Tuesday, November 15, 2016

VIỆT NAM *NGUYỄN CHÍ THIỆN * CỘNG SẢN * HUỲNH TÂM *

VIỆT NAM *NGUYỄN CHÍ THIỆN * CỘNG SẢN * HUỲNH TÂM *

QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM

 
DÂN HƯNG YÊN KÉO BỪA THAY TRÂU
 
mùng 6 Tết, ông Phạm Văn Kháng, 47 tuổi (xã Lạc Hồng, Văn Lâm, Hưng Yên) cùng con trai ra bừa khoảnh ruộng nhỏ ngay giáp quốc lộ 5. Người dân ở Hưng Yên tận dụng sức người để cuốc, bừa ruộng. (nguồn: Tiền Phong)
 
Ông Kháng buộc sợi dây thừng vào hai đầu chiếc bừa, sau đó vòng qua bụng con trai ông, hai tay nắm nắm chặt dây, kéo bừa đi. (nguồn: Tiền phong) 

Do khoảnh ruộng nhỏ, thuê máy bừa vừa tốn tiền, vừa hỏng bờ, nên hai bố con dùng sức người cho tiện. (nguồn: Tiền phong)

Cô Hòe (Lạc Hồng, Văn Lâm, Hưng Yên) cùng ba con gái cũng đang bừa ruộng bằng sức người. (nguồn: Tiền phong)

Cô Hòe cầm bừa, trong khi ba cô con gái ra sức kéo chiếc bừa trên ruộng cạn. (nguồn: Tiền phong)

Dưới cái lạnh cắt da cắt thịt, 4 người phụ nữ này vẫn kéo cày thay trâu. (nguồn: Tiền phong)
Trong thời gian rét đậm, rét hại, bà con còn phải lo ngày lo đêm, lo làm sao để có 1 vụ mùa bội thu. (nguồn: Bee.net)
 
 
Nhiều em học sinh tranh thủ ra đồng giúp bố mẹ . (nguồn: Bee.net)

 

Không quản mưa rét, người nông dân vẫn cần mẫn với cánh đồng gieo sạ. (nguồn: Bee.net) Hà Linh (tổng hợp)


Tiếng rao hàng của người Việt  thời Pháp thuộc cũng đi vào lịch sử của đất nước ta.
 
Những tiếng rao không chỉ chứa đựng giai điệu ngọt ngào, trong nó còn có cả hương thơm, mùi vị, màu sắc, có tính kích thích tất cả các giác quan của chúng ta.
 

Tiếng rao của những người bán hàng rong khiến cho phố phường tại các đô thị của Việt Nam trở nên rất sinh động. Điều này khiến cho những người nước ngoài cảm thấy thú vị. Tuy vậy, rào cản ngôn ngữ thường khiến cho họ không hiểu gì cả.

Để “giải mã” những âm thanh đặc biệt kể trên, vào năm 1929, tác giả Pháp F. Fénis đã xuất bản một cuốn sách mỏng có tiêu đề “Hàng rong và tiếng rao trên đường phố Hà Nội” (Les marchands ambulants et les cris de la rue à Hanoi). Cuốn sách gồm 40 trang đã mô tả khá đầy đủ về các loại hình hàng rong và tiếng rao tương ứng ở Hà Nội thông qua hình ảnh và khuôn nhạc minh hoạ.
Những hình vẽ minh hoạ trong ấn bản này do các học viên Trường Mỹ thuật Đông Dương, trong đó có Tô Ngọc Vân – người sau này trở thành hoạ sĩ nổi tiếng của Việt Nam – thực hiện.
 
Dưới đây là bản scan của một cuốn “Hàng rong và tiếng rao trên đường phố Hà Nội” đang được lưu giữ tại một thư viện của Viện Viễn đông Bác cổ Pháp tại Paris.
Bìa cuốn “Les marchands ambulants et les cris de la rue à Hanoi”..
Lời nói đầu của tác giả F. Fénis.

Phần lớn các tiếng rao ở Hà Nội là dành cho các loại bánh làm từ gạo. Bên cạnh đó cũng có các món ăn dạng sợi như bún, phở, các loại hoa quả, đồ uống v..v. Cũng có một số tiếng rao không liên quan đến việc ăn uống như tiếng rao của các hàng thu mua chậu, bát sứ vỡ, giẻ rách sắt vụn…
“Ai dâu chín của nhà ra mua”.
“Bánh giò bánh dày”.
“Se cấu se cấu” (kem vani).

“Ai bánh chưng bánh cốm ra mua”.

Gánh hàng tào phớ.

Gánh hàng tào phớ.

“Chum chậu bát sứ vỡ hàn không”.

“Ai giẻ rách sắt vụn bán không nào”.

Những người bán hàng rong tụ tập ở khu vực bờ hồ Hoàn Kiếm.

“Ai bánh Tây ra mua”.
“Nước vối nóng ăn thuốc không”.
“Ai mua ngô rang hạt dẻ ra mua”.
“Ai bánh cuốn ra mua”.

“Ai cháo đậu xanh ra mua”. ‘Ai cháo đậu xanh chè đậu đen ra mua”.
“Le bánh cuốn”.
“Ai mua bánh vừng không”.
“Bánh giò bánh giày”.
Chè hạt sen.
“Ai mía ra mua”
Ai bánh Tây ra mua.
“Ai có chai cốc vỡ bán không”.
“Ai kẹo vừng kẹo lạc kẹo bột trạm ô mai ra mua”.
Lời giới thiệu về các món ăn ở trên.
“Ai lạc rang ra mua”.
“Ai nem sốt mua”. “Ai nem mua đi”.
“Trung Bắc, Thực Nghiệp, Khai Hoá” (tên của 3 tờ báo thời thuộc địa).
(tổng hợp từ BELLE INDOCHI)








Những bức ảnh Việt Nam

Dưới góc máy lạ, những cảnh đẹp quen thuộc của Việt Nam trở nên kỳ ảo và đẹp hơn bao giờ hết. 
1. Sapa mùa tuyết trắng

Khung cảnh đẹp ngỡ ngàng Sapa những ngày tuyết phủ trắng 


Phóng to
Khung cảnh đẹp ngỡ ngàng Sapa những ngày tuyết phủ trắng



Cả Sapa trông như một thành phố châu Âu mùa này
Cả Sapa trông như một thành phố châu Âu mùa này
Nét đẹp hiện đại, lạ lẫm của Sapa mùa đông năm 2013 Phóng to
Nét đẹp hiện đại, lạ lẫm của Sapa mùa đông năm 2013. Ảnh: hachi8
2. Phan Xi Păng mây mù

Chia sẻ kỷ niệm du lịch Việt, nhận giải 30 triệu đồng






Nóc nhà Đông Dương như đang bơi trong lớp mây mù, không khác gì một bức tranh thủy mặc sống động




Nóc nhà Đông Dương như đang bơi trong lớp mây mù, không khác gì một bức tranh thủy mặc sống động. Ảnh: Kenh 14 
Dù nhìn gần hay nhìn xa thì những đám mây luôn ôm lấy đỉnh núi
Phóng to
Dù nhìn gần hay nhìn xa thì những đám mây luôn ôm lấy đỉnh núi. Ảnh: Kenh 14 
 
Núi bồng bềnh trong biển sương tạo nên cảnh quan kỳ ảo vô cùng


Núi bồng bềnh trong biển sương tạo nên cảnh quan kỳ ảo vô cùng. Ảnh: Kenh 14

3. Biển Cổ Thạch, Phan Thiết


Hình dạng và màu sắc độc đáo của đá nơi đây trở thành một điểm thu hút du khách vì không chỉ đơn thuần một màu đen hay xám mà có nhiều màu sắc khác nhau, như: nâu, vàng, tím, xanh lam, trắng…với những đường vân rất đẹp. Dưới những đợt sóng và ánh nắng, cả bãi đá ánh lên những gam màu lung linh như những viên ngọc thuần khiết nhất. Ảnh: Dzung Le Viet


4. Trang trại cừu Phan Rang

Bãi biển Cổ Thạch tọa lạc tại một nơi vắng vẻ thuộc địa phận xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, cách thành phố Phan Thiết khoảng 90km, mặc dù đã được đưa vào khai thác nhưng biển nơi đây vẫn giữ nguyên nét hoang sơ

Bãi biển Cổ Thạch tọa lạc tại một nơi vắng vẻ thuộc địa phận xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, cách thành phố Pha
Hình dạng và màu sắc độc đáo của đá nơi đây trở thành một điểm thu hút du khách vì không chỉ đơn thuần một màu đen hay xám mà có nhiều màu sắc khác nhau, như: nâu, vàng, tím, xanh lam, trắng…với những đường vân rất đẹp. Dưới những đợt sóng và ánh nắng, cả bãi đá ánh lên những gam màu lung linh như những viên ngọc thuần khiết nhấtPhóng to


Bức ảnh như được chụp ở các vùng cao nguyên Tây Tạng, đẹp ngỡ ngàng và khá lạ lẫm. Ảnh: Đinh Bảo Lê

Những hình ảnh chăn cừu đậm chất du mục ở một trang trại cừu tại Phan Rang. Phan Rang là vùng đất chăn cừu có lịch sử trăm năm và cũng là vùng đất hình thành giống cừu duy nhất ở Việt Nam. Ảnh:
Dân Việt

 5. Bãi Hang Rái - Ninh Thuận


Nằm ở phía Nam của vịnh Vĩnh Hy, cách thành phố Phan Rang chừng 35 km, bãi Hang Rái giống như “một nàng công chúa đang ngủ yên” giữa các địa danh nổi tiếng thuộc tỉnh Ninh Thuận đang chờ người đến “đánh thức”. Bãi Hang Rái không chỉ có địa thế núi chắn sóng, chất chồng lên nhau tạo nên những hang động đẹp mắt mà còn là khu vực sinh sống của loài rái cá. Ảnh: Aka
Nằm ở phía Nam của vịnh Vĩnh Hy, cách thành phố Phan Rang chừng 35 km, bãi Hang Rái giống như “một nàng công chúa đang ngủ yên” giữa các địa danh nổi tiếng thuộc tỉnh Ninh Thuận đang chờ người đến “đánh thức”. Bãi Hang Rái không chỉ có địa thế núi chắn sóng, chất chồng lên nhau tạo nên những hang động đẹp mắt mà còn là khu vực sinh sống của loài rái cá.
Hang Rái thực sự là địa điểm dành cho những người đam mê với nghệ thuật nhiếp ảnh. Ảnh: Aka

Lạc lối với những con đường hoa tuyệt đẹp ở Việt Nam

Rực rỡ Đà Lạt về đêm. Trông Đà Lạt như thành phố ánh sáng Paris

Rực rỡ Đà Lạt về đêm. Trông Đà Lạt như thành phố ánh sáng Paris. Ảnh: Quang Pierre

Nếu có dịp đi qua đèo Mimosa (Đà Lạt), du khách có thể ngắm ngôi nhà nhỏ xinh được phủ trong màu hoa tím ở lưng đèo. Trông cảnh này, du khách sẽ ngỡ như bước vào một câu chuyện cổ tích.

Nếu có dịp đi qua đèo Mimosa (Đà Lạt), du khách có thể ngắm ngôi nhà nhỏ xinh được phủ trong màu hoa tím ở lưng đèo. Trông cảnh này, du khách sẽ ngỡ như bước vào một câu chuyện cổ tích. Ảnh: Michael Ruan
7. Phá Tam Giang - Huế


Nổi tiếng là vùng đầm phá nước lợ lớn nhất Đông Nam Á, cách thành phố Huế khoảng 12 km, phá Tam Giang mang trong mình vẻ đẹp hoang sơ, vắng lặng khiến bất kỳ ai đến đây cũng đều thán phục, trầm trồ và òa lên sung sướng.

Nổi tiếng là vùng đầm phá nước lợ lớn nhất Đông Nam Á, cách thành phố Huế khoảng 12 km, phá Tam Giang mang trong mình vẻ đẹp hoang sơ, vắng lặng khiến bất kỳ ai đến đây cũng đều thán phục, trầm trồ và òa lên sung sướng.

Chiều trên Phá Tam Giang
Chiều trên Phá Tam Giang. Ảnh: Phungtuanphoto






Nóc nhà Đông Dương như đang bơi trong lớp mây mù, không khác gì một bức tranh thủy mặc sống động. Ảnh: Kenh 14


Dù nhìn gần hay nhìn xa thì những đám mây luôn ôm lấy đỉnh núi. Ảnh: Kenh 14
3. Biển Cổ Thạch, Phan Thiết


Núi bồng bềnh trong biển sương tạo nên cảnh quan kỳ ảo vô cùng



Núi bồng bềnh trong biển sương tạo nên cảnh quan kỳ ảo vô cùng. Ảnh: Kenh 14
Bãi biển Cổ Thạch tọa lạc tại một nơi vắng vẻ thuộc địa phận xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, cách thành phố Phan Thiết khoảng 90km, mặc dù đã được đưa vào khai thác nhưng biển nơi đây vẫn giữ nguyên nét hoang sơ


Bãi biển Cổ Thạch tọa lạc tại một nơi vắng vẻ thuộc địa phận xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, cách thành phố Phan Thiết khoảng 90km, mặc dù đã được đưa vào khai thác nhưng biển nơi đây vẫn giữ nguyên nét hoang sơ. Ảnh: Dzung Le Viet

Hình dạng và màu sắc độc đáo của đá nơi đây trở thành một điểm thu hút du khách vì không chỉ đơn thuần một màu đen hay xám mà có nhiều màu sắc khác nhau, như: nâu, vàng, tím, xanh lam, trắng…với những đường vân rất đẹp. Dưới những đợt sóng và ánh nắng, cả bãi đá ánh lên những gam màu lung linh như những viên ngọc thuần khiết nhất. Ảnh: Dzung Le Viet
4. Trang trại cừu Phan Rang




Bức ảnh như được chụp ở các vùng cao nguyên Tây Tạng, đẹp ngỡ ngàng và khá lạ lẫm. Ảnh: Đinh Bảo Lê
Những hình ảnh chăn cừu đậm chất du mục ở một trang trại cừu tại Phan Rang. Phan Rang là vùng đất chăn cừu có lịch sử trăm năm và cũng là vùng đất hình thành giống cừu duy nhất ở Việt Nam.Phóng to

Những hình ảnh chăn cừu đậm chất du mục ở một trang trại cừu tại Phan Rang. Phan Rang là vùng đất chăn cừu có lịch sử trăm năm và cũng là vùng đất hình thành giống cừu duy nhất ở Việt Nam. Ảnh: Dân Việt
5. Bãi Hang Rái - Ninh Thuận





Nằm ở phía Nam của vịnh Vĩnh Hy, cách thành phố Phan Rang chừng 35 km, bãi Hang Rái giống như “một nàng công chúa đang ngủ yên” giữa các địa danh nổi tiếng thuộc tỉnh Ninh Thuận đang chờ người đến “đánh thức”. Bãi Hang Rái không chỉ có địa thế núi chắn sóng, chất chồng lên nhau tạo nên những hang động đẹp mắt mà còn là khu vực sinh sống của loài rái cá. Ảnh: Aka
Nằm ở phía Nam của vịnh Vĩnh Hy, cách thành phố Phan Rang chừng 35 km, bãi Hang Rái giống như “một nàng công chúa đang ngủ yên” giữa các địa danh nổi tiếng thuộc tỉnh Ninh Thuận đang chờ người đến “đánh thức”. Bãi Hang Rái không chỉ có địa thế núi chắn sóng, chất chồng lên nhau tạo nên những hang động đẹp mắt mà còn là khu vực sinh sống của loài rái cá.


Hang Rái thực sự là địa điểm dành cho những người đam mê với nghệ thuật nhiếp ảnh. Ảnh: Aka

 6. Đà Lạt

Rực rỡ Đà Lạt về đêm. Trông Đà Lạt như thành phố ánh sáng Paris


Rực rỡ Đà Lạt về đêm. Trông Đà Lạt như thành phố ánh sáng Paris. Ảnh: Quang Pierre

Nếu có dịp đi qua đèo Mimosa (Đà Lạt), du khách có thể ngắm ngôi nhà nhỏ xinh được phủ trong màu hoa tím ở lưng đèo. Trông cảnh này, du khách sẽ ngỡ như bước vào một câu chuyện cổ tích.


Nếu có dịp đi qua đèo Mimosa (Đà Lạt), du khách có thể ngắm ngôi nhà nhỏ xinh được phủ trong màu hoa tím ở lưng đèo. Trông cảnh này, du khách sẽ ngỡ như bước vào một câu chuyện cổ tích. Ảnh: Michael Ruan
7. Phá Tam Giang - Huế



Nổi tiếng là vùng đầm phá nước lợ lớn nhất Đông Nam Á, cách thành phố Huế khoảng 12 km, phá Tam Giang mang trong mình vẻ đẹp hoang sơ, vắng lặng khiến bất kỳ ai đến đây cũng đều thán phục, trầm trồ và òa lên sung sướng.


Nổi tiếng là vùng đầm phá nước lợ lớn nhất Đông Nam Á, cách thành phố Huế khoảng 12 km, phá Tam Giang mang trong mình vẻ đẹp hoang sơ, vắng lặng khiến bất kỳ ai đến đây cũng đều thán phục, trầm trồ và òa lên sung sướng.
img alt="Chiều trên Phá Tam Giang" src="http://img.v3.news.zdn.vn/w660/Uploaded/djsim/2014_11_17/Pha_Tam_Giang_hue_infonet1.jpg" />

Chiều trên Phá Tam Giang. Ảnh: Phungtuanphoto ;
 

Ví-Giặm xứ Nghệ được UNESCO vinh danh


Ví-Giặm xứ Nghệ được UNESCO vinh danh
Ví-Giặm : hai dân ca ở Nghệ An và Hà Tĩnh - DR

Trọng Thành/RFI
Tối 27/11/2014, trong cuộc họp tại Paris, Pháp, Ủy ban UNESCO đã chính thức công nhận dân ca Ví – Giặm xứ Nghệ là “di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại”, cùng với 34 di sản khác của thế giới. Trong bối cảnh các hoạt động kinh tế nông nghiệp truyền thống - môi trường làm nên sức sống của Ví-Giặm cổ truyền -, ngày càng mai một, nếu không muốn nói là gần như biến mất ở nhiều nơi, hai loại hình dân ca xứ Nghệ đã tìm thấy đất sống trong các sinh hoạt cộng đồng mới. 

Ví-Giặm là di sản văn hóa phi vật thể thứ 9 của Việt Nam được vinh danh, tiếp theo Đờn ca tài tử, Tục thờ Hùng vương Phú Thọ, Hát Xoan Phú Thọ, Hội Gióng Hà Nội, Ca trù, Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Nhã nhạc cung đình Huế và Cồng chiêng Tây Nguyên.
Ví-Giặm là hai lối hát dân dã không nhạc đệm được các cộng đồng dân cư ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh sáng tạo và truyền thụ trong các hoạt động sản xuất và sinh hoạt truyền thống. Tên gọi của các làn điệu Ví-Giặm cổ truyền gắn với các hoạt động như : ví phường vải, phường võng, phường nón, phường củi, ví trèo non, ví đò đưa, ví ghẹo, ví mục đồng, giặm ru, giặm kể, giặm xẩm... Hai lối hát nói trên tuy có một số đặc điểm khác nhau, nhưng do từ một số thập niên gần đây thường xuyên được hát đan xen với nhau, nên cũng thường được ghép chung với tên gọi dân ca Ví-Giặm hay Ví-Dặm.
Trong bối cảnh các hoạt động kinh tế nông nghiệp truyền thống ngày càng mai một, môi trường làm nên sức sống của Ví-Giặm cổ truyền, với các thể thức và quy cách, trước đây bị thu hẹp hết sức rõ rệt, nếu không muốn nói là gần như biến mất, hai loại hình dân ca xứ Nghệ đã tìm thấy đất sống trong các sinh hoạt cộng đồng mới, đặc biệt là các câu lạc bộ, các nhóm nghiệp dư, không nhiều thì ít thường được chính quyền khuyến khích.
Giống như đa số các loại hình dân ca cổ truyền, trừ ca trù trong một thời gian dài, Ví-Giặm được chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sau này khuyến khích phát triển, các làn điệu dân ca Ví-Giặm được giới nghệ sĩ khai thác để phát triển nhiều sáng tác âm nhạc mới mang hơi thở dân ca, chinh phục được trái tim của đông đảo công chúng, trước hết là người dân xứ Nghệ.
Lời ca Ví-Giặm nhìn chung thường dễ hiểu, các làn điệu thường đơn giản, được đông đảo người dân thuộc các lứa tuổi thưởng thức và ứng tác. Khác với Ví-Giặm cổ truyền, ngày càng có nhiều người hát dân ca với sự hỗ trợ của nhạc đệm truyền thống hay hiện đại. Ví-Giặm dưới hai hình thức, cổ truyền và cải biên, được thực hành tại 75 nhóm dân ca, với khoảng 1.500 thành viên, trong đó có hơn 800 nghệ nhân, theo một cuộc điều tra vào năm 2012. Tuy nhiên, số người ít nhiều có hát Ví-Giặm ắt hẳn nhiều hơn con số chính thức nói trên.
Nhân dịp Ví-Giặm xứ Nghệ được UNESCO vinh danh, nhận lời mời của Tạp chí Xã hội của RFI, Giáo sư Dân tộc nhạc học Trần Quang Hải (Paris), cùng Nhạc sĩ Thanh Lưu và Nghệ nhân Phan Thế Phiệt (Nghệ An) có đôi lời chia sẻ với quý vị thính giả về những cảm nghĩ riêng trước sự kiện này, cũng như một số hiểu biết căn bản về các di sản văn hóa của một vùng đất có một vị trí đặc biệt trong lịch sử Việt Nam và văn hóa Việt Nam.
Trước hết mới quý vị nghe chia sẻ của Giáo sư Trần Quang Hải, người từng tham gia hỗ trợ hồ sơ Ví-Giặm xứ Nghệ trình UNESCO.
Tôi có dịp đi về Việt Nam hai năm liên tiếp, tham gia vào chuẩn bị hồ sơ của hát ví dặm Nghệ Tĩnh. Tôi thấy rằng, có sự chuẩn bị rất chu đáo. Có sự đóng góp của tất cả những câu lạc bộ của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Đồng thời Gs Nguyễn Chí Bền dầy công thu góp tất cả những tài liệu lại và làm đúng theo tôn chỉ của UNESCO. Thành ra họ thấy rằng sức sống của hát Ví-Giặm đã được hồi sinh và hy vọng rằng trong tương lai sẽ được tiếp nối và sẽ được quảng bá rộng rãi hơn.”
Từ xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, nghệ nhân Phan Tất Thành, một người gắn bó từ hàng chục năm nay với dân ca xứ Nghệ cho biết cảm tưởng của ông trước sự kiện này.
Nghệ nhân Phan Thế Phiệt (Nghệ An) 03/12/2014 nghe
Ví là gì ? Giặm là gì ?
Nhạc sĩ Thanh Lưu, nguyên Trưởng đoàn Dân ca Nghệ An, người dầy công sưu tầm dân ca xứ Nghệ và được coi là một “người đặt nền móng cho kịch hát dân ca xứ Nghệ” nhận xét về tính phổ cập của Ví-Giặm (so sánh Ví-Giặm với Quan họ Bắc Ninh của ông có thể gây bàn thảo - ndr).
Ví-Giặm nó có tính phổ cập. Như Quan họ chẳng hạn chỉ có 49 làng Quan họ, và trong những làng ấy, chỉ có một số liền anh, liền chị hát. Và người ta cũng chủ yếu hát ở Hội Lim thôi. Còn Ví-Giặm là hát ở tất cả mọi không gian, mọi thời gian, và già trẻ, trai gái ai cũng có thể hát được. Cái nữa là ta thấy Ví-Giặm có tính biểu cảm đa dùng, tức là một điều Ví-Giặm chẳng hạn chuyển tải được rất nhiều sắc thái tình cảm. Đề cập tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống”.
Nhạc sĩ Thanh Lưu giúp chúng ta phân biệt Ví và Giặm khác nhau như thế nào, và đặc trưng của các làn điệu Ví-Giặm, qua một số giải thích và minh họa.
Nhạc sĩ Thanh Lưu (Vinh) 03/12/2014 nghe
Nghệ nhân Phan Tất Thành cho biết thêm về giai đoạn những năm 1970-1980, trong thời gian hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh tạm thời sát nhập làm một, nhiều hoạt động truyền bá phát triển, khiến trong một thời gian rất ngắn hát Giặm vốn chỉ phổ biến ở Hà Tĩnh có cơ hội phổ biến mạnh sang Nghệ An.
Từ thời các nhà nho đến dân ca “câu lạc bộ”
Ví-Giặm là sản phẩm của một vùng đất nơi sinh ra nhiều danh nhân thời văn minh Nho giáo. Theo cố Giáo sư Ninh Viết Giao (xem bài "Về ba loại hình dân ca Hò, Ví, Giặm"), người đã dành cả cuộc đời để sưu tầm dân ca xứ Nghệ, trong đó đặc biệt phải kể đến hát ví phường vải, được coi là một đỉnh cao của dân ca Ví một thời. Theo ông, thi hào Nguyễn Du, nhà thơ Nguyễn Huy Tự, ông hoàng ca trù Nguyễn Công Trứ, chí sĩ Phan Bội Châu đã từng “tắm gội” trong nền dân ca quê nhà. “Phải nói hát ví, hát giặm có giá trị như thế nào mời hấp dẫn, mới lôi cuốn các danh sĩ, chí sĩ, nho sĩ tham gia” để rồi “thầm lặng giúp đỡ họ” “sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ”. Dòng sông lịch sử không ngừng chuyển động. Ví-Giặm ngày nay có còn giữ được như xưa ? Nhạc sĩ Thanh Lưu kể lại trải nghiệm của ông về những việc đã làm để chuyển giao Ví-Giặm cho thế hệ trẻ :
Trong cuộc hát phường vải, có người ‘bẻ’, có người hỏi, có người đáp, và trong đó có thể có những nhà nho có tên tuổi. Những trí giả này đặt ra những câu đối, câu đáp mang tính rất thâm thúy, làm cho tính bác học trong Ví-Giặm cũng rất sâu sắc. Bây giờ thì khác, môi trường không như ngày xưa nữa. Bây giờ có ai đi quay xa, dệt vải, ai đi tuốt lúa, bây giờ máy móc cả rồi. Mà chúng tôi muốn làm thế nào để bảo tồn cái đó, thì một mặt mình phải đi sưu tập ở các làng quê, rồi các cụ nghệ nhân hát cho mình ghi lại, phục chế lại những cảnh đó thôi, chứ còn những cảnh tự nhiên như ngày xưa bây giờ là không có. Nhưng còn một hình thức khác, đó là các câu lạc bộ phường xã, câu lạc bộ hát dân ca, người ta sử dụng những bài bản cũ. Mặt khác nữa, để phản ánh được hiện thực mới, thì người ta lại lấy cái làn điệu cũ, biên soạn nội dung mới vào, để phản ánh cuộc sống đương đại. Cái hình thức câu lạc bộ không chỉ hát trong thôn xóm, mà cứ định kỳ như thế, có các cuộc liên hoan cấp cơ sở, từ phường xã cho đến cấp tỉnh. Như thế, các câu lạc bộ ở các phường xã cũng đua nhau tham gia các hội diễn, các cuộc liên hoan ấy…. Rồi ở trong trường học chúng tôi cũng phổ cập cho học sinh phổ thông, tập huấn cho tất cả các giáo viên phổ thông trong toàn tỉnh. Song đó rồi, các nhà giáo lại phổ biến cho học sinh của mình trong toàn tỉnh, rồi định kỳ tổ chức cuộc thi cho toàn trường…. Rồi chúng tôi dạy trên sóng phát thanh truyền hình. Rồi còn có việc in các tập nhạc dân ca, in các băng đĩa để trao truyền. Đấy là tôi không nói chuyện sâu khấu hóa. Sân khấu hóa là một chuyện khác”.
Ví là ngâm vịnh, ví von, nhưng đồng thời trong các sinh hoạt cổ truyền Ví cũng là lối hát dân ca hướng đến sự giao hòa : Ví là Với, bên nam hát cùng bên nữ. Hát Ví còn có nghĩa là hát Vói, một bên ở đường, ngoài ngõ “hát vói” vào sân, người ở ruộng này “hát vói” sang ruộng kia, người đi đường “hát vói” với người dưới ruộng… Vói là dùng lời hát để giao tiếp trong một không gian rộng. Giáo sư Trần Quang Hải quan sát thấy một hiện tượng mới trong thực hành hát Ví-Giặm hiện nay :
Tôi có dịp đi xem, thì thấy có những lớp giảng dạy, khuyến khích tất cả những em tập ra những màn hát đối đáp, những người trẻ hai mấy ba chục tuổi, đối lại với bên kia cũng mười mấy hai chục tuổi. Tập họ như thế, rồi họ tự nhiên thấy chuyện đó nó đặc biệt hơn, rồi nó linh động hơn là hát tân nhạc. Thì theo tôi nghĩ đó là một trong những khía cạnh có thể duy trì được truyền thống hát Ví-Giặm ở tại hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.”

Ví-Giặm cũng thể hiện được những kịch tính ghê gớm
Về phần mình, Nghệ nhân Phan Thế Phiệt nhấn mạnh đến sự thu hẹp của không gian dân ca cổ truyền, đổi lại là ảnh hưởng gia tăng của dân ca sân khấu hóa :
Cái không gian Ví-Giặm giao lưu bây giờ có thu hẹp lại. Và bây giờ rầm rộ hơn cả là biểu diễn. Biểu diễn sân khấu làng nào thôn nào cũng có. Nó cũng là một cách đưa đời sống vào dân ca Ví-Giặm…. Theo tôi nghĩ đó cũng là thích hợp, chứ không thể giữ nguyên xi được như hồi trước được đâu. 
Trước kia, hát là trao đổi nghề nghiệp tâm tình thế thôi. Nhưng bây giờ, dân ca Nghệ An được lên sân khấu, nó có sức truyền tải, nó (trở thành) có sức chứa đựng nhiều mâu thuẫn trong xã hội, ví dụ như những 'tệ nạn xã hội', như nghiện hút, tham ô, lợi dụng chức quyền, cuộc đấu tranh nẩy lửa giữa cái thiện, cái ác. Dân ca Nghệ Tĩnh vẫn có được những làn điệu, sử dụng được để thể hiện những cung bậc tình cảm như thế. Ví dụ thì có nhiều, như vở 'Cô gái sông Lam' (tác phẩm chèo do Nguyễn Trung Phong sáng tác, được chuyển thể sang Ví-Giặm). Nó là vở diễn sân khấu dài hơi, rất phức tạp, kịch tính ghê gớm, nhưng sang dân ca Nghệ Tĩnh vẫn có sức thể hiện được một cuộc đấu tranh giữa cường quyền áp bức, giữa đế quốc, phong kiến, và hoạt động cách mạng rất cam go. Thế mà vẫn truyền tải được”.
RFI : Thưa ông, đấy là chuyện của thời cách đây đã hơn nửa thế kỷ. Còn về những nội dung mà ông nói nhưng gần đây hơn thì có không ?
"Gần đây thì rất nhiều… Các tệ nạn ma túy, mãi dâm nó đều thể hiện được cả. Rồi cuộc đấu tranh trong bà con thôn xóm để đi lên xây dựng 'Nông thôn mới'. Cuộc đấu tranh ngay từ trong gia đình, trong cộng đồng. Xây dựng Nông thôn mới có việc hiến đất cũng rất là cam go…. là xương máu của bà con từ bao đời để lại, bây giờ lại hiến đất cho xã, để mở đường cho rộng, cho làng xóm khang trang. Đó cũng là cuộc đấu tranh rất là nan giải đối với người nông dân. Dân ca Nghệ Tĩnh vẫn cứ lên sân khấu, có rất nhiều vở lên sâu khấu. Gia đình có vở 'Gian nan một lời hứa', về chống ma túy có 'Khoảnh khắc của một đời', rồi lên án chất độc da cam, có vở  'Nhân chứng sống'…"
« Giận mà thương » : khi sáng tác hóa thành di sản
Một số những nhạc sĩ trong một thời gian nào đó đã đi vào nghiên cứu và thấy có những làn điệu. Thí dụ như có bài nổi tiếng bây giờ ai cũng hát. ‘Giận mà thương’’ trở thành làn điệu được hát nhiều. Ngoài ra những lời mới dựa trên cái làn điệu đó được phổ biến khắp nơi rồi. Tôi đã nghe được gần như mười mấy bài tương tự. Nghe lên, mình có thể biết được, định rõ được đó là giai điệu ấy...”
Vừa rồi là nhận xét của Giáo sư Trần Quang Hải về làn điệu « Giận mà thương », một trong những làn điệu phổ biến nhất của dân ca Ví-Giặm, không chỉ trong xứ Nghệ, mà trên toàn quốc. Trong thời gian gần đây, ngày càng phổ biến các thông tin về làn điệu vốn được coi là dân ca cổ truyền, thực ra do một nhà biên kịch, ông Nguyễn Trung Phong sáng tác – trên cơ sở cải biên các làn điệu Ví và Giặm cổ truyền -, trong vở kịch dân ca mang tên « Khi ban đội đi vắng » (năm 1967). « Giận mà thương » hay « Ví giận thương » sau này còn được nhiều nghệ sĩ lấy cảm hứng để sáng tác các ca khúc, như Đỗ Nhuận với bài « Trồng cây lại nhớ đến Người », sau khi lãnh đạo Việt Nam, ông Hồ Chí Minh qua đời, hay Đỗ Quý Doãn/ Trần Hoàn với bài « Giữa Mạc tư khoa nghe câu hò xứ Nghệ » (năm 1981).
Hai mặt của sự tôn vinh
Trong hơn nửa thế kỷ qua, dân ca Ví-Giặm Nghệ Tĩnh đã biến đổi rất nhiều. Có nhà nghiên cứu ghi nhận hai thay đổi rất lớn của hát Ví-Giặm, từ lối hát trao duyên trong các phường nghề chuyển sang lối hát chơi của các nghệ nhân, nghệ sĩ dân gian, rồi tiến đến sự hình thành của một sân khấu hay kịch dân ca Ví-Giặm (xin tham khảo bài nghiên cứu “Những bước chuyển đổi trong dân ca Ví-Dặm” của nhạc sĩ Đặng Hoành Loan). Trong bài viết trên, nhạc sĩ Đặng Hoành Loan cảnh báo việc đẩy tính kịch trong sân khấu Ví-Dặm lên khiến "điệu hát Ví-Dặm sân khấu không còn giữ tính hồn nhiên trong ca hát, phóng khoáng trong lối chơi của dân ca Ví-Dặm".
Tác động của sân khấu Ví-Giặm, cũng như các hình thức sinh hoạt Ví-Giặm mang tính Nhà nước - hoặc ít, hoặc nhiều - đến các sinh hoạt dân ca Ví-Giặm được lưu truyền trong cộng đồng như thế nào hiện là một thực tế còn ít được chú ý. Hiện tượng “Giận mà thương”, thường được xem như làn điệu cổ, nhưng thực ra là làn điệu cải biên (được đánh giá là rất thành công), mà gần đây được nói đến nhiều, chỉ là bề nổi của một hiện thực vô cùng phong phú.
Không ít người lo ngại, cũng như trong nhiều lĩnh vực văn hóa, tín ngưỡng khác tại Việt Nam, phong trào tôn vinh di sản dường như mang tính hai mặt. Một mặt, nó cho phép nâng niu trân trọng hơn đối với những gì có giá trị đích thực, nhưng mặt khác, nó cũng có thể dung dưỡng cho sự áp đặt một cách nhìn duy nhất đối với quá khứ, một xu hướng Nhà nước hóa văn nghệ, về lâu dài làm thui chột những sáng tạo đích thực.
Tạp chí Xã hội của RFI xin chân thành cảm ơn Giáo sư Trần Quang Hải, Nhạc sĩ Thanh Lưu và Nghệ nhân Phan Thế Phiệt

 Dân ca VN.. "Ví Dặm" được Unesco công nhận là di sản văn hóa...


Cơ quan văn hóa LHQ Unesco công nhận điệu dân ca VN.... "Ví-Dặm" là di sản văn hóa.....Xin mời nghe một bài ví dặm và bài viết về thể lọai dân ca ví dặm...

https://www.youtube.com/watch?v=FemLo0kcSRU
Về ba loại hình dân ca Hò, Ví, Giặm


A. PHÁC QUA VÀI NÉT VỀ BA LOẠI HÌNH DÂN CA HÒ, VÍ, GIẶM


I. Hát ví
1. Hát ví là gì?
Nhiều người cho rằng Ví là ví von, như câu:


Em như hoa nở trên cành,
Anh như con bướm lượn vành khát khao.
Lại có người cho rằng Ví là với, bên nam hát với bên nữ. Nhiều người lại cho rằng hát ví là hát vói, bên nam đứng ngoài ngõ ngoài đường "hát vói" vào sân, vào nhà với các cô gái đang kéo vải, hoặc đám con gái đang cấy lúa ở đỗi ruộng này "hát vói" sang đỗi ruộng bên cạnh với đám con trai đang nhổ mạ. Ý kiến thứ ba này cần chú ý hơn.

2. Hát ví ở xứ Nghệ.
Các loại hình và sự ra đời.
Cũng như các địa phương khác, hát ví ở xứ Nghệ cũng là lối hát giao duyên giữa trai và gái. Ở xứ Nghệ này nói hát ví là hát chung. Loại hình lao động nào cũng có hát ví. Người chèo thuyền trên sông nước có ví đò đưa, ví trên sông; người đan lát rổ rá có ví phường đan, người đi củi có ví phường củi, người kéo vải có ví phường vải,... Cứ theo các loại hình lao động chúng ta còn thấy có hát ví phường vàng, hát ví phường nón, hát ví phường cấy, hát ví phường gặt, hát phường chắp gai đan lưới,... Như vậy ngay cái tên của nó, cũng đã gắn với nhiều nghề nghiệp với lao động rồi. Trong các loại hình hát ví nói trên, hát ví phường vải nổi trội hơn cả.


Như vậy nguồn gốc của hát ví là do lao động, do nhu cầu sinh hoạt về mặt tinh thần của nhân dân trong lúc lao động. Nhân dân lao động xứ Nghệ đã sáng tạo ra hát ví. Nó là một phương tiện sinh hoạt văn nghệ tự túc của nhân dân. Có lẽ nó ra đời đã lâu lắm rồi, nhưng năm tháng nào thì chưa rõ, ít nhất cũng vào đầu thế kỉ XVIII.


3. Các đặc điểm của hát ví
Hát ví xứ Nghệ có các đặc điểm sau:


3.1. Không kể thời gian:Không như hát quan họ ở Bắc Ninh, hát xoan ở Phú Thọ, hát cửa đình ở một số nơi khác, quanh năm trên đất Nghệ, lúc nào cũng có tiếng hát ví, không hát ví đò đưa, ví phường vải thì có ví phường củi, ví phường măng, ví phường bện võng,...


3.2. Hát ví xứ Nghệ, nhất là ví phường vải có quy cách hẳn hoi


Quy cách hát ví thể hiện ở một thủ tục nhất định - thủ tục một cuộc hát thường có ba chặng. Chặng một có hát dạo, hát chào, hát mừng và hát hỏi. Chặng hai là hát đố hoặc hát đối. Chặng ba gồm hát mời, hát xe kết và hát tiễn. Thủ tục trên mang tính lịch sự của một cuộc hát. Phải qua một quá trình phát triển như thế nào mới hình thành được một thủ tục như vậy.


- Không những có thủ tục mà còn có quy cách. Con trai mới đến hát phải đứng ngoài đường ngoài ngõ. Vượt được cái chặng hát dạo, hát chào, hát mừng, hát hỏi mời là bước đầu. Phải qua được cái cầu hát đố, nhất là hát đối mới được mời vào nhà. Mời vào nhà rồi còn phải đối đáp những câu hát mời uống nước, mời ăn trầu, mời hút thuốc, mới đến cái bước hát xe kết.
- Ngoài ra còn cách hát. Ví như hát ví phường vải, trước khi hát một câu, bên nam gọi bên nữ: "ơ này, chị em phường vải ơi!". Bên nữ đáp "ơ này, thưa chi!" rồi bên nam mới hát. Hát hay, bên nữ khen: "Hay, ơ rằng hay" hoặc "Hay, hỡi rằng cân", Còn hát không hay, câu văn lủng củng các cô nói "Hay, răng chưa cân", "Ơ rằng chưa xinh". Bên nữ trước khi hát câu nào cũng phải gọi bên nam: "Ơ, người đi nhởi ơi!". Đó là lúc đầu. Còn khi đã đằm thắm gắn bó với nhau thì phải gọi "ơ là bạn, người ơi!", hoặc "ơ, là bạn tình ơi!", ...


3.3. Có nhà nho tham gia


Không phải hát ví nào nhà nho cũng tham gia. Các nhà nho thường tham gia ví phường vải, ví phường nón, ví phường vàng,... tham gia hát ví đa số là các nhà nho bình dân, xuất thân từ quần chúng lao động, những cũng không ít các danh sĩ như Nguyễn Du, các nhà khoa bảng như Đinh Viết Thận, các chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu,... Tham gia hát ví, họ thường làm "thầy bày", "thầy gà" cho bên nam hoặc bên nữ. Một số người cũng trực tiếp cất giọng. Có nho sĩ tham gia, nên bao giai thoại về hát ví có liên quan đến họ còn truyền lại mãi ngày nay.


3.4. Ca từ hát ví


Hầu hết được sáng tác theo thể lục bát, một số câu theo thể song thất lục bát hay còn gọi là lục bát biến thể. Vì đã trải qua một thời gian dài, lại có nhà nho tham gia, nên ca từ hát ví nhất là hát ví phường vải, nhiều câu hát ví khá chải chuốt, khá điêu luyện. Nhiều câu hay đến mức kinh điển, ví như các câu:


Sự đời nước mắt soi gương
Càng yêu mến lắm, càng thương nhớ nhiều
Thấy anh như thấy mặt trời,
Chói chang khó ngó, trao lời khó trao.

3.5. Làn điệu hát ví

Giọng hát ví cất lên nghe trầm trầm, tha thiết, lắng sâu vào lòng người, nghe như có gì nấc nghẹ trong lòng, đè nặng lên tâm tư, quấn quýt vấn vương bên mình, đứng gần nghe như nhắn nhủ, như nỉ non tâm sự, đứng xa nghe man mác, bâng khuâng, tưởng như người hát, hát cho người khác nghe thì ít mà hát để bộc lộ nỗi lòng của mình thì nhiều. Suốt đêm bà con chỉ hát một làn điệu. Có thay đổi chăng là giọng thấp, giọng cao, giọng dí dỏm hài hước, giọng giận hờn, trách móc, giọng da diết yêu thương,... cho phù hợp với nội dung câu hát và tâm trạng của mình, với môi trường hoàn cảnh xung quanh, với thời gian ngày đêm, không gian núi đồi, sông nước, làng mạc, ruộng đồng hay chỉ trong một cái sân nhỏ, một căn nhà tranh,... phù hợp với công việc đang làm, chứ làn điệu trước sau chỉ là một. Là một song biến hóa vô cùng về âm sắc nên một số nhạc sĩ cho rằng làn điệu hát ví "rất phong phú" hay "khá phong phú".

3.6. Không gian văn hóa của hát ví

Như vừa nói trên, người Nghệ hát ví mọi nơi, mọi môi trường, mọi không gian. Riêng hát ví phường vải thì:


a) Không gian văn hóa của nó:


Lúc đầu, trong nhà - ngoài ngõ; về sau trong nhà hoặc trong một mảnh sân của một nhà nào đó.


b) Thời gian văn hóa:

Thường từ chập tối đến nửa đêm.


c) Công cụ sinh hoạt:


Bên nữ: Xa quay kéo vải, gắn liền với lao động;

Bên nam: Không làm gì, chỉ đứng hát, hay ngồi hát.


d) Con người (cả hai bên):


- Người cất giọng hát;

- Người đỡ giọng (có thể là một, hai hay ba người);

- Thầy bày, hay còn gọi là thầy gà;

- Thính giả tự nguyện.


đ) Nội dung sinh hoạt:


Hát giao duyên, trong đó có:


- Hát qua - Hát lại (theo ý, theo lời);

- Hát hỏi - Hát đáp;

- Hát đố - Hát giảng;

- Hát đối - Hát chọi;


- Hát xe kết, kể cả hát tiễn (cũng hát qua hát lại).


e) Thủ tục cuộc hát:


Bảy bước - ba chặng như đã nói trên.


Với đặc điểm này và năm đặc điểm trên, ở xứ Nghệ khi trai gái hát ví giao duyên với nhau thì rõ ràng nó mang tính chất nguyên hợp của Folkore.


II. Hát giặm


1. Hát giặm là gì?


Có người cho rằng giặm là giẫm chân và hát giặm là lối hát có đánh nhịp bằng chân. Lại có người cho rằng, tiếng giặm xuất phát từ tính phân đoạn trong một bài hát giặm, tức là trong một bài hát có nhiều đoạn nhiều khúc. Còn có người cho rằng, giặm là giắm vào, điền vào như giắm lúa, điền nan (trong một cái rổ). Ý kiến này căn cứ những câu láy lại trong một bài hát giặm. Thực ra những ý kiến trên chưa thuyết phục hoàn toàn đối với những người muốn tìm hiểu về hát giặm.
Thật ra, theo tôi nó là tiếng vang lại của giọng nói nơi núi rừng. Nhất là khi chúng ta đi vào những khu núi rừng có nhiều vách đá thẳng tắp cheo leo. Khi nói một câu chúng ta thường nghe lại những tiếng của chính mình. Câu láy lại trong một đoạn hay một khúc có thể là tiếng vọng đó của con người thời xa xưa. Ý kiến trên của tôi mới có tính chất tương đối mà thôi, nhưng đã được một số người cho là có tính chất khám phá.
2. Các đặc điểm của hát giặm
2.1. Hát giặm xứ Nghệ có hai hình thức:
- Hát giặm nam nữ.
- Hát giặm vè (tức vè sáng tác theo thể hát giặm)
Ở đây xin chỉ nói về hát giặm nam nữ. Cũng như hát ví, người xứ Nghệ hát giặm quanh năm, không kể mùa xuân hay mùa hạ, nam nữ gặp nhau hễ có dịp cùng nhau lao động, tổ chức thành phường hát đơn giản là có thể ca hát giặm nam nữ. Nó khác hát ví ở chỗ, hát ví thịnh hành khắp xứ Nghệ, còn hát giặm chỉ thịnh hành ở phía Nam Hà Tĩnh, cụ thể là các huyện Kỳ Anh, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Can Lộc, Đức Thọ,...
2.2. Thủ tục hát giặm: Hát giặm xứ Nghệ cũng có thủ tục như hát ví, song không chặt chẽ như hát ví, nó có ba bước cơ bản là hát dạo, hát đố và hát xe kết. Trong bước hát dạo, có khi hát chào, hát mừng, hát hỏi thay cho hát dạo. Còn hát đối hầu như vắng bóng, có chăng chỉ là thưa thớt. Đã thế qui cách hát cũng đơn giản.
2.3. Vai trò nhà nho: Ít có hoặc không có nhà nho tham gia hát giặm. Nhà nho tham gia hát giặm là những người thích hát, biết hát giặm, tự hát được những bài hát giặm. Còn làm thầy bày, thầy gà thì khó lắm. Vì hát giặm nam nữ, có bài ba bốn chục câu, thậm chí có bài năm sáu chục câu mà người hát phải hát liền một mạch thì bày hoặc gà thế nào được.
2.4. Về ca từ: Nếu như hát ví hầu hết là những câu lục bát và lục bát biến thể thì ca từ hát giặm hầu hết là những câu năm chữ hoặc bốn chữ. Trong một khổ hay một đoạn của bài hát giặm thường bốn hay năm câu. Thí dụ một đoạn:

Canh khuya nghe tiếng trống
Nhớ bạn cũ ghe tằng

Chung buồng hương mới thoả
Hợp một nhà mới thoả
(Trông cho liễu gặp đào)

Như vậy câu đầu là trắc, câu cuối và câu láy là trắc. Hai câu giữa là bằng. Hai câu giữa này có khi mở rộng lên chín, mười câu hoặc nhiều chục câu.


Về ca từ chúng ta chú ý:


a. Câu láy


Không phải khổ hay đoạn vè nào trong một bài vè hát giặm cũng có câu láy lại. Ý nghĩa chính của câu láy lại là để nhấn mạnh cái ý của đoạn hay khổ vừa nói. Nhưng chúng tôi cho rằng, đó là tiếng vang vọng (écho) của núi rừng. Điều này cắt nghĩa, hát giặm xứ Nghệ ra đời từ xa xưa, khi con người còn sống ở nơi núi rừng có nhiều vách đá cheo leo, như đã nói trên.


b. Câu mở đầu và câu kết thúc


Nhiều bài hát giặm mở đầu bằng câu lục bát rồi mới tiếp theo là những câu 5 chữ hoặc 4 chữ. Thí dụ như bài "Nghe tiếng tài hát giặm"
Cây cỏ lá đề,
Nghe tiếng tài hát giặm
Bạn mới về tới đây,
Ngồi ghế trúc, ghế mây,
Ngồi ghế tàu chạm lộng.
Kết thúc cũng thế, có bài câu cuối cũng vẫn 5 chữ, có bài câu cuối cùng sáu, bảy, tám chữ, có bài là câu lục bát.


2.5. Làn điệu hát giặm


Thường có hai làn điệu là: hát ngâm và hát nói: Hát nói là cơ bản, phần chủ yếu của âm nhạc hát giặm. Hát nói của hát giặm tạo cho người nghe một cảm giác đều đều, chắc gọn, nặng nề. Phương ngữ xứ Nghệ có câu:


Dại nhất là thổi tù và,

Thứ nhì hát giặm, thứ ba thả diều.


Mặc dù nó vẫn có vần, có âm, có tiết. Nó là một loại dân ca ở trình độ còn thô sơ, chưa đến mức độ điêu luyện, uyển chuyển, phản ánh cuộc sống phong phú, nhiều màu sắc của con người ở nơi đồng bằng trù mật, đô hội như hát ví. Cách hát của hát giặm thường chỉ ngân mà không rung, nét mặt, khuôn miệng khi hát không được tròn trĩnh xinh tươi cho lắm, nên phương ngữ xứ Nghệ còn có câu: "Hát giặm đồng đội, mặt to như cái nồi, còn ngồi hát giặm". Do đó, phải có hát ngâm.


Tuy là thứ yếu nhưng nó làm bài hát giặm đỡ khô khan, đỡ nhàm chán. Hát ngâm thường là câu lục bát và khi cắt giọng cũng gần như hát ví.
Đổng Chi cho rằng hát giặm "phản ánh tính chất một thứ lao động nào đó tương đối nhọc mệt, đều đều như đi đường, leo núi, giã gạo, v.v... hoặc phải chăng nó chịu ảnh hưởng của một công cuộc sinh hoạt hãy còn thô sơ, đơn điệu ở chỗ núi rừng". Điều này Giáo sư đã thống nhất với chúng tôi qua phần ý nghĩa của câu láy lại đã nói trên.
2.6. Về không gian văn hóa và thời gian văn hóa của hát giặm
Cũng tương tự như hát ví, khác chăng là không có thầy bày, thầy gà; không có hát đối - hát chọi, và thủ tục cuộc hát không chặt chẽ như hát ví, nói tóm lại là đơn giản hơn nhiều, câu văn mộc mạc hơn nhiều.


Trên đây là khái quát những nét cơ bản về hát ví và hát giặm xứ Nghệ.


III. HÒ


1. Hò là gì?


Hò là hô lên trong lúc làm một công việc gì đó nặng nhọc như kéo gỗ, kéo đá, đẩy xe bò lên dốc, gánh nặng đi đường xa, v.v...
Chức năng chủ yếu của hò là phục vụ công việc lao động, trợ ứng cho lao động. Lúc lao động nặng nhọc, người ta rất cần nhịp điệu và tiết tấu mang tính tập thể, tính cộng đồng để công việc được nhẹ nhàng hơn, đỡ sức cơ bắp hơn. Do đó mà cần phải có hò.


2. Hò ra đời từ bao giờ?


Các nhà nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian đều cho rằng: "Hò là những bài ca lao động, trợ ứng cho lao động, ra đời từ thời kỳ phát triển rất sớm của nhân loại và đóng vài trò quyết định trong việc xuất hiện của sáng tác thơ ca" (K.Biukhơ). Những bài ca lao động như hò được sản sinh ra một cách trực tiếp từ quá trình lao động, gắn liền với nhịp điệu lao động và cảm hứng lao động. Trong lao động, nhịp điệu rất quan trọng. Nhịp điệu là đặc trưng của động tác lao động.


3. Các loại hò ở xứ Nghệ

Có thể kể:

- Hó kéo gỗ, kéo đá.

- Hò leo núi.

- Hò bơi thuyền.

- Hò khoan đi đường.

- Hò kéo lưới.

- Hò ra khơi, còn gọi là hò ruốc tôm canh.

- Hò nện đất hay còn gọi là hò đầm đất.

- v.v...


4. Cách thức hò

Có 2 phần:

- Phần "Kể" hay "Xướng". Phần này thường là một câu ca do một người xướng lên, hát lên.

- Phần "dô" là một tiếng hoặc một câu ngắn do tập thể những người cùng lao động hưởng ứng mà "hò lên", như "hự", "dô ta", "hò khoan", "ấy mời hò khoan", v.v...

5. Lời ca của hò


Như vừa nói trên thường là câu lục bát hay những câu 4 chữ, 5 chữ. Nội dung những câu này thường thích hợp với loại hình lao động, hoàn cảnh lao động. Nhưng Biukhơ trong cuốn "Lao động và nhịp điệu" khi phân tích những bài ca lao động thường chú trọng vào ý nghĩa thuần túy sinh lý của nhịp điệu tức là những câu hát. Ông cho rằng, chính những câu như vậy mới gây cảm hứng lao động, tăng sức mạnh cho cơ bắp. Dân ta kéo gỗ thường hò câu:
Kéo gỗ thì phải có đà,
Đàn ông dập xuống, đàn bà ưỡn lên.
Chính qua lời ca của hò mà phát sinh thêm chức năng của hò, của những bài ca lao động như chức năng tố cáo, chức năng đấu tranh. Ví như câu:

Có ông bang tá xã ta,

Thấy dân kéo gỗ đi qua nghe hò.

Hò rằng bang mủng bang mo,

Thấy cô vú dảnh, bang mò ăn đêm.

Chẳng thế mà hò có câu:

Thiên lý quan san, vạn lý quan san,

Câu hò "khoản ấy" gỗ băng ngàn gỗ đi.

Và ở xứ Nghệ ở đâu có hò kéo đá, kéo gỗ thì người đi xem rất đông. Họ đi xem để nghe câu hò "khoản ấy", rất nhiều câu đụng đến ông nọ bà kia trong làng xã.

Về hò tôi xin dừng lại ở đây.


B. GIÁ TRỊ CỦA DÂN CA HÒ, VÍ, GIẶM XỨ NGHỆ
1. Dân ca ví, giặm và hò: Đặc biệt ví, giặm là một tài sản văn hoá phi vật thể cổ truyền, lâu đời; một thổ sản đặc biệt của xứ Nghệ. Nó do nhân dân xứ Nghệ sáng tạo ra. Nó là dân ca lao động, dân ca nghề nghiệp, dân ca trữ tình. Nhân dân Xứ Nghệ đã luôn sử dụng, phổ biến, lưu truyền và phát huy rộng rãi trong toàn vùng xứ Nghệ. Nó mang âm hưởng và sắc thái rõ ràng của xứ Nghệ. Khi làn điệu hát ví, hát giặm được cất lên thì không chỉ người xứ Nghệ mà người các địa phương khác trong toàn quốc đều biết ngay đó là của nhân dân xứ Nghệ. Ta có thể khẳng định: Bản quyền sáng tạo, sử dụng, lưu truyền và phát huy dân ca ví, giặm là nhân dân xứ Nghệ trong trường kì lịch sử. Đó là niềm tự hào của nhân dân xứ Nghệ. Điều đó là một chân lí, không cần tranh cãi.


2. Nhân dân xứ Nghệ trong quá khứ cũng như hiện tại đã nắm chắc lấy nó, coi nó là một phương tiện văn nghệ tự túc, để vui chơi giải trí, một tài sản tinh thần vô giá để thể hiện các quan niệm về cuộc sống về đấu tranh, chống các thế lực hắc ám; về thể hiện các mối quan hệ xã hội, quan hệ với tự nhiên; thể hiện ý chí, tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, nhất là hạnh phúc lứa đôi của mình,vv...


3. Dân ca ví, giặm xứ Nghệ như đã nói trên là phương tiện sinh hoạt văn nghệ tự túc của nhân dân lao động xứ Nghệ, nhưng bao danh sĩ, chí sĩ yêu nước, bao nhà khoa bảng có tên tuổi, bao trí thức bình dân trên đất Hồng Lam này, đã từng thức thâu đêm, tham gia hát ví, hát giặm với quần chúng lao động.

Có thể kể: đại thi hào Nguyễn Du, tiến sĩ Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Quýnh, danh sĩ Nguyễn Huy Hổ, ông hoàng tài ba trong làng ca trù Nguyễn Công Trứ, nhà ái quốc vĩ đại Phan Bội Châu, chí sĩ Vương Thúc Quý. Tắm gội với sinh hoạt văn nghệ quần chúng, họ đã làm sang trọng hai loại dân ca ví, giặm của quê hương, nhưng lại hấp thu được hương phấn của hai loại dân ca đó, nói cách khác là hai loại dân ca đó đã thầm lặng giúp đỡ họ và nhiều tác giả khác, sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ, làm sáng rực lâu đài văn học dân tộc, như Truyện kiều của Nguyễn Du, Hoa tiên truyện của Nguyễn Huy Tự, Mai Đình mộng kí của Nguyễn Huy Hổ, những bài hát ca trù phóng khoáng của Nguyễn Công Trứ, các bài văn, bài hát giặm vè động viên lòng yêu nước của Phan Bội Châu, vv...

Phải nói hát ví, hát giặm có giá trị như thế nào mới hấp dẫn, mới lôi cuốn các danh sĩ, chí sĩ, nho sĩ tham gia để sáng tạo nên các tác phẩm nói trên. Trong toàn quốc chưa thấy địa phương nào có loại hình dân ca lôi cuốn đông đảo các danh sĩ, chí sĩ, các nhà khoa bảng tham gia sinh hoạt như dân ca ví, giặm xứ Nghệ.

4. Trước cách mạng chưa rõ, từ sau Cách mạng tháng Tám, hai loại dân ca ví, giặm xứ Nghệ, về mặt nhạc điệu đã được nhiều nhạc sĩ khai thác chất liệu và âm hưởng của làn điệu, sáng tác nên nhiều ca khúc có giá trị, được nhiều ca sĩ, nhiều đoàn văn công và đông đảo quần chúng mến mộ như:
- Xa khơi của Nguyễn tài Tuệ;
- Tiếng hò trên đất Nghệ An của Tân Huyền;
- Giữa mạc Tư Khoa nghe câu hò Nghệ Tĩnh của Trần Hoàn;
- Đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh của Nguyễn Văn Tý;
- Nghe giọng đò đưa nhớ Bác của An Thuyên;

- Trông cây lại nhớ đến Người của Đỗ Nhuận;

- V.v...


Các ca khúc ấy luôn vang lên trên các đài phát thanh truyền hình, các sân khấu nghệ thuật, các lễ hội và hội diễn văn nghệ, các làng mạc phố phường, nói tóm lại là khắp các nẻo đường đất nước. Có được những ca khúc tài ba ấy, làn điệu ví, giặm xứ Nghệ cũng đã thầm lặng giúp đỡ các nhạc sĩ.


5. Ngọn nguồn sáng tạo làn điệu là nhân dân mà ngọn nguồn sáng tạo ca từ tức phần lời cũng là nhân dân. Năm nọ qua năm kia, nơi này hoặc nơi kia hát, những lời ca đặt tại chỗ, ứng khẩu tại chỗ để hát ví, hát giặm; câu nào bài nào dở thì trôi đi, câu nào hay bài nào hay thì còn lại và được truyền tụng. và đã trở thành ca dao. Nguồn sáng tạo vô cùng về ca từ đó được lưu truyền mãi, để tôi (với sự giúp đỡ của học sinh, của nhiều người khác) đã sưu tập được hàng ngàn câu ca dao, hàng ngàn bài hát giặm nam nữ, hát giặm vè, trong đó có những câu những bài nói về lịch sử, về địa lí, về dân tộc, về triết lí cuộc sống, về phong tục tập quán ngoài đa số câu, đa số bài nói về tình yêu trai gái, về hạnh phúc gia đình. Đó là Kho tàng ca dao và Kho tàng vè xứ Nghệ mà bây giờ là cứ liệu của nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ.

6. Nếu như trước Cách mạng Tháng 8 dân ca ví giặm Nghệ Tĩnh xuất hiện loáng thoáng trong một số vở chèo do người xứ Nghệ sáng tác như chèo Kiều, chèo Đặng Xuân, chèo Thội Thao thì sau Cách mạng Tháng 8 dân ca Ví, Giặm xứ Nghệ và cả Hò nữa đã được một số người am hiểu sử dụng để sáng tác thành những vở kịch hát ngắn gọn mà ta thường gọi là tiểu phẩm như:
- Không phải tôi của Nguyễn Trung Giáp (1970);
- Khi ban đội đi vắng của Nguyễn Trung Phong (1971);
- Đầu bến sông của Trần Hữu Thung (1975);

- V.v...


Sau đó nó đã được sân khấu hóa thành một kịch chủng, cũng gọi là kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh tức là chuyển hóa từ hình thức diễn xướng dân gian lên hình thức diễn xướng chuyên nghiệp, có đạo diễn, có sân khấu với ánh sáng, hóa trang, trang phục.... trong một kịch bản mang tính chất tổng hợp có giá trị nghệ thuật cao hơn.
Từ ngày có kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh nhiều vở đã được công diễn ở Thành phố Vinh, ở Hà Nội, Hà Tĩnh, ở khắp làng quê xứ Nghệ, trên đài PTTH Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Nội; nổi tiếng là các vở:
- Cô gái Sông Lam của Nguyễn Trung Phong (1981);
- Đốm lửa núi Hồng của Thế Kỷ (1980);
- Mai Thúc Loan của Phan Lương Hảo (1984);
- Bão táp cửa Kỳ Hoa của Phạm Ngọc Côn (1986);

- V.v...


7. Dân ca ví giặm xứ Nghệ đã để lại bao nghệ nhân có tên tuổi. Họ là những người hát hay, sáng tác giỏi, ứng đối tài. Chúng tôi đã tạm chia nghệ nhân dân gian trong làng hát ví, hát giặm làm ba loại.


- Loại 1: là những nghệ nhân đã bước qua cửa Khổng sân Trình như Nguyễn Du, Nguyễn Huy Quýnh, Nguyễn Huy Hổ, Phan Bội Châu, Đinh Viết Thận, Tạ Quang Diệm, Phó bảng Trần Tiến Kỷ, Trần Thức Canh (Cả Canh), Đầu huyện Hiến,... Họ đều để lại những giai thoại tốt đẹp, một số người là danh nhân văn hóa dân tộc.


- Loại 2: là những sĩ phu yêu nước như Trần Tấn, Đặng Như Mai, Cao Thắng, Đề Kiểu, Đề Nam, Vương Thúc Quý, Bùi Chánh Lộ, Đặng Văn Bá,... Người nổi trội hơn cả vẫn là Phan Bội Châu. Họ đi chơi hát ví, hát giặm ngoài mục đích thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt văn nghệ, còn dùng câu hát để khêu gợi lòng yêu nước trong nhân dân.


- Loại 3: là những nghệ nhân thuần túy như bà Chánh Diên, Cô Nhẫn, ông Hàn Sách, ông Bộ Thân, bà Cháu Ban, Dái Kình, Hoàng Thị Lượng, Can Giạ, Tiu Hào, Sĩ Đường...


Chính họ là những người tài hoa đã diễn xướng giỏi, thường làm nòng cốt cho bao cuộc hát và đã truyền dạy cho bao lớp cháu con về hát ví hát giặm. Chúng ta quá lơ là về họ, gần đây Hội VNDG Nghệ An mới làm đơn xin công nhận và tôn vinh tám cụ nghệ nhân hát phường vải ở Nam Đàn. Còn Hà Tĩnh mới được bốn cụ.


8. Thấy rõ giá trị và sức sống của nó, về sưu tập nghiên cứu dân ca ví giặm xứ Nghệ đã có các công trình:


1. Hát giặm Nghệ Tĩnh của cố giáo sư Nguyễn Đổng Chi, Nxb. Tân Dân, Hà Nội, 1943, (300 trang). Công trình ra đời năm 1963, 1964 được Nxb Khoa học, nay là Nxb KHXH tái bản dày 900 trang (2 tập), có sự cộng tác của Ninh Viết Giao.


2. Hát ví Nghệ Tĩnh của Nguyễn Chung Anh, Nxb Văn Sử Địa - Hà Nội, 1958 (146 trang). Công trình này bước đầu giới thiệu khái quát về Hát ví Nghệ Tĩnh.


3. Hát phường vải của Ninh Viết Giao, Nxb Văn học - Hà Nội, 1961, đã tái bản đến lần thứ năm (483 trang). Công trình này đi sâu nghiên cứu một loại hát ví đặc sắc ở xứ Nghệ như tên của nó là Hát phường vải.


4. Âm nhạc dân gian xứ Nghệ của Lê Hàm, Hoàng Thọ, Thanh Lưu, Lê Hàm chủ biên. Hội VNDG Nghệ An ấn hành năm 2000 (550 trang) trong đó có ví, giặm, hò.


5. Hát phường vải ở Trường Lưu của Vi Phong và Phan Thư Hiền, Sở VH - TT nay là Sở VH - TT - DL Hà Tĩnh ấn hành năm 1993 (163 trang). Công trình này cũng đi sâu nghiên cứu giới thiệu ví phường vải ở làng Trường Lưu, huyện Can Lộc.
Tóm lại, với giá trị đích thực, tốt đẹp, bền vững của nó; dân ca hát ví, hát giặm xứ Nghệ đã được nhân dân xứ Nghệ tôn trọng, bảo tồn và phát huy bằng nhiều cách. Cái gia tài văn hóa phi vật thể này vẫn lưu lại không chỉ trên cửa miệng, trên sách báo, trên các phương tiện thông tin đại chúng mà trong hơi thở, trong máu của người Xứ Nghệ.

NguyenDacSongPhuong


vua Tao Đàn Thanh Hải
Tinh túy nhạc cổ truyền Việt Nam tại Paris
Hội Về Nguồn đưa đờn ca tài tử đến Paris
 

Những hình ảnh về thành phố Cần Thơ năm 2012 của Le Thanh Hoang Dan

Cần Thơ: Hình ảnh bến Ninh Kiều buổi tối


Xin chia sẻ với các bạn một số hình ảnh bến Ninh Kiều vào buổi tối. Đây là một thắng cảnh nổi tiếng của Cần Thơ. Người Việt Nam mình có hai câu thơ sau đây về bến Ninh Kiều:
Cần Thơ có bến Ninh Kiều
Có dòng sông đẹp với nhiều giai nhân.












Bến Ninh Kiều buổi tối rất vui. Tài tử giai nhân Cần Thơ đua nhau đi dạo dọc bờ sông Hậu, gió sông thổi hiu hiu mát mẻ dễ chịu. Đặc biệt ở đây có nhiều gánh hàng rong, vui lắm.







 
 

No comments: