Wednesday, November 9, 2016

TRUYỆN TÙ & VƯỢT BIÊN * TRƯỜNG CHINH * NGA *NHẤT LINH

Friday, April 11, 2014


PHƯƠNG DUY * LẶN LỘI ĐƯỜNG XA



Lặn lội đường xa


Vào truyện – Trên khu cải tạo Bù Gia Mập có một con đường đất đỏ dài trên dưới hai mươi cây số, chạy dài từ khu kinh tế mới Minh Hưng, quận Bù Đăng, đi vào sóc Bombo,vòng qua Đức Hạnh, Bù Đốp. Con đường được thiết lập từ thời Đệ Nhất cộng Hoà của Chính Phủ Ngô Đình Diệm với dự tính khẩn hoang lập ấp, thành lập các khu dinh điền, vừa để chế ngự một an toàn khu của phe Cộng Sản VN. Kế hoạch đã bị bỏ dở sau sự sụp đổ nền Đệ nhất Cộng Hoà. Con đường bị bỏ hoang. Nhiều đoạn, cây rừng mọc lan ra che phủ hết,đi dưới đường nhìn lên không thấy bầu trời.. Con đường nắng lên đầy bụi đỏ, mưa xuống lại lầy lội trơn trợt. Đàn bà con gái lặn lội thăm con thăm chồng, tất cả đều phải ba lô trên vai, dép guốc cầm tay mới ráng lết đi được... Trong truyện ngắn này, người viết xin ghi lại một vài hình ảnh nhỏ bé như một lời tri ân của đứa con đến các bà mẹ, lòng biết ơn của người chồng đến các bà vợ Việt Nam tuyệt vời, một đời vất vả hy sinh cho người thân yêu của họ trong khoảng thời gian cùng quẫn khó khăn nhất của xã hội miền Nam.
X X X
Nhận được thư của Thoại gửi về qua tay chị Trang, chị mới đi thăm chồng về, Giang cảm thấy lo lắng. Nói là lá thư cho có vẻ trang trọng. Thực ra, đó chỉ là một mảnh giấy nhỏ nhàu nát. Trong thư, Thoại thăm hỏi gia đình và mẹ con nàng vài câu, thêm vài câu vắn tắt cho biết anh đang bệnh nhiều, cần thuốc thang chữa trị. Thời buổi khó khăn, tìm kiếm cái ăn cho hai mẹ con đã thật vất vả. Mà cả nước đều thế, chứ đâu riêng gì gia đình nàng. Mấy năm trời đi tù cải tạo, Thoại biết hoàn cảnh gia đình không khá, anh chưa bao giờ đòi hỏi xin xỏ gì. Nay tình hình chắc phải tồi tệ lắm mới có chuyện viết thư nhắn gửi như vầy. Vậy nàng phải thu xếp lên rừng một chuyến. Không đi, lỡ chồng có mệnh hệ gì, có lẽ sẽ ân hận suốt đời.  
Công việc làm ăn của Giang bây giờ càng lúc càng khó khăn. Ngành may mặc lúc trước gia công cón có đồng ra đồng vào. Kể từ khi bị buộc vào tổ hợp, rồi tiến lên hợp tác xã, chỉ còn đồng lương cố định chết đói hàng tháng cộng với ít tem phiếu mua gạo hẩm, nước mắm thối. Dạo sau này, đến gạo hẩm cũng không còn. Tháng tháng mang tem sổ đến chỉ mua được khi thì ít mì sợi, lúc vài ký bo bo loại thực phẩm cho ngựa ăn. Nhà nước gọi nó là cao lương, nhưng nuốt vào miệng thế nào thì ỉa ra nguyện hột thế ấy. Vậy mà có khi cũng không có, phải nhận mớ ngô vàng cứng như đá hoặc bao củ lang củ sắn (khoai mì) hư thối hơn nửa.

 Thời những năm bốn mươi lăm, nghe nói miền Bắc người chết đói hàng loạt, nhưng hồi ấy nàng chưa sinh ra nên chẳng biết. Còn lớn lên ở cái miền Nam nhiều lúa lắm gạo này, nàng chưa thấy có thời kỳ nào thế thảm như vậy. Lại còn cái vụ phải xin phép nghỉ vài ngày để đi thăm chồng. Rắc rối chứ đâu có đơn giản. Có nên về nhờ vả bố mẹ tí chút nào không? Cả hai bên bố mẹ đều đã già, ruộng vườn co cóp mấy chục năm đã bị tịch thu hết ngay từ những ngày đầu xã hội chủ nghĩa. Số còn lại giờ cũng phải vào tập đoàn làm ăn tập thể, chả còn gì mà trông mong. Lấy gì để mua sắm lên thăm Thoại đây? Giang đành ngó quanh quất trong nhà coi có gì còn tí chút giá trị, có thể tải được ra chợ. Của đi thay người, nàng ngẫm nghĩ. 



Cái khánh vàng với bốn chữ Trăm Năm Hạnh Phúc lớn có con rồng và con phượng bao quanh thật lộng lẫy. Quà cưới của bạn bè tặng Thoại ngày xưa, dễ có được vài chỉ, đem bán đi chắc Thoại buồn, nàng cũng buồn. Nhưng thời buổi, cái khó bó cái khôn. Túng phải tính cứ biết làm sao? Giang ngậm ngùi lôi nó ra khỏi cái khung kiếng. Kể từ ngày “giải phóng”, số phận nó cũng giống như Thoại, phải chui vào nằm trong một xó kín trong nhà, không được ngồi trong tủ chè nữa. Chưng ra cho chúng nó dòm ngó, có mà chết. Hôm nay trong lúc túng cùng, thôi thì vĩnh. biệt. Giang gói nó lại bỏ vào giỏ rồi đem ra chợ. Vấn đề tài chánh coi như giải quyết xong. Không phải cầu cứu tới ai, nhưng cũng nên cho bố mẹ Thoại biết một tiếng.
 Thoại đang đau ốm cần giúp đỡ. Bố Thoại có nghề y tá dạo, ông biết về thuốc men, thế nào chả có chút đỉnh cho con, còn mẹ ít nhất cũng có ít thức ăn cây nhà lá vườn cho con trai bà sống cầm cự qua ngày. Tiện thể, nàng kéo thằng Quốc, em trai nàng đi theo. Nó còn trẻ, mạnh khoẻ nhanh nhẹn đỡ đần tay chân chút ít bớt vất vả. Kinh nghiệm của kỳ đi thăm nuôi lần trước vẫn còn nguyên trong trí. Dạo ấy Giang đi cùng mẹ chồng, may mắn liên lạc được ít gia đình rủ cùng đi chung, nương tựa, giúp đỡ khuyến khích nhau. Nếu không chắc đã bỏ về nửa đường. Xe đò từ Sài Gòn đi Phước Long, tới ngã tư Minh Hưng là điểm dừng cuối. Từ đây không còn xe chở khách, ngoại trừ xe bộ đội. Nhưng xe của “quân đội nhân dân” thường ít khi cho nhân dân đi quá giang. Có lẽ có muốn cũng không còn chỗ, vì hàng ngày chả có mấy chuyến. Và chuyến nào trên xe cũng thường đầy ắp. Tới Minh Hưng trời đã xế chiếu. Muốn vào tới các trại cải tạo lao động ở trong rừng còn phải cuốc bộ rất xa theo con đường Mười. 
Trại của Thoại ở gần nhất cũng cách trên mười cây số. Tay xách nách mang, có gia đình còn mang theo con nhỏ không biết làm sao để đi. Cuối cùng phải nhờ vả đến người dân địa phương, những người trong vùng kinh tế mới. Họ rành rẽ đường đi nước bước. Họ, có lẽ, trước đây cũng từ các thành phố đến, nhưng sau một thời gian cực khổ, đã quen lam lũ. Vả lại, đó là cơ hội cho họ kiếm thêm được ít đồng tiền đã trở nên rất hiếm hoi quý giá trên rừng này. Trẻ nhỏ thì dẫn đường. Người lớn thì nhận chuyên chở giùm hành lý. Họ chịu hy sinh nhiều giờ để vừa giúp đỡ vừa có thêm phần phụ giúp gia đình. Giá cả thỏa thuận xong. 


Có gia đình cả nhà cùng đi làm hướng dẫn viên một loạt. Đoàn người bắt đầu cất bước từ lúc xế chiều, khi nắng còn đổ gay gắt. Thi thoảng, một chiếc molotova chạy ngang làm tung bụi đỏ mịt mù. Cứ cách quãng dăm bảy trăm thước, đoàn người phải dừng lại nghỉ. Đến được láng trại đầu tiên thì trời đã tối mịt. Mọi người mệt mỏi rã rời. Đoạn đường chỉ hơn mười cây số mà đi tới gần năm tiếng. Đã vậy, khi còn choạng vạng trời lại đổ ập cơm mưa. Đường đồi lên xuống đã gập ghềnh, bây giờ thành trơn như bôi mỡ. Người đi thăm nuôi toàn là đàn bà con gái chưa quen với những con đường đất trơn trợt, guốc dép cởi ra cầm trên tay mà vẫn té lên ngã xuống, thật khổ ải. Ba lô trĩu nặng bờ vai nhỏ, Mưa lạnh đường trơn, chân đất vương Lặn lội thân cò pha nắng bụi, Đường xa lặng lẽ đến thăm chồng. Lần này, chuyến đi đột xuất, không có ai cùng đi, Giang nghĩ mình nên chuẩn bị kỹ lưỡng. 
Nàng về quê mang theo lá thư của Thoại cho bố mẹ đọc, cũng may quê Thoại gần thành phố, chỉ chừng hơn tiếng đồng hồ đi xe đò, có thể đi về trong ngày. Gần như dự đoán của Giang, Bố Thoại biết tình trạng sức khoẻ của con, có dự trữ sẵn mớ thuốc Thoại cần, nàng sẽ mua thêm. Ông gửi kèm theo mấy hộp sữa đặc, một mặt hàng khá hiếm lúc này, cho con trai bổi dưỡng. Bà mẹ thì chuẩn bị một ít ruốc, một hộp mỡ, đậu phộng cây nhà lá vườn. Bà còn bảo mang theo ít cây trái trong vườn. Giang bảo mẹ chồng: - Mẹ đã thấy rồi. Đường xá đi lại rất khó khăn, Con đâu thể mang vác nhiều. - Thì cũng phải có gì cho nó chứ. 


Chả lẽ lên thăm nuôi chồng tay không. - Bây giờ thế này. Mẹ biết gia đình con, con cái còn nhỏ dại, đời sống cũng khó khăn lắm. Bố mẹ bây giờ già quá rồi. Thời buổi này chẳng làm gì ra tiền. Thằng Thoại cũng cần chút ít phòng thân. Mẹ không có tiền cho, con cố mang ít quà của mẹ. Phần mày không cần mua sắm nữa, ráng chạy vạy dấm duí cho nó vài đồng. Bà nói mãi. Giang đành chấp nhận mang theo quà của mẹ, ngoại trừ trái cây hoa quả quá nặng nề. Nhưng bà bắt buộc cầm đi mấy cân bột, đậu xanh và ít đường thẻ. Bà bảo trong tù chúng nó thiếu thốn nên thèm ngọt. Nhà có sẵn, ráng mang đi cho bạn bè anh em nó có dịp “liên hoan”. Thằng Quốc đang lúc rảnh rỗi, cũng sẵn sàng lên rừng. 
Có nó đi theo giúp đỡ, Giang quyết định cho con đi cùng. Thằng Xuân chưa đầy ba tuổi nhưng lanh và ngoan, có thể yê n tâm. Nên cho nó biết mặt bố. Kỳ trước lên rừng, nó chưa được đi vì nàng chưa biết rõ đường đi nước bước. Bây giờ đã có kinh nghiệm, thêm thằng Quốc bên cạnh. thêm tay thêm chân. Thoại chỉ mới gặp con một lần ở Trảng Lớn. Lúc ấy, thằng Xuân mới mấy tháng chưa biết gì. Hai cái ba lô đã chất cứng, đồ đạc bên ngoài vẫn còn nhiều, không biết nhét vào đâu. Thứ nào nàng cũng thấy cần cho chồng. Quà cáp của bố mẹ và thuốc men tối cần thiết không thể thiếu, dầu ăn, bột ngọt,tôm khô mặt hàng tồn trữ chiến lược không thể bỏ lại. Còn mấy gói thuốc lá và bánh thuốc lào này thì tính sao? Giang thấy dạo sau này Thoại ngày càng ốm yếu, ho hen luôn miệng, muốn khuyên chàng bỏ hút thuốc đi mà biết nói như thế nào?
 Rừng núi khí hậu thời tiết lạnh lẽo, thân phận người tù, xa vắng gia đình, cha mẹ vợ con đã nhiều năm, rượu chè đã không có, chỉ còn làn khói thuốc cho ấm lòng, vơi đi nỗi nhớ nhung gia đình. Bỏ thì thương, vương thì tội. Vả lại, không có thuốc lào thuốc lá thật thì họ lại đi hút vớ vẩn những lá cây rừng độc hại thì còn nguy hiểm hơn. Thoại đã chẳng từng kể anh và các bạn tù đã dùng xác bã trà làm thuốc hút đó ư? Trà khô được pha uống đến khi nước pha trắng gần như nước lã mới đem phơi khô, tẩm vào nước điếu đen thui để thành thuốc hút, chẳng ngon thì, “không mỡ xài đỡ đèn cầy”, cũng tạm ấm lòng “ngục sĩ trong khi vắng nhà”. Xong được mấy món đồ lại lo chuyện giấy tờ. Việc làm trong tổ hợp và đơn nghỉ phép đã có Thu lo giùm. 
Con nhỏ bạn gái chưa chồng, còn thong thả nên giúp bạn nhiệt tâm. Còn lại cái giấy phép đi đường từ mấy ông ‘kẹ’ ngoài phường là khá rắc rối. Ai đời cả năm mới xin phép đi thăm nuôi chồng một, hai lần mà y như rằng, cứ thấy nàng ló mặt ra tới là chúng hạnh hoẹ đủ thứ. Nào là mọi việc đã có nhà nước lo, cô không phải lo, phải để cho chồng yên tâm học tập mới có kết quả, cứ thậm thụt lên xuống thăm nuôi thế thì làm sao tiến bộ? Nào là đi hoài như thế mất bao nhiêu công lao động. Ai cũng như cô thì còn ai xây dựng đất nước? Lần nào cũng phải đấm mõm cho bọn chúng, khi thì vài gói Samít, lúc dăm bao trà Thái Đức chúng mới chịu cấp giấy cho, còn ra giọng nhân nghĩa: - Nể lắm mới ký cho đó. Mấy phường khác thì còn lâu nghe chửa… Ra khỏi cánh cổng ủy ban, nàng còn nghe tiếng cười đểu của bọn chúng:
ĐM lũ nguỵ quân Sài Gòn Chúng nó ăn bơ thừa sữa cặn của đế quốc quá nhiều. Hèn chi vợ con chúng đứa nào cũng trắng da dài tóc. Từ nay cho chúng bay chết cả nút… Xong xuôi giấy tờ, Giang chuẩn bị đi ngay. Nàng cùng em và con ra bến xe thật sớm. Thời buổi này, cái gì cũng của dân, do dân làm chủ, nhưng chủ chỉ đuợc phép ngó, không được phép rờ. Phải ưu tiên cho đầy tớ của dân là cán bộ, bộ đội. Bỏ tiền ra mua vé xe cũng ưu tiên cho cán bộ, thừa ra mới tới dân. Không sao, Giang biết cách xoay xở. Chỉ cần bỏ ra ít tiền lẻ cho người bán dạo hàng quanh bến xe là có vé chợ đen. Bọn cửa hàng thông đồng với đám viên chức cán bộ lợi dụng sự ưu tiên để mua giành hết vé, đem tuồn ra ngoài kiếm lời chia nhau, thành ra dân có chầu chực ba bốn ngày liền cũng chưa chắc có vé. Chuyện đểu cáng thế nhưng lúc nào bọn chúng cũng giả bộ liêm chính, miệng lưỡi toàn là đạo đức cách mạng. Rặt một bọn vô liêm sỉ. Chiếc xe khách dồn người nêm như cối, không còn chỗ cựa.
 Hành khách leo lên ngồi cả trên mui, mừng vì may mắn có được một chỗ. Chị em Giang và con bị nhét vào giữa lòng xe nên không nhìn thấy quang cảnh bên đường. Của đáng tội, sau vài năm “giải phóng”, đất nước rặt một màu xám tro. Có còn gì khác để mà nhìn ngắm. Đâu đâu cũng một cảnh nhà cửa điêu tàn, cây cối xác xơ. Càng đi xa Sài Gòn càng thấy sự hoang sơ tiêu điều của những vùng được mệnh danh là vùng kinh tế mới. Thật là thành quả. Giang nghĩ: hoa hôi kết thành quả đắng. Chiếc xe cũ kỹ già nua, bò ì ạch, thở hổn hển. Mãi rồi cũng lết được tới khu kinh tế mới Minh Hưng, điểm đến cuối cùng khi mặt trời đã bắt đầu ngả về Tây. Xuống xe, Giang cùng em và con bước vào một quán nước bên đường. Nỗi lo lắng bắt đầu dâng lên. Khi còn ở nhà, vì hăm hở muốn gặp chồng để biết đau ốm ra sao, phần vì những lo âu khác, nàng quên đi cái khó khăn này: đường còn xa, phương tiện chuyên chở không có, phải xoay xở ra sao?
 Phải ngủ trọ lại một đêm rồi sáng mai lên đường? Vùng này kiếm ra một chỗ trọ cho ba người không dễ. Thằng Quốc liều mạng bàn là cứ đi, mười giờ đêm đến là cùng chứ gì? Thấy được nỗi khó khăn của người đàn bà trẻ, người chủ quán thương hại: - Để tôi hỏi thằng con trai tôi coi nó chịu dẫn đường giúp không? Nó vẫn hay giúp đỡ bà con mình ở thành phố lên. Có nó quen đường quen xá ở xó rừng này mới đi được. Tội nghiệp thằng nhỏ. Lâu nay chịu cực chịu khổ đã quen. Có hôm nó phải đi suốt đêm, gần sáng mới về tới nhà. Giang mừng rỡ theo chủ nhà đi điều đình với người con. Giá cả thoả thuận xong xuôi, họ ăn uống qua loa rồi chuẩn bị lên đường ngay. Cậu con trai dẫn đường cùng Quốc mỗi người một ba lô, còn Giang bế con. Thỉnh thoảng mỏi tay lại cho thằng Xuân xuống đi bộ. Chỉ mới hơn năm giờ chiều mà trời đã choạng vạng. Ở rừng trời mau tối, người ta bảo vậy. Nàng rất mệt mà vẫn không dám nghỉ nhiều, con đường như dài vô tận. Hai chị em lúc này luân phiên thay đổi, khi thì đeo ba lô, khi bồng thằng Xuân. Nàng hơi hối hận đã mang con theo. Hai tay mỏi rã rời, hai chân như buộc chì không cất lên nổi. Đoạn đường, theo cậu dẫn đường chưa được phần ba. Trời đã thẫm màu. Cậu dẫn đường đi chặt nứa làm đuốc.
 Kinh nghiệm đi rừng, lúc nào cũng phải có dao trên tay, cậu bảo thế. Đêm đã về,thằng Xuân sợ hãi không rời mẹ ra nữa. May mắn có một chiếc xe chạy ngang. Chiếc xe quân đội trên sư (đoàn) đi công tác bị hư dọc đường, khách đã chuyển qua xe khác về trước. Bây giờ xe mới sửa chữa xong quay về. Chiếc xe trống rổng dừng lại cho quá giang. Người bộ đội lái xe còn đủ tình người để thông cảm cho đám người bơ vơ giữa rừng đêm. Giang cám ơn và trả tiền cho cậu bé dẫn đường để cậu quay về nhà, còn ba người leo lên xe. Đến trại cải tạo Thoại đang ở, trời đã hoàn toàn tối mịt, sương đêm rơi xuống ướt lạnh bờ vai, người lái xe dừng lại cho ba người xuống. Giang không quên lục tìm gói thuốc thơm biếu, cám ơn anh đã giúp đỡ. 

Người bộ đội cười nói không có chi, chúc gặp người thân vui vẻ rồi từ giã phóng xe đi. Anh về sư, còn phải đi thêm một quãng nữa. Giang nhìn quanh. Bên tay phải ngay chỗ xuống xe, mấy dãy nhà lợp tôn. Là bộ phận khung (khung=ban chỉ huy một trại cải tạo thường cấp tiểu đoàn). Những tấm tôn mà kỳ thăm nuôi trước, Thoại đã kể cho nàng nghe: đó là những tấm tôn vấy máu anh em cải tạo. Số là khi còn ở tại trại tập trung cải tạo Trảng Lớn, trại tù này trước đây do sư đoàn 25 bộ binh Mỹ thiết lập, sau năm 1972, họ rút về nước đã trao lại cho sư đoàn 25 bộ binh quân lực VNCH sử dụng làm căn cứ. Sau tháng Tư 1975, quân chính quy Bắc Việt tiếp thu đã sử dụng làm một trong những trại tập trung cải tạo Sĩ Quan Miền Nam VN trình diện tại Sài Gòn và vùng phụ cận. 
Gần hai năm trời tại trại với rất nhiều biến chuyển, những ông cai tù, người từ phía bên kia nhìn thấy cảnh ‘phồn vinh giả tạo’ của miền Nam đã có rất nhiều sáng tạo. Khởi đầu là phong trào “tam đê” gồm có đài, đồng, đạp. Mỗi người phấn đấu để có một xe đạp làm chân, một đồng hồ trên tay và cái đài trên vai. Đó là thế hệ xã hội chủ nghĩa nhuốm màu tư bản sơ khởi. Khi phong trào đã lắng dịu thì đến chiến dịch “bốn vê”: vào, vơ,vét, về. Sau một thời gian vơ vét hết mọi thứ, kể cả những mảnh vụn kim khí từ những chiếc trực thăng, mang về cho một lực lượng lao động”chùa” khổng lồ, đám sĩ quan tù cải tạo giũa gọt, vẽ khắc, đánh bóng, làm thành những món quà quý giá như gương lược, kẹp trâm, những bộ điếu cày chạm trổ tinh vi. 


Đến cả những tấm ghi sắt lót làm sân bay cũng được gỡ sạch để phục vụ cho các “anh hùng cách mạng.” Khi không còn gì để vơ vét, đêm nằm vắt trán suy nghĩ, nhìn lên nóc nhà họ thấy toàn là tôn. Hướng mắt về phía cửa sổ, bên ngoài là những bãi mìn phòng thủ nằm giữa những lớp kẽm gai, cỏ tranh mọc tốt cao quá đầu người. Lại suy nghĩ. Cỏ tranh này miền Bắc có lợp nhà thật tốt. Ở đây bọn Mỹ Nguỵ toàn lợp mái bằng tôn. Giời ơi! Nghĩ ra rồi, của ở trên đầu này chứ còn ở đâu nữa. Trong đầu của người cán bộ, những tấm tôn đã biến thành những hòm lớn hòm nhỏ, mai này đi phép mang về nhà thì quý vô cùng, tiện lợi lại bền hơn gỗ. 
Miền Bắc hiếm tôn thì chắc chắn có giá. Đúng là sáng tạo. Cụ Mác cụ Lê nói thì chẳng sai. Cám ơn các cụ. Nhờ tư tưởng của các cụ đã soi sáng cho đàn cháu biết tư duy. Bộ phận khung nhất trí soạn thảo kế hoạch. Chỉ tiêu được đề ra: thi đua lao động lập thành tích mừng sinh nhật ‘Bác’. Quyết tâm đạt được mười ngàn bó tranh. Sau khi đã cắt hết tranh phía trong trại, kể cả quanh sân bay cũng chỉ được một phần ba, bộ phận cho lệnh tiến công ra ngoài rào, tức đi vào khu vực có gài mìn bẫy. Tranh tai đây cao và rất dầy. Cắt được hết thì không phải tới mười nghìn, mà có thể năm bẩy chục nghìn cũng có dư. Còn mìn bẫy thì sao?


 Có người hỏi. Dễ lắm, thủ trưởng nói: bảo đám tù cẩn thận, vừa cắt tranh vừa để mắt cảnh giác một tí có sao. Chính trị viên tiểu đoàn còn mạnh miệng hơn: Bọn nguỵ quân nguỵ quyền tội ác ngập đầu, được tha chết đã may mắn nhiều. Chúng mình ngày trước còn gian lao nguy hiểm gấp vạn lần ấy. Rồi có sao đâu. Thôi. cứ thế mà làm. Lên giao ban nhận lệnh từ khung, anh em tù giật nẩy mình. Vài người đi vào bãi có sơ đồ, có dụng cụ dò mìn còn lo lắng, huống chi hàng mấy trăm con người hỗn độn đi vào lao động trong một vùng cỏ dầy chi chit che kín hết các dấu hiệu mìn bẫy, lẫn vào cỏ không nhìn thấy nhau, chết là chắc. Lệnh trên đưa ra không thể không thi hành, bị ghép vào tội nổi loạn, chống lại cách mạng tập thể cũng chết. 
Thi hành thì. Mọi người vô cùng lo lắng, cầu trời khấn phật sao cho tai hoạ không xảy đến cho mình. Thật ích kỷ nhưng trước một cái chết vô lý chắc chắn biết nói gì? Hậu quả của buổi sáng lao động hôm ấy thật kinh hồn: chỉ sau hai giờ làm việc, một tiếng nổ long trời lở đất, tám mạng người ra đi, không ai trong số còn nguyện vẹn thi thể. Sự sợ hãi lên đến cao độ khi nhận lệnh đi thu nhặt xác bạn bè tử nạn. Cũng may tiếng nổ làm quang đi vùng cỏ chung quanh. Buổi lao động được hủy bỏ. Sau ít ngày nghỉ ngơi cho công tác chôn cất những người xấu số, người sống sót lấy lại tinh thần, cán bộ khung vẫn tiến hành kế hoạch với một phương thức khác an toàn và nhân đạo hơn. Họ dùng xe chở đán người tù cải tạo đi về phía Cà Tum,Núi Bà.


 Ở vùng này có rất nhiều đồi tranh, xa xôi, tốn kém xăng dầu nhưng đỡ tốn máu. Dù mở miệng ra là nêu cao chuyên chính vô sản, ca tụng sự tốt đẹp cũa con người xã hội chủ nghĩa, bản năng tham tư của cán bộ bộ đội ngày càng phát triển mạnh hơn. Càng ở lâu thì càng tham. Khi có lệnh chuyển trại lên rừng, các doanh trại được giao lại cho đơn vị khác, số tranh chưa cắt đủ thay thế tôn, nhưng tôn vẫn được tháo gỡ xuống hết để mang theo. Số tranh có sẵn được giàn trải ra thật mỏng cho đủ che kín mái. Vì vậy, khi hoàn thành, ở trong nhà không khác chi ở ngoài trời. Khi đơn vị mới tới, làm sao họ ở? Có anh ngứa miệng hỏi. Đó là việc của họ, cán bộ trả lời, dĩ nhiên, họ lại sáng tạo, lao động vinh quang là ở chỗ này. Tôn mang lên rừng để lợp mái cho bộ phận khung, để gò thành hòm lớn hòm nhỏ cho cán bộ. 


Làm nhà cho khung xong mới tranh thủ dựng trại cho anh em. Lại sáng tạo. Không có cỏ tranh, nhưng rừng có đầy tre nứa, lồ ô. Đốn tre đốn gỗ về dựng nhà, mái và vách lợp bằng nứa đập dập đan vào nhau thành những tấm phên. Đó là cảnh những ngày đầu mới lên rừng lao động. Thoại đã kể cho nàng nghe như thế. Nàng đã ngậm ngùi thương cảm những người bất hạnh và gia đình của họ. Những người thân mãi mãi không bao giờ trở về chỉ vì những tấm tôn chẳng đáng giá là bao. Giờ sau vài mùa mưa nắng, những tấm tôn lợp trên khung đã bắt đầu han rỉ, trông như một chứng tích đẫm máu của tám người bạn tù nằm xuống trên đất Trảng năm nào. Giang bước vào dãy nhà lợp tôn được gọi là bộ phận khung, hay ban chỉ huy trại để trình giấy tờ xin thăm nuôi đột xuất. 


Được biết thật bất ngờ là hầu hết anh em tù cải tạo đã có nhiệm vụ mới, được chuyển đến một vị trí sâu hơn phía trong cho công tác chuẩn bị xây dựng một nhà máy làm bột củ sắn (khoai mì) lớn nhất Động Nam Á Châu. Họ đã di chuyển cách đây hai ngày, chỉ còn một số ít anh em ở lại phụ giúp tháo gỡ (lại tháo gỡ) bộ phận khung mang đến vị trí mới. Hoàn tất xong sẽ đi sau. Họ cho phép gia đình nàng tạm trú ngụ trong khu nhà thăm nuôi gọi là nhà khách, đồng thời khuyến cáo hôm sau nên quay trờ về vì đợt thăm nuôi chính thức chưa đến. 
Thật đau lòng biết bao. Chịu đựng đũ mọi gian khổ cốt để gặp chồng lại không toại nguyện. Giang ôm con vào lòng mà khóc. Có lẽ trời còn thương. Một số anh em cải tạo còn ở lại thấy khu nhà khách có ánh lửa thì họ mò đến. May mắn hơn nữa, trong đó có Quang, người bạn lính cùng đơn vị với Thoại ngày xưa. Chính hai người đã cùng nhau đi trình diện cải tạo, do đó đang ở tù chung một trại. Quang sắp xếp chỗ ăn ở cho gia đình nàng. Cơm nước của tù chẳng có gì, ít bo bo và củ mì ăn với nước muối và lá tàu bay. Giang đem con xuống dòng suối rửa ráy qua loa. Nước suối lạnh như nước đá, dù bụi bám đầy người cũng chẳng tắm rửa nổi. Thấy bọn Quang loay hoay với nồi sắn luộc, nàng bảo Quốc lấy trong ba lô ra con gà rán sẵn thơm phức, gói xôi đậu xanh cùng ít bánh nếp mẹ chồng làm, bà biết Thoại thích bánh này của mẹ. - Mời anh Quang, các anh đến dùng cơm với chúng em. - Thôi chị ạ! Gia đình chị cứ tự nhiên đi, Quang nói. Tụi tui kham khổ quen rồi. 
Với lại, để phần cho thằng Thoại nữa chứ. Vợ con lên thăm mà không có gì nó buồn chết. - Đừng ngại các anh ạ! Các thứ này Giang mang theo để dùng trong ngày thôi. Đến mai sẽ thiu thối hết. Các anh ăn thì cũng như anh Thoại thôi. Ảnh không được ăn là tại số ảnh xui không có mặt hôm nay. Vả lại, em có ít thuốc men và đồ khô, không gặp được chồng thì có lẽ phải nhờ mấy anh chuyển đến giùm. Quốc ơi! chị có mang cà phê trong túi, em mang ra pha mời các anh uống đi em. Quang và các bạn không khách sáo nữa. Tất cả cùng ngồi xuống vừa hỏi thăm chuyện thành phố, tin tức bên ngoài, vừa thưởng thức cái bùi của nắm xôi, miếng thịt gà vừa béo vừa thơm. 


Thích nhất vẫn là hương vị của ly cà phê đen thật đậm kèm theo điếu thuốc thơm ấm cúng. Nước sôi nấu trong hộp qui gô có quai xách, vợt lọc cà phê làm bằng bao cát, vẫn không kém phần thú vị giữa cái lạnh núi rừng. Tin tức vẫn chẳng có gì lạ. “Vũ như Cẫn” Thời gian như ngưng lại. Đời sống khó khăn hơn. Mọi việc ngày càng xấu đi. Quang thấy mẹ con nàng lặn lội thật vất vả mới lên được tới đây mà không gặp đuợc chồng thì quá tội nghiệp. Anh nhất định cùng các bạn bàn cách để hai người gặp gỡ nhau. Họ bàn thảo một hồi. Cuối cùng đi dến quyết định. Ngày mai Quang thức dậy thật sớm, khoảng bốn giờ sáng đi lên trại mới. Đường đất khá xa, đi và về cũng mất hơn ba giờ. Quang sẽ báo cho Thoại biết có gia đình lên thăm. 


Trại mới chưa có nhà cửa rào dậu gì, chắc chắn mọi người đang trong công tác chặt cây, lấy gỗ về làm nhà. Quang bảo: - Tao sẽ ráng đi nhanh chân để về sớm trước giờ lao động. Tuy nhiên, lỡ có về muộn chút đỉnh thì tụi bay tìm cách bao che. Được rồi, chị Giang chuẩn bị ngay một mớ đồ dùng vào ba lô tôi mang đi trước cho Thoại. Riêng chi sau tám giờ lên khung xin lấy lại giấy tờ, cho họ biết không gặp được chồng, chị quay trở về nghe không? Nhớ làm sao đừng để họ nghi ngờ và đoán biết kế hoạch của chúng ta, lôi thôi lắm. Sau đó chị giả vờ đi ngược trở về phía Minh Hưng. Khi đã đi xa thoát khỏi tầm mắt của họ, tôi sẽ đón chị đi vào rừng, chúng ta dùng lối mòn mà chúng tôi thường đi lao động ở phía sau trại, khoảng chừng hai cây số lại trổ ra con lộ lớn. Tới đây đã khá an toàn.Tôi đưa chị đi thêm một quãng đường nữa rồi quay trở lại. 


Chị cứ tiếp tục đi tiếp. Trong khi Thoại ở đầu bên kia đi ngược trở lại. Trên đường đi, chị sẽ gặp một trại cũ, anh em cải tạo đã dơì đi, bây giở trở thành một đơn vị sửa chữa công xa. Bộ đội đóng ở đây ít khi hỏi han tới tù cải tạo, dường như họ không có nhiệm vụ với tù. Sát lề đường gần cổng trại này có một quán nước gọi là căng tin. Chủ quán là người dân thường được phép đến làm ăn liên hệ với bộ đội, thỉnh thoảng tiếp cả khách cải tạo nếu ai có dịp đi qua., bộ đội cũng không ngăn cấm. Chị vào quán ngồi uống nước quay mặt ra đường. Ai hỏi chuyện cứ bịa đại là thăm chồng đi nghĩa vụ. Khi nào Thoại đi qua, nó liếc vào quán sẽ thấy chị ngay. 
Tôi sẽ dặn nó khi đi qua quán, nhìn thấy chị rồi cứ tiếp tục đi thẳng. Chờ cho Thoại đi xa khoảng hơn trăm mét, chị hãy trả tiền rồi ra khỏi quán đi theo. Làm sao để nếu có người ngồi trong quán lúc đó không nghi ngờ. Ở một vườn sắn thật rậm rạp um tùm cách đó khoảng nửa cây số có một cái chòi nhỏ nằm rất sâu bên trong. Cái chòi do bọn tù cải tạo chúng tôi dựng lên tránh mưa nắng khi đi lao động, bây giờ bỏ hoang, có sửa sang lại để làm điểm hẹn bí mật cho những chuyện thăm nuôi đột xuất như vầy. Chòi nằm giữa rẫy nên rất kín đáo. Thoại sẽ đón chị vào đó. Nhớ đừng để ai nhìn thấy chị gặp Thoại. Cũng nhớ nhìn trước nhìn sau truớc khi bước vào bìa rừng. Bây giờ bọn mình về trại cho chị và cháu nghỉ ngơi. Cố làm theo đúng kế hoạch. Bây giờ chị đưa ba lô hành lý đây tôi mang đi truớc. Quang và các bạn chào tạm biệt ra về.
  Kế hoạch được tiến hành như dự định. Quang báo cho Thoại biết trước và trở lại kịp giờ lao động, rồi đưa gia đình Giang đi vào lối mòn tắt trong rừng. Sau đó ra lộ đi kèm thêm một đoạn nữa rồi phải từ giã. Hai chị em tiếp tục con đường. Thằng Quốc dường như qua một ngày vất vả hôm trước, không còn bao nhiêu sức, Giang phải chia bớt túi đồ cho nó, trong khi vẫn phải trông chừng con. Đường đồi lên đèo xuống dốc thật khổ. Đi vài chục bước lại phải dừng lại thở. Mãi rồi cái quán bên đường cũng hiện ra. Mừng vui hiện lên khoé mắt, Giang dẫn em và con vào giải khát, nghỉ ngơi, chờ chồng. Bên trong có mấy người bộ đội ngồi uống nước trà hút thuốc đưa đẩy cười nói với cô gái bán quán trông còn rất trẻ. Thấy bọn Giang bước vào, họ ngưng nói, mắt hướng về nàng có ý nghi ngờ. Nhưng họ không nói gì. Giang ngồi vào cái bàn ngay cạnh cửa, giả bộ chăm sóc con ăn uống. Kỳ thực, đôi mắt cứ liếc nhìn ra đường trông ngóng. 

Thỉnh thoảng, một hai người tù cải tạo ăn mặc rách rưới, trông thật tang thương, trên tay ai cũng có một dao rựa lớn đi lướt qua nhưng không phải Thoại. Ngồi đã khá lâu, nàng cảm thấy bồn chồn. Đám bộ đội cũng đã bỏ đi. Đến lúc ấy, Thoại mới chợt hiện ra, cũng áo quần rách bươm, cũng con dao rựa trên tay. Anh liếc nhẹ vào quán rồi tỉnh bơ đi thẳng. Quốc thì thầm: “Ảnh tới rồi đó, chị thấy chưa?” - Thấy rồi! Đừng nói gì hết. Để anh đi một quãng xa đã, kẻo tụi nó nghi. Nhìn thân hình tiều tuỵ trong bộ đồ ăn xin của chồng, Giang thật mủi lòng. Những kỳ thăm nuôi chính thức trước dù sao cũng còn khá tươm tất. Lúc này đang giờ lao động, phải ăn mặc như người đi lao động không thì lộ chuyện. Thật là buồn. 


Vợ lên thăm chồng mà gặp nhau không dám gọi. Nàng muốn bật khóc mà không dám, chỉ đưa nhẹ khăn tay lên lau mắt như có hạt bụi vướng vào. Ôi! Có thời đại nào người hãi sợ người như cái thời đại này. Vợ chồng thân yêu đầu ấp tay gối, gặp nhau phải làm ngơ như người xa lạ. Chờ cho Thoại đi khuất, nàng mới trả tiền bước ra khỏi quán. Tính đi ngược lại với hướng của Thoại một đoạn rồi mới băng rừng trở ra như dự tính, nhưng sao chân lại cứ theo bước chân chàng. Thì, một liều ba bảy cũng liều, đến đâu hay đến đó. Thoại dường như cũng không kiềm chế nổi tình cảm, anh đã quay lại, đến gần vợ con, nắm lấy cái túi xách trên vai nàng kêu khẽ: - Em! Con! Giang thổn thức: “ Anh ơi!” rồi nước mắt tuôn rơi. 
Thoại vội lên tiếng an ủi: - Đừng khóc, tụi nó nghi ngờ là khổ cả lũ. Để anh xách túi đồ đi trước vào vườn sắn. Em cứ thế mà đi theo nhé! Rồi anh bỏ đi trước. Vườn sắn bỏ hoang, cỏ dại cao hơn đầu người mọc chằng chịt xen lẫn với cây sắn. Đang cố vạch đường tìm vào cái chòi giữa vườn, anh bỗng giật nẩy mình dừng lại. Loáng thoáng có tiếng người ở phía chòi. Hoá ra là mấy tay bộ đội đi săn. Bọn họ lần theo dõi dấu heo rừng về đào phá củ mì và tìm ra cái chòi. Thật là tiện cho họ, có chỗ để ẩn nấp rình mồi. Thật may, Thoại nghĩ, gia đình mình chưa vào tới, không thì đã lộ tẩy. Không thể dùng chòi được nữa. Anh quay lui lại bảo Giang đừng tiến vào sâu nữa. Đáng buồn, vợ con lên thăm mà không có một nơi chỗ yên ổn để mừng rỡ, thăm hỏi, nói gì đến san sẻ tình nghĩa yêu thương. Đưa nhau đi đâu bây giờ? Trở lại căng tin, mỗi cách ấy. Vừa đi vừa nói chuyện. Anh dặn nàng nếu bị tra hỏi cứ trả lời túi xách nặng quá nhờ anh mang hộ nên đãi anh ly nước, hai người không có quan hệ, Một tên bộ đội chạy đến trước mặt anh lên tiếng hạch sách rất hách dịch như muốn ra uy: - Anh kia là cải tạo phải không?


 Đang giờ lao động sao lang thang ở đây? Có phải móc nối với gia đình thăm nuôi lén lút chứ gì? Thoại tránh tiếng. Anh đưa con dao rựa ra trước mặt: - Tôi đang đi lao động trong rừng kiếm cây về làm cột. Gặp chị ấy con nhỏ lãi mang xách nặng nề nên giúp một tay, chứ không có liên hệ. Giang cũng đỡ lời: - Em lên sư đây cán bộ ơi! Sắp tới sư chưa? Cán bộ chỉ giùm. Đang mang xách nặng quá chưa biết làm sao thì có anh này giúp mang hộ. Tính lại quán mời ảnh cốc nước trả công ý mà! Anh chàng bộ đội được người đàn bà gọi là cán bộ, ra vẻ mát lòng đổi thái độ: - À cũng sắp tới rồi, đi vài quãng nữa thôi. Chị có cần tôi giúp một tay? - Thôi, gần tới rồi thì không dám làm phiền cán bộ. Hắn bỏ đi miệng lầm bầm: “cha nào trên sư tốt số thế! Cứ như múi mít ấy”. Thoại không nói gì, nhìn chăm chú vào ly nước trên tay. Chờ hắn đi xa, anh nói nhỏ: - Đi đâu cũng gặp kỳ đà cản mũi, chán thật. Trong quán này tai vách mạch rừng, nói chuyện nguy lắm. Thôi mình đi ra, vừa đi vừa nói chuyện được đâu hay đó. Thuốc men đồ dùng Quang đã đưa cho anh rồi. Gặp nhau lén lút thật bất tiện. Bố mẹ ra sao? Cả bố mẹ em nữa?
 Quốc lớn bộn ha?Làm ăn thế nào? Cho anh gửi lời thăm hỏi sức khoẻ mọi người. Nói ông bà cứ yên tâm, anh sẽ ráng giữ gìn sức khoẻ, ráng sống để về với em và con, với gia đình. Thôi, đưa em và con về. Có ở thêm cũng không gặp gỡ nói chuyện được. Theo anh biết, hàng ngày quán này có chuyến xe ra vào thị xã, không biết phía Minh Hưng hay Đức Hạnh. Em thử lại điều đình với chủ quán xem sao? - Đã lâu không gặp anh. Chưa nói với nhau gì hết đã bảo đi về? Anh đau ốm ra sao?Nói thật cho em biết để em liệu. Giang khóc, “Chả lẽ vừa gặp nhau đã từ biệt ngay?” - Đành chịu vậy! Hoàn cảnh này em biết. Anh thèm muốn được ôm em và con vào lòng một chút mà đâu dám. Tụi nó bắt gặp là cùm chân biệt giam, khổ vô cùng. Em hãy về. 


Chủ yếu mang thuốc men đến được tay anh để có hy vọng chống chỏi bệnh tật, mới có ngày về với em. Thôi chịu thua số phận đi, đợi dịp thăm nuôi chính thức mình gặp nhau lâu hơn. Nói bố mẹ đừng lo lắng thái quá. Anh nhất định sẽ trở về. Thoại đã nói thế, Giang còn biết nói sao. Nàng đứng dậy trả tiền, tiện thể hỏi thăm về chuyến xe hàng sắp tới để xin đi theo. Sáng mai mới có. Vậy lại phải cuốc bộ ra thị xã chiều nay. Giữa rừng, chỗ đâu mà trú.Mọi người kéo nhau ra khỏi quán. Đi bộ một quãng,nhìn chung quanh vắng lặng không có ai, Thoại choàng tay qua vai vợ hôn nhẹ lên mái tóc đượm mùi cháy nắng của nàng, ghì vội con vào lòng thì thầm với nó: Xuân con ơi! Ba nhớ thương mẹ và con thật nhiều. Con lên thăm mà ba không thể nói chuyện với con ba thật đau lòng. Thôi con về nhớ ngoan ngoãn cho mẹ vui nghe không? 
Nói với ông bà nội ngoại là ba nhớ ông bà lắm. Mi tạm biệt ba cái coi nào! Thằng bé còn đang ngẩn ngơ dãy dụa trên tay anh, người đàn ông đối với nó vẫn còn xa lạ, gầy gò, rách rưới, lôi thôi như người ăn xin nó thường thấy ngoài chợ. Ông lại còn ôm mẹ con nó vào lòng. Chưa kịp cất tiếng khóc, bỗng dưng xuất hiện lù lù hai người bộ đội, một người hai mẹ con mới gặp lúc sáng. Anh này quắc mắt lên: - A ha! Láo lếu thật. Lũ nguỵ dám qua mặt cách mạng. Vậy mà chúng nó bảo là không có quan hệ. Tội lừa dối nhân dân, lừa gạt nhà nước nặng lắm có biết không? Đúng là bản chất Mỹ Nguỵ khó mà gột rửa. Cần phải cho đi cải tạo mút chỉ mới sáng mắt. Cách mạng đã cách ly gia đình để tạo cơ hội yên tâm học tập, mà còn lén lút móc ngoặc với nhau. Này anh kia! Vi phạm nội qui của trại là mang tội có âm mưu chống đối cách mạng, không thành tâm hối cải… Hắn còn đang thuyết giảng, Thoại vội buông thằng bé xuống đất, quay qua nói nhanh với vợ, “Kiếm đường về đi”, rồi chụp vội con dao dưới chân nhãy phắt vào buị rậm trước mặt. Giang ôm lấy con, cùng đứa em trai đứng ngơ ngác, bơ vơ giữa con đường đất đỏ bụi mờ. Thoại có lủi kịp không? Về trại có sao không? Còn nàng, con nhỏ trên tay, về đâu đêm nay giữa núi rừng bao la với sương đêm lạnh buốt?
 
Phương DuyCuối năm 2002( sửa chữa 05/2008)


LÝ TUYẾT LÊ * THIÊN THẦN ÁO XANH


Blue Ridge (LCC19) Thiên Thần Áo Xanh
Lý Tuyết Lê


Thay cho lời giới thiệu:


Một số lớn những người Việt tha hương (tỵ nạn) và những người đang lê lết một cuộc đời cùng khổ, đầy bất công, áp bức dưới chế độ CS tại quê nhà đều có những quảng đời - là những cuốn phim mà không một cuốn phim nào dầu chiếm được hàng bao giải thưởng cũng không sao sánh bằng; là những tập truyện mà không một tập truyện nào dầu thuộc loại bán chạy nhất cũng không làm sao qua mặt được.

Những quãng đời đó dầu có thực sự được quay thành phim, viết thành truyện cũng không bao giờ có thể lột tả, nói lên được tất cả những gì đã xảy ra chung quanh họ, và những gì đã diễn ra trong lòng họ. Do đó chỉ có chính họ, là những người trong cuộc, là những chứng nhân, là những nhân vật trong cuốn phim, trong tập truyện của đời mình mới cảm nhận được tất cả những sự âu lo, phiền muộn, những nổi buồn xót xa, câm nín, những niềm hy vọng mong manh, thoáng chốc, những nỗi tuyệt vọng não nề, buông xuôi cho số kiếp, những sự sợ hãi, kinh hoàng đến chết ngất, những cơn đói khát vật vã, rã rời, những nỡi uất nghẹn đắng cay đến tột cùng, những nỗi tủi nhục tối tăm sâu thẳm, những nỡi mừng vui nghẹn ngào đầy nước mắt, những nỡi đớn đau quằn quại có lúc chất ngất trong lòng có lúc ray rức kéo dài như vô tận... Quãng đời họ là những cuốn phim không cần đạo diễn dàn dựng, là những tập truyện không cần hư cấu bởi nhà văn, là những câu chuyện sống thực cùng với nhịp tim, hơi thở và những cảm xúc của một đời người.

---o0o---

Câu chuyện xảy ra cách đây hơn 28 năm, tuy vậy ký ức tôi vẫn còn ghi rõ, vì đó là một kinh nghiệm đau thương, hãi hùng nhất trong cuộc đời tôi..

Trưa hôm đó (10/09/1980/ ) một buổi trưa gần cuối Thu, trời Đà Nẵng bổng dưng mây kéo về đen kịt, và mưa đổ không ngớt, tôi đang khe khẽ hát những câu ca dao ru con ngủ, nhìn con ngủ mà lòng xót xa, nghĩ rằng tương lai nó sẽ mù mịt như bầu trời ngoài kia, vì nó không may sanh ra trong một đất nước không có tự do. Nhà nội nó thì bị nhà nước trưng dụng, cả gia đình nội phải dồn vào một nhà kho chật hẹp tối tăm ẩm thấp để sinh sống. Không chỗ nương thân ba mẹ nó phải bồng nó chạy về nhà ngoại để tá túc... Thình lình tiếng chuông trước cổng nhà vang lên cắt đứt dòng tư tưởng, tôi nhẹ nhàng xỏ vội đôi dẹp nhựt đi xuống lầu thì đã thấy má tôi mở cửa đón khách vào nhà. Đó là một chàng thanh niên, anh ta là người bà con với ông chủ tàu mà gia đình tôi có dịp bàn tính chuyện vượt biên. Sau khi được trấn an là không có ai khác ngoài má tôi, ông ngoại và tôi, thì người thanh niên này vô đề liền: "Bây giờ mưa to gió lớn và biển đang động, công an biên phòng không nghĩ rằng có ai to gan dám vượt biên trong thời tiết này, nên mình phải nắm lấy cơ hội". Rồi người thanh niên này bắt đầu cho biết giờ giấc, điểm hẹn và cách gặp người dẫn đường, xong anh ta vội vã đội mưa ra về.

Không khí trong nhà trở nên căng thẳng vì lòng mỗi người đầy những nỗi lo âu: chồng tôi đi làm chưa về, 2 em trai cũng không có mặt tại nhà, không có cách nào liên lạc được, còn ngoài kia trời mưa như thác lủ, vượt biên trong lúc này có nghĩa là đem mạng đi nạp cho thần biển. Trong lúc má tôi và tôi đang rối lên không biết toan tính như thế nào, thì ông ngoại tôi bảo quỳ xuống để ông cầu nguyện. Khi ông ngoại tôi vừa dứt lời cầu nguyện thì hai em trai của tôi về tới, lúc đó gần ba giờ chiều. Và chúng tôi lại thêm một phen sốt ruột chờ chồng tôi nữa, rất may hôm đó chồng tôi về nhà sớm hơn mọi khi vì trời mưa nên bạn bè không rũ đi nhậu, cuối cùng rồi mọi người cũng về đầy đủ, cuộc hành trình của chúng tôi bắt đầu từ đó.

Theo như lời người thanh niên lúc trưa căn dặn, tôi và hai em trai tôi đi phà qua sông Hàn, lúc đó khoảng gần 5:30 giờ chiều, sau khi phà cập vào bến quận Ba, An Hải, chúng tôi phải đảo mắt kiếm người thanh niên nào có mang dây chuyền hình cái neo, trời lúc đó nhá nhem tối và mưa rất lớn nên rất khó cho chúng tôi tìm người mà mình chưa bao giờ biết mặt. Người dẫn đường nhận ra được dáng điệu dáo dác của chúng tôi, nên anh ta tiến tới trước mặt chúng tôi không nói gì hết rồi lặng lẽ bước đi (đó là mật hiệu), chúng tôi thấy nơi cổ của anh có sợi dây chuyền hình cái neo, do đó người này đi đâu chúng tôi cũng phải bám sát theo để không bị lạc. Vì nhằm giờ cao điểm kẻ tan trường, người tan sở nên việc bám sát theo người này cũng rất khó, nhiều lần bị lạc, chúng tôi ngẫn ngơ quýnh quáng không biết mình đang ở đâu, tim chúng tôi đập thình thịch vì sợ công an nghi ngờ đến bắt, nhưng rồi người dẫn đường quay trở lại kiếm được chúng tôi. Sau đó anh đi vào quán bún bò Huế ven đường, chúng tôi cũng vào theo, sau này tôi mới hiểu, thì ra phải chờ thêm một nhóm năm người con của bạn ba tôi nữa. Sợ chủ quán nghi ngờ tôi gọi ba tô bún bò Huế cho ba chị em tôi, nhưng bún đem lên chưa kịp ăn thì người thanh niên dẫn đường đứng dậy rời quán vì đã thấy nhóm năm người kia sắp bước vào, chúng tôi vội vã trả tiền và rời theo làm chủ quán cũng ngơ ngác. Rời quán bún, người dẫn đường đưa chúng tôi đến một khu nghĩa địa, anh bảo chúng tôi phải ở đó chờ người khác dẫn đường tiếp. Ba chị em chúng tôi núp ở một ngôi mộ có tấm bia thật lớn, thình lình người trong xóm cầm đuốc đi kiếm gà của họ bị lạc. Một lần nữa ba chị em chúng tôi lại một phen sợ hãi, tay chân run rẫy, tim hầu như ngưng đập vì thấy người đàn bà đó càng lúc càng tiến về nơi chúng tôi đang núp, ba chị em chúng tôi nhắm nghiền mắt và ôm chặt lấy nhau, hình ảnh nhà tù cộng sản hiện lên trong trí tôi thật kinh khiếp, nước mắt chúng tôi tuôn trào, không ai bảo ai chúng tôi cắn chặt môi cố nén tiếng khóc. Nhưng lạ lùng thay, Chúa đã ngăn trở bước đi của người đàn bà đó, khi tiếng chân của người đàn bà đến gần nơi chúng tôi ẩn núp trong gang tấc thì bà bắt được con gà của bà. Tiếng kêu oang oác của con gà làm chúng tôi bừng tỉnh lại, chúng tôi chỉ biết cúi đầu thầm tạ ơn Chúa.


Bây giờ thì trời đã tối hẳn, có một người thanh niên khác tìm đến nơi chúng tôi ẩn núp, anh ta không nói gì ngoài ba tiếng “đi theo tôi”. Anh dẫn chúng tôi đi qua những con đường đất ngoằn nghèo rồi cuối cùng dẫn chúng tôi vào một căn nhà nào đó mà bây giờ tôi không tài nào nhớ được, vì lúc đó trời tối đen như mực, ngay cả chị em chúng tôi cũng không nhìn thấy mặt nhau. Họ để ba chị em chúng tôi tại đây cho đến khoảng 12 giờ khuya (sau này tìm hiểu tôi mới biết khoảng giờ đó) thì họ dẫn ba chị em tôi ra bờ biển thuộc vùng Thọ Quan, nơi đó có sẵn một cái thúng lớn, người này lật thúng lên thì đã có một người nằm chờ dưới thúng ngồi dậy, và họ đưa chúng tôi ra tàu cá đang chờ sẵn ngoài khơi. Nhưng ra đến nơi thì chúng tôi không thấy bóng dáng chiếc tàu cá đâu hết, chung quanh chúng tôi là vùng biển rộng mênh mông với một màu đen tối rợn người. Chúng tôi ngồi trên thúng chồng chềnh theo làn sóng mà lòng bồn chồn lo lắng, rồi lần lượt những thúng khác chở ăm ắp người cũng chèo đến, gần hai tiếng đồng hồ sau thì tàu mới xuất hiện. Khi lên tàu rồi thì việc đầu tiên là tôi kiếm chồng và con tôi, vì hai người được dẫn đi đường khác. Thấy tôi, chồng tôi lên tiếng để trấn an, chồng tôi khen con tôi rất ngoan, tuy mới hơn ba tuổi nhưng dặn nó không được hỏi, không được nói, không được khóc nếu sợ bóng tối, thì nó rất ngoan ngoãn không lên tiếng trong suốt cuộc hành trình trong bóng đêm, có lẽ nó cũng cảm nhận được sự nguy hiểm vây quanh cha con nó.

Hai giờ sáng tàu bắt đầu chạy ra cửa biển, ra đến cửa biển sóng có phần êm hơn. Tàu chạy một lúc xa thì trời hừng sáng, mọi người thấy an tâm vì thoát được sự kiểm soát của công ban biên phòng. Bắt đầu từ đó tàu chúng tôi lênh đênh không định hướng, vì tài công là một thanh niên trẻ chỉ biết lái tàu đi đánh cá chứ không biết nhắm hướng cũng không biết xem la bàn. Trên tàu ngoài gia đình tôi năm người, năm người con của bạn ba tôi, chín người của gia đình ông chèo thúng đưa khách, ba người anh bà con của tôi và hai con trai của họ, còn có một số thanh niên nam nữ bạn của người tài công trẻ chạy theo. Do đó số người trên tàu lên đến bốn mươi lăm người kể cả mười đứa con nít dưới mười tuổi. Trong khi đó thực phẩm chỉ tính đủ cho hai mươi lăm người chính thức có trong kế hoạch vượt biên này mà thôi. Đã vậy, sau này mới vỡ lẽ ra là trước đó, gần ngày vượt biên một số lương thực bị mất cắp.

Qua đến ngày thứ ba, một cơn bão biển suýt nhận chìm chiếc tàu mỏng manh của chúng tôi giữa lòng biển cả. Tôi không thể nào quên được cơn hãi hùng này, chiều hôm đó mây đen phủ kín cả vòm trời, gió mạnh như cơn lốc, và sóng biển cuồn cuộn trổi lên, vợ chồng tôi và cháu nhỏ cùng hai em trai tôi và vài người nữa đang còn ngoài khoang tàu trong khi hầu hết mọi người khác được ở trong cabin. Cửa cabin lúc ấy bị đóng chặt, chúng tôi đập cửa khóc lóc kêu gào thảm thiết. Có lẽ những người bên trong không dám mở cửa cabin trong lúc này vì sợ nước biển tràn vào, một phần có lẽ tiếng gió và tiếng gầm thét của những đợt sóng khổng lồ át đi tiếng kêu gào của chúng tôi. Mãi đến 10 phút sau, gió càng mãnh liệt và sóng càng dữ dội hơn thì họ mở cửa cho chúng tôi vào ẩn mình. Trong những giờ phút ngoài khoang tàu, tôi vô cùng kinh khiếp khi nhìn thấy từng đợt sóng khổng lồ nâng bổng chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi lên thật cao, rồi ném chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi xuống vực sâu tối ngòm, nhìn lên tôi thấy đợt sóng khác tới nó vươn lên như một bức tường thật cao và đổ ập xuống như muốn nhận chìm chiếc tàu của chúng tôi, nước văng tung toé, tay tôi ôm chặt thanh gỗ nơi cửa vào cabin vừa khóc vừa kêu gào thảm thiết. Nhiều khi nghĩ lại, tôi tự hỏi làm sao chồng tôi có thể vừa giữ chặt con vừa bám chặt vào mạng thuyền, và tất cả chúng tôi ngoài khoang tàu không bị sóng biển ném tung ra khỏi tàu, làm sao chiếc tàu nhỏ bé của chúng tôi có thể sống còn qua cơn bão đó, chắc chắn phải có bàn tay vô hình nào đó che chở chúng tôi, bàn tay vô hình đó chính là bàn tay của Thượng Đế.

Trong những ngày đầu còn dầu, thì tài công không biết định hướng đi đến Hong Kong, anh ta cứ nhắm hướng mặt trời mọc mà chạy cho đến khi cạn không còn dầu để chạy nữa thì lúc đó chúng tôi thấy dãy núi mờ mờ từ đàng xa. Thì ra tàu chúng tôi trôi giạt đến Nha Trang mà tưởng rằng đang ở gần đảo Hải Nam, lương thực và dầu đã cạn, có ba người thanh niên đưa ý kiến, ai có vàng hoặc tiền bạc, đồng hồ đeo tay thi giao cho họ, họ sẽ đi thúng vào dãy núi đó mua dầu và lương thực đem ra để đi tiếp. Đó là niềm hy vọng cuối cùng nên mọi người có vàng đưa vàng, có đồng hồ đưa đồng hồ, tôi cũng cởi chiếc nhẩn cưới đưa cho ba người này (sau này đến được bến bờ tự do, chúng tôi mới hay rằng ba người này đi thúng vào bờ và bị công an bắt tại Nha Trang).

Ngày lại ngày trôi qua, nhưng bóng dáng 3 người đi mua dầu và lương thực vẫn biệt tăm. Chúng tôi chi biết cầu nguyện và phó thác đời sống mình cho Chúa. Không thức ăn, nước uống, chúng tôi phải uống nước tiểu và nước biển có bỏ đường hóa học để sống qua ngày, nhờ năm người con của bạn ba tôi có mang theo đường hóa học. Nói chung, gia đình tôi và năm người con của bạn ba tôi vì tin tưởng chủ tàu chuẩn bị lương thực chu đáo nên chúng tôi không mang theo bất cứ một lương thực nào, ngoài trừ chồng tôi trước khi đi anh có giấu được một lon sữa đặc trong túi quần cho con tôi và năm người kia có giấu theo một gói nhỏ đường hóa học. Hơn nữa, cũng để tránh cặp mắt nghi nghờ của mọi người, chúng tôi không mang theo bất cứ quần áo hay vật dụng cá nhân nào, trên người chúng tôi vỏn vẹn mỗi người chỉ có một bộ áo quần mình đang bận.

Hơn mười ngày trôi qua không thức ăn, nước uống, trẻ con khóc lóc kêu gào thảm thiết, con tôi chỉ nước trên biển mà trách chúng tôi tại sao nước trên biển nhiều như vậy mà không cho nó uống, lòng tôi đau như đứt từng đoạn ruột khi nhìn thấy con tôi và những trẻ con khác rã rời, quằn quại, rên xiết vì đói và khát. Rồi 1, 2, 3, 4, đứa con nít dần dần ra đi. Đêm hôm đó là đêm thứ mười sáu trên biển, tôi ôm con tôi vào lòng tuyệt vọng, thình lình một cơn mưa thật lớn đổ xuống, mọi người đều mừng rỡ, chồng tôi mau mắn hứng được một bình nước nhỏ, gắng sức trườn người vào cabin đưa cho tôi để tôi cho con uống, vì quá mừng nên tôi hút một hơi thật mạnh để nước chảy vào một ống nhỏ, xong tôi chuyền ống nhỏ đó vào miệng con tôi với hy vọng con mình sẽ được nuôi sống, nước vào miệng quá nhanh con tôi không kịp nuốt thì tắt thở ngay trên tay của tôi vì sức lực nó không còn nữa. Quá đau khổ, tôi ôm con chặt vào lòng và khóc, khóc thật nhiều nhưng hầu như không có một giọt nước mắt nào tuôn ra. “Khi con người quá đau khổ thì không còn nước mắt để khóc", tôi nghe câu nói này nhiều lần nhưng cứ nghĩ rằng đó chỉ là một câu trong văn chương thôi, bây giờ thì tôi thật sự kinh nghiệm về điều đó. Sáng hôm sau, một tay ẳm xác con, một tay chống đỡ lê lết tấm thân kiệt sức của mình để đem xác con ra ngoài khoang tàu cho chồng và hai người cậu nó thấy mặt lần chót. Vì chồng tôi và hai cậu nó ở cuối mõm thuyền, do đó con tôi được chuyền qua một vài người trước khi đến tay chồng tôi. Khi ở trên tay những kẻ xa lạ tôi không thấy điều gì lạ xảy ra, tuy nhiên khi chồng tôi vừa đưa tay ẳm lấy con tôi, thì tự nhiên môi con tôi sùi bọt nước miếng, và máu thật tươi tuôn ra từ lỗ mũi và hai lỗ tai của nó. Con tôi biết giờ đây nó được nằm trong vòng tay yêu thương của ba nó, một mối liên hệ phụ tử thiêng liêng được bày tỏ qua một thân xác không còn sự sống.

Dầu yêu thương con đến mức nào đi nữa cũng không thể nào giữ được xác con trong vòng tay của mình, chúng tôi đành lòng phải bỏ xác nó xuống lòng biển cả. Đặc biệt cái chết của con tôi được nhiều người thương và lo chu đáo, vài người trên tàu gỡ hai tấm ván nhỏ từ chiếc tàu của chúng tôi, họ đóng lại như hình chữ thập, đặt xác con tôi nằm trên đó, rồi dùng lưới cá quấn quanh thân hình nhỏ bé của con tôi. Họ nói rằng phải đóng ván theo hình chữ thập thì mới thăng bằng không bị sóng đánh lật úp mặt nó xuống biển cá sẽ đến rĩa ăn, họ cho rằng nếu con tôi may mắn gặp một tàu cá nào đó, họ sẽ làm phước vớt đem vào bờ để chôn vì lúc đó chúng tôi vẫn còn thấy dãy núi mờ mờ từ đàng xa, nên chúng tôi chỉ biết hy vọng như vậy, (trong một bản tóm tắt chuyến vượt biên của chúng tôi bằng tiếng Anh có một sơ sót nhỏ là con tôi được cột vào cục đá để bỏ xuống biển thay vì cột vào 2 tấm ván thuyền). Sau đó một người anh bà con của tôi có mang theo quyển Kinh Thánh, anh mở ra đọc vài câu trong Kinh Thánh rồi cầu nguyện trước khi thả xác con tôi xuống biển, lúc đó tôi ngoảnh mặt đi nơi khác vì không muốn chứng kiến cảnh đau lòng này.

Nước mưa hứng được đêm đó đã tạm nuôi sống chúng tôi trong một thời gian ngắn. Rồi một hôm (06/10/1980/ ) tôi nằm chờ chết trong cabin vì sức tôi đã quá kiệt quệ, 26 ngày không một chút gì trong bao tử ngoại trừ nước tiểu vì nước mưa hứng được hôm trước đã không còn một giọt. Thình lình có tiếng chồng tôi và vài người nữa ngoài cabin “có máy bay, có máy bay”, tôi nhìn ra thấy chồng tôi đang dùng cái áo thun trắng đã cũ mèm để vẩy ra hiệu, nhưng tôi vẫn không một chút hy vọng nào, vì đã bao lần chúng tôi thấy máy bay bay xa thật xa trên bầu trời nhưng họ nào có thấy chúng tôi đâu. Nhưng rồi tiếng máy bay trực thăng dần dần nghe rõ dần, và tiếng mọi người mừng rỡ, hình như có một lực nào thật mạnh trong tôi vực tôi dậy và tự nhiên tôi có sức để bò ra ngoài khoang tàu. Tôi thấy chiếc máy bay trực thăng từ từ hạ thấp xuống, lúc đó một người trên tàu chúng tôi viết hàng chữ bằng tiếng Anh “Don't drop any food, Please rescue us”, thì ngay lập tức một quân nhân Mỹ trên máy bay trực thăng viết hàng chữ bằng tiếng Việt “chờ năm phút sẽ có tàu đến”. Rồi họ bắt đầu bắn những trái khói màu quanh tàu của chúng tôi để định vị trí cho tàu lớn đến cứu. Vài phút sau qua làn khói màu tản mác, từ đàng xa chúng tôi nhìn thấy một vật nhỏ di động rồi từ từ lớn dần, chẳng mấy chốc trước mặt chúng tôi sừng sững một chiếc tàu chiến khổng lồ cách tàu chúng tôi ở một khoảng cách an toàn. Đó là chiếc Soái Hạm (Command Ship) của Đệ Thất Hạm Đội có tên là “Blue Ridge LCC19”. Chúng tôi vô cùng mừng rỡ như được sinh lại lần thứ nhì. Đoàn thuỷ thủ bắt đầu bỏ thang dây xuống và đi ca-nô qua tàu chúng tôi. Trên ca-nô có 4 người lính Hải Quân mang phao cá nhân, và nổi bật hơn hết là lá cờ Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ tung bay trước gió, nhìn lá cờ mà lòng tôi bồi hồi xúc động vì nó biểu tượng cho Tự Do và tình nhân loại. Họ dùng loa yêu cầu chúng tôi giữ bình tỉnh, anh Hải Quân cầm tay lái cố gắng điều khiển chiếc ca-nô cặp sát vào tàu chúng tôi, trẻ em và phụ nữ được ưu tiên di chuyển qua tàu chiến trước, sau cùng là nam giới. Các thuỷ thủ, một tay kẹp chúng tôi và một tay chụp lấy thang dây để leo, hàng chục cánh tay thòng xuống kéo chúng tôi lên. Đối với tôi, đó là giờ phút vô cùng thiêng liêng và vô cùng xúc động, nó cho tôi thấy chỉ có những người của chủ nghĩa Tự Do mới thể hiện được tình yêu thương nhân loại và cảm thông được những đau thương mất mát của những người vì 2 chữ Tự Do mà liều mình vượt biển.

Khi tất cả chúng tôi được an toàn đưa lên chiếc Soái Hạm này rồi, thì điều đầu tiên là họ cho chúng tôi mỗi người 1 ly súp lỏng (clear soup) đang còn nóng hổi và sau đó họ bắt đầu khám tim mạch từng người. Tôi và em tôi cùng một vài phụ nữ khác vì quá yếu nên được chuyển lên Medical Clinic. Tại đây chúng tôi được chăm sóc sức khoẻ thật chu đáo, họ bồng chúng tôi đi tắm, dĩ nhiên là họ rất tôn trọng phụ nữ chúng tôi, nên họ chỉ mở nước điều chỉnh ở độ ấm vừa phải và dạy chúng tôi cách dùng thuốc gội đầu đặc biệt để giết chí, rồi họ đứng canh ngay cửa phòng tắm để đề phòng trường hợp chúng tôi bị té hay bất cẩn gì đó. Chúng tôi vô cùng cảm kích trước tấm lòng nhân ái bao la của những người lính Mỹ khác màu da, họ không màng đến thân hình xơ xác bẩn thỉu hôi hám của chúng tôi, trong khi chí trên đầu rơi rớt đồm độp, nhưng họ ôm chúng tôi vào lòng, bồng ẳm chúng tôi khi chúng tôi cần những phương tiện vệ sinh cá nhân. Sau đó họ phát cho chúng tôi mỗi người 1 áo thun trắng và đồ lót để bỏ đi những áo quần hôi hám mà suốt 26 ngày đêm dầm với mồ hôi, dầu nhớt, nước tiểu và nước biển mặn.

Tôi còn nhớ rõ một kỷ niệm rất buồn cười mà tôi đã làm những người trong đội y tế một phen cười nứt bụng, đó là ngay sau khi uống cạn ly súp đầu tiên khi vừa mới được chuyển lên tàu, một anh y tá hỏi tôi rằng “How do you feel”?, tôi trả lời ngay không chút suy nghĩ “I feel healthy” (ý tôi muốn nói là “tôi cảm thấy Khỏe”) tức thì cả đội y tế ôm bụng cười ngặc nghẻo trong khi đó thân hình tôi không khác nào bộ xương người chết. Thật ra, từ lúc bắt đầu được tàu Mỹ vớt thì bao nhiêu vốn liếng từ ngữ Anh Văn mà tôi học ở những năm trung học chưa có cơ hội thực hành thì giờ đây nó lần lượt kéo đến trong tâm trí tôi, chỉ có điều chữ nào thoáng đến trong đầu là tôi vụt nói liền không cần để ý đến văn phạm. Nhưng rồi sau đó tôi rất ngại nói, nên tôi luôn dùng bút viết xuống những gì tôi cần nói, vì khi viết tôi có thì giờ sắp xếp câu kéo cho đúng văn phạm hơn. Nhờ có chút vốn liếng Anh Ngữ nên tôi có cơ hội gần gũi với vị thuyền trưởng, các bác sĩ trong đó có 1 bác sĩ người Nhật, và các y tá, đặc biệt là anh Hải Quân đầu bếp (Mr. Clinton A. Eastwood), anh thường xuyên trò chuyện với tôi, hỏi thăm những món ăn anh nấu có ngon không, tôi có thích không (và anh cũng là người sau này thường xuyên liên lạc thư từ với gia đình tôi khi chúng tôi được đưa vào tạm cư ở trại tỵ nạn Palawan Philippines, nhờ đó mà tôi có được những bài báo và hình ảnh chụp được trong lúc được tàu vớt, và năm 1982 khi chiếc Soái Hạm Blue Rigde LCC19 đến cảng Sydney cách nơi tôi cư ngụ khoảng gần 1 tiếng lái xe, thì anh cũng tìm đến thăm gia đình chúng tôi, khi đó tôi vừa mới sanh được cháu thứ nhì khoảng mười lăm ngày (đứa thứ nhất đã mất trên biển)).

Trở về câu chuyện trên chiếc Soái Hạm, thì một hôm có phái đoàn báo chí bay trực thăng đến thăm người tỵ nạn trên tàu và để phỏng vấn. Trước khi phái đoàn đến, tôi được khuyến khích để được quay một đoạn phim ngắn trong buổi phóng vấn nhỏ này vì tôi cứ lắc đầu từ chối, tôi cứ lấy tay che mặt và nói rằng “Tôi xấu lắm, tôi không muốn người khác thấy tôi trên truyền hình và tôi cũng không biết nói tiếng Anh nhiều”, nhưng anh y tá Hải Quân người luôn kề cận chăm sóc tôi (anh Robin) đưa cho tôi một cái gương và một cái lược, anh chãi đầu cho tôi và bảo tôi nhìn trong gương rồi anh nói “Look! You're beautiful!” (tôi chưa bao giờ thấy Chung Vô Diệm nhưng tôi tự nghỉ rằng mình cũng xấu như vậy) rồi anh nói tiếp “We're going to ask you a very very simple question, so don't worry, OK”. Thế rồi trong phút chốc phái đoàn báo chí đến có luôn vị Tham Mưu Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội nữa, và rồi hàng loạt đèn sáng choang chiếu thẳng đến cái giường tôi đang được đỡ ngồi, một anh phóng viên cầm máy nói gì nhiều lắm nhưng tôi không để ý vì tâm trí bận suy nghĩ không biết họ sẽ hỏi tôi điều gì. Thế rồi người phóng viên đó chậm rãi hỏi tôi từng chữ một “Why did you escape from Vietnam”? Tôi chỉ trả lời vỏn vẹn “About freedom” và câu thứ hai là “How do you feel now?” lần này tôi đang tìm chữ nào khác với chữ “healthy” của hôm nọ thì anh y tá Hải Quân này mau mắn cất giọng hỏi khéo “Better”? nên tôi liền nói “Yes, I feel better”.

Năm ngày tạm trú trên chiếc Soái Hạm này rồi cũng phải đến ngày chia tay, ngày cuối trước khi chúng tôi chia tay với vị Hạm Trưởng cùng toàn thể các thuỷ thủ, tôi được vinh dự đi cùng vị Tham Mưu Trưởng đến từng giường bệnh để phát cho họ mỗi người một bản danh dự “Anh Hùng Vượt Biển” và một số tiền là 32 Mỹ Kim cho mỗi đầu người, số tiền này là do sự đóng góp của vị Hạm Trưởng và của toàn thể các thuỷ thủ trên chiếc Soái Hạm này. Tôi cũng được vinh dự đại diện cho nhóm người ty nạn trên phòng y tế này để ngỏ lời tri ân và bày tỏ lòng cảm kích của chúng tôi trước sự chăm sóc không hề mệt mỏi của toàn thể các thuỷ thủ trong các ngành. Chúng tôi luôn nhớ ơn nhân dân Mỹ nói chung và toàn thể mọi người trên chiếc Soái Hạm này nói riêng, lòng nhân đạo của họ là ngọn đuốc, là ánh sáng của thế giới Tự Do, nó sẽ chiếu sáng mãi mãi trong lòng chúng tôi, lòng của những người dân Việt tỵ nạn.

Qua những kinh nghiệm đau thương trong suốt cuộc hành trình vượt biển này, chúng tôi nhận biết rằng mạng sống con người thật quý báu, nhưng Tự Do là điều quý báu hơn hết. Lòng nhân đạo của nhân dân Mỹ đã để lại trong chúng tôi niềm cảm kích và sự tri ân sâu xa, tấm gương sáng này đã chứng minh được chỉ có con người của chủ nghĩa Tự Do mới có được những đức tính đó, chúng tôi đã học được từ quý vị lòng nhân ái, vị tha, và tình thương yêu nhân loại và những hình ảnh cao đẹp này sẽ không bao giờ phai nhạt trong lòng người dân Việt tỵ nạn yêu Tự Do của chúng tôi. Chúng tôi xin bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu xa đến vị Tham Mưu Trưởng của Đệ Thất Hạm Đội (Chief of Staff for Commander SEVENTH Fleet) ông Lewis W Chatham, vị Hạm Trưởng (Commanding Officer) ông John D Chamberlain, cùng toàn thể thuỷ thủ đoàn của chiếc Soái Hạm Blue Ridge LCC19 (dĩ nhiên trong đó có cả anh Hải Quân đầu bếp Clinton A. Eastwood và anh Robin). Hình ảnh của những vị đó sẽ không bao giờ nhạt nhòa trong ký ức chúng tôi. Chúng tôi luôn ao ước có cơ hội gặp lại những vị ân nhân này bằng xương bằng thịt để một lần nữa ngỏ lời tri ân đến họ và cũng để họ nhìn thấy gia đình chúng tôi - kết quả của việc làm nhân đạo quý báu mà họ đã thực hiện cách đây hơn 28 năm.

Tóm lại, vì quen sống trong một đất nước Tự Do Dân Chủ, vốn thừa hưởng được tất cả những quyền cơ bản của một con người, nên kể từ khi Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản thì tâm trí chúng tôi không ngừng nghỉ đến việc trốn thoát khỏi chế độ này. Vượt biên là con đường duy nhất và cái giá chúng tôi phải trả có thể là sự chia lìa (kẻ ở người đi, vợ xa chồng, con xa cha, ....), sự tù đày (chính bản thân mình và người thân cũng bị liên luỵ), cái chết (chính mạng sống mình và ngay cả mạng sống của những người thân yêu). Bằng nhiều cách, chồng tôi trước đây đã vượt biên 2 lần, anh đi một mình vì chủ tàu không nhận con nít, tôi đành để chồng ra đi và ở lại với con. Tôi nghĩ thoát được người nào hay người đó, để chồng ra đi một mình là tôi chấp nhận sẽ vĩnh viễn mất chồng vì thời gian đó chính quyền Việt Nam chưa có sự bang giao với các nước ngoài về vấn đề “Đoàn Tụ Nhân Đạo”. Nhưng hai lần vượt biên đó không thành công, lần thứ nhất bị lộ anh chạy thoát được nên không bị tù, còn lần thứ nhì thì đi với người em nhưng khi ra đến bến tàu, người chủ tàu thay đổi ý kiến chỉ nhận một người thôi nên chồng tôi nhường cho người em và người này đã đến được bến bờ Tự Do. Lần này là lần thứ ba chồng tôi được đi với vợ con vì người chủ tàu này nhận con nít, tưởng rằng lần ra đi này trọn vẹn không bỏ lại sau lưng người thân yêu của mình, nhưng cuối cùng chúng tôi vĩnh viễn mất đứa con yêu quí đầu lòng của mình, nỗi đau xót đó mãi theo chúng tôi đến cuối cuộc đời và đó chính là cái giá cho sự Tự Do mà chúng tôi đã chọn.

Hiện nay chúng tôi đang định cư tại Úc Đại Lơi, một quốc gia đầy lòng nhân ái, người dân ở đây đã mở rộng vòng tay yêu thương đón nhận và cưu mang gia đình chúng tôi trong suốt 28 năm qua và còn tiếp tục cho đến đời các con cháu của chúng tôi nữa. Không một lời nào đủ để diễn tả tấm lòng biết ơn sâu xa của gia đình chúng tôi đến với chính phủ và toàn thể nhân dân của đất nước này. Chúng tôi nguyện ghi khắc ơn sâu nghĩa nặng cho đến muôn đời.


Lý Tuyết Lê
(Viết tại Sydney ngày 09/03/09)

Wednesday, April 9, 2014


PHAN CHÂU THÀNH * HỒ CHÍ MINH

Có đúng đó là “cuộc đánh tráo không thể có”?


Người Việt đã bị tẩy não và đa số vẫn còn lên đồng tập thể về Hồ Chí Minh

Lâu nay tôi thường đánh giá rất cao những bài viết của các nhà đấu tranh dân chủ phản tỉnh (tức là những cựu cán bộ trung cao cấp của cộng sản VN), trừ những bài viết hay những nội dung họ nói về Hồ Chí Minh (HCM). Tại sao vậy? Vì tôi nhận thấy đại đa số người Việt miền Bắc hoặc cộng sản Việt Nam nói chung không còn tỉnh táo và khách quan nữa khi viết/nói về HCM, dù họ ở cấp nào. Dường như họ đã bị CSVN tẩy não hoàn toàn về HCM vì họ đã bị đảng CSVN cho lên đồng tập thể để sùng bái HCM suốt hơn nửa thế kỷ nay, và vì thế dường như việc nói về HCM đối với họ là nói về thần tượng duy nhất của mình hay của cha ông mình mà nếu phải suy nghĩ khách quan và phê phán hay phủ nhận HCM thì đó sẽ là phê phán hay phủ nhận cả sự nghiệp và ý nghĩa cuộc đời chính họ và cha ông họ, nên đó là điều họ không thể làm, một cách vô thức, trên phạm vi toàn xã hội.

Vì thế, ngay cả khi đã phải trả giá vì cộng sản (như ông Vũ Thư Hiên) hay tự phản tỉnh đối với đảng và chế độ cộng sản này (như ông Bùi Tín), đa số cựu cán bộ cộng sản vẫn tôn thờ ông HCM và đảng CSVN “của HCM”, và chỉ dám phê phán các học trò của HCM và cái “đảng CSVN hiện nay” thôi, mà họ không nhìn thấy sự nhất quán về bản chất của HCM với với những người họ phê phán và với toàn đảng CSVN. Tôi thấy, đó quả thật là một sự tẩy não triệt để và thành công.
Bài viết gần đây, “Cuộc đánh tráo không thể có”, của ông cựu đại tá CS Bùi Tín cũng là một bài viết như thế, nó không khách quan và còn rất hùng hồn ngây ngô nữa. Trong bài trên, đăng trên nhiều trang lề dân, ông Bùi Tín tín khẳng định 100% rằng không thể có cuộc đánh tráo Hồ Tập Chương/Hồ Chí Minh thay cho Nguyễn Ái Quốc (đã chết) như tác giả Đài Loan Hồ Tuấn Hùng khẳng định trong “Hồ Chí Minh bình sinh khảo” của ông.
Tôi chưa có đủ cơ sở để tin 100% HCM và NAQ là hai người khác nhau như tác giả Đài Loan khẳng định, nhưng tôi cũng không tin “khẳng định 100%” của những người như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên hay cả giàn lãnh đạo và bộ máy truyền thông của CSVN rằng NAQ với HCM là một. Đơn giản chỉ vì xung quanh vấn đề đó tế có quá nhiều chi tiết mập mờ khập khiểng và còn quá nhiều điều bí ẩn, còn thái độ của đảng CSVN và các đảng viên CSVN về vấn đề đó càng làm tôi thấy cần phải cân nhắc cả hai khả năng, mà hiện nay khả năng nào cũng đều không ổn.
Bác bỏ năm luận điểm và là 5 câu hỏi của ông Bùi Tín

Ông Bùi Tín đã hùng hồn nêu ra 5 câu hỏi cho học giả Đài Loan để làm 5 luận điểm chứng minh ông HCM với NAQ là một, tức là để khẳng định cuộc đánh tráo là không thể có. Tôi thấy đó là những câu hỏi rất ngây ngô ngộ nhận mà chỉ cần một người bình thường như tôi cũng có thể đưa ra các câu trả lời hay bẻ gãy lập luận của ông Bùi Tín. Và đó là việc tôi sẽ làm ở đây.
Câu hỏi đầu tiên ông Bùi Tín đưa ra là, tại sao trong kho hồ sơ lưu trữ của đảng CSLX không có tài liệu về việc bà Vera Vasilieva theo dõi việc đào tạo Hồ Tập Chương thành Nguyễn Ái Quốc tại Moscow những năm 1933-1938? Cộng sản nói chung trên toàn thế giới - cả đảng CSLX hồi đó và đảng CSVN hiện nay - với bản chất là luôn gian dối, có một “văn hóa” lưu trữ hồ sơ khác mọi chế độ: họ chỉ lưu trữ hồ sơ tự tạo ra theo ý muốn và quyền lực của những người cầm quyền hay ý muốn của đảng, hoặc họ không cần có hồ sơ lưu trữ gì cả, hoặc họ luôn thay đổi các sự kiện sao cho có lợi cho họ và bất chấp lịch sử, để lưu hồ sơ sao cho “có lợi cho cách mạng”. Với họ, không có khái niệm sự thật hay lịch sử khách quan, chỉ có cái gọi là “lịch sử trong con mắt biện chứng của đảng” - tức do họ chế tác ra. Ông Bùi Tín là người làm báo cộng sản hẳn biết rất rõ điều đó. Những năm 30s thế kỷ trước còn là thời đại khủng bố và thanh trừng nội bộ tàn khốc của Stalin-Beria khi họ thường thủ tiêu người không cần bản án, hồ sơ... thì việc gian dối thay người này bằng người khác “vì lợi ích cách mạng quốc tế” là chuyện cỏn con họ càng không cần hồ sơ và không muốn để lại hồ lưu trữ. Và nếu có chút ít hồ gián tiếp nào đó thì khả năng sau đó nước Nga rơi vào đại chiến 2 làm tan hoang cả Châu Âu và khả năng bảo tồn được các hồ sơ đó cũng rất thấp. Thêm nữa, sau chiến tranh Stalin cho giải tán Comintern là bộ phận QTCS của bà Vera Vasilieva người có thể đã phụ trách việc này, thì việc hy vọng vào hồ sơ lưu trữ của đảng CSLX là không tưởng. Xin hỏi ông Bùi Tín, liệu trong lưu trữ của đảng CSLX có tìm thấy hồ sơ về hàng vạn hàng triệu vụ tàn sát các đảng viên cộng sản Nga và Đông Âu để giải oan cho họ không? Hay trong hồ sơ lưu trữ của đảng CSVN có hồ sơ về hàng trăm ngàn vụ giết oan nông dân, địa chủ như vụ bà Cát Hanh Long không?
Câu hỏi thứ hai của ông Bùi Tín là, tại sao năm 1960 khi gặp HCM luật sư Frank Loseby vẫn nhận ra đó là “người cũ” - NAQ? Xin thưa, như đại đa số người châu Âu bình thường ông Loseby khó mà phân biệt chính xác hai người Á châu cùng tuổi cùng giới khi ông còn trẻ và minh mẫn hoàn toàn, và năm 1960 khi đến Hà Nội Ls Loseby đã gần 80 tuổi sau gần 30 năm cứu NAQ ở Hongkong, chắc chắn ông chỉ có một câu trả lời: HCM chính là NAQ mà ông đã gia ơn năm xưa, nhất là nay kẻ chịu ơn ông đó đã là Chủ tịch một đất nước mấy chục triệu dân. Hơn nữa, từ trước đó vài năm, từ 1956, HCM đã liên tục chuẩn bị cho ông Loseby “nhận ra” mình bằng cách viết thư tự giới thiệu lại và thăm hỏi, gửi quà (bức tranh thêu chùa Một Cột) và gửi ảnh của mình (Chủ tịch HCM) cho Loseby, thì làm sao Ls Loseby có thể có nghi ngờ gì nữa? Và khi đã không có nghi ngờ trong lòng thì đôi mắt của ông già 80 đang vinh dự là ân nhân của chủ tịch một nước làm sao có thể nhìn ra gì khác nữa? Thực ra, có thể ông HCM đã cố tình chỉ sử dụng ông già Loseby cho mục đích đó: xác nhận NAQ là HCM. Còn nếu để tỏ lòng biết ơn cứu mạng, tại sao HCM không viết thư cho Ls Loseby từ hơn chục năm trước đó, từ 1945 chả hạn?
Câu hỏi và luận điểm thứ ba của ông Bùi Tín là, tại sao năm 1946 khi sang lại Pháp HCM đã gặp lại các bạn cũ mà không ai nghi ngờ HCM không phải NAQ? Về điều khẳng định này, chỉ xin ông Bùi Tín đưa ra những cái tên và tài liệu chứng minh, ai là những người “bạn cũ” - cả người Việt lẫn người Pháp - mà HCM gặp trong chuyến đi Pháp năm 1946 mà trước đó đã biết rõ NAQ? Câu trả lời đơn giản là không có ai hết, và không có tài liệu nào hết ghi nhận lại những cuộc gặp như thế cả. Năm 1946 những bạn cũ người Việt của NAQ biết rõ NAQ ở Pháp hầu như không còn ai và chắc chắn không ai gặp chủ tịch HCM cả. Trong chuyến đi đó, xung quanh HCM và đến gặp HCM toàn những người của thế hệ sau mới nghe danh chủ tịch mà đến như Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Văn Huyên...
Câu hỏi và luận điểm thứ tư của ông Bùi Tín là việc bà Thanh chị NAQ năm 1946 đến phủ chủ tịch và vẫn nhận ra HCM là “thằng Coong có sẹo tai trái khi đi câu cá” và cả ông Cả Khiêm cũng nhận ra em mình? Ông Bùi Tín cũng biết rõ là bà Thanh bất ngờ ra Hà Nội và chỉ được gặp “thằng Coong” vài phút và hai người đã nói gì trong vài phút đó đến nay vẫn không ai biết. Vụ “thằng Coong có sẹo tai trái” là do bà Thanh sau này nhìn ảnh chủ tịch HCM thấy có sẹo tai trái mới nhớ ra hồi đó “thằng Coong” đi câu cá bị lưỡi câu móc vào tai... Nhưng bà Thanh lại quên hay không được xem ảnh “thằng Coong” tức Nguyễn Tất Thành lúc sang Pháp tai không có sẹo và vểnh ra và chọc lên như tai... Hồ chủ tịch.
Vụ cái tai sẹo chắc đã làm “thằng Coong” sợ hú vía nên “Coong” mới phải thiết kế cuộc gặp anh cả Khiêm mấy năm sau đó vào buổi tối nhà quê không điện, nhá nhem, để hai “anh em” hàn huyên chuyện cũ và... cũng chớp nhoáng như gặp chị Thanh, vì “bận việc cách mạng”! Ông cả Khiêm chả kịp nhận ra cái sẹo nào của “thằng Coong” thì đã ra đi ngay năm đó, 1950... Chưa ai được nghe ông cả Khiêm nói bất cứ điều gì về “thằng Coong” sau cuộc hội ngộ trong bóng đếm và không có người thứ ba đó cả? Ông Bùi Tín có thể lấy gì làm chứng để nói ông cả Khiêm đã nhận ra hay không nhận ra “thằng Coong”? Cả “thằng Coong” cũng kín như bưng đến khi vào nằm trong lăng Ba đình...
Luận điểm hay câu hỏi thứ năm của ông Bùi Tín là, tại sao nhiều người quen NAQ trước năm 1933 sau này làm việc với HCM vẫn không ai nghi ngò HCM không phải là NAQ? Đây là câu hỏi hay ho nhất và khó trả lời nhất của ông Bùi Tín, vì lần này ông đưa ra ba cái tên cụ thể: Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt và Phùng Chí Kiên.
Người thứ nhất, có lẽ ông Bùi Tín đã nhầm, vì Hoàng Quốc Việt chỉ gặp HCM tại Hội nghị TW đảng lần VIII năm 1941 tại Pắc Bó và không biết NAQ là ai?
Người thứ hai, Nguyễn Lương Bằng năm 1927-1928 được cử đi dự lớp đào tạo của TNCM ĐCH tại Hương cảng do NAQ tổ chức nhưng chưa đến nơi thì lớp học bị cảnh sát HK vây bắt nên phải giải tán và sau đó NAQ sang Thailand, còn Nguyễn Lương Bằng về nước, sau này đến 1941 NLB mới gặp HCM. Sở dĩ có sự ngộ nhận rằng NLB biết cả NAQ và HCM là do danh sách lớp học ở HK rơi vào tay mật vụ Pháp nên NLB bị bắt, và bản thân NLB cũng đã ghi trong lý lịch là mình được đi dự lớp đào tạo do NAQ mở (đúng), nhưng quên không khai là lớp đó không thực hiện được do bị cảnh sát HK bắt bớ phải giải tán...
Người thứ ba, Phùng Chí Kiên, biết rõ NAQ: đã dự lớp đào tạo của NAQ ở HK năm 1926, đã sang học trường Phương Đông ở Moscow rồi về hoạt động ở TQ, VN. Năm 1938-39 đã gặp HCM (Hồ Quang) ở TQ, cùng hoạt động một thời gian rồi đưa HCM về chiến khu Việt Bắc (hang Pắc Bó), rồi dự HN TW 8... Vấn đề là ở chỗ đến 1956-1958 HCM mới chính thức nhận mình là NAQ, còn khi làm việc với PCK ở VN và TQ thì HCM chỉ là HCM thôi. Ngay năm 1941, trung đội Bắc Sơn của PCK đã “vô tình” bị trên 4000 lính Pháp vây đánh và Phùng Chí Kiên cùng người phó Lương Văn Tri (cũng biết rõ NAQ là ai) bị Pháp giết... Như vậy PCK chưa bao giờ phải băn khoăn HCM có phải là NAQ không thì ông Bùi Tín muốn chứng mình điều gì?
Nói hộ Bùi Tín về những người biết rõ cả HCM và NAQ

Tôi vừa ngạc nhiên vừa không ngạc nhiên khi thấy ông Bùi Tín không đưa ra hai cái tên Trịnh Đình Cửu và Hồ Tùng Mậu là hai người đã cùng NAQ tham gia thành lập đảng CSĐD ở Hương cảng năm 1930 và sau này đã tham gia kháng chiến chống Pháp cùng HCM, để chứng mình HCM là NAQ.
Sau khi nghiên cứu tiểu sử của trên một trăm hai mươi yếu nhân lịch sử dân tộc Việt cùng thời với NAQ, tôi thấy có ba mươi tư người (34) đã biết rõ NAQ trước 1933 như cụ Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong... thì ba mươi người đã “ngẫu nhiên” bị chết/giết chết trước-trong-và sau khi HCM xuất hiện và không gặp được HCM, chỉ còn có 4 người được cho là biết NAQ mà vẫn sống sót để làm việc với cả HCM sau này, đó là: Nguyễn Lương Bằng, Phùng Chí Kiên, Hồ Tùng Mậu và Trịnh Đình Cửu.
Tôi muốn nói thêm về Hồ Tùng Mậu vốn là trợ lý giảng dạy cho NAQ ở Hongkong cho các lớp đào tạo của TNCMĐCH, cùng tham gia thành lập đảng CSĐD năm 1930 với NAQ, và là người đã liên hệ với đảng CSTQ và để nhờ cứu NAQ bị bắt ở HK năm 1931. Đảng CSTQ đã báo cho QTCS nhờ Công hội Đỏ thuê luật sư Loseby cái cho NAQ... Ông Hồ Tùng Mậu là bạn thân, đồng hương xứ Nghệ, là cấp dưới hay đồng cấp của NAQ từ trước 1930, là ân nhân góp phần cứu NAQ ra từ năm 1933. NAQ là bạn thân của cả gia đình họ hàng HTM vì gia đình HTM rất danh giá.
Thế mà năm 1945 khi HCM lên là Chủ tịch nước còn HTM ra tù về Hà Nội thì không được gặp HCM, phân vân không biết HCM có phải NAQ? HTM được HCM cử vào phụ trách liên khu V để rồi bị “máy bay Pháp bắn chết” năm 1951. Đáng ngờ hơn nữa là trước đó, năm 1948, con trai HTM là Hồ Mỹ Xuyên lúc đó 28 tuổi đang là phó bị thư tỉnh ủy Nghệ An được/bị HCM điều ra Đặc ủy đoàn ở Lao Cai và bị “tai nạn” chết ở đó (vì Hồ mỹ Xuyên cũng biết rõ NAQ là ai?). Sau khi Mỹ Xuyên chết, HCM “đánh máy ngay” thư chia buồn cho “bạn thân” HTM... Cả HTM và HMX đều không gặp HCM.
Câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ
Tóm lại là, không có một ai thực sự biết rõ cả NAQ và HCM cả, trừ Trịnh Đình Cửu (Tản Anh). Trịnh Đình Cửu cũng là một trong 7 (hay 8?) người tham gia thành lập đảng năm 1930 ở Hongkong và đến 1990 mới chết với chức vụ cuối cùng là giám đốc trường đảng NAQ! Nhưng TĐC có 13 năm lý lịch từ 1936 (sau khi ra tù) đến 1949 “biến mất”, không ai biết đã làm gì ở đâu? Đó cũng là những năm tình báo Hoa Nam đã đào tạo ra các “lãnh tụ” của các đảng CS chấu Á như đồng chí Lai Teck của đảng CS Malaysia. Nếu Trịnh Đình Cửu bị Hoa Nam bắt để khai thác và thay người của mình thì 13 năm đó là quá thừa, làm gì cũng được, và vì thế chắc chắn là TĐC đã không hề nhận ra HCM và NAQ là hai người, như ông Bùi Tín muốn chứng mình. Sao ông Bùi Tín không đưa ra cái tên Trịnh Đình Cửu nhỉ?
Có lẽ đảng CSVN cũng biết rõ Trịnh Đình Cửu cũng là tác phẩm của Hoa Nam đánh tráo, nên chỉ nâng bi một HCM là quá đủ “nặng đô” rồi?
Cuối cùng thì, HCM có phải là NAQ? Theo tôi chắc là không. Nhưng HCM có lẽ cũng không phải là Hồ Tập Chương từ Đài Loan đến. Hồ Chí Minh rất có thể là một người Việt gốc Hoa ở Nghệ An được tình báo Hoa Nam chuẩn bị để thay NAQ sau khi NAQ chết ở HK. Giống như Hoa Nam đã chọn và đào tạo một người Việt gốc Hoa khác từ Nghệ An là Trương Phước Đạt từ năm 1933 đến 1938 thành tổng bí thư đảng CS Malaysia vậy thôi? Và Hồ Chí Minh nếu từ người Hoa ở Vinh thì có thể là họ hàng với người Tàu họ Hồ ở Đài Loan?
Điều quan trọng là, chúng ta hãy để ý, việc cứu NAQ ở HK bắt đầu từ chính đảng CSTQ do Hồ Tùng Mậu báo tin và cậy nhờ... Và có lẽ vì thế mà cha con ông Hồ Tùng Mậu phải chết mà không biết HCM có phải NAQ hay không?
Câu hỏi đó, theo tôi, đến nay vẫn chưa có câu trả lời chính thức và thuyết phục.


TRẦN TRUNG ĐẠO * CHỌN LỰA CỦA ĐỜI NGƯỜI

Chọn lựa của đời người

Trần Trung Đạo (Danlambao) - Nỗi lo sợ lớn nhất của một nhà tranh đấu cho tự do dân chủ của một đất nước không phải là sợ bị tù mà bị sống lưu vong, bởi vì với phần đông, đi là hết.
Boris Pasternak không phải là nhà đấu tranh chính trị nhưng khi bị hăm họa nếu đi nhận giải Nobel văn chương có thể không được phép trở về Nga, ông từ chối đi nhận giải. Aung San Suu Kyi được phép đi thăm chồng bịnh nặng nhưng có thể không được trở về, bà đành chịu không thấy mặt chồng còn hơn phải rời Miến Điện. Nhắc lại, năm 1997, chồng bà, Tiến sĩ Michael Aris, bị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn cuối nhưng bị chính phủ quân phiệt Miến từ chối cấp giấy phép nhập cảnh thăm bà và cuối cùng Michael Aris đã chết ở Anh Quốc đúng trong ngày sinh nhật của ông không có mặt vợ.
Vùa Hàm Nghi của Việt Nam mình là bài học khác. Trong suốt ba năm từ 1885 đến 1888, chịu đựng bao gian truân đói khổ trong rừng núi Quảng Bình, nhà vua không hề than van và ngay cả khi bị bắt vị vua 17 tuổi còn mắng vào mặt Việt gian Trương Quang Ngọc "Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây", nhưng khi bước xuống tàu Biên Hòa để bị lưu đày sang Algérie, ngài đã khóc. Giọt nước mắt của vị vua mất nước và cũng là một thanh niên Việt Nam chỉ mới 18 tuổi tuôn rơi chỉ vì phải rời xa tổ quốc thân yêu và một phần khác ngài cũng biết đi là hết, giấc mộng Cần Vương xem như chính thức cáo chung.
Trong giai đoạn từ 1975 đến nay, có hai nhà đấu tranh vì tự do dân chủ và nhân bản Việt Nam nổi tiếng nhưng có hai chọn lựa khác nhau: Giáo sư Đoàn Viết Hoạt chọn lựa ra đi và Bác sĩ Nguyễn Đan Quế chọn lựa ở lại.
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt: Không thể ra khỏi nhà tù nếu thiếu điều kiện ra đi khỏi Việt Nam
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt bắt đầu các hoạt động chống độc tài CS ngay sau 1975 và bị tù tổng cộng gần 20 năm:
- Lần thứ nhất: Ngày 29 tháng 7 năm 1976 ông bị bắt với cáo trạng “Tuyên truyền tư tưởng phản động chống phá Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Giáo sư bị CSVN giam giữ 12 năm không bản án. Ông ra khỏi tù lần thứ nhất ngày 9 tháng 2 năm 1988.
- Lần thứ hai. Một năm sau, Giáo sư Đoàn Viết Hoạt góp phần thành lập nhóm Diễn Đàn Dân Chủ và sáng lập viên của tạp chí Diễn Đàn Tự Do. Ngày 17 tháng 11 năm 1990, ông bị CSVN bắt lần thứ hai. Tòa sơ thẩm CSVN ngày 31 tháng 3 năm 1993 kết án giáo sư 20 năm tù giam. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm sau đó, giảm án xuống còn 15 năm tù giam. Năm 1993, ông bị đưa sang trại tập trung lao động khổ sai. Ngay trong tù, ông đã tổ chức hoạt động đối lập và vì vậy, ông bị đưa đi giam giữ cô lập 4 năm liền tại trại giam Thanh Cầm, Thanh Hóa.
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt đối diện với chọn lựa không thể ra khỏi nhà tù nếu không chịu rời bỏ Việt Nam, nhưng ông cũng chỉ chịu rời Việt Nam khi vợ, con và nhiều bạn bè khuyên ông nên chấp nhận ra nước ngoài. Năm 1998, từ nhà tù, ông được đưa thẳng tới sân bay Nội Bài để bay sang Mỹ.
Sáng 8 tháng 4, 2014 vừa qua, phái viên Kính Hòa của RFA phỏng vấn Giáo sư Đoàn Viết Hoạt về việc Cù Huy Hà Vũ được trả tự do và tức tốc đưa sang Mỹ. Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt phát biểu: 

“Tôi nghĩ rằng nếu có thể thì chúng ta nên ở lại để đấu tranh. Tôi cũng muốn sớm được trở lại để đấu tranh với các bạn trong nước. Và ở ngoài này thì chúng ta phải vận động để thả ở trong nước chứ không đưa ra ngoài. Mỗi một người đi ra ngoài là mất một chiến sĩ trong nước, mà chiến sĩ ở trong nước mới là chính. Ngoài này chúng tôi chỉ hỗ trợ thôi. Khi sang ngoài này thì chúng tôi làm hết sức mình để hỗ trợ trong nước. Tất nhiên trong nước là cái chính, chúng ta phải bằng mọi giá đấu tranh để Hà nội thả anh em ra trong nước. Và phải chấp nhận những tiếng nói đối lập để đi đến dân chủ một cách ôn hòa bất bạo động.”
Ông Phạm Văn Thành, một người đã từng ở tù chung với giáo sư Đoàn Viết Hoạt nhận xét trên Facebook về những lời phát biểu của giáo sư:
“Giáo sư Đoàn Viết Hoạt đã trả lời rất thực lòng. Với bản thân tôi, tôi luôn luôn giữ lòng kính trọng với các quyết định của ông, kể cả quyết định chấp nhận đi ra nước ngoài, một quyết định tôi biết là cực kỳ khó khăn đối với ông, người mà tôi trân trọng gọi bằng thầy xưng con ngay từ khi anh em chúng tôi đón nhóm của ông chuyển từ trại Z30D Hàm Tân vào trại Trừng Giới A20 Xuân Phước cuối năm 1993. Thời gian ở trại A20 Xuân Phước, ông là người nỗ lực không ngừng nghỉ trong mục tiêu nâng cao khả năng lý luận cho những anh em tù chính trị đã bị giam cầm quá lâu (từ 1977 /1980/1984). Vốn liếng văn hóa, chính trị, xã hội và quan hệ quốc tế của ông đã làm chúng tôi bật ngửa và đặc biệt nhất là sự can trường và ý nhị của ông. Trước sự đeo bám của an ninh trại, ông bất chấp những đớn đau sẽ đến với mình và liên tục tham dự các buổi họp nhóm với tất cả các anh em tù kỳ cựu tổ chức. Nhiều người trong nhóm (nhóm Diễn Đàn Tự Do) của ông đã phải tránh hẳn ông vì sợ sự liên lụy. Bối cảnh ấy, anh em võ biền chúng tôi mới thật sự kính phục người mà trước đó nhiều anh em có ý không phục vì ông có liên quan đến những nhóm phản đối chính quyền miền Nam VNCH trước 1975. Bối cảnh trại A20 Xuân Phước, một trại khét tiếng tàn khốc với gần hai ngàn nấm mộ số (tính đến 1994) đã giúp cho chúng tôi nhận ra giá trị thực thụ của một kẻ sĩ. Một bậc trí thức thực sự.” 
Về việc Giáo sư Đoàn Viết Hoạt ra đi. Cựu tù nhân chính trị Phạm Văn Thành cũng cho biết chính ông là người được giáo sư hỏi ý ngay khi ở trong tù. Hỏi ý nhiều khi không phải để nhận câu trả lời nhưng chỉ là cách để nhẹ những ưu tư đang đè nặng trong lòng.
Câu trả lời của giáo sư Đoàn Viết Hoạt và tiết lộ của một người ở tù chung nhiều năm với ông, cho chúng ta biết chọn lựa ra đi của ông là một chọn lựa khó khăn. Chọn lựa nào mà chẳng có hy sinh. Ông ra đi mang theo một niềm tâm sự luôn chôn giấu trong lòng và tâm sự đó đã nhiều đêm làm ông trăn trở. Ông cho nhiều người thân biết khi máy bay bay lên trời cao, nhìn xuống thấy đất nước xa dần ông đã bật khóc, không cầm được nước mắt. Bởi ngày trở lại không biết đến bao giờ. Ông không bao giờ muốn rời xa quê hương nếu được tự do lựa chọn. Như ông đã chọn lựa trở về Việt Nam sau khi học xong bằng Tiến Sĩ ở Mỹ. Và sau khi CS chiếm miền nam ông cũng đã quyết định ở lại quê hương để tiếp tục chiến đấu cho lý tưởng nhân chủ mà ông đã noi theo thân phụ ông từ khi còn trẻ.
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt không phải là mẫu người hoạt động theo kiểu xông xáo đó đây nhưng là một nhà giáo dục, một cựu tù nhân lương tâm phát xuất từ miền Nam, một nhà tư tưởng, học ở Mỹ nên việc hội nhập vào sinh hoạt chính trị dòng chính Mỹ cũng như tham gia vào cộng đồng Việt Nam hải ngoại không mấy trở ngại khó khăn. Không giống như nhiều người tranh đấu khác chỉ tập trung vào các hoạt động có tính cách chiến thuật, ngắn hạn, giáo sư viết sách, phân tích tình hình quốc tế, sử dụng tích cực các mối quan hệ của cá nhân ông với quốc tế, đề nghị các chiến lược dài hạn cho các phong trào đấu tranh, vì thế, vai trò của ông tại hải ngoại có thể hữu hiệu không kém, nếu không muốn nói thuận lợi hơn, vai trò của ông khi còn ở trong nước.
Bác sĩ Nguyễn Đan Quế: Lưu đầy không phải là tự do
Một người bạn tù của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế thì khác, ông đã chọn lựa sống chết với quê hương ngay trong giờ phút Sài Gòn thoi thóp thở cho đến hôm nay.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975, trong lúc nhiều người Việt Nam chạy ra sông, ra biển, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế đã chạy ngược dòng người, ông chạy về bệnh viện, nơi hàng trăm thiếu nhi Việt Nam bị thương tích và bệnh hoạn không có người chăm sóc, không có ngay cả một viên thuốc chống đau. Với chức năng của một bác sĩ và tình thương dành cho thể hệ thiếu nhi đang bị chế độ bỏ rơi, ông đã ở lại tiếp tục ngành chuyên môn của mình trong bệnh viện nhi đồng Sài Gòn. Tuy nhiên, một năm sau, trước những bất công, hà khắc mà chế độ CS áp đặt lên nhân dân Việt Nam một cách tàn nhẫn từ trong bệnh viện nơi ông làm việc cho đến ngoài xã hội, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế phát động cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ và nhân bản cho dân tộc Việt Nam.
Từ đó, ông đã dấn thân vào hành trình tranh đấu cho một Việt Nam tự do dân chủ và nhân bản. Bác sĩ Nguyễn Đan Quế bị bắt nhiều lần và có những bản án kéo dài hàng chục năm qua nhiều trại tù lớn ở miền Nam:
- Lần thứ nhất: Mười năm, từ 1978 đến 1988, trong đó có thời gian dài bị biệt giam vì đã sáng lập Mặt trận Dân tộc Tiến bộ "với âm mưu lật đổ chính quyền cộng sản". Không đưa ra tòa xét xử.
- Lần thứ nhì: Ngày 29 tháng 11 năm 1991, trong phiên tòa chỉ vỏn vẹn ba mươi phút, CSVN đã xử Bác sĩ Nguyễn Đan Quế 20 năm khổ sai và 5 năm quản chế vì "hoạt động lật đổ chính quyền". Đến năm 1993, Bác sĩ Quế bị đưa đi lao động khổ sai ở trại K4 Xuyên Mộc (Bà Rịa) và ở trại K3 Xuân Lộc, cách Sài Gòn 80 cây số về hướng Đông Bắc. Mặc dù sức khỏe của ông ngày càng yếu, quản giáo CSVN vẫn tìm cách hành hạ ông bằng lao động khổ sai và biệt giam.
- Lần thứ ba: Bị bắt năm 2003 vì lên tiếng tranh đấu cho tự do thông tin và phát biểu. Lần nữa, trước áp lực quốc tế và đồng bào trong cũng như ngoài nước. CSVN đã buột phải thả Bác sĩ Nguyễn Đan Quế vào năm 2005.
- Lần thứ tư: Bị bắt vào cuối tháng 2 năm 2011, sau khi công bố “Lời kêu gọi toàn dân xuống đường cứu nước”. CSVN trả ông về nhà sau khi bị tạm giữ 48 giờ.
Năm 1998, trước áp lực quốc tế, chính quyền cộng sản đồng ý thả bác sĩ Nguyễn Đan Quế với điều kiện ông phải rời Việt Nam.
Với hai mươi năm tù tội, CSVN nghĩ rằng bác sĩ đã cạn kiệt tinh thần cũng như thể lực và phải chọn con đường bình an nhất cho những ngày tháng cuối đời là ra đi. Nhưng họ đã lầm. Bác sĩ Nguyễn Đan Quế từ chối. “Lưu đầy không phải là tự do” ông tuyên bố một cách khẳng khái. Tự do của một người chỉ trọn vẹn ý nghĩa nếu được tự do trên quê hương mình và cùng với dân tộc mình. Không có tự do dành cho những kẻ bị lưu đày. Cuối cùng, Cộng Sản đành thả ông và giam lỏng ông tại Sài Gòn.
Ngày 11 tháng 5 năm 2014 sắp tới đây đánh dấu 24 năm ngày Bác sĩ Nguyễn Đan Quế công bố Bản Tuyên Bố của Cao Trào Nhân Bản kêu gọi đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước, các chính phủ và nhân dân yêu chuộng tự do dân chủ khắp thế giới tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh bất bạo động đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải (a) Tôn trọng các nhân quyền căn bản của người dân Việt Nam. (b) Phải chấp nhận sinh hoạt chính trị đa nguyên. (c) Phải trả lại cho người dân Việt Nam quyền được lựa chọn một thế chế chính trị phù hợp với nguyện vọng của mình qua các cuộc bầu cử tự đó và công bằng dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc.
Hôm nay, bác sĩ Nguyễn Đan Quế đã 73 tuổi với gần một nửa đời người trong tù tội lao lung. Ngọn đèn nhân sinh có thể một ngày sẽ tắt nhưng ngọn đèn nhân bản ông thắp lên trong ngày 11 tháng 5 năm 1990 chẳng những không tắt mà mỗi ngày một sáng hơn. Hai mươi năm trước, phong trào xã hội dân sự tại Việt Nam chỉ có Cao Trào Nhân Bản và Diễn Đàn Tự Do, hôm nay hàng trăm nhóm, phong trào, mạng lưới internet, tập hợp xã hội dân sự đang được ra đời và phát triển. Con đường ông đi ngày đó chỉ có một vài dấu chân lẻ loi đơn độc, hôm nay, hàng trăm, hàng ngàn người cùng đi. Tuổi trẻ Việt Nam xem bác sĩ như là một người cha, người chú, một chỗ dựa tinh thần, một nơi để tìm nguồn an ủi trong những lúc khó khăn. Và Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, cũng giống như trong buổi chiều 30 tháng Tư, 1975 lại tiếp tục săn sóc, khuyên răn các em bằng đức tính khiêm cung và tấm lòng nhân ái.
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ và Mount Everest đang chờ 
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ là một người đa tài. Anh sinh ngày 2 tháng 12 năm 1957 tại xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh). Anh tốt nghiệp tiến sĩ luật học, thạc sĩ văn chương, họa sĩ nhưng được biết đến nhiều nhất như một nhân vật bất đồng chính kiến với nhà nước CSVN. Anh bị bắt ngày vào 5 tháng 11 năm 2010 tại Sài Gòn và bị khởi tố ngày 15 tháng 11 năm 2010 về tội danh quen thuộc của CS “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Anh bị kết án 7 năm tù. Phiên tòa ngày 2 tháng 8 năm 2013 giữ nguyên bản án. Tuy nhiên, trong lúc đang ở tù, anh Cù Huy Hà Vũ được CS phóng thích và cùng vợ đi thẳng sang Mỹ ngày 7 tháng Tư năm 2014.
Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ ra khỏi nhà tù CS là một tin vui chung cho phong trào dân chủ Việt Nam. Cuộc vận động và tranh đấu thay mặt anh đã diễn ra không ngừng trên mọi lãnh vực, mọi bình diện, mọi phương tiện, mọi giới và mọi tầm vóc đã có hiệu quả. Trong nước Cù Huy Hà Vũ đã trở thành niềm thôi thúc của tuổi trẻ dấn thân. Ngoài nước, Cù Huy Hà Vũ đứng hàng đầu trong danh sách tù nhân mà các tổ chức nhân quyền dùng để gây áp lực cho CSVN. Phần lớn các nhà phân tích và đồng bào quan tâm đều nghĩ CSVN phải trả tự do cho anh sớm. Và họ đoán đúng. Tuy nhiên thay vì trở về với bạn bè cùng tranh đấu, với công cuộc vận động dân chủ đang quá cần anh, với phong trào bảo vệ Hoàng Sa Trường Sa mà anh từng gắn bó, anh được đưa từ nhà tù sang Mỹ ngay là một tin làm nhiều người ngạc nhiên. Không ít người thất vọng, lo lắng và ngay cả buồn phiền.
Lần nữa, chọn lựa đi hay ở là chọn lựa cá nhân. Nếu anh chọn ra đi để chửa bịnh và được sống bình an sau những năm tháng dài đấu tranh mệt mỏi ở Việt Nam thì đó là chọn lựa riêng tư. Mỗi người trong thế giới này có quyền chọn lựa một cách sống riêng cho mình và gia đình mình. Quyết định đó phải được tôn trọng. Đất nước Việt Nam là của 90 triệu người chứ không phải chỉ của một mình Cù Huy Hà Vũ. Và đừng quên, phong trào dân chủ từ thập niên 1990 đến nay có những lãnh tụ đấu tranh tưởng chừng như “gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo” đã tự biến mất đi không để lại một dấu vết gì. Thỏa hiệp, đầu hàng, mệt mỏi hay dù gì cũng không ai trách và sau một thời gian sẽ không còn ai nhắc. Cuộc vận động dân chủ như một chuyến tàu, tại mỗi sân ga, có người bước xuống nhưng cũng có người khác bước lên. Lịch sử đã, đang và sẽ diễn ra như thế.
Nhưng nếu anh Cù Huy Hà Vũ chọn ra nước ngoài để vừa được bình an vừa tiếp tục con đường tranh đấu như phương cách anh đã làm trong nước thì đó sẽ là một chọn lựa vô cùng khó khăn để thực hiện:
- Phương pháp đấu tranh: Từ trước đến nay, anh Cù Huy Hà Vũ chọn phương pháp đấu tranh trong vòng cơ chế, nghĩa là chấp nhận và dựa trên hiến pháp CS, luật pháp CS. Anh từng ứng cử vào chức vụ Bộ trưởng Thông Tin, tranh cử Đại biểu Quốc Hôi. Anh từng kiện Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Thừa Thiên, kiện cả Thủ tướng CS Nguyễn Tấn Dũng, đòi hỏi phải thay đổi hiến pháp. Nói chung, anh tìm mọi kẽ hở của chế độ để tấn công, nhưng những kẽ hở đó đã được đóng lại cùng lúc với cánh cửa máy bay. Điều kiện đầu tiên để đấu tranh trong vòng cơ chế là phải có mặt. Không gian đấu tranh chính trị như thế không tồn tại ở hải ngoại. Ở Mỹ không có “gậy ông” để anh “đập lưng ông”. Lịch sử đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc có rất nhiều người đã đấu tranh trong vòng cơ chế thực dân như Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, nhà báo Nguyễn Phan Long, kỹ sư Bùi Quang Chiêu, nhà văn Diệp Văn Kỳ v.v... và đã giúp tạo nền móng vững chắc cho chế độ dân chủ tại miền Nam Việt Nam từ 1954 đến 1975 nhưng họ đều trực diện một mất một còn với chế độ thực dân tại Việt Nam. 
- Hậu thuẫn đấu tranh: Anh Cù Huy Hà Vũ vận dụng tích cực các mối quan hệ cá nhân, gia đình, môi trường xã hội mà anh xuất phát để làm điểm tựa đấu tranh. Những điều kiện đó thuận lợi bao nhiêu ở trong nước sẽ bất lợi bấy nhiêu ở hải ngoại. Giả thiết rằng điểm hẹn cuối cùng trong hành trình tranh đấu của anh Cù Huy Hà Vũ cũng là một nước Việt Nam tự do dân chủ như phần lớn người Việt trong và ngoài nước đang tranh đấu, điểm khởi hành của anh phát xuất từ trong lòng chế độ CS và vì thế không đi cùng một ngã với đại đa số người Việt hải ngoại. Người Việt hải ngoại không phải bao giờ cũng bằng mặt, bằng lòng với nhau nhưng có một lập trường dứt khoát giống nhau đối với chế độ CS như một điều kiện tiền đề, không có chuyện “tuy nhiên”, “lẽ ra” hay “nói gì thì nói” nào cả.
- Lý luận đấu tranh: Anh Cù Huy Hà Vũ không phải là nhà tư tưởng hay nhà lý luận. Hầu hết các hoạt động của anh chỉ mang tính chiến thuật, ngắn hạn, gây khó khăn cho chế độ nhưng không tấn công vào nền tảng của ý thức hệ Mác Lê và các nguyên nhân dẫn đến một đất nước điêu tàn, nghèo đói, phân hóa như hôm nay. Có thể đó phương cách đấu tranh anh nghĩ là thích hợp nhưng trong điều kiện hải ngoại những chiến thuật như thế không hiệu quả và cũng không thuyết phục được bao nhiêu người. Tham nhũng tại Việt có tính đảng và sinh sôi nảy nở tốt tươi dưới bóng cây cổ thụ quyền lực của đảng, do đó, đánh tham nhũng mà tránh đánh vào đảng CS cũng chẳng khác gì đánh vào chiếc bóng đen mà để yên cho kẻ trộm dọn nhà mình.
Anh Cù Huy Hà Vũ có thể nói đã một mình đã tạo nên một phong trào đấu tranh đầy sinh động. Các nhà chiến lược và lý luận có thể không đánh giá anh cao nhưng cách đấu tranh của anh lại dễ gây phong trào quần chúng và gây khó cho lãnh đạo CS. Nhiều bạn trẻ đã khóc, đã xuống đường, đã bị tù vì anh khi anh bị chế độ CS hạ nhục. Nhiều cụ già đã thương quý anh như con, như cháu khi anh bị lao tù. Ngoài việc can đảm, gan dạ, với tuổi trung niên, anh là chất keo nối kết các tầng lớp xã hội. Quốc tế nhìn anh như một lãnh tụ đấu tranh nổi bật của giai đoạn này và luôn dùng để gây áp lực nhân quyền với chế độ. Nhưng chất keo đó chỉ còn là những giọt nước mưa rớt rơi trên mặt phi đạo khi chuyến bay mang anh đi vừa cất cánh. Nụ cười và dấu V chiến thắng của anh đưa lên khi ra khỏi phi trường Dulles ở Washington DC có thể chỉ để xã giao với người đang cầm máy ảnh nhưng làm đắng cay cho bao nhiêu đồng bào, anh em đang kỳ vọng ở nơi anh.
Lịch sử cũng từng chứng minh không phải đi là hết
Rất nhiều chính khách đối lập lưu vong hay tự lưu vong ở nước ngoài sau đó đã trở về và thành công trong việc lãnh đạo quốc gia như Benazir Bhutto, Kim Đại Trọng ở Á Châu, Jacob Zuma, Moncef Marzouki của Phi Châu và nhiều người khác.
Nhiều độc giả đã biết trường hợp Kim Đại Trọng của Nam Hàn và Benazir Bhutto của Parkistan, xin giới thiệu trường hợp của Tổng thống Tunisia Moncef Marzouki mới đây. Sau khi tốt nghiệp bác sĩ tại đại học Strasbourg, Pháp, Bác sĩ Moncef Marzouki trở lại Tunisia và thành lập Trung Tâm Y Tế Cộng Đồng để ngăn chận lạm dụng thiếu nhi. Bác sĩ Moncef Marzouki không có tham vọng chính trị nhưng trước việc nhà độc tài Ben Ali trấn áp một cách dã man các thành phần đối lập, ông đã đứng ra thành lập Ủy Ban Quốc Gia Bảo Vệ Tù Nhân Lương Tâm (the National Committee for the Defense of Prisoners of Conscience). Ông bị tù nhiều lần trước khi lưu vong sang Pháp. Tại Pháp, ông tiếp tục lãnh đạo Nghị Hội Vì Nền Cộng Hòa (Congrès pour la République) gọi tắt là CPR. Nghị Hội Vì Nền Cộng Hòa quy tụ một tập thể trí thức thuộc nhiều tôn giáo, thành phần xã hội, hữu và tả, Arab và không Arab nhưng theo đuổi một mục tiêu tối hậu là thành lập một chế độ Cộng Hòa đầu tiên tại Tunisia bao gồm tự do ngôn luận, tự do hội hộp, tự do bầu cử và ứng cử. CPR đòi hỏi một hiến pháp mới đặt cơ sở trên các nguyên tắc của chế độ Cộng Hòa. Sau khi nhà độc tài Ben Ali bị lật đổ, Moncef Marzouki trở về Tunisia để tham gia cuộc bầu cử quốc hội và được chọn làm Tổng thống của Tunisia ngày 12 tháng 12 năm 2011. Trả lời báo chí, Moncef Marzouki phát biểu về nhiệm vụ chính của ông ta “Khi một đất nước phải trải qua 50 năm độc tài, nhiệm vụ chính của tôi là ngăn chận độc tài tái diễn”.
Còn hơi sớm để đánh giá, nhận xét về việc anh Cù Huy Hà Vũ ra đi bởi vì có thể có nhiều yếu tố về phía Mỹ, phía CSVN và cả cá nhân anh vẫn chưa được biết, chưa được tiết lộ, chưa được tỏ bày. Những điểm người viết trình bày không có ý phê bình, chỉ trích nhưng chỉ muốn nêu ra một cách thẳng thắn về những hoàn cảnh và tình huống mà anh Cù Huy Hà Vũ có thể sẽ phải đương đầu trong những ngày tháng tới. Nếu anh chỉ muốn có cuộc sống bình an, đọc sách, họa, nghiên cứu luật sẽ không có gì để nói nhưng nếu anh tiếp tục dấn thân trên đường đấu tranh như đã từng làm thì trước mặt là đỉnh Everest đang đợi chờ anh.
Một góp ý chung cho tất cả những người ra đi, dù ra đi bằng ghe như kẻ viết bài này hay bằng máy bay như các lãnh tụ đấu tranh: Xa đất nước là một bất hạnh và ra đi, dù viện dẫn bất cứ một lý do gì, cũng có lỗi với quê hương.

MÓN ĂN ĐỀN HÙNG







Các món ăn nổi tiếng ở vùng đất Tổ


Ngoài lễ hội đền Hùng, những đồi cọ rừng chè xanh ngát, du khách còn được thưởng thức những món ăn mang đậm hồn quê khi đến Phú Thọ.
Khi đến Phú Thọ, bạn đừng quên thưởng thức các món thịt chua, rêu đá, hay canh cá rau sắn đậm chất dân dã của vùng đất Tổ:
Thịt chua Thanh Sơn
Đây là món đặc sản của người Mường ở huyện Thanh Sơn đã nổi tiếng cả nước nhờ hương vị và cách chế biến độc đáo. Để làm món thịt chua, người ta lấy thịt ba chỉ, thịt mông sấn, nạc vai, nạc thăn đã được sơ chế sạch từ loại lợn lửng, một loại lợn nuôi thả rông một năm chỉ đạt tới 15 – 17 kg, có thịt săn chắc và thơm ngon, ít nước.
Thịt chua ăn kèm với các loại rau thơm.
Thịt chua ăn kèm với các loại rau thơm.

Những đầu bếp khéo léo thái thịt thành từng miếng thật mỏng, ướp một chút muối gia vị, được nướng chín bằng than hoa, đảm bảo độ thơm ngon, vệ sinh an toàn thực phẩm. Sau đó cho trộn đều với thính sao cho bột thính bám thật đều trên bề mặt các miếng thịt. Để món thịt chua ngon thì bí quyết chính ở khâu rang thính. Thính được làm từ hỗn hợp ngô, gạo, đậu xanh, đỗ tương rang vàng xay nhỏ, rang phải đảm bảo yêu cầu chín kỹ, dậy thơm, vàng và không được để cháy.
Sau đó, người ta cho thịt vào ống tre, lót lá ổi xuống dưới rồi bỏ thịt lên trên, phủ tiếp lớp lá ổi rồi nén chặt bằng nẹp tre, để nơi khô thoáng khoảng 5-6 ngày cho thịt lên men là có thể dùng được. Trong những ngày nắng nóng, thịt chua vừa tới ăn kèm các loại rau như lá sung, ổi, đinh lăng, mơ lộc vừng, rau mùi, rau húng thì mới cảm nhận được hương vị độc đáo, khác lạ mà món ăn đem lại.
Cơm nắm lá cọ
Cứ vào mùa cọ, người dân lại lên đồi chặt những tàu lá bánh tẻ về để nắm cơm. Lá cọ đem về hơ qua lửa cho mềm, lau sạch rồi nắm với cơm được nấu bằng những loại gạo mới thu hoạch, vừa thơm, vừa dẻo.
Nước để dùng nấu cơm cũng phải là nước mưa đựng trong những chiếc bể hay chum để ngoài trời. Trước khi nắm phải dùng khăn mặt ướt hoặc tay nhúng nước lạnh nắm tròn lại, lăn kỹ nắm cơm cho thật nhuyễn đến khi nào hạt cơm không còn dính quyện vào nhau rồi cho vào trong lá cọ túm lại thật chặt.
Từng nắm cơm với những viền sọc được tạo hình từ lá cọ đượm thơm mùi gạo quê quyện với hương của lá cọ, chấm với muối vừng lạc hay sườn lợn rang muối mới thấy hết được vị ngon, ngai ngái của lá cọ không nơi nào có được của món ăn dân dã này.
Bánh tai
Vốn là thứ quà quê dân dã nhưng bánh tai được rất nhiều người dân Phú Thọ ưa thích, vì vậy du khách đến vùng đất tổ có thể dễ dàng thưởng thức món ăn này. Bánh màu trắng tinh, được làm bằng bột tẻ hình con trai, vì vậy trước kia người ta thường gọi là bánh trai.

Món bánh tai dân dã có thể tìm ở các chợ quê
Món bánh tai dân dã có thể tìm ở các chợ quê

Làm bánh tai không khó nhưng để làm được loại bánh thơm ngon trước hết là khâu chuẩn bị nguyên liệu. Gạo làm bánh phải là goại tẻ ngon, trắng và dẻo. Sau khi đãi gạo sạch, người ta ngâm nước từ 3- 4 tiếng rồi đem giã hoặc xay, để ráo nước cho bột có độ kết dính rồi cho vào nồi nước sôi đun lửa đều, khoảng 20 phút sau vớt bột ra cho vào cối giã thật nhuyễn rồi dùng đũa đánh tơi bột, rồi nặn bánh hình con trai. Nhân làm bánh thường là thịt lợn pha lẫn chút mỡ, được tẩm ướp cho ngấm.
Bánh được cho vào nồi hấp khoảng 30 phút, khi gắp ra miếng bánh trắng tinh quyện cùng mùi thịt mỡ béo ngậy. Ăn bánh tai cùng một chút nước mắm pha thêm chút chanh, ớt, tiêu… mới cảm nhận được vị ngon, đậm đà của món bánh quê dân dã.
Cọ ỏm chấm mắm
Không phải mùa nào cũng có nhưng cọ ỏm là thứ quà rất nhiều du khách muốn thưởng thức khi đến Phú Thọ. Quả cọ chín già, đen bóng mang vị bùi, chát của miền nắng gió trung du sau khi được rửa sạch bụi đất đem về có thể dùng để om, hoặc có thể dùng để kho cá giống như quả trám. Tuy nhiên, cách đơn giản và dễ ăn nhất, lại có thể thấy được vị bùi và béo của cọ chỉ là cọ ỏm.
Để có món cọ ỏm ngon, không phải ai cũng làm được bởi nếu không đủ khéo léo, sẽ khiến quả cọ càng thêm chát và khó ăn. Khi ỏm cọ phải chú ý thời gian cho phù hợp, nếu không khéo cọ sẽ bị tóp lại. Nước sôi liu riu, thả những quả cọ vào nồi, đậy vung và tiếp tục đun nhỏ lửa từ 5 đến 10 phút.
Cọ ỏm ngon phải là những quả có hình tròn, cùi dày, khi đã ỏm xong bóp vào quả thấy mềm và dẻo, có màu nâu sậm, nồi cọ sau khi ỏm sẽ có một lớp váng giống như váng mỡ nổi quanh nồi. Cọ ỏm có thể chấm với nước mắm là ngon nhất hoặc có thể chấm bột canh,  muối vừng…sẽ thấy được vị ngọt bùi, ngậy chát của quả cọ.
Canh cá rau sắn
Rau sắn không phải là món ăn sang trọng, nhưng đòi hỏi người chế biến phải rất cầu kỳ. Rau sắn thường được chế biến thành các món dân dã như rau sắn muối, canh cá rau sắn, nộm rau sắn, dưa sắn kho cá…
Để có món canh cá rau sắn ngon, người ta phải chọn những búp sắn non mập mạp còn nguyên lớp phấn mịn phía đầu chồi, hái về ngâm qua nước cho bớt nhựa rồi được vò nát cho lá sắn mềm, nhưng không bị vụn, sau đó trộn với chút muối cho thêm vị đậm đà. Rau sắn sau khi đã trộn muối đem cho vào vại hoặc bình, để 4 đến 5 ngày ủ chua cho đến khi có màu vàng đều, dậy mùi thơm.
Cá nấu với rau sắn là loại cá đồng, gọi là cá lẹp, được rửa sạch, thả vào nồi với dưa sắn chua màu vàng ươm, đun trên bếp lửa liu riu, rồi cho thêm chút gia vị. Món canh cá rau sắn ngon là khi cá và rau sắn đều nhừ nhưng không bị nát, khi ấy vị ngọt cả cá, của rau, lại thêm vị chua hòa lẫn đạt đến độ tinh tế, ăn rất thanh mát.
Món canh cá rau sắn
Món canh cá rau sắn

Ngoài ra, người dân Phú Thọ hay dùng rau sắn để làm nộm. Ngọn sắn thái ra, ngâm với nước vo gạo, luộc kỹ, cho chút muối. Sau đó đổ ra rổ, dùng tay vắt kiệt nước rồi luộc lại một lần nữa, lại đem vắt nước và trộn đều với vừng, lạc, ớt, chanh, tỏi và các loại rau thơm… thành món nộm rất ngon mà lạ miệng.
Rêu đá Thanh Sơn
Món rêu đá Thanh Sơn không phải ai cũng biết. Đây là món đặc sản mà chỉ khi có khách quý mới được thết đãi, bởi đây là một món rau sạch và hiếm của người dân vùng trung du. Rêu được lấy về từ nơi nước suối chảy xiết, có nhiều tảng đá, làm sạch sẽ được đem tẩm ướp gia vị, thêm chút hành tỏi thái mỏng, muối, mì chính và chút mỡ lợn rồi trộn đều.
Sau đó, rêu được rải đều lên lớp lá đu đủ hoặc lá dong nhiều lớp rồi buộc chặt lại. Người ra để lớp lá này trên lửa nhỏ, cho đến khi lớp lá bên ngoài bén lửa, bốc mùi thơm và chuyển sang màu đen thì bóc lớp lá bên ngoài, để thưởng thức món rêu đá bên trong. Mùi hơi nồng của rêu quyện lẫn mùi hành tỏi tạo nên hương vị khó quên.
Anh Phương (VnExpress)

HIỆU MINH * THƯ TRƯỜNG CHINH

Thư của ông Trường Chinh gửi hậu thế

Hiệu Minh
truongchinh

Thưa quí vị
Tôi rời bỏ thế giới này đã được 26 năm, nghĩ mình đã yên nghỉ nơi xa vắng. Nhưng mấy hôm nay, tôi bỗng hắt hơi liên tục. Hóa ra, dân cả nước đang bàn về con đường mang tên Trường Chinh, chính là tên tôi.
Đi làm cách mạng từ nhỏ, tôi luôn coi xây dựng chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu tối thượng, lấy tên Trường Chinh vì nghĩ con đường Mác Lê này sẽ dài vô tận. Qua nửa thế kỷ, giữ rất nhiều chức vụ, từ TBT đến chủ tịch QH, chủ tịch HĐBT, bao nhiêu trọng trách, tới lúc tôi mất, vẫn còn chế độ tem phiếu, dân toàn ăn bo bo nhập từ Liên Xô và Đông Âu, nơi người ta cho bò ăn.
Có lẽ vì thế mà TBT Trọng nói không sai, xây dựng CNXH là một cuộc trường chinh, cả trăm năm chưa chắc đã xong. Nếu quí vị còn nhớ, năm 1934-1935,  cuộc Vạn lý Trường chinh của Hồng quân TQ với 86 ngàn người, từ Giang Tây, đi qua Tây Tạng, vượt 12000km, kéo dài hơn một năm, về tới Diên An chỉ còn 7000 người.
Dường như cái tên Trường Chinh luôn gắn với gian khổ, dài lâu và tìm lối ra rất khó. Phải mất 20 năm với bao nhiêu thất bại, đổ máu, đói khát, tôi mới nghĩ ra từ đổi mới năm 1986.
Khi mất, hậu thế lại lấy tên tôi đặt cho một con đường. Như một định mệnh, đường Trường Chinh ở phía nam Hà Nội lại bẩn thỉu, khói bụi, nhà cửa nhôm nhoam, kiến trúc tạp nham, giao thông hỗn loạn, nhác trông đã thấy gian nan và vất vả.
Đoạn đường này có viện thuốc thú y nên rất nhiều người bán thuốc cho chó mèo. Chỉ cần nhìn các cô bán hàng, phải đeo khẩu trang, cũng đủ hiểu sự ô nhiễm kinh hoàng như thế nào. Mỗi sáng đi làm và chiều vào giờ tan tầm, con đường này luôn kẹt cứng, dân chúng chửi thề, đôi lúc lôi cả tên tôi ra mà réo.
Uốn lượn quanh co. Ảnh: VNN
Mấy hôm nay báo chí lại nhắc đến tên Trường Chinh liên tục, chẳng phải nhớ công lao trong cách mạng, thời cải cách ruộng đất, khoán 10 của Kim Ngọc và sau này là đổi mới. Mà họ lại nhắc đến vì qui hoạch “uốn lượn” con đường mang tên tôi.
Theo qui hoạch ban đầu, con đường này được mở rộng từ ngã tư Sở đến ngã tư Vọng, lẽ ra là một đường thẳng. Thế nhưng khi đi qua đất của Quân chủng Phòng không, Không quân, thì đường đã nắn để tránh nhà quan chức, phần từ hồ Hố Mẻ đến Cống chéo sông Lừ.
Theo Sở Qui hoạch Hà Nội, “từ lúc phê duyệt tới nay đã có sư dịch chuyển nhẹ nhàng, tạo ra đường cong mềm mại”. Đọc đoạn này mà tôi không thể nín cười. Từng là người viết nổi tiếng các văn bản chính qui từ thời lập nước VNDCCH, thế mà tôi phải phục cụm từ “đường cong mềm mại”, con cháu bây giờ giỏi thật.
Càng nghĩ càng thấy công cuộc xây dựng XHCN là một cuộc trường chinh thực sự. Có mỗi đoạn đường ngắn, chỉ vì vài chức sắc mà phải thiết kế uốn cong cho hợp với lòng quan. Chế độ XHCN linh hoạt giúp người có quyền thế. Mới hiểu tại sao, nửa thế kỷ đã qua, nhân loại đã đi rất xa, mà ta vẫn đứng, bởi quan chỉ vì quan, quan chẳng vì dân.
Tôi đề nghị thủ đô Hà Nội thay tên con đường này bằng tên của mấy một vài vị từng là anh hùng phi công như Phạm Ngọc Lan, Phạm Thanh Ngân, Phạm Tuân, Nguyễn Đức Soát (ví du: tên đường là Lan Ngân Tân Soát cũng hay) để nhớ về công lao của họ trong chiến tranh chống Mỹ. Nếu các vị chuyển nhà đi cho đường thẳng thì dấu ấn của họ vẫn còn nơi đây.
Nếu như các vị cứ quyết “dùng công lao làm đòn xoay ….cao tốc”, thay vì tên Trường Chinh, hãy gọi đường này là…Đoản Chinh.
Xin cảm ơn sự lưu ý của quí vị.
TT đã ký.

TIN THẾ GIỚI

  

Bộ trưởng Hagel: Mỹ hậu thuẫn Nhật Bản, các đồng minh châu Á

Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel và Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera trong cuộc họp báo chung tại Bộ Quốc phòng Nhật Bản ở Tokyo, 6/4/14
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel và Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera trong cuộc họp báo chung tại Bộ Quốc phòng Nhật Bản ở Tokyo, 6/4/14
CỠ CHỮ
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel nhấn mạnh Hoa Kỳ sẽ hậu thuẫn Nhật Bản chống lại những khiêu khích của Bắc Triều Tiên và mối đe dọa từ Trung Quốc. Thông tín viên VOA Rebecca Valli tường thuật rằng Bộ trưởng Hagel nói về về vấn đề này ở Tokyo sau cuộc họp với Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera.

Vào ngày thứ nhì trong chuyến công du Nhật Bản, Bộ trưởng Hagel loan báo Hoa Kỳ sẽ tăng sự hỗ trợ quân sự cho nước đồng minh châu Á này. Ông nói:

“Để đáp lại các hành động khiêu khích và gây bất ổn của Bình Nhưỡng, trong đó có hành động phóng phi đạn cùng với những vi phạm nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc trong thời gian gần đây, hôm nay, tôi có thể loan báo rằng Hoa Kỳ đang hoạch định việc điều động thêm 2 chiến hạm trang bị phi đạn phòng thủ Aegis đến Nhật Bản trước năm 2017.”

Trong các vụ căng thẳng bùng phát trên bán đảo Triều Tiên gần đây nhất vào cuối tháng 3, Bắc Triều Tiên đã pháo kích vào vùng biển Nam Triều Tiên gần duyên hải phía tây của miền bắc. Nam Triều Tiên đáp trả và 2 nước đã bắn qua lại hàng trăm quả đạn thật chỉ trong mấy tiếng đồng hồ.

Trong các hành động khiêu khích mới đây của Bắc Triều Tiên còn có vụ bắn một phi đạn tầm trung có khả năng bay đến Nhật Bản.

Bộ trưởng Hagel cũng đề cập đến Trung Quốc, quốc gia ông sẽ đến thăm sau khi rời Nhật Bản.

Quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản đang ở mức thấp vì vụ tranh chấp chủ quyền nhóm đảo trong vùng biển giàu tài nguyên nằm về hướng đông của Trung Quốc.

Mặc dù không đứng về phía bất cứ nước nào trong cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo, Hoa Kỳ thừa nhận quyền quản lý trên thực tế của Nhật Bản và theo hiệp ước có tính ràng buộc giữa 2 nước, sẽ bảo vệ trong trường hợp Nhật Bản bị xâm lăng.

Hôm Chủ nhật, Bộ trưởng Hagel đã so sánh trường hợp Nga sát nhập bán đảo Crimea:

“Quý vị không thể đi quanh thế giới và xác định lại các ranh giới, và vi phạm nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của các quốc gia bằng võ lực, ép buộc và đe dọa, cho dù đó là trên các đảo nhỏ trong Thái bình dương hay những nước lớn ở châu Âu.”

Những gì đã xảy ra ở Ukraine đã có âm hưởng ở châu Á, nơi mà Trung Quốc vướng vào các cuộc tranh chấp gay gắt về các lãnh hải ở phía đông và phía nam của nước này.

Những nước như Philippines và Nhật Bản đã nêu lên các quan ngại về lập trường ngày càng quyết đoán trong các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Bắc Kinh

Bộ trưởng Hagel gọi Trung Quốc là một cường quốc, nhưng nói rằng quốc gia này nên tôn trọng các nước láng giềng, minh bạch hơn về sức mạnh quân sự, kiềm chế hành động ép buộc và đe dọa. Ông nói:

“Với sức mạnh này, phải đi kèm với các trách nhiệm mới và rộng lớn hơn đó là cách quý vị sử dụng sức mạnh đó như thế nào, qúy vị sử dụng sức mạnh quân sự đó ra sao. Và tôi muốn nói với Trung Quốc về tất cả những sự minh bạch đặc thù đó. Đây là một chiều hướng chính yếu của các mối quan hệ.”

Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ sẽ đi Bắc Kinh vào thứ Hai.

Các nhà phân tích ở Trung Quốc nói rằng các vụ tranh chấp lãnh thổ có phần chắc sẽ được nêu lên trong chuyến đến thăm của Bộ trưởng Hagel, cũng như vấn đề hợp tác quân sự và các biện pháp đối phó với Bắc Triều Triều Tiên
 
 Mỹ-Trung cáo buộc nhau gây căng thẳng tại Châu Á 
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel (T) và người đồng nhiệm Trung Quốc Thường Vạn Hoa (Chang Wanquan) trong cuộc họp báo tại trụ sở Bộ Quốc phòng Trung Quốc, Bắc Kinh, 08/04/2014.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel (T) và người đồng nhiệm Trung Quốc Thường Vạn Hoa (Chang Wanquan) trong cuộc họp báo tại trụ sở Bộ Quốc phòng Trung Quốc, Bắc Kinh, 08/04/2014.
REUTERS/Alex Wong/Pool

Đức Tâm
Chuyến công du Bắc Kinh của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel làm lộ rõ các bất đồng giữa hai nước, như hồ sơ tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông và Biển Hoa Đông, mối đe dọa đến từ Bắc Triều Tiên, tội phạm tin tặc. Điểm đáng chú ý là trong các cuộc gặp cấp cao, hai bên đã cáo buộc lẫn nhau phải chịu trách nhiệm về việc gây ra tình hình căng thẳng trong khu vực Châu Á.

Từ Bắc Kinh, thông tín viên RFI Heike Schmidt tường trình :
« Chuyến đi tham quan hàng không mẫu hạm Liêu Ninh, dành riêng cho Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ là khúc dạo đầu êm dịu. Phần trao đổi tiếp theo giữa Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Thường Vạn Hoa và đồng nhiệm Hoa Kỳ thì kém hữu nghị hơn.

Như đã từng tuyên bố tại Nhật Bản, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đã chỉ trích mạnh mẽ thái độ hiếu chiến của Trung Quốc trong hồ sơ tranh chấp quần đảo Senkaku, hiện do Tokyo quản lý, nhưng Bắc Kinh khẳng định có chủ quyền và gọi là Điếu Ngư.

Tháng 11 năm ngoái, Trung Quốc đã dấy lên sự phẫn nộ của Nhật Bản và Hoa Kỳ khi đơn phương thiết lập một vùng nhận dạng phòng không ở biển Hoa Đông, bao gồm cả không phận vùng quần đảo Senkaku/ Điếu Ngư. Mọi quốc gia đều có quyền thành lập vùng nhận dạng phòng không, nhưng không có quyền đơn phương làm việc này mà không tham khảo các nước liên quan. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã nhấn mạnh như vậy trước mặt đồng nhiệm Trung Quốc và ông cảnh báo nguy cơ hiểu nhầm có thể dẫn tới một cuộc xung đột nguy hiểm.

Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc lạnh lùng đáp lại một cách cộc lốc như sau: Quân đội vũ trang Trung Quốc luôn luôn cảnh giác và đủ khả năng giành chiến thắng.

Với vẻ mặt căng thẳng, không cười, hai Bộ trưởng bắt tay nhau, đồng thời vẫn bày tỏ mong muốn hai bên sẽ thiết lập đối thoại thường xuyên ».
tags: An ninh - Châu Á - Hoa Kỳ - Mỹ - Quốc tế - Trung Quốc
  Ukraine dọa 'đáp ứng mạnh' ở miền đông
Dân chúng tụ tập trước một hàng rào chướng ngại dựng trước tòa nhà chính quyền ở Donetsk Ukraine, 9/4/14
Dân chúng tụ tập trước một hàng rào chướng ngại dựng trước tòa nhà chính quyền ở Donetsk Ukraine, 9/4/14
CỠ CHỮ
Hôm thứ Tư, chính phủ Ukraine đã đe dọa sử dụng võ lực chống lại những người hoạt động thân Nga, những người đã chiếm một tòa nhà của cơ quan an ninh tại thành phố Luhansk ở miền đông. Thông tín viên đài VOA Al Pessin tường thuật rằng cũng có những dấu hiệu là vụ giằng co này có thể được giải quyết một cách ôn hòa và những căng thẳng quốc tế liên quan tới vấn đề Ukraine cũng có thể được nới lỏng.

Bộ trưởng Nội vụ Ukraine Arsen Avakov nói rằng lực lượng của ông đang tham gia một “cuộc hành quân chống khủng bố” tại miền đông Ukraine, và rằng các phần tử tranh đấu bạo động thân Nga muốn xung đột sẽ có “một đáp ứng mạnh mẽ.”

Nhưng vị bộ trưởng này cũng nói rằng hãy còn thời gian cho đối thoại. Ông tiên đoán rằng tình hình tại Luhansk sẽ được giải quyết trong vòng 48 giờ.

Lực lượng bên trong cơ quan an ninh của thành phố này đã có được nguồn tiếp tế súng và lựu đạn. Lực lượng này được yểm trợ bởi hằng trăm người biểu tình bên ngoài, canh giữ hàng rào bánh xe, bao cát, thùng gỗ ngày càng gia tăng và được trang bị với bom lửa.

Đã có tin về các cuộc đàm phán được tiến hành và các phần tử tranh đấu đã để 50 người rời khỏi tòa nhà này. Chính phủ nói rằng họ là các con tin. Các phần tử tranh đấu thì nói rằng họ là những người biểu tình muốn trở về nhà.

Một người cầm đầu cuộc biểu tình kêu gọi Tổng thống Putin giúp đỡ.

Người đàn ông này, chỉ xưng tên là Vitaly, cho biết ông ta là người chỉ huy cuộc biểu tình này, và nói rằng nếu những nỗ lực để chấm dứt cuộc khủng hoảng này thất bại thì ông muốn có sự giúp đỡ từ Nga.

Hoa Kỳ và NATO đã cảnh cáo chống lại sự can thiệp của Nga thêm nữa tại Ukraine sau khi nước này sáp nhập bán đảo Crimea trong vùng. Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry đã tố cáo “những kẻ khiêu khích và nhân viên tình báo Nga” là khuấy động một loạt các cuộc biểu tình mới đây tại nhiều thành phố ở miền đông Ukraine.

Khu vực này ở gần biên giới Nga và có một số dân đáng kể người sắc tộc Nga. Nga đã thực hiện một cuộc tập trận tại khu vực biên giới về phía lãnh thổ nước họ, với một số đông binh sĩ mà các chuyên gia quân sự phương Tây nói là có thể dễ dàng trở thành một lực lượng xâm lăng.

Các giới chức phương Tây đã nói rằng họ sẽ gia tăng các biện pháp trừng phạt kinh tế và ngoại giao nhắm vào Nga nếu nước này gởi binh sĩ tới niền đông Ukraine.

Nhưng hôm thứ Tư, phát ngôn nhân bộ ngoại giao Nga nói, “Hoa Kỳ và Ukraine không có lý do gì để lo ngại.”

Đồng thời, có những dấu hiệu là căng thẳng tại địa phương và quốc tế có thể được nới lỏng trong tuần này khi Ngoại trưởng Kerry gặp các giới chức tương nhiệm của Nga và Ukraine. Kế hoạch được loan báo hôm thứ Tư có thể đặc biệt đáng kể bởi vì Nga đã từ chối không gặp các giới chức cao cấp của chính phủ lâm thời Ukraine kể từ khi xảy ra vụ lật đổ cựu Tổng thống thân Nga của nước này hồi tháng Hai.

Cũng hôm thứ Tư, Liên Hiệp Châu Âu đã tạo ra một tổ chức được gọi là “nhóm ủng hộ” cho Ukraine để cung cấp trợ giúp tài chánh, kỹ thuật, và chính trị cho nước này.

Chủ tịch Ủy hội Châu Âu, ông Jose Manuel Barroso, nói rằng hành động này là bằng chứng của việc “Liên Hiệp Châu Âu ủng hộ Ukraine.”

Thủ tướng chính phủ lâm thời Ukraine đã ký những phần nòi về chính trị trong một hiệp định với Liên Hiệp Châu Âu, và dành các tiết đoạn về kinh tế cho chính phủ sẽ được bầu trong tương lai.

Đây là hiệp định mà cựu Tổng thống Ukraine đã từ chối không ký, gây ra những cuộc biểu tình dẫn tới việc lật đổ ông qua một cuộc biểu quyết tại quốc hội sau nhiều tuần lễ biểu tình đông đảo trên đường phố, và một vụ trấn áp bạo động nhắm vào lại người biểu tình.
http://www.voatiengviet.com/content/ukraine-doa-dap-ung-manh-o-mien-dong/1889813.html

 Mỹ tố cáo Nga gây bất ổn cho Ukraine
Người biểu tình thân Nga dựng rào chắn phòng thủ trước một tòa nhà chính quyền ở Donetsk, Ukraine 8/4/14
Người biểu tình thân Nga dựng rào chắn phòng thủ trước một tòa nhà chính quyền ở Donetsk, Ukraine 8/4/14
CỠ CHỮ
Các nước Tây phương đang ra sức tìm hiểu xem bước kế tiếp của Nga là gì sau khi Moscow thôn tính bán đảo Crimea của Ukraine. Cả Hoa Kỳ lẫn Anh Quốc đã bày tỏ quan tâm về việc Nga tăng cường lực lượng quân sự dọc theo biên giới Ukraine trong lúc căng thẳng trên chính trường Ukraine tiếp tục gia tăng trước cuộc bầu cử Tổng thống ngày 25 tháng 5. Mời quí vị theo dõi thêm chi tiết qua bài tường thuật do thông tín viên Mary Motta của đài VOA gởi về từ London.

Binh sĩ Nga đang tìm cách gây bất ổn cho Ukraine. Đó là tố cáo mà các giới chức Mỹ và Anh đưa ra trong vài ngày qua.

Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov đã nhanh chóng bác bỏ tố cáo đó.

"Chúng tôi tin tưởng một cách mạnh mẽ, và cho tới nay chưa ai thách thức sự tin tưởng này, là tình hình không thể lắng dịu và chuyển đổi thành một cuộc đối thoại toàn dân nếu giới hữu trách Ukraine tiếp tục làm ngơ những quyền lợi của các khu vực ở miền đông nam nước này."

Moscow giờ đây đã bố trí hàng vạn binh sĩ dọc theo biên giới miền đông Ukraine; và mặc dù nhất mực tuyên bố không có ý định xâm lăng, chính phủ Nga cho biết họ có quyền hành động để bảo vệ cho những người gốc Nga ở Ukraine.

Bà Irina Tymczyszyn, một nhà phân tích chính trị người Ukraine ở London, cho biết mục tiêu của Moscow là thâu tóm Ukraine.

"Sách lược của Nga rõ ràng là nhắm tới mục tiêu phục hồi Liên bang Xô viết - trở lại với tình trạng trước khi bị sụp đổ, trước năm 1991, và có thể còn nhiều hơn nữa. Tôi nghĩ rằng ông Putin tự xem mình là người đi thu góp đất đai của nước Nga, và có điều không may là nước Nga đối với ông ấy có nghĩa là những nước như Ukraine, bởi vì cho tới nay Nga vẫn không công nhận Ukraine là một quốc gia riêng biệt."

Tại thủ đô Kyiv của Ukraine, một cuộc họp giữa quốc hội và các đại biểu của Đảng Cộng Sản đã kết thúc bằng một vụ ẩu đả, nêu bật tình trạng căng thẳng cao độ bên trong biên giới Ukraine.

Quyền Tổng thống Ukraine Oleksandr Turchnyov tố cáo Nga gây bất ổn cho nước ông.

"Những hành vi khiêu khích có phối hợp và được hoạch định trước chống lại đất nước chúng ta đã bắt đầu. Việc này được tổ chức bởi các cơ quan tình báo ở Liên bang Nga."

Nhưng người đứng đầu Đảng Cộng Sản Ukraine, ông Petro Symonenko, đã bác bỏ ý kiến đó. Ông nói rằng bất ổn phát sinh từ việc các giới chức Ukraine đã không hành động để đáp ứng nhu cầu của người dân.

"Điều quan trọng nhất là tìm câu trả lời cho câu hỏi là giới hữu trách Ukraine thật ra đã làm gì để ngăn chận những sự việc như vậy. Chúng ta nên bắt đầu bằng cách phân tích những đòi hỏi của người dân, của những người vẫn là người dân Ukraine, sinh sống ở Luhansk, Donestsk và những khu vực khác. Những người đó họ đòi hỏi những gì khi họ xuống đường và những quyền lợi nào mà họ muốn bảo vệ?"

Các cư dân tại thành phố điểm nóng Kharkiv ở miền đông Ukraine tiếp tục có quan điểm khác nhau về những hành động của Nga.

Một người tham gia cuộc biểu tình ở thành phố này để đòi tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý tương tự như cuộc trưng cầu dân ý ở Crimea phát biểu như sau.

"Chúng tôi đòi hỏi một cuộc trưng cầu dân ý. Và bọn côn đồ đang họp ở quốc hội không thể áp đặt ý kiến của họ lên người dân chúng tôi."

Một cư dân khác ở Kharkhiv, ông Vladlen, cho rằng Moscow đang hành động vì quyền lợi của chính nước Nga.

"Tình hình căng thẳng ở Kharkiv đang leo thang chỉ vì phía Nga. Nga muốn lấy lại quyền kiểm soát Kharkiv, Donetsk và Luhansk vì điều đó phù hợp với lợi ích của họ."

Nhà phân tích Irina Tymczyszyn tán đồng nhận định của ông Vladlen. Bà nói thêm như sau.

"Vào lúc này Tây phương đang đánh đi một tín hiệu không rõ ràng. Họ chỉ bày tỏ sự thất vọng một cách lặng lẽ đối với những hành động của ông Putin. Đối với ông ta, điều này có nghĩa là ông ta có thể tiến tới và làm những gì mà ông ta muốn làm bởi vì ông ta không cảm thấy phản ứng của Tây phương đủ mạnh để gây thiệt hại cho ông ta."

Trong khi đó, dân chúng Ukraine đang chuẩn bị cho cuộc bầu cử Tổng thống vào ngày 25 tháng 5. Các nhà quan sát cho rằng đối với người giành được đắc cử, chiến thắng đó chỉ đánh dấu sự mở màn của những thách thức vô cùng to lớn mà nhà lãnh đạo sắp tới của Ukraine phải đối mặt.

 Khủng hoảng Ukraina có thể buộc Mỹ xét lại sự hiện diện quân sự ở Châu Âu
Tổng thống Barack Obama phát biểu về khủng hoảng Ukraina tại Nhà Trắng, Washington, 17/03/2014.
Tổng thống Barack Obama phát biểu về khủng hoảng Ukraina tại Nhà Trắng, Washington, 17/03/2014.
REUTERS/Kevin Lamarque

Đức Tâm
Các hoạt động quân sự của Nga tại bán đảo Crimée có thể dẫn đến việc xem xét lại sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ ở Châu Âu. Đó là tuyên bố của ông Derek Chollet, phụ trách các vấn đề an ninh quốc tế của Bộ Quốc phòng Mỹ.

Phát biểu tại tiểu ban quân lực của Hạ viện, ngày hôm qua, 08/04/2014, ông Chollet cho rằng, « các hành động quân sự của Nga tại Châu Âu và vùng Trung Á có thể dẫn đến việc Hoa Kỳ xem xét lại các lực lượng quân sự và nhu cầu của mình trong việc triển khai, tập trận và huấn luyện trong khu vực ». Tuy nhiên, quan chức này nói rõ là Washington « không tìm cách đối đầu » với Matxcơva.
Sự hiện diện quân sự của Mỹ tại Châu Âu đã giảm mạnh từ hai thập niên qua. Hiện nay, có 67 000 binh sĩ Mỹ đồn trú ở Châu Âu, chủ yếu tại Đức, với 40 000 quân, ở Ý có 11 000 và Anh là 9500. Vào cuối năm 1991, khi Liên Xô sụp đổ, Hoa Kỳ có tới 285 000 quân tại châu lục này.
Đại diện Bộ Quốc phòng Mỹ không cho biết việc xem xét lại kế hoạch triển khai lực lượng quân sự ở Châu Âu sẽ ra sao, nhưng hiện nay, Washington đang phải đối mặt với các cắt giảm mạnh về ngân sách quốc phòng, cùng lúc phải tái bố trí một phần lực lượng sang khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, trong khuôn khổ chiến lược « xoay trục » sang khu vực này, được coi là nền tảng trong chính sách đối ngoại của Tổng thống Barack Obama.
Sau khi tố cáo Nga can thiệp quân sự bất hợp pháp vào Ukraina, ông Chollet nhận định rằng hành động của Matxcơva đã làm thay đổi « cảnh quan an ninh tại Châu Âu » và gây ra mất ổn định trong khu vực biên giới của Liên minh Bắc Đại Tây Dương – NATO.
Để trấn an các nước Đông Âu, thành viên NATO, Hoa Kỳ đã cho triển khai thêm 6 máy bay tiêm kích ném bom F-15 tại các nước Bal-tic, điều 12 máy bay F-16 và 3 máy bay vận tải sang Ba Lan. Trong những ngày tới, khu trục hạm phóng tên lửa USS Donald Cook sẽ có mặt tại biển Đen.
Đại diện Bộ Quốc phòng Mỹ cảnh báo, việc những người biểu tình thân Nga chiếm giữ các trụ sở chính quyền Donetsk và Kharkov, ở miền đông Ukraina, « rất đáng quan ngại » và đây không phải là những cuộc biểu tình tự phát. Hành động của Nga tại miền đông Ukraina « rõ ràng là một sự leo thang rất nghiêm trọng ». Thế nhưng, áp lực của Matxcơva không dừng lại tại Ukraina và có tác động đến các lãnh thổ lân cận : Quân đội Nga có mặt tại Moldova. Lực lượng này, về lý thuyết đảm trách duy trì hòa bình, sẽ ủng hộ vùng Transnistria ly khai.
Hoa Kỳ lo ngại về tình hình an ninh tại Châu Âu trong bối cảnh Liên minh Bắc Đại Tây Dương tỏ ra bất lực và kém hiệu quả. Hôm qua, sau cuộc gặp với Tổng thống Pháp François Hollande, tại Paris, Tổng thư ký NATO, ông Anders Fogh Rasmussen cho biết : « Chúng tôi không thảo luận giải pháp quân sự, nhưng nếu Nga tiếp tục can thiệp vào Ukraina, tôi dự tính là các trừng phạt kinh tế sẽ được đưa ra nhắm vào Matxcơva ».
Cuộc khủng hoảng Ukraina buộc Liên minh phải thúc đẩy nhanh cải cách, tích cực chuẩn bị cho kế hoạch phòng thủ chung trong tương lai, cụ thể là khả năng phối hợp tác chiến tốt hơn giữa quân đội của 28 thành viên và củng cố khả năng hợp tác trong lĩnh vực tình báo, phòng thủ tên lửa, kiểm soát không phận và vận tải hàng không. Tổng thư ký NATO cũng hối thúc các thành viên gia tăng sách quốc phòng, để duy trì bộ máy quân sự có hiệu quả. Thế nhưng, cuối cùng, lãnh đạo NATO vẫn đưa ra kết luận thể hiện sự trông cậy của Liên minh vào Hoa Kỳ : Căng thẳng với Nga cho thấy cam kết rất rõ ràng của Mỹ đối với an ninh tại Châu Âu.
Trong thời gian qua, tại Mỹ, có nhiều tiếng nói kêu gọi chính quyền Obama chú trọng hơn đến việc bảo đảm an ninh cho Châu Âu, đồng minh truyền thống của Hoa Kỳ.
  
Những gì cản trở tiềm lực Việt Nam?
Vũ Hoàng & Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA
2014-04-09
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này

 Báo cáo về tình hình kinh tế Đông Á Thái Bình Dương do Ngân hàng Thế giới vừa công bố hôm Thứ Hai mùng bảy tại Singapore có một số lượng định rất đáng chú ý về những trở ngại khiến kinh tế Việt Nam chưa đạt hết tiềm lực của mình. Những trở ngại ấy là gì, Vũ Hoàng nêu câu hỏi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa trong tiết mục chuyên đề hàng tuần như sau:
Ảnh minh họa chụp một con đường ven sông Sài Gòn, hướng về trung tâm TPHCM hôm 19/11/2013.
AFP

 Những bất trắc toàn cầu
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, Ngân hàng Thế giới vừa công bố một báo cáo định kỳ về tình hình kinh tế của các nước thuộc khu vực Đông Á Thái Bình Dương, trong đó có phần lượng định về những thành tựu và nhiều mặt tiêu cực của kinh tế Việt Nam. Chúng tôi xin đề nghị ông lược duyệt cho tài liệu này và nhấn mạnh đến những khuyến cáo dành cho Việt Nam. Trước tiên thưa ông nội dung tổng quát của báo cáo đó là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước hết là sự lạc quan của Ngân hàng Thế giới về triển vọng hồi phục của kinh tế toàn cầu, do bốn yếu tố. Đó là lực đẩy của các nền kinh tế công nghiệp hóa, với bất trắc về chính sách đã giảm, yêu cầu chấn chỉnh ngân sách bớt khắt khe và sự nhờ sự năng động mới của khu vực tư nhân. Trong bối cảnh đó, sản lượng kinh tế thế giới từ năm nay qua năm 2016 sẽ tăng từ 3 đến 3,4%, với đà tăng trưởng cao hơn của khối công nghiệp hoá từ 2,1 lên 2,4%, và của các nước đang phát triển sẽ tăng từ 5% lên 5,6%. Đó là vài con số về đại thể.
Kinh tế có ổn định hơn với lạm phát dưới 7% so với trên 9% hay 18% vào năm 2011 và tỷ giá đồng bạc so với đô la vẫn ở mức cũ chứ khỏi sa sút thêm.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Trong khối đang phát triển, thì các nước Đông Á Thái Bình Dương, mà tôi xin được gọi tắt là Thái-Á cho gọn, sẽ có mức tăng trưởng 7,1%, tức là cao nhất trong các nước thuộc loại mới nổi của toàn cầu. Trong nhóm Thái-Á đang lên, thì ta chú ý nhất tới Trung Quốc và 10 nước của Hiệp hội ASEAN.
Ngân hàng Thế giới có vẻ lạc quan về khả năng cải cách sắp tới của Trung Quốc, và dự đoán tốc độ dù có chậm hơn thì cũng ở khoảng 7,5 hay 7,6% trong vài năm tới. Riêng về khối ASEAN có 600 triệu dân thì định chế này phân biệt bốn nền kinh tế lớn là Indonesia, Philippines, Thái Lan và Malaysia với các nền kinh tế nhỏ hơn hay yếu hơn. Việt Nam thuộc loại nhỏ yếu đó và ở trong nhóm quốc gia thuộc tiểu vùng Mekong, cùng Miến Điện, Lào, và Cam Bốt. Để dành thời lượng cho Việt Nam, tôi xin khỏi nhắc đến phần hai của phúc trình cập nhật này với ba đề tài khác, trong đó có một tiểu luận nức nở ngợi ca ý chí và khả năng chuyển hướng của Trung Quốc.
Vũ Hoàng: Thưa ông, riêng về Việt Nam, thì Ngân hàng Thế giới là định chế tài chính quốc tế chuyên yểm trợ các nước đang phát triển đã có những lượng định gì là đáng chú ý?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Cũng lại ngợi khen và cảnh báo. Về đại thể, năm qua kinh tế Việt Nam có cải thiện so với một hai năm trước, mà vẫn thấp hơn tiềm lực vì ba lý do là vấn đề cơ cấu trong lĩnh vực quốc doanh và ngân hàng, là lệch lạc chính sách gây trở ngại cho đầu tư của tư nhân và cho sức cạnh tranh trong nhiều khu vực then chốt. Năm qua kinh tế xứ này có tăng chút đỉnh, qua năm nay e rằng vẫn cứ như vậy, ở khoảng 5,4 tới 5,5%, nếu không xử lý các vấn đề nói trên. Ngoài ra, có lẽ cũng phải nói tới một trở ngại khác cho Việt Nam là những bất trắc toàn cầu.

000_Hkg9537856-250.jpg

Công trình xây dựng đường xe điện trên cao (sky train) tại trung tâm thành phố Hà Nội hôm 26 tháng 2 năm 2014. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam.
Vũ Hoàng: Như vậy thì Ngân hàng Thế giới cho rằng năm 2013, tình hình kinh tế Việt Nam có khá hơn 2011 và 2012, mà thưa ông khá hơn như thế nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa:Trước hết là kinh tế có ổn định hơn với lạm phát dưới 7% so với trên 9% hay 18% vào năm 2011 và tỷ giá đồng bạc so với đô la vẫn ở mức cũ chứ khỏi sa sút thêm. Kế đó là xuất khẩu có tăng vào thị trường công nghiệp hoá nhờ ngành thâm dụng nhân công như áo quần, giày dép, bàn ghế và mới nhất là nhờ loại sản phẩm có trình độ công nghệ và trị giá đóng góp cao hơn, như điện thoại di động, phụ tùng điện tử, và cả cơ phận xe hơi. Sức xuất cảng đó chủ yếu đến từ khu vực đầu tư nước ngoài, tức là Việt Nam làm gia công và được nước ngoài mở thị trường bán hàng qua đó. Nhờ các yếu tố tích cực này, cán cán thương mại có cải thiện và cán cân vãng lai đã từ thâm hụt nặng năm 2008 nay đạt được thặng dư. Nhưng báo cáo của Ngân hàng Thế giới cũng nhắc là số thặng dư ấy sẽ giảm khi nhập khẩu tăng theo đà phục hồi kinh tế.

Cảnh báo kinh tế Việt Nam

Vũ Hoàng: Bây giờ, bước qua phần cảnh báo về những trở ngại khiến kinh tế Việt Nam không thể hiện được tiềm lực của mình, thưa ông, Ngân hàng Thế giới đã khuyến cáo những gì trong bản báo cáo vừa qua?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nếu nhìn vào tiềm năng thực tế thì đáng lẽ Việt Nam phải đứng bên các nền kinh tế lớn của khối ASEAN là Indonesia, Malaysia, Philippines, hay Thái Lan. Sự thật bẽ bàng là sức tăng trưởng bền vững của Việt Nam vẫn bị cản trở vì tốc độ cải cách quá chậm. Ngân hàng Thế giới nêu ra năm nhược điểm sau đây. Thứ nhất, số cầu trong thị trường nội địa vẫn yếu vì khu vực tư doanh mất niềm tin, một từ khá lịch sự của họ để nói về tình trạng chật vật của doanh nghiệp tư nhân. Thứ hai là mức nợ quá lớn của hệ thống doanh nghiệp nhà nước. Thứ ba là phần vốn quá mỏng của ngân hàng. Thứ tư là sự co cụm của khu vực ngân sách nhà nước. Về mặt cung thì tình hình còn đáng ngại hơn do khả năng cạnh tranh kém của Việt Nam nếu so với các nền kinh tế có cùng kích thước và trình độ, cụ thể là các nước ASEAN nói trên.
Muốn giải trừ những yếu kém ấy để có đà tăng trưởng mạnh hơn trong trung hạn, Ngân hàng Thế giới cho là Việt Nam cần lại chú ý, tôi nhấn mạnh vào chữ "lại", đến một số cải cách về cơ cấu. Và phải đặt trọng tâm vào ba lĩnh vực, là tái cấu trúc hay chấn chỉnh các 1) ngân hàng, 2) doanh nghiệp nhà nước, và 3) tháo gỡ những rào cản cho nguồn đầu tư của tư nhân ở trong nước.
Vũ Hoàng: Thưa ông, báo chí ở trong nước có nói đến một vấn đề được đại diện của Ngân hàng Thế giới nhắc tới là những khoản nợ xấu của hệ thống ngân hàng như sự tắc nghẽn khiến kinh tế Việt Nam không đạt tiềm năng của mình.
Phải đặt trọng tâm vào ba lĩnh vực, là tái cấu trúc hay chấn chỉnh các: ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước và tháo gỡ những rào cản cho nguồn đầu tư của tư nhân ở trong nước.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi mừng là báo chí có tường thuật khuyến cáo của giới hữu trách thuộc Ngân hàng Thế giới về những khoản nợ không sinh lời, khó đòi và sẽ mất. Họ cũng nói về số liệu mơ hồ của núi nợ, nhiều ít thế nào thì chưa ai rõ, và còn nêu nghi vấn về khả năng giải quyết của Công ty Quản lý Tài sản VAMC được lập ra năm ngoái. Trong phúc trình, Ngân hàng Thế giới cho là cơ quan này thiếu phương tiện đắp vốn cho ngân hàng và có tiến độ chấn chỉnh quá chậm. Họ cảnh báo về các vấn đề phá sản, vỡ nợ và việc bảo vệ chủ nợ như những chướng ngại cần khai thông để tái cấu trúc khoản nợ của doanh nghiệp.
Trong phạm vi tài chính công quyền đó, ta còn thấy ra khả năng xoay trở rất hẹp của lãnh đạo kinh tế Việt Nam vì giới hạn của ngân sách. Thứ nhất, tiêu chí về bội chi ngân sách năm 2013 đã được nâng từ 4,8% lên tới 5,3% Tổng sản lượng GDP, tức là cao gấp bội so với chỉ tiêu 4,5%. Lý do bội chi ở đây là thất thu về thuế khóa do việc giảm thuế doanh nghiệp để kích thích sản xuất. Việc cải tổ tài chính công, trong đó thuế khóa phải tăng và các khoản công chi phải giảm, là một sự thúc bách khó xử. Nếu kết hợp thêm loại nợ nước ngoài thì ta mới thấy ra vấn đề về dài.
Vũ Hoàng: Thưa ông vấn đề về dài ấy là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Từ 20 năm nay, Việt Nam được quốc tế cho vay theo tinh thần viện trợ, với điều kiện ưu đãi, cụ thể là lãi suất hạ, thời gian ân hạn là chỉ trả tiền lời chưa phải trả vốn cao hơn, được vay dài hạn hơn. Nhưng khi lợi tức quốc dân đã tăng thì loại tín dụng có tính chất nâng đỡ ấy phải giảm, khiến nhà nước và cơ quan được nhà nước bảo lãnh để vay tiền bên ngoài sẽ càng ít hơn. Khi ấy, nếu cần vay thì phải phát hành trái phiếu trong thị trường tín dụng nội địa. Khác với tín dụng viện trợ, tín dụng nội địa thường đòi tiền lãi cao hơn trong hạn kỳ ngắn hơn. Tức là Việt Nam phải rà lại chính sách công trái, vì việc vay nợ của công quyền từ nay sẽ đắt hơn và khắt khe hơn.
Khi kết hợp hai chuyện là nợ xấu đã vay mà sẽ mất và các khoản vay mượn của nhà nước sẽ đắt hơn sau này, ta thấy ra một sự éo le. Trong giai đoạn quá lâu, được vay tiền quá dễ, nhà nước Việt Nam đã chẳng lo xa mà để doanh nghiệp của mình vay tiền bừa phứa và chất lên một núi nợ sẽ sụp đổ. Khi phải kiện toàn tài chính, cụ thể là lập ra công ty tung tiền chuộc nợ, thì ngân sách nhà nước lại bị giới hạn vì thâm hụt quá cao. Trong tương lai, nhà nước bị bội chi mà đi vay thì sẽ trả tiền lời nhiều hơn và nhu cầu vay mượn đó cũng khiến tư doanh khó vay hơn, phải trả lãi đắt hơn. Tức là nhà nước làm bậy mà đầu tư của tư nhân bị thiệt và kinh tế lại gặp chướng ngại.
Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối cho đề tài hấp dẫn này, thưa ông, bản báo cáo vừa rồi của Ngân hàng Thế giới có lời khuyên gì cho Việt Nam ngay trong giai đoạn tới hay chăng?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ngay năm nay, Việt Nam cần thuyết phục thị trường về quyết tâm sửa sai bằng cách đẩy mạnh việc cải cách doanh nghiệp nhà nước. Việc thiết thực là giải tư, tức là bán lại, những tài sản không thuộc khu vực chủ đạo then chốt của hệ thống kinh tế nhà nước, và cổ phần hoá, tức là tư nhân hóa, một số lớn các cơ sở quốc doanh. Song song, Việt Nam phải thanh toán núi nợ xấu của hệ thống ngân hàng dù rằng đấy là việc tốn kém và phức tạp.
Sau khi ca ngợi Việt Nam đã có chút ổn định vĩ mô, Ngân hàng Thế giới cho rằng những tiến bộ ấy vẫn còn bấp bênh và kinh tế xứ này còn gặp nhiều rủi ro. Rủi ro lớn nhất là giảm đà cải cách khiến kinh tế tăng trưởng chậm hơn, và gây thêm gánh nặng cho ngân sách trong trường kỳ.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.

HÌNH ẢNH THỜI BAO CẤP



Ảnh Hiếm Về Mậu Dịch Thời Bao Cấp ở Việt Nam


Ảnh Hiếm Về Mậu Dịch Thời Bao Cấp ở Việt Nam
Những hình ảnh về một giai đoạn mà đời sống sinh hoạt, kinh tế, xã hội diễn ra đã cách đây vài chục năm. Lúc đó, hàng hóa được nhà nước phân phối theo chế độ tem phiếu, chưa được mua bán tự do trên thị trường, người dân chưa được phép vận chuyển hàng từ địa phương này sang địa phương khác.
Đọc bài và xem những hình ảnh này người ta càng thấy rõ thêm lý do khiến Cộng Sản miền Bắc phải tìm đủ mọi âm mưu, áp dụng mọi thủ đoạn — từ lừa dối quốc tế, lừa dối người dân miền Bắc, ” nướng thịt ” hàng triệu thanh niên miền Bắc — để chiếm cứ miền Nam trù phú. Chỉ có xâm chiếm miền Nam mới giải thoát được miền Bắc khỏi nạn đói kém triền miên. Và Cộng sản đã làm đúng như vậy. Oái ăm thay, sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, chỉ lãnh tụ đảng, lãnh tụ chính quyền, cán bộ cao cấp là no say !! Đại đa số dân chúng miền Bắc vẫn đói !!!
 



























Tuesday, April 8, 2014


SƠN TRUNG * NGA VÀ UKRAINE



                                         SƠN TRUNG * NGA VÀ UKRAINE

 Trong việc Nga chiến Crimé, nhiều người cho rằng Nga đã thắng lợi, làm cho Mỹ và Âu châu phải chào thua Putin. Họ coi như Putin là bậc anh hùng bách chiến bách thắng, là đồng chí của Stalin, còn Mỹ chỉ là cọp giấy. Họ cho rằng Putin đã khôn ngoan cho Edward Snowden tiềm phục trong tình báo Mỹ và thu thập nhiều tài liệu mật của Mỹ cho biết Mỹ yếu xìu, kinh tế khủng hoảng, quân sự lạc hậu cho nên Nga thẳng tay tấn công Crimé rồi sẽ chiếm Ukraine và các xứ Đông Âu để tái lập Liên bang Sô Viết cũ. Hành động này cho biết thế giới sẽ biến động và thế chiến có mòi sẽ bùng nổ nay mai. Và hành động này cũng báo cho thế giới biết trục Nga Hoa sẽ tổng phản công như thời đệ nhị thế chiến.

Nên nhớ đầu năm 2013, sau khi đăng quang, việc đầu tiên là Tập Cận Bình sang Mạc tư khoa và đi châu Phi. Nay Putin đã xuất binh, rồi đây sẽ đến lượt Trung Công đại tấn công. Việt Nam đã bị xâm chiếm nhẹ nhàng bằng các cuộc tấn công kinh tế và di dân các tỉnh Trung Nguyên, Hà Tĩnh, Bình Dương, Quảng Trị, Nha Trang, Đà Nẵng... Nhưng còn một việc chưa yên là năm 2016 là đại hội 12 của Việt cộng, nếu phe thân Trung cộng không thắng thế thì bọn chân tay Bác kinh sẽ nổi dậy hoặc là đại binh Tôn Sĩ Nghi sẽ nam chinh. Đây cũng là lúc Nga Hoa phải phối hợp nhịp nhàng để cho Âu Mỹ phải quy hàng, đồng thời giải quyết vấn đề Đông Nam Á và Ấn Độ Dương để tiến tới xâm chiếm thế giới. Nga sẽ chiếm Âu Mỹ, Trung cộng sẽ lãnh phần Á Phi.

Nhưng vấn đề cũng không phải đơn giản và rõ ràng như nhiều người tưởng. Trong vấn đề Edward Snowden, Mỹ bị phản bội, bị tiết lộ bí mật quốc gia hay chính Nga đã mắc mưu Mỹ? Nên nhớ rằng chính các ông Vũ Ngọc Nhạ và cụm tình báo A 22 tại dinh Độc Lập là do Mỹ đào tạo, do Mỹ và các linh mục đưa vào dinh Độc Lập chứ không phải do tài thăng thiên độn thổ của Việt cộng. Tại sao Mỹ làm như thế? Câu hỏi này khó mà cũng dễ trả lời trừ khi ai đó đã tin rằng Mỹ ngu dại, và đảng ta bách chiến bách thắng, và người cộng sản trí tuệ siêu việt nhất hành tinh.


Bây giờ Nga đã nắm Crimé và sắp tiến tới xơi tái Ukraine. Cũng như dân Việt nam trước đây, một số tin tưởng Nga Tàu, một số quay sang nhờ Mỹ, dân Ukraine cũng sẽ chia đôi, một số thích mùi cộng sản, một số sợ cộng sản phải cầu cứu Âu Mỹ. Cuộc nội chiến sẽ xảy ra. Dân Ukraine với Nga có mối thù truyền kiếp. Những người Ukraine yêu nước sẽ chống lại cuộc xâm lược của Nga. Nga vốn là một nước to lớn, có sẵn kho vũ khí từ thời Stalin nhưng kinh tế vẫn là một nước chưa phát triển. Lâm chiến tranh, Nga sẽ khốn đốn. Chính tham vọng của Putin, của nước Nga đế quốc sẽ làm cho Nga kiệt quệ. Trung cộng cũng thế. Lâm chiến tranh, Trung cộng và Nga sẽ bị tiêu diệt. Đó chính là cơ hội cho Đông Âu và châu Á thoát khỏi bàn tay của đế quốc Nga và Trung Quốc.


 

NHIỀU TÁC GIẢ * NHẤT LINH



 NHẤT LINH
Vin Sơn Nguyn Tường Bách
                               pic_23.jpg
Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tường Tam là một nhà văn xuất chúng, lại là một chiến sĩ cách mạng lỗi lạc chống thực dân và chống Cộng Sản độc tài…
Anh sinh năm 1905, là người con thứ ba trong một gia đình 7 người, trong đó có Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Tường Cẩm (bị Việt Minh thủ tiêu năm 1947), Nguyễn Tường Long (tức Hoàng Đạo mất năm 1948 tại Quảng Đông), Nguyễn Thị Thế, Nguyễn Tường Lân (tức Thạch Lam), và tôi là con út, hiện còn sống sót.
Gia đình chúng tôi lúc đó tại một huyện lỵ nhỏ, huyện Cẩm Giàng, vì bố mất sớm, nhà rất nghèo, do mẹ và bà ruột tần tảo duy trì. Do gia cảnh, chúng tôi từ nhỏ được tiếp xúc với cảnh bùn lầy nước đọng, nghèo cùng cuả nông dân, ảnh hưởng đến suy nghĩ và viết văn sau này, với tính chất bình dân, vị tha, không ưa những thứ quyền qúy, trưởng giả, và ghét danh lợi, mấy đặc điểm cuả Tự Lực Văn Đoàn sau này.
Bà nội và mẹ chúng tôi đều là Phật tử chân thành. Những câu "Đời là bể khổ", "Cửa Phật từ bi" đã thấm vào đầu óc người Việt Nam. Có thể triết lý này đã có ảnh hưởng đến tình thương bàng bạc trong các tác phẩm cuả Nhất Linh, Thạch Lam.
Những mâu thuẫn trong các gia đình hồi đó gây ấn tượng không ít cho Nhất Linh, vì anh là người có phản ứng nhạy cảm nhất đối với hiện trạng và biến chuyển cuả xã hội. Anh là con người đi tiên phong trong suy nghĩ và trong hành động. Vì thế có thể nói anh là người đi trước thời đại, anh có nhiều sáng kiến, có óc sáng tạo và biết biến suy nghĩ thành hành động.
Một mặt, khác với nhiều người chỉ đi theo danh lợi cá nhân, anh hoạt động hoàn toàn vì lý tưởng, vì muốn làm cho xã hội tốt đẹp hơn, cho người dân sống được dễ chiụ hơn.
Muốn hiểu rõ Nguyễn Tường Tam, thiết tưởng cần phải nhận thức rằng vào thời đại đó, có ba trào lưu nổi bật trong xã hội Việt Nam. Thứ nhất là trào lưu dân tộc độc lập mà cao điểm là cuộc khởi nghĩaYên Bái, hai là trào lưu cải cách xã hội, đòi phê phán những truyền thống phong kiến bảo thủ và khắc nghiệt, đòi tự do phóng khoáng cho con người, ba là trào lưu cải cách văn học, rời bỏ những thứ giáo điều, gò bó, sáo rỗng, đi tới một nền văn nghệ tự nhiên, nhân đạo và trong sáng hơn.
Năm 1932, cùng một số anh em, anh sáng lập tờ báo Phong Hóa ó thể gọi là mở một thời kỳ mới trong văn học. Cùng với số nhà văn tài hoa, anh thành lập Tự Lực Văn Đoàn, đánh dấu sự phồn thịnh văn học. Năm 1935, tờ Ngày Nay được xuất bản. Năm 1936, anh khởi xướng Phong Trào Ánh Sáng xây dựng nhà rẻ tiền cho người nghèo.
Cùng với những hoạt động bận rộn trên, anh đã viết một số tiểu thuyết và truyện ngắn, mà tiêu biểu là cuốn "Đoạn Tuyệt", đều có giá trị văn chương và xã hội rất cao. Sức làm việc của anh khó có ai bì được.
Độc giả và các giới xã hội đều hoan nghênh cả các tác phẩm và hoạt động của anh.
Nhưng dù đã đạt tới điểm cao cuả danh vọng, anh cũng quyết tâm dấn mình vào cuộc đời cách mạng gian nan và đầy chông gai. Năm 1938, cùng với một số bạn hữu, anh thành lập đảng Đại Việt Dân Chính. Năm 1941, do Pháp khủng bố, anh phải chạy sang Trung Quốc, kết hợp với Việt Nam Quốc Dân Đảng, và hợp tác với cụ Nguyễn Hải Thần. Năm 1945, tháng 11, anh trở về Hà Nội, tổ chức hàng ngũ quốc gia chống lại Việt Minh Cộng Sản. Vì tình thế thúc đẩy, tháng 2 năm 46, anh giữ chức Bộ Trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Nhưng từ tháng 4-46, hai bên phá liệt, anh lại sang Trung Quốc, lưu vong một lần nữa.
Năm 1947, vì phản đối việc thoả hiệp với Pháp, anh ở lại HongKong cho tới 1951, vì sức khoẻ yếu, anh về nước, với dự tính chỉ hoạt động về văn học. Nhưng tới 1959, anh lại tham dự Mặt Trận Quốc Dân Đoàn Kết, chủ trương chống độc tài, xây dựng tự do dân chủ.
Việc này đưa đến kết cuộc bi thương là ngày 7-7-1963, anh uống thuốc ngủ tự sát, một ngày trước khi phải ra toà. Lúc đó, tôi ở ngoại quốc, nghe tin dữ, cũng chỉ biết khóc thầm cho người anh thân yêu, từ nay vĩnh biệt.
Cuộc đời thực là đặc biệt, thực là đầy đủ cuả một anh tài kiệt xuất của đất nước. Ít có một tài năng và có công lao toàn diện về cả mặt văn học cũng như cách mạng như Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Chúng ta có thể tự hào về đức tính và sự nghiệp của anh.
Song, những thất bại và đau thương của Nguyễn Tường Tam cũng phản ảnh thất bại và đau thương của dân tộc. Ngày nay, những đau thương thương đó vẫn còn, dưới chế độ chuyên chế độc đảng. Trong lúc kỷ niệm quá khứ, điều quan trọng nhất là cần phải gắng sáng tạo một tương lai mới, với sự đồng lòng nhất chí không phân biệt chủng tộc, địa phương, tôn giáo, già trẻ, để đấu tranh trong một vận hội mới của dân tộc.
Đó chính là cách kỷ niệm tốt nhất về Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và tất cả các vị tiền bối đã dấn thân và hy sinh cho đại cuộc.
Những nét đáng chú ý (1)
Năm 1933, Nhất Linh thành lập Tự Lực Văn Đoàn gồm có:
Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam)
Khái Hưng (Trần Khánh Giư), còn gọi là Nhị Linh
Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long)
Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân)
Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu)
Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ)
Sau này có thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu (em của Khái Hưng), Nguyễn Tường Mạnh một số nhà văn khác cộng tác chặt chẽ như: Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, Đoàn Phú Tứ.
Tác phẩm văn học gồm có:
Tiểu thuyết: Gánh hàng hoa (cùng Khái Hưng, 1934) Đời mưa gió (cùng Khái Hưng, 1934) Nắng thu (1934) Đoạn tuyệt (1934-1935) Lạnh lùng (1935-1936) Đôi bạn (1936-1937) Bướm trắng (1938-1939) Xóm cầu mới (1949-1957). Trường thiên, viết dở dang. Giòng sông Thanh Thủy (1960-1961). Trường thiên, tác phẩm cuối cùng, gồm ba tập: Ba người bộ hành, Chi bộ hai người , Vọng quốc.
Tập truyện: Nho phong (1924) Người quay tơ (1926) Anh phải sống (cùng Khái Hưng, 1932 - 1933) Đi Tây (1935) Hai buổi chiều vàng (1934-1937) Thế rồi một buổi chiều (1934-1937) Thương chồng (1961).
Tiểu luận: Viết và đọc tiểu thuyết (1952-1961)
           Trích từ
"Tự Lực Văn Đoàn: Nhất Linh"
http://www.xuquang.com/dialinhnk/   
           (1) http://dongtac.net/
 o0o


                              Hoài nim Nguyn Tường Tam

Hiếu Chân

Bài này trước đây (tháng 7 năm 1963) đã được đăng trên nhật báo Tự do (mục “Nói hay đừng”), nhưng bị kiểm duyệt bỏ mất nhiều. Nay, chúng tôi tìm được bản thảo viết tay và xin phép tác giả Hiếu Chân cho lục đăng toàn vẹn nguyên văn.
Vào một ngày đầu xuân năm Bính Tuất (1946), lần thứ nhất tôi gặp Anh trên căn gác hẹp của toà nhà 80 Quan Thánh. Buổi sáng hôm ấy tuy đã sang giêng mà trời còn rét như cắt vì dường như mùa đông gió lạnh hiếm có của năm Ất Dậu vừa qua hãy còn muốn nán lại, đất Bắc đang trải qua một cuộc chuyển mình vĩ đại đầy tang tóc với không biết bao nhiêu biến cố trọng đại dồn dập diễn ra từng ngày, từng giờ. Lúc tôi đẩy cửa phòng bước vào thì đã thấy Anh ngồi đối diện với anh Khái Hưng trước một chiếc bàn trên có hai tách cà-phê đang bốc khói. Hôm ấy Anh mặc chiếc blouson da đúng như trong bức ảnh đã đăng trên các báo hồi anh mới từ Hoa Nam trở về. Tuy biết đó là Nguyễn Tường Tam, một lãnh tụ trong Mặt trận Cách mạng Đồng minh mà tôi đang là một cán bộ, nhưng tôi vẫn không khỏi kinh ngạc và e dè trước bộ mặt quắc thước của Anh: tôi dừng chân, gật đầu chào định nói lời xin lỗi để quay ra thì anh Khái Hưng nhìn tôi qua cặp mắt kính cười “hà hà” đứng lên nắm lấy cánh tay tôi kéo vào và bảo:
“Anh Nhất Linh của chúng mình đây chứ có phải hồ cáo gì đâu mà anh ngại? Cứ vào đây.”
Tôi e ấp đáp:
“Nhưng sợ các anh có chuyện riêng chăng?”
Lúc này Nguyễn Tường Tam cũng nhìn tôi mỉm cười đáp:
“Lúc này còn làm gì có chuyện riêng nữa! Đồng chí cứ vào!”
Tôi ngồi xuống ghế rồi nhưng vẫn yên lặng ngắm nhìn Anh không chớp mắt: con người cao lớn, quắc thước ngồi trước mặt tôi đây đã ngự trị trong tâm hồn tôi suốt cả thời kỳ niên thiếu; trong mấy năm học ở Trường Bưởi tôi đã say mê Nhất Linh và Khái Hưng qua các tác phẩm văn nghệ. Cũng như hầu hết – nếu không muốn nói là toàn thể – thế hệ thanh niên cùng lứa tuổi với tôi. Tôi đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của Tự lực Văn đoàn về mặt văn nghệ, tư tưởng. Nhưng giờ đây chính người ấy lại là người lãnh đạo tôi trên con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Bởi vậy tôi không biết phải nhìn Nguyễn Tường Tam theo khía cạnh nào.
Thấy tôi ngồi ngây người, phân vân, anh Khái Hưng liền cất tiếng giới thiệu tôi với Nguyễn Tường Tam:
“Đồng chí đây là một cây bút xuất sắc mà chúng tôi mới tìm ra; anh ấy đã viết mấy thiên phóng sự rất đặc biệt trên Ngày nay bộ mới sau ngày Nhật đảo chính và từ trước ngày 19 tháng 8 năm ngoái anh ấy đã hoạt động cách mạng.”
Nguyễn Tường Tam nhìn lại tôi lần nữa rồi đưa tách cà-phê mời tôi. Khái Hưng quay lại tôi hỏi:
“Thế nào? Ở Lạng Sơn về rồi đấy à? Tình hình trên ấy ra sao?”
Tôi tuần tự tường thuật lại tình hình Lạng Sơn về mọi mặt chính trị, quân sự, nội bộ rồi đôi mắt tôi chăm chăm nhìn vào Anh, tôi nói nửa như chất vấn, nửa như trách móc:
“Lệnh của Trung ương ban xuống bắt phá cuộc tổng tuyển cử bịp bợm của cộng sản đã được học tập và chuẩn bị chu đáo, chỉ đợi ngày thi hành thì đánh độp một cái lại có phản lệnh bãi bỏ rồi tiếp đến việc Trung ương ký Tinh thành Đoàn kết với cộng sản mà không hề có lời giải thích hoặc giải thích không đầy đủ khiến tinh thần các đồng chí cán bộ và chiến sĩ Quốc dân quân hoang mang. Cán bộ các cấp chúng tôi ở địa phương không thể hiểu được thái độ của Trung ương ra sao cả! Chúng tôi hy sinh tính mạng, sống cơ cực hiểm nguy có phải là để tranh lấy 70 ghế cho Trung ương trong cái Quốc hội của bọn Vẹm đâu? Vả chăng, nếu các đồng chí thấu hiểu tình hình địa phương, tất các đồng chí đã không ký kết một cách quá dễ dãi như thế được vì hơn ai hết chúng tôi tin chắc rằng không thể nào thoả hiệp với bọn ‘Két’, dù là thoả hiệp tạm thời. Xem ngay như ở Lạng Sơn thì rõ: ở đấy ta mạnh hơn chúng về chính trị và quân sự, thế mà ngay sau khi bản Tinh thành Đoàn kết được công bố vài ngày, chúng nó đã trở mặt cướp trụ sở của mình, lấy súng và âm mưu ám sát cán bộ ta, như thế thì sự ký kết của các anh ở Trung ương chỉ là một hành động có hại cho địa phương; bản Tinh thành Đoàn kết ấy đã trở thành một lợi khí cho chính quyền Vẹm trói chân trói tay chúng tôi mà thôi.”
Tôi nói dứt lời, Anh trầm ngâm suy nghĩ rồi nhìn thẳng vào mắt tôi Anh đáp:
“Riêng tôi cũng biết rõ như thế nhưng xin các đồng chí xét rộng ra mới hiểu nỗi khổ tâm của chúng tôi. Những người cộng sản đã mau tay cướp được chính quyền, trong việc này họ đã được lợi thế rất nhiều vì sự nhu nhược thiển cận của chính quyền Trần Trọng Kim cũng như sự phò trợ gián tiếp của bọn cầm quyền quân sự của Nhật ở đây sau ngày đình chiến. Sau này họ lại mua chuộc được bọn tướng lĩnh Tàu và ngầm kết liên với bọn thực dân Pháp. Tinh thần dân chúng cũng như cán bộ ta tuy có cao nhưng nếu cuộc tranh đấu đi đến nội chiến thì máu đồng bào ta và cán bộ ta sẽ phải chảy rất nhiều, hậu quả tai hại không biết thế nào mà lường được, nhất là dân tộc ta đã phải trải qua bao thảm hoạ chiến tranh, nào bom đạn Đồng minh, nào bệnh tật, nào nạn đói năm ngoái. Bởi vậy tranh đấu quyết liệt, chúng ta lúc nào cũng phải nghĩ đến nhân dân đồng bào. Sự ký kết này cũng có những lý do của nó, xin đồng chí hiểu cho.”
Mặc dầu phát ra từ miệng một Nhất Linh mà tôi hằng mê say kính phục, lời giải thích đó không làm tôi thoả mãn. Điều này cũng dễ hiểu vì hồi đó tôi mới ngót ba mươi tuổi lại vừa bước chân vào con đường hoạt động cách mạng thì thử hỏi làm sao tôi có thể chấp nhận một quan niệm tranh đấu lưng chừng, uỷ mị kiểu văn nhân lòng mến như thế được? Nhất là từ sau ngày Đảng Cộng sản Đông Dương cướp được chính quyền, tất cả những hành vi của họ qua mắt tôi đều đúng tăm tắp với những lý thuyết của Đệ tam Quốc tế mà tôi đã thấu hiểu qua sách vở báo chí cộng sản. Trước mắt tôi lúc bấy giờ chỉ có một mục tiêu duy nhất là đánh đổ chính quyền cộng sản; mục tiêu ấy có đạt được thì mới mong cứu vãn dân tộc được; bởi thế mọi thoả hiệp với Việt Minh dưới bất cứ hình thức nào cũng đều bị tôi gạt bỏ; đối với tôi hồi ấy thì chỉ có hai thái độ: một là tranh đấu đến một mất một còn với cộng sản, hai là khuất phục thuận tòng chúng. Chứ không thể có thoả hiệp, dù là thoả hiệp tạm thời theo chính sách giai đoạn.
Với thái độ quyết liệt như vậy, tôi từ biệt Nguyễn Tường Tam ra đi trong một tâm trạng bâng khuâng nghi ngại. Sau đó vì phải bôn ba trên đường công tác tôi không còn được gặp Anh lần nào nữa nhưng hồi ở tỉnh bộ Nam Định, khi nhận được tin ký kết bản Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946 với Pháp, thấy không có tên Nguyễn Tường Tam trong đó, tôi những mừng thầm không khác gì chính danh dự mình được cứu vãn. Thế rồi, không cần đợi chỉ thị của Trung ương, tôi liền thảo luận cùng các đồng chí trong tỉnh bộ tổ chức ngay hôm đó một cuộc biểu tình phản đối Hiệp định Sơ bộ. Thành thực mà nói, nếu có tên Nguyễn Tường Tam ký dưới bản Hiệp định đó có lẽ tôi đã không làm thế: sau này phân tích tâm trạng của chính mình, tôi cũng không hiểu tại sao mình lại vô lý đến như thế nhưng ở vào cái tuổi ba mươi tôi đâu có cần lý luận tách bạch? Kế đó với tư cách là Tổng trưởng Ngoại giao Việt Nam đi dự Hội nghị Sơ bộ với phái đoàn Pháp tại Đà Lạt, Hội nghị này chuẩn bị cho cuộc đàm phán chính thức ở Fontainebleau cũng sẽ do Anh cầm đầu. Theo dõi các tin tức trên báo chí và qua chỉ thị của Trung ương, tôi chỉ nóng lòng mong mỏi cho Hội nghị Đà Lạt tan vỡ.
Rồi quả nhiên nó tan vỡ thật: lòng tôi lại như được cất bổng đi một gánh nặng. Kế đó khi hay tin Nguyễn Tường Tam đã từ bỏ chức vị Tổng trưởng Ngoại giao, ly khai Chính phủ Liên hiệp để trốn sang Trung Hoa đồng thời với cụ Nguyễn Hải Thần để tổ chức lại lực lượng cách mạng quốc gia chống Cộng phản Thực, lòng tôi mừng rỡ khôn xiết. Ngay đêm đó tôi tổ chức một bữa rượu cùng mấy chiến hữu uống cho đến quá nửa đêm.
Cho đến giờ tôi vẫn không hiểu tại sao tôi lại có tâm trạng và thái độ như vậy – một tâm trạng khó hiểu và một thái độ hầu như phi lý – nhưng quả tình là con người Nguyễn Tường Tam đã ngự trị tâm hồn tôi: tôi muốn cho nhân vật ấy được trong trắng cao thượng trong lòng tôi mãi mãi cho đến khi tôi từ giã cõi trần hình ảnh ấy cũng không bị lu mờ, hoen ố.
Sau này, khi cuộc kháng chiến nổ ra, tôi lưu lạc hết năm này qua năm khác trên miền rừng núi Sơn Tây – Hoà Bình nhưng không lúc nào là không nhớ đến bóng dáng, đến sắc diện của các chiến hữu đã cùng tôi san sẻ những nỗi cay đắng, khổ đau, những niềm hy vọng phấn khởi trong cuộc tranh đấu hồi 1945-1946 như Nguyễn Tường Tam, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Tường Bách, Gia Trí, mặc dầu tôi cho rằng không chắc gì những người ấy đã nhớ đến tôi. Hoài niệm đó có lần đã được diễn tả ra thành lời thơ qua những bữa rượu tiêu sầu bên sông Đà:
Ta nhớ xa xa những bạn nào,
Đêm nay trăng sáng, nhạt thưa sao.
Bên trời, ôm ấp hàm ca hận,
Vọng mỹ nhân hề ai hát ngao?
Ba chữ “vọng mỹ nhân” tôi lấy ở “Phú Xích Bích” của Tô Đông Pha, có nghĩa là nhớ bạn hiền, nhớ người quân tử.
Bây giờ đây, sau hơn mười năm sống ngoài xã hội cộng sản, thật khó mà hồi tưởng lại được một cách trung thực và đầy đủ cái tâm trạng của chính tôi trong mấy năm đầu của cuộc kháng chiến: tâm trạng đó không hẳn là tâm trạng tuyệt vọng của một kẻ chiến bại vì, tuy lạc lõng theo cái biển người từng đợt lại từng đợt kéo đi trên mọi nẻo đường từ khu 3 đến Việt Bắc, nơi nào cũng nặng trĩu một không khí kinh hoàng của chết chóc giam cầm, giả dối và nghi kỵ, tôi đã gặp được biết bao tâm hồn đồng điệu! Họ là những thanh niên vừa được tha ra khỏi những trại tập trung Mai Côi, Phi Đình, Thái Nguyên, Bắc Kạn sau hàng năm trời bị đày ải, đánh đập nhưng tinh thần của họ càng nhờ thế mà thêm vững chắc: niềm tin tưởng của họ là một niềm tin tưởng bất diệt vào tương lai cuộc tranh đấu của cả dân tộc để tự thoát ra khỏi mọi chế độ áp bức dưới bất cứ hình thức nào. Nhiều người trong số những thanh niên đó kể lại cho tôi nghe rằng có những nam nữ chiến sĩ Quốc dân Đảng trước khi nhắm mắt lìa đời sau những ngày dài bệnh hoạn trong một xó trại giam ở giữa rừng còn nhắc đến tên “Nguyễn Tường Tam”. Hơn thế lại óc những chiến sĩ trong khi bị bịt mắt dẫn ra pháp trường cũng như trước khi giơ ngực ra để đón nhận lấy những phát đạn hoặc những nhát dao của bọn đao phủ cộng sản đã thu hết tàn lực của họ để hô to ba tiếng “Nguyễn Tường Tam”. Sau khi được nghe chuyện do chính miệng những người thoát chết kể lại, tôi cảm thấy lòng được an ủi một phần nào trong cái cảnh bơ vơ lạc lõng của một kẻ chiến bại.
Đến cuối năm 1947 và sang đầu năm 1948, sau khi bị thất vọng vì bài diễn văn của Cao uỷ Pháp Bollaert đọc tại Hà Đông (trong vùng chiếm đóng), chính quyền cộng sản liền cho phát động một phong trào tuyên truyền đã kích rất sâu rộng để triệt hạ uy tín của Bảo Đại, bỡi lẽ thời ấy, trong dư luận dân chúng cũng như các phần tử trí thức bỗng dưng phát sinh ra một khuynh hướng luyến tiếc vị vua cuối cùng của triều Nguyễn đã thoái vị: người ta nhắc lại những lời trong bản tuyên cáo thoát vị của vua Bảo Đại với rất nhiều thiện cảm. Để thủ tiêu nốt đôi chút uy tín mà người vắng mặt còn lưu lại trong tâm não dân chúng, bọn cộng sản đã dùng đủ mọi hình thức: ngoài những cuộc mít-tinh tuyên truyền liên tục, những biểu ngữ nhan nhản khắp nơi, chúng còn cho vẽ tranh để bôi nhọ Bảo Đại và nhất là kết rơm thành những “hình nộm” Bảo Đại đặt tại các chợ búa trường học, các chốn thị tứ rồi cho người chọc mắt, đâm thủng ngực cuối cùng đem đốt.
Thế rồi bỗng nhiên phong trào đó ngưng hẳn lại để được thay thế bằng một phong trào khác, rầm rộ hơn: phong trào hạ bệ Nguyễn Tường Tam.

Phong trào tuyên truyền đả phá Nguyễn triều và Bảo Đại rầm rộ về mặt tổ chức và nặng nề về hình thức bề mặt bao nhiêu thì trái lại phong trào hạ bệ Nguyễn Tường Tam lại chú trọng về chiều sâu. Những người cộng sản Đông Dương thừa hiểu rằng uy tín của Nguyễn Tường Tam đã được xây dựng một cách vững chắc trong tâm não đại đa số nhân dân quần chúng trước hết bởi văn học nghệ thuật rồi sau đó lại được củng cố và phát triển bởi những hoạt động cách mạng, cho nên muốn huỷ diệt cái thế lực tinh thần của nhân vật đó trong dư luận không thể dùng đến mít-tinh, biểu ngữ, khẩu hiệu hoặc hình nộm mà được. Họ cũng thừa biết rằng những tư tưởng cách mạng dân chủ của Đảng Đại Việt Dân chính do Nguyễn Tường Tam khai sáng và lãnh đạo đã thâm nhập vào cốt tuỷ của cả một thế hệ thanh niên do con đường văn hoá thì không thể một sớm một chiều đánh tan đi được bằng những trò bịp bợm quá nông cạn, hời hợt. Chính vì thế, từ cuối năm 1947 trở đi, Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra lệnh cho tất cả đoàn thể văn hoá cũng như đảng bộ các cấp phải thường xuyên học tập, thảo luận để đưa ra những lý luận đả kích Nguyễn Tường Tam và nhóm Tự lực Văn đoàn dưới hình thức phê bình văn học và nghệ thuật.
Những lý luận đó không nhất thiết được đưa ra một cách máy móc như trong vấn đề chính trị khác mà nội dung thay đổi tuỳ theo đối tượng tuyên truyền của chúng. Đại khái đối với giới trí thức thanh bình thì chúng trình bày Nguyễn Tường Tam như một nhân vật điển hình cho phong trào phản ứng uỷ mị của giai cấp tiểu tư sản trong chế độ áp bức của thực dân phong kiến và cái cách mạng kiểu tiểu tư sản của Nguyễn Tường Tam chỉ là một thứ cách mạng tạm bợ trong một giai đoạn quá độ, chỉ cần thiết trong một xã hội tiệm tiến chứ đối với một xã hội đã có cách mạng bột phát như của Việt Nam sau ngày 19 tháng 8 năm 1945 thì một phong trào cách mạng như thế rõ rệt là lỗi thời. Đó là luận điệu giải thích cho giới trí thức trung lưu còn đối với các cán bộ đảng viên, bọn cộng sản thẳng thắn cho rằng Nguyễn Tường Tam là kẻ thù trước mắt của cuộc cách mạng vô sản bởi lẽ, với danh nghĩa giải phóng dân tộc và chủ trương đem chính quyền về cho nhân dân (dân chính) phong trào cách mạng của Nguyễn Tường Tam rất được đại đa số quần chúng tán thành và như thế một mai lực lượng tiềm tàng của cách mạng dân chính có thể trở thành nguy cơ lâu dài cho chính quyền vô sản. Vì những lý do đó người cộng sản phải đối phó ngay từ bây giờ và luôn luôn đả phá uy tín của Nguyễn Tường Tam và triệt hạ mọi phần tử có khuynh hướng dân chính.
Qua hai phong trào hạ bệ nói trên hồi đó tôi thường lấy làm lạ tự hỏi tại sao trong khi chúng đã nắm trọn chính quyền trong tay và đang gặp hoàn cảnh vô cùng thuận lợi để thực thi chủ nghĩa, nấp sau nhãn hiệu kháng chiến chống Pháp, bọn Cộng sản Đông Dương lại tỏ ra quá sợ hãi những kẻ vắng mặt? Và nhất là trong lúc chúng đang cao rao khẩu hiệu “Toàn dân đoàn kết chống xâm lăng” mà chúng lại giở những trò xảo quỷ ấy ra thì khỏi sao gây hoang mang, thắc mắc cho dân chúng vì, một mặt thì kêu gọi đoàn kết mà một mặt lại trâng tráo thực hiện chia rẽ như thế, dân chúng ai còn tin nữa?
Thế rồi một bữa kia, nhân lúc tửu hứng, một đảng viên cao cấp của cộng sản đã nói lộ ra cho tôi biết cái nguyên nhân chính trong phong trào hạ bệ Nguyễn Tường Tam: sở dĩ Chính phủ và Đảng phải làm thế là vì ở bên Trung Hoa Nguyễn Tường Tam đang tiến mạnh đến sự liên kết tất cả các đảng phái quốc gia để lập ra một tổ chức khá mạnh là Mặt trận Quốc gia Liên kết (thực ra thì đó là Mặt trận Thống nhất Toàn lực chứ không phải Quốc gia Liên kết như lời cán bộ đảng viên đã nói). Nhân đó tôi có hỏi tại sao phong trào hạ bệ Bảo Đại tự nhiên lại ngưng để thay thế bằng phong trào đả kích Nguyễn Tường Tam thì y trả lời:
“Bảo Đại dù sao cũng chỉ là nhân vật rất lu mờ, uy tín không đáng kể cho nên dù hắn có bắt tay với Pháp, cũng không đáng sợ. Trái lại, uy tín và anh hùng của Nguyễn Tường Tam đối với dư luận trong nước và quốc tế lúc này đây và mai sau nữa vẫn còn là trở ngại khá lớn cho chính quyền vô sản chúng ta. Từ trước đến giờ các lực lượng quốc gia phản động chỉ được coi như những viên gạch vỡ lăn lóc, mỗi nơi một viên nhưng bây giờ Nguyễn Tường Tam có thể là chất xi-măng gắn liền những viên gạch rời rạc đó vào với nhau để trở thành một khối chận đường của chính thể ta sau này.”
Đồng thời với cuộc tấn công bằng tuyên truyền và học tập có kế hoạch tỉ mỉ, chính quyền cộng sản lại bắt tay vào một cuộc khủng bố mới. Ngoài việc bắt bớ thêm một số người bị nghi là đã có những hoạt động chống đối chính quyền từ trước ngày Toàn quốc Kháng chiến, ngoài việc đem những phạm nhân chính trị – hầu hết là đảng viên các đảng quốc gia đối lập – ra tàn sát một cách vội vã, không cần đến mọi hình thức và thủ tục tư pháp nhân cuộc quân Pháp nhảy dù xuống Phú Thọ và tiến đánh Việt Bắc, chính quyền và Đảng Cộng sản còn bắt tay vào một cuộc thanh trừng rộng lớn trong bộ máy hành chính và quân sự: tất cả cán bộ các ngành đều phải khai lý lịch đến tam đại, phải tự tay ghi rõ thành phần xã hội của mình vào lý lịch (công nhân, nông dân hay tiểu tư sản? Trí thức bậc nào? Tôn giáo nào?); thế rồi sau đó lệnh giản chính được thi hành để loại bỏ những phần tử bị coi là bất hảo ra khỏi bộ máy hành chính, ra khỏi các chức và chỉ huy trong quân đội và nhất là ra khỏi các cơ cấu của Đảng và Mặt trận. Tất cả những biện pháp đó đều nhắm một mục đích là loại trừ mọi ảnh hưởng của phong trào Quốc gia Liên kết có thể từ hải ngoại tẩm nhập vào nội bộ kháng chiến, một phong trào mà tinh thần dân chính của Nguyễn Tường Tam là động cơ chủ não.
Cuối năm 1949, sau khi hầu hết tỉnh Sơn Tây đã lọt vào phạm vi chiếm đóng của quân đội viễn chinh Pháp, vào một ngày cuối thu, ba-lô trên lưng, tôi sang một làng nọ thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên để mở lớp huấn luyện địch vận, làng này ở cách làng Thổ Tang, quê hương Nguyễn Thái Học có một cánh đồng và lúc bấy giờ đúng vào thời kỳ cộng sản đang khủng bố mạnh nhất: nhiều nhân sĩ cao niên đã từng tham gia cách mạng trong phán bảo Nguyễn Thái Học cũng lần lượt bị bắt và đưa đi trại tập trung. Lớp huấn luyện cán bộ địch vận mà tôi phụ trách mở ngay tại một toà nhà ngói cổ, có sân và có vườn rộng nhưng chủ nhà, một cụ Lang nổi tiếng Nho phong nền nếp năm đó đã ngót sáu mươi tuổi, cũng đã bị bắt từ mấy tháng trước. Trong thời kháng chiến, các lớp huấn luyện đều được tổ chức theo lối sống tập thể vì học viên hầu hết đều là những cán bộ hạ tầng từ trong vùng địch chiếm trốn ra theo học. Vào một đêm trăng nọ, giữa khoá huấn luyện, phần kiểm thảo hàng ngày vừa xong, theo thường lệ, các cán bộ huấn luyện cũng như các học vấn đều tụ tập ở giữa sân để dự cuộc “vui nhộn” trong đó mỗi người cống hiến một trò giúp vui cho tập thể, hoặc một bản đàn, một bài ca, hoặc ngâm thơ hoặc diễn kịch cùng lắm phải kể một câu chuyện tiếu lâm hoặc chuyện cổ tích. Thế rồi đến lượt một học vấn tuổi chừng ba mươi, vẻ người láu lỉnh, quê ở Phúc Thọ đứng lên tự giới thiệu để ca một bài vọng cổ: cử toạ vỗ tay reo lên vì điệu hát vọng cổ trong thời đó ở miền Bắc là một môn văn nghệ độc đáo bên cạnh những bài tân nhạc ca tụng cách mạng và lãnh tụ. Ngồi một góc sân tôi cũng theo dõi cuộc vui nhộn thì thấy người cán bộ học vấn giới thiệu cái tên của bài ca là “Nguyễn Tường Tam”, tôi lạ quá cố lắng tai nghe. Qua mấy câu nói lối kể lại gốc tích Nguyễn Tường Tam đại khái như sau:
Vốn quê ở Quảng Nam, Nguyễn Tường Tam thuộc dòng dõi phong kiến, tổ tiên đều làm quan, cha thì làm tri huyện Cẩm Giàng cho đến Nguyễn Tường Tam sang Pháp du học đỗ bằng cử nhân nhưng vì tính thích lêu lổng chơi bời, thực dân không dùng nên sinh ra bất mãn v.v… Sau mấy câu nói lối, bắt sang diệu vọng cổ, y đổi giọng ngâm nga kết tội Nguyễn Tường Tam là tên trùm phản động, là tiêu biểu cho giai cấp trí thức tiểu tư sản lạc hậu, thối nát; cuối cùng là bài ca ngả hẳn sang luận điệu hô hào cổ võ đồng bào đừng nên mắc mưu tuyên truyền của bọn phản động đội lốt cách mạng mà Nguyễn Tường Tam là kẻ cầm đầu và dĩ nhiên bài ca kết thúc bằng một vài câu xưng tụng Hồ Chí Minh, đề cao cuộc cách mạng vô sản.
Nghe hết bài vọng cổ, tôi trầm ngâm suy nghĩ trong khi từ cán bộ huấn luyện đến cán bộ học vấn ai nấy đều vỗ tay hoan hô: có kẻ lại vội vã lấy bút và sổ tay ra xúm quanh gã cán bộ vừa hành trình để xin chép lại bài vọng cổ.
Hôm sau tôi lân la đến làm quen với người cán bộ vùng Tề đã hát bài vọng cổ đêm trước rồi dần dà tôi được biết hắn là đảng viên dự bị ở miền Phúc Thọ, gần thị xã Sơn Tây. Mặt hắn bèn bẹt, đôi mắt hắn híp lại, ti hí mắt lươn, trước đây hắn đã từng làm kép hát và nay làm nghề thợ may. Vì được bảo đảm bởi tư cách đảng viên, hơn thế lại được nhận công tác làm kinh tài trong vùng chiếm đóng nên y vẫn thường xuôi về Hà Nội để đi xem hát cải lương và do đó, căn cứ vào chỉ thị của Đảng, hắn đã đem cái nghề mọn của hắn là nghề hát cải lương để phục vụ đường lối của Đảng trong phong trào hạ bệ Nguyễn Tường Tam.
Hình ảnh của đêm trăng đó với tên cán bộ kép hát và điệu vọng cổ tuyên truyền của hắn đã gây ra trong trí óc tôi một ấn tượng rất sâu đậm về tính cách kệch cỡm, ngu độn và buồn nôn của những kẻ đã bất chấp lý trí và lương tri của con người để bôi nhọ những người mà chúng coi là địch thủ chỉ vì không đi chung đường lối, không chịu khuất phục chúng.
Tuy nhiên có một điều khiến tôi không khinh gã cán bộ kép hát mà chỉ thương hại cho hắn là vì hắn đã không hiểu việc hắn làm, không biết hết những điều hắn nói. Chẳng qua hắn nghêu ngao mấy câu vọng cổ bôi nhọ Nguyễn Tường Tam là vì hắn muốn tâng công với Đảng. Chứ thực tình nếu biết đến nơi đến chốn, có lẽ hắn phải tự thẹn vì mấy câu hát xuyên tạc một cách vô ý thức trong đêm đó. Tôi biết rõ như thế là vì trong một đếm trăng suông sau đó, tôi đã cùng hắn và một vài cán bộ học vấn đi dạo chơi ngoài cánh đồng; khi bước lên bãi cỏ dịu mượt dưới ánh trăng chính gã cán bộ kép hát kiêm thợ may, trong một phút xúc cảm trước cảnh thiên nhiên đã bất giác ngâm lên mấy câu thơ của Vũ Hoàng Chương trong bài “Dâng tình”:
“… Đường xanh bóng trăng
Lửa đào tung bay phấp phới
Giai nhân ôi xin dừng gót lại!”
Tôi đã đoán biết rằng gã có một tâm hồn văn nghệ cho nên sau khi gợi ra cho gã đi sâu vào câu chuyện thơ tôi mới đem những tác phẩm của Tự lực Văn đoàn – nhất là mấy tác phẩm chính của Nhất Linh – ra hỏi ý kiến gã. Thì quả nhiên gã như xuất thần say sưa, hoa chân múa tay tán thưởng từ nội dung đến văn chương của những tác phẩm như Gánh hàng hoa, Nửa chừng xuân và nhất là Lạnh lùng, Đoạn tuyệt Bướm trắng. Để gã thao thao bất tuyệt một hồi lâu rồi tôi mới hỏi:
“Thế qua tất cả những tiểu thuyết đó của Tự lực Văn đoàn, đặc biệt là của Khái Hưng và Nhất Linh, đồng chí nhận thấy có khuynh hướng gì?”
Gã cán bộ tuy cảm thấy nhưng không thể diễn tả hết ra lời được. Thấy thế tôi khơi mào hỏi:
“Ý muốn của Nhất Linh và Khái Hưng là phá bỏ tất cả những cái gì lạc hậu, xấu xa, giả dối trong chế độ gia đình và xã hội cũ để tạo lập nên một xã hội mới theo một tinh thần mới trong đó con người được giải phóng và tự do hơn, đồng chí có nghĩ như thế không?”
Gã cán bộ vỗ tay reo lên:
“Phải rồi! Chính tôi cũng nhận thấy như thế nhưng không nói ra được.”
Tôi lại hỏi:
“Theo đồng chí thì phá bỏ cái cũ để kiến tạo cái mới cho thích hợp với sự tiến bộ của loài người, như thế có phải là cách mạng không?”
Người cán bộ đáp không suy nghĩ:
“Thế đúng là cách mạng chứ!”
Cuối cùng trước khi ra về tôi ghé tai bảo thầm gã cán bộ kép hát:
“Nhất Linh là Nguyễn Tường Tam đấy, đồng chí có biết không?”
Gã lặng người không đáp. Và từ hôm ấy cho đến ngày chia tay, gã trở nên ít nói, thỉnh thoảng chỉ nhìn trộm tôi với tất cả vẻ ngượng ngập trong ánh mắt.
o0o
Câu chuyện trên đây tôi nhớ như mới xảy ra ngày hôm qua. Từ đó đến nay tôi đã được nghe hoặc được đọc khá nhiều những luận điệu chê bai, chỉ trích hoặc bôi nhọ Nguyễn Tường Tam phát ra từ miệng những kẻ không phải là đảng viên cộng sản mà cũng chẳng phải là kép hát. Nhưng nếu so sánh với gã cán bộ vùng Tề năm nọ thì những kẻ sau này còn đáng phỉ nhổ hơn nhiều: người công nhân yêu chuộng văn nghệ vùng Phúc Thọ có lương tri vì đã biết tỏ ra hổ thẹn khi thấy là mình lầm trong khi có biết bao nhiêu kẻ khác – tuy vẫn tự vỗ ngực là chiến sĩ quốc gia, dân tộc vì tự do mà chống cộng – nhưng chúng đã không từ một hành vi xảo quỷ nào, không kiêng một lời lẽ hạ tiện nào để bôi nhọ nhằm hạ uy tín của một văn hào, một chiến sĩ đã dám hy sinh cả cuộc đời mình cho lý tưởng duy nhất là đem lại tự do và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam.
Từ cuối năm 1949 cho đến hết năm 1950, với tư cách là một cán bộ huấn luyện công tác địch vận, tôi đã có cơ hội được đặt chân đến rất nhiều miền quê ở trung châu và thượng du Bắc Việt. Nhờ đó chính tôi đã được mắt thấy tai nghe muôn vàn thảm cảnh của đồng bào, những thảm cảnh do chiến tranh gây nên cũng có mà do chính quyền Cộng sản tạo ra cũng có. Sau khi lệnh tổng đảng viên nhân lực vật lực và tài lực được ban bố và thi hành thì nhân dân – nhất là nông dân – hầu như tuyệt cả đường sống, nhất là những nông dân sống sát miền địch chiếm đóng. Vào một chiều đông năm 1949, nhân một chuyến đi công tác tôi ghé qua một căn lều của một gia đình nông dân dựng tạm lên dưới chân một ngọn đồi hẻo lánh thuộc một làng ven sông Hồng gần Hưng Hoá. Cảnh sống xơ sác, kinh hoàng của gia đình này cũng là cảnh sống đày đoạ vất vưởng của đa số nông dân miền Bắc hồi đó. Thế rồi khi chia tay, người nông dân bùi ngùi đến rơi lệ mà bảo với tôi rằng:
“Các ông ở Hà Nội thì mai kia còn có Hà Nội mà về chứ như chúng cháu đây thì không biết về đâu mà sống được?”
Sau đó có những đêm dài trằn trọc tôi nhớ lại lời của Ninh đã nói với tôi trước mặt Khái Hưng trên căn gác 80 Quan Thánh vào một buổi sáng mùa xuân năm Bính Tuất:
“Nếu cuộc tranh đấu đi đến nội chiến thì máu đồng bào và cán bộ ta sẽ phải chảy rất nhiều, hậu quả sẽ tai hại không biết thế nào mà lường được…”.
Lời nói đó bây giờ đây tôi mới nhận thức được cái ý nghĩa chính xác và cao cả của nó. Thì ra tấm lòng yêu nước thương đồng bào đã là động cơ duy nhất thúc đẩy Nguyễn Tường Tam vào con đường đấu tranh cách mạng: không lúc nào Anh để cho tinh thần đó bị xóa nhoà bởi những thủ đoạn chính trị giai đoạn. Trong Anh không thể có sự phân biệt giữa phương tiện và cứu cánh: bất cứ thủ đoạn nào, bất cứ phương tiện nao dù cho nó mang lại thắng lợi cho cá nhân hoặc đoàn thể mà đi ngược lại với quyền lợi và hạnh phúc của dân tộc cũng đều bị Anh gạt bỏ. Rõ rệt là trong con người cách mạng Nguyễn Tường Tam người ta vẫn nhận thấy cốt cách, tâm não của con người văn nghệ Nhất Linh.
Trở lại với hiện tình đấu tranh của bản thân mình, tôi không lúc nào quên lời nói của người tài liệu và lời than thở nghẹn ngào qua ánh lệ của người nông dân miền Hưng Hoá rồi tôi tự hỏi không biết có nên cứ bám mãi vào cái danh nghĩa kháng chiến hư huyễn này không? Và bên kia vành đai trắng, trong miền chiếm đóng, có ai là người còn nghĩ đến cái thảm cảnh của người dân ngoài này đeo nặng trên tâm hồn và thể xác cái gông cùm áp bức nô lệ được tô vẽ bằng danh nghĩa kháng chiến chăng?
Tâm sự này có lần tôi đã thổ lộ ra bằng những lời thơ qua những cuộc rượu thâu đêm trong một quán vắng bên sông Đáy kế cận vùng địch chiếm:
Đêm nay súng rộn giang biên
Lờ mờ binh hoả kìa miền Thăng Long
Không sang chẳng tại cách sông
Đây chưa là bến đây không có bờ
Đêm nay có một con đò
Bơ vơ bến lạ, quanh co sông người.
Rồi, trong những lúc canh tà bóng xế ngồi một mình trên căn nhà sàn giữa xóm Mường Bá Trại tôi dở cuốn sổ tay ra đọc lại những lời lẽ mà Nguyễn Tường Tam từ bên kia biên giới đã gửi về cho các đồng chí trong nước hồi tháng 1 năm 1945, trước ngày Nhật đảo chính Pháp đúng 2 tháng:
Cùng hết thảy các bạn chiến đấu,
Sau mấy năm cách mặt, đến giờ mới có cơ hội gởi lời thăm hết thảy các bạn xa gần, già trẻ, biết hay không biết nhưng đã cùng tôi trong bấy lâu chiến đấu dưới một lá cờ, phụng sự một lý tưởng: cứu nước và duy trì nòi giống, đưa dân tộc đến chỗ vinh quang. Thời giờ thật là khẩn cấp, chiến tranh biên giới sắp đến hồi quyết định sự hưng vong của nòi giống Đại Việt ta là ở lúc này đây. Mong anh em ra tâm phấn đấu, đếm hết sức lực ra để làm cho Đảng chúng ta mạnh mẽ gấp mười trước, có thể đối phó với thời cuộc, đem lại cho nước ta sự độc lập ao ước bao lâu. Ở trong nước hy vọng đặt cả vào anh em. Ở ngoài này chúng tôi xin nỗ lực cho khỏi phụ lòng anh mong mỏi. Ở ngoài, ở trong cùng hết sức để rồi có ngày kia bắt tay nhau trên đất nước nhà trong cái không khí tưng bừng của ngày Quốc hội: ngày đầu tiên của nước Đại Việt độc lập.
Vân Nam, ngày 17-1-1945
Tường Tam
 
Niềm hy vọng mãnh liệt chứa chan của Nguyễn Tường Tam bốc toả lên qua mấy lời hiệu triệu trên đây, theo tôi nghĩ, có thể được ghi lại như một sức khoẻ lịch sử tiêu biểu cho tinh thần ham chuộng Tự Do của thực tế dân tộc trong một giai đoạn đầy hào hứng và phấn khởi ít thấy trong lịch sử. Nhưng than ôi! Khát vọng đó của Nguyễn Tường Tam cũng như của cả một dân tộc đã bị cộng sản bóp chết ngay từ chớm nở. Và, nếu những lãnh tụ các lực lượng quốc gia được thấy tận mắt cái cảnh thảm khốc ngày nay mà dân tộc đang phải chịu thì chắc chắn là vào hồi đầu năm 1946 họ đã ít dè dặt hơn trước viễn tượng một cuộc nội chiến.
      Trước kia tôi đã cương ngạnh phản đối mọi thoả hiệp với cộng sản thì giờ đây, sau bao kinh nghiệm bản thân, tôi lại càng kiên quyết cho rằng lý tưởng Tự do Độc lập và Hạnh phúc Dân tộc không phải là hoàn toàn chỉ nhờ vào thiện chí và quyết tâm mà đủ: nếu chỉ vì sợ phương hại đến đoàn kết mà chịu nhân nhượng cả với bọn gian tham quỷ quyệt độc ác bạo tàn thì còn tệ hại hơn cả sự đầu hàng kẻ địch. Qua ngót một thế kỷ Pháp thuộc chúng ta há chẳng nhận thấy rằng cường hào, quan lại, phong kiến còn đáng sợ hơn Thực dân và từ sau ngày cộng sản nắm được chính quyền thì Cộng sản lại còn đáng sợ hơn quan lại, phong kiến. Muốn có một đĩa trứng tráng ngon lành tất nhiên phải đập vỡ quả trứng tròn đẹp; bởi vậy trong thâm tâm tôi vẫn hy vọng rằng rồi ra thực tế sẽ tài bồi cho Mặt trận Thống nhất Toàn lực của Nguyễn Tường Tam thêm nhiều kinh nghiệm tranh đấu. Tôi tin tưởng ở sự thành công của đoàn thể Đại Việt Dân Chính vì ngay trong hàng ngũ kháng chiến lúc bấy giờ hiện còn có biết bao nhiêu phần tử trí thức đã – hoặc nhiều hoặc ít, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp – chịu sự chi phối của đoàn thể đó, tỉ dụ như Dương Đức Hiền hồi đó là lãnh tụ Đảng Dân chủ dưới sự kiềm chế của Đảng Cộng sản Đông Dương, trước ngày 19-8-1945 chính là Trưởng ban Thanh niên Tiền tuyến của Đại Việt Dân Chính. Tất cả những người bạn đồng cảnh đó của tôi trong kháng chiến chắc cũng phải có những giờ phút sống tâm trạng khắc khoải của một kẻ lạc ngũ như tôi. Mấy năm sau, khi đã rời bỏ hàng ngũ kháng chiến để trở về thành, tôi mới được anh bạn Lý Thắng đưa cho xem một bức thư – đúng hơn là một mẩu giấy chỉ bằng bàn tay – do chính Nguyễn Tường Tam viết cho Dương Đức Hiền nhưng tên người nhận chỉ được viết tắt là H…, nguyên văn như sau:
Anh H…
Từ lúc chúng mình đứng trước lá cờ của Đảng, lúc nào tôi cũng tin tưởng ở anh và chứa chan hy vọng ở anh, một chiến đấu viên có thể làm vinh dự cho Đảng, cho nước. Sau một hồi yên lặng bắt buộc vì tình thế, lại mong anh gia nhập hàng ngũ để cùng anh em khác chiến đấu, để nâng dắt các anh em khác, gây cho Đảng Đại Việt ta một sức cứng như thép, đủ đối phó với thời cuộc rất khẩn cấp hiện nay. Mọi việc anh thương thảo với R… rồi hành động ngay đi. Tôi ở ngoài này đợi tin anh và tôi chắc không bao lâu sẽ vui mừng, thấy anh, trước cũng như sau, bao giờ cũng là chiến đấu viên trung thành của Đảng và dự một phần vào công việc tăng thêm sức cho Đảng, đã quyết tâm hy sinh, đã biết lý tưởng của chúng ta là đúng thì hăng hái theo cho đến cùng, đến khi cứu được nòi giống ra khỏi vùng áp bức nô lệ.
Bạn chiến đấu của anh
Tường Tam

      Mấy dòng chữ có quan hệ lịch sử này cho tới nay vẫn chưa đến tay người nhận. Và, trong giờ phút mà tôi viết ra mấy lời hoài niệm này, tác giả bức thư – Nguyễn Tường Tam – cùng người nhận thư – Dương Đức Hiền – đều đã nằm sâu dưới đáy mộ, một ở miền Nam và một ở miền Bắc. Câu chuyện thương tâm trên đây có thể co là một điển hình cho cả một thời đại bi đát mà dân tộc ta đã trải qua trong mười lăm năm gần đây: có những người bạn đồng chí cùng nhau nguyện thề dưới một lá cờ để phụng sự một lý tưởng mà rồi đến nước phải sống xa nhau như âm dương cách trở, những dòng chữ chuyển đạt tâm tư được gửi đi mà không đến tay người nhận và rút cục mỗi người phải nhắm mắt lìa đời ở một phương trời, mang theo cả tâm sự ngàn đời xuống đáy mồ khép kín.
Người xưa có câu “Cái quan định luận”, nghĩa là sau khi đậy nắp quan tài mới định rõ được giá trị chân xác của cuộc đời một người. Nhưng trong trường hợp Nguyễn Tường Tam và Dương Đức Hiền – cũng như trường hợp của trăm ngàn chiến sĩ vô danh khác đã bỏ mình trong tủi hận vì chính nghĩa dân tộc trong khoảng mười lăm năm nay, - dù cho nắp quan tài đã đóng lại và dù cho cỏ xanh đã phủ kín mộ phần, đã chắc gì thế nhân có thể định luận cho đúng mức được?
o0o
Kẻ viết mấy hàng hoài niệm này, may mắn đã không phải ở vào hoàn cảnh của Dương Đức Hiền. Vào khoảng đầu năm 1951, khi tôi đã rời bỏ hàng ngũ kháng chiến để hồi cư về Hà Nội được mấy tháng thì thấy các báo đăng tin Nguyễn Tường Tam cũng vừa từ Hương Cảng về nước. Mặc dầu đang ở vào tâm trạng ngỡ ngàng của một kẻ “neo thuyền bến lạ” sau khi đặt chân vào vùng chiếm đóng được mệnh danh là vùng Quốc gia, tôi cũng không nén nỗi vui mừng vì thực tâm tôi đặt rất nhiều hy vọng vào sự trở về của Nguyễn Tường Tam: tình thế lúc bấy giờ, về đối nội cũng như đối ngoại, đã lâm vào một trạng thái vô cùng phức tạp, khó xử chứ không còn giản dị như hồi đầu năm 1945 nữa.
      Hồi đó Pháp đang dốc toàn lực sang Đông Dương để cố thanh toán cuộc chiến tranh ở Việt Nam, đằng sau Pháp lại có cả Hoa Kỳ và Anh vẫn nỗ lực viện trợ về mọi mặt để Pháp lại được vững chân trên bán đảo Đông Dương: giải pháp Bảo Đại chỉ là một nước sơn rất mỏng không đủ che mặt bất cứ người Việt Nam yêu nước nào. Trong khi đó cộng sản Trung Hoa đã thôn tính trọn lục địa và còn thừa sức để võ trang cho hàng sư đoàn Vệ Quốc quân Việt Nam ngày đêm ùn ùn kéo qua biên giới với chiếc đầu trọc lốc và hai bàn tay không để trở về các mặt trận với súng ống tối tân của Tiệp Khắc và Trung cộng. Ngày 6 tháng 1 năm 1950, trước ngày tôi trốn về thành nửa năm, đúng vào lễ kỷ niệm ngày thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, tôi đã được nghe một cán bộ Đảng công khai tuyên bố rằng cuộc tổng phản công tất nhiên sẽ phải đến vì một là nước bạn Trung Quốc sẽ dốc toàn lực để giúp chúng ta giải quyết chiến trường Việt Nam, hai là sẽ mở thêm trận tuyến ở một nơi khác để chia sẻ lực lượng của phe Đế quốc: mặt trận thứ hai đó có thể là Triều Tiên.
Bắt đầu trốn về Hà Nội ngày 19 tháng 5 năm 1950 thì sang tháng 6, tôi bàng hoàng nghe tin cuộc chiến tranh Cao Ly bùng nổ. Trước đó tôi không tin vào lời gã cán bộ đảng viên và cho đó chỉ là một luận điệu tuyên truyền hứa hẹn hão để khích lệ dân chúng trong nỗ lực đóng góp cho cuộc tổng phản công. Nhưng giờ đây, lời nói đã trở thành sự thực và cái thế nước lúc bấy giờ có thể tóm tắt như sau:
      Hai huy hoàng quân sự và chính trị tương tranh trên dải đất Việt Nam là cộng sản và thực dân: lực lượng Cộng sản Việt Nam có Trung Cộng trực tiếp giúp đỡ là một lực lượng đang lớn mạnh lại được võ trang bằng chính nghĩa kháng chiến cho nên mặc dầu đã được Mỹ và các nước Đồng minh Tây phương giúp dập dủ đường, Pháp không thể nào giải quyết được vấn đề Việt Nam theo ý muốn bằng một giải pháp chính trị hay một cuộc tấn công quân sự. Tuy nhiên người ta không thể đoán được rằng Pháp sẽ chấm dứt cuộc “sa lầy” ở Đông Dương bằng phương thức nào. Trước thực trạng đó, những người Việt Nam thật lòng yêu nước khó có thể chấp nhận được một sự hợp tác với thứ chính quyền hữu danh vô thực được mệnh danh là “giải pháp Bảo Đại”, bởi lẽ cái chính quyền quốc gia hồi đó, qua mấy nội các kế tiếp nhau, trong thực chất chỉ là những triều đình tạm bợ gồm toàn những ông tri huyện và đốc phủ cũ, từ xưa vốn chỉ quen với nhiệm vụ thừa hành chứ không hề biết đến chính trị và cách mạng nào hết. Thật đúng với lời một người pháp thời ấy đã định nghĩa triều đình Bảo Đại là triều đình của những “tri huyện còm” (une cour để petits tri huyện).
Chính trong trạng huống bi đát đó mà tôi gặp Nguyễn Tường Tam lần thứ nhì trong đời: gặp trong một bữa tiệc do ông Giám đốc Thông tin Nguyễn Trọng Trạc thết tại tư thất đường Quan Thánh. Thời ấy những nhà cách mạng hải ngoại trở về đã là những món hàng được giá: người ta muốn có những quân cờ mới, những tài tử mới để mong gợi hứng cho dư luận đã quá chán chường vì không khí tẻ nhạt của sân khấu chính trị trong vùng chiếm đóng. Chính vì lý do đó mà đã có những “cách mạng gia” bất đắc dĩ và cũng bất đắc dĩ phải sống cuộc đời lưu vong trong ít năm khi trở về đã được cả một bầy tay em đầu cơ xoắn lấy, bao vây thật chặt để dùng làm “đầu tàu”, hoặc một món hàng tung ra thị trường chính trị khi cần đến. Bởi vậy, tuy ngồi thiết bị bàn tiệc mà lòng tôi lo ngay ngáy, chỉ sợ Nguyễn Tường Tam cũng sẽ bị lợi dụng, cũng sẽ “điểm mại” cả cuộc đời cách mạng của Anh để lấy một chức Bộ trưởng hoặc Tổng trưởng như sau đó một vài người đã làm. Nhưng may thay, Anh đã tuyên bố rõ rệt và cương quyết ngay trong bữa tiệc với các người thân cũng như trước đó đã tuyên bố với báo chí rằng Anh sẽ không hoạt động chính trị và sẽ quay về với hoạt động văn hoá.
      Lời tuyên bố này đã khiến nhiều người hoặc ngạc nhiên hoặc chán nản nhưng riêng tôi, tôi nhận thấy như thế là rất phải. Nguyễn Tường Tam không hề bao giờ làm chính trị và không thể nào làm chính trị được: ANH CHỈ LÀ CON NGƯỜI CỦA VEN, CON NGƯỜI CỦA CÁCH MẠNG. Văn nghệ và Cách mạng có những tương quan rất chặt chẽ như môi với răng nhưng Cách mạng không thể là Chính trị. Cho nên lúc bấy giờ tôi tin tưởng rằng Nguyễn Tường Tam không làm chính trị nhưng sẽ vẫn làm cách mạng.
Cho đến lúc từ giã nhau sau bữa tiệc, Nguyễn Tường Tam vẫn không nhận ra tôi là một đồng chí cũ của Anh; còn tôi, tôi vẫn yên lặng theo dõi hành vi của người lãnh tụ.
o0o
Sau khi di cư vào Nam tôi cũng không hề tìm gặp lại Nguyễn Tường Tam mặc dầu giữa chúng tôi vẫn có những sự tương quan qua trung gian của người khác. Cho đến mùa đông năm 1957 tôi đã theo chân một vài người bạn văn tìm đến thăm Nguyễn Tường Tam tại một biệt thự ở Đà Lạt vào đúng đêm Giáng sinh: Anh nói chuyện về phong lan cho chúng tôi nghe trong một gian phòng rộng có bày đầy những chậu lan quý. Tôi vốn tính không ưa những trò tỉ mỉ như chơi hoa và nuôi chim, có lẽ vì cái óc thực tế tạo ra do cuộc đời nghèo khổ của tôi từ tấm bé và do cả những tao ngộ bi đát trong những năm hoạt động cách mạng và kháng chiến. Hơn thế, đối với tôi lan là một thứ hoa vương giả, phải mất nhiều công phu tìm kiếm, vun tưới, chăm sóc thì mới đâm hoa được. Cho nên trong buổi tối đó tôi đã không chú ý lắm vào câu chuyện phong lan của Anh. Và tôi lại lấy làm lạ là sao một người như Anh mà lại đi tiêu phí thời giờ vào một thú chơi vương giả đó. Nhưng sau này tôi mới biết là tôi đã xét đoán một cách vội vã, nông nổi.
      Sang năm 1958, Nguyễn Tường Tam từ giã toà biệt thự hoang lạnh trên Đà Lạt và tạm đoạn tuyệt với cái thú chơi lan để về Sài Gòn cùng một số văn hữu bắt tay vào hoạt động văn nghệ. Do lời đề nghị khẩn thiết của Đỗ Đức Thu và tôi, Anh nhận làm Cố vấn cho Trung tâm Văn Bút Quốc tế tại Việt Nam vừa được thành lập và công nhận trong hội nghị quốc tế tại Đông Kinh vào tháng 9 năm 1957. Đồng thời Anh cũng sửa soạn cho ra đời tạp chí Văn hoá ngày nay với sự cộng tác của một nhóm văn hữu trong nhóm Phượng Giang. Và từ đó, Nguyễn Tường Tam cùng tôi đã trở thành đôi bạn văn khá mật thiết: trong suốt mấy năm trời không mấy ngày là chúng tôi không gặp nhau nhưng tuyệt nhiên tôi vẫn không để Anh hay biết việc tôi đã từng hoạt động cách mạng cùng trong một đoàn thể với Anh trước đây.
      Kể ra thì cũng khá kỳ thú! Tôi bắt đầu say mê Nhất Linh qua văn nghệ, kế đó tôi gặp Nguyễn Tường Tam trên con đường tranh đấu cách mạng để rồi cuối cùng tôi lại trở thành người bạn của Anh trong văn nghệ.
Còn nhớ hồi tôi còn ở trên một căn gác hẹp trong xóm Vườn Chuối, Anh cùng Đỗ Đức Thu tìm quanh co suốt cả buổi sau cùng lần mò đến được chỗ tôi ngụ thì tôi lại đi vắng. Hôm sau gặp tôi, anh kể lại nỗi khổ đi tìm nhà trong khu Bàn Cờ rồi cười mà bảo tôi:
“Để cho bạn hữu dễ tìm thiết tưởng anh nên trưng lên trước căn gác một tấm biển để bốn chữ “Quân tử cư chi” như thế có lẽ tiện hơn.”
Tôi cũng cười đáp:
“Tôi sợ nếu làm thế thì các anh lại càng khó tìm hơn vì trong thời đại này của chính mình một thằng ăn cắp cũng vẫn dám tự xưng là quân tử với tất cả những biểu tượng kênh kiệu thì mấy chữ trong Luận ngữ có nghĩa gì đâu, nhất là tôi lại ở ngay cạnh chợ Vườn Chuối lắm kẻ cắp lắm.”
      Sau một thời gian ngắn tạm trú tại căn phòng tồi tàn dành cho bồi bếp trong toà biệt thự của một người thân đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Tường Tam trở về với gia đình tại căn gác ngay giữa chợ An Đông. Thật là một sự tình cờ có lẽ đã khiến xui Anh cũng như tôi, hai người vốn ưa tĩnh mịch mà lại cùng phải ở vào giữa cảnh ồn ào của hai khu chợ náo nhiệt và bẩn thỉu vào bậc nhất của thành phố Sài Gòn. Nhưng có điều khác với câu ngạn ngữ Tàu “Bần cư trung thị vô nhân vấn”, từ sau ngày anh có ngụ sở nhất định rồi thì anh em văn hữu cũng dễ dàng tìm gặp.
Ở gần Nguyễn Tường Tam lâu ngày, dần dà tôi mới nhận thấy tất cả những điểm đáng mến trong con người của Anh. Cuộc sống của anh rất giản dị về mặt vật chất và rất thuần phác cởi mở về mặt tinh thần. Khi nói chuyện tiếng nói của anh chỉ vừa đủ nghe và có những câu trào phúng rất ý nhị, anh nói ra bằng một giọng điệu và vẻ mặt thản nhiên khiến người kém thông minh không thể nhận ngay ra được là một câu khôi hài. Còn nhớ trong một cuộc họp mặt với một nhóm văn hữu tại trụ sở Trung tâm Văn Bút ở đường Phan Đình Phùng nhân bàn về kỹ thuật sân khấu của hai môn chèo và kịch, Anh có nói ra một câu khôi hài khiến mọi người phải ôm bụng cười, trong khi đó mặt Anh vẫn thản nhiên như không.
      Vũ Khắc Khoan hỏi Vũ Huy Chấn về nghệ thuật xếp đặt sân khấu trong một buổi hát chèo:
“Bây giờ không nói đến cách trang trí trong một rạp, tôi chỉ cần hỏi xem trong một tối hát chèo ở sân đình hoặc trên một mô đất dùng làm sân khấu chẳng hạn thì có cái gì ngăn cách phòng hoá trang của đào kép với sân khấu không? Tôi nghĩ ít ra cũng phải có một manh chiếu hay một tấm phên chứ. Nếu không thì tài tử ở đâu mà chui ra?”
Sau câu hỏi này Vũ Huy Chấn chưa kịp đáp thì Nguyễn Tường Tam đã nghiêm mặt giơ tay nói một cách trịnh trọng:
“Ấy chết! Xin các anh giữ mồm giữ miệng: ở đây không nói chuyện chính trị!”
Tôi nghe câu ấy không thể nhịn được cười phá ra! Chả là hồi đó mấy ông bà dân biểu vừa tranh luận rất gay go tại Quốc hội về vấn đề “nam nữ bình quyền” và một bà dân biểu đã trắng trợn nói ra trên diễn dàn Quốc hội câu hỏi bất hủ: “Nếu không có đàn bà thì đàn ông ở đâu mà chui ra?”, câu này đã được đăng trên khắp các báo. Mấy tiếng “ở đâu mà chui ra” của Vũ Khắc Khoan vô tình đã trở thành đề tài cho lời nói khôi hài của Anh.
      Trong mấy năm liền, có những buổi chiều Anh ngồi đeo sau chiếc xe Lambretta của tôi để dạo chơi khắp nơi trong thành phố: chúng tôi có thói quen vừa ngồi trên xe như vậy vừa nói chuyện chứ không chịu ghé vào nhà ai cả. Thấy thế có những văn hữu sợ Anh tuổi già đa bệnh ngồi xe như thế sẽ dễ mỏi và nguy hiểm nên ngỏ ý muốn nhường xe hơi cho Anh dùng nhưng Anh một mực từ chối, cho rằng ngồi sau xì-cút-tơ thoáng mát hơn. Bởi thế một văn hữu đã gọi Anh là “người ngồi sau xe xì-cút-tơ”. Ngồi đeo sau xe “xì-cút-tơ” do tôi lái, Anh thường nghiêm khắc chê trách tôi hai tật: một là đi quá nhanh và hai là không chú ý đến bên tay trái mỗi khi qua ngã tư mà chỉ chú tâm nhường tay phải. Tôi tự bào chữa:
“Chỉ cần chú trọng đến những xe bên tay phải vì họ có quyền ưu tiên. Đến như các xe cộ bên tay trái thì họ phải nhường mình chứ.”
Anh cười khẩy đáp:
Anh tin tưởng như thế thì có ngày hai chúng mình vào nhà thương mất thôi vì trong đời chính những kẻ đáng lý ra không có quyền hại mình chúng mới hay gây hại cho mình.
Giờ đây Nguyễn Tường Tam không còn nữa! Cái chết của Anh sẽ có Lịch sử ghi lại hậu thế phê phán cho nên ở đây tôi chỉ muốn ghi lại những kỷ niệm cùng với những cảm xúc chân thành của cá nhân tôi với niềm hy vọng nói lên tiếng nói của một nhân chứng. Những lời ai điếu Nguyễn Tường Tam trước quan tài trong giờ mai táng, hoặc do chiến hữu, hoặc do văn hữu, hoặc do thanh niên và sinh viên lớp trẻ đã thốt ra đã đủ là những tài liệu chứng minh giá trị của một cái chết.
Mấy tuần gần đây, sau ngày đi theo linh cữu anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, có những buổi sáng bừng mắt dậy trước những luồng nắng sớm chan hoà qua song cửa, tôi giật mình tưởng tượng ra vẻ mặt mệt mỏi với đôi mắt sâu thẳm trên đôi vai gầy guộc với thân hình dong dỏng cao của Anh hiện ra qua khung cửa gỗ. Trong mấy năm qua Anh thường đến chơi thăm tôi trong những giờ rất sớm vào buổi sáng; có khi tôi hãy còn mê man trong giấc ngủ, bừng mắt dậy đã thấy Anh đứng ngay trên đầu đi-văng tôi nằm.
      Thế rồi khi chợt nhớ ra rằng Anh đã chết tôi không khỏi bàng hoàng tự hỏi không biết rằng thực Anh đã chết hay là Anh chỉ mới bắt đầu đi vào một Cõi Sống khác, cực lạc và bất diệt khác hẳn với cái thế giới Ta Bà đầy khổ não bất công này?
Và rồi tôi không khỏi nhớ lại những lời của Lỗ Tấn mà tôi xin dùng làm đoạn kết cho mấy dòng tâm sự hoài niệm này:
"Tôi thường thấy rằng giữa chính trị và văn nghệ vẫn có sự xung đột. Văn nghệ cùng với Cách mạng vốn dĩ không có gì tương phản nhau, trái lại giữa hai cái đó vẫn có sự đồng nhất về điểm bằng lòng ở hiện trạng.
Duy có chính trị là muốn duy trì hiện trạng nên chính trị cùng với văn nghệ (cái thứ văn nghệ không lúc nào thấy yên ở hiện trạng) tự nhiên không cùng một phương hướng là do đó…
Loài người vốn rất thích xem kịch cho nên các nhà văn nghệ tự dấn thân ra làm kịch cho người ta xem. Hoặc họ bị trói tay, chặt đầu dưới trướng; hoặc họ phải chết gục dưới chân tường, đó đều là để làm cho Nhân loại náo nhiệt lên một chút mà thôi. Như ở Thượng Hải lính cảnh sát dùng dùi cui đánh người, ai nấy đều quay tròn chung quanh để xem. Tuy chính họ không ưa cái việc đánh người như thế nhưng khi xem người khác bị đánh đập, áp bức, con người cũng sớm hiểu được đôi chút cái thân phận của mình”.

      Cho nên cùng với cái chết của Nguyễn Tường Tam, thế nhân chúng ta đã hơn một lần được xem những bậc tiên giác dùng chính thân họ ra để giác ngộ người đời. Nhưng người đời đã thực sự được giác ngộ chưa?
*Sài Gòn, một ngày mưa tháng Năm năm Quý Mão (1963)
                                                      Trích từ 
                                         “Hoài niệm Nhất Linh” của Vũ Hoàng Chương
                                           http://elib.quancoconline.com/stories/
               
o0o
Nhất Linh, Giòng Sông Thanh Thủy                                       
    Thy Khuê
       Nhất Linh bắt đầu viết Dòng Sông Thanh Thủy ngày 28/11/1960. Cuốn đầu, Ba Người Bộ Hành, 248 trang, viết trong vòng một tháng. Hai tập sau chắc cũng viết rất nhanh bởi toàn bộ ba cuốn, hơn 600 trang, được nhà Ðời Nay in năm 1961, hai năm trước khi Nhất Linh quyết định tự chấm dứt đời mình.
 Tại sao lại có Dòng Sông Thanh Thủy? Một bộ tiểu thuyết thoát ra ngoài cõi viết của Nhất Linh, một người mà cho đến năm 1960 vẫn đặt vấn đề chính trị ra ngoài văn học? Phải chăng Nhất Linh muốn để lại một tự phán của nhà văn Nhất Linh về nhà chính trị Nguyễn Tường Tam, và qua đó là bản án của văn học đối với cách mạng?
 Dòng Sông Thanh Thủy là một trường giang tiểu thuyết, gồm: Ba Người Bộ Hành, Chi Bộ Hai Người Vọng Quốc. Dòng Sông Thanh Thủy viết về một thời kỳ cách mạng Việt Nam tại Trung Hoa, thời kỳ 44-45, trên trục Côn Minh, Khai Viễn, Mông Tự, Hà Giang mà hoạt động chính trị của Việt Minh và Việt Nam Quốc Dân Ðảng thời đó, ở vào thế phải diệt lẫn nhau bằng những phương tiện ám sát, thủ tiêu tàn bạo nhất. Hai nhân vật chính trong truyện: Ngọc, cán bộ Việt Quốc, Thanh, cán bộ Việt Minh, đều biết họ có nhiệm vụ phải giết người kia nhưng đồng thời họ cũng yêu nhau bằng một tình yêu tuyệt đối: tình yêu đến chết.
 Về văn phong và nghệ thuật, Dòng Sông Thanh Thủy không phải là tác phẩm nổi bật nhưng là cuốn sách mạnh nhất về tư tưởng và chính trị của Nhất Linh, ông điều tra về con người, về các guồng máy chỉ đạo con người, về tội ác, về các sự nhân danh lý tưởng, tổ quốc dẫn đến tội ác, về chỗ đứng của tình yêu, bên cạnh tội ác. Tóm lại là sự sa đọa của con người trong các guồng máy cách mệnh, Việt Quốc và Việt Minh nói riêng, và qua đó là sự sa đọa của con người trong các guồng máy cách mạng nói chung.
 Dòng Sông Thanh Thủy không phải là cuốn tiểu thuyết chống Cộng sản, bênh Việt Nam Quốc Dân Ðảng, ở đây Nhất Linh đứng ngoài địa vị đảng trưởng, ông dùng địa vị nhà văn để xét về những hành động tàn bạo của những con người bẩm sinh hiền lành, có lòng nhân ái, nhưng khi đã bị rơi vào guồng máy cách mạng (như những đảng viên Việt Nam Quốc Dân Ðảng hay Việt Minh), có thể trở thành những kẻ sát nhân lạnh lùng, không một chút rùn tay, chùn bước. Dòng Sông Thanh Thủy là tác phẩm phản đề, phản lại những mẫu người cách mệnh trước, như Dũng, như Trúc v.v..., những nhân vật lãng mạn đi làm cách mạng mà không nhúng tay vào tội ác. Với Dòng Sông Thanh Thủy, Nhất Linh xác định: cách mạng và tội ác đi đôi với nhau, không thể khác. Và trong Dòng Sông Thanh Thủy, Nhất Linh nhà văn, kết án Nguyễn Tường Tam nhà cách mạng, để đưa ra một thực tại thứ nhì: cái đẹp trong văn chương và ý nghĩa nhân bản của văn học sẽ còn tồn tại lâu dài, như những câu thơ của Tô Ðông Pha vẫn sống mãi mãi trong lòng người, trong khi những Chu Du, Tào Tháo ... đều đã trôi vào quên lãng. Chứng cớ là 40 năm trôi qua, Nhất Linh nhà văn vẫn còn tồn tại, trong khi nhà cách mệnh Nguyễn Tường Tam đã đi vào dĩ vãng của lịch sử. Ðó là ý nghĩa sâu xa của tác phẩm.
o0o
  Dòng Sông Thanh Thủy được cấu trúc như một tiểu thuyết trinh thám mà các đối thủ rình tìm chỗ hở của nhau để ra tay, lồng trong không khí toàn thể là sự nghi ngờ, một nỗi nghi ngờ bệnh hoạn: không biết đối phương là ai? Là gián điệp một chiều hay hai chiều? Kẻ mình sắp giết có phải là nội giám của phe địch hay oan? Hay chính mình là kẻ sẽ bị phe địch giết trước? Ba Người Bộ Hành là sự rình rập tay ba giữa Ngọc, Tứ và Nghệ. Chi Bộ Hai Người đối chất, dò thám giữa Thanh và Ngọc, và Vọng Quốc theo dõi đường về cõi chết của hai người.
Những nhân vật chính (cán bộ Việt Quốc và Việt Minh) xuất thân ở những môi trường khác nhau, làm cách mệnh vì tình cờ hơn là vì lý tưởng.
 Ngọc (Việt Quốc) đang đi học, vì nhà sa sút nên phải bỏ dở để học nghề đan ren ở làng bên cạnh. Ngọc yêu Thúy, con ông chủ. Thúy mất vì ho lao. Ðang bàng hoàng vì cái chết của Thúy, Ngọc được Lê, anh ruột Thúy dẫn vào cách mạng, trở nên một cán bộ chuyên nghiệp, giữ việc giao liên và thủ tiêu những phần tử Việt Minh. Thanh (Việt Minh) được lệnh quyến rũ Ngọc, trà trộn vào hàng ngũ Việt Quốc ở Vân Nam và Hà Giang để triệt hạ toàn bộ. Thanh thuộc lớp người trưởng giả, con nhà giàu, có học, lấy chồng nhưng người chồng chơi bời, tiêu hết tiền hồi môn của vợ, hai người ly dị, Thanh gặp người tình thứ nhì, lại bị lừa lần nữa, chán nản sự đời, gia nhập Việt Minh.
 Những nhân vật khác cũng theo cách mệnh vì những lý do cá nhân hơn là vì lý tưởng, như Nam, trước làm y tá, vì nhà sa sút nên phải lấy một người chồng Tàu, rồi theo  chồng sang Văn Sơn; chồng chết, ở hẳn lại Vân Nam, hành nghề thầy thuốc, đỡ đẻ giúp người, gia nhập Việt Quốc, thi hành các vụ thủ tiêu. Nam, dưới mắt Ngọc, "nàng là người rất hiền lành thế mà bây giờ nàng cũng giết người không khác gì chàng" (Ba Người Bộ Hành, trang 110). Về việc Nam thủ tiêu Vương Ðức, một cán bộ Việt Minh, Ngọc nghĩ: "chàng chưa hiểu được tại sao một người đàn bà nhu mì như Nam lại có thể giết người, mà lại tự ý giết một cách độc ác như thế, chàng thốt nhớ lại câu Thanh nói: "Bị cái guồng máy nó lôi kéo." [...] Ý nghĩ về cái tốt, cái xấu ở đời lại lảng vảng trong đầu óc chàng, [...] cũng như Tứ và Nghệ, đều là những người tốt, có lòng nhân đạo [...] Ngay lúc Nam kể cho chàng nghe về việc giết (Vương) Ðức, chàng không khỏi ghê tởm vì lòng độc ác của con người; chàng thấy thương hại cho Ðức khi bị Nam bóp cổ; đôi mắt mờ ấy biết đâu đã không đau khổ vì không hiểu và biết đâu Ðức không có cha mẹ, vợ con hay một người yêu và trước khi chết đã không nghĩ tới những người thân yêu đó" (Ba Người Bộ Hành, trang 115)
 Ngọc không hiểu hành động của Nam, một người phụ nữ hiền lành, một bà đỡ, một thầy thuốc chữa bệnh cho người nghèo, một người cứu nhân độ thế mà lại có thể giết người không gớm tay, cũng như Ngọc không hiểu được chính mình, chỉ ít lâu sau sẽ nhúng tay vào việc thủ tiêu hai cán bộ Việt Minh, Tứ và Nghệ, một cách tàn ác và lạnh lùng không kém.
o0o
 Ba Người Bộ Hành, viết về hành trình rình rập giữa Ngọc, Tứ và Nghệ. Cả ba đều đã dùng những thủ đoạn "dối trá, gian giảo, độc ác để hạ thủ nhau": "Họ rình nhau như những con thú dữ mà người nào cũng vì một lý tưởng mình cho là cao đẹp" (Ba Người Bộ Hành, trang 207). Ở đây, Nhất Linh đã viết những trang thản nhiên và rùng rợn nhất về tội ác của con người, nhân danh cách mạng. Ngọc dẫn Tứ và Nghệ đến một chỗ được gọi là "chỗ ấy", tức là nơi Ngọc sẽ thi hành bản án; trên đường đi xuyên núi rừng, phong cảnh hùng vĩ, Ngọc vừa đi vừa hát "Chàng cất tiếng hát cao giọng, đi thật mau cho bước chân ăn nhịp với bài hát mà chàng cố hát thật mau:
 Hồn nước muôn năm sống cùng non nước!
 Ngày nay ta noi tấm gương anh hùng,
 Dù khó thế mấy quyết cùng nhau bước,
 Làm cho vang tiếng cháu con nòi giống Tiên Long.
 Chàng chuyển sang điệp khúc:
 Mau, mau đồng lòng, tay cầm tay, trông cờ nước, ta đều bước,
 Tuốt gươm, thề với núi sông ...
 Hồn nước muôn năm sống cùng ...
 Bài hát ấy là của Lưu Hữu Phước, đảng viên Việt Quốc trong thời kỳ bí mật từ trong nước truyền ra." (Ba Người Bộ Hành, trang 214)
 Trong suốt cuộc hành trình, Ngọc sung sướng thưởng thức cảnh đẹp, say sưa với những nhịp bước hùng ca như thế, và sau khi đã bỏ thuốc độc trong cà phê cho Tứ và Nghệ rồi, "chàng nhấc thây của Nghệ và Tứ đem ra đặt sát gần bức vách núi rồi đẩy mạnh một cái. Hai cái xác rơi từ trên cao xuống, lọt vào khe mấy tảng đá. Ðứng ở trên còn thấy hở ba cái chân, Ngọc bẻ một cành cây rậm lá quăng xuống, chàng phải quăng xuống bốn năm cành mới có một cành trúng và che phủ mấy cái chân hở. [...]
 Ngọc ngẩng lên: trời cao và xanh, lơ lửng một vài đám mây trắng. Các ngọn núi bao bọc chung quanh dưới ánh sáng mùa thu trong có một vẻ đẹp rực rỡ mà vẻ đẹp của trời thu như còn xa hơn nữa; nắng đẹp ở vườn sau nhà Thanh, nắng làm rám da mấy quả lựu và làm hồng đôi gò má Thanh đương đứng ngắm những cánh hoa lựu trắng, nắng còn đẹp ở những nơi xa xa nữa; lúc này Nga đương ra vườn cất quần áo đã khô, lòng chợt nhớ đến chồng, mong ngày chồng về; nắng đẹp ở trong vườn người chị thân yêu của chàng giờ này có lẽ đương cau mũi và mắng chàng:
 - Thằng Ngọc chết tiệt, đi đâu biệt tích không một lá thư gửi thăm nhà."  (Ba Người Bộ Hành, trang 237-238)  
 Phải có một bản lĩnh cao cường như Nhất Linh mới có thể hòa trộn tội ác trong một bối cảnh trời cao, mây rộng, yêu nước và yêu người như thế. Trong con người, không thể phân biệt được đường ranh thiện ác như Nhất Linh đã dẫn đầu tiểu thuyết bằng hai câu thơ của Nguyễn Du: Trời kia đã bắt làm người có nhân, đã mang lấy nghiệp vào thân, và lời của Pascal: Vérité en deça des Pyrénées, erreur au delà, bên này dãy núi Pyrénées là sự thực, bên kia là sai lầm.
 Nhất Linh đã thay rặng Pyrénées của Pascal bằêng dòng sông Thanh Thủy. Ở Nhất Linh, trong con người không có rặng Pyrénées, cũng không có dòng sông Thanh Thủy, hoặc nếu có thì cả núi lẫn sông đều chìm lấp trong cái vực chung thiện ác là trái tim.
 Ngọc và Thanh là tên của loài lan quý, lan Thanh Ngọc mà Nhất Linh đã nâng niu bên dòng suối Ða Mê. Dòng Sông Thanh Thủy in 10 bản trên giấy Thanh Ngọc và trong 17 phụ trang do chính Nhất Linh vẽ, lan Thanh Ngọc được minh họa ở trang đầu với hai câu thơ:
 Sắc trong Thanh Ngọc hương thơm mộng
 Một thoáng mơ tiên thoảng xuống trần.
 Bài thơ và bức họa mở đầu cho tiểu thuyết Dòng Sông Thanh Thủy như để giới thiệu chân dung hai người, vừa trong như Ngọc, vừa Thanh như lan, nhưng cũng lại là những kẻ giết người không gớm tay, khi họ bị guồng máy cách mệnh cuốn về hai phe đối đầu: quốc gia và cộng sản.
 
 Tác phẩm của Nhất Linh, do đó không chỉ viết về một thời tranh chấp giữa Việt Minh và Việt Nam Quốc Dân Ðảng những năm 45, mà còn bao trùm những tranh chấp Quốc-Cộng, sau khi Nhất Linh mất. Những tranh chấp ấy không phải thời này mới có, mà có tự ngàn xưa: "Thanh nói với Ngọc:
- Cái guồng máy ấy vẫn còn, còn mãi. anh đã xem Ðông Chu Liệt Quốc và Tây Hán chứ?
- Có, tôi có đọc nhiều lần.
- Ðấy, anh xem cái guồng máy đã có từ mấy nghìn năm trước. Anh chắc còn nhớ Vệ Ưởng nước Tần, Phạm Lãi với Văn Chủng nước Việt, Hàn Tín với Trương Lương đời Tây Hán. Vệ Ưởng, Văn Chủng, Hàn Tín đều bị cái guồng máy nó nghiền nát nhừ cũng như nó sẽ nghiến anh Ninh và cả anh nữa. [...] Anh bị lôi cuốn vào đó và tôi cũng vậy." (Chi Bộ Hai Người, trang 86)
 Thanh, trong truyện, gần gũi với Nhất Linh, tâm hồn nghệ sĩ, yêu cái đẹp, có tư tưởng. Ðã bao lần Thanh muốn bỏ tất cả để tìm đến thiên thai với Ngọc. Họ đã sống những giây phút thần tiên, lãng mạn với nhau, đã đi thuyền trong trăng, đã dạo vườn đào Côn Minh như Lưu Nguyễn. Thanh đã muốn bỏ tất cả tục lụy, tranh chấp, chém giết, nhưng guồng máy không tha cho Thanh, không tha cho Thanh-Ngọc. Như Thanh, Nhất Linh cũng đã bỏ tất cả, lên Ðà Lạt tu tiên, tìm một cõi đam mê, vượt khỏi bậm bụi cuộc trần, nhưng rồi rút cục Nguyễn Tường Tam cũng không thoát khỏi guồng máy, lại trở về trần, trở về với đấu tranh chính trị, để rồi bị cái guồng máy chính trị ấy nghiền nát. Nhất Linh gánh cái nghiệp của nhà văn và nhà cách mạng: cả hai đều biết rất rõ về nhau nhưng không buông tha nhau và đeo đuổi nhau đến hơi thở cuối cùng. Văn chương và cách mạng đối với Nguyễn Tường Tam Nhất Linh như Ngọc và Thanh, như lan Thanh Ngọc, là một thứ tình yêu lạ lùng, tình yêu đến chết.
 Khi Ngọc và Thanh biết đích xác nhiệm vụ của nhau, họ cùng đi với nhau đoạn đường cuối tên là Vọng Quốc. Họ cùng vọng quốc như nhau, cùng rời Côn Minh đi về biên giới, vượt cầu sang sông Thanh Thủy, về Hà Giang để phụng sự đất nước.
 Ðất nước là của chung, nhưng cách phụng sự đất nước của đảng họ lại khác. Cho nên phải giết nhau. Ðoạn đường cuối ấy được Ngọc cảm nhận như sau: "Ngọc cho cuộc đi với Thanh về Hà Giang như một cuộc tìm kiếm thiên thai; thân chàng dù có bị guồng máy nghiến nát nhưng linh hồn chàng theo lời Thanh vẫn thường nói, sẽ tan đi như hạt muối trong nước hay biến thành một niềm vui hòa loãng trong cái mênh mông của hư vô. Phạm Lãi, Tây Thi chết đã mấy nghìn năm nhưng tâm hồn hai người vẫn tồn tại trong tâm hồn nhân loại." (Vọng Quốc, trang 92)
 Trong hành trình này, có lúc tâm sự, hai người đã đồng ý với nhau rằng trước khi chết, nếu được nhìn một hình ảnh đẹp, nghe một điệu nhạc hay, thì cái chết chắc sẽ bớt đau hơn. Và rồi họ cũng đạt đến giây phút thần tiên ấy:
 "Thanh để hết cả tâm hồn khe khẽ ngâm, tiếng thoảng nhẹ như hơi gió trong đêm trăng sương mù:
 Ðêm sương thoảng tiếng ai trong gió,
 Lòng hỏi lòng biết có hay không?
 Hay chăng tiếng vọng mơ mòng
 Của lòng mình nói cho lòng mình nghe...
 Tiếng ngâm rứt đã từ lâu nhưng dư âm còn vang mãi trong hồn Ngọc. Tự nhiên chàng nghĩ đến hôm đi chơi hồ, Thanh ngâm bài phú Xích Bích và nói bây giờ còn đâu Tào Tháo, Chu Du nhưng câu thơ hay của Tô Ðông Pha và ánh trăng trong trên dòng Xích Bích thì còn mãi mãi. Chàng nghĩ Thanh và chàng có thể lát nữa sẽ chết, Việt Quốc, Việt Minh ám hại lẫn nhau cũng không còn nữa. Nhưng tiếng ngâm của người yêu thì như mãi mãi bàng bạc trong không gian của những đêm sương lạnh." (Vọng Quốc, trang 208)
Có phải đó là chúc thư văn học của Nhất Linh? Phải chăng Nhất Linh muốn nhắn lại rằng những con người tranh giành nhau vì quyền lực, vì lý tưởng, rồi sẽ chết. Nhưng tiếng thơ không chết. Tô Ðông Pha không chết. Cho nên nhà chính trị Nguyễn Tường Tam có thể chìm trong quên lãng nhưng nhà văn Nhất Linh sẽ sống mãi với Ðôi Bạn, Bướm Trắng, Xóm Cầu Mới, Dòng Sông Thanh Thủy ... trong lòng người
   
                               Trích từ
                          http://thuykhue.free.fr/

Sunday, April 6, 2014


BÙI MỸ DƯƠNG * PLEIKU

Pleiku ơi ! còn nhiều điều để nhớ! 




Đáp chuyến xe trở về quá khứ tìm lại những chặng đường, chốn yêu dấu xưa, đã ngàn trùng xa cách; tất cả chỉ còn là kỷ-niệm: những ngày tháng thương yêu, một phần của cuộc đời.
Pleiku tên nghe lạ với người dân thường miền xuôi nhưng nhà thơ Vũ hữu Định và nhạc sĩ Phạm-Duy đã làm cho cả nước biết cảnh đẹp của núi rừng và con người dễ thương vùng cao-nguyên trung phần.
Chúng tôi đã có một mái ấm gia-đình tại thành phố núi Pleiku, nơi đây ghi bao kỷ niệm: hạnh-phúc, vui buồn và lo sợ.
Tìm hiểu về nơi có vị trí quan trọng của miền Nam nước Việt.:
Thị xã Pleiku nằm trên trục giao-thông giữa quốc lộ 14, quốc lộ 19. Diện-tích khoảng 8260 km2, dân số độ 35 ngàn người, đa số là người vùng cao nguyên thuộc các sắc-tộc Jarai, Bahmar, Rhadé.
Theo dã sử thì dân trên miền núi cùng chung một bào thai, 50 người con theo mẹ lên núi " người thượng" và 50 người theo cha xuống biển " người kinh". Cuộc di cư 1954 đã có người kinh lên khai khẩn " khu dinh điền" để Kinh,Thượng cùng nhau khai thác miền đất trù phú của quê-hương. Nguồn lợi chính là nông và lâm sản; khí hậu miền cao-nguyên thích hợp cho việc trồng trà, cà-phê, gỗ và cao-su.
Pleiku nằm trên 15 ngọn núi lửa, ngọn tên Núi lửa, có dòng hoa do nham thạch cháy bỏng tuôn ra đẹp vô cùng. Thành phố Pleiku đón chào bằng núi Hàm-Rồng ( còn gọi là Hơ Dông) với hoa vàng ( hoa qùy, hoa hướng dương)) rực rỡ. Thắng cảnh Biển-Hồ ( To Nung) là miệng núi lửa ở phía tây bắc thành phố, núi này đã ngưng hoạt động cả trăm năm. Biển Hồ chứa nước ngọt cung cấp cho cả thành phố. Biển Hồ còn là vựa cá lớn của vùng tây nguyên.
Năm 1954 chia đôi đất nước phân ranh giới quốc cộng, để phòng thủ và bảo vệ người dân sống an lành chính phủ đã chọn những nơi hiểm yếu đóng quân.
Cả miền Nam có 4 quân đoàn mà tỉnh lỵ Pleiku là nơi đặt bộ chỉ huy của quân đoàn II. Pleiku giữ một vị trí chiến lược quan-trọng, tầm hoạt động gồm 12 tỉnh miền trung và duyên-hải. Pleiku còn đưọc gọi là thành phố của " Lính".
Triền núi dốc thương đôi giầy vẹt đế,
Áo ngụy trang, vương vấn với gai rừng". ( Hà Huyền Chi)
Cao nguyên được ví như cột sống, mái nhà Việt-Nam, địa điểm trọng yếu nên Pleiku được mở rộng căn cứ chiến lược và hành chính.
Quân-y viện Pleiku cách thị xã 5 kim, chồng tôi là quân-y sĩ được tăng phái đến chăm sóc sức khỏe cho đồng đội và các thương bệnh binh.
" Đoạt súng, diệt thù say giữa trận
Máu hồng, loang sắc áo chinh-nhân" ( Cao Tiêu)
Khi ra trường tôi cũng chọn vùng núi rừng, cùng chồng dựng căn nhà cho gia đình mới. Trường trung học Pleiku là nơi tôi đứng trên bục giảng, đến với các học sinh yêu quí mở đầu cho nghiệp " gõ đầu trẻ".
" Dậy trẻ, cứu người cùng nỗ lực,
Vợ chồng vui sống một đời xuân" ( cụ Tú Trần văn Thược tặng trong ngày cưới)
Theo đà phát triển của dân số cho các con em quân, cán, chính trong tỉnh, ngoài trường trung học công-lập Pleiku, Pleime còn thêm các trường khác như: Bồ Đề, Phao Lô, Phạm hồng Thái, Minh Đức, Nông lâm súc...
Theo tài liệu 1958 trường trung học công lập Pleiku thành lập với mấy lớp đệ nhất cấp ở khu chợ nhỏ. Năm 1963 dân số Pleiku tăng nhanh nên trường xây ở địa điểm mới có cả đệ nhất và đệ nhị cấp.
Trường Pleime xây năm 1967 ( do tiền bán sách về chiến thắng Pleime) dành cho nữ sinh " Đoàn quân bách chiến cười trong nắng,
Sông núi bừng reo khúc khải hoàn.. ( Cao Tiêu)
Chúng tôi đã khởi đầu sự nghiệp tại thị xã này, nơi đây đã có rất nhiều điều để nhớ để thương; Thời tiết đôi khi rất khắc nghiệt một ngày có đủ bốn mùa hiển hiện: buổi sáng sương mù, trời se lạnh, trưa nắng gắt, gío nóng thổi tung vương bụi đỏ, chiều mưa bùn nhầy nhụa, trơn trượt và tối lạnh cóng ! Pleiku thân tình vì " đi năm phút đã về chốn cũ" nên hầu như mọi người đều quen mặt, ra đường chào hỏi ấm lòng. Nơi giải trí không nhiều nhưng cũng đủ để cung ứng, cuối tuần hay ngày nghỉ phép của lính, dân sở tại: Rạp ciné Diêp Kính, Hội quán Phượng Hoàng, những quán ăn, Cà phê ... Cảnh thiên nhiên có Biển-Hồ thật đẹp còn được gọi là " mắt ngọc" nước trong xanh vào mùa thu; mùa hạ hoa quì nở rộ vàng cả một góc trời. Trà, cà-phê, rất ngon, thơm là những đặc sản của Pleiku, cao-su, cây kỹ-nghệ đóng góp nguồn lợi cho tỉnh.
Những ngày đầu đến dậy tại trường Pleiku, lòng bâng khuâng, lo lắng vì cảnh và người đều lạ, nhớ câu " thứ ba học trò" nhưng mọi việc diễn ra tốt đẹp : học-sinh hiền lành, đồng nghiệp hiếu khách và thân thiện.
Môi trường sống ảnh hưởng đến con người, cảnh núi rừng, đồi thông xanh bạt ngàn, làm lòng người tĩnh lặng, không khí trong mát như được trở về với thiên nhiên hoang-sơ. Thông lệ của trường Pleiku, thầy hiệu trưởng Nguyễn duy Luật cho biết giáo sư mới phải đọc diễn văn trong ngày phát thưởng cuối năm. Công việc giảng dậy, đứng trước cả trăm học sinh là lẽ thường nhưng cứ tưởng cả hội trường đông đủ bá quan văn võ " quan trên trông xuống, người ta trông vào" làm tôi lo sợ. Để được bình tĩnh và tự nhiên tôi đã phải học thuộc và tập diễn cả tháng trước gương. Kết quả trung tướng vùng Vĩnh-Lộc ngợi khen và muốn tưởng thưởng bằng cách mời tôi làm hiệu trưởng Pleime, đang xây sắp xong. Với mỹ ý của ông tướng, tôi xin khước từ vì thứ nhất không có kinh nghiệm, thứ
hai chồng là quân nhân luôn di chuyển, không biết nhiệm sở kế tiếp nơi đâu ?. ( duyên chưa đến với các học sinh Pleime).
Pleiku địa đầu giới tuyến nhưng là nơi đặt bộ tư-lệnh quân đoàn nên được bố-trí, canh gác cẩn mật. Tết Mậu Thân cộng-sản tổng công kích các đô-thị miền Nam, pleiku thiệt hại ít nhất.
" Người lính trẻ say mê đường sương gió,
Đem thân trai, tô đẹp sắc Cộng-Hòa " ( Hà huyền Chi).
Cộng quân chỉ vào thành phố được một vài ngày là bị diệt ngay. Tết Mậu Thân ở Huế và Sài gòn, chúng gây bao cảnh chết chóc tang thương cho dân lành và kéo dài cả tháng.
Năm 1969 chúng tôi đổi về Gò-Công cách Sài-Gòn 58 km, rất vui vì các con ở Sài-Gòn với ông bà; tôi lái xe xuống tỉnh, sáng đi chiều về tiện cả đôi bề. Thực tế quãng đường 58km phải qua bến đò Chợ Gạo, chờ đợi cả mấy giờ, nhiều nơi du-kích đắp mô lùa dân tra tấn, cướp bóc. Gò Công là tỉnh cổ không phát triển, ít nhà cho thuê, nước mặn cả vùng, người dân phải tích trữ nước mưa hay mua nước ngọt chở ghe từ Mỹ-Tho. Thật nguy hiểm và bất tiện!
Xa Pleiku rồi mới thấy nhớ và tiếc Pleiku: nhớ nơi yên lành, nhớ tình người, nhớ nơi đã cho một gia-đình hạnh phúc, sung túc. Các em học-sinh hiền hòa, dễ thương ghi nhiều kỷ niệm đẹp về nơi chốn và con người. Rất tiếc thời gian ngắn 5 năm, bận con cái không có giờ dậy thêm các trương khác nên bạn bè đồng nghịệp giới hạn.
Xa quê-hương, xa Pleiku đã hơn nửa thế-kỷ, hội cựu học-sinh thành lập hầu tìm lại bạn cũ, thầy cô xưa như để nhớ về một thời tuổi trẻ tươi đẹp. Mường tượng cảnh trường lớp với các thanh niên, thiếu nữ lanh lẹ, khỏe mạnh tràn đầy nhựa sống đang đi tìm tương lại. Do duyên gặp gỡ, hướng dẫn mầm non của thế hệ, trải bao năm tháng của cuộc đời và nổi trôi theo vận nước, bây giờ gặp lại các học-sinh thời xa xưa. Ôi ! niềm hạnh-phúc khôn tả ở tuổi 'Lão Lai" này. Giờ đây các em đã thành công, thành danh và thành nhân nhưng vẫn không quên nghĩa cũ. Rất hân hạnh các em dã cho một chỗ trong ngăn tình cảm.
Cám ơn các các cựu học-sinh, ban tổ chức, đã không ngại " vác ngà voi" mỗi năm họp mặt để " tay bắt mặt mừng" với " người Pleiku năm cũ ", dấy lên ánh bình minh trong buổi chiều tà.
Thân ái chúc mừng đại hội Liên trường Phố Núi Pleiku.
Mùa Xuân năm 2014 .Bùi Mỹ Dương .

TIN THẾ GIỚI

 

Bộ trưởng Hagel: Mỹ hậu thuẫn Nhật Bản, các đồng minh châu Á

Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel và Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera trong cuộc họp báo chung tại Bộ Quốc phòng Nhật Bản ở Tokyo, 6/4/14
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel và Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera trong cuộc họp báo chung tại Bộ Quốc phòng Nhật Bản ở Tokyo, 6/4/14
CỠ CHỮ
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel nhấn mạnh Hoa Kỳ sẽ hậu thuẫn Nhật Bản chống lại những khiêu khích của Bắc Triều Tiên và mối đe dọa từ Trung Quốc. Thông tín viên VOA Rebecca Valli tường thuật rằng Bộ trưởng Hagel nói về về vấn đề này ở Tokyo sau cuộc họp với Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera.

Vào ngày thứ nhì trong chuyến công du Nhật Bản, Bộ trưởng Hagel loan báo Hoa Kỳ sẽ tăng sự hỗ trợ quân sự cho nước đồng minh châu Á này. Ông nói:

“Để đáp lại các hành động khiêu khích và gây bất ổn của Bình Nhưỡng, trong đó có hành động phóng phi đạn cùng với những vi phạm nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc trong thời gian gần đây, hôm nay, tôi có thể loan báo rằng Hoa Kỳ đang hoạch định việc điều động thêm 2 chiến hạm trang bị phi đạn phòng thủ Aegis đến Nhật Bản trước năm 2017.”

Trong các vụ căng thẳng bùng phát trên bán đảo Triều Tiên gần đây nhất vào cuối tháng 3, Bắc Triều Tiên đã pháo kích vào vùng biển Nam Triều Tiên gần duyên hải phía tây của miền bắc. Nam Triều Tiên đáp trả và 2 nước đã bắn qua lại hàng trăm quả đạn thật chỉ trong mấy tiếng đồng hồ.

Trong các hành động khiêu khích mới đây của Bắc Triều Tiên còn có vụ bắn một phi đạn tầm trung có khả năng bay đến Nhật Bản.

Bộ trưởng Hagel cũng đề cập đến Trung Quốc, quốc gia ông sẽ đến thăm sau khi rời Nhật Bản.

Quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản đang ở mức thấp vì vụ tranh chấp chủ quyền nhóm đảo trong vùng biển giàu tài nguyên nằm về hướng đông của Trung Quốc.

Mặc dù không đứng về phía bất cứ nước nào trong cuộc tranh chấp chủ quyền biển đảo, Hoa Kỳ thừa nhận quyền quản lý trên thực tế của Nhật Bản và theo hiệp ước có tính ràng buộc giữa 2 nước, sẽ bảo vệ trong trường hợp Nhật Bản bị xâm lăng.

Hôm Chủ nhật, Bộ trưởng Hagel đã so sánh trường hợp Nga sát nhập bán đảo Crimea:

“Quý vị không thể đi quanh thế giới và xác định lại các ranh giới, và vi phạm nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của các quốc gia bằng võ lực, ép buộc và đe dọa, cho dù đó là trên các đảo nhỏ trong Thái bình dương hay những nước lớn ở châu Âu.”

Những gì đã xảy ra ở Ukraine đã có một gây âm hưởng ở châu Á, nơi mà Trung Quốc vướng vào các cuộc tranh chấp gay gắt về các lãnh hải ở phía đông và phía nam của nước này.

Những nước như Philippines và Nhật Bản đã nêu lên các quan ngại về lập trường ngày càng quyết đoán trong các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Bắc Kinh

Bộ trưởng Hagel gọi Trung Quốc là một cường quốc, nhưng nói rằng quốc gia này nên tôn trọng các nước láng giềng, minh bạch hơn về sức mạnh quân sự, kiềm chế hành động ép buộc và đe dọa. Ông nói:

“Với sức mạnh này, phải đi kèm với các trách nhiệm mới và rộng lớn hơn đó là cách quý vị sử dụng sức mạnh đó như thế nào, qúy vị sử dụng sức mạnh quân sự đó ra sao. Và tôi muốn nói với Trung Quốc về tất cả những sự minh bạch đặc thù đó. Đây là một chiều hướng chính yếu của các mối quan hệ.”

Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ sẽ đi Bắc Kinh vào thứ Hai.

Các nhà phân tích ở Trung Quốc nói rằng các vụ tranh chấp lãnh thổ có phần chắc sẽ được nêu lên trong chuyến đến thăm của Bộ trưởng Hagel, cũng như vấn đề hợp tác quân sự và các biện pháp đối phó với Bắc Triều Triều Tiên 
 http://www.voatiengviet.com/content/bo-truong-hagel-my-se-hau-thuan-nhat-ban-cac-dong-minh-chau-a/1887563.html

Mỹ điều thêm 2 chiến hạm có trang bị phi đạn phòng thủ đến Nhật

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel và Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera tại Tokyo, ngày 5/4/2014.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel và Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera tại Tokyo, ngày 5/4/2014.
CỠ CHỮ
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ cho biết Washington dự định đưa thêm hai chiến hạm có trang bị phi đạn phòng thủ đến Nhật Bản để ứng phó với mối đe dọa do các hành động của Bắc Triều Tiên gây ra.

Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel phát biểu tại một cuộc họp báo ở Tokyo hôm nay sau cuộc họp với Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera rằng hai chiến hạm AEGIS trang bị phi đạn phòng thủ sẽ được đưa đến Nhật Bản trước năm 2017, nâng lực lượng phi đạn phòng thủ của Mỹ lên thành 7 chiến hạm.

Tuyên bố được đưa ra vào lúc Bắc Triều Tiên một lần nữa gia tăng căng thẳng với các nước láng giềng với đe dọa sẽ tiếp tục có thêm các vụ thử nghiệm hạt nhân và phóng phi đạn.

Trước khi lên đường đi Bắc Kinh, Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel cũng kêu gọi Bắc Kinh sử dụng sức mạnh của họ một cách có trách nhiệm đối với các mối quan hệ trong khu vực và các tranh chấp lãnh thổ.

Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ đang thực hiện chuyến công du 10 ngày quanh khu vực châu Á – Thái Bình Dương để trấn an các đồng minh rằng Hoa Kỳ cam kết với các hiệp ước phòng thủ chung trong khu vực.

Hôm thứ Bảy, ông Hagel nói rằng việc Nga sáp nhập Crimea và di chuyển quân đội dọc theo biên giới với Ukraine gây ra lo ngại đối với với các đồng minh của Hoa Kỳ trong khu vực Thái Bình Dương và các nơi khác.
http://www.voatiengviet.com/content/my-dieu-hai-chien-ham-co-trang-bi-phi-dan-phong-thu-den-nhat/1887331.html



Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ yêu cầu Trung Quốc tôn trọng các láng giềng

Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera (T) và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel (P) duyệt qua hàng quân danh dự tại trụ sở Bộ Quốc phòng Nhật ở Tokyo ngày 06/04/2014.
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera (T) và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel (P) duyệt qua hàng quân danh dự tại trụ sở Bộ Quốc phòng Nhật ở Tokyo ngày 06/04/2014.
REUTERS/Alex Wong

Đức Tâm
Đang công du Nhật Bản, sau cuộc gặp với đồng nhiệm Nhật Bản Itsunori Onodera, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Chuck Hagel hôm 06/04/2014, đã nhắc đến tiền lệ Nga sáp nhập vùng Crimée để cảnh báo Trung Quốc không nên có những hành động đơn phương nhằm giải quyết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Nhật Bản cũng như với các nước Châu Á khác.

Theo Bộ trưởng Chuck Hagel, « tất cả mọi quốc gia đều cần phải được tôn trọng, cho dù đó là nước lớn hay nhỏ » và « chúng ta thấy một ví dụ minh họa rõ ràng cho việc không tôn trọng, cưỡng bức và hù dọa qua những gì mà Nga đã làm tại Ukraina »
Ông Hagel nhấn mạnh : « Không thể vẽ lại đường biên giới, xâm phạm toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của các quốc gia qua các hành động vũ lực, cưỡng bức và dọa nạt – cho dù đó là những hòn đảo nhỏ ở Thái Bình Dương hay các quốc gia lớn ở Châu Âu. Và tôi muốn nói rõ điều đó với Trung Quốc ». Bởi vì là « một cường quốc lớn », thì « Trung Quốc phải có trách nhiệm to lớn ».
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã tuyên bố như trên trước khi ông tới Bắc Kinh ngày 07/04.
Đồng thời, ông Hagel cũng nhắc lại là Hoa Kỳ cam kết đứng bên cạnh đồng minh Nhật Bản trong khuôn khổ hiệp định phòng thủ chung và phạm vi áp dụng của bản hiệp định này bao gồm cả các quần đảo ở biển Hoa Đông, nơi đang có những tranh chấp chủ quyền giữa Nhật Bản và Trung Quốc.
Ông nói : « Chúng tôi kiên quyết chống lại mọi hành động cưỡng chế đơn phương nhằm phủ nhận sự kiểm soát hành chính của Nhật Bản » đối với một vùng lãnh thổ và ông kêu gọi Tokyo và Bắc Kinh giải quyết một cách hòa bình các tranh chấp lãnh thổ.

Thực hư chuyện TQ làm ăn 'mờ ám' ở VN

Cập nhật: 17:17 GMT - chủ nhật, 6 tháng 4, 2014
Lao động phổ thông của Trung Quốc ở Việt Nam
Hiện chưa có thông kê đầy đủ về số lượng lao động phổ thông TQ trong nội địa VN.
Có thể xác nhận nhiều động thái đầu tư, di cư lao động phổ thông, buôn bán thương lái của Trung Quốc vào nội địa Việt Nam gây ra những tác động có tính 'phá hoại', 'đe dọa an ninh trật tự, môi trường' của Việt Nam một cách có hệ thống, theo nhà quan sát từ Việt Nam.
Đã đủ thông tin để xác nhận nhiều cuộc đầu tư của doanh nghiệp của Trung Quốc được thực hiện mà không đem lại hiệu quả giá trị gia tăng công nghệ cho các ngành, cấp, địa phương hoặc các khu vực, lĩnh vực kinh tế của Việt Nam, mà ngược lại gây tác hại cho thị trường lao động của Việt Nam, người lao động Việt Nam, theo bà Phạm Chi Lan, nguyên Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
Trao đổi với BBC hôm 06/4/2014, bà Lan nói nhiều doanh nghiệp của Trung Quốc đã vi phạm luật lao động, đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam, hoạt động bất chấp luật pháp, thậm chí không có phép tắc,
Lao động phổ thông của Trung Quốc di cư tràn lan vào Việt Nam gây ra tình trạng 'cướp công ăn, việc làm' của người dân địa phương, trong khi thương lái của Trung Quốc có hàng loạt các động thái gom, mua hàng rất 'mờ ám và bất thường', từ việc mua ốc bươu vàng, mua đỉa, mua lá khoai lang non, mua mầm thảo quả, nấm độc, cá sấu, heo mỡ, tôm nguyên liệu v.v...
Những hành động này diễn ra trong nhiều năm và theo nhà quan sát có yếu tố phá hoại kinh tế với Việt Nam, gây lo lắng cho việc làm ăn của người dân Việt Nam với Trung Quốc, là quốc gia có đường biên giới cả trên đất liền và biển với Việt Nam.

'Yêu cầu Trung Quốc nghiêm chỉnh'

Một khu phố Trung Quốc ở Việt Nam
Ngày càng xuất hiện nhiều 'khu phố' Trung Quốc ở các địa phương ở Việt Nam.
Việc để các hiện tượng trên xảy ra, theo bà Lan, có phần tác trách của các chính quyền địa phương, đồng thời chính phủ và chính quyền Trung ương của Việt Nam cần nghiêm túc rút kinh nghiệm và có các biện pháp yêu cầu Trung Quốc làm ăn nghiêm túc trở lại trên cơ sở bình đẳng với Việt Nam.
Mặt khác, Việt Nam cần có các điều tra, thống kê cụ thể để nắm bắt được rõ ràng các khuynh hướng, động thái, động cơ đầu tư của Trung Quốc ở Việt Nam, từ hình thức, tính chất, quy mô, số lượng, cho tới hàm lượng công nghệ, chất lượng lao động của họ và qua đó có những động thái cụ thể để kiểm soát, bảo vệ lợi ích kinh tế, thương mại và an ninh của Việt Nam.
Đồng thời, vẫn theo chuyên gia kinh tế này, Trung Quốc với tư cách cường quốc đang lên và láng giềng, cũng phải rút kinh nghiệm quản lý tốt hơn giới đầu tư, lao động và thương lái của mình, tránh để tạo ra những tâm lý phản cảm, lo lắng, quan ngại được cho là có cơ sở của người Việt Nam, không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trong các quan hệ có liên quan tới quốc phòng, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, từ biển đảo cho tới các dự án trong đất liền, để cả hai phía đều có thể thụ hưởng được lợi thế hợp tác kinh tế song phương một cách lành mạnh và bền vững.
Mở đầu cuộc trao đổi với BBC hôm Chủ Nhật, bà Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban tư vấn của Thủ tướng Chính phủ thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt và cựu Thủ tướng Phan Văn Khải điểm lại bốn nhóm nguy cơ chính và đồng thời là các quan ngại mà việc làm ăn, đầu tư, thương lái, di cư lao động không 'tường minh' và 'bất thường' của Trung Quốc đang gây ra đối với người dân và cộng đồng lao động, kinh doanh của Việt Nam trong cả nước.

Các bài liên quan







CUNG TRẦM TƯỞNG * NHU CẦU GIẢI HÁN HOÁ

TA VỀ KHÔNG TẮM AO TA, CÂU CHUYỆN NGÔN NGỮ HỌC, VÀ NHU CẦU GIẢI HÁN HOÁ  

CUNG TRẦM TƯỞNG



MỘT CÁCH VIẾT



Trước khi nhập đề, người viết có dăm ba lời muốn ngỏ cùng bạn đọc.

Luận văn này nên được coi như sự thể hiện một thể văn mới làm nên bởi sự kết hợp của hai thể tuỳ bút và tiểu luận và được gọi là thể tuỳ-luận. Với một điều kiện phải được tôn trọng: sự viết phóng tay cho thoả chí tang bồng văn chương không được vượt quá mức cho phép của cách viết nghiêm xác của học thuật đặt ra cho người viết.


Nghệ thuật viết tuỳ-luận là làm sao lồng vào sự sáng sủa phải có của lí luận một vẻ đẹp văn chương lấp lánh khiến cho lí luận có thêm sức thuyết phục và lôi cuốn. Bởi đối tượng người viết muốn nhắm vào là một người đọc toàn năng, đọc bằng cả cái đầu lẫn quả tim của mình thì mới thấy hết được ý nhị tinh thần và duyên dáng văn phong của bài viết.


Về hình thức, tuỳ-luận nên được coi như một cách kể chuyện với một bố cục làm bằng những bước cóc nhảy và tạt qua sao cho khớp với nhịp tuỳ hứng của một người viết đôi khi có những cơn lên đồng "bất tử" bằng những con chữ của mình để xem chúng có thắp lên được cõi vô thức u minh không.


Tên "Ta về không tắm ao ta" của bài thơ chúng tôi làm cách đây vài năm được chọn làm một trong ba tựa đề của bài tuỳ-luận.

Trưóc hết, xin nói qua về bối cảnh của sự ra đời và mục đích muốn nhắm tới của bài thơ để giúp bạn đọc hiểu thấu đáo hơn những ý tình của tác giả ủ gửi trong lòng chữ nghĩa của nó.


Bài thơ ra đời từ hình ảnh của một con vờ - một hình ảnh tâm lí - mà tác giả bắt gặp trên mặt nước một ao tù trong cổ thành của thị trấn Sơn Tây lúc hắn còn là một đứa trẻ thơ. Kể từ buổi sơ ngộ ấy, một buổi chiều thu mây che u ám, hình ảnh con vờ ở lại luôn trong kí ức tác giả như một ám ảnh mông lung, một thắc mắc mơ hồ, một xao động lăn tăn, một kí hiệu u uẩn, một đầu tư thi ca bất trắc có nguy cơ trở thành vô sinh như thứ cau không trổ buồng. Ý tác giả muốn nói: nó có thể bị ngưng lại ở dạng một biểu tượng tâm lí thuần tuý vì không có cơ duyên trở thành một mãn thể ngôn ngữ là bài thơ. Lí do không phải vì kí ức của ta bạc bẽo với nó mà vì khả năng ngôn ngữ của ta bất cập trước cái muôn màu muôn vẻ của thế giới sự vật. Trong đầu mỗi chúng ta có một nghĩa trang chôn không biết cơ man nào mà kể những phôi chữ chết yểu. Cơ bản, mỗi chúng ta ít nhiều mắc phải bệnh thất ngữ.


Trên phương diện sáng tác, đối với chúng tôi cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi và con vờ với những dư huởng lâu dài của nó là một sự kiện văn chương ý nghĩa, một hạnh ngộ, cái động cơ hữu ích khiến chúng tôi làm nên được bài thơ. Tức một nguồn cảm hứng dồi dào xuất phát từ một ý nghĩa mơ hồ về con vờ, rồi phát triển ý nghĩa này thành một cái nhìn rõ nét hoá vờ ấy từ là một hình ảnh chung chung trừu tượng thành một hiện diện cụ thể có một bản sắc đặc thù. Cái bản sắc ấy được cách điệu hoá thành một bản sắc văn chương làm nên bởi một ngã ngữ, tức cái ngôn ngữ của người viết làm ra trong từng mỗi hoàn cảnh cá nhân cụ thể. Cách viết này được nhà cơ cấu học ngôn ngữ Noam Chomsky đặt cho cái tên "performance" mà Giáo sư Trần Ngọc Ninh chuyển sang tiếng Việt thành "diễn năng ngôn ngữ".


Viết cách sáng tạo là sử dụng ngôn ngữ như một chất xúc tác để khai triển đối tượng của sự viết thành một cái nó khác hoàn chỉnh hơn, cái mầm ý sơ khai thành một mãn khai tư tưởng, âm bản lờ mờ của con vờ trong đầu mình thành một dương bản sắc hình rõ nét - sự hoá thân của con vờ ngoài đời thành con vờ văn chương trên trang giấy.



Chúng tôi xin tạm rời bài thơ để chuyển sang một đề tài khác mà cũng là một bộ phận của bài tuỳ-luận này.


VAI TRÒ CỦA SINH - TÂM LÍ HỌC TRONG NGÔN NGỮ HỌC HIỆN ĐẠI


Người là loài vật độc nhất có tiếng nói.

Một số những gì chúng tôi sắp trình bày sau đây dựa trên một số công trình nghiên cứu cổ điển và hiện đại về ngôn ngữ loài người trong đó có cuốn chuyên khảo cơ cấu Việt ngữ của Giáo sư Trần Ngọc Ninh.


Theo chúng tôi, do cách vận dụng sáng tạo những thành tựu mới nhất của ngôn ngữ học hiện đại, đặc biệt sự đóng góp quan trọng của Chomsky với hai thuyết Ngữ pháp Hoàn vũ và Ngữ pháp Biến cải và Tạo tác - Universal Grammar và Transformational and Generative Grammar - của ông, cuốn sách của họ Trần có hai ưu điểm: phạm vi của nó quy mô hơn và khảo hướng của nó có tính khoa học hoàn chỉnh hơn so với những cuốn cùng chung đề tài của các tác giả Việt Nam và tác giả nước ngoài khác mà chúng tôi đã có dịp đọc được từ mấy chục năm qua.



Sự con người thủ đắc một tiềm năng ngôn ngữ bẩm sinh xuất phát từ hai nguyên nhân: một là, theo các nhà tiến hoá học vi mô, một chuỗi những đột biến trong mã di truyền của loài người đã hoá nó thành một hiện hữu có tính sinh học đặc loại so với các loài vật khác; hai là, những kinh nghiệm thu gặt từ cuộc tiếp xúc với những đồng loại để học tập lẫn nhau và cuộc tiếp xúc với thế giới tự nhiên xuyên suốt chiều dài của lịch sử tiến hoá của nó đã tạo cho nó có một khả năng văn hoá khiến nó vượt thắng được định mệnh hầu nhân tổ tông của nó, rồi từ đó dần dần tự hình thành mình thành một con người văn hoá hoàn chỉnh được hiểu ở đây theo một nghĩa hẹp là một con người tự làm ra cho mình một ngôn ngữ. Đây quả là một sáng tạo kì diệu.


Theo các nhà tâm lí học ngôn ngữ hiện đại, tiềm năng ngôn ngữ in ủ trong não bộ con người dưới dạng những hình ảnh âm vị (image phonémique) chứ không phải dưới dạng những hình ảnh âm học (image phonétique) như trường phái saussurien trước kia đã nghĩ. Sự chuyển bậc từ quan điểm vật lí học sang quan điểm tâm lí học này có được là nhờ sự áp dụng cơ cấu pháp hiện đại vào việc khảo sát ngôn ngữ loài người.



Khác với Saussure coi ngữ tức tiếng (langue, language) là phần xã hội, nghĩa là ở ngoài các cá nhân, của ngôn tức lời (parole), Chomsky cho rằng ngữ ngụ trong tâm lí con người và đặt cho nó cái tên ngôn ngữ nội tàng - Internal I language. Quan điểm này xuất phát từ thuyết Ngữ pháp Hoàn vũ - Universal Grammar - của chính ông mà theo ông là "một ngữ pháp nội tàng chung cho tất cả mọi người và mỗi người, gồm những nguyên lí căn bản của ngôn ngữ nội tàng (I- language) với những bàng kế (parameters) đặc thù đã được cố định bởi kinh nghiệm của cộng đồng trong lịch sử." (Trần Ngọc Ninh, Cơ cấu Việt ngữ, quyển II trang 427)


Kể từ thời Saussure (đầu thế kỉ 20) cho đến nay, ngôn ngữ học đã đạt được những thành tựu quan trọng. Ngôn ngữ học hiện đại là một khoa học tổng hợp gồm cơ cấu học, kí hiệu học, ngữ văn học, khảo cổ học, hiện tượng học, sinh lí học, tâm lí học, hành vi học, và vân vân. Sự tổng hợp này, do coi ngôn ngữ là một hiện tượng husserlien, tức là sự thể hiện hữu cơ của bản chất sự vật, không hoá ngôn ngữ thành một hợp thể mà thành một đồng nhất thể của các yếu tố cấu thành hoà tan vào nhau giống như một chất hoá hợp.


Tuy nhiên, ngôn ngữ học hiện đại vẫn còn có những hạn chế của nó. Chẳng hạn trong lãnh vực ngữ pháp học, nó vẫn chưa có được những bước khai phá đáng kể về ngữ nghĩa học như đã đạt được trong âm vị học và cú pháp học. Đối với nó, ngữ nghĩa học vẫn còn là một vấn đề để ngỏ.


Riêng về Việt ngữ, với sự xác định có độ thuyết phục cao nguồn gốc của tiếng mẹ đẻ của chúng ta với cách phân tích từ loại, định hình cấu trúc của từ, câu, đoạn đã nêu lên được cái logic khúc chiết ngoạn mục của ngữ pháp Việt, sự khảo sát của Giáo sư họ Trần là một đóng góp quan trọng do tính quy mô và tính khoa học cao của nó. Nó tạo cho chúng ta một cơ sở để vững tin vào sự trường tồn của dân tộc chúng ta, bởi vì khi một nền văn hoá có một ngôn ngữ hoàn chỉnh như tiếng Việt - một viên ngọc trong kho tàng trên 4000 ngôn ngữ của loài người - văn hoá ấy không thể bị đồng hoá bởi bất cứ một âm mưu thôn tính nào của ngoại bang. Sự thần phục Trung Quốc hiện nay của chính quyền cộng sản Việt Nam chỉ là một hiện tượng nhất thời thể nào cũng sẽ bị cuốn phăng đi bởi sự trỗi dậy của niềm tự hào dân tộc mà nền văn hoá với cái ngôn ngữ tinh anh ấy của nó đã in sâu trong tâm thức mỗi chúng ta.



SỰ VONG THÂN NGÔN NGỮ, MỘT CĂN BỆNH THỜI ĐẠI


Nay, ta hãy mượn một số chuyên ngữ của Chomsky để miêu tả tấn bi kịch ngôn ngữ của giới viết văn phải sống dưới một chế độ độc tài toàn trị như chế độ hiện hữu ở Việt Nam.


Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến một khía cạnh của tấn bi kịch ấy, đó là sự vong thân ngôn ngữ, một hiện tượng phổ biến trong văn giới ở Việt Nam. Do tính cách trầm trọng của nó, ca bệnh của người viết văn đảng viên cộng sản được mang ra phẫu xẻ để xem chức năng ngôn ngữ của họ thoái hoá như thế nào.


Vì sống trong một môi trường không có tự do tư tưởng, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, khả năng ngôn ngữ văn chương của người viết văn cộng sản bị thui chột. Do đó, khi sáng tác họ phải vịn vào cái ngôn ngữ giáo điều và mẫu diễn năng đúc khuôn của Đảng tiền chế và lập trình sẵn cho họ: họ bị vong thân ngôn ngữ.


Trước khi xét những di luỵ của chứng bệnh này nơi con bệnh, chúng tôi xin nói qua về động thái của một người viết văn lành mạnh, một người có được những nhân quyền kể trên.


Người viết văn với tư cách một chủ thể tự do sáng tạo sử dụng ngôn ngữ để hình thành cho mình một bản sắc không những chỉ độc đáo về ý tưởng mà lại còn sở hữu một ngôn ngữ và một bút thuật đặc thù của mình làm ra. Viết cách sáng tạo là nghệ thuật phóng chiếu trên trang giấy cái I language, của cái chung của mọi người gửi gắm trong cá nhân mỗi người, thành một cái Chomsky gọi là "ngôn ngữ ngoại xuất" (External E language) văn vẻ ấm nồng cá tính và hơi thở sinh lí của người viết. Tức sự nống ra châu thân, dấu lăn tay trên thẻ căn cước, quả tim thứ hai của tôi phơi bày ra ngoài ánh sáng. Tôi viết do đó tôi nhân đôi sự hiện hữu của tôi.


Viết cách sáng tạo, nói cách khác, là sự thể hiện bằng những con chữ của tôi con người cá nhân cụ thể của tôi, tức sự tôi thoát li khỏi nền chuyên chế của cái ta chung trừu tượng, trong trường hợp của người viết văn ở Việt Nam là cái ta vô hồn, vô sắc, vô cảm của đảng đoàn, cơ chế, tổ chức, mặt trận và vân vân.



Do sống dưới một chế độ mà sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước xâm thực vào mọi nghành sinh hoạt của người dân, kể cả sinh hoạt tư tưởng, văn hoá, văn học nhằm bóp chết mọi sáng kiến cá nhân tự do như chế độ độc tài toàn trị hiện hữu ở Việt Nam, khả năng sáng tạo một ngã ngữ cho mình của người viết văn, đặc biệt người viết văn cộng sản, bị thui chột. Do đó, như đã nói ở trên, khi sáng tác họ phải mượn ngôn ngữ của Đảng làm sẵn cho và nhét vào đầu mình. Ngôn ngữ này, một tha ngữ; tức ngôn ngữ của kẻ khác đối lập với với ngã ngữ của mình; nó cứng ngắc ước lệ và nồng nặc tính giáo điều và khẩu hiệu - một ngôn ngữ thoái hoá.


Ta hãy xét xem sự vong thân ngôn ngữ trên của người viết văn cộng sản tác hại đến họ như thế nào.


Cái tha ngữ mượn của Đảng dùng lâu ngày hoá quán ngữ. Khi được lặp đi lặp lại với một tần số cao, quán ngữ xâm thực vào vùng giao diện óc-trí tuệ (brain-mind interface) của não bộ và hoá bản chất thứ hai.


Nhưng sự vong thân ngôn ngữ không những chỉ đơn thuần là một hiện tượng ngôn ngữ mà lại còn làm tha hoá nhân cách người viết văn cộng sản. Hắn hoá một người thiếu tự trọng, vô liêm sỉ, tên tay sai ngu trung và là kẻ đồng loã với Đảng, một tổ chức gian nhân đã phạm những tội ác tày trời với đồng bào của hắn. Tỉ dụ, thông qua những câu văn, lời thơ hắn làm theo chỉ thị của Đảng, hắn đã can dự vào những cuộc giết người hàng loạt, giết trên 200.000 nạn nhân vô tội trong cuộc cải cách ruộng đất của thập niên 1950 và giết bốn triệu người bị quẳng vào cỗ máy nghiền thịt sống của hai cuộc chiến ác liệt của thế kỉ 20, thế kỉ của một lừa đảo ngôn ngữ vĩ đại mà hắn là tác giả chủ chốt. Hoà bình trở lại, hắn vẫn chứng nào tật nấy hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng trao cho là làm tên công an văn hoá, chỉ điểm văn học, đàn hạch những ngưỡi viết văn khác thông qua một ngôn ngữ đổi mới về hình thức nhưng vẫn giữ nguyên bản chất tha ngữ nồng nặc tính Đảng của nó.



Có thể đôi lúc người viết văn cộng sản có một cảm giác lợn gợn lăn tăn là không ở nhà - not at home - với cái tha ngữ ấy, nhưng ý thức kỷ luật thép Đảng cắm sâu vào đầu hắn, nỗi sợ hãi thâm căn cố đế và sự phụ thuộc của bao tử của hắn vào miếng cơm manh áo Đảng ban cho sẽ đồng bộ ra tay bóp chết tức thì bất cứ manh nha thoát li ngôn ngữ nào loé trong tâm trí hắn. Bởi vì bi kịch ngôn ngữ của hắn cơ bản là một bi kịch tâm lí, sự hắn đánh mất nhân cách và lương tâm của mình.



Chúng tôi xin trích dẫn một số nhận xét của nhà phê bình văn học cộng sản phản tỉnh Vương Trí Nhàn (vuongtrinhan.blogspot.com) mà theo chúng tôi có ít nhiều liên quan đến hiện tượng vong thân ngôn ngữ nêu trên.


Điều cấn cái ở ông Nhàn là, do chưa rũ hẳn được bản chất cộng sản hằng hữu của mình, ông ta đã phải khéo dùng một cách viết gián tiếp, dè dặt, vòng vo, uốn éo, để không nói là nguỵ biện, nhưng theo chúng tôi đó cơ bản vẫn là một lời thú nhận căn bệnh của mình và đồng nghiệp. Ông kể hai trường hợp cộng sản phản tỉnh lúc cuối đời Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu đã thổ lộ với ông sau khi họ đọc Cát Lầy của Thanh Tâm Tuyền và Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan. Ông Nhàn viết: "Cát Lầy theo Nguyễn Khải, ăn ở sự ma quái. Cũng như sau này Nguyễn Minh Châu nói rằng thích Thần Tháp Rùa vì ở đó có yếu tố tượng trưng. Cả hai nhà văn Hà Nội của tôi viết theo lối thực, nhưng ở chỗ riêng tư, các anh bao giờ cũng nhấn mạnh một thứ văn suôi thăng hoa mới là điều đáng mơ ước, và chúng tôi cũng học theo các anh mà nói vậy. Ai mà chẳng muốn khác đi một chút so với những gì mình đang có!"


Ông Nhàn ghi lại nhận xét của Nguyễn Minh Châu về Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng: "Văn chương nó viết nhuyễn thật. Không phải là uốn éo đâu mà với nội dung ấy thì phải viết kiểu ấy, nó mới nói hết được cái phức tạp của con người bây giờ."


Cuối cùng Ông Nhàn buông xuôi với một câu: "Hoàn cảnh quyết định hết!" Chúng tôi xin hỏi ông ta: "Thế thì những Phùng Cung, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang có chịu buông xuôi trước hoàn cảnh như ông không?"


Tóm lại, chúng tôi thấy ông Nhàn chưa dứt khoát phản tỉnh vì chưa cảm thấy xấu hổ về cái thân phận vong nô và vong thân ngôn ngữ trước kia của mình.



Trên phương diện bản thể, sự vong thân ngôn ngữ nơi người viết văn cộng sản đào xới tới đáy cùng châu thân hắn, tức cái lẽ tồn tại của hắn như một người viết văn. Mà khi một người viết văn mất khả năng tạo cho mình một ngôn ngữ và một cách viết riêng của mình, hắn hoá một hiện hữu thừa và vô sinh như thứ cau không trổ buồng. Một hiện hữu tật nguyền, sự thoái hoá loài như con cánh cụt, một loài chim không có khả năng bay, tức sự rút nhỏ thành một nửa bản thể - demi-être. Sự chọn lựa lầm, sáng tạo uổng phí của Hoá công. Tấn bi hài kịch sinh học lố bịch làm cử toạ cười ra nước mắt.



Nói cách khác, sự vong thân ngôn ngữ cũa người viết văn cộng sản cũng là sự vong thân của chính bản thể hắn. Nó hoá hắn thành một vật dụng, một cái máy rập khuôn những con chữ gỗ và những kí hiệu vô hồn.



KÍ HIỆU HỌC VỀ MỘT NGÔN NGỮ VÔ THANH


Người là động vật duy nhất có tiếng nói. Mất tiếng nói hay bị cấm nói, nó sống một cuộc sống mất quân bình. Để bù đáp, nó phải sử dụng tiếng kêu, tiếng thở dài, tiếng khóc, tiếng cười và những phương cụ khác của ngôn ngữ thân thể như cặp mắt, đôi môi, hai bàn tay, dáng đi, cách ngồi và những điệu bộ khác để tự khẳng định sự hiện hữu của mình. Nó bắt buộc phải trở lại làm con người tiền sử, một con vật không có tiếng nói. Nhưng là một con vật có cái pour-soi biết mình là một con vật.


Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy đặc điêu ngoa và xảo trá. Môi trường ngôn ngữ bị lũng đoạn bởi những âm mưu u ám của lũ phù thuỷ, lăng băm chính trị đức mỏng tài thô, say mê quyền lực và bạo lực. Trong môi trưòng bị nhiễm độc này, con chữ trở thành một công cụ của tuyên truyền: cái bẫy gài biến người dân thành một cái máy nghe thụ động, ngu trung và một chiếc loa lặp lại không sai một chữ những khẩu hiệu, sáo ngữ, thần chú, sấm truyền, chỉ thị của bọn phù thuỷ, lang băm. Chúng còn tẩm mị dược vào con chữ để làm bại liệt óc phán đoán của người dân rồi ném họ vào những vạc lửa chiến tranh, những lò thiêu thanh tẩy chủng tộc, những cỗ máy nghiền thanh trừng giai cấp, tất cả đã ngốn ngót 200 triệu sinh linh trong chưa đầy một thế kỉ. Thế kỉ 20 là một thế kỉ của ngôn ngữ đẫm máu.



Vì thế có những lúc ta đâm kinh tởm tiếng nói và tự đẩy mình vào một tình trạng á khẩu. Sự lưu vong tự nguyện vào cõi vô thanh này đến một lúc nào đó sẽ gây cho ta một cảm giác tắc nghẽn, khó ở. Đây chính là lúc ta cần gặp chàng diễn viên kịch câm Marcel Marceau để nhờ chàng giải toả hộ cơn bế ngữ ta đang mắc phải bằng những điệu bộ, cử chỉ của chàng. Điều tài tình là chàng đã khéo léo và linh hoạt sử dụng thân thể mình để "nói" lên một thứ ngôn ngữ tín hiệu giàu sức biểu cảm và tính ẩn dụ. Nhìn chàng diễn xuất, ta có cảm tưởng như cả thân chàng đang nhô ra khỏi cái khối en-soi u đặc của nó để phát biểu cảm nghĩ và bày tỏ thái độ bằng mắt, mũi, môi, tay, vai và bằng cả chân nữa. Nhưng vì đây là một ngôn ngữ trừu tượng, nên khả năng biểu đạt tâm tính, tình cảm của mỗi bộ phận phải được khai thác tối đa nhằm nâng cao hệ số chuyển tải thông điệp của nó. Chẳng hạn như trìu mến bằng mắt, khinh thị bằng môi, cao kiêu bằng mũi, hiếu kì bằng cổ, nhún/nhường bằng vai, bình chân nghe ngóng và phẫn nộ bằng tay. Kể cả sống lưng cũng được giao phó nhiệm vụ thông báo nhân cách.


Ở Marceau, ngôn ngữ cử chỉ là một ngôn ngữ tín hiệu có hồn. Môt thứ thể dục nhằm khai dụng tối đa những hạt mầm ngữ nghĩa ủ trong cơ bắp. Một thứ kịch nghệ toàn năng sử dụng hết công xuất của một thân thể bén nhạy, mẫn cảm, tinh khôn, uyển chuyển, linh hoạt, vụng về một cách khéo léo, ngang phè một cách dễ thương, nhăn nhó một cách trào lộng, co ro một cách đáo để, hung hăng vô hại, vô ngôn một cách hùng hồn. Chiếc mặt nạ chân phương, logic của phi lí, người phát ngôn câm của một nghịch ngữ ngang tầm với cái nghịch lí trớ trêu của phận người. Tưởng cũng nên nêu lên một nét đặc thù khác của nghệ thuật Marceau: nó tránh sự cường điệu vì đạo đức tự thân của nghệ thuật diễn xuất muốn nó phải như vậy.



Một khán giả mẫn cảm thì đọc được cái thông điệp tư tưởng mà ngôn ngữ thân thể ấy muốn chuyển đạt: đó là sự mâu thuẫn đầy tính bi hài và chưa có lời giải của thân phận con người hiện đại, đặc biệt con người hiện đại phương tây cùng thế hệ với Marceau vừa mới ngoi lên khỏi những đổ vỡ vật chất và tinh thần tan hoang do cuộc thế chiến thứ hai để lại. Một cuộc chiến tranh cực kì khốc liệt đã mang trong nó mầm mống một thế chiến mới dưới một dạng thức mới: cuộc chiến tranh lạnh, trận xung đột ý thức hệ mà dân tộc Việt Nam đã phải gánh chịu hậu quả thê lương và lâu dài nhất vì những sai lầm chiến lược chết người của đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).



TIẾNG GỌI CỦA MỘT CÕI IM


Bây giờ thì tôi hiểu tại sao hình ảnh con vờ lại ở lại với tôi. Nó ở lại vì tôi


muốn giữ nó ở lại. Tôi muốn giữ nó ở lại là vì tôi thấy nó là một hình ảnh giàu tính ẩn dụ, làm liên tưởng đến một điều gì đó có ý nghĩa với thi ca. Tôi nghĩ, nếu có cơ duyên, nó có thể trở thành một thi ảnh hàm súc làm tiền đề cho một bài thơ có trọng lượng về tư tưởng, thứ poésie grave hiểu theo nghĩa heideggerienne.


Trong thời gian gần đây, nó bỗng trỗi dậy từ đáy tiềm thức tôi, chập chờn mà manh liệt. Chứng thất ngữ tái phát, làm tôi mất ngủ hai đêm liền. Chỉ vì những thây ma tiền ngôn ngữ ologon chưa chịu chết hẳn. Rồi như một phép lạ, một chuỗi tám con chữ tôi không hề chờ đợi bỗng loé lên trong đầu tôi, làm tôi nhỏm dậy, lấy bút ghi vội xuống một tờ giấy trực sẵn ở đầu giường: Lênh chênh nhện nước con vờ lội ao. Tôi giật mình, rõ ràng vờ này và ao này chính là vờ ấy và ao ấy tôi đã bắt gặp trong cổ thành Sơn Tây năm xưa vào một buổi chiều thu, dưới chân một tháp cờ đá ong nâu sẫm và bên cạnh một đề lao tường đá xám xịt với chiếc cổng cao đen hắc sần sùi. Thì ra, tôi đã thai nghén câu thơ này hơn 70 năm nay mà không hay!



Thi sĩ Valéry cho biết có nhiều bài thơ của ông ra đời từ một câu thơ ông ngẫu hứng làm ra và thấy ưng ý. Tác giả của bài thơ này cũng ở trong một hoàn cảnh tương tự. Nó ra đời từ một câu thơ bâng quơ, vô vụ lợi, tức là không nhằm phục vụ một dự án ngôn ngữ nào cả như câu thơ trên. Sau, tác giả nhận thấy câu thơ này có một nội dung tư tưởng làm nghĩ đến cảnh đời ao tù nước đọng của 70% dân tộc ta đang sống tập trung vào vùng nông thôn nghèo khổ và lạc hậu nhất của đất nước. Ngoài ra, nó còn làm tác giả nghĩ lây sang một hiện tượng phổ biến khác: đó là cái não trạng trì trệ, thụ động mà rất nhiều người Việt chúng ta cho đến thế kỉ 21 này vẫn còn mắc phải, bắt nguồn từ cái tâm lí an phận thủ thường, liều thuốc ngủ ảo tưởng làm cho họ không những chỉ bằng lòng với mà còn cảm thấy hãnh diện về cái thân phân ao tù nước đọng của mình: Ta về ta tắm ao ta/Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.


Theo thiển ý, ta chỉ cần thay chữ ao bằng chữ sông thôi thì xoá được cái nghịch lí trên và làm cho hai câu thơ trên trở nên khoáng đạt hẳn lên: Ta về ta tắm sông ta/Dù trong dù đục sông nhà vẫn hơn. Lợi thế của sông so với ao là nó gợi cho ta hình ảnh một nhân sinh quan sống động, mở, luôn hướng về những chân trời khoáng đạt bao la; về biển, chốn hội tụ, mẫu số chung, sự tổng hoà của những dòng văn hoá dân tộc nhân bản. Một nhân sinh quan như vậy vừa lành mạnh vừa tiến bộ, có thể làm cho dân tộc ta hãnh diện về nó một cách chính đáng hơn.



CÓ CHĂNG MỘT PHƯƠNG THUỐC CHO CƠN SẦU VẠN CỔ?



Ta chỉ cần nghe âm nhạc của ta, đặc biệt cổ nhạc, thì thấy được âm chủ của quốc hồn ta. Đó là nỗi buồn vạn cổ, cái gien văn hoá vận vào ta từ ngàn trước đến bây giờ và cả ngàn sau nữa nếu ta vẫn nhận nó là định mệnh của ta. Nó là một dạng của bệnh tâm thần, một khuyết tật về bản thể, tạo cảm giác khó ở và là ngọn nguồn của những tình cảm tiêu cực. Như tình cảm yếm thế thấy đời là một bể khổ; hay tình cảm phẫn tồn trước sự bất công của con Tạo bắt ta phải sống lầm quê hương và lầm thế kỉ, nên ta đòi nó phải trả ta về thời ta chưa sinh ra; hay nỗi tủi phận mãn tính làm cho ta không chỉ xót xa cho ta mà còn trách cứ ta nữa: ta là một hiện hữu luôn luôn khuyết mãn, triền miên hẫng hụt, một hiện hữu không nên hiện hữu; sống cuối cùng chỉ còn vỏn vẹn là một tồn tại đơn chiều, một nội động từ, sự co cụm ta vào trong ta hoá thành một cõi ta âm u, bế tắc hoàn toàn.

Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng ý thức hệ trầm trọng hiện nay đang diễn ra ở Việt Nam, một câu hỏi cơ bản được đặt ra cho những ai chưa chịu buông xuôi trước định mệnh: biện pháp nào phải được sử dụng để giải quyết một lần cho xong khuyết tật về bản thể trên?


Theo chúng tôi để có hiệu quả, trị liệu pháp phải là một giải pháp tổng trạng (holistic) hai bước.

Trước hết, phải thanh toán chế độ cộng sản, đứa con đẻ của chủ nghĩa hư vô, vật cản chặn đường sống của dân tộc ta. Thay thế nó bằng một chế độ cộng hoà nhân bản lấy tự do chính trị và dân chủ làm hai phương tiện chủ yếu để phục vụ cứu cánh tối hậu là một con người tự do tổng hợp: tự do ngoài xã hội và tự do trong tư tưởng. Để đảm bảo sự liên tục và tính chính thống của tân chế độ, những định chế dân chủ vững bền phải được thiết lập và một văn hoá chính trị phải được hình thành bằng những tập quán dân chủ ăn sâu trong tâm thức người dân, hoá thành bản chất thứ hai của họ. Đồng thời nếp sinh hoạt dân chủ ngoài xã hội phải được bổ xung liên tục bởi những thế hệ cán bộ có kiến thức và ý thức dân chủ cao, có nhiệt tình và đức độ, được đào tạo chính quy trong nhà trường với một chương trình giáo dục đề cao vai trò của chính trị học ngoài là một khoa học quản trị quốc gia thuần tuý, còn là triết học chính trị và đạo đức học chính trị nữa.


Trên phương diện cá nhân, mục đích của nền cộng hoà nhân bản là tạo cơ sở cho việc hình thành một mẫu công dân với tư cách một chủ thể tự do. Điều này cần nhưng chưa đủ để giải quyết tận căn cái vấn nạn văn hoá, nguồn gốc của nông nỗi lao đao lân đận dân tộc ta phải gánh chịu ngàn đời. Do đó, biện pháp kế tiếp phải là một thứ phân tâm học nhắm vào nguyên nhân của khuyết tật về bản thể trên. Đó là não trạng con vờ, nỗi buồn truyền kiếp; cuống nhau úa trong bụng mẹ, tế bào héo trong đầu cha; sự phối giống mù quáng chết người, đẻ ra một ethos èo uột, kìm hãm sự phát triển hoàn mãn của cái tâm lí tập thể gọi là quốc hồn. Thiếu cái nguyên lí thống nhất tối thượng này, một cộng đồng dù là đồng chủng, đồng văn cũng không thể trở thành một chỉnh thể quốc gia. Chúng tôi sẽ khai triển thêm đề tài này trong phần cuối của bài tuỳ-luận.


Văn hoá của một dân tộc là cái hồn của lịch sử của nó. Và, lịch sử của dân tộc ta là lịch sử của một lệ thuộc từ gần hai ngàn năm nay vào hệ tư tưởng Trung Hoa, nói rõ hơn là hệ tư tưởng Hán. Cho đến thế kỉ 21 này, ta vẫn còn sống dưới sự đô hộ văn hoá của kẻ thù truyền kiếp của ta mà không biết. Điều nghịch lí là ta chống nó nhưng lại thờ thần thánh của nó trong nhà ta; ta thù nó nhưng lại thuộc lòng lịch sử của nó hơn là thuộc lòng lịch sử của dân tộc ta; ngôn ngữ hàn lâm của ta thiếu chữ của nó thì trở nên què quặt; mà ngôn ngữ nào thì tư tưởng ấy: tư tưởng của ta, sự sao chép với dăm ba hiệu đính tiểu xảo của tư tưởng của nó; thiếu Lão, Khổng, Mạnh, hồn ta hẫng, mất điểm tựa; lịch của nó với những cát thần, hung thần, giờ tốt, giờ xấu và linh tinh được dùng làm lịch của ta; tử vi của nó, thuật bói dựa trên 15 ngôi sao giả tưởng và có lối suy diễn tuỳ tiện, coi thường logic, mê hoặc ta và được ta coi như một tương lai học chính xác; cũng thế, một sản phẩm khác của óc mê tín Tàu là khoa phong thuỷ từ nguyên thuỷ là một thứ duy linh học địa lí lấy hai yếu tố gió và nước làm phương hướng quyết định vị trí thổ phần của người chết, nó được coi trọng như một khoa học nghiêm túc chi phối kĩ thuất kiến trúc nhà cửa, trụ sở kinh doanh, hoàng cung, phủ chúa, miếu mạo. đền đài, mộ phần của ta.



Sự Hán hoá ngoài tác động lên cấu trúc những vật thể hữu hình, còn ăn sâu vào cấu trúc tinh thần của người bị đồng hoá nhằm làm thui chột khả năng suy nghĩ độc lập của họ và qua đó làm họ bị vong thân. Sự vong thân do Tàu này hiện lên rõ nét nơi những người có ăn học, đặc biệt giới nho phiệt - confuciocrate - bản địa: họ không những chỉ bằng lòng với mà lại còn tỏ ra hãnh diện về sự lệ thuộc vô điều kiện của mình vào hệ tư tưởng của người đô hộ mình. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong phần cuối của bài tuỳ-luận.


Một hiện tượng vong thân khác quy mô hơn liên quan đến lãnh vực văn chương. Đó là sự phát rộ của một phong trào người người đua nhau đọc tiểu thuyết, truyện dã sử, truyện kiếm hiệp Tàu. Ngoài thành phần bình dân có trình độ học vấn không cao, quần chúng người đọc còn gồm giới trung lưu và thượng lưu như bác sĩ, kĩ sư, luật sư, giáo sư, kinh tế gia, kí giả, chính trị gia, kể cả thành phần lãnh đạo quốc gia nữa. Tất cả nhảy bổ vào, ôm chầm lấy và nằm lòng từng chi tiết một những sáng tác của La Quán Trung, Quỳnh Giao và nhất là Kim Dung hơn là thuộc lòng gia phả của mình. Với một giọng điệu kênh kiệu, người ta tỏ vẻ tâm đắc với những mưu mẹo, thủ thuật, tài xoay xở của Khổng Minh và những nhân vật của Kim Dung, cho đó là mẫu mực của cách đối nhân xử thế và điều hành quốc gia.



Sự vong thân do Tàu ấy của lớp người trên đã bịt mắt họ làm cho họ không thấy rằng tất cả những thứ họ đọc ở sách Tàu chỉ là sản phẩm của cái chinoiserie, một tập hợp bát nháo, lỉnh kỉnh của những hư chiêu lang ba vi bộ, những ý tưởng hoang đường và những cuồng vọng miên du cho đến thế kỉ này mà vẫn còn nghĩ rắng mình là trung tâm thiên hạ, cái rốn của vũ trụ. Giấc mơ vĩ cuồng của cóc muốn làm bò này - giấc mơ lưỡi bò muốn liếm hết Biển Đông - sẽ chôn cóc xuống đáy biển.



Một nước muốn độc lập thì phải có nền kinh tế phát triển. Nhưng nó vẫn chưa phải là một chỉnh thể quốc gia nếu không có một nền văn hoá riêng làm cho dân tộc của nó khác với các dân tộc khác. Khác với quan điểm của Lenin theo đó văn hoá được tạo ra bằng hoạt động của đông đảo quần chúng lao động, văn hoá ở đây được hiểu theo một nghĩa rộng hơn: nó là sự nghiệp của toàn dân, mẫu số chung của mọi thành phần xã hội, người giàu cũng như người nghèo, nông dân cũng như công nhân, người lao động chân tay cũng như người lao động trí óc. Nó là nguyên lí thống nhất trăm thu về một mối, hồn khí tạo bản sắc và niềm tự hào của dân tộc. Nó là một sự kiện lịch sử, tập đại thành của những giá trị tinh thần tích tụ trong quá trình phát triển của một dân tộc.



Cả ba điều trên mà một nước cần phải có để trở thành một chỉnh thể quốc gia, ĐCSVN với tư cách đảng cầm quyền duy nhất trong suốt mấy chục năm nay đã không thực hiện được cho dân tộc của nó. Trái lại, cung cách hành xử khúm núm, quỵ luỵ trước bắc triều của nó có tất cả những nét đặc thù của cái tâm lí tập thể thuở nào: tâm lí phiên quốc, tiểu nhược quốc; tâm lí chư hầu, cái phức cảm tự ti dân tộc; tâm lí triều cống: nó dâng hiến cho Bắc triều nào là biển và hải đảo, nào là đất liền và tài nguyên rừng đầu nguồn, nào là khoáng sản miền cao nguyên trung phần, nơi mà đế quốc bành trướng phương bắc đã dòm ngó từ lâu vì giá trị chiến lược của nó.



Về mặt tinh thần, lịch sử cho thấy ĐCSVN luôn phải dựa vào ngoại bang để tồn tại. Nó là đứa con ngu trung của hệ tư tưởng marxist - leninist - maoist. Trên thực tế, nó chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa Mao, sự trá hình của chủ nghĩa Đại Hán truyền thống coi tộc Hán là trung tâm của loài người. Đây là dạng cực đoan của chủ nghĩa chủng tộc có dáng dấp của chủ nghĩa chủng tộc thượng đẳng Đức Quốc xã. Để có một ý niệm về điều này, ta hãy nhìn vào thái độ đối xử hiện nay của người Hán với người Tây Tạng và người Hồi - cái tâm thái có từ thời tộc Hán chinh phục được và đặt ách thống trị cực kì dã man của nó lên các tộc khác mà nó gọi là di, man, mạch, cửu di bát man, mười bảy sắc dân mọi rợ.



Ở kỉ nguyên toàn cầu hoá này, quan hệ liên lập giữa các quốc gia trở nên chặt chẽ hơn và điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết lập một trật tự thế giới mới hài hoà hơn, bình đẳng hơn và văn minh hơn. Do đó, khó mà xảy ra trường hợp một nước nhỏ bị thôn tính bởi một nước lớn, trừ phi nước lớn này cài được người của nó vào những cơ quan đầu não của nước nhỏ. Điều bất hạnh cho chúng ta là trường hợp hãn hữu này lại xảy ra ngay trên đất nước chúng ta. Chỉ vì những người cầm đầu ĐCSVN như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Chí Vịnh đã cam tâm nối giáo cho giặc phương bắc. Họ là sự lại giống trên cấp số nhân của những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống.


Sự phản bội dân tộc ngày càng gia tăng của tập đoàn cầm quyền CSVN đang đặt đất nước chúng ta trước nguy cơ mất cả lãnh thổ lẫn quốc hồn. Hoạ bắc thuộc lần thứ ba đang ló dạng ở cuối chân trời. Ta có thể mường tượng được hậu quả gây ra cho dân tộc ta của hoạ này qua kịch bản sau. Hoa ngữ sẽ trở thành quốc ngữ, đẩy Việt ngữ xuống thành một thổ ngữ như tiếng Mán, tiếng Chàm, tiếng Thượng, tiếng Ra Đê; quốc sử sẽ được viết lại theo quan điểm Đại Hán coi tộc Việt là một tộc thiểu số và lãnh thổ Việt Nam là phần đất tạm mất, nay được thu hồi lại; Việt Nam trở thành vệ tinh thứ năm trên lá quốc kì của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, v.v.


Những mất mát cơ bản trên là gì nếu không là những hậu quả gây ra bởi hoạ diệt chủng? Theo định nghĩa của công pháp quốc tế, một dân tộc bị mất lịch sử, mất văn hoá, tức là mất cội nguồn, bản sắc và quốc hồn của nó, là một dân tộc bị diệt chủng. Trên thực tế ĐCSVN đang đặt dân tộc Việt Nam trước một nguy cơ chưa từng thấy trong lịch sử: nguy cơ diệt chủng.


Đường cứu rỗi phải bắt đầu với việc xét lại cái quan điểm cổ điển theo đó Việt Nam chỉ là một cậu bé tí hon sống cạnh tên khổng lồ Trung Hoa lúc nào cũng lăm le muốn nuốt chửng cậu bé để thoả mãn cơn mộng bá vương muôn đời của nó; và, chính cái tương quan lực lượng lớn-bé này đã là nhân tố quyết định đường hướng hành động của cậu bé: cậu không thể không nhún nhường, không thể không cư xử cho phải đạo - đạo Hán, - không thể không chấp nhận cái thân phận vệ tinh của mình.


Quan điểm trên đúng nhưng chỉ đúng một phần. Bởi vì trung tâm của vấn đề không là địa lí chính trị mà là văn hoá. Ý người viết muốn nói đến sự lệ thuộc quá đáng, để không nói là mù quáng của cậu bé vào hệ tư tưởng của tên khổng lồ đã làm nhụt tinh thần tự chủ của cậu. Và, tên khổng lồ biết rõ nhược điểm này của cậu nên bèn sử dụng ưu thế văn hoá hầu như tuyệt đối của nó làm một thứ vũ khí mềm nhằm khuất phục và đồng hoá cậu bé.


Nhận thấy dân tộc ta tuy ghét chúng nhưng vẫn còn mê ông Khổng của chúng, bọn bành trướng chủ nghĩa phương bắc bèn nhanh tay sử dụng thuyết của ông ta để thôn tính ta bằng văn hoá.


Với sự hỗ trợ đắc lực của chính quyền tay sai bản địa, cuộc xâm lăng văn hoá diễn ra dưới nhiều hình thức. Những cuộc hội thảo chuyên đề về Khổng giáo và những khoá xêmina học tập Khổng Tử được tổ chức tại những trung tâm văn hoá và những trường đại học quốc gia nổi tiếng. Những đền thờ "Đức Khổng" được dựng lên hoặc được trùng tu ở nhiều nơi và một Viện Khổng học sẽ được xây cất ở Hà Nội, chắc chắn sẽ quy mô và bề thế hơn nhiều so với những Viện Goethe, trụ sở Alliance Francaise và thư viện Abraham Lincoln trước kia.



Cuộc xâm thực của tư tưởng Khổng còn ăn sâu vào tâm thức người bản địa thông qua sự phát rộ của một phong trào dịch sách Khổng sang tiếng Việt nhờ vào đồng tiền của toà đại sứ Trung Quốc vung ra không tiếc tay để thuê mướn những người dịch bản địa giỏi Hoa ngữ, coi nó như tiếng mẹ đẻ thứ hai của mình. Một trong những cuốn sách ăn khách nhất ở Việt Nam là cuốn Luận ngữ, cột trụ của bộ tứ thư và là nòng cốt của tư tưởng Khổng. Trong sách này, những lời di huấn của Khổng được các môn đồ hậu bối của ông soạn thành những châm ngôn, ngạn ngữ rao giảng một thứ đạo đức thông thường, luân lí thực dụng nảy sinh từ những hoàn cảnh sống cụ thể, nhờ đó mà dễ được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian.



NHỮNG MẶT TIÊU CỰC CỦA KHỔNG GIÁO


(Còn tiếp kỳ sau)

TƯỜNG LAM * CHÁO TÓC


CHÁO TÓC

Tường Lam



Trên hai mươi năm rồi còn gì! Thế mà tôi không bao giờ quên nỗi kinh hoàng xảy ra nửa khuya hôm đó.

Cả gia đình đang yên giấc, bỗng nghe tiếng xe hơi từ lộ chính chạy vào, thắng gấp trước cửa nhà, nhiều tiếng chân người nhảy xuống, sau đó tiếng đập cửa mạnh và dồn dập.

Có tiếng quát lớn:
- Chủ nhà mở cửa!!! Công An Huyện cần làm việc.
Nhạc gia tôi tuổi ngoài thất tuần, hai tay run run nâng cây song hồng, cửa mở, năm tên công an bước nhanh vào với bốn khẩu AK cầm tay, tên đứng đầu với khẩu K.54 bên hông hất hàm hỏi lớn:

- Tên Ánh có nhà không?
Từ buồng ngủ bước ra, tôi trả lời:
- Tôi có mặt đây!
- Mời anh lên xe về Công An Huyện, chúng tôi cần làm việc với anh.

Quơ vội cái bòng bột, trong đó vài bộ áo quần, thuốc uống, dầu xanh, chén muỗng, đũa, kem và bàn chải đánh răng...

Tôi bước lên và ngồi xuống sàn, xe lao vút đi và chỉ nhìn thấy nhạc gia tôi hom hem bưng cây đèn dầu lửa, hai đứa con trai tôi ôm chân mẹ và nhà tôi vội đưa tay lên lau nước mắt.

Công an đẩy tôi vào phòng giam chấn song sắt, ngọn đèn vàng mờ trên trần, đóng mạnh khung cửa sắt và khóa lại. 
Căn phòng vuông vức, độ bốn thước nhốt mỗi mình tôi. Thu hình vào góc phòng, nằm xuống nền ciment, đầu gối lên bòng bột, trăm ngàn dấu hỏi lần lượt hiện ra trong đầu, tôi chịu thua, không hiểu tại sao mình bị bắt, khẩn cấp giữa đêm khuya?

Thân phận người lính của chế độ cũ bị Cộng Sản ngược đãi còn thua một con vật. Mua một con chó để làm mồi nhậu, ngã giá xong mới được bắt con mồi dẫn đi, còn chúng tôi vui buồn gì công an muốn bắt chỉ mang còng đến bắt thôi.


Từ nhà tù lớn cho toàn dân miền Nam, những ngày lễ lớn, kỷ niệm chiến thắng, sinh nhựt lãnh tụ, họ đem cất chúng tôi vào phòng giam nhà tù nhỏ.

Trước khi thiếp đi, tôi còn nghe rõ tiếng hô dõng dạc: ''Tất cả vào hàng! Phắt... Tư Lệnh đến!... Khai Quân Hiệu!... Bế Quân hiệu!...'' Và giờ nầy bên kia trái đất là ban ngày, một số cấp lãnh đạo chỉ huy của tôi chắc đang rót rượu vào ly cạn, bên tiếng nhạc lời ca! Mỉm cười vui sướng vì cả gia đình an toàn lên máy bay với hành lý có cả vàng, đô la và vật dụng đắt tiền...
Giấc ngủ chập chờn kéo dài được bao lâu không biết, tôi choàng ngồi dậy khi nghe tiếng người quát lớn:

- Anh kia lên làm việc.

Tôi bị dẫn đi dọc theo một hành lang ngắn. Bước vào phòng có bảng ghi trên khung cửa: ''Phòng Chấp Pháp''. Vừa ra lệnh ngồi xuống ghế, tên thượng úy 

Công An hất hàm hỏi tôi:

- Anh mang túi gì đó?

- Quần áo lao động, thuốc uống và đồ vệ sinh cá nhân.

- Bộ anh biết sắp bị bắt sao chuẩn bị kỹ càng thế?


Tôi cười héo hắt:
- Dạ! Trong năm, nhiều lần bị tập trung nên sẵn sàng như vậy. Anh em chế độ cũ chúng tôi ai cũng có cùng tâm trạng như thế!
Bật lửa đốt thuốc, ngửa mặt nhả khói lên trần nhà, tên thượng úy hỏi tôi:
- Anh biết anh bị bắt về tội gì không?

Tôi nhìn thẳng vào mặt hắn:
- Quả tình tôi vô cùng ngạc nhiên, tại sao Công An Huyện lại bắt tôi?
Tên hỏi cung, mặt hầm hầm, xô ghế đứng bật dậy, đập tay mạnh xuống mặt bàn:


- Anh đừng đóng kịch nữa! Anh và tên Phong đã giết đồng chí Mười Thụ! Bắt được tên Phong hắn khai anh là đồng lõa của hắn. Đã đi cải tạo, anh biết rõ đường lối khoan hồng của Đảng. Anh thành thật khai báo sẽ được khoan hồng.


Tôi không nao núng:

- Cả tuần nay tôi không rời khỏi nhà, tôi đâu biết ông Mười Thụ là ai? Tôi có thù oán gì đến đỗi phải giết ông Mười Thụ! Xin cán bộ cho tôi gặp Phong để đối chất.

- Được rồi! Có bằng chứng rõ ràng, anh đừng trách chúng tôi nặng tay với anh nhé!

Tôi bị biệt giam suốt một tuần ở Công An Huyện. Không được thăm nuôi và tiếp xúc với bất cứ ai. Mỗi đêm công an đánh thức tôi dậy, đi làm việc, hỏi cung, cật vấn đủ điều. 

Tôi khai quen biết Phong ở trại cải tạo Xuyên Mộc thuộc tỉnh Đồng Nai do Phong còn độc thân, ba Phong bị đau bao tử nặng nên gửi đồ thăm nuôi nhờ vợ tôi mang giùm vào trại trao đồ tiếp tế lại cho Phong. Chúng tôi quen biết nhau như thế.

Trước năm 75 Phong là sĩ quan Biệt Cách Dù, còn tôi phục vụ ở Tiểu Khu không hề quen biết nhau. Thỉnh thoảng đi chợ Phong có chạy lên thăm tôi, chúng tôi có nhậu với nhau đôi lần. Cách đây một tháng Phong cho biết sắp đi xa, vì làm nghề bốc vác đã làm Phong khạc ra máu.

Tôi làm tờ khai trên mười lần và lần nào tôi cũng không quên ghi câu kết: ''Nếu sau nầy cách mạng khám phá ra tôi gian dối hoặc đồng lõa trong vụ giết ông Mười Thụ tôi xin chịu tử hình''.


Họ thả tôi về và thông báo từ nay tôi không được rời khỏi nhà bất cứ ngày đêm, khi công an cần làm việc tôi phải có mặt ngay, họ bắt tôi ký tên và lăn tay.


Sau đó người biết chuyện tường thuật vụ án cho tôi biết: Mười Thụ Trưởng Ban Tổ Chức Tỉnh Ủy, do học Liên Xô, đỗ bằng tiến sĩ, học vị mà một giáo sư tên tuổi phát biểu: ''Chỉ cần dắt một con trâu sang Liên Xô, hai năm sau chúng ta sẽ dắt về một Phó Tiến Sĩ''.


Mười Thụ được chính quyền cấp cho một ngôi nhà nền đúc tới ngực, tịch thu của một gia đình địa chủ. Đêm xảy ra án mạng, Mười Thụ ở nhà một mình, hung thủ đâm và rọc bụng, ruột gan Mười Thụ tuôn ra đất, đầu Mười Thụ bị xởn một mớ tóc, hung thủ đào dưới gốc cột lấy của cải vàng bạc nhiều lắm.Công An Tỉnh phối hợp với Công An Huyện nghiên cứu điều tra hiện trường. Họ khám xét chuồng trâu. 

Phong biệt tích, đặc biệt trên bàn thờ ba Phong, ảnh đã được mang đi, một dĩa đựng mảng tóc của Mười Thụ và trên lư hương bằng lon sữa bò, dấu tro nhang đốt còn mới tinh.


Công An Tỉnh kết luận thủ phạm giết Mười Thụ là Phong tên Biệt Cách Dù ác ôn, mang nhiều nợ máu với Cách Mạng.
Lệnh truy nả kèm theo ảnh của Phong được thông báo toàn quốc. Có kẻ xấu miệng nói rằng: ''Sở dĩ công an truy nả thủ phạm khẩn cấp như vậy, một phần vì Mười Thụ là Phó Bí Thư Tỉnh Ủy, Trưởng Ban Tổ Chức Đảng...

 Nhưng phần tối quan trọng là hung thủ đã đào và mang đi một ô rất lớn chứa nhiều nữ trang gồm: vàng, cẩm thạch, kim cương... đọc xong biên bản dàn Tỉnh Ủy có nhiều đồng chí chảy nước bọt''.

Thời gian qua đi, vụ án Mười Thụ cũng đi vào quên lãng vì người dân ''chạy ăn từng bữa toát mồ hôi'' còn thời gian rảnh đâu mà nghĩ với ngợi.
Đầu năm 1991, tôi lên Công An Huyện chứng hồ sơ cho cả gia đình đi diện HO sang Hoa Kỳ.

Sau khi trao xấp hồ sơ ký xong, Chánh Văn Phòng Công An Huyện nói với tôi:
- Sau nầy phá được án đồng chí Mười Thụ, nếu anh có dính líu, nhà nước ta sẽ bảo Mỹ dẫn độ anh về đây để truy tố anh ra Tòa Án Nhân Dân, anh liệu hồn đấy.


Tôi cúi nhìn xuống chân mình để giấu nụ cười. Ngước lên nhìn tên cán ngố tôi trả lời từ tốn:
- Thưa cán bộ, trong trại cải tạo chúng tôi học thuộc nằm lòng: ''Với sức mạnh của ba dòng thác Cách Mạng, Đảng và Nhà Nước ta là lương tri của loài người, chủ nghĩa Marx -Lenin bách chiến bách thắng sẽ giải phóng luôn cả nước Mỹ, sẽ đưa thế giới đến đại đồng. 

Đưa gia đình sang Mỹ, tôi sẽ cố gắng lo cho con cái học hành đỗ đạt. Nếu nước Mỹ chưa được Cách Mạng giải phóng, tôi sẽ dẫn con cái tôi về xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ưu việt''.

Tên công an chánh văn phòng tỏ vẻ hài lòng, tươi cười bắt tay tôi:
- Hy vọng chúng ta sẽ gặp nhau ở Hoa Kỳ.
Ôm mớ hồ sơ ra tới cổng, khát nước, khô môi tôi cố đánh lưỡi phun một mớ nước bọt xuống đất.
*     *     * 
Thời gian trôi đi, đúng là bóng câu qua cửa sổ, gia đình tôi sang Mỹ mới đó đã mười bốn năm rồi. Chuyện ở Mỹ là chuyện dài, biết rồi khổ quá nói mãi. Vậy tôi không còn ca bài ca con cá sống vì nước nữa đâu.

Chiều thứ bảy, mang tờ báo mới ra ngồi băng cây trước nhà. Mặt trời ngả về tây, thế đất cao gió mát, hoa tulip nở rộ, đứa con gái mang ra cho tôi ly cam vắt, tôi đọc báo khi chiều xuống chầm chậm êm đềm.
Một chiếc taxi màu vàng đỗ trước nhà, người đàn ông tay xách va li bước xuống, tay vẫy, cười mừng rỡ với tôi:
- Đại ca khỏe không?
Tôi gỡ kiếng, nheo mắt nhìn và la lớn:
- Phong đó hả? Trời ơi! Phong, ngọn gió nào đưa Phong đến đây?
Tôi bước ra. Phong đặt va li xuống đất, chạy đến ôm tôi:
- Mừng gặp lại anh! Hai mươi mấy năm rồi còn gì?
Chúng tôi vào nhà, tôi nêu thắc mắc:
- Sao chú biết anh ở tiểu bang nầy, tìm đến hay vậy.
Phong vỗ nhẹ vào vai tôi:
- Tháng rồi anh có lên Seattle ra mắt sách phải không? Bạn em có dự và mua gửi cho em. Ngạc nhiên và vui mừng vô cùng khi thấy hình và địa chỉ của anh in sau bìa sách. Em ở thành phố Buffalo tiểu bang New York, đến thăm anh chị không báo trước, tạo bất ngờ để anh chị ngạc nhiên chơi.

Nhà tôi từ sau bếp buớc ra ngạc nhiên và hân hoan chào Phong.
Tắm xong, tôi và phong ngồi vào bàn ăn.
Đặt dĩa gà xé phai trộn bắp chuối và tô lớn cháo nêm hành tiêu bốc khói thơm lừng. Nhà tôi cầm chén định múc cháo, Phong ngăn lại và nói:
- Cám ơn chị, em chỉ ăn gỏi và uống bia, từ ngày ba em mất, em không bao giờ ăn cháo nhất là cháo có nêm tiêu.
Hớp một ngụm bia, Phong tiếp:
- Hôm nay anh chị là hai người thân duy nhất, em kể tình cảnh đau thương của gia đình em.
- Em là cháu ngoại ông Hội Đồng Cang, má em mất sớm, ba em cai quản của hương hỏa gồm: một nhà năm gian to, nền đúc tới ngực và mấy chục mẫu vườn ruộng. Sau năm 75 Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, em đi tù cải tạo, chánh quyền địa phương tịch thu hết đất đai, ba em chỉ còn ngôi nhà.

Ba năm sau, họ đuổi ba em ra mình không vì hai tội: gia đình địa chủ bóc lột; con trai là sĩ quan Biệt Cách Dù ác ôn, gây nhiều tổn thất và nợ máu với quân giải phóng. 

Nhà họ cấp cho Mười Thụ, Phó Bí Thư Tỉnh Ủy, kiêm Trưởng Ban Tổ Chức Đảng. Ông nội Mười Thụ là phu xe kéo cho ông ngoại em. Sau nhiều lần van xin ba em được cho lại cái chuồng trâu cột mù u ngoài mé ruộng, cách nhà thờ dòng họ ba trăm thước. Ba em đã lớn tuổi sức khỏe yếu kém và sống trong nghèo túng. 


Ngày nọ nhận được thư em từ trại cải tạo Xuyên Mộc gửi về xin tiếp tế đồ ăn và thuốc uống. 


Thương con, đường cùng liều mạng nửa đêm khoét vách vào nhà mà Mười Thụ chiếm đoạt, định vào đào dưới chân cột trước bàn thờ lấy đi ô vàng, cẩm thạch, hột xoàn... gồm của cải dòng họ và đồ sính lễ của mẹ em.

 Hành động của ba em giữa đêm khuya cũng như Doctor Jivago của văn hào Boris Pasternak bò ra cửa hàng rào cây nhà ông nội để lấy lại cho mình, nếu vệ binh phát giác sẽ bắn chết vì tội: ''Tôi ăn cắp của tôi''.
Ngoài dự đoán của ba em, Mười Thụ cuối tuần mới về, ở nhà chỉ có vợ hắn và ba đứa con nhỏ. Nhưng khi ba em luồn mình vào, vừa định đứng dậy thì một họng súng K.54 lạnh ngắt dí vào màng tang và ánh đèn pin chiếu vào mặt. 


Mười Thụ trói ba em, bảo đi lại bàn tròn và ngồi xuống ghế, hai tay bị thúc ké sau lưng.
Mười Thụ nhai từng tiếng:
- Mầy khoét vách nhà tao (sic) vào đây định làm gì?
Ba tôi run giọng:
- Thưa ông Mười, khổ quá không có tiền định vào nhà xin lại bộ lư đồng, đem bán có chút đỉnh đi thăm nuôi con.
Mười Thụ nghiến răng:
- Thăm cái thằng Biệt Cách ác ôn đó phải không? Cái ngữ đó sẽ chết rục xương trong tù, không có ngày về đâu! Thứ quân đầy nợ máu phản Cách Mạng.
Quay ra sau, Mười Thụ ra lịnh cho vợ, đang ngạc nhiên đứng nhìn ba tôi bị trói:
- Bà nấu cho tôi tô cháo nêm hành và quậy hột gà vào nhanh lên.

Mười Thụ hằn học chỉ vào mặt và chửi ba tôi là thứ xấu xa, bóc lột nhân dân lao động, ngồi nhà mát ăn bát vàng, lười lao động, gặp khó khăn chỉ biết đi ăn trộm mà thôi! Lũ người chúng bây chỉ sống chật đất.
Vợ Mười Thụ bưng tô cháo bốc khói lên, Mười Thụ bảo đâm tiêu nêm vào và mang ra cho y cái kéo.
Mười Thụ chồm qua bàn, dùng kéo xởn một nắm tóc trên đầu ba tôi và cắt từng đoạn ngắn, dùng muỗng trộn lên đều cho tóc hòa trong cháo.
Nhìn thẳng vào mặt ba tôi Mười Thụ nói:
- Tao cho mầy chọn: một tao giao mầy cho Công An với tội danh đêm khuya mầy định vào nhà ám sát tao. Hai, mầy ăn hết tô cháo nầy tao sẽ thả mầy và không cho ai biết về việc trộm đạo của mầy cả.

Ba tôi suy nghĩ thật lâu, nhục nhã vì bị xởn đầu, nếu biết mình ăn trộm thì tội cho dòng họ lắm! Ba tôi quyết định ăn tô cháo.
Mười Thụ cởi trói cho ba tôi với nụ cười nham hiểm trên môi. Ăn xong tô cháo Mười Thụ mở cửa cho ba tôi ra về. Hôm sau, trời vừa sáng ba tôi cạo đầu.
Phong ngưng kể, đưa tay lên lau nước mắt, vợ chồng tôi ngồi lặng thinh, không tìm được lời nào chia sẻ cùng Phong.
Uống một hơi cạn lon bia, Phong tiếp tục kể:
- Tuần lễ sau, ba tôi ngã bịnh, sốt cao và trong bao tử như có hàng trăm con kiến lửa đang cắn, bụng đói ăn vào càng đau thêm. Thuốc nam, thuốc gia truyền, xuyên tâm liên đã làm ba tôi kiệt sức.
Đau quằn quại và túng thiếu trăm bề, vay mượn những tá điền cũ. Lần nào thăm nuôi ba tôi cũng cố gắng gởi đồ tiếp tế nhờ chị mang lên trại giùm.
Ngày tôi được thả, ba tôi như bộ xương khô, hai hố mắt sâu hoắm. Tôi vay tiền chở ba tôi đi bịnh viện chụp quang tuyến. Bác sĩ cho biết toàn thể mặt dạ dày bị nhiều cọng tóc đâm vào bưng mủ thành ghẻ như vỏ mít, mấy năm nay ba tôi đau đớn vô cùng, suốt ngày đêm chỉ ăn cháo loãng cầm hơi.
Một buổi chiều, mặt trời vừa lặn tôi đang đốt đèn, giọng khào khào ba tôi bảo tôi ngồi xuống chiếc giường tre, ra dấu đỡ ông ngồi dậy, thều thào ông nói:
- Con phải trả thù cho ba.
Sau khi kể hết đầu đuôi câu chuyện bị Mười Thụ cho ăn hết tô cháo và nói rõ cây cột bên trái sát bàn thờ, nhìn ra sân cỏ chôn một ô lớn vòng vàng, cẩm thạch, kim cương... Nói xong ba tôi mệt lắm, chồm ra mép giường ói một vũng máu và tắt thở trên tay tôi.
Chôn cất ba tôi xong, mộ nằm trên nền chuồng trâu, tôi ra chợ Huyện vào kho lúa xin một chân bốc vác. Thỉnh thoảng về thăm nhà, đốt nhang trên mộ cho ba tôi.
Vợ chồng Mười Thụ than phiền, tôi thường vắng nhà, phía sau ruộng không có người nên kẻ gian thường dùng chài lưới bắt rất nhiều cá vồ.
Lần nào về thăm nhà tôi đều mua bánh kẹo cho mấy đứa nhỏ, đồng thời tôi kiếm chuyện lân la để biết đường đi nước bước của Mười Thụ.
Tình cờ được vợ Mười Thụ cho biết ngày mùng hai, y thị và mấy đứa nhỏ về đám giỗ bên ngoại, ba bữa mới về. Mười Thụ về giữ nhà một mình.
Khuya hôm đó, sau khi vợ con Mười Thụ xuống đò đi rồi, Phong lên gõ cửa nói lớn cho Mười Thụ biết đã bắt được hai thằng chài trộm cá vồ, đang cột chúng vào gốc sua đũa dưới triền ruộng.
Tiếng Mười Thụ hưng phấn từ trong nhà vọng ra:
- Tụi bây kể như chết mẹ với tao rồi!
Mười Thụ tay bưng đèn dầu, tay xô cánh cửa cái vừa mở. Nhanh như cắt tôi thọt cây mát vót vào bụng dưới Mười Thụ, dùng hết sức bình sanh hai tay câu cây mát, Mười Thụ hổng giò, bụng xé một đường dài, ruột gan tuôn hết ra ngoài.
Sau khi kêu được mấy tiếng hộc... hộc... hộc… như con heo bị thọt tiết. Tôi đạp Mười Thụ té xuống và đâm tiếp mấy nhát vào tim, máu ra lai láng thành vũng dưới nền nhà. Xong đời một tên Cộng Sản gian ác, tập kết. Mang về từ miền mạn ngược, Trung Du Bắc Việt, lối giết người dai dẳng, đau đớn, tàn bạo mà hung thủ chẳng tội tình gì.
Tôi xởn một mớ tóc Mười Thụ bỏ vào túi quần, đào lấy ra từ chân cột một ô vàng nặng gồm nhiều lượng vàng... dây chuyền, kiềng, nhiều vòng đeo tay nạm cẩm thạch và kim cương. Tôi chạy nhanh về nhà để mớ tóc Mười Thụ vào trong dĩa, đặt trên bàn thờ ba tôi, đốt nhang và khấn vái:
- Thưa ba con đã trả được thù cho ba rồi, xin ba phù hộ cho con vượt biên suông sẻ.
Tôi lấy hình ba tôi xuống hôn, nhét vào ba lô cùng mớ quần áo và ô vàng. Tôi băng đường ruộng rời khỏi nhà giữa đêm khuya.
Nâng lon bia lên, tay trái vỗ nhẹ vào vai Phong tôi nói trong xúc động:
- Anh chị thành thật chia buồn trước thảm cảnh của gia đình chú, tội nghiệp bác trai quá đi thôi! Anh xin chỗ tiếp những sự việc liên quan đến sau đêm Mười Thụ bị giết.
Tôi kể lại cho Phong nghe công an huyện bắt giam tôi một tuần lễ để điều tra, như tôi đã kể ở đầu câu chuyện.
Nghe xong Phong từ tốn nói:
- Lúc ở tù chị gian nan gồng gánh mang đồ tiếp tế thăm nuôi giùm em, lúc em giết kẻ thù anh chị bị liên can ở tù cả tuần! Thật em có lỗi và mang ơn anh chị nhiều quá!
Dùng cơm xong, rót cho Phong tách trà và Phong kể tiếp:
- Trưa hôm đó, em qua tới Cần Thơ bán một lượng vàng, em trả tiền hào phóng để xuống ghe của hai vợ chồng trẻ lên Biển Hồ mua cá làm mắm. Sang đến Campuchia em tốn hai lượng vàng để trốn dưới hầm tàu buôn đến Thái Lan.

 Cảnh sát Thái đưa em vào trại tập trung. Sáu tháng sau em được phái đoàn Mỹ phỏng vấn, em còn đầy đủ giấy tờ cùng hình ảnh nhảy toán với cố vấn Mỹ, do ba em chôn giấu. Phái đoàn chấp thuận cho định cư ở Mỹ, em ở thành phố Buffalo tiểu bang New York, vẫn còn độc thân cu ky một mình.
- Nhân dịp nầy em mời anh chị cùng các cháu mùa hè nầy sang em chơi một chuyến, từ nhà em đến thác Niagara chỉ một giờ lái xe. Anh chị giúp em làm cử chỉ đẹp để đền ơn đáp nghĩa với anh chị coi.
Vợ chồng tôi hứa sẽ sang thăm chú.
Phong ở chơi với gia đình tôi ba ngày, hôm đưa Phong ra sân bay, bắt tay chúc gia đình tôi nhiều may mắn và phát đạt, với ánh mắt long lanh Phong nói:
- Anh xem Cộng Sản tàn ác đối với dân miền Nam mình như thế nào? Tù đày, kinh tế mới rừng thiêng nước độc, cướp ruộng vườn, nhà cửa. Mở chiến tranh sang Campuchia biết bao thanh niên chết, cụt chân tàn phế... 

Và chỉ với một tô cháo trộn tóc nó làm gia đình em lụi tàn luôn. Ba em chắc sẽ ngậm cười nơi chín suối khi em đã trả được thù cho ông. Cộng Sản nếu bắt được, chắc chúng bằm xác em cho vịt ăn.
Bắt tay tôi lần nữa, phong quay lưng bước nhanh vào cầu thang máy bay.
Trên đường lái xe một mình trở về nhà, hình dung ngàn sợ tóc đâm vào bao tử ba Phong, đớn đau tột cùng! Bỗng dưng tôi rùng mình và nhớ đến câu nói của một triết gia:
''Hai con lừa chửi nhau, nếu ta nghe được tiếng lừa. Câu thậm tệ nhứt của con lừa nầy chửi con lừa kia: ''Mầy đồ người''.
Chiều xuống thật nhanh, xa lộ đã lên đèn sáng trắng như một dòng sông, chảy miết về phía trời xa.

(Tuờng Lam)



TOẠI KHANH * THỜI MẠT PHÁP

TẠI SAO THỜI NAY LÀ THỜI MẠT PHÁP? 


Một ngày, có đám khách xa lỡ tàu ngẫu nhiên lạc bước đến thảo am lão thiền sư, một người đã lâu quên mất chuyện thù tạc với đời. Thấy ông có vẻ kiệm lời nhưng không đến nỗi người trệ khẩu, đám khách giết thời gian bằng mấy câu vấn đa.o.
Khi được hỏi vì sao hiền thánh xưa giờ có vẻ không tha thiết chuyện sử dụng thần thông phép mầu như nương mây cưỡi g...ió về hưởng nhàn ở những chốn bồng lai tiên cảnh trên núi tuyết hay biển xa, mà cứ một đời ẩn cư những thâm xứ quạnh hiu xa vắng, lão thiền sư nheo mắt nhìn người hỏi: -Chính thiên nhãn và huệ nhãn đã khiến thánh nhân như vậy đấy. Ngồi yên mà thấy hết mọi sự, và biết có đến tận nơi thì cũng không thấy thêm được cái gì ngoài những bóng nắng ảo hóa, thế bao nhiêu phép màu gì đó có còn là chuyện hứng thú nữa không ? -Tui bây giờ vẫn còn tin Phật, nhưng chỉ muốn quy y Nhị Bảo, không kể Tăng Bảo được không ? Tăng ni thời nầy bó tay luôn !

Lão thiền sư cười to như không thể dằn lại:

-Có cưới đâu mà đòi ly dị. Tăng bảo trong Tam bảo chính là Pháp bảo được thể hiện qua con người. Người không có Pháp bảo thì sao gọi là Tăng Bảo. Đối tượng mà ông bất mãn vốn không có trong Tam Bảo.< Một người khách ngồi cạnh nghe vậy hỏi thêm:
-Xin hỏi nếu không nhìn mặt những tăng ni đó thì ai sẽ dạy đạo cho chúng con ? -Nếu họ bê bối mà có cái để dạy ông thì chỉ nên nghe họ mà đừng nhìn họ. Nếu họ trong sạch mà dốt nát thì ta nên nhìn họ mà không cần nghe. Nếu tăng ni không có gì để ta nghe hay nhìn thì ông mất thời gian làm gì với thứ lỡ thầy lỡ thợ đó. Vã chăng, Phật Pháp là di sản của Phật để lại cho người cầu đạo, không dành riêng cho tăng ni nào hết. Mình bại liệt hay sao mà đến gia tài của bố để lại cũng phải nhờ người khác làm trung gian ban bố.
Cái mà tăng ni thời này có hơn cư sĩ chỉ là thời gian rỗi rảnh, họ có điều kiện tham cứu hơn. Nếu cư sĩ biết dành thời gian tự học nhiều hơn thì tăng ni chỉ là địa chỉ tham khảo !


Câu chuyện mỗi lúc một sâu và xa hơn, một cậu cư sĩ trẻ tuổi nhìn thiền sư rồi hỏi :

- Xin hỏi người đi chùa ngày một đông và chùa chiền ngày một tráng lệ sao có người lại bảo thời này là đời mạt pháp?

Lão thiền sư bật cười:

-Tinh thần chánh pháp không thể tính trên số người đi chùa hay số đo chiều cao, chiều rộng của chùa tháp. Hãy chọn bừa một vài người trong biển người đi chùa rồi hỏi họ lý do đến chùa, hay hỏi tăng ni tiết mục nào quan trọng nhất trong các buổi lễ đông đảo, lúc đó ông sẽ thấy chánh pháp chỉ là một khái niệm xa xỉ và viễn tưởng.


Thử hỏi ai là người phải chịu trách nhiệm cho sự tình này ? Câu trả lời có lẽ phải là cả hai phía tăng ni và cư sĩ. Nói rốt ráo thì tăng hay tục đều là khách trầm luân như nhau, cư sĩ có lòng cầu giải thoát thì không thể tự cho mình cái quyền dễ ngươi trong cái gọi là đạo nghiệp tu hành. Mai kia trên giường chết mọi người đều phải một bóng lên đường vào cuộc đi mù mịt của kiếp tử sinh. Nhưng hiếm người cư sĩ thấy ra lẽ này. Vì sao lại thế chứ ?

Bởi từ lâu ngày họ đã được hướng dẫn kín đáo rằng cứ có nhiều tiền thì có thể nhờ người khác hộ niệm, khỏi phải tu học gì hết. Trường hợp thứ ba còn thảm hơn: Cúng dường mạnh tay để quảng cáo bản thân, tính ra rẻ tiền mà hiệu quả hơn việc lên báo, lên đài. Đại khái đời mạt pháp là thời điểm mà hầu hết tăng ni và cư sĩ đều thích mở nhà hàng nhưng thức ăn toàn là đồ hộp, chỉ việc khui ra hâm nóng rồi đặt lên bàn cho khách. Đó không là mạt pháp thì còn chờ lúc nào nữa.


Khách lại hỏi thêm:

Đám hỏi thiền sư một vài dấu hiệu đặc trưng của đời mạt pháp để chúng con biết mà thêm tinh tấn ?

Thiền sư nhắm mắt một lát rồi nhìn xuống trả lời:

ĐDại khái tăng ni không muốn giỏi nhưng thích được khen giỏi, khoái sống như phàm nhưng lại muốn được xem là thánh, coi chùa quan trọng hơn Phâ.t. Về phía cư sĩ, hiếm người đến với tăng ni để học đạo giải thoát. Thường người đến chùa chỉ nằm trong vài ba trường hợp: Do hoàn cảnh mà quen biết tăng ni rồi lui tới như bè bạn, lâu ngày tự nhiên có được nhãn hiệu Phật tử, hoặc xem tăng ni như trung gian giúp họ liên lạc với một cõi trên nào đó để van xin khấn khứa.

Những hướng dẫn sơ sài thiếu trách nhiệm của tăng ni không đáng cho cư sĩ cúc cung tận tụy để hồi đáp. Một người bệnh không có lý do gì phải một đời thờ phụng lang băm. Cái họ cần phải là thuốc hay, thầy giỏi. Một quan hệ thầy trò dựa trên niềm tin mù quáng kiểu đó dễ khiến đệ tử thành ra nô lệ hơn là học trò của thầy, một kiểu nô lệ chung thân không có tiền công và cái họ nhận được chỉ là một xấp vàng mã !

Có câu chuyện đáng buồn này ta đọc được ở đâu đó lâu lắm rồi, mà mỗi lần nhớ lại cứ nghe ngậm ngùi mà ray rức khôn nguôi.


Có đôi vợ chồng nhà kia nghèo khổ cơ cực lắm, còng lưng làm lụng mà vẫn không đủ ăn, đã vậy mỗi ngày còn phải dành ra ít tiền xương máu để trả dần một món nợ lớn mà họ đã vay từ nhiều năm trước. Nhắm sống ở quê nhà không xong, họ dắt díu nhau biệt xứ đi làm thuê ở một chốn xa. Ngày trả xong món nợ kia cũng là lúc họ đã bạc tóc, thân tàn ma dại, người quen ngày nào gặp lại đố mà nhận ra họ là ai. Vậy mà trời xuôi đất khiến, một ngày kia, giữa chốn xứ lạ quê người, hai vợ chồng nghèo kia gặp lại đúng người chủ nợ năm nào. Đó là một người bạn cũ giàu có và tốt bu.ng.

Người bạn nhà giàu sững sờ nhìn cặp vợ chồng nghèo trong bộ dạng tả tơi ốm đói:

-Sao lại ra nông nỗi nầy chứ, hai người đi đâu mười mấy năm nay, rồi giờ sống ra sao mà ngó thảm quá thế này ?

Hai vợ chồng nghèo nhìn nhau rồi lại nhìn cô bạn giàu có, họ ngập ngừng ngượng nghịu một đổi rồi cô vợ nhìn vào mắt người đối diện:

-Bồ có nhớ chuyện mười mấy năm trước đã cho tui mượn sợi chuỗi ngọc để đi dự tiệc không ?

Cô bạn gật đầu:

- Nhớ chứ, vì hình như sau đó không lâu thì bạn bè kháo nhau là hai người đã mất tích, không ai liên lạc đươ.c.

Người thiếu phụ nghèo khổ khó khăn lắm mới có thể nói tiếp:

-Sau đêm đó tụi này làm mất chuỗi ngọc, đến tận giờ cũng không biết nó đã rơi mất ở đâu hay bị ai lấy trộm, nói ra sợ bồ không tin rồi nghĩ quấy.


Cô bạn nhà giàu nóng ruột:

-Rồi sao nữa hả ?


Anh chồng của người thiếu phụ nói thay vợ:

-Tụi tôi cầm cố hết nhà cửa , bán luôn miếng đất hương hỏa rồi mượn thêm chỗ này chỗ kia để có tiền tìm mua một xâu chuỗi ngọc giống hệt của bà để đền la.i. Rồi từ đó bỏ xứ đi luôn. Mãi đến gần đây mới trả xong món tiền nợ năm đó. Giờ ra đường thấy ai đeo chuỗi ngọc giống vậy cũng sợ điếng hồn không dám nhìn nữa.

Cô bạn giàu có nghe đến đó thì đưa hai tay ôm đầu kêu trời:

-Úy trời đất, xâu chuỗi tôi cho hai người mượn năm đó là đồ giả, đeo cho vui vậy thôi. Từ lúc mấy người đem trả lại đến nay tôi có bao giờ đụng đến nó nữa đâu. Trời ơi là trời, vậy là tiêu mất một đời của ông bà chỉ vì cái món đồ quỷ đó.


Cả ba người đều khóc, và cả ta nữa, lần đầu đọc được câu chuyện đó cũng nghe xót xa không chịu nổi.
Nhưng câu chuyện đó không phải hư cấu đâu, nó có thật và xảy ra từng ngày trên hành tinh này khi từng bữa trong thiên hạ vẫn có biết bao người phải trả một cái giá thiệt đắt cho những thứ hàng hoá không đáng để họ chạm tay. Đó là những sản phẩm chính trị, tôn giáo, xã hội...được tạo ra từ những động lực như gian trá, ích kỷ, dốt nát, vô cảm, tắc trách mà cái nào cũng độc hết, cái nào cũng để lại những tác hại là hút cạn sinh lực hay khiến người ta hoang phí kiếp nhân sinh một cách oan uổng tức tưởi.

Lão thiền sư đột nhiên trỏ tay lên chiếc đồng hồ trên vách:

-Bốn lăm rồi, hồi nãy ai nói có chuyến tàu lúc 15, rửa mặt uống nước rồi tà tà đi là vừa. Đi mà trả cho xong mấy món nợ đời !

Ông cười hiền khô, rồi đứng dậy vói lấy tay nải, nói mà không nhìn ai trong đám khách:

-Ta có việc phải vào làng, am gần ga, biết đâu lại có dịp mấy người lỡ chuyến tàu mà ghé đây gặp la.i.
Dáng người gầy gò của nhà sư già nhanh chóng chìm khuất trong đám lau trắng. Nắng chiều bỗng vàng rực như lửa, có chút gió ở đâu thổi về mang theo cái mùi ngai ngái của một trại bò nào đó. Tiếng còi tàu lửa vang lên từ cuối chân trời. Đám khách rời am và có người vừa đi vừa ngoái đầu nhìn lại đồi lau . Thảo am của nhà sư già không còn ở đó nữa. Nó khuất tầm nhìn của họ hay là nó chưa từng tồn tại...

Toại Khanh

* Ghi chú: bài này đã được hiệu đính đôi chổ và thay đổi đầu đề cho hợp với nội dung bởi tòa soa.n.

(Fwd: honghai386@gmail.com, 3/16/2014, 4.44PM)

Saturday, April 5, 2014


Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN **TỰ VỆ VÀ HÀNH ĐỘNG THEO BỔN PHẬN ĐUỔI XÂM LĂNG



TỰ VỆ VÀ HÀNH ĐỘNG
THEO BỔN PHẬN ĐUỔI XÂM LĂNG
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 20.03.2014
Không phải chỉ có Hoàng Sa và Trường Sa ngoài khơi Biển Đông, nhưng chính trên đất liền của lãnh thổ Việt Nam, cuộc xâm lăng của Trung quốc lan tràn như vết dầu loang  thành hình da báo từ Bắc tới Nam. CSVN cai trị Dân Tộc, không những không thi hành trách nhiệm bảo vệ giang sơn, mà còn vì quyền lợi chính trị cho đảng và vì tham nhũng hối lộ của từng đảng viên lãnh đạo, đã để người Trung quốc vào hoành hành trên lãnh thổ như chỗ không người, cho thiết lập những khu thương mại Chệt như tự trị, nhường dài hạn những tài nguyên quốc gia cho Tầu khai thác, trao những khu đất cho Tầu thuê để trồng trọt lâu năm, dành những khu ven biển cho Chệt nuôi tôm cá... để họ mang người sang lập những làng mạc xung quanh.
Đảng CSVN không những không thi hành trách nhiệm bảo vệ non sông, mà còn nối giáo cho giặc làm cho cuộc xâm lăng tiệm tiến của Trung quốc lan tràn trên đất Tổ. Dân Tộc nhắc cho đảng CSVN lời dậy của Tiền Nhân:
*          Lời Di Chúc của Vua Trần Nhân Tôn :
“Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Tàu Hán. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích.Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn: 
"Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". 
Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu.“
(Trần Nhân Tôn)
*          Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã viết :
“Nay các ngươi... trông thấy quốc sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức,...Chẳng những ta chịu nhục bây giờ, mà trăm năm về sau, tiếng xấu hãy còn mãi mải.“
(Trần Hưng Đạo)
*          Lời của vua Lê Thánh Tôn đã nói như sau:
“... một thước núi, một tấc đất của ta lẽ nào lại tự liệu vất bỏ được !  Kẻ nào dám đem một thước núi, một tấc đất của Tổ Tiên giống nòi để làm mồi cho giặc thì kẻ đó phải bị trừng trị nặng !.”
(Lê Thánh Tôn)
            Khi mà đảng CSVN không những không làm trách nhiệm bảo vệ Nước, mà còn phạm vào cái tội Trời không tha và Đất không dung là tội bán Lãnh Hải, Lãnh Thổ, thì Dân Tộc phải đứng lên làm BỔN PHẬN mà Tiền Nhân trao phó trong suốt chiều dài của Lịch sử: ĐỨNG LÊN TỰ VỆ LẤY MÌNH VÀ KHÁNG CHIẾN ĐUỔI QUÂN XÂM LĂNG ra khỏi bờ cõi !
            Chúng tôi xin trình bầy những khía cạnh sau đây:
=>        Bài học TỰ VỆ VÀ KHÁNG CHIẾN của Ukraine
=>        Xâm lăng Trung quốc đến hồi trầm trọng do chính đảng CSVN làm môi giới
=>        Dân Tộc phải đứng lên TỰ VỆ và Làm BỔN PHẬN Kháng Chiến đuổi xâm lăng
Bài học TỰ VỆ VÀ KHÁNG CHIẾN của Ukraine
Nga và Tầu cùng nguồn gian xảo Cộng sản và bất chấp luật pháp Quốc tế. Nga và Tầu hiện nay thường liên kết với nhau để chống đối lại phía Tây phương Hoa kỳ và Liên Au. Cuộc NỔI DẬY của Ukraine cho Việt Nam những bài học :
*          Dân Ukraine đã cương quyết đứng lên để thoát ảnh hưởng của Nga. Đó là bài học đầu tiên cho Dân Tộc Việt Nam NỔI DẬY để tự cứu mình.
*          Bài học thứ hai là về lựa chọn về Kinh tế. Ukraine chọn Nga là đi vào bế tắc trong phát triển Kinh tế lâu dài. Họ nhất quyết đấu tranh để lựa chọn những Thị trường Tây phương Hoa kỳ và Liên Au. Dân tộc Việt Nam cũng không thể chọn Tầu , mà phải đi với Thị trương Tây phương Hoa kỳ và Liên để phát triển Kinh tế.
*          Bài học thứ ba là việc Putin sử dụng những gian xảo tuyên truyền để đem quân đội vào Crimea và nhằm phía miền Tây của Ukraine với cái cớ là để bảo vệ an ninh và tài sản của dân Nga và dân nói tiếng Nga. Sư hiện diên của quân đội trên lãnh thổ Ukraine nhằm ngăn chặn cái quyết định đi với Tây phương của nước Ukraine.
            Trong những ngày cuối tuần vừa rồi và đầu tuần này, Putin đã cấp bách sát nhập bán đảo Crimea vào Nga. Liên Hiệp Quốc bất lực. Tây phương phản ứng yếu ớt. Người Ukraine tự tin ở sức mình với ý chí nhất định TỰ VỆ & KHÁNG CHIẾN chống lại xâm lăng của Nga.
Xâm lăng Trung quốc đến hồi trầm trọng
do chính đảng CSVN làm môi giới
Tại Việt Nam, đảng Cộng sản, vì tham nhũng và vì muốn Trung quốc bảo vệ quyền độc tài cai trị của đảng, nên đã hoàn toàn thả lỏng cho người Tầu vào Việt Nam:
=>        Người Tầu tự do vào Việt Nam không cần Visa
=>        Hầu hết những Dự án do những Công ty Tầu thầu được và đã “xuất cảng“ nhân công Trung quốc sang làm việc. Người Tầu lập những làng cạnh Dự án.
=>        Nhường những Tài nguyên hầm mỏ cho Tầu khai thác dài hạn. Cạnh những hầm mỏ ấy là những làng Tầu
=>        CSVN cũng đã cho thuê dài hạn những khu đồi rộng để Tầu trồng cấy. Nhân công Tầu cũng di dân sang những khu nhượng địa ấy
=>        CSVN đã cho cho Tầu thuê những vùng ven biển dài hạn để nuôi tôm cá.
=>        Các hãng xưởng Tầu cũng đã được xây dựng tại Việt Nam
=>        Những Thương gia Tầu đã dễ dàng chuyển vào Việt Nam tràn đầy hàng hóa Trung quốc để giết hàng Việt Nam tại sân nhà. Phần lớn những hàng hóa Tầu là những hàng tồn kho, hết hạn tại Trung quốc và bán với giá rất rẻ. Hàng Trung quốc mang nhiều chất độc và ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe dân Việt Nam, nhất là quần chúng dân nghèo. Việc lan tràn hàng Trung quốc chính là cuộc xâm lăng Kinh tế của Trung quốc.
=>        Những Thương gia Tầu lập những khu phố, những khu thương mại riêng. Đó là những tiểu “Chợ Lớn “ sau này.
=>        Những lái buôn của Tầu sang Việt Nam để mua hàng, làm đầu cơ và gây xáo trộn việc làm ăn của dân chúng.
=>        Những phụ nữ Việt Nam lấy chồng Tầu hay Đài Loan (cũng là Tầu), rồi con cháu lai Tầu và những con cháu này có thể trở lại Việt Nam ở.
=>        Vì gia đình Tầu chỉ có một con, nên tuổi trẻ Tầu hầu hết là con trai. Những thanh niên Tầu không cần Visa khi qua Việt Nam, nên họ có thể sang lấy Vợ Việt Nam và ở luôn tại đây. Con cái sinh ra cũng mang một nửa máu Tầu phía người Cha
Tất cả những xâm nhập trên đây vào nội địa Việt Nam làm thành “da báo“ của Tầu từ Bắc chí Nam, nghĩa là khắp nước mình đầy những khu Tầu.
Dân Tộc phải đứng lên TỰ VỆ và
Làm BỔN PHẬN Kháng Chiến đuổi xâm lăng
Bài học từ Urkraine khiến chúng ta nghĩ rằng Tầu cũng có thể làm giống như Putin, nghĩa là trước mặt Quốc tế, Tầu lấy cớ BẢO VỆ AN NINH VÀ TÀI SẢN của công dân Tầu ở Việt Nam để họ đưa QUÂN ĐỘI TẦU VÀO VIỆT NAM mà Quốc tế cũng đành bó tay như trường hợp Ukraine lúc này.
Dân Tộc Việt Nam phải tự mình đề phòng trường hợp Tầu lấy cớ để xâm nhập quân đội vào Việt Nam. Việc đề phòng phải đặt cơ sở chống lại ngay từ bây giờ chứ đừng đợi sau cuộc NỔI DẬY như Ukraine vì những lý do sau đây:
*          Thái độ yếu ớt của Tây phương trước việc xâm nhập quân đội của Putin vào Urkaine, một nước trực tiếp động chạm đến anh ninh Liên Au, cho chúng ta nghĩ rằng khi Tầu cho quân đội vào Việt Nam, thì Tây phương càng phản ứng yếu ớt hơn vì chúng ta ở xa xôi với Tây phương.
*          Dân Tộc Việt Nam phải đặt những cơ sở TỰ VỆ & KHÁNG CHIẾN chống Tầu ngay từ lúc này trước khi Tầu xâm nhập bằng quân đội.
*          Bắt đầu thực hiện TỰ VỆ & KHÁNG CHIẾN thực sự chống Tầu lúc này để báo động cho Quốc tế về nạn xâm nhập quân sự Trung quốc để, trước khi Tầu làm ẩu, Tây phương và Mỹ dễ dàng hỗ trợ chúng ta hơn là lúc Tầu đã cho quân đội vào Việt Nam như việc đã rồi.
*          Việc TỰ VỆ & KHÁNG CHIẾN ngay từ lúc này khiến dân Tầu ở Việt Nam phải ngại sợ và có thể vì đó mà giảm cường độ tăng trưởng những mảnh “da báo “
            Quyền TỰ VỆ là quyền tự nhiên của tất cả mọi sinh vật. Quyền KHÁNG CHIẾN chống ngoại xâm bảo vệ lãnh thổ là BỔN PHẬN mà Tổ Tiên trao phó cho con cháu trong suốt chiều dài Lịch sử.
  
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 20.03.2014

THƠ TRANH ĐẤU


VÙNG LÊN, DÂN TỘC TÔI ƠI !
(Gởi đảng viên các cấp, sinh viên học sinh và toàn thể đồng bào Việt Nam mọi giới trước họa mất nước cho Tàu cộng)
 


Tây Nguyên, đất nước của ta
Sao ai xẻ thịt cắt da thế này  !
Ai đưa Tàu đến nơi đây
Đóng đô, lập ấp, đốn cây, phá rừng ?
Lưỡi dao đâm lút triền lưng !
Quặng nhôm hay máu không ngừng tuôn ra ...
Quặng nhôm, tài sản quốc gia
Sao dâng Tàu cộng,Trung Hoa, hở Trời ?
Giang sơn là của mọi người
Do xương do máu bao đời dựng nên
Ta không cho phép bạo quyền
Tự tung tự tác ngang nhiên làm Trời !
Nam Quan, Bản Giốc mất rồi
Hoàng Sa, Tàu đã giành ngôi chủ quyền
Bây giờ lại đến Tây Nguyên
Rồi mai, đảng sẽ bán miền nào đây ?
Từ thời lập quốc đến nay
Chưa bao giờ nhục thế nàỵ Hỡi ơi !..
Phế hưng, dâu biển bao đời
Giang sơn vẫn được mọi người đắp xây !
Mà nay phản quốc một bày
Cắt dâng cho lũ quan thày khơi khơi!

Vùng lên, dân tộc tôi ơi ...
Tây Nguyên chễm chệ Tàu ngồi, nhục không ?
Việt Nam, hỡi giống Tiên Rồng !
Kiên cường, bất khuất, non sông lấy về!
Quê ta, ta phải giữ quê !
Chỉ gươm sông Hóa mà thề phục hưng !
Nếu ta hèn yếu, ngập ngừng
Thì người cưỡi cổ, đạp lưng muôn đời
Năm châu, đứng thẳng cùng người
Vung gươm chính nghĩa, hát lời tự do !!!


Ngô Minh Hằng




  GÓC THIÊN ĐƯỜNG
                  -------
"CNXH là Thiên Đường của nhân loại"
       - Lời tâm niệm của thời bao cấp.
                     *
Anh bỗng nhớ miền quê yêu dấu
Không gian xanh xanh đến nao lòng...
                      *
Góc Thiên Đường trên giường bề bộn
Váy áo em và tã lót con
Vuông mùng trắng tinh tươm bóng lộn
Mùi tóc thơm tỏa ấm cả buồng...


*
Thật thân thương ba gian nhà nhỏ
Mái tranh vàng, vách nứa đơn sơ
Đêm buông xuống em nhen bếp lửa
Tiếng Vạc kêu xao động mặt hồ...


*
Thỏa ước mơ ta về Thành phố
Nhà cao tầng, xe cộ như nêm
Chẳng còn nữa Góc Thiên Đường cũ
Anh đã quên, mà em cũng quên.
         Hà Nội , xuân 2014

            Nguyễn Khôi



BÚT TRE * TOÀN DÂN VÙNG LÊN

Biểu tình nổ ra khắp nơi báo hiệu sự thay đổi đột biến trong năm 2014?
Liên tục trong những ngày gần đây nhiều cuộc biểu tình phản đối của người dân đã diễn ra trên khắp các miền đất nước, thu hút sự chú ý của truyền thông lề trái và mạng xã hội. 


Tại Ninh Thuận
Đầu tiên là cuộc biểu tình của người dân Ninh Thuận phản đối khai thác titan tại đây. Được biết UBND tỉnh Ninh Thuận cấp phép cho Công ty TNHH Quang Thuận khai thác Titan ở thôn Sơn Hải, xã Phước Dinh huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận, với phê duyệt diện tích khai thác 87ha. Hậu quả của việc khai thác titan là gây ô nhiễm môi trường sống trầm trọng cho người dân nơi đây. Nghiêm trọng hơn nữa là việc khai thác quặng Titan đã khiến cho mạch nước ngầm ở đây bị sụt, người dân không có nước sạch để sinh hoạt.

Trước nguy cơ đó, người dân đã xuống đường biểu tình phản đối, trước đó dân cũng khiếu nại và phản đối nhưng không có kết quả [nguồn]. Bức xúc với việc nhà cầm quyền xem nhẹ mạng sống của người dân để trục lợi. Người dân tại đây đã đập phá nhà của chủ công ty TNHH Quang Thuận, một số người dẫn đầu bị bắt. 




Dân bị bắt, chính quyền tiếp tục cho công ty khai thác trở lại, mặc cho đời sống của người dân rơi vào tình trạng nghiêm trọng. Với những bức xúc đó, ngày 27, 28 tháng 3 người dân Ninh Thuận tiếp tục xuống đường biểu tình. Để đối phó với người dân, nhà cầm quyền Ninh Thuận đã đồng loạt điều động các lực lượng công an, cảnh sát cơ động để trấn áp. Với những bất bình đè nén bấy lâu, người dân đã quyết tâm không lùi bước và phản kháng cuộc trấn áp của lực lượng công an. Hậu quả của cuộc đụng độ là 2 thiếu úy cảnh sát bị thương, chưa kể trước đó hai ngày đã có 4 cảnh sát cũng phải nhập viện do trấn áp cuộc biểu tình.

Tại Hà Tĩnh

Tiếp nối cuộc biểu tình tại Ninh Thuận, ngày 29 tháng 3 Tại huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh hàng ngàn người dân cũng đồng loạt biểu tình chống cưỡng chế. Được biết, tại Vũng Áng, Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh là chốt điểm lâu nay người Trung Quốc vẫn ồ ạt đổ về đây kinh doanh, sinh sống. Có những lời bình luận rằng, bước vào vùng Vũng Áng, Hà Tĩnh như bước vào một thành phố của Trung Quốc. Bởi vì nơi đây rất đông người Trung Quốc và dày đặc các bảng hiệu kinh doanh của người Trung Quốc. Được biết đa số người Trung Quốc làm việc tại đây không có giấy phép lao động.


 


Theo một số thông tin cho hay, cuộc biểu tình tại Kỳ Anh, Hà Tĩnh nổ ra từ việc nhà cầm quyền Hà Tĩnh có kế hoạch cưỡng chế 180 Kiốt của người dân ở Hải Phong, thuộc xã Kỳ Lợi, huyện Kỳ Anh, Tỉnh Hà Tĩnh. Vì cho rằng quyết định cưỡng chế này là trái phép, người dân đã không chấp nhận và đồng loạt phản đối dữ dội. Điều đáng nói ở đây là cuộc biểu tình này không chỉ là những người nằm trong diện cưỡng chế, mà cả những người không nằm trong diện cưỡng chế cũng tham gia, theo người dân nơi đây cho biết số người biểu tình trong ngày 29/3 lên tới hơn 3000 người. Còn về phía nhà cầm quyền đã tập trung đủ các thành phần công an, cảnh sát, xe cứu thương để sẵn sàng cho việc cưỡng chế, đàn áp.
Đã xảy ra xô xát giữa người dân với lực lượng công quyền khiến cho chủ tịch huyện, Nguyễn Văn Bổng, hai cảnh sát cơ động cùng với một nhân viên điện lực bị thương.


Tại Nghệ An
Cũng trong chuỗi ngày đó, một nguồn tin trên mạng xã hội Facebook cho hay, ngày 28 tháng 3 tại Quỳnh Văn, Quỳnh Lưu, Nghệ An cũng nổ ra một cuộc biểu tình của hàng ngàn người dân phản đối cưỡng chế. Có 3 người bị bắt nhưng đã được thả ngay sau đó vì sự phản đối dữ dội của người dân nơi đây. 


Tại Dương Nội Cũng trong ngày 28 tháng 3, thông tin trên đài RFA cho biết, bà con phường Dương Nội, quận Hà Đông nhận được tin hai người dân bị công an bắt đi từ ngày 26 tháng 3 đã cắn lưỡi tự tử trong đồn. Theo đó, bà con đã cùng nhau kéo đến đồn công an để tìm hiểu thực hư và hỏi lí do. Nhưng không được giải đáp, ngược lại còn bị công an lợi dụng đêm tối đàn áp dã man bà con Dương Nội.

Bản tin cho hay: “khoảng 9:30 thân nhân của ông Trần Văn Sang, một trong hai người bị bắt và được thông báo tự tử ở đồn công an cho biết như sau:

Chiều hôm nay nhận được thông tin chú của cháu cắn lưỡi gần chết nằm trong bệnh viện. Điều đó không biết đúng hay sai, còn nằm bệnh viện cũng không biết bệnh viện nào. Bà con mọi người ra đồn công an đòi người thì công ra ra đuổi. Khi mọi người vào đòi người thì công an bắt thêm bác cháu và bố cháu nữa. Bố cháu là Trần Văn Tú và bác cháu là Trần văn Tuấn.

Hôm bắt chú Trần Văn Sang, anh công an khu vực đưa giấy. Họ bắt từ chiều mà đến tối chín giờ kém 10 mới đưa giấy. Gia đình hoang mang không làm được gì, không đến công an hỏi vì có giấy thông báo bắt tạm giam rồi. Ngày hôm sau có đến đòi người họ nói không biết. Hôm nay họ thông tin chú cháu cắn lưỡi thì mọi người đến đòi người họ lại đánh một người ngất xỉu đưa đi viện.

Thông tin 2 người dân cắn lưỡi tự tử vẫn chưa được xác minh rõ ràng thì ngày 30 tháng 3, theo blog Phe Áo Đỏ cho biết, cũng tại Dương Nội, ngay trên mảnh đất đang tranh chấp của ông Dương Văn Dư, bà vợ của ông là Nguyễn Thị Giang đã bị đánh chảy máu đầu, hung thủ là con của Nguyễn Đình Thục (kẻ được giao đất trái phép).

Được biết bà Giang mang đồ lễ cúng đến thửa đất của bà để cúng và sau khi cúng xong thì bị con của Nguyễn Đình Thục chạy ra cầm gậy đánh mạnh vào đầu bà Giang. Điều đáng nói ở đây là tại hiện trường lúc đó có rất nhiều dân phòng đứng vây xung quanh nhưng không can ngăn tên thanh niên này hoặc chỉ giải vờ can ngăn.

 
Với những cuộc đàn áp, những hành động hết phi nhân và phi pháp của nhà cầm quyền địa phương đối với người dân Dương Nội nhưng bà con vẫn một lòng kiên cường đấu tranh đòi quyền lợi cho mình.


* * *
Như vậy, trong mấy ngày liên tiếp, đã nổ ra ít nhất 4 cuộc biểu tình với quy mô lớn. Điều này cho thấy với chính sách “cai trị” nhân dân bằng thủ đoạn tàn độc của nhà cầm quyền, nhân dân khắp nơi luôn phải sống trong cảnh cùng cực, quyền làm người của người dân bị chà đạp… đã khiến cho người dân bị dồn tới bước đường cùng để rồi họ không thể cam chịu được mà phải vùng lên. Giờ đây sự mâu thuẫn của người dân đối với chính quyền trở nên đối kháng rõ rệt. Nỗi phẫn uất của người dân đã lên tới đỉnh điểm, sự sợ hãi của họ đã biến mất và họ sẵn sàng đổ máu để bảo vệ những quyền lợi của mình.

Chắc chắn nhà cầm quyền đã nhìn thấy rõ sự thay đổi này. Chắc chắn họ cũng đã tự đánh giá được những sai lầm của họ, những bất công mà họ đã gieo xuống cho người dân, để rồi giờ đây lòng dân căm phẫn. Vấn đề đặt ra cho nhà cầm quyền là họ sẽ chọn con đường nào: thay đổi hay tiếp tục dậm chân tại chỗ với những chính sách “hành dân” để rồi sẽ dẫn đến đổ vỡ đầy bạo lực? Con giun xéo mãi cũng quằn, những bức xúc không được giải tỏa sẽ ngày càng đầy lên và bộc phát mạnh hơn nữa, tất cả chỉ là vấn đề thời gian.

Về phía người dân, nhất là tầng lớp trí thức, điều cần thiết bây giờ là tất cả chúng ta đều phải đồng lòng, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong phương thức và con đường đấu tranh để giúp những người dân vô tội đấu tranh sao cho hiệu quả và giảm thiểu hao tổn xương máu của cả đôi bên, điều mà chắc chắn không ai trong chúng ta mong muốn.

Rất nhiều thành phần đã chảy cùng dòng chảy đấu tranh, nhưng một lực lượng vẫn mong chờ nhất cho một sự thay đổi nhất định đó là các bạn trẻ, thanh niên, sinh viên. Tại sao những tiếng nói từ thành phần này vẫn còn quá ít ỏi và yếu ớt? Thanh niên là những người đón đầu thời đại, những thế hệ tương lai của đất nước, nhưng các bạn đang ở đâu? Phải chăng các bạn đang ẩn nấp sau những vỏ bọc của sự ích kỉ, của sự sợ hãi? Tại sao những người nông dân chất phác hiền lành làm được mà những người trẻ chúng ta không thể làm một ngọn gió đổi thay được. Giờ đây các bạn chỉ sống với hạnh phúc cho riêng mình, nhưng thử hỏi, nếu không nỗ lực để thay đổi hiện tình đất nước, rồi đây đất nước tan vỡ thì các bạn còn có thể yên ổn mà vui với hạnh phúc của riêng mình được chăng? Rất cần sự dấn thân và đoàn kết trong giới thanh niên, sinh viên Việt Nam để đóng góp vào sự thay đổi của Việt Nam.

Bút Tre

Friday, April 4, 2014


TRỒNG RAU TRONG VƯỜN

NGHỆ THUẬT TRỒNG RAU 
Sunday, March 30, 2014 3:09:58 PM  

Sợ rau dính dư lượng thuốc trừ sâu quá mức an toàn, và vì không tin cả các nhãn hiệu tự nhận là “rau sạch” bày bán ở các chợ, dân Hà Nội đua nhau trồng rau sạch để dùng.



 
Người dân tại thành phố Hà Nội dùng chai nhựa trồng rau sạch. (Hình: VEF)
  
Báo mạng VEF cho biết, rất nhiều người Hà Nội dành thời gian không ít để tự tạo vườn rau sạch, bằng cách tận dụng tất cả các loại phế liệu, từ chai nhựa, nồi, niêu, xoong, chảo…để trồng. VEF dẫn lời bà Nguyễn Thị Thu Phương, cư dân quận Ba Đình nói rằng, vỏ chai nhựa trong nhà được dùng để trồng rau sạch thay vì đem bán “ve chai” như trước đây. Bà Phương đã học phương pháp này từ trên mạng.

 trồng-rau, rau sạch, chai-nhựa, dép-nhựa, chảo-rán, vải, đồ-bỏ-đi, vườn-rau

Cắt bớt một phần ba miệng của chai, đục lỗ đáy chai để nước thoát ra dễ dàng, bà Phương cho đất vào chai, gieo hạt rồi treo chai lủng lẳng lên vách tường, mái hiên, cửa sổ… Coi như bà tận dụng tất cả mọi chỗ trống trong nhà để … treo chai rau sạch. 

 
Một cư dân khác ngụ tại quận Ba Đình, bà Vũ Ngọc Hà My cho biết, dép nhựa cũ không xài cũng có thể là vật dụng chứa đất để trồng rau. Bà nói: “Dép nhựa có lỗ sẵn, tôi chỉ cần đóng chúng lên tường, bỏ đất vào rồi trồng đủ loại, từ hành lá, cần tàu, xà lách…”

trồng-rau, rau sạch, chai-nhựa,  dép-nhựa, chảo-rán, vải,  đồ-bỏ-đi, vườn-rau 
Bà Nguyễn Thu Phương còn cho biết, đã dùng vườn rau làm “công cụ” dạy con nhỏ cách làm vườn, tưới rau, cắt rau… giúp bố mẹ. Bà nói: “Đó là công việc mỗi ngày của các cháu, sau giờ đi học về.” Bà thú nhận rằng, cả nhà giờ đây mãi lo săn sóc vườn rau, không dám đi chơi xa lâu quá hai ngày, vì sợ rau chết khô
Rau sạch trồng trong chảo. (Hình: VEF)
 
Trong khi đó, nhiều người Hà Nội khác thì thường xuyên lên mạng để lùng mua rau sạch. Trong vòng ba năm trở lại đây, người ta thấy xuất hiện một số trang mạng quảng bá rau sạch, với lời bảo đảm chỉ cung cấp nguồn rau được tưới bằng phân hữu cơ, và tuyệt đối không sử dụng hoá chất.

trồng-rau, rau sạch, chai-nhựa, dép-nhựa, chảo-rán, vải, đồ-bỏ-đi, vườn-rau 
Đài Tiếng nói Hoa Kỳ VOA trích dẫn nhận xét của một cư dân Hà Nội cho rằng, các bà nội trợ thường “mách nước” các địa chỉ phân phối rau sạch trên mạng Facebook, một cách để “tồn tại.” Theo bà, người dân Việt Nam nay phải tự cứu chứ không ai lo cho mình.

NGUYỄN THỊ THÊM * VỢ LÍNH



V Lính


Tôi quen biết chàng khi anh ấy đã là lính. Cái lon Chuẩn úy chẳng là cái thá gì với tôi, một người con gái đầy nam tính. Tiếng nói miền Trung lơ lớ khó nghe, mặt chẳng đẹp trai và nhìn qua là biết chẳng phải con nhà giàu. Mấy cái đó và cả con người đó đáng lý ra chẳng dính dáng gì với tôi. Thế nhưng, trời bất dung gian cái tên Chuẩn uý người Huế đó không biết bằng cách nào lại có thể xin vào dạy giờ ở cái trường Trung học tư tôi đang dạy. Tôi thì phớt tỉnh Ăng lê, tới giờ dạy, hết giờ về không chuyện trò tào lao với người khác phái. Cái nhược của tôi bây giờ tôi mới biết là ở chỗ này. Thế là cứ tới giờ tôi đang dạy thì hắn lại sai học trò sang mượn khăn lau bảng, mà dạy toán thì lau bảng thường xuyên. Lại qua mượn phấn, hết phấn thường xuyên. Hết giờ lại tới chào và xin lỗi. Ngày khác lỗi vẫn hoàn lỗi, lại mượn phấn, mượn khăn.


Từ đó tôi ghét hắn. Mấy đứa học trò cũng biết tôi không thích hắn. Thế là tôi bảo học trò để sẳn một mớ phấn trong cái hộp và một cái khăn lau bảng. Học trò hắn qua mượn, tôi đưa luôn hộp và nói hãy giử lấy tôi tặng luôn, khỏi trả. Hắn tìm tôi xin lỗi và xin chở tôi về sau giờ dạy. Tôi từ chối, mặt lạnh như tiền đi thẳng. Buổi chiều, hắn tìm tới nhà để xin lỗi. Hôm sau không giờ dạy, hắn lại tới nhà mượn sách và ngồi lì nói chuyện không đâu ra đâu. Cứ hể có dịp là hắn tới nhà tôi ngồi đồng, hắn nói đủ thứ chuyện bằng âm hưởng miền Trung nặng trình trịch. Một thời gian sau, tôi nghe miết rồi quen cái giọng khó nghe. Không tới trả sách thì lại thấy thiếu vắng một cái gì không phải là sách. Cái chiến thuật “mưa lâu thấm đất”, “Nói hay không bằng ngồi dai” đã khiến tôi phải lên xe hoa về nhà hắn và làm vợ hắn cho tới bây giờ.

Ông xã tôi là con trai một trong một gia đình hiếm hoi con trai. Cha chồng tôi là con trai một và đã mất sớm khi mẹ chồng tôi mới hơn 30 tuổi. Một nách 3 đứa con côi và cha mẹ chồng già yếu, mẹ chồng tôi đã ở vậy một nắng hai sương làm tròn nhiệm vụ làm dâu và làm mẹ. Do đó cái ao ước và hoài bảo của bà là có người thừa tự. Tôi cô gái miền Nam tánh tình bộc trực, lại là một nữ hướng đạo hội họp, đi cắm trại liên miên, không nằm trong danh sách những người bà lựa chọn. Thế nhưng khi cậu con trai đã quyết thì bà phải bằng lòng. Vì trong thời buổi chiến tranh, người lính không thể biết trước ngày nào bỏ thây ngoài trận chiến. Và thế mẹ chồng tôi đã bỏ cái làng quê chôn nhau cắt rốn vào miền Nam để cưới vợ cho con, hầu mong tìm một mống cháu nội sau này.


Thế nhưng sau 3 năm cưới nhau tôi vẫn trơ trơ cho mẹ chồng tôi ngày đêm không yên giấc. Tôi biết trong tận cùng bà buồn lắm. Đôi khi bà nhìn tôi với đôi mắt thiếu tin tưởng. Câu “Cây độc không trái, gái độc không con” mà một lần tôi tình cờ nghe từ miệng bà khiến tôi buồn không ít. Thế nhưng là lính, vợ chồng không gần gũi nhau, làm sao có con được. Thế là bà bỏ Biên Hoà theo con trai ra Đà Nẵng và tuyên bố sắp đặt chỗ ở để tôi phải thuyên chuyển theo chồng. Kỳ nghỉ tết năm 73, sau buổi họp cuối cùng, tôi đón xe đi Sài Gòn và lên chuyến bay đi Đà Nẵng thăm chồng. Đến đón tôi không phải mẹ chồng mà là người lính tùy tùng của anh. Thế là chiều hôm đó tôi có mặt ở nơi đóng quân của anh. Một ngọn đồi cao của vùng núi Quế Sơn thuộc tỉnh Quảng Nam. Đây là lần đầu tiên tôi chính thức sống đời vợ lính nơi tiền đồn.



Chúng tôi trú ngụ trong căn hầm chỉ huy đầy súng đạn và trang bị truyền tin. Tôi đang đan dang dở một tấm khăn trải bàn. Thế là tôi phải hoàn tất gấp tấm khăn đó để làm chiếc màn cách ly. Cuộc sống vợ chồng trong đồn lính thì có nhiều chuyện không thể cười mà cũng không thể khóc của một cô giáo kín đáo, nghiêm túc với cuộc sống xô bồ lính tráng ở đây. Tôi chỉ biết những ngày ở đó tôi thương lính hơn, tôi thông cảm nỗi cô đơn của chồng hơn và nhất là thật sự biết lo sợ cho chồng trong cuộc sống mà nơi đâu cũng có tai mắt của kẻ thù rình rập. Hết ngày lễ, chồng tôi giao đồn cho Đại đội phó đưa tôi về Đà Nẳng thăm mẹ chồng và ngay chiều đó tôi lên máy bay về lại Sài gòn vì ngày mai đã bắt đầu niên học mới.


Thế là tôi có mang đứa bé đầu lòng và tôi phải làm đơn xin thuyên chuyển để thật sự bắt đầu một cuộc đời mới. Mùa hè năm đó miền Trung đã thật không yên. Nhà tôi ở gần Phi Trường nên hàng đêm pháo dội về từng chập. Mẹ chồng tôi về lại Biên Hoà để lo cho con gái sinh nở. Tôi mang cái bụng bầu chui hầm thường xuyên. Mỗi lần có tin từ tiền đồn là tôi lo lắng hồi hộp. Những cuộc đụng độ xảy ra liên tiếp. Đại đội phó, Hạ sĩ Quan, rồi lính bị thương liên tục. Cuối cùng người Đại đội phó mới đổi về cũng bị thương. Tôi như ngồi trên lửa nóng. Nỗi cô đơn, lo sợ, hồi hộp, mất ngủ khiến tôi xuýt bị sẩy thai.




Thế rồi mẹ chồng tôi cũng về kịp trước ngày tôi sinh nở. Con tôi mở mắt chào đời ở một nhà hộ sinh tư . Tôi mệt nhoài sau cơn vượt cạn, mẹ chồng tôi đón con bé với nụ cười gượng gạo. Bà chỉ mong là trai để nối dõi tông đường. Còn anh, được tin tôi đã sinh con, anh về cùng người lính tùy tùng. Vào nhà thương, xoa đầu tôi, bồng con hôn vài cái là xe hậu cứ đã chờ để đưa anh lên lại đơn vị. Ngày đầy tháng con bé, họ hàng, bà con đầy nhà.



Anh bươn bả bước vào, chào mọi người rồi tới bên tôi cười cười. Bồng con bé lên hỏi tôi “Sao mặt nó như dài ra” hôn con, ăn vội vã vài miếng. Xe hậu cứ trờ tới và anh lại lên đường. Tôi ứa nước mắt, không thể giận anh, mà cũng không thể không trách anh. Chẳng nói gì được với tôi một câu ngọt ngào khi tôi vật lộn trong cơn đau đẻ, lại chịu sự chăm sóc cực kỳ quái đản của mẹ chồng tôi trong những ngày nằm cữ. Tôi nhắm mắt lại, thương con và thương mình quá đỗi.


Thế là cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt. Anh được đổi về làm ở Trung tâm Hành quân. Tôi nghe thôi chứ cũng không biết ở đâu? Chỉ biết ít nguy hiểm tính mạng hơn ở Đại đội. Chồng tôi là một người sống chân thành và tốt với bạn bè, đồng đội. Tôi nhớ có một lần anh dẫn về nhà một người lính và một người phụ nữ. Anh nói với tôi đây là lính trong đơn vị, vợ nó tới thăm. Anh cho nó nghỉ phép và nói nhỏ với tôi lo ăn uống cho tươm tất. Đến tối, anh bảo tôi ôm con xuống nhà sau ngủ, nhường giường chúng tôi cho hai vợ chồng kia. Anh nói:


- Tội nghiệp tụi nó, gặp nhau như vầy nó mừng lắm. Hãy để nó trọn vui. Đời lính không biết sống nay, chết mai.


Và như vậy, sáng hôm sau anh lên đơn vị, người lính cùng vợ có 3 ngày phép đoàn tụ tuyệt vời. Một lần thấy anh không còn bộ đồ civil nào cho ra hồn, tôi bảo anh đi may một bộ đồ mới. Anh vốn là người khó tính và kén chọn. Mãi sau mới chọn được màu vải vừa ý mà may. Lấy đồ về chỉ một lần mặc thử cho tôi ngắm rồi mãi bận hành quân không có dịp mặc. Đại đội phó của anh gia đình ở tận miền Tây, anh ta lại phải lòng cô gái Đà Nẵng. Thế là một hôm anh về bảo tôi mở tủ lấy bộ đồ mới may, tặng cho anh chàng Đại đội phó của mình. Anh nói với tôi :


- Nó cũng trạc với anh. Nó mặc vừa đó em. Thôi tặng cho nó đi hỏi vợ. Hỏi vợ chỉ một lần chứ may đồ thì mình còn nhiều lần khác. Tội nghiệp gia đình nó ở xa, không có bộ đồ civil nào mặc cho ra hồn để coi cho được trong ngày quan trọng.


Tôi vừa tiếc vừa phục tấm lòng tốt của chồng. Không còn lời nào để nói tôi đành gói lại đàng hoàng, bỏ trong túi xách và bảo đem cho chú ấy. Ngày Đà Nẵng sắp mất, người người bỏ chạy ra ngoài bến tàu để thoát vào Sài gòn. Chồng tôi ở Trung tâm hành quân, biết sự sụp đổ đã đến, không liên lạc được với đại đội cũ của mình. Anh cấp tốc lên tận nơi trú đóng và kéo lính về trong làn sóng di tản khổng lồ của Đà Nẵng. Chúng tôi, mẹ già, con dại chờ đợi anh mỏi mòn. Trông thấy anh về với đoàn quân tan tác mà muốn xỉu.


Chồng tôi ruột để ngoài da. Lúc nào anh cũng lo cho bạn bè, đồng đội, anh em, ít khi nào lo lắng chuyện nhà. Mọi thứ mẹ chồng tôi cáng đáng điều khiển và tôi là người tuân lệnh thi hành. Có lẽ nói ra không ai tin, nhưng đối với tôi, tôi chưa hề cầm trong tay một đồng lương lính. Ngày chưa theo anh, tôi đi dạy, có lương, có nghề nghiệp, tiền ai nấy xài. Mà tiền lính thì tính liền anh cũng chẳng có gì dư dã. Theo chồng ra Đà Nẵng tiền lương anh có đưa cho mẹ chồng tôi không thì tôi không biết, còn tôi chẳng hề nghe nói đến tiền bạc. Ngày Đà Nẵng mất lẽ dĩ nhiên anh không có lương và anh đi cải tạo suốt 8 năm trời chấm dứt một thời kỳ lính tráng.

Như vậy thì làm vợ lính vui hay buồn, sướng hay khổ? Thưa các anh, người vợ lính chịu mọi thiệt thòi. Có chồng mà cũng như không trong suốt thời kỳ chinh chiến cũng như hoà bình. Những ngày tù tội đã đành không thể trách ai. Các anh trong bốn bức vách lao tù, số phận ai cũng như ai. Nhưng người vợ lính ở nhà cái vòng đai rộng hơn, bẫy rập nhiều hơn, con người tàn ác quỷ quyệt hơn đe doạ thân phận đàn bà. Tôi có những người bạn vì thương chồng, lo lắng chạy chọt để lo cho chồng về, để rồi sụp bẫy. Cả cuộc đời danh tiết, hạnh phúc bị mất tất cả. Có người lạc bước khi bươn chải kiếm đồng tiền lo cho con, lo cho chồng cải tạo. Thương tâm lắm, đau đớn lắm cho những cánh hoa trong biển lửa tàn ác của chiến tranh ý thức hệ.

Xin lỗi các anh cho tôi nói thật. Khi ở tù về, các anh thật sự quên đi tất cả, đem hết sức mình cùng sát vai vợ mà lo cho gia đình không?


Đàn bà chúng tôi, ăn trắng mặc trơn, học hành trí thức, nhưng đến lúc phải lo miếng ăn cho con, cho chồng thì bất chấp sự cực khổ. Bán chợ trời, chạy hàng xuôi ngược Bắc Nam, Bán hàng rong, cày thuê, cuốc bẫm, bán thuốc tây, thuốc hút, làm công nhân… Bất cứ nghề nghiệp nào lương thiện để kiếm ra tiền thì không quản ngại khó khăn. Các anh nhận những món quà đơn sơ, nhưng biết đâu rằng trong hoàn cảnh cả nước cùng đói, chúng tôi phải tính toán muốn bạc tóc mới đem được đến tay các anh một ít quà, nhưng là một biển yêu thương, một trời thương nhớ. Khi các anh được về nhà sau những tháng ngày bán đời mình cho đói khát, bệnh tật.

Các anh không biết là đã mang theo trong mình một nỗi chán chường, một tâm hồn đầy bất mãn và nghi kỵ mọi thứ. Các anh lính hào hoa, yêu đời, coi thường sinh mạng đã mất. Các anh bây giờ đã bỏ lại trên núi đồi Việt Bắc phân nửa cuộc đời hùng tráng của mình. Chồng tôi cũng vậy, anh chán đời, bất mãn và tự ái với vợ, với con và chính bản thân mình. Tôi đã khóc nhiều đêm, nhiều ngày mà không biết làm sao kéo anh ra khỏi cái ám ảnh tàn khốc đó. Tôi công nhận CS thật quỷ quyệt, những bài học nhồi nhét cho các anh, nó như con ma kéo trì những chí hướng phấn đấu của chồng tôi. Người lính của tôi đã thật sự thất trận thảm thương.


Khi được sang Mỹ đinh cư, mẹ chồng tôi mang nhiều bệnh tật. Chồng tôi vui buồn, khoẻ mạnh hay suy nhược theo căn bệnh của mẹ chồng tôi. Anh có cảm giác mình phải làm cái gì trả hiếu cho mẹ mà bất lực. Ngày mẹ chồng tôi mất, chồng tôi như thân cây không còn mầm sống gục xuống đau đớn. Anh bị trụy tim, bị strock và đầu óc càng ngày càng suy nhược theo căn bệnh Parkinson.


Bây giờ sau 38 năm chồng tôi không còn làm người lính, nhưng tôi vẫn làm người vợ lính hằng ngày theo từng sinh hoạt của chồng. Anh đang sống trong hồi ức những ngày bên anh em, bạn bè, đồng đội. Có món gì ngon là anh bảo kêu mấy đứa tới ăn. Đừng tưởng anh kêu bầy cháu tôi. Không đâu, bạn bè lính tráng của anh đó. Khi thì kêu tôi chuẩn bị đồ nhậu, mấy thằng em tới chơi. Khi thì bảo thay đồ cho anh để anh đi họp Tiểu đoàn. Khi thì vui cười kể chuyện huyên thuyên như có người trước mặt.


Và như vậy tôi mãi mãi là người vợ lính, vui buồn chung với những suy tư và cảm giác của chồng. Những người chỉ huy, đồng đội của chồng dù không ở trước mặt, nhưng là những người bạn vô hình đem lại niềm vui cuối đời cho chồng tôi. Mỗi buổi sáng lạy Phật tôi đều nguyện cầu bình an cho chồng, cho con cho tất cả mọi người xung quanh tôi. Cầu nguyện cho những anh hùng chiến sĩ đã nằm xuống được nhẹ nhàng siêu thoát.


Tôi rất ái mộ những chị cầm cờ theo chồng trong những cuộc biểu tình, hay sát cánh bên anh trong những lần sinh hoạt đơn vị. Màu áo các chị tung bay xinh xắn, gương mặt các chị rạng ngời hạnh phúc, đôi mắt các chị rực lửa đấu tranh. Những người vợ lính ấy đã làm đẹp cuộc đời cho chồng, cho xã hội. Tôi không được may mắn ấy, chồng tôi bây giờ là một thương binh thật sự. Anh không thể sát cánh cùng đồng đội sinh hoạt, nhưng trái tim anh và đầu óc anh đầy ắp tình đồng đội và quê hương. Và tôi dù gì và cho thế nào đi chăng nữa tôi vẫn mãi mãi là người vợ lính không bao giờ thay đổi.

Nguyễn thị Thêm

TIN TRUNG QUỐC


Liệu Trung Quốc có noi gương Nga?

Việt-Long, RFA
2014-04-03
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
china-phil
Tàu tuần duyên của Trung Quốc chặn tàu Phillippines tiếp tế cho bãi Cỏ Mây
AFP photo
Hôm nay, thứ tư, 2 tháng 4, 2014, hãng thông tấn AFP ghi một phóng sự vừa dí dỏm vừa cảm động, về 9 binh si thuỷ quân lục chiến Philippines trên chiếc tàu cũ trấn thủ bải Cỏ Mây, nơi bị Trung Quốc dành chủ quyền. Bài báo kể chuyện các binh sĩ này đã phải chuẩn bị lưới và thả lưới bắt cá ăn để chống đói, khi hai tàu dân sự của Manila tiếp tế cho họ bị Trung Quốc chặn và đuổi đi hồi khoảng ngày 21 tháng trước. May sao sau đó máy bay thả hàng tiếp tế, họ vui mừng thấy sẽ no bụng được vài tuần nữa. Rồi đến 29 tháng 3, tàu tuần duyên Trung Quốc cũng ngăn chặn, cắt đường hải hành của tàu hải quân Philippines, nhưng tàu Philippines đã lách qua khỏi tàu Trung Quốc, đem hàng tiếp vận và một tiểu đội thuỷ quân lục chiến ra thay quân.
Công luận thế giới có nơi đặt câu hỏi vì sao trước đây Trung Quốc không cản trở gì công tác tiếp vận của quân đội Philippines cho vị trí này, mà bây giờ lại cương quyết như vậy?
Câu chuyện cũng dễ hiểu, là vì Trung Quốc vẫn giành chủ quyền bãi Cỏ Mây từ nhiều năm nay, nhưng đến nay Philippines nhất quyết đưa sự việc ra Tòa án Luật biển của Liên Hiệp Quốc nên Bắc Kinh mới cương quyết giành chiếm chủ quyền nơi này. Và Philippines đã làm một việc rất hay, là đưa cả một phái đoàn đông đảo phóng viên quốc tế đi theo tàu tiếp liệu, nên sự kiện được ghi nhận và phổ biến rất rộng rãi. Rồi hôm qua Hoa Kỳ đã lên tiếng trách cứ Trung Quốc có hành động khiêu khích khi cho tàu tuần duyên ngăn cản việc tiếp liệu đó.
Nhưng tại sao đến khi sự việc được đưa ra tòa quốc tế thì Bắc Kinh mới tỏ thái độ quyết đoán như vậy?
Bãi Cỏ Mây cách Đá Vành Khăn 35km phía đông nam. Đá Vành Khăn cách Palawan của Philippines 230 km, nhưng khu vực này là nơi tranh chấp giữa Philippines, Việt Nam và Trung Quốc. Năm 1995 Trung Quốc xây cất kiến trúc kiên cố ở Vành Khăn, nhất quyết giành chủ quyền nơi này mặc dù Philippines và Việt Nam phản đối. Vì vậy Trung Quốc dựa vào Vành Khăn, cũng giành chủ quyền ở bãi Cỏ Mây. Ai cũng thấy đó là hành động cướp biển trắng trợn, không cách nào có thể chứng minh  bằng lịch sử và pháp lý quốc tế. Và ai cũng biết tất cả các đảo ở Trường Sa đều đã được Việt Nam xác lập chủ quyền từ thời nhà Nguyễn, có thể nói từ thời chúa Nguyễn ở miền Nam, và các quốc gia châu Á không nói gì đến chủ quyền đó cho đến thời kỳ quốc gia Việt Nam bị chia cắt thành hai miền nam bắc Việt Nam. Lúc ấy Đài Loan và Đông Nam Á mới thừa nước đục thả câu tranh nhau nhảy vào Trường Sa, khi mà Trung Quốc còn chưa dám léo hánh tới nơi đó vì hạm đội 7 Hoa Kỳ đang tung hoành khắp biển Đông.

Vì không thể tranh thắng về pháp lý trước tòa Luật biển Liên Hiệp Quốc theo Công ước LHQ, là văn kiện mà Trung Quốc có ký kết, nên Trung Quốc phải ỷ thế mạnh, giữ chặt chủ quyền bất hợp pháp đó và nhất quyết ngăn chống hoạt động duy trì chủ quyền của các nước khác.
Theo tin không chính thức của hãng thông tấn Inter Press Service thì đầu năm nay Trung Quốc đã xoa dịu Manila, đề nghị hai bên cùng rút khỏi Scarborough và Cỏ Mây, thì Trung Quốc sẽ mở rộng giao thương và đầu tư và hoãn áp đặt vùng nhận dạng phòng không ở biển Đông. Nếu điều này đúng sự thật thì nó chứng tỏ Bắc Kinh rất ngại việc bị kiện ra tòa Luật biển.
Hành động kiện Trung Quốc ra tòa Luật biển Liên Hiệp Quốc có đem lại lợi ích gì cho chủ quyền của Philippines và các nước khác ở những vùng tranh chấp với Trung Quốc không?
Các nước thành viên Công ước Luật biển đều có quyền không tham dự phiên tòa và không chấp nhận phán quyết của Tòa án Luật biển của Liên Hiệp Quốc. Như vậy có nghĩa là mọi pháp nhân đều có quyền không chấp nhận cả tính cách bị can trước tòa quốc tế đó, cho nên không có gì ràng buộc họ được về mặt pháp lý.

Nếu vậy vì sao Trung Quốc phải làm ầm ĩ về việc Philippines đưa họ ra tòa quốc tế?
Không bị ràng buộc pháp lý không có nghĩa là không bị ảnh hưởng gì do động thái bị đưa ra tòa quốc tế. Ngay hành vi phản đối nguyên đơn khi bị đưa ra tòa Luật biển cũng đã khiến quốc tế trông thấy tính cách phi chính nghĩa của bị đơn trong trường hợp này. Trung Quốc cũng thấy rõ phán quyết của tòa sẽ hoàn toàn bất lợi cho họ; đến lúc đó họ sẽ phải phản đối, càng làm lộ rõ thế phi chính nghĩa.
Vì vậy họ phải làm mọi cách để chứng tỏ chủ quyền mà họ tự coi là đương nhiên ở những vùng tranh chấp ở biển Đông. Bắc Kinh cũng đã chuẩn bị việc này từ khi thành lập huyện Tam Sa, chọn thủ phủ là Hoàng Sa, bao gồm tất cả biển đảo từ Hải Nam tới cuối Trường Sa, theo cái đường chín đoạn Lưỡi Bò mà họ tự ý vạch ra.
Philippines từng mời gọi Việt Nam tham gia vụ kiện Trung Quốc về chủ quyền ở Trường Sa, tại sao Việt Nam không đáp ứng, trong khi Manila có những hành động rất quyết liệt về vấn đề này?
Trước hết Việt Nam đã xác lập chủ quyền ở toàn thể quần đảo Trường Sa bao gồm đá Vành Khăn và bãi Cỏ Mây, nghĩa là cũng mâu thuẫn cả với Philippines, nên không thể đứng cùng Philippines kiện Trung Quốc. Thêm vào đó, Việt Nam không giành chủ quyền ở Scarborough, nên không có tư cách gì đứng đơn cùng với Philippines. Ta cũng biết Việt Nam từng nói với người dân trong nước là chính quyền ở váo thế khó lòng mà đứng thẳng lên để phản đối hay chống đối quyết liệt đối với Trung Quốc về vấn đề chủ quyền trong phạm vi biển Đông, lý do vì sao thì tưởng không phải nhắc lại ở đây.
Có luồng dư luận cho rằng Trung Quốc đã quan sát, theo dõi vụ Liên Bang Nga chiếm Crimea, và sẽ lượng sức để thực hiện kế sách gọi là "bảo vệ người Hoa" giống như người Nga "bảo vệ người Nga", để thôn tính lãnh thổ quanh châu Á. Liệu điều đó có thể xảy ra không?
Hầu như sẽ không xảy ra với toàn thể Đông Nam Á. Theo báo The Straits Times của Singapore, trước hết Trung Quốc lo ngại Nga sẽ lấn đất ở Trung Á, khiến khu vực năng lượng đó sẽ mất ảnh hưởng do Bắc Kinh dày công tạo dựng, và sau đó sẽ đe dọa cả biên cương phía bắc Trung Quốc. Luận điểm thứ nhì nói rằng người Hoa ở rải rác khá đông trên thế giới, nhất là ở Đông Nam Á, và sau tấm gương chiếm đất ở Georgia và Crimea do Moscow thực hiện, Đông Nam Á đang hết sức cảnh giác với những kiều dân Trung Hoa đó. Một động thái đáng nghi ngờ nào của Bắc Kinh cũng sẽ đem lại bất lợi cho khối Hoa kiều hải ngoại.
Tuy nhiên trong vùng Đông Nam Á nơi đáng lo nhất là Việt Nam. Xứ sở này hiện đã có rất đông người Hoa sinh sống hợp pháp và bất hợp pháp, và có những khu vực gần như lãnh địa của Trung Quốc, nhân viên an ninh của chính quyền Việt Nam cũng khó lòng ra vào tự do, nhất là ở những khu vực trọng điểm chiến lược như Tây Nguyên, duyên hải miền Trung, và trung du, thượng du miền Bắc. Một khi Trung Quốc thấy có đủ thời cơ để thực hiện kế sách như ở Crimea, chính quyền Việt Nam, trong xu thế hiện nay, khó lòng có thể phản ứng thích đáng và hữu hiệu. 
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/china-takes-revenge-over-lawsuit-04032014212211.html

Mỹ cảnh báo Trung Quốc không nên theo gương Nga trong vụ Crimée

Trụ sở bộ Ngoại giao Mỹ (www.state.gov)
Trụ sở bộ Ngoại giao Mỹ (www.state.gov)

Đức Tâm
Hôm qua, 03/04/2014, phát biểu trước Tiểu ban đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Daniel Russel, phụ trách khu vực Đông Á, cho rằng phản ứng của cộng đồng quốc tế về vụ Nga sáp nhập Crimée mang tính răn đe cao, buộc Trung Quốc phải suy nghĩ, không nên có những hành động giống như Nga.

Bên cạnh lời cảnh báo này, Washington khẳng định là Bắc Kinh không nên nghi ngờ quyết tâm của Hoa Kỳ trong việc bảo vệ các đồng minh Châu Á.
Việc Matxcơva thôn tính Crimée đã dấy lên nhiều lo ngại là Bắc Kinh sẽ sử dụng vũ lực để khẳng định các yêu sách của họ trong các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ tại Biển Đông và biển Hoa Đông.
Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ nhận định, việc Hoa Kỳ và Liên Hiệp Châu Âu áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với Nga sẽ có tác dụng răn đe đối với bất kỳ ai tại Trung Quốc coi việc sáp nhập Crimée như một mô hình » để noi theo.
Theo ông Daniel Russel, « Trung Quốc cần chứng tỏ nhiều hơn nữa là họ ủng hộ một giải pháp hòa bình cho các vấn đề này ».
Lãnh đạo ngoại giao Mỹ nhấn mạnh : « Tổng thống Hoa Kỳ và chính quyền Obama kiên quyết thực hiện các thỏa thuận quốc phòng ký với các đồng minh », như Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines.
Tổng thống Barack Obama coi việc « xoay trục » sang Châu Á là trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Trong vòng công du Châu Á, bắt đầu từ ngày 22/04, nguyên thủ Mỹ tới thăm Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines và Malaysia.
tags: Châu Á - Hoa Kỳ - Lãnh thổ - Ngoại giao - Quốc tế - Trung Quốc
http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20140404-my-canh-bao-trung-quoc-khong-nen-theo-guong-nga-trong-vu-sap-nhap-crimee
TRUng Quốc bất ngờ thâm hụt thương mại gần 23 tỉ đô la trong tháng Hai

Reuters

Thụy My RFI


Theo số liệu hải quan công bố hôm nay 08/03/2014, Trung Quốc đã bất ngờ bị thâm hụt thương mại 22,98 tỉ đô la trong tháng Hai. Cơ quan chức năng nhấn mạnh đến tác động của kỳ nghỉ Tết âm lịch.


Xuất khẩu của Trung Quốc tháng vừa qua không ngờ đã bị sụt giảm đến 18,1% so với cùng kỳ năm ngoái, còn 114,10 tỉ đô la – một con số rất thấp so với dự kiến. Trước đó 13 nhà kinh tế được Dow Jones Newswires hỏi đã dự đoán sẽ thặng dư thương mại khoảng 11,9 tỉ đô la. Họ cho rằng xuất khẩu tăng 5% vào tháng Hai, như vậy là đã giảm tốc độ so với mức tăng 10,6% cùng kỳ năm ngoái.

   


Tàu chở container ở thành phố cảng Thanh Đảo. Ảnh chụp ngày 07/03/2014. Xuất khẩu Trung Quốc giảm trong tháng 2/2014.
Tàu chở container ở thành phố cảng Thanh Đảo. Ảnh chụp ngày 07/03/2014. Xuất khẩu Trung Quốc giảm trong tháng 2/2014.
Reuters



Bên cạnh đó nhập khẩu của Trung Quốc tăng 10,1% so với tháng 2/2013, với kim ngạch 137,08 tỉ đô la, tương đương mức tăng của tháng trước. Thông báo của hải quan nhận định: "Hậu quả của Tết âm lịch đã gây biến động mạnh lên tỉ lệ tăng trưởng trao đổi thương mại hàng tháng, và làm xuất hiện thâm hụt".


Trong kỳ nghỉ Tết kéo dài, nhiều người lao động nhập cư trở về quê, đại đa số nhà máy và cửa hàng đóng cửa. Ngoài ra các doanh nghiệp Trung Quốc còn có thói quen xuất khẩu ồ ạt trước kỳ nghỉ để hạn chế lưu kho, và tập trung nhập khẩu khi mở cửa trở lại sau Tết.

Trong hai tháng đầu năm 2014, xuất khẩu của Trung Quốc giảm 1,6% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi nhập khẩu tăng đến 10%. Thặng dư thương mại trong hai tháng này sụt 80% so với năm ngoái, còn 8,89 tỉ đô la.

Nền kinh tế thứ nhì thế giới trong năm 2013 có tỉ lệ tăng trưởng 7,7% tương đương với năm 2012, là năm thấp nhất từ 13 năm qua, và hoạt động sản xuất đã chậm lại hẳn trong những tháng gần đây.

TQ lên án biểu tình ở Quảng Đông

Cập nhật: 13:54 GMT - thứ tư, 2 tháng 4, 2014
Biểu tình phản đối nhà máy hóa chất ở Maoming
Chính quyền lên án cuộc biểu tình ở miền nam Trung Quốc, gọi đây là “hành vi tội phạm nghiêm trọng”, sau khi xảy ra bạo lực.
Người dân thành phố Maoming, tỉnh Quảng Đông, hôm Chủ nhật đã biểu tình chống việc xây dựng nhà máy hóa chất sản xuất paraxylene.
Bạo lực nổ ra, và tin tức nói nhiều người biểu tình bị thương. Hôm thứ Ba, biểu tình lan sang Quảng Châu.
Hàng trăm người ở Maoming đã xuống đường hôm Chủ nhật chống lại kế hoạch xây nhà máy.
Họ đã đụng độ với cảnh sát. Hình ảnh, video đưa lên mạng xã hội cho thấy có người bị thương, cảnh sát rượt đuổi và ô tô bị đốt.
Các vụ biểu tình nhỏ hơn dường như còn đang tiếp tục ở cả thủ phủ của tỉnh, Quảng Châu.
Chính quyền ở Maoming gọi cuộc biểu tình không phép là “tội nghiêm trọng” và kêu gọi người dân “tin tưởng chính quyền”.
Sau đó giới chức loan báo chưa có kế hoạch cụ thể để xây nhà máy, và rằng nhà chức trách sẽ chỉ tiến hành khi có sự đồng tình của người dân.
Chính quyền nói không ai thiệt mạng nhưng không nói rõ có ai bị thương không.
Các cuộc biểu tình vì môi trường đang gia tăng tại Trung Quốc và nhờ sức mạnh của internet, có thể khiến giới chức ngạc nhiên.
Những năm gần đây, paraxylene trở thành tâm điểm phản đối ở Trung Quốc, khiến các nhà máy ở các thành phố khác bị hủy hoặc phải đình hoãn
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2014/04/140402_china_maoming_protest.shtml

 
 Cái giá trăm tỷ đô của chống tham nhũng
Cập nhật: 14:56 GMT - thứ năm, 3 tháng 4, 2014

Hàng xa xỉ hiện đang giảm doanh số bán kể từ khi có chiến dịch chống tham nhũng.
Người ta nói nhiều về chiến dịch chống tham nhũng đang diễn ra ở Trung Quốc, nhưng nay một trong các ngân hàng lớn nhất đã đưa ra cái giá phải trả.
Theo một báo cáo của Bank of America Merrill Lynch (BofAML) vào tuần này, chiến dịch chống tham nhũng của chính phủ Trung Quốc có thể làm nền kinh tế nước này mất hơn 100 tỉ đô la chỉ tính riêng trong năm nay.
Đó hẳn là con số không nhỏ bởi cũng xấp xỉ kích cỡ nền kinh tế của Bangladesh, quốc gia có 150 triệu dân.
Nhiều hệ lụy nhỏ của chiến dịch chống tham nhũng của Chủ tịch Tập Cận Bình đã nói tới gồm việc các nhà hàng bớt khách tới ăn uống, doanh thu hàng xa xỉ sụt giảm.
Đặc biệt có thể dễ thấy là các cửa hàng bán đồ quần áo và vật dụng sang trọng tại Thượng Hải trong vòng hơn một năm qua ít khách hơn trước.
Tuy nhiên báo cáo của BofAML cho thấy chiến dịch này cũng có hệ lụy đáng kể đối với nền kinh tế có vấn đề về vĩ mô.
Khoảng đầu năm nay, số tiền gửi tiết kiệm tại các ngân hàng của chính phủ tăng mạnh, với khoảng 30% tính theo năm.
Báo cáo nói thậm chí các quan chức “sạch sẽ” nay cũng sợ triển khai các dự án mới vì lo bị xem là tham nhũng và giải pháp họ chọn là giữ công quĩ trong tài khoản ngân hàng quốc doanh.
Tổng phí tổn cho nền kinh tế từ việc hạn chế chi tiêu trong chính phủ và thắt lưng buộc bụng trong chi tiêu hành chính được cho là làm giảm tăng trưởng khoảng 0.6% trong năm nay.
Tuy nhiên, báo cáo này nói rằng mức giảm tăng trưởng có thể lên tới 1.5%, nghĩa là theo tính toán sơ bộ của tôi là vào khoảng 135 tỉ đô la cho các hoạt động kinh tế.

'Đi quá đà'


Chính phủ TQ đang có chiến dịch chống mại dâm
Tác giả của phúc trình này thừa nhận tính toán của họ chỉ là có tính sơ bộ.
Nhưng nếu chỉ đúng có một nửa thì cũng là số tiền rất lớn và cho thấy một trong các thách thức cho tổng tư lệnh chiến dịch chống tham nhũng tại Trung Quốc.
Kể từ khi nhậm chức cách đây hơn một năm, ông Tập đã nói về mục tiêu của mình và cảnh báo nạn tiêu sài lãng phí và tham nhũng trong giới quan chức có thể đe dọa cho chính sự tồn tại của Đảng Cộng Sản đương quyền.
Vào tuần này, tin chưa xác nhận nói chính quyền đã tịch thu số tài sản hơn 14 tỷ Mỹ kim của gia đình và nhóm thân cận với ông Chu Vĩnh Khang, cựu lãnh đạo ngành an ninh và là một trong số người từng có thế lực nhất Trung Quốc.
Tất nhiên là việc đánh sập bộ khung quyền lực như vậy không thể không gắn với các rủi ro lớn.
Vào tuần này cũng có tin nói rằng cựu Chủ tịch Giang Trạch Dân gửi thông điệp tới giới lãnh đạo hiện nay rằng đừng để nỗ lực chống tham nhũng đi quá đà.
"Chống tham nhũng nhẹ quá rồi thì đất nước bị hủy hoại, mà chống mạnh quá thì sẽ phá vỡ Đảng"
Ông Trần Vân
Evan Osnos trên tờ New Yorker nhắc lại lời nhà lão thành cách mạng Trần Vân (1905-1995) từng nói:
"Chống tham nhũng nhẹ quá rồi thì đất nước bị hủy hoại, mà chống mạnh quá thì sẽ phá vỡ Đảng.”
Báo cáo của BofAML đề cập tới hệ lụy của nỗ lực chống tham nhũng đối với tăng trưởng kinh tế Trung Quốc.
Chẳng mấy khi người ta thấy ngân hàng đầu tư nước ngoài bàn luận tầm quan trọng vĩ mô của mại dâm, nhưng báo cáo này cũng chỉ ra rằng chiến dịch chống tham nhũng đã và đang nhắm vào nghề phấn hương ở hàng chục thành phố.
Chiến dịch này đã có tác dụng ngược đối với một số mảng kinh doanh trong công nghiệp dịch vụ, báo cáo này nhận định.
Nếu sống lại, ông Trần Vân có thể nói thêm về nhận định thứ ba của mình về cái khó trong việc cân đối khi chống tham nhũng, đó là dù có không phải lo lắng cho Đảng thì chống tham nhũng mạnh tay quá cũng sẽ phá cả nền kinh tế.
 http://www.bbc.co.uk/vietnamese/business/2014/04/140403_china_anti_corruption_drive.shtml

TÔ HẢI * BỘC BẠCH


Bộc bạch tâm tư cùng mạng bô-xít…

Tô Hải
Kính gửi các bạn thương yêu, cảm phục của tôi! 
Trước hết tôi xin phép bày tỏ lòng xúc động, niềm phấn khởi chân thành của tôi khi:
- Lần thứ hai, được một trang web mà tôi tín nhiệm hàng đầu (không phải là “trong những… hàng đầu” đâu) đã có bình luận đầy ưu ái về một entry tôi đã viết và “xin thưa” lại về những điểm tôi viết chưa được nhiều người ưng ý.
- Được nghe những khi ý kiến “không đồng thuận” để tôi tự nhìn lại mình nghiêm khắc hơn, khi còn kịp.
Tôi hoàn toàn mong được mọi người góp ý, phản biện một cách thân tình, không ném đá, chụp mũ, bôi xấu, vu cáo, thành kiến những ai đã có những nhận thức, những phương pháp, tác phong đấu tranh khác mình với kiểu tư duy lỗi thời “nói ngược, làm ngược với mình, thậm chí đối lập với mình là…” cho người đó về “phía bên kia” ngay tút xuỵt!

Bởi vậy, tôi thật hạnh phúc khi, lần đầu tiên được “tự do tư tưởng”với những người tôi rất cảm mến cũng như thấy được ai đang phê phán mình rất yêu mến mình, còn ai lại chỉ nhằm hạ bệ mình không thương tiếc!…
Tôi đã đọc đi đọc lại bài “thưa lại” đó rồi tự thấy cần phải “nói lại cho rõ” thêm về những điểm mà tôi, dù đã “che chắn dài dòng” cũng không sao nói hết lòng mình cho được:
1- Tôi hoàn toàn không bao giờ dám coi thường các cây bút mà, qua các bài viết của họ như Phạm Toàn, Huệ Chi, Tô Văn Trường, Hoàng Xuân Phú, … luôn là niềm hứng khởi để tôi “phát triển chủ đề”, nói thêm những điều mà tôi trộm nghĩ, vì nhiều lý do, họ chưa … nói toẹt ra. Còn tôi, ở cái tuổi chỉ chẳng còn mấy thời gian để được khiêng đến … “lò thiêu xác”, tôi cứ nói thẳng thừng, chẳng sợ vào tù, đi cải tạo gì nữa! Tôi mạnh bạo, vượt lên sự sợ hãi chính nhờ họ! 
2- Tôi chỉ nổi khùng khi “đọc phải” những bài viết mâu thuẫn chẳng thua gì “kinh tế thị trường” nhưng phải “định hướng xã hội chủ nghĩa”! Đó là những tuyên bố, phát biểu cứ như sắp có một Góoc-ba, một Djilas … đến nơi nhưng, cuối cùng lại là: “Nói gì thì nói, không thể phủ nhận công lao to lớn của Đảng ta, của Bác Hồ đã giải phóng cho dân ta…” hoặc mở đầu đã “che chắn” ngay bằng câu “Việc đầu tiên, phải khẳng định: “Nước ta có được tự do, độc lập hôm nay là do công lao của Đảng… của Bác Hồ…””. Và không ít vị đã như muốn tự khẳng định “mình là nhà cộng sản chân chính”, khi tuyên bố công khai rằng thì là “nói gì đi chăng nữa thì chẳng qua cũng chỉ để “Đảng ta” lấy lại lòng tin của nhân dân mà thôi!”…
 Đặc biệt, những vị bị Đài Tivi Hà Nội “bêu danh” sau 1, 2 vụ biểu tình … chống Tàu xâm lược, sau mấy lời phản đối, thậm chí kiện cáo thì… bỗng dưng không bao giờ thấy xuất hiện trong các cuộc biểu tình để làm “đầu tàu” cho các con, các cháu nữa, thì… tôi không thể không viết lên cái nỗi “thất vọng đến chán chường” đang xâm chiếm tâm hồn mình, giờ đây thân tàn ma dại (không sao bước đi được quá 10 bước mà không có người đẩy đi trên chiếc xe lăn) đã không thể đóng góp chút gì với lớp trẻ sớm “giác ngộ” “cách mạng giải cộng” mạnh dạn và hăng say hơn lớp cha anh nhiều lần. Cho phép tôi được miễn kể tên những người mà tôi đã coi như “đầu hàng” này! Còn nếu tôi “nhầm lẫn”, chưa hiểu được “đường lối”, “chiến thuật”, “phương pháp” đấu tranh của họ bằng cách tổ chức những Hội, những Đoàn, những trang mạng, những diễn đàn … nhằm “từ từ mà đánh địch” hơn là “phô trươngg hình thức” (?) chường mặt ra để chúng nó bôi xấu (!), tất cả đều là những tắc tíc [tactique “chiến thuật” – BVN], những phương pháp đấu tranh nhằm đạt được mục đích cuối cùng (La fin justifie les moyens) thì… chính tôi cũng đã tự đặt cho mình cái “tình hình có thể có” này ngay trong bài viết là: “Có thể tôi không hiểu được những mục đích sâu, xa gì đó”… Tôi không hề phát biểu ở thể khẳng định bao giờ!
3- Chỉ riêng hai vấn đề mà các bạn ở bô-xít “thưa lại” mà tôi hoàn toàn không sao xét lại mình được và xin phép được bảo lưu và tranh cãi công khai đến cùng. Đó là:
A-Tạm thời chấp nhận một sự thống trị thực chất là sắt máu, coi như cái giá để bước sang dân chủ, chẳng lẽ ta không làm??? Xin trích nguyên văn:
“[…] nếu diễn biến của lịch sử đất nước ở thời hiện đại sẽ có nhiều bước đi, và một bước đi không tránh được là bước độn, ở đó cần một bàn tay sắt kiểu Poutine để “giải cộng hóa” (décommunisation), thì dù có tạm thời chấp nhận một sự thống trị thực chất là sắt máu, coi như cái giá để bước sang dân chủ, chẳng lẽ ta lại không làm?
Đây là điều tôi sợ nhất cho tương lai đất nước khi đã báo động bằng bài “Tránh vỏ dưa, gặp quả lừa, tránh quả lừa sẽ gặp gì đây?”… sau vụ nổi dậy ở Ukraina… Chẳng lẽ những người sẽ tiếp thu cái thể chế đang thối ruỗng này không tìm được cách triệt tiêu hoặc ít nhất, hạn chế đến mức tối đa bọn “đảng viên” thay áo làm dân chủ kiểu Yanoukovich, Poutine?... Tôi đã từng trả lời cho một số các cháu và bạn bè quan tâm đến vấn đề có hay không cái gọi là “bước độn” nguy hiểm “phải trả giá” đó như sau:
1- Phải thẳng tay loại trừ tất cả những ai là cộng sản ra khỏi mọi cơ quan hành pháp, lập pháp, tư pháp, v.v. của đất nước. Giàu có như CHLB Đức thì cho tất cả về hưu, hưởng lương hưu bằng đồng DM. Nghèo như ta thì mời họ đi làm những công việc lao động dịch vụ khác! Thế là quá nhân văn, “hữu khuynh” mất rồi!
2- Đối với bọn đại gia tỷ tỷ phú, lâu đài, biệt thự, tài khoản đến cả 6, 7 số không thì cứ thẳng tay tịch thu sung vô công quỹ, chẳng cần chứng cớ chứng cò gì sất! Việc này tránh hậu họa chúng sẽ dùng tiền “maphia hóa” những người cầm quyền mới như bên Nga, bên Ukraine và cả bên Tàu hiện giờ!
3- Tôi cũng vạch ra những trường hợp từ vô sản, từ đảng viên, từ Bộ trưởng, Tỉnh trưởng, Tổng Giám đốc, Bí, phó bí đảng ủy cộng sản an ninh (KGB) đã trở nên tỉ tỉ phú nhanh chóng chỉ qua 2, 3 năm cổ phần hóa vào tay chúng hết như thế nào. Tôi gõ vào Google để giới thiệu sơ qua 20 tên tỉ phú đã nắm trong tay tới 227 tỉ USD ra sao. Những cái tên Vladimir Lisin (27tỉ), A. Khodorkovsky, D. Rybololev, Vladimir Doronin, Berezovsky… và quen mặt nhất là Roman Abramovich, ông chủ của CLB bóng đá Chelsea không tuần nào không xuất hiện trên màn ảnh ở nước Anh, nơi ông ta đã chọn làm quê hương thứ hai, sau khi đã bỏ hết các chức vụ, kể cả tỉnh trưởng để “mang của chạy theo người” sang đất Luân Đôn hưởng thụ đến chết! Và cứ click thêm vào một cái tên tỉ phú Nga nào, cũng nhận thấy: BỌN CHÚNG ĐỀU LÀ NHỮNG TÊN CỘNG SẢN HOẶC CON CHÁU BỌN TRÙM CỘNG SẢN CÓ CỠ thời Liên bang Xô Viết hết! Còn của cải mà bọn “cướp thế kỷ” đó tích lũy được trong thờ gian “trái độn” đó của 720 tỉ phú Nga được Tạp chí Tài chính Nga công bố đều khiến bọn Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang … chỉ có thể cúi đầu bái lạy làm … “sư phụ”!
Vậy thì : Cái “trái độn”, cái “giá phải chấp nhận” mà bạn nào đó đã thay mặt bô-xít viết chẳng lẽ là “định mệnh” không thể nào tránh được sao?
Tôi hoàn toàn bác bỏ luận điểm nguy hiểm này và rất tin tưởng sau khi “décommunisation”, lớp trẻ hôm nay và ngày mai, nếu tiến hành ngay những bước loại trừ bằng hết bọn cơ hội chủ nghĩa “chống cộng hơn ai hết vào giờ thứ 26”, sẽ phải làm ngay và sẽ làm được! Bằng không thì mấy ông “ôm chặt thẻ đảng” đang phục kích nhảy ra đập nát chế độ “vua tập thể” này sẽ lại lên nắm chính quyền với bộ cân đai áo mũ mới của những tên “độc tài toàn trị phát xít hóa” (dictature totalitaire fascisant) mà thôi! Nhỡn tiền là đấy chứ đâu nữa!
Cuối cùng là cái phần mà tôi mừng khi hướng về phương Bắc (dù có cả phần lo) cũng cần phải nói lại cho rõ: Tôi mừng thiệt chứ không mừng chiến thuật gì sất! Tôi hoàn toàn không đồng ý với lập luận sau đây:
“[…] Thiết tưởng, một anh Tàu không đi theo dân chủ của Tây phương cũng không còn là cộng sản của Mao thì đằng nào Việt Nam cũng bị kẹt dưới nanh vuốt của cái loại quái vật khổng lồ “nửa người nửa ngợm nửa đười ươi” ấy. Mà như thế mình lại càng chết ngắc. Cho nên vấn đề là trước sau gì cũng phải giẫy ra khỏi anh Đại Hán cái đã. Để tìm một vị trí độc lập tương đối, cân bằng giữa các thế lực siêu cường, như Phần Lan trước đây chẳng hạn. Muốn đáp ứng được phương cách ứng xử rõ ràng là bức thiết kia thì phải chọn kịch bản, giữa một Tập và một Pou…” (?!)
Tôi cũng xin phép tuyên bố lại một lần nữa quan điểm không hề lay chuyển của tôi là:
VỚI TÌNH HÌNH THỰC TẾ VIỆT NAM HIỆN TAI, KHÔNG THỂ CÓ MỘT AI CÓ KHẢ NĂNG LÀM CÁI VIỆC “TRƯỚC CÁI ĐÔ ẤY, NGOÀI CHÍNH NHỮNG ANH TẬP, ANH BẠC, ANH CHU, KHỬ NHAU ĐỂ “THAY ÁO” Ở NƯỚC HỌ, TẠO ĐIỀU KIỆN CHO NƯỚC TA THỜI CƠ XÂY LẠI ĐẤT NƯỚC Đà GẦN NHƯ NẰM TRONG TAY HỌ MẤT RỒI!
Tôi khẳng định là như thế và xin phép được “bảo lưu” hai ý kiến bị bác bỏ!
Xin thứ lỗi cho tôi, nếu đôi chỗ, tôi có hơi chút quyết liệt kiểu “Jusqu’auboutiste”!
Tôi sẵn sàng tranh luận bằng tình thương yêu “đồng chí hướng” đến cùng bằng mọi phương tiện có thể. /.
T. H.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

PHẠM CHÍ DŨNG * THẢM SÁT CIÔN MINH

Thm sát Côn Minh: Đim báo không th h cánh mm

Phạm Chí Dũng

Đim báo vĩnh bit

Không mt chế đ chính tr nào có th tn ti vĩnh vin, nht là vi nhng th chế không mun vĩnh bit khúc quanh đc tài. Quy lut đó chc chn s ng vi đng cm quyn Trung Quc, bng vào nhng câu chuyn tang thương mà chế đ này phi gánh chu trong vài năm gn đây và trong kiếp nn phân rã vào nhng năm đang ti.

V n bom xe jeep Bc Kinh tháng 12 năm 2013 và v thm sát bng dao Côn Minh vào tháng 3 năm 2014 đã kích hot bu không khí hong lon chưa tng thy ngay trong lòng Ni Hán. 

Hai cuc tn công b xem là ca người Duy Ngô Nhĩ, dù đm đc màu sc khng b, đã trn mt ch du cho thy chính th Bc Kinh cùng cơ chế bo v an ninh ca nó không ghê gm như người ta tưởng, cùng lúc biến thành mt đim du tiên đoán v vn mnh khó có th h cánh mm ca chính th này trong tương lai không quá xa.

Đc tính tâm lý hc ca v tn công ba bãi bng dao ca nhóm người cc đoan vào đám đông hành khách vô ti Côn Minh còn là cú phát n đu đi cho mi thâm thù thâm căn c đế gia sc tc ly khai vi chế đ cm quyn – mt h nn mà có th kéo dài rt nhiu năm sau, ngay c khi t chc B Chính tr Bc Kinh biến mt.

Như mt quy lut, nếu ni tr không khi xướng trào lưu ri lon bi các phong trào dân ch mà li bng hành đng bo lc, cái kết thúc ca ni tình xã hi và nhng đu tranh ni b hu như s chìm trong máu la và nn cát c – điu đã xy ra không biết bao nhiêu ln trong lch s đm máu Trung Hoa.

Bt k tiếng hô đc đoán vn thét lên dưới nh Mao Trch Đông ti qung trường Thiên An Môn, tiếng n và nhng v chém giết c lan dn và lan nhanh trong lòng Ni Hán.

 Ht như khuôn mt d dng trong bc tranh “Tiếng thét” ca Edvard Munch, tiếng n Ni Hán khi ngun t tiếng lòng b xét nát ca người dân và kết thúc bng tia xé rách khi không gian u thm gia bn bc tường tăm ti.

Tiếng n đó được kích phát bi chính tiếng kêu thét ca quá kh.

Văn Cm Hi – mt nhà văn và cũng là nhà nghiên cu lch s nước ngoài – đã có cơ hi đ đo đếm s tht bi ca chính sách ngoi giao lòng dân ca Trung Quc các vùng dân tc thiu s. Trong mt chuyến đến vùng Ni Mông, ông đã viết li nhng ghi nhn ca mình: Tôi đã biết v s nhn nhn ca người sa mc qua mt người bn Mông C mi tôi ăn tht nướng trong đêm mưa Lan Châu – th ph tnh Cam Túc. Anh ta khuyên tôi rng, nếu mun giết sói, hãy cho nó chy và hú đến lúc nào nó qu xung vì sc lc mà chúng b ra!… Trung Quc cn có mt s thay đi tn gc quan đim lch s và thi đi v sc mnh và s tn ti hài hòa ca mình vi thế gii. Nếu không thay đi, dù có b ra hàng t đô la, dù có hào nhoáng kết ni vi chính quyn bn đa bng nhng tha thun hay kim chế chính tr nhưng không th nào mua được lòng dân, Trung Quc s qu ngã bi chính sc mnh hung hãn ca mình, như hình nh con sói mà người Mông C tng nói vi tôi trong đêm mưa Lan Châu”.

Con sói
Dù hãng tin Tân Hoa xã  ca Trung Quc luôn áp đt nhng v vic xy ra Tân Cương là hành vi ca mt nhóm khng b, nhưng ch nhng người ngơ ngác v thi cuc mi không cm nhn được nhng nguyên c thâm sâu v lch s trong quan h ca người Hán vi vùng t tr này. 

Không ch là mâu thun đơn thun v đa gii hành chính, đó còn là khong cách bit đáng k v chính sách mà người Hán được hưởng so vi các sc tc thiu s, tâm thế ln át v văn hóa và tôn giáo mà người Hán đã to ra đi vi người Duy Ngô Nhĩ, đ cui cùng to nên mt hình nh phân hóa toàn din và không th chp nhn được gia k mp phì và người thiếu ăn.

Không khác gì khu t tr Tân Cương Tây Bc, các khu t tr Tây Tng Tây Nam và Ni Mông phía Bc cũng đang tr thành nhng him ha ngm ngm đi vi tình trng an ninh ca người Hán sng ti nhng khu vc này, và c vi th chế chính tr mà Bc Kinh đang c gng duy trì đến chng nào có th. T năm 2008 đến nay, nhng him ha này luôn có chiu hướng bùng phát và tr thành nguy cơ không h nh đi vi mt dân tc có truyn thng t tôn cc đoan như người Hán, làm nên mt cnh sc cc đoan mà người ta đã tng thy không ít ln trong chiu dài lch s không khoan nhượng ca dân tc Trung Hoa.

Nguy cơ đó li đang được cng hưởng mt cách có t chc và quy mô bi nhng hành đng bài bn và có k lut trong lòng Trung Quc. Vi v n bom th ph Thiên An Môn và v thm sát Côn Minh, hn nhiên đó là mt s thách thc trc tiếp vi người quá c Mao Trch Đông và b dày gn by chc năm “ch nghĩa xã hi mang màu sc Trung quc”.
Sâu xa hơn, cho dù b xem là “khng b Tân Cương” thì cũng không th ph nhn rng mi mâu thun sc tc gia dân tc Duy Ngô Nhĩ vi người Hán, và trên hết là vi chế đ cm quyn đc đoán, đã công nhiên vt thành mi xung đt đi kháng đến mc sn lòng ly mng đi mng.
Đó cũng là ngun gc mà có th sn sinh ra vô s cuc bo đng, bo lon ca hoàng hôn lch s chưa bao gi ngưng máu đ trong lòng dân tc Trung Hoa.
Máu người
Gi đây, chính th cm quyn chuyên chế và đc đoán quc gia b xem ch còn v cng sn này đã không còn có th nói đến chuyn an toàn trong bt kỳ căn phòng trú n nào.

Bc Kinh không ch ngp nga ô nhim, mà đang và s không còn là nơi yên tĩnh cho gii quan chc chc chính tr cao cp ngh dưỡng và quyết đnh v tương lai ca thế gii. Khái nim bt an có l s tr thành t ng ca ming ca chính gii tương lai ngay ti th đô Cng hòa nhân dân Trung Hoa hay ti bt c mt đa đim nào có trưng din nh Mao Trch Đông, Đng Tiu Bình và phơi bày bc tranh nhân viên thành qun đánh hi đng đến chết người dân bán do.

Vi nhng gì đã và đang xy ra, không thiếu cơ s đ cho rng nhà cm quyn Trung Quc đang phi tr mt cái giá không h r cho nhng gì mà h đã siết bc đi vi tc người Duy Ngô Nhĩ và vùng Tây Tng.

Duy có điu, tình cnh “kiêu ngo cng sn” ca gii quan chc cao cp Kinh Bc đã đến mc bĩ cc. Vn hu như chưa có gì được ng ra t giá c quá đt đ, mt th giá đang phi tính bng máu người. Dàn đng ca tuyên giáo mi đây ca Bc Kinh vn không bt hung hăng đe da s “dp tt tiếng nói ca Đt Lai Lt Ma”.

Nhưng vùng đt xa xôi huyn thoi, sau hơn 120 v t thiêu ca tu sĩ Tây Tng đ phn kháng chính sách đàn áp ca Bc Kinh, mi chuyn vn đang t cháy bng. Ngn la phn kháng vn rng rc và còn lâu mi b dp tt.
Tây Tng, Tân Cương và Ni Mông đã làm nên mt vành đai st Tây – Bc siết ly cơ th phù thũng ca Ni Hán. 

Còn lâu mi tái lp được s n đnh chính tr trong lòng Đi Hán. Thm chí ngược li, Tp Cn Bình và thế h lãnh đo mi ca ông đang phi đi din vi đnh đ s phn ca lch s: nhà nước đc đng Trung Hoa đã tn ti gn by chc năm, và chng đó là quá đ đ thu xếp cho mt s thay thế khác – nhiu kh năng là mt cuc tm máu mang tính s trường – di chng không quá hiếm hoi trong lch s ni đuôi toàn tr ca các triu đi Trung Quc.
P.C.D.

Tác gi gi trc tiếp cho BVN

No comments: