi ông còn là Tư Lệnh Không Đoàn 23 ở Biên Hòa. Ông thành thật với người và với chính mình. Khi không rõ điều gì thì ông hỏi cho hiểu rõ, không ngại người ta chê mình thiếu sót về năng khiếu hay kiến thức. Nhờ vậy mà ông học nhanh, tiến bộ vững chắc trong ngành nghề của ông. Cũng như nhiều người, ông bay giỏi, nhưng khác hơn người là ông dùng tài năng của ông để phục vụ. Ông xông pha mọi chiến trường với vai một hoa tiêu không cần cấp bậc trên áo bay. Nhưng mọi người đều biết là ông khi ông lên tiếng trên máy vô tuyến trong những trường hợp cấp bách nhất. Nói về bay thử, đây là vụ đầu tiên, chứ không như Bob Hoover của hãng Northrop. Do đó, có nhiều điều chưa hiểu, ông thương lượng với anh hoa tiêu bay thử thứ hai là anh Lê Xuân Lan.
Lê Xuân Lan tốt nghiệp hạng nhì khóa 58A lấy tên Trần Duy Kỷ. Vì điểm tổng kết thua anh Chế Văn Nghĩa, nhưng điểm phi huấn của anh là số một. Anh được bổ nhiệm về Phi Đoàn 514 để được huấn luyện tiếp tục trên T-6G và A-1H. Từ đó anh là hoa tiêu khu trục chuyên nghiệp dưới cái lò đào tạo khó khăn này. Sau này, anh có dịp theo học A-37 và đã được chọn theo khóa huấn luyện viên A-37. Anh lưu lại Hoa kỳ rất lâu để làm sĩ quan liên lạc Không Quân, giải quyết những vấn đề loại hay không loại khóa sinh trên A-37 tại các quân trường dạy lái. Về nước, anh được bổ nhiệm về Văn Phòng Tham Mưu Phó Huấn Luyện của Bộ Tư Lệnh Không Quân. Sau đó, anh đã bay trên F-5 và một thời gian ngắn được bổ nhiệm về Văn Phòng Phụ Tá Phòng Không tại BTLKQ. Khi thành lập Trung Tâm Phòng Không Bắc, anh được cử làm Giám Đốc Trung Tâm Phòng Không Bắc cho đến cuối cùng. Cũng là một hoa tiêu can trường, đã từng lập nhiều chiến công trên mặt trận, mà lại có tài bay như một thiên phú. Nói ít, hiểu nhiều. Tự tin nhưng không khoe khoang. Có ngày anh hỏi tôi về những điều anh thắc mắc về chiếc máy bay Tiền Phong 1 . Anh bảo dường như máy bay không chịu đáp khi kéo là, mà cứ trôi mãi trên không. Nếu gặp gió ngang thì bị bê ra ngoài phi đạo dễ dàng. Chỉ vì mặt cánh nâng quá to, khi sát mặt đất tạo ra một gối khí động (air cushion) làm chân đáp quá ngắn không chạm được đất. Anh còn nói khi "roll" thì không ngọt vì như có sức cưỡng lại. Chỉ vì độ nhị diện quá to để làm cho phi cơ vững vàng khi bị gió động sẽ tự sửa chữa về thế bay trước. Muốn giải quyết hai khuyết điểm đó, có lẽ điều dễ thực hiện nhất là chặt bỏ bớt hai đầu cánh. Nhưng làm thế thì rất tốn công, nhất là hai đầu cánh có gắn hai bình xăng, một mặt tăng thêm trữ lượng xăng, mặt khác giảm được sức cản do luồng gió xoáy (**) tạo ra ở hai đầu cánh. Có lẽ anh Lan đã thảo luận với kỹ sư Tú, nhưng kết quả vẫn giữ nguyên như cũ. Và sau nhiều lần bay thử, chiếc máy bay Tiền Phong 1 được lưu giữ trong hangar của Sư Đoàn 5 Không Quân cho đến ngày tàn.
Đó là những gì tôi biết được về chiếc Tiền Phong 1. Làm máy bay cho Không Quân Việt Nam ta là một hãnh diện, là một mơ ước cho nhiều kỹ sư chưa tốt nghiệp. Do đó, có một hôm, Quân Cảnh phối hợp với Cảnh Sát mang về Bộ Tư Lệnh Không Quân tại Tân Sơn Nhất một chiếc máy bay (không biết có nên đặt tên là Tiền Phong 2 hay không?!). Chiếc này giống như chiếc O-1A, có cánh cao và dài, trang bị một động cơ của chiếc mô-tô Honda 50cc. Trong phòng lái ta thấy một chiếc ghế ngồi thường ở các phòng trà bỏ túi. Cũng có tay lái, cũng có đồng hồ. Chất lợp cánh và thân máy bay làm bằng loại kim khí hợp chất nhôm lấy từ các vĩ kiện hàng (palette) để các kiện hàng có thể thả từ máy bay vận tải có cửa phía sau như C-130, C-123, C-119. Hợp kim này rất chắc chắn nhưng rất nặng. Cánh quạt lấy từ một máy bay O-1A. Người chế tạo là một Trung Sĩ thuộc Sư Đoàn 5 Không Quân. Anh đã tốn nhiều công sức ráp lên chiếc Tiền Phong 2 trong một nhà chứa xe của anh, và ngày tốt đẹp đã đến, anh mang chiếc máy bay này ra xa lộ Đại Hàn (***)khoảng từ lộ Saigon-Tây Ninh nối liền với Quốc Lộ 4 từ Phú Lâm về Tân An. Vì cản trở lưu thông trên xa lộ Đại Hàn, nên Cảnh Sát kết hợp với Quân Cảnh mang tác giả và chiếc Thần Phong 2 về Bộ Tư Lệnh Không Quân. Chiếc này được lưu giữ ở ngay trước văn phòng của kỹ sư Tú ít nhất một tuần lễ. Thật là một thách đố cho các kỹ sư hàng không của chúng ta. Anh em tại BTLKQ thách nhau ai dám bay chiếc Tiền Phong 2, và mọi người đều hướng về vị Tư Lệnh của chúng ta mà... cười vỡ bụng.
Gman
Chú thích:
(*)Phi trường Tân Sơn Nhất vào thời điểm này có hai phi đạo song song, cứ mỗi 30 giây đều có một cất cánh hay hạ cánh. So với phi trường Kennedy ở New York cũng cùng một mức độ bận rộn, nhưng ở New York, chỉ có những phi cơ hàng không dân sự, có đi và đến với tốc độ ngang nhau, rất dễ điều hành hơn nhiều. Trong khi đó, tại Tân Sơn Nhất, nào là máy bay nhỏ như O-1A, có trực thăng UH-1 của Không Binh Hoa Kỳ đồn trú, có hàng không quốc tế lui tới, có A-1H của Biệt Đoàn 83, thật là linh tinh, nhất là khi vào tần số, cùng nghe một loạt ba thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, trên ba hệ thống vô tuyến FM, VHF và UHF, thật là có một không hai.
(**)Hai bình xăng ở hai đầu cánh làm giảm đi các luồng gió xoáy thường được gọi là tourbillons de Karmann(do nhà bác học Von Karmann người Đức tìm ra), vì áp suất dưới cánh to hơn áp suất khí quyển ở trên cánh, nên ở đầu cánh, không khí di chuyển từ dưới lên trên. Chiếc MD-11 có một vách chận nhỏ cũng có tác dụng chận luồng khí quyển này. Trên Tiền Phong 1 có sáng kiến để bình xăng ở đầu cánh cũng làm giảm sức cản do các luồng gió xoáy Karmann.
(***) Xa lộ Đại Hàn là do Công Binh Đại Hàn giúp đỡ xây cất. Đó là một vòng đai ven đô (belt) để ta có thể từ miền Nam đi về hướng miền Đông hay miền Trung thì khỏi cần chạy qua Đô Thị náo nhiệt Saigon-Cholon, mà đi thẳng đến đường đi Tây Ninh hoặc đi Biên Hòa(xa lộ Biên Hòa). Lúc đó, xa lộ này tương đối ít xe chạy, ngoài xe nhà binh và xe Lambretta-500cc chở khách địa phương.
( Biên Hùng chuyển )
****************
Source:
http://www.haingoaiphiemdam.net/Trang.aspx?Id=18TruyenNganPhongSu_237
_,_._,___
Hình xưa Chiếc máy bay đầu tiên được ráp vào thời VNCH
Chiếc máy bay đầu tiên được chế tạo tại Việt Nam, nó được sản xuất ở 3 căn cứ khác nhau và được ráp khâu cuối ở Tân Sơn Nhất.
Buổi giới thiệu chiếc máy bay đầu tiên do Không quân Việt Nam chế tạo.
Vietnam_PL-2_TP001_cockpit
Tiền Phong 001 trên bầu trời.
Theo nguồn của trang " Lịch sử Việt Nam qua ảnh "
CHIẾC MÁY BAY DO NGƯỜI VIỆT NAM CHẾ TẠO.Máy bay đó có tên là "Tiền Phong 001" có nghĩa là “ngọn gió đi trước”, tên là “Tiền Phong 001”, vì dự định sau đó sẽ chế tạo thêm Tiền Phong 002, Tiền Phong 003 và 004 v.v..
Kỹ sư trưởng của công trình này là ông Nguyễn Tú.
Máy bay dùng để huấn luyện căn bản các phi công Việt Nam, vì vậy loại máy bay này được chế tạo theo kiểu máy bay cánh thấp giống khu truc, máy bay có hai ghế ngồi gần nhau với hai cần điều khiển song hành và có khả năng nhào lộn nhẹ nhàng thích hợp cho một chiến đấu cơ căn bản.
Chuyến bay thử nghiệm được thực hiện vào ngày 01/7/1972 (hoặc 1973), phi công đầu tiên bay thử là ông Võ Xuân Lành và ông Nguyễn Tú, máy bay đã bay nhiều vòng trên bầu trời Sài Gòn.
Nguồn ảnh: http://pazmany.com/wp/?attachment_id=286
( ==> https://www.facebook.com/lsvnqa/posts/811068242272016 )
____
Thập niên 1970 , Miền Nam Việt Nam đã chế được
xe La Dalat , máy bay Tiền Phong ... trong khi đó Đại Hàn chưa
chế được gì , nhưng nay thì Đại Hàn là 1 trong 10 nước kỹ nghệ
tiên tiến nhất thế giới còn VNCS chỉ giỏi về xạo .
Chính Không Quân Đại Hàn cũng có ý định này. Lúc đó, Đại Tá BAE, sĩ quan liên lạc Đại Hàn tại Việt nam, cũng là sĩ quan cùng học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu với Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân và Chuẩn Tướng Tham Mưu Phó Tiếp Vận có tới xem phi cơ Tiền Phong của chúng ta, và đã xin chính phủ Đại Hàn cử một phái đoàn do ThiếuTướng Lee, Tham Mưu Phó Tiếp Vận Không Quân Đại Hàn hướng dẫn sang Việt Nam để xem cung cách việc chế tạo.
Ngày nay, năm 2013, trình độ kỹ thuật (nói chung) giữa Việt Nam XHCN và Đại Hàn cao thấp như thế nào?
Vì đâu nên nổi?
HkThành
SI VIS PACEM, PARA BELLUM
TIỀN PHONG: Đây là tên của một chiếc phi cơ do Không Quân Việt Nam chế tạo, dựa theo “blueprint” của hãng Pazmany ở California.
Đây là tên của một chiếc phi cơ do Không Quân Việt Nam chế tạo, dựa theo “blueprint” của hãng Pazmany ở California.
Đáng lý ra, câu chuyện này phải do những người trong cuộc viết lại, vì họ đều có mặt tại Mỹ bây giờ. Chúng tôi sở dĩ viết ra để tự mình giải quyết những thắc mắc mà không ai giúp đỡ. Có viết sai thì mới có người lên tiếng để còn hiểu được sự thật bên trong.
Chiếc phi cơ TIỀN PHONG, có nghĩa là “ngọn gió đi trước”, dự trù sẽ trang bị cho Trường Phi Hành của Bộ Chỉ Huy Huấn Luyện của chúng ta, do ngân sách quốc gia Việt Nam đài thọ. Phần thiết kế dự án do Bộ Tư Lệnh Không Quân/Văn Phòng Tham Mư Phó Tiếp Vận phụ trách. Công tác thực hiện được phân phối cho Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận và các Sư Đoàn Không Quân cùng nhau đóng góp công sức của mình. Chính Không Quân Đại Hàn cũng có ý định này. Lúc đó, Đại Tá BAE, sĩ quan liên lạc Đại Hàn tại Việt nam, cũng là sĩ quan cùng học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu với Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân và Chuẩn Tướng Tham Mưu Phó Tiếp Vận có tới xem phi cơ Tiền Phong của chúng ta, và đã xin chính phủ Đại Hàn cử một phái đoàn do ThiếuTướng Lee, Tham Mưu Phó Tiếp Vận Không Quân Đại Hàn hướng dẫn sang Việt Nam để xem cung cách việc chế tạo. Chính vị này cũng cùng học khóa Chỉ Huy & Tham Mưu với Trung Tướng TLKQ chúng ta. Dường như sau này, Đại Hàn đã chế tạo được phi cơ này để dùng vào việc huấn luyện.
Sau một thời gian bỏ nhiều công sức, rồi có một ngày, tại phi trường hết sức bận rộn như Tân Sơn Nhất(*), máy bay được mang ra bay thử. Không biết ai là người đầu tiên bay chiếc máy bay độc đáo này, nhưng biết rõ chỉ có ba người đã bay trên Tiền Phong 1. Đó là cố Thiếu Tướng Võ Xuân Lành, Trung Tá Lê Xuân Lan, và Trung Tá Nguyễn Tú.
Trước hết xin kể đến KQ Nguyễn Tú. Lúc đó đang phục vụ tại Văn Phòng Tham Mưu Phó Tiếp Vận, KQ Nguyễn Tú xuất thân khóa 55 Trường Võ Bị Không Quân Pháp, theo ngành kỹ sư cơ khí. Vào những năm 1964-65, anh sang Mỹ lấy bằng Master về Mechanical Engineering. Nói cách khác, anh Tú là người có khả năng vẻ ra một "blue print" để "design" một máy bay loại đồ chơi này chứ không cần phải mua "blue print" của người khác. Chiếc Tiền Phong 1 là máy bay nhỏ, cánh thấp, trang bị bánh mũi, hai chỗ ngồi cạnh nhau như trên T-37, hai đầu cánh có gắn hai bình xăng (**). Về khả năng bay, cũng gần như chiếc T-34 của các quân trường Mỹ một thời gian, nhưng sau được thay bằng T-37 nên không còn sản xuất T-34 nữa. Tuy chưa được bay T-34, nhưng khi nghe các bạn kể lại, chúng tôi rất lấy làm thích , nếu KQVN chúng ta có được một máy bay như vậy để huấn luyện. Một chiếc không khó lắm thì không mấy tốt, vì sau khi tốt nghiệp, khóa sinh sẽ khớp khi lên một chiếc ở đơn vị chiến đấu khó bay hơn máy bay của trường. Nhưng chiếc T-34 có nhiều khả năng, như bay phi cụ, bay nhào lộn không thua gì chiếc T-6 nhưng dễ lái hơn nhờ bánh mũi. Tóm lại, ai bay T-34 rồi thì có thể mường tượng chiếc Tiền Phong 1 cũng có những khả năng tương tự. Phòng lái có mui plastic một mãnh úp lên trông rất xinh đẹp và có vẻ "phản lực" lắm. Như trên đã kể, Nguyễn Tú có phải là một người lái bay thử không? Không! Nhưng Nguyễn Tú có mặt trên nhiều lần bay thử khi các hoa tiêu bay thử có điều không hiểu. Những khuyết điểm ghi nhận trong lúc bay thử đều đươc ghi chép cẩn thận để về sau sửa chữa kỹ càng. Nghĩa là Nguyễn Tú là kỹ sư trưởng dự án và là người theo dõi dự án từ đầu đến cuối, từ A đến Z, từ tổ chức lớn nhất như Không Đoàn Tân Trang & Chế Tạo thuộc Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận Không Quân đến các Không Đoàn Bảo Trì và Tiếp Liệu thuộc các Sư Đoàn Không Quân. Sở dĩ anh Tú phải bay, hay là được bay trong chuyến bay thử đầu tiên, tuy không hưởng lương phi hành, vì anh nắm vững kỹ thuật về máy bay này, vì anh nhận lãnh trách nhiệm hoàn thành phần chế tạo đúng chuẩn những gì thay đổi trong "blue print", vì anh là tinh thần của dự án.
Hoa tiêu bay thử chính là cố Thiếu Tướng Võ Xuân Lành, lúc đó là Tư Lệnh Phó Không Quân chúng ta. Ông xuất thân Trường Võ Bị Thủ Đức, theo học khóa 2 hoa tiêu tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, cùng khóa với các ông Vũ Thượng Văn, Trần Đình Hòe và Nguyễn Khắc Ngọc. Dường như ông cũng đã tốt nghiệp khóa B-25 tại Hoa Kỳ. Về nước,ông phục vụ tại TTHLKQ Nha Trang, chỉ huy phó TTHLKQ dưới quyền ông Từ Bộ Cam. Vào đầu năm 1964, ông chỉ huy Phi Đoàn 514 tại Biên Hòa, và Không Đoàn 23 khi thành lập Không Đoàn này, sau đó về Tân Sơn Nhất làm Tư Lệnh Phó Không Quân cho đến ngày cuối cùng. Ông đã bay trên nhiều loại máy bay của Không Quân Việt Nam, từ máy bay "Bà Già" MS-500, cho đến L-19, T-6, A-1H, T-37, F-5...Thích nghiệp bay, khiêm tốn, anh dũng, hòa mình với mọi người trong nghề hay chỉ là thợ đá banh, anh quân cảnh thục bi-da, uống bia Quân Tiếp Vụ, hút thuốc lá Ruby Queen Quân Tiếp Vụ...Ông là người đơn giản, không thích gái vì ông đã có gia đình mà ông dấu rất kỹ đến độ nhiều người cứ tưởng là ông vẫn sống độc thân, mãi cho đến khi đã sang Mỹ rồi, người ta mới biết ông có một gia đình hoàn chỉnh. Ông làm nhiều, nói ít. Mỗi khi dẫn một phái đoàn thăm viếng đơn vị, đơn vị trưởng đơn vị được, hay bị thăm viếng, đều biết đây không phải là phái đoàn ăn chơi, nên ráo riết chuẩn bị để trả lời những vụ việc đúng theo nhiệm vụ ấn định cho tổ chức liên hệ. Ông giải quyết vấn đề đến nơi đến chốn, và mười lần như một, báo cáo cặn kẽ cho Tư Lệnh Không Quân, đầy đủ, về tình như về lý. Ông là người mà trên dưới Không Quân ai cũng thương mến và cảm phục. Trái lại, ngoài Không Quân, những người biết ông nhiều có lẽ là các đội bóng tròn của sinh viên, các hội bóng lão tướng quanh vùng Saigon, Cho Lon, các đội bóng ở những tỉnh lẻ khi tổ chức giao hữu khi ông còn là Tư Lệnh Không Đoàn 23 ở Biên Hòa. Ông thành thật với người và với chính mình. Khi không rõ điều gì thì ông hỏi cho hiểu rõ, không ngại người ta chê mình thiếu sót về năng khiếu hay kiến thức. Nhờ vậy mà ông học nhanh, tiến bộ vững chắc trong ngành nghề của ông. Cũng như nhiều người, ông bay giỏi, nhưng khác hơn người là ông dùng tài năng của ông để phục vụ. Ông xông pha mọi chiến trường với vai một hoa tiêu không cần cấp bậc trên áo bay. Nhưng mọi người đều biết là ông khi ông lên tiếng trên máy vô tuyến trong những trường hợp cấp bách nhất. Nói về bay thử, đây là vụ đầu tiên, chứ không như Bob Hoover của hãng Northrop. Do đó, có nhiều điều chưa hiểu, ông thương lượng với anh hoa tiêu bay thử thứ hai là anh Lê Xuân Lan.
Lê Xuân Lan tốt nghiệp hạng nhì khóa 58A lấy tên Trần Duy Kỷ. Vì điểm tổng kết thua anh Chế Văn Nghĩa, nhưng điểm phi huấn của anh là số một. Anh được bổ nhiệm về Phi Đoàn 514 để được huấn luyện tiếp tục trên T-6G và A-1H. Từ đó anh là hoa tiêu khu trục chuyên nghiệp dưới cái lò đào tạo khó khăn này. Sau này, anh có dịp theo học A-37 và đã được chọn theo khóa huấn luyện viên A-37. Anh lưu lại Hoa kỳ rất lâu để làm sĩ quan liên lạc Không Quân, giải quyết những vấn đề loại hay không loại khóa sinh trên A-37 tại các quân trường dạy lái. Về nước, anh được bổ nhiệm về Văn Phòng Tham Mưu Phó Huấn Luyện của Bộ Tư Lệnh Không Quân. Sau đó, anh đã bay trên F-5 và một thời gian ngắn được bổ nhiệm về Văn Phòng Phụ Tá Phòng Không tại BTLKQ. Khi thành lập Trung Tâm Phòng Không Bắc, anh được cử làm Giám Đốc Trung Tâm Phòng Không Bắc cho đến cuối cùng. Cũng là một hoa tiêu can trường, đã từng lập nhiều chiến công trên mặt trận, mà lại có tài bay như một thiên phú. Nói ít, hiểu nhiều. Tự tin nhưng không khoe khoang. Có ngày anh hỏi tôi về những điều anh thắc mắc về chiếc máy bay Tiền Phong 1 . Anh bảo dường như máy bay không chịu đáp khi kéo là, mà cứ trôi mãi trên không. Nếu gặp gió ngang thì bị bê ra ngoài phi đạo dễ dàng. Chỉ vì mặt cánh nâng quá to, khi sát mặt đất tạo ra một gối khí động (air cushion) làm chân đáp quá ngắn không chạm được đất. Anh còn nói khi "roll" thì không ngọt vì như có sức cưỡng lại. Chỉ vì độ nhị diện quá to để làm cho phi cơ vững vàng khi bị gió động sẽ tự sửa chữa về thế bay trước. Muốn giải quyết hai khuyết điểm đó, có lẽ điều dễ thực hiện nhất là chặt bỏ bớt hai đầu cánh. Nhưng làm thế thì rất tốn công, nhất là hai đầu cánh có gắn hai bình xăng, một mặt tăng thêm trữ lượng xăng, mặt khác giảm được sức cản do luồng gió xoáy (**) tạo ra ở hai đầu cánh. Có lẽ anh Lan đã thảo luận với kỹ sư Tú, nhưng kết quả vẫn giữ nguyên như cũ. Và sau nhiều lần bay thử, chiếc máy bay Tiền Phong 1 được lưu giữ trong hangar của Sư Đoàn 5 Không Quân cho đến ngày tàn.
Đó là những gì tôi biết được về chiếc Tiền Phong 1. Làm máy bay cho Không Quân Việt Nam ta là một hãnh diện, là một mơ ước cho nhiều kỹ sư chưa tốt nghiệp. Do đó, có một hôm, Quân Cảnh phối hợp với Cảnh Sát mang về Bộ Tư Lệnh Không Quân tại Tân Sơn Nhất một chiếc máy bay (không biết có nên đặt tên là Tiền Phong 2 hay không?!). Chiếc này giống như chiếc O-1A, có cánh cao và dài, trang bị một động cơ của chiếc mô-tô Honda 50cc. Trong phòng lái ta thấy một chiếc ghế ngồi thường ở các phòng trà bỏ túi. Cũng có tay lái, cũng có đồng hồ. Chất lợp cánh và thân máy bay làm bằng loại kim khí hợp chất nhôm lấy từ các vĩ kiện hàng (palette) để các kiện hàng có thể thả từ máy bay vận tải có cửa phía sau như C-130, C-123, C-119. Hợp kim này rất chắc chắn nhưng rất nặng. Cánh quạt lấy từ một máy bay O-1A. Người chế tạo là một Trung Sĩ thuộc Sư Đoàn 5 Không Quân. Anh đã tốn nhiều công sức ráp lên chiếc Tiền Phong 2 trong một nhà chứa xe của anh, và ngày tốt đẹp đã đến, anh mang chiếc máy bay này ra xa lộ Đại Hàn (***)khoảng từ lộ Saigon-Tây Ninh nối liền với Quốc Lộ 4 từ Phú Lâm về Tân An. Vì cản trở lưu thông trên xa lộ Đại Hàn, nên Cảnh Sát kết hợp với Quân Cảnh mang tác giả và chiếc Thần Phong 2 về Bộ Tư Lệnh Không Quân. Chiếc này được lưu giữ ở ngay trước văn phòng của kỹ sư Tú ít nhất một tuần lễ. Thật là một thách đố cho các kỹ sư hàng không của chúng ta. Anh em tại BTLKQ thách nhau ai dám bay chiếc Tiền Phong 2, và mọi người đều hướng về vị Tư Lệnh của chúng ta mà... cười vỡ bụng.
Gman
Chú thích:
(*)Phi trường Tân Sơn Nhất vào thời điểm này có hai phi đạo song song, cứ mỗi 30 giây đều có một cất cánh hay hạ cánh. So với phi trường Kennedy ở New York cũng cùng một mức độ bận rộn, nhưng ở New York, chỉ có những phi cơ hàng không dân sự, có đi và đến với tốc độ ngang nhau, rất dễ điều hành hơn nhiều. Trong khi đó, tại Tân Sơn Nhất, nào là máy bay nhỏ như O-1A, có trực thăng UH-1 của Không Binh Hoa Kỳ đồn trú, có hàng không quốc tế lui tới, có A-1H của Biệt Đoàn 83, thật là linh tinh, nhất là khi vào tần số, cùng nghe một loạt ba thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, trên ba hệ thống vô tuyến FM, VHF và UHF, thật là có một không hai.
(**)Hai bình xăng ở hai đầu cánh làm giảm đi các luồng gió xoáy thường được gọi là tourbillons de Karmann(do nhà bác học Von Karmann người Đức tìm ra), vì áp suất dưới cánh to hơn áp suất khí quyển ở trên cánh, nên ở đầu cánh, không khí di chuyển từ dưới lên trên. Chiếc MD-11 có một vách chận nhỏ cũng có tác dụng chận luồng khí quyển này. Trên Tiền Phong 1 có sáng kiến để bình xăng ở đầu cánh cũng làm giảm sức cản do các luồng gió xoáy Karmann.
(***) Xa lộ Đại Hàn là do Công Binh Đại Hàn giúp đỡ xây cất. Đó là một vòng đai ven đô (belt) để ta có thể từ miền Nam đi về hướng miền Đông hay miền Trung thì khỏi cần chạy qua Đô Thị náo nhiệt Saigon-Cholon, mà đi thẳng đến đường đi Tây Ninh hoặc đi Biên Hòa(xa lộ Biên Hòa). Lúc đó, xa lộ này tương đối ít xe chạy, ngoài xe nhà binh và xe Lambretta-500cc chở khách địa phương.
( Biên Hùng chuyển )
****************
Source:
http://www.haingoaiphiemdam.net/Trang.aspx?Id=18TruyenNganPhongSu_237
_,_._,___
ĐÀO VĂN BÌNH * NGƯỜI QUET RÁC
Vào sáng Chủ Nhật, có thể là do ngày nghỉ rảnh rỗi, một người đàn ông trung niên lúi húi quét dọn trước cửa nhà. Ông cầm chiếc chổi và đồ hốt rác quét sạch vỉa hè rồi quét dọc theo lề đường, cẩn thận gom tất cả đám cát, bao ny-lông, mẩu thuốc lá, ly giấy, lá khô và đủ thứ rác rưởi của xã hội văn minh vào thùng, đậy nắp cận thận, đặt ngay ngắn xuống lòng đường, để ngày mai xe rác của thành phố lấy đi. Khi nhận thấy vỉa hè và lòng đường đã khá sạch, ông toan thu dọn để bước vào nhà thì một thanh niên từ xa bước tới, miệng phì phèo điếu thuốc.
Chỉ cần nhìn cách ăn mặc và đi đứng người ta có thể nhận ra đây là một chàng thanh niên ngang tàng. Khi tới chỗ ông đang đứng, người thanh niên rít hơi cuối cùng rồi coi như không có ai, thản nhiên quăng mẩu thuốc lá xuống đường. Nhìn mẩu thuốc là nằm tênh hênh trên mặt vỉa hè sạch trơn, dường như nó có vẻ “phá hoại” và trêu ngươi, cho nên người đàn ông tức giận, lớn tiếng gọi người thanh niên:
-Này, yêu cầu quay lại nhặt tàn thuốc lá lên nghe!
Người thanh niên đã đi cách xa ông khoảng năm, sáu bước, nghe gọi thế quay đầu lại nhìn với vẻ hết sức ngạc nhiên. Anh ta ngạc nhiên vì có thể cả trăm lần quăng mẩu thuốc lá như thế này mà chẳng ai phản ứng gì, nay có một “gã điên” làm chuyện không giống ai. Anh ta quay lại, sẵng giọng hỏi:
-Ông nói gì?
-Yêu cầu cậu nhặt mẩu thuốc lá lên!
Mặt chàng thanh niên đỏ gay:
-Bộ đường phố này của ông hả?
Người đàn ông trả lời ngay:
-Không phải của tôi nhưng tôi tôi quét dọn sạch sẽ. Người tự trọng không bao giờ xả rác bừa bãi. Cậu hiểu điều đó không? Tôi yêu cầu cậu nhặt lên!
Tự ái bị tổn thương, người thanh niên không cần phân biệt đúng-sai, nói như gây sự:
-Không nhặt thì sao?
Sự lớn tiếng qua lại giữa hai bên làm người trong nhà chạy ra, người qua lại trên hè phố tò mò đứng lại. Cuối cùng tất cả đều thấy đây không phải chuyện đại sự cho nên xúm vào can gián. Cuối cùng người thanh niên hậm hực bỏ đi còn người đàn ông đứng phân bua một hồi rồi bực bội bước vào nhà.
***
Ba ngày sau, tại một khu phố khác cách đó khoảng năm, sáu con đường người ta thấy một vị sư đang quét rác tại cổng một ngôi chùa. Hôm nay là Thứ Hai chùa vắng, Phật tử đi làm hết, sau hai ngày cuối tuần bận rộn với sinh hoạt và lễ lạc, rác đã thấy lai rai trên sân. Ngoài ra, còn lá trên cây rụng xuống cho nên thầy trụ trì ra công quét dọn, vừa vận động vừa làm sạch trong ngoài. Đối với người xuất gia, quét rác cũng là “công phu”. Sau khi cổng chùa đã sạch sẽ, sư toan đẩy thùng rác trở vào thì một chàng thanh niên tà tà bước tới. Đây chính là anh chàng đã gây sự với người đàn ông quét rác ba ngày trước.
Khi đi tới cổng chùa, có thể do vô tình, do quán tính, cố tật, hoặc đãng trí, sau khi mở bao thuốc lá, chàng ta rút ra một điếu, châm lửa. Thấy bao thuốc đã hết, chàng ta quăng cả chiếc bao trống không dưới chân bức tường cạnh cổng chùa rồi thản nhiên bước đi. Thế nhưng khi bước đi khoảng năm, sáu thước, có thể do nhớ lại cuộc “đụng độ” với người đàn ông trước đây, chàng ta quay đầu lại xem sự thể như thế nào. Trái với phỏng đoán của mình, vị sư bình thản bước tới chân bức tường, cúi xuống nhặt bao thuốc lá lên, quay lại thùng rác, mở một bao rác nhỏ, bỏ bao thuốc lá trống vào bên trong, cột trở lại, bỏ vào thùng rác rồi lặng lẽ đẩy thùng rác vào bên trong sân chùa, không hề quay nhìn chàng thanh niên …đang ngạc nhiên đứng đó.
***
Ngày hôm sau, chàng thanh niên tới thăm vị sư. Sau khi giới thiệu mình chính là người xả rác trước cổng chùa. Chàng ta kể lại chuyện “đụng độ” với người đàn ông rồi hỏi:
-Thưa thầy, tại sao cùng một chuyện mà thầy lại có lối cư xử nhẹ nhàng hơn người đàn ông kia?
Sư hiền từ đáp:
-Người đàn ông đó là một công dân tốt. Một công dân tốt do làm tròn bổn phận của mình cho nên thường thẳng thắn nói lên cái sai của người khác để cùng nhau sửa chữa trong tinh thần ôn hòa. Tuy nhiên cách hành xử giữa một người thường và một người xuất gia có khác nhau. Người xuất gia không nói về cái lỗi của kẻ khác mà kham nhẫn để kẻ phạm lỗi giác ngộ mà tu sửa. Hai lối hành xử đó không cái nào hơn cái nào, “vạn pháp đều bình đẳng”, chỉ tùy duyên ứng xử mà thôi. Một căn nhà, một ngôi chùa, một khu phố hoặc nơi làm việc cần phải sạch sẽ. Sự sạch sẽ làm trang nghiêm cuộc sống và thế giới.
Ngay đầu óc chúng ta cũng cần sạch sẽ. Muốn sạch sẽ thì phải quét rác. Một chiếc máy điện tử muốn tốt cũng phải “đổ rác”. Đầu óc con người muốn thanh tịnh, sạch sẽ cũng phải “đổ rác”- đổ bớt rác rưởi của tâm hồn. Những ý nghĩ bất tịnh, tương tranh, thù hận, đố kỵ, tị hiềm, những tư tưởng loại trừ, kỳ thị, ghét bỏ đều là rác rưởi của tâm hồn. “Quét rác” và “đổ rác” là việc làm thường xuyên của người nào muốn tâm hồn thanh tịnh. Từ thanh tịnh mà có thanh thản. Vì thanh thản cho nên không động tâm. Vì tâm không động cho nên ít gây đổ vỡ.
***
Ba ngày sau, chàng thanh niên tìm tới nhà người đàn ông, nói lời xin lỗi. Chàng học được một bài học nơi sư, “ Thay vì xả rác xuống đường hoặc nơi công cộng thì nên xả bớt rác trong tâm hồn mình.”
Ngoài đức tính kham nhẫn, có thể sư đã đạt tới mức “vô phân biệt”. Sư cứ thấy rác thì quét mà không hề phân biệt rác từ cây đổ xuống, Phật tử xả ra, nam hay nữ, lạ hay quen cho nên rác của chàng thanh niên cũng thế thôi. Chính vì “vô phân biệt” cho nên sư không động tâm. Không động tâm cho nên sư đã quét rác trong trạng thái “vô tâm”. Mà vô tâm thì an lành./.
Đào Văn Bình
(California 20 Tháng 9, 2013)
HẠ VIỆN MỸ VÀ BIỂN ĐÔNG
HẠ VIỆN MỸ CHỈ TRÍCH MẠNH MẼ TRUNG QUỐC
BienDong.Net: Sáng 04/12/2014, với số phiếu ủng hộ tuyệt đối (100% phiếu tán thành), Hạ viện Mỹ đã thông qua Nghị quyết mang mã số H.Res - 714, nhấn mạnh sự cần thiết tìm giải pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, cho các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Hoa Đông. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Hạ viện Mỹ thông qua một nghị quyết liên quan tới vấn đề Biển Đông và Hoa Đông và chỉ trích đích danh Trung Quốc.
Nghị quyết tái khẳng định sự ủng hộ của Mỹ đối với các nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc luật pháp quốc tế đã được các nước công nhận đối với các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Hoa Đông.
Nghị quyết cũng một lần nữa khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ đối với tự do hàng hải, sử dụng các vùng biển và vùng trời ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương theo luật pháp quốc tế.
Nghị quyết nêu rõ các khu vực biển tại Châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm cả vùng biển và vùng trời, đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự thịnh vượng, ổn định và an ninh của khu vực cũng như thương mại toàn cầu. Các nước ASEAN và Trung Quốc đã thông qua Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông vào năm 2002, theo đó các bên cam kết tôn trọng và đảm bảo tự do hàng hải và hàng không tại Biển Đông theo các nguyên tắc luật pháp quốc tế đã được công nhận trên toàn thế giới, cũng như giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng các biện pháp hòa bình, không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, căng thẳng đã gia tăng tại các khu vực biển và lãnh thổ có tranh chấp kể từ thời điểm đó.
Nghị quyết đã đưa ra các dẫn chứng cụ thể về các hành động hiếu chiến của Trung Quốc đối với các nước láng giềng ở Biển Đông và biển Hoa Đông như: tàu Trung Quốc đã cố tình đâm tàu tuần duyên Nhật Bản tại biển Hoa Đông; bắn tàu cá của Philippines; 2 lần cắt cáp tàu Việt Nam đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; sử dụng súng đe dọa 4 tàu đánh cá Việt Nam tại vùng biển gần quần đảo Trường Sa. Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc còn mời thầu thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào năm 2012 và hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam vào tháng 5/2014. Hơn 80 tàu Trung Quốc, trong đó có 7 tàu quân sự, đã được triển khai tại đây để hậu thuẫn hành động khiêu khích này.
Nghị quyết nhấn mạnh các tàu hộ tống giàn khoan Hải Dương 981 đã hăm dọa tàu cảnh sát biển Việt Nam, vi phạm Công ước các quy tắc quốc tế về phòng ngừa va chạm trên biển. Tàu Trung Quốc còn đâm va, sử dụng trực thăng và vòi rồng để ngăn cản các tàu Việt Nam, đồng thời thiết lập khu vực cấm qua lại với bán kính 3 hải lý xung quanh giàn khoan Hải Dương 981. Các hành động trên nhằm đơn phương thay đổi hiện trạng bằng vũ lực. Ngoài ra, Trung Quốc còn đơn phương tuyên bố thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên biển Hoa Đông với những quy định vi phạm Công ước Chicago của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế.
Nghị quyết của Hạ viện Mỹ nhấn mạnh, tự do hàng hải và việc sử dụng hợp pháp vùng biển và vùng trời đã được quy định trong luật pháp quốc tế chứ không phải do bất kỳ quốc gia nào ban phát. Mỹ quan ngại sâu sắc về những hành động đơn phương nhằm ngăn cản nước khác thực thi quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của nước đó thông qua những đòi hỏi chủ quyền không dựa trên luật pháp quốc tế hay tuyên bố thành lập đơn vị hành chính và quân sự trên các khu vực tranh chấp tại Biển Đông và Hoa Đông, cũng như áp dụng quy định đánh bắt cá mới tại các vùng tranh chấp, làm gia tăng căng thẳng trong khu vực.
Nghị quyết nêu rõ dù không phải là bên liên quan đến các tranh chấp biển tại Biển Đông hay biển Hoa Đông nhưng Mỹ có lợi ích trong việc giải quyết một cách hòa bình, thông qua con đường ngoại giao và phù hợp với luật pháp quốc tế đối với các đòi hỏi gây tranh cãi. Mỹ có lợi ích trong tự do hàng hải và hàng không, các hoạt động thương mại tự do không bị cưỡng ép, hăm dọa hoặc sử dụng vũ lực. Hạ viện Mỹ kêu gọi các bên làm rõ hoặc điều chỉnh yêu sách chủ quyền và các vùng biển theo luật pháp quốc tế.
Nghị quyết tái khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của chính phủ Mỹ đối với việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trên biển tại Biển Đông và biển Hoa Đông một cách hòa bình, đồng thời cam kết tiếp tục các nỗ lực nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một tiến trình hòa bình và phối hợp để giải quyết các tranh chấp này. Nghị quyết cũng tái khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của Hạ viện Mỹ đối với tự do hàng hải và hàng không, lên án các hành động cưỡng ép, đe dọa hoặc sử dụng vũ lực bằng tàu quân sự hoặc dân sự nhằm cản trở sự tự do này tại các vùng biển quốc tế, thay đổi hiện trạng hoặc gây mất ổn định tại Châu Á - Thái Bình Dương.
Trong bản Nghị quyết, Hạ viện Mỹ hối thúc Trung Quốc kiềm chế, không thực thi Vùng nhận dạng phòng không mà nước này đơn phương tuyên bố tại biển Hoa Đông, không thiết lập các vùng nhận diện phòng không mới ở Biển Đông. Hạ viện Mỹ ủng hộ chính phủ Mỹ tiếp tục có những hành động duy trì tự do hàng hải, hàng không tại các vùng biển và vùng trời quốc tế tại Biển Đông và biển Hoa Đông.
Nghị quyết H.Res - 714 kêu gọi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), các đồng minh, bạn bè của Mỹ và các nước có tranh chấp cùng nhau nỗ lực tìm giải pháp hòa bình cho các tranh chấp, thông qua việc yêu cầu các bên thực thi đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên (DOC), tiến tới thiết lập một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); khuyến khích chính phủ Mỹ tăng cường các quan hệ đối tác trong khu vực nhằm xây dựng năng lực trong nhận thức về biển, đảm bảo tự do hàng hải, duy trì hòa bình và ổn định cũng như sự tôn trọng đối với các nguyên tắc luật pháp đã được quốc tế công nhận.
Trước đó, Nghị quyết H.Res - 714 đã được Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ nhất trí thông qua ngày 21/11/2014. Bảy Hạ nghị sỹ cùng đỡ đầu Nghị quyết này là Eni F.H. Faleomavaega, Elliot Engel, Steve Chabot, Madeleine Bordallo, Ros - Latihnen, Ani Bera và Steve Stockman.
Hạ viện Mỹ lần đầu tiên thông qua Nghị quyết về Biển Đông và biển Hoa Đông với sự đồng thuận cao là do Trung Quốc gia tăng các hành vi đơn phương hiếu chiến với các nước láng giềng ở Biển Đông và biển Hoa Đông, nhất là từ đầu năm 2014, Trung Quốc đã đẩy mạnh các hoạt động làm thay đổi nguyên trạng, phá vỡ cân bằng lực lượng ở khu vực. Mỹ đã nhiều lần hối thúc Trung Quốc kiềm chế, hành xử có trách nhiệm, nhưng Trung Quốc vẫn phớt lờ các ý kiến của Mỹ và ngày càng hung hăng hơn. Điều này khiến các Hạ Nghị sỹ Mỹ thấy rằng cần thể hiện một lập trường mạnh mẽ phản đối Trung Quốc.
Việc Hạ viện Mỹ lần đầu tiên thông qua một Nghị quyết với những lời lẽ mạnh mẽ lên án Trung Quốc phản ánh rõ sự bức xúc và lo ngại của cơ quan lập pháp Mỹ đối với sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Các nội dung của Nghị quyết H.Res - 714 là sự hậu thuẫn mạnh mẽ cho các nước ven Biển Đông và biển Hoa Đông trong cuộc đối phó với chính sách bá quyền trên biển của Trung Quốc./.
BDN
BienDong.Net: Sáng 04/12/2014, với số phiếu ủng hộ tuyệt đối (100% phiếu tán thành), Hạ viện Mỹ đã thông qua Nghị quyết mang mã số H.Res - 714, nhấn mạnh sự cần thiết tìm giải pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, cho các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Hoa Đông. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Hạ viện Mỹ thông qua một nghị quyết liên quan tới vấn đề Biển Đông và Hoa Đông và chỉ trích đích danh Trung Quốc.
Nghị quyết tái khẳng định sự ủng hộ của Mỹ đối với các nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình, trên cơ sở các nguyên tắc luật pháp quốc tế đã được các nước công nhận đối với các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông và Hoa Đông.
Nghị quyết cũng một lần nữa khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ đối với tự do hàng hải, sử dụng các vùng biển và vùng trời ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương theo luật pháp quốc tế.
Nghị quyết nêu rõ các khu vực biển tại Châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm cả vùng biển và vùng trời, đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự thịnh vượng, ổn định và an ninh của khu vực cũng như thương mại toàn cầu. Các nước ASEAN và Trung Quốc đã thông qua Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông vào năm 2002, theo đó các bên cam kết tôn trọng và đảm bảo tự do hàng hải và hàng không tại Biển Đông theo các nguyên tắc luật pháp quốc tế đã được công nhận trên toàn thế giới, cũng như giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng các biện pháp hòa bình, không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, căng thẳng đã gia tăng tại các khu vực biển và lãnh thổ có tranh chấp kể từ thời điểm đó.
Nghị quyết đã đưa ra các dẫn chứng cụ thể về các hành động hiếu chiến của Trung Quốc đối với các nước láng giềng ở Biển Đông và biển Hoa Đông như: tàu Trung Quốc đã cố tình đâm tàu tuần duyên Nhật Bản tại biển Hoa Đông; bắn tàu cá của Philippines; 2 lần cắt cáp tàu Việt Nam đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; sử dụng súng đe dọa 4 tàu đánh cá Việt Nam tại vùng biển gần quần đảo Trường Sa. Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc còn mời thầu thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào năm 2012 và hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển của Việt Nam vào tháng 5/2014. Hơn 80 tàu Trung Quốc, trong đó có 7 tàu quân sự, đã được triển khai tại đây để hậu thuẫn hành động khiêu khích này.
Nghị quyết nhấn mạnh các tàu hộ tống giàn khoan Hải Dương 981 đã hăm dọa tàu cảnh sát biển Việt Nam, vi phạm Công ước các quy tắc quốc tế về phòng ngừa va chạm trên biển. Tàu Trung Quốc còn đâm va, sử dụng trực thăng và vòi rồng để ngăn cản các tàu Việt Nam, đồng thời thiết lập khu vực cấm qua lại với bán kính 3 hải lý xung quanh giàn khoan Hải Dương 981. Các hành động trên nhằm đơn phương thay đổi hiện trạng bằng vũ lực. Ngoài ra, Trung Quốc còn đơn phương tuyên bố thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên biển Hoa Đông với những quy định vi phạm Công ước Chicago của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế.
Nghị quyết của Hạ viện Mỹ nhấn mạnh, tự do hàng hải và việc sử dụng hợp pháp vùng biển và vùng trời đã được quy định trong luật pháp quốc tế chứ không phải do bất kỳ quốc gia nào ban phát. Mỹ quan ngại sâu sắc về những hành động đơn phương nhằm ngăn cản nước khác thực thi quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của nước đó thông qua những đòi hỏi chủ quyền không dựa trên luật pháp quốc tế hay tuyên bố thành lập đơn vị hành chính và quân sự trên các khu vực tranh chấp tại Biển Đông và Hoa Đông, cũng như áp dụng quy định đánh bắt cá mới tại các vùng tranh chấp, làm gia tăng căng thẳng trong khu vực.
Nghị quyết nêu rõ dù không phải là bên liên quan đến các tranh chấp biển tại Biển Đông hay biển Hoa Đông nhưng Mỹ có lợi ích trong việc giải quyết một cách hòa bình, thông qua con đường ngoại giao và phù hợp với luật pháp quốc tế đối với các đòi hỏi gây tranh cãi. Mỹ có lợi ích trong tự do hàng hải và hàng không, các hoạt động thương mại tự do không bị cưỡng ép, hăm dọa hoặc sử dụng vũ lực. Hạ viện Mỹ kêu gọi các bên làm rõ hoặc điều chỉnh yêu sách chủ quyền và các vùng biển theo luật pháp quốc tế.
Nghị quyết tái khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của chính phủ Mỹ đối với việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trên biển tại Biển Đông và biển Hoa Đông một cách hòa bình, đồng thời cam kết tiếp tục các nỗ lực nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một tiến trình hòa bình và phối hợp để giải quyết các tranh chấp này. Nghị quyết cũng tái khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của Hạ viện Mỹ đối với tự do hàng hải và hàng không, lên án các hành động cưỡng ép, đe dọa hoặc sử dụng vũ lực bằng tàu quân sự hoặc dân sự nhằm cản trở sự tự do này tại các vùng biển quốc tế, thay đổi hiện trạng hoặc gây mất ổn định tại Châu Á - Thái Bình Dương.
Trong bản Nghị quyết, Hạ viện Mỹ hối thúc Trung Quốc kiềm chế, không thực thi Vùng nhận dạng phòng không mà nước này đơn phương tuyên bố tại biển Hoa Đông, không thiết lập các vùng nhận diện phòng không mới ở Biển Đông. Hạ viện Mỹ ủng hộ chính phủ Mỹ tiếp tục có những hành động duy trì tự do hàng hải, hàng không tại các vùng biển và vùng trời quốc tế tại Biển Đông và biển Hoa Đông.
Nghị quyết H.Res - 714 kêu gọi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), các đồng minh, bạn bè của Mỹ và các nước có tranh chấp cùng nhau nỗ lực tìm giải pháp hòa bình cho các tranh chấp, thông qua việc yêu cầu các bên thực thi đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên (DOC), tiến tới thiết lập một Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); khuyến khích chính phủ Mỹ tăng cường các quan hệ đối tác trong khu vực nhằm xây dựng năng lực trong nhận thức về biển, đảm bảo tự do hàng hải, duy trì hòa bình và ổn định cũng như sự tôn trọng đối với các nguyên tắc luật pháp đã được quốc tế công nhận.
Trước đó, Nghị quyết H.Res - 714 đã được Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ nhất trí thông qua ngày 21/11/2014. Bảy Hạ nghị sỹ cùng đỡ đầu Nghị quyết này là Eni F.H. Faleomavaega, Elliot Engel, Steve Chabot, Madeleine Bordallo, Ros - Latihnen, Ani Bera và Steve Stockman.
Hạ viện Mỹ lần đầu tiên thông qua Nghị quyết về Biển Đông và biển Hoa Đông với sự đồng thuận cao là do Trung Quốc gia tăng các hành vi đơn phương hiếu chiến với các nước láng giềng ở Biển Đông và biển Hoa Đông, nhất là từ đầu năm 2014, Trung Quốc đã đẩy mạnh các hoạt động làm thay đổi nguyên trạng, phá vỡ cân bằng lực lượng ở khu vực. Mỹ đã nhiều lần hối thúc Trung Quốc kiềm chế, hành xử có trách nhiệm, nhưng Trung Quốc vẫn phớt lờ các ý kiến của Mỹ và ngày càng hung hăng hơn. Điều này khiến các Hạ Nghị sỹ Mỹ thấy rằng cần thể hiện một lập trường mạnh mẽ phản đối Trung Quốc.
Việc Hạ viện Mỹ lần đầu tiên thông qua một Nghị quyết với những lời lẽ mạnh mẽ lên án Trung Quốc phản ánh rõ sự bức xúc và lo ngại của cơ quan lập pháp Mỹ đối với sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông. Các nội dung của Nghị quyết H.Res - 714 là sự hậu thuẫn mạnh mẽ cho các nước ven Biển Đông và biển Hoa Đông trong cuộc đối phó với chính sách bá quyền trên biển của Trung Quốc./.
BDN
Monday, December 15, 2014
RFI PHỎNG VẤN GS. VŨ QUỐC THÚC
GS Vũ Quốc Thúc: " Phải chọn con đường vì dân tộc"
ngày 08/12/2014. RFI
Tập hồi ký của Giáo sư Vũ Quốc Thúc có tựa đề “Thời đại của tôi” ( gồm 2 cuốn “ Nhìn lại 100 năm lịch sử “ ( xuất bản năm 2009 ) và “Đời tôi trải qua các thời biến” ( xuất bản năm 2010) đã được sang tiếng Anh và vừa được xuất bản tại Hoa Kỳ.
Đây là một sự kiện đáng chú ý bởi vì Giáo sư Vũ Quốc Thúc không những có nhiều đóng góp trong lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam trước năm 1975, mà còn từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa từ thời tổng thống Ngô Đình Diệm : Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục, Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, Quốc vụ khanh đặc trách Tái thiết và Phát triển...
Đặc biệt, GS còn là đồng tác giả hai bản phúc trình Stanley-Vũ Quốc Thúc ( 1961 ) và Phúc trình Lilienthal-Vũ Quốc Thúc ( 1968 ) về tái thiết thời hậu chiến. Ấy là chưa kể rất nhiều sách và bài khảo luận về các vấn đề chính trị, kinh tế bằng tiếng Việt và tiếng Pháp.
Sinh năm 1920, tức là năm nay đã 94 tuổi, có thể nói GS Vũ Quốc Thúc là một trong số hiếm hoi các nhân chứng trực tiếp của thời cuộc Việt Nam suốt gần 100 năm qua, từ thời chế độ Pháp thuộc năm 1900 cho đến thời chế độ Cộng sản, cụ thể là đến năm 2000. Toàn bộ 100 năm lịch sử đó đã được Giáo sư tóm gọn trong cuốn đầu của tập hồi ký, qua cái nhìn của người trong cuộc.
Khác với cuốn đầu, gần như thuần túy mang tính biên khảo, cuốn thứ hai mới thật sự là hồi ký Vũ Quốc Thúc, vì trong đó ông trình bày rất nhiều chi tiết về cá nhân, về gia đình, dòng tộc và sự nghiệp chính trị của ông. Nhưng Giáo sư Vũ Quốc Thúc cũng không quên đưa vào hồi ký những suy tư, nhưng trăn trở của ông về thời cuộc Việt Nam trước đây và hiện nay.
Ngày 08/12/2014 vừa qua, chúng tôi đã được Giáo sư Nguyễn Thái Sơn dẫn đến nhà riêng của Giáo sư Vũ Quốc Thúc ở Nanterre, nằm không xa khu La Défense, ngoại ô Paris, để phỏng vấn ông nhân dịp cuốn hồi ký được xuất bản bằng tiếng Anh tại Hoa Kỳ. Tuy năm nay đã 94 tuổi, nhưng bầu nhiệt huyết tuổi thanh xuân, lòng yêu nước thương nòi, nỗi lo cho tiền đồ dân tộc hầu như vẫn nguyên vẹn trong con người Giáo sư Vũ Quốc Thúc. Càng nói giọng của ông càng hùng hồn, lập luận càng khúc chiết, rành mạch, tưởng như Giáo sư vẫn còn đứng trên bục giảng đường đại học năm xưa.
Trích đoạn phỏng vấn :
GS Vũ Quốc Thúc: Thực ra, khi tôi viết cuốn hồi ký kể về nhiều câu chuyện liên quan đến bản thân và gia đình mình, tôi không hề nghĩ đến khả năng cuốn hồi ký đó được phổ biến cho nhiều người ngoài gia đình đọc.
Mục đích của cuốn hồi ký này là để cho cháu chắt tôi hiểu được tại sao ông cụ của mình đã phải rời bỏ quê hương sang định cư bên Pháp, khiến cho chúng mình bây giờ trở thành công dân Pháp, xem Pháp là quê hương chính, còn Việt Nam là quê hương thứ hai, mặc dù chúng ta không bao giờ quên cái quê hương thứ hai đó. Tôi muốn cho cháu chắt tôi biết trong hoàn cảnh nào tôi đã phải bỏ nước ra đi, để thấy tâm tư của một bậc tiền bối, đâu phải là ra đi chỉ mưu cầu những an ninh, lạc thú ở ngoại quốc, mà trái lại luôn luôn hướng về quê cha đất tổ.
Thành ra hồi ký tôi chỉ viết bằng tiếng Việt, xuất bản từ Mỹ vào năm 2010, tức là cách đây đã 4 năm rồi. Nếu tôi có ý đồ vận động dư luận các nước Tây Phương, nhất là ở Âu Châu hay là Mỹ, thì tôi đã viết bằng tiếng Pháp rồi, vì tôi đã được đào tạo ở Pháp trong bao nhiêu năm rồi, viết bằng tiếng Pháp dễ hơn ! Chứ còn biểu tôi viết bằng tiếng Anh thì, thú thật, trình độ Anh ngữ của tôi còn kém lắm ! Vì vậy nên có chuyện dịch ra tiếng Anh này.
Khi được đề nghị cho dịch cuốn hồi ký sang tiếng Anh thì tôi thấy không có gì trở ngại cả, bởi vì trong cuốn hồi ký của tôi, những sự việc xảy ra như thế nào thì tôi viết y như thế, không thêm, không bớt. Tôi tự xem mình như là một nhân chứng được mời ra trước tòa án lịch sử, tòa án dư luận trong nhiều thế hệ. Khi ra trước một tòa án như thế, nhân chứng phải tuyên thệ: " Tôi xin thề nói sự thực, tất cả sự thực và chỉ có sự thật". Tôi đã áp dụng đúng phưong châm dó trong cuốn hồi ký, không thêm mắm thêm muối cốt để tự mình khoa trương mình.
Trong hai cuốn hồi ký được dịch ra thì tôi chú trọng đến quyển hai, vì trong đó tôi kể nhiều chuyện riêng tư, chứ còn trong quyển một, tôi chỉ kể lại lịch sử, như là một thầy giáo giảng bài cho học sinh: Đây là những gì tôi đã được biết, đã được phổ biến, mà tôi còn nhớ để thuật lại, những điều mà tôi tin đó là sự thực.
RFI : Giáo sư có hy vọng là cuốn hồi ký này, khi được dịch sang tiếng Anh và xuất bản tại Hoa Kỳ, sẽ có tác động phần nào đến dư luận Mỹ, để họ hiểu rõ hơn về hoàn cảnh của Việt Nam trước đây và hiện nay?
GS Vũ Quốc Thúc : Tôi không dám ngông cuồng đến độ tin rằng cuốn sách của tôi sẽ làm sáng tỏ hơn nhiều chuyện hãy còn mờ ám trong lịch sử, nhất là trong quan hệ Việt - Mỹ. Nhưng tôi thấy rằng ở Hoa Kỳ, trước khi ra một biện pháp gì đó, hay thay đổi một chính sách nào đó, người ta thường thăm dò dư luận. Tôi coi việc phổ biến hồi ký của tôi phần nào như là một cách để họ thăm dò dư luận, không chỉ trong người Mỹ gốc Việt, mà cả những người Mỹ khác và dư luận thế giới.
Tại sao ? Là tại vì trong cuốn hồi ký của tôi, ngoài những chuyện mà tôi kể lại, mà có thể một số người nay mới biết về chi tiết, tôi còn có những suy tư về những chuyện trọng đại, như chính sách chống cộng, chiến tranh lạnh, việc Hoa Kỳ can thiệp...
Tôi hy vọng khi hồi ký được dịch sang Anh ngữ thì sẽ có nhiều người biết hơn, chứ còn nếu chỉ là bản tiếng Việt thì chỉ có một số nhỏ người Việt tha thiết với các vấn đề của dân tộc mới đọc thôi. Tôi cũng hy vọng là khi sách được dịch sang Anh ngữ, được phổ biến trong giới sành Anh ngữ, thì chính đồng bào Việt Nam ở quốc nội sẽ quan tâm hơn đến. Tầng lớp trẻ, nhất là những người du học ở nước ngoài, có khi đọc tiếng Anh còn dễ hơn đọc tiếng Việt và khi họ đọc được bản tiếng Anh, có thể họ sẽ trở lại tìm đọc nguyên bản tiếng Việt
Còn cuốn sách của tôi sẽ có tác động gì đến chính sách của Hoa Kỳ hay không, thì quả thật tôi không dám tin như thế, vì Hoa Kỳ có chính sách của họ, họ cứ làm. Ở đây họ chỉ thăm dò dư luận. Có thể họ sẽ dùng cuốn sách của tôi để biện minh cho một số biện pháp mà họ sẽ thi hành. Đó là hy vọng của tôi thôi.
RFI : Quan hệ Mỹ-Việt là vấn đề nhiều người quan tâm hiện nay, nhất là vì giới lãnh đạo Hà Nội hiện nay có vẻ muốn dựa nhiều hơn vào Hoa Kỳ và Hoa Kỳ thì muốn tăng cường quan hệ với Việt Nam, cụ thể gần đây họ đã bãi bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam. Trong hồi ký, Giáo sư đã nói nhiều đến thái độ của Mỹ trong thời gian chiến tranh Việt Nam, nhất là sau khi đã ký hiệp định Paris để có thể rút quân. Khi miền Bắc tấn công miền Nam, tức là vi phạm hiệp định Paris, Hoa Kỳ đã không có phản ứng gì, khiến miền Nam lọt vào tay Cộng sản. Nhìn lại giai đoạn lịch sử ấy, Giáo sư có nhận định như thế nào?
Giáo sư Vũ Quốc Thúc : Hoa Kỳ, cũng như tất cả các cường quốc khác, phải chú tâm trước hết đến uy tín quốc tế của họ, rồi đến những quyền lợi thực tế của họ. Thành ra, khi Hoa Kỳ can thiệp vào bất cứ nơi nào trên thế giới, mục đính trước tiên của họ là bảo vệ uy tín của đệ nhất siêu cường thế giới hiện nay, rồi nghĩ đến những quyền lợi thực tiễn, như là về dầu hỏa, về xuất cảng...
Chứ còn bảo rằng Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam để tranh đấu cho Việt Nam thì đời nào ! Cái đó về sau thì có thật đấy, tức là khi mà người ta gởi quân lính sang, trợ giúp khí giới, thì tất nhiên là người ta cũng muốn cho mình đạt được một kết quả nào đó. Chứ chính mình thì đời nào chúng ta chấp nhận cho ngoại quốc xen lấn vào, để rồi mình phải thi hành đường lối của ngoại quốc !
Chính quyền nào ở nước ta cũng vậy, Không một chính quyền nào, dù thiên tả hay thiên hữu, lại quên các vấn đề của dân tộc. Dù không công khai nói là bảo vệ quyền lợi dân tộc, nhưng trong thâm tâm, bất cứ chính quyền nào cũng phải nghĩ đến quyền lợi dân tộc.
Đâu phải một khi người ta nắm quyền được chính quyền là người ta quên hẳn quyền lợi dân tộc. Việt Nam mình đâu phải lúc nào cũng nhắm mắt theo các cường quốc ! Bao giờ mình cũng ý thức được quyền lợi trường tồn của dân tộc. Tôi tin là như thế. Đã là người Việt thì không thể nào phản bội quyền lợi dân tộc ! Dù muốn dù không, tiềm ẩn trong trái tim người ta vẫn có lòng yêu nước, vẫn nhớ lại những truyền thống oai hùng của dân tộc mình. Không ai dám phản bội Tổ quốc một cách trắng trợn.
RFI : Thưa Giáo sư, trong bối cảnh mà hiểm họa xâm lăng từ Trung Quốc ngày càng rõ nét, việc Hoa Kỳ bãi bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương cho Việt Nam là một điều tốt ?
Giáo sư Vũ Quốc Thúc : Việc mình trông cậy hoàn toàn vào ngoại bang để bảo vệ quyền lợi dân tộc là chuyện bất đắc dĩ. Trong hoàn cảnh lịch sử mà mình chưa đủ sức để tự bảo vệ, thì mình phải dựa vào một ngoại bang. Nhưng điều trước tiên là mình phải bồi dưỡng nội lực của mình đã, để có thể tự vệ được.
Khi nói bồi dưỡng lực lượng của chính mình, thì không chỉ có lực lượng quân sự mà thôi. Bây giờ ta có thể được Hoa Kỳ bán chịu một số vũ khí hiện đại, nhưng ta đâu có thể hưởng cái đó mãi ? Đến một lúc nào đó chúng ta phải trả nợ.
Mà vũ khí là để làm gì, để giết ai ? Tôi chỉ sợ là Việt Nam mình, nếu không cẩn thận, sẽ lại rơi vào tình trạng như xưa, tức là có hai phe trong nhân dân, một phe thì muốn dựa vào Trung Hoa, phe thì muốn dựa vào Hoa Kỳ. Hai phe đó tất nhiên là xung đột nhau. Hoa Kỳ sẽ dùng hai phe đó để sử dụng các vũ khí sát thương của họ. Chúng ta phải cẩn thận.
Nước ta còn nghèo, còn yếu, nếu mà chỉ nghĩ đến chuyện đánh nhau, thì chẳng qua là chúng ta xuất khẩu xương máu. Trước khi phải sử dụng đến vũ khí hiện đại thì mình phải dùng đến ngoại giao. Trong thế yếu hiện nay của Việt Nam, mình chỉ có thể len lõi giữa những xung đột của các cường quốc, vì quyền lợi của họ có khi là mâu thuẫn nhau, phải tìm cách lái cho họ đi đến chỗ phải bảo vệ chúng ta trên các diễn đàn ngoại giao.
RFI : Tránh một cuộc chiến tranh với Trung Quốc có vẻ cũng là đường lới hiện nay của các nhà lãnh đạo Hà Nội, phải làm hòa với Trung Quốc sau vụ khủng hoảng giàn khoan Hải Dương 981 . Nhưng đồng thời Việt Nam cũng đang cố tranh thủ thêm sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Trong cuốn hồi ký, Giáo sư gọi đó là chính sách đu dây giữa các cường quốc. Nhưng chính sách có nguy cơ sẽ đưa Việt Nam vào thế kẹt ?
Giáo sư Vũ Quốc Thúc : Trong vụ xung đột về giàn khoan, kết quả là Trung Quốc cũng đã rút giàn khoan đi. Cho nên tôi quan niệm thế này : phải luôn phân biệt chiến lược với chiến thuật. Về mặt chiến lược, phải nghĩ đến quyền lợi lâu dài của dân tộc, còn về mặt chiến thuật thì có khi ta phải đi đến một đồng minh này, có khi phải đi với một đồng minh khác.
Chiến lược lâu dài đối với tôi thì không có chuyện lựa chọn giữa Hoa Kỳ hay Trung Quốc, mà chỉ có con đường duy nhất là chọn lựa Việt Nam, tranh đấu cho Việt Nam. Cái gì có lợi cho Việt Nam, thì tôi làm, cái gì ngược lại với quyền lợi trường tồn của Việt Nam, thì tôi chống.
Người ta cứ luôn nói đến chính sách đu dây, nhưng bây giờ tôi nghĩ đến một hình ảnh khác, đó là cái bản lề. Nhìn bản đồ Việt Nam, tôi thấy nó chẳng khác chi bản lề, giúp cho cánh cửa, khi mở, khi đóng, khi quay về tai trái, khi quay về tay mặt. Cho tới nay, cái bản lề ấy chỉ đóng vai trò thụ động, thì tại sao ta không tìm cách điều khiển nó? Mình phải làm chủ cái bản lề ấy để mà ngăn chận, không cho bên nào lấn sang bên kia cả.
Nói cách khác, mình phải có một chính sách dân tộc rõ ràng. Phải có một lực lượng, hay một phần lực lượng để tự vệ đã, rồi mới có thể sử dụng cái vị trí bản lế ấy. Các lực lượng quốc tế nào định sử dụng ta như quân cờ thì lúc đó họ sẽ e dè. Lúc đó, chính là ta đã chọn lựa dân tộc.
RFI: Xin cám ơn Giáo sư Vũ Quốc Thúc.
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20141215-gs-vu-quoc-thuc-phai-chon-con-duong-vi-quyen-loi-dan-toc/
No comments:
Post a Comment