Tuesday, April 11, 2017

BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 466

Thursday, May 4, 2017



PHẠM TRẦN * HÒA HỢP

Hoà giải với ai - hoà hợp cái gì?

Phạm Trần (Danlambao) - Cuộc chiến đánh phá Việt Nam Cộng Hòa do đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) chủ động đã kết thúc 42 năm, nhưng tại sao dân tộc Việt Nam vẫn còn chia rẽ nghiêm trọng và ước mơ đòan kết tòan dân để xây dựng đất nước hãy còn xa vời?

Tìm câu giải đáp thỏa đáng cho câu hỏi này không khó, vì trách nhiệm hòan tòan thuộc phe thắng trận là đảng CSVN, được Nga-Tầu sử dụng đánh Mỹ thay cho họ ở chiến trường miền Nam.
Nguyên Tổng Bí thư đảng Cộng sản Lê Duẩn đã nhìn nhận như thế dù trên lý thuyết nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước 1975 vẫn tuyên truyền chiến tranh trong Nam là cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước”.
Câu nói để đời cho đảng CSVN của Lê Duẩn là: "Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta."
Chưa bao giờ đảng và nhà nước CSVN dám cải chính câu nói này, do Nhà văn Vũ Thư Hiên ghi lại trong Tác phẩm “Đêm Giữa Ban Ngày” do nhà xuất bản Văn Nghệ in và phát hành năm 1997 (trang. 422, phần chú thích). 
Cũng thật trớ trêu cho lịch sử, ông Hiên là con trai cụ Vũ Đình Huỳnh, một thời gian dài là bí thư của ông Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng cả hai cha con sau đó bị công an bắt bỏ tù vì nghi tham gia vào phong trào được gọi là “xét lại chống Đảng” (1967-1976) . Nhà văn Vũ Thư Hiên bị tù 9 năm từ Hỏa Lò qua các nhà tù Bất Bạt (Sơn Tây) và Tân Lập (Phú Thọ), Phong Quang (Hoàng Liên Sơn). Ông từng bị biệt giam trong xà lim 4 năm rưỡi. Hiện ông sống tị nạn chính trị ở Pháp.
Nhưng không cần phải đợi đến tiết lộ của Nhà văn Vũ Thư Hiên, người Việt Nam nào cũng biết cuộc chiến nồi da xáo thịt dài 20 năm, chuẩn bị từ 1954 để phát động từ 1955, (1955-1975) ở miền Nam , thực chất chỉ là “cuộc chiến đánh thuê” cho Nga-Tầu của Cộng sản miền Bắc (nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) chống miền Nam không Cộng sản của Việt Nam Cộng hòa.
Tổn thất đồng minh Bắc-Nam
Nhưng để vuốt mặt cho khỏi xấu hổ, miền Bắc Cộng sản đã lấy cớ “chống Mỹ” để xua quân đánh chiếm miền Nam sau khi miền Nam phải nhờ vào sự yểm trợ của trên nửa triệu quân Mỹ (khỏang 541.933) và quân của các nước đồng minh gồm Nam Hàn, Phi Luật Tân, Thái Lan, Tân Tây Lan và Úc Đại Lợi để tự vệ chống quân xâm lược miền Bắc.
Miền Bắc không có quân đội của khối Cộng sản, do Nga-Tầu điều binh khiển tướng trực tiếp tác chiến bên cạnh quân miền Bắc ở các mặt trận trong Nam hay trên các tuyến xâm nhập đường Mòn Hồ Chí Minh qua Ai Lao, Cao Miên, hay “đường mòn Hồ Chí Minh trên biển” (sử dụng ven biển để xâm nhập vào Nam) , nhưng các chuyên viên quân sự và cố vấn Nga-Tầu và các nước chư hầu của Nga trong khối Liên bang Xô Viết cũ đã có mặt ở miền Bắc trong suốt 20 năm chiến tranh xâm lăng miền Nam.
Theo Bách khoa Tòan (BKTT) thư mở thì đã có "khoảng 6.000 quân nhân Xô Viết tham gia vào Chiến tranh Việt Nam với vai trò cố vấn kỹ thuật và huấn luyện; 16 trong số đó thiệt mạng do bệnh tật hoặc tai nạn."
Phía Trung Hoa có 1.446 công binh bị chết (phần lớn do bệnh tật hoặc tai nạn), trong khi Bắc Hàn (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên có 14 phi công chết, 2 cố vấn bị thương.
Nhưng nếu hai khối Cộng sản Nga-Tầu không cung cấp lương thực, quần áo và súng đạn cho miền Bắc theo đuổi cuộc nội chiến để gây thảm họa cho nhân dân miền Nam thì ngày nay đã không có hận thù Nam-Bắc và không có chia rẽ dân tộc.
Tổn thất Mỹ-VNCH và dân thường
Về tổn thất của Hoa Kỳ, BKTT ghi nhận có 58.209 quân nhân tử thương, 153.303 bị thương và 1.948 vẫn còn ghi là mất tích.
Phía các đồng minh khác của VNCH gồm quân đội Nam Hàn có 5.099 tử trận, 11.232 bị thương và 4 mất tích trong chiến đấu. Phi Luật Tân bị 552 tử trận; Thái Lan có 351 chết và 1.358 bị thương; Úc Đại Lợi bị khoảng 500 chết, bao gồm 426 chết trong chiến đấu và 76 chết vì các nguyên nhân khác. Cuối cùng là Tân Tây Lan với 55 lính tử trận và 2 dân thường.
Về tổn thất của 2 phía người Việt Nam trong cuộc chiến, tài liệu của BKTT viết: "Số liệu chính thức về thương vong của phía Việt Nam được chính thức công bố gần đây nhất là: 

Theo tài liệu Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia của nhà nước CSVN thì phiá miền Bắc có:

- 1,1 triệu quân nhân chết; trong số đó có 300.000 quân nhân mất tích (chưa tìm được xác)

- 600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh.”
Tổn thất của Quân lực VNCH được ước tính có 300.000 tử trận hoặc mất tích và 1.170.000 bị thương.
Vể tổn thất của người dân, BKTT ước tính: "Có từ 900.000 đến 4.000.000 dân thường chết: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (Cộngh sản) Việt Nam đưa ra con số này vào ngày 3 tháng 4 năm 1995], hai triệu thường dân tại miền Bắc và hai triệu tại miền Nam đã chết khoảng giữa năm 1954 và 1975. Con số tổn thất dân sự của miền Bắc có thể là hậu quả của các chiến dịch ném bom của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam."
Ngoài số thương vong, BKTT cũng báo cáo còn có: "Hơn 2 triệu thường dân mang thương tật suốt đời; Khoảng 2 triệu người (gồm cả quân nhân) bị phơi nhiễm các loại hóa chất độc hại."
Với những tổn thất và đổ vỡ như thế thì phe nào trong cuộc chiến phải có bổn phận hàn gắn vết thương dân tộc? Chẳng lẽ lại là phe người miền Nam, nạn nhân của cuộc xâm lăng từ miền Bắc?
Thế nhưng trong 42 năm qua, đảng và nhà nước CSVN đã không biến ăn năn hối lỗi để tạ tội với nhân dân. Ngược lại, họ đã có hành động và ngôn ngữ "bới đống tro tàn tìm máu đổ" để chạy tội và vụ lợi.
Từ nghị quyết 36 đến dối trá
Tiêu biểu là Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004
"Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài".
Điều then chốt của NQ 36 là tuyên bố "Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam."
Từ quan điểm chính trị “vơ vào” này, đảng CSVN đã sử dụng mọi mánh khoé và hậu ý của ngôn từ để mồi chài và đánh lừa người Việt Nam ở nước ngoài nói chung và nói riêng những người Việt miền Nam đã chạy thoát chế độ hà khắc và kỳ thị Cộng sản chạy ra nước ngoài tìm tự do.
NQ 36 chủ trương: "Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc."
Nhưng thực tế thì khác. Đảng CSVN chỉ muốn người Việt ở nước ngoài, nhất là giới chuyên gia, trí thức và các nhà kinh doanh quay đầu về “hội nhập” vào guồng máy cai trị của nhà nước để giúp mở mang dân trí, ngành nghề, nhất là hai lĩnh vực khoa học và kỹ thuật để giúp Việt Nam phát triển theo đường lối và chính sách cai trị độc tôn và đôc quyền của đảng CSVN.
Vì vậy, nhà nước CSVN đã thất bại. Cho đến nay, sau 13 năm thi hành NQ 36, số trí thức về giúp nước chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nguyên do vì đảng đã coi thường trí thức không có đảng tịch, ganh tị và kỳ thị trí thức “kiều bào” và luôn luôn đặt cán bộ đảng học dốt, bằng dổm chỉ huy người có bằng thật và có kiến thức kinh nghiệm chuyên môn vuợt trội hơn.
Ngay đến các du học sinh theo học ở nước ngoài bằng tiền nhà nước Việt Nam cũng rất ít người muốn trở về phục vụ vì ở Việt Nam không có điều kiện và phương tiện cho họ hành nghề và phát triển kiến thức. Hơn nữa, dù có học giỏi và có bằng cao nhưng không là hậu duệ của con ông cháu cha, không quen biết, không nhờ cò hối lộ xin việc thì bằng cấp chỉ là thứ không đáng một đồng xu.
Trong lĩnh vực kinh doanh, con số doanh nhân Việt kiều về nước làm ăn cũng không nhiều và nếu có, chỉ tập trung vào các linh vực có lợi nhuận và kiếm lời nhanh như bất động sản và du lịch.
Lý do không có Việt kiều nào dám bỏ tiền đầu tư vào các dự án kinh tế lớn và bền vững vì nhà nước chỉ muốn bảo vệ các Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) để cho các phe phái và lợi ích nhóm có phương tiện ăn chia với nhau và để nuôi đảng.
Hơn nữa, nhà nước CSVN lại gỉa bộ không biết cái gía của tự do và dân chủ mà các trí thức Việt kiều và doanh nhân người Việt đã được hưởng ở nước ngoài nên khi họ về nước làm việc đã lập tức bị những con mắt cú vọ của Công an khu vực dòm ngó theo dõi từng bước đi mà lời nói, khiến có người vừa về Việt Nam đã muốn quay gót ra đi ngay.
Tình hình này cũng đã khiến không có mấy người Việt Nam, dù sống lâu năm ỡ nước ngoài, muốn quay về Việt Nam sống cho hết cuộc đời, dù biết phải đau lòng bỏ lại Việt Nam mồ mả của cha mẹ, anh em và Tổ tiên.
Từ thông tin đến xâm nhập
Về phương diện thông tin, NQ 36 chủ trương: "Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền, giúp cho người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng tình hình đất nước và chính sách của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài của đài phát thanh, truyền hình và Internet; chú trọng đổi mới nội dung, hình thức và kỹ thuật của các chương trình này. Hỗ trợ việc ra báo viết, mở đài phát thanh, truyền hình ở ngoài nước. Xây dựng thư viện trên mạng Internet để phục vụ cho người Việt Nam sống xa Tổ quốc. Hỗ trợ kinh phí vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hóa phẩm ra ngoài phục vụ cộng đồng."
Nhưng khi thi hành thì Nhà nước đã thất bại ê chề vì con số người Việt Nam ở nước ngoải, dù có coi báo đài trong nước hay các chương trình phát sóng ở nước ngoài cũng không mảy may thay lòng đổi dạ để “thay áo quốc gia bằng áo Cộng sản”.

Lý do vì các cơ quan truyền thông và báo của người Việt tị nạn ở khắp thế giới đã khuynh loát và nhấn sâu xuống bùn đen mọi nguồn thông tin không thật, dối trá và lươn lẹo” của Bộ Thông tin-Truyền thông và báo đài nhà nước.
Người Việt Nam sống ở nước ngoài, cũng như rất đông người Việt ở trong nước ngày nay đã thông minh, sáng suốt và nhạy bén với thông tin nhanh chóng và đúng sự thật của những “nhà báo lề dân” đang can đảm hoạt động chống lại thông tin một chiều và sai sự thật của báo “lề đảng”.
Bằng chứng là các mạng báo điện tử của người Việt không Cộng sản ở nước ngoài đã kết nối thành công và nhanh chóng với các nhà báo tự do, các blocger, các tổ chức xã hội dân sự và Face book trong nước để, chỉ trong nháy mắt, đã truyền tải đầy đủ tin tức và hình ảnh sự thật của biến cố trong nước đến người Việt Nam trên thế giới, và ngay cả ở Việt Nam.
Sự lép vế ngày một rõ ràng của báo chí nhà nước đã đẩy lùi NQ 36 vào sâu trong bóng tối trong cuộc chiến truyền thông giữa nhà nước Việt Nam và người Việt quốc gia ở nước ngoài.
Ngay cả đến công tác xâm nhập cán bộ vào các tổ chức Cộng đồng người Việt Nam, hoặc mồi chài tay sai để vu khống và phá họai hàng ngũ người Việt Nam ở nước ngoài cũng thất bại.
Nếu Ban Tuyên giáo, Bộ Thông tin và Truyền thông và Cục Chính trị quân đội không tin thì cứ hỏi Đại sứ Việt Nam ở Moscow, ông Nguyễn Thanh Sơn, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài xem ông ta đã nếm những thất bại chua cay như thế nào khi còn tại chức và trong các chuyến đi tuyên truyền cho NQ 36 ở Hoa Kỳ và Châu Âu.
Ai buồn-ai vui?
Nhưng trong hàng ngũ đảng CSVN sau 42 năm Sài Gòn bị quân Cộng sản cưỡng chiếm, vẫn không thiếu những kẻ chỉ biết to mồm khoe chiến thắng để chia rẽ dân tộc và xuyên tạc sự thật.
Điển hình như các cuộc biểu tình đấu tranh tranh đòi đền bù công bằng và đòi đóng cửa Fomosa để bảo vệ môi trường của đồng bào Hà Tĩnh, Nghệ An và Qủang Bình từ đầu năm 2017 đã bị Công an đàn áp và chống phá. Báo đài Hà Tĩnh và báo lề đảng đã xuyên tạc các cuộc tranh đấu hòa bình là phá rối an ninh trật tự và cuộc sống thanh bình của người dân. 
Người dân, các Linh mục lãnh đạo biểu tình và Đức cha Nguyễn Thái Hợp, vị chủ chiên của đồng bào Công giáo địa phận Vinh còn bị vu khống và buộc tội nhận sự yểm trợ tài chính và tinh thần của cái mà Công an và báo đài nhà nước gọi là “các thế lực thù địch bên ngoài”.
Rồi các cuộc khiếu kiện đền bù của người dân bị cuỡng chế đất đai, tiêu biểu như vụ Đồng Tâm, cách Hà Nội 40 cây số cũng đã bị đàn áp, bắt tù người tranh đấu vô tội.
Như vậy thì hòa hợp, hòa giải được với ai? Ngay đến đồng bào trong nước mà còn bị kỳ thị, bị cai trị bằng dùi cui và công an đội lốt côn đồ đánh phá, tấn công ở bất cứ đâu và không trừ ngày hay đêm thì làm sao mà những nạn nhân của ngày 30/4/1975 có thể quên được những khổ đau và đọa đầy mà đảng CSVN đã gây ra cho đồng bào miền Nam trong 42 năm qua?
Trong nỗi bất hạnh này là chính sách kỳ thị man rợ của nhà nước CSVN đã áp dụng trong mọi lĩnh vực, kể cả xin việc làm và giáo dục, chống lại con cháu của những người của chế độ VNCH.
Nhưng trong 42 năm qua, liệu có khi nào lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN ở Hà Nội biết nếm nỗi đắng cay của những gia đình người miền Nam có hàng trăm ngàn thân nhân bị bắt đi tù lao động cực hình, hay đã bỏ thây trong các trại tập trung được mạo danh là “cải tạo học tập”?
Hoặc có bao giờ họ thấu được nỗi oan khiên của hàng chục ngàn đồng bào, được thế giới gọi là “thuyền nhân” (boat people) đã chết tức tưởi và ô nhục trên đường vượt biển tìm tự do sau ngày quân Cộng sản miền Bắc vào Sài Gòn, 30/4/1975?
Tất cả những hình ảnh bi thảm này của người dân miền Nam vẫn sống động như mới xẩy ra hôm qua.
Và cuối cùng, những người Cộng sản ngày nay, nếu còn sót dòng máu Việt Nam trong cơ thể thì nên bình tĩnh chiêm nghiệm di chúc của Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã để lại cho họ:
"Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu." (Phỏng vấn của báo báo Tổ Quốc, ngày 31/03/2005)
Như vậy thì liệu Lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN có nên tự xét mình xem họ đã làm được gì để hàn gắn vết thương dân tộc hay chỉ biết gây ra những chia rẽ mới?
(05/016)

NGUYỄN AN DÂN * ĐỔI MỚI

04/05/2017


“DÙ CÓ TRẢ GIÁ CŨNG PHẢI TIẾN HÀNH ĐỔI MỚI 2”

Nguyễn An Dân
Ai sẽ tiến hành “đổi mới lần 2” ?

1/ Ai sẽ tiến hành “đổi mới lần 2” ?
Đó là hàm ý của ông Lê Kiên Thành, con trai ông Lê Duẩn trong bài viết “nghĩ về cuộc đổi mới lần 2” đăng trên báo CAND ngày 19/2/2017 [1]. Trong đảng gọi là đổi mới 2 – đổi mới chính trị, còn Mỹ và nhân dân VN gọi nó là “chuyển hóa”.  Bài viết được đăng trên cơ quan ngôn luận của ngành công an, do đó có thể hiểu đây cũng là một phần quan điểm của Bộ trưởng công an Tô Lâm và xa hơn là tiền nhiệm bộ trưởng, ông Trần Đại Quang.
Chúng ta cần nhớ lại những kinh nghiệm lịch sử, câu chuyện Hungary không thể chuyển hóa  sau nhiều lần trì hoãn vì bị Liên Xô hăm dọa tấn công là điều cần tham khảo.  Mãi đến khi 1989, lúc Liên Xô suy yếu thì Hungary mới chuyển hóa được dù đã trồi lên thụt xuống trước đó khoảng 10 năm.
Chuyện này một lần nữa đang lặp lại ở Việt Nam. Hãy nhớ lời thượng nghị sĩ Mỹ John McCain khi ông thăm Hà Nội vào năm 2014 “Vì Trung Quốc hạ đặt giàn khoan, chúng ta phải nhanh lên”. Từ “chúng ta” ở đây nói rộng là quan hệ Việt-Mỹ, nói hẹp là tư thế đại diện cho Mỹ của McCain nói với nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Lá bài giàn khoan HD-981 khi đó được thảy lên bàn cờ Việt –Trung chính là lời đe dọa của Trung Quốc khi muốn đè nén xu hướng đổi mới chính trị do ông Nguyễn Tấn Dũng thúc đẩy.
Nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “thua cuộc” tại Đại Hội 12 phần lớn đến từ sự đe dọa của TQ sẽ tấn công Việt Nam nếu ông có thể lên làm tổng bí thư. Phát biểu của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng “nếu có va chạm ở Biển Đông, chúng ta có thể yên ổn mà tiến hành hội họp được không? ” sau khi tái cử ở Đại Hội 12 là một bằng chứng cho sự đe dọa đó. Trong bối cảnh chính sách “cải lương” của Obama  với Trung Quốc đang là xu hướng lúc đó, việc Mỹ đứng sau Việt Nam khi TQ nổ súng là điều khó khả thi. Một lần nữa trong bàn cờ khu vực, Việt Nam lại bị phụ thuộc và đánh mất cơ hội thay đổi của mình.
Chúng ta có thể thấy rõ sau khi ông Dũng về hưu, trong đảng có sự chuyển dịch vai trò. Quyền lực của vị trí thủ tướng trong đối ngoại và đối nội thay vì thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc kế thừa theo truyền thống thì nay có sự thay đổi mạnh mẽ. Nó chuyển sang vị trí chủ tịch nước của ông Trần Đại Quang.  Sự thỏa thuận rút lui của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã làm xong vai trò chiến thuật của nó. Đó là giữ cho Việt Nam yên ổn để “chờ Trump và chờ Mỹ”, là để ông Trần Đại Quang kế thừa đường lối của mình. Tôi gọi những gì ông Trần Đại Quang đang làm là “theo đường lối của Dũng mà không có Dũng”.
Nghĩa là giờ đây, ông Trần Đại Quang tiếp tục thúc đẩy chính sách thân Mỹ và thực hiện “đổi mới 2” do ông Dũng khởi xướng. Điều này đã được Mỹ chứng minh qua việc ông Quang chủ trì chính khi tiếp Obama và nhận lá thư do Trump gửi [2], chứ không phải thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.  Ông Trần Đại Quang đã có cái mà năm xưa ông Nguyễn Tấn Dũng không có. Đó là việc Mỹ -Việt đã kêu gọi 2 trục đồng minh Mỹ-Anh-Pháp và Nhật-Úc-Ấn-Việt quay trở lại để ngăn cản Trung Quốc bành trướng ở Biển Đông.  Trong bối cảnh nếu xu hướng đổi mới – thân Mỹ trong đảng lúc này thắng thế, việc TQ còn dám đe dọa Việt Nam nữa là điều Trung Quốc sẽ phải thận trọng hơn nếu không muốn trả giả nặng nề.
Tàu hải cảnh Trung Quốc hung hãn đâm thẳng vào tàu Cảnh sát biển Việt Nam ngay trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam, gần nơi Trung Quốc hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan 981
Trong bối cảnh đó, Hội Nghị Trung Ương 5 chuẩn bị khai mạc, là hội nghị bản lề để tiến tới bàn bạc nhân sự ở hội nghị TW 6 vào cuối năm. Hãy nhớ lại cũng ở mốc này ở khóa 11 của đảng 6 năm trước, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thoát kỷ luật đảng để thấy nó quan trọng với đảng như thế nào. Và thay cho ông Dũng thì là ông Đinh La Thăng lần này bị mang ra Ban Chấp Hành TW “mổ xẻ”.  Dù ông Dũng từng có chỉ đạo phải xử lý sai phạm ở tập đoàn dầu khí VN thời ông Thăng còn là chủ tịch, nhưng đó là quan hệ cộng việc, chứ ông Thăng vẫn là người được coi là gần gũi với ông Dũng.
Ít nhất là khi phát biểu ủng hộ Bob Kerrey qua VN làm chủ tịch Fullbritgh bất chấp “quan điểm ngầm” mang tính phản đối của phái bảo thủ khi đó (chỉ đạo báo Tuổi Trẻ tháo bài phát biểu của ông Thăng), ông Thăng cho thấy ông vẫn là người cùng giữ gìn đường lối của ông Nguyễn Tấn Dũng.
2/ Những gì chủ tịch Trần Đại Quang đang muốn
Ông Trần Đại Quang là người được ông Dũng cơ cấu ủng hộ và đưa vào đường lối thân Mỹ từ khi ông còn chưa là bộ trưởng. Hãy nhìn Bộ Công An đã và đang cải cách theo mô hình cơ quan an ninh của Mỹ từ 10 năm nay  để thấy quyết tâm đổi mới của ông.
Điều này càng được khẳng định thêm khi chính ông Trần Đại Quang là người thực hiện việc ngăn chặn sự quá đà trong quan hệ quốc phòng  Việt - Trung của cựu bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh trong quá khứ.
Từ khi là chủ tịch nước, ông Trần Đại Quang thúc đẩy dần việc đặt hiến pháp cao hơn đảng pháp, ví dụ như đề cao vai trò của hội đồng quốc phòng an ninh theo đúng tinh thần hiến pháp quy định, cũng như thúc đẩy việc chuyển giao quyền lực cầm nắm quân đội từ quân ủy trung ương sang cho chủ tịch nước, đúng với bản chất danh xưng “tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang” của chức danh này. Chúng ta có thể thấy rõ xu hướng này từ phát biểu ủng hộ việc mở rộng quyền cho chủ tịch nước từ các đại biểu quốc hội tiến bộ ở nghị trường trong năm 2016.
Trong tư thế đó, ông Quang bước vào Hội Nghị TW 5. Một hội nghị theo tôi đánh giá là khá căng thẳng, nó quyết định “mức án” mà hội nghị TW 6 sẽ tuyên cho ông Đinh La Thăng, bên cạnh đó, ông Quang còn nói với cử tri sẽ xem xét sửa đổi Luật Đất Đai (vụ Đồng Tâm) và ban hành Luật Biểu Tình đúng quy trình, thận trọng nhưng sẽ làm.  Ông Quang đang thúc đẩy đảng phải làm rõ những vấn đề xưa nay đảng có xu hướng tránh né. Trong buổi tiếp xúc cử tri mới đây nhất, ông Quang còn nói “chúng ta giữ kỷ cương, pháp luật nhưng phải để phát huy dân chủ cơ sở”.
Hội Nghị TW 5 cũng sẽ bàn về nhất thể hóa chức danh bí thư và chủ tịch ở cấp tỉnh. Nếu đảng làm điều này là để giảm chi phí, tinh gọn bộ máy trong bối cảnh ngân sách đất nước đang khó khăn thì cá nhân ông Quang cũng muốn làm điều này để về sau đảng có thể nhất thể hóa chức danh tổng bí thư và chủ tịch nước. Tuy nhiên, lâu nay Trung Quốc chưa bao giờ muốn VN tiến hành nhất thể hóa ở cấp tối cao.
Hội nghị TW 5 của đảng sẽ bắt đầu với những vấn đề gai góc, căng thẳng, chưa có tiền lệ như thế. Trong trạng thái mọi thứ đều “tĩnh” nhưng không hứa hẹn điều gì khả quan, thì bất kỳ sự thay đổi nào cũng sẽ sinh ra thách thức và cơ hội, vấn đề là lực lượng đổi mới có quyết tâm như ông Lê Kiên Thành nói hay không?
Tôi mong là ông Trần Đại Quang, dù xuất thân từ lực lượng xưa nay “bảo hoàng hơn vua” nhưng sẽ bước vào hội nghị TW trong khí thế và tinh thần quyết tâm kế thừa đường lối cải cách của nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.  Điều đó phù hợp với tâm tư của quần chúng nhân dân, của các đảng viên yêu nước và cả chiến lược hợp tác Việt –Mỹ.
Tổng tham mưu trưởng quân đội Mỹ, đại tướng Martin Demsey đã từng nói khi đến thăm VN vào năm 2014 [3] “chúng ta hãy nhìn vào quan hệ Việt Mỹ ở 50 năm nữa”. Muốn đạt được mốc đó, bắt đầu từ bây giờ đã là hơi muộn, nhưng có còn hơn không.
N.A.D.

MAI HIỀN * THÁNG TƯ

Tháng Tư, nhớ nao nao ánh mắt thẫn thờ




Diễn hành chiến thắng 30 tháng Tư tại Việt Nam. (AP Photo/Dita Alangkara)

Mai Hiền
Buổi sáng 30 tháng Tư của 42 năm trước, trong ngôi nhà trọ sinh viên đường An Dương Vương, Quận 5, tôi nhìn xuống đường. Sự ngột ngạt của chiến tranh gia tăng khủng khiếp từ mấy tháng trước ở thành phố Sài Gòn.
Đêm cũng như ngày, tiếng bom, tiếng súng dội về từ hướng sân bay. Tiếng đạn pháo như xé nát góc trời ngùn ngụt lửa cháy. Đám sinh viên ở trọ đã lo sợ nên về nhà gần hết. Tôi phải ở lại vì còn công việc chưa kết toán ở hãng. Lúc đó tôi là nhân viên tiếp thị của hãng kem đánh răng Perlon, tối mới cắp sách đến trường.
Không khí trên đường phố sáng hôm đó rất khác thường. Người xuôi, kẻ ngược, hối hả. Xe nhà binh giương cờ trắng từng đoàn chạy ngang. Ba lô, giày nhà binh, áo, mũ lính nằm lăn lóc dọc đường.
Chốc chốc, lại có từng đám người đi bộ gồng gánh, tay xách nách mang, không biết họ về đâu mà gương mặt đầy vẻ lo lắng, thất thần. Bà chủ nhà chực chờ bên chiếc Radio từ sáng sớm. Khi nghe tin cổng Dinh Độc Lập bị húc đổ sập, đài phát tiếng của Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng Cộng Sản, tay bà làm dấu Thánh Giá, giọng thảng thốt: “Vậy là mất nước rồi!”
Tôi không cảm nhận được ý nghĩa mất nước trong thái độ hốt hoảng của bà chủ nhà. Việt Cộng, tôi chỉ biết lờ mờ qua những tấm pano tuyên truyền được treo rải rác ở một số đường phố Sài Gòn, vẽ lại buổi đấu tố cải cách ruộng đất ở ngoài miền Bắc: Hình ảnh nông dân tố điền chủ, con tố cha, vợ tố chồng…
Nhưng điều đó cũng chưa làm tôi hình dung được chân dung Việt Cộng. Sự đe dọa của chiến tranh cũng không tác động gì nhiều đến tâm trạng của tôi, một cô gái hai mươi sáu tuổi chỉ biết đi làm, tối đến trường, thì giờ rãnh cùng bạn bè đi cà phê tán dóc. Bà chủ nhà ngồi bệt ở bật cửa thềm nhà, nói trống không với tôi, mắt thẩn thờ: “Năm 54, bỏ hết ruộng vườn tài sản chạy từ Bắc vô Nam trốn Việt Cộng, bây giờ Việt Cộng tràn vào biết đi đâu!”
Tôi không biết an ủi chị thế nào, chỉ ngồi cạnh người phụ nữ vốn vui tính và tốt bụng với đám sinh viên ở trọ.
Công ty tôi sau đó cũng bị tiếp quản trong chiến dịch đánh tư sản mại bản, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
Ngày tiếp quản, công nhân viên đứng tề tựu, đón chào ban quân quản. Tay tôi bỗng nổi da gà, gáy trở nên lạnh buốt khi thấy một nữ quân nhân (sau đó tôi mới biết bà tên Tuyết Minh) gương mặt nghiêm nghị, lạnh lùng, theo sau bà là đoàn lính khoảng 20 người.
Họ đi trong tiếng nhạc Tiến Quân Ca. Lần đầu tiên, nghe ca từ mà tim tôi đập thình thịch vì nội dung sắt máu của nó: “Thề phanh thây uống máu quân thù / đường vinh quang xây xác quân thù ...”
Sau đó chủ nhà máy phải giao toàn bộ tài sản, gồm máy móc nhà xưởng, chỉ được giữ lại gian nhà đằng sau khu vườn trồng lan để ở. Một chiến dịch cải tạo mang tên X2 tiếp theo không lâu. Gia đình chủ lại phải rời khỏi sở hữu cuối cùng là gian nhà ở của mình.
Công nhân viên chúng tôi bị bắt buộc học lớp chính trị do Ban Quân Quản trực tiếp giảng dạy, gồm một ông trưởng ban người Nam Bộ có giọng nói từ tốn, một ông phó ban Bắc Kỳ vẻ liến thoắng, lanh lợi. Chúng tôi ngồi nghe, há hốc mồm. Những gì các ông nói, vẽ ra một cảnh tượng chưa từng được nghe, thấy: Thiên đường Cộng Sản.
Là một người kém hiểu biết về chính trị, thời cuộc, tôi giống như một tờ giấy trắng, tiếp thu đầy hứng khởi những gì mà hai cán bộ quân quản tuyên truyền trong bài thu hoạch được đặt tên “Đi Về Phía Chân Trời” – Ở chân trời đó, sau khi đã hoàn thành thời kỳ quá độ xã hội chủ nghĩa, người lao động như chúng tôi sẽ tiến lên xã hội chủ nghĩa, làm chủ tư liệu sản xuất, làm chủ tập thể nhà máy, không bị chủ bóc lột và cuối cùng là đi vào thiên đường Cộng Sản, tức mọi người “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”…
Lúc đó, tôi cũng chưa hiểu làm thế nào họ đưa chúng tôi lên được chốn thiên đường Muốn gì có nấy đó. Bài thu hoạch đó đã được một anh phóng viên Báo Công Nhân Giải Phóng (Báo Người Lao Động hiện nay) đến phỏng vấn nhà máy, xem và đưa lên báo.
Tôi bước vào nghề báo bằng bài báo đầu tiên chứa đựng cảm xúc thật thà đó. Chỉ vài năm sau, qua những biến động xã hội, mà tôi là nhà báo có dịp tiếp cận thông tin, đường chân trời đẹp đẽ trong tôi dần tan biến.
Tôi cũng không ngạc nhiên khi một hôm gặp anh phó Ban Quân Quản, từng thao thao giảng cho chúng tôi về sự tốt đẹp của chế độ, đem lại sự ấm no cho người dân ngoài Bắc đang đứng ở chợ trời Huỳnh Thúc Kháng, thu gom hàng về ngoài đó bán kiếm lời. Xã hội lúc ấy xuất hiện câu vè “Miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng.” Nhận họ, để mong có sự dễ dãi, nương tay trong chính sách mở ra 150 trại tù, giam hơn một triệu sĩ quan, văn nghệ sĩ… dưới danh nghĩa học tập cải tạo. Nhận hàng: Là những cái truyền hình, quạt máy, xe Honda, vải vóc… phong phú, đầy ắp, choáng ngợp người dân miền Bắc đang thiếu thốn qua nhiều năm dài bế quan tỏa cảng.
Chỉ được ít lâu, miền Nam cũng cạn kiệt vì cơn lốc của hai cuộc cải tạo, rồi hai cuộc đổi tiền, quét qua gần 7,000 xí nghiệp lớn nhỏ, một triệu cửa hàng. Miền Nam bắt đầu cuộc sống tem phiếu, khan hiếm lương thực như miền Bắc!
Thời đó phải nói đến sự nhanh nhạy của người Sài Gòn. Họ chế biến bột mì ra bánh mì và mì sợi bột mì và cao lương cũng được đem ra đổi lấy gạo, thét rồi hình thành chợ trời nhu yếu phẩm. Chợ trời tại Sài Gòn thời ấy cũng trở nên đông đúc vì bổ sung thêm đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, công chức bị đào thải, sĩ quan chế độ cũ vừa học tập cải tạo ra hoặc vợ của sĩ quan kiếm tiền mua đồ thăm chồng ở trại cải tạo hàng tháng .
Tôi cũng gặp lại Khánh Linh, nhỏ bạn học thân thiết thời trung học tại chợ trời thuốc tây trong chợ An Đông. Ôm nhau mừng mừng, tủi tủi, sau mười năm trời không gặp kể từ khi chúng tôi rời khỏi mái trường Phan Bội Châu, Phan Thiết – “Mày làm gì ở đây?” Nó chỉ cái sạp nhỏ trong mấy chục sạp chen chúc nhau bày lủ khủ thuốc tây đủ loại. Chồng nó, giáo sư ở trường đại học Nông Lâm Súc (hiện nay là trường Đại Học Nông Lâm), thất nghiệp vì không được chế độ mới trọng dụng, đang ngồi tìm thuốc cho khách. Nó cũng từng tốt nghiệp trường này trước biến động 30 tháng Tư một tháng. Cầm lá đơn xin việc là con của quận trưởng Phan Thiết, nó bị từ chối ngay ở cái liếc mắt vào sơ yếu lý lịch! Nhà ba má nó cũng bị chính quyền tịch thu vì cái chức Quận Trưởng, tức “nguỵ quyền,” mặc dù ông cụ đã về hưu hơn mười năm trước đó.
Hôm buộc giao nhà, có sự đôi co qua lại, bất thình lình, một thằng cán bộ phường, tuổi khoảng 20, thẳng tay tát ba nó, một ông già đã hơn 70, đứng sững sờ như trời trồng. Vợ chồng bạn tôi vượt biên nhiều lần thất bại vì bị gạt có, bị lộ có, từng bị bắt giam một năm, phải buôn bán thuốc tây kiếm sống và kiếm tiền để tiếp tục vượt biển. Hiện nay vợ chồng nó đã định cư ở Úc.
Ba má của chị dâu tôi, tôi vẫn gọi là dì Ba vì hai gia đình cha mẹ là bạn bè thân thiết, lớn lên kết sui gia, vốn là “hàm hộ” nước mắm nổi tiếng ở Phú Hài, Phan Thiết, thuộc diện phải cải tạo công thương nghiệp, bị tịch thu toàn bộ xưởng sản xuất nước mắm, nhà ở.
Nghe kể, hôm buộc giao nhà xưởng cho chính quyền, vợ chồng dì Ba ra đứng ở một góc đường, nhìn lại rất lâu những gì đã gầy dựng từ hai bàn tay trắng. Ngôi nhà ít lâu sau được phân cho cán bộ. Xưởng nước mắm Nhà Nước đứng tên, thay bảng hiệu. Một đêm, ông bà lẳng lặng ẳm một cháu nội và một cháu ngoại vượt biển. Ơn trời, chuyến đi trót lọt. Sự may mắn không dễ có, khi hàng vạn người đã bỏ xác ở biển khơi, nơi rừng sâu và các trại tị nạn trong trùng trùng triệu người cố bám vào những con tàu lớn, nhỏ với nỗi khao khát được nhìn thấy chân trời tự do.
Anh chị tôi không đành lòng về thằng con trai nhỏ, mới chừng ấy tuổi đã lìa cha mẹ, lại buồn vì thời thế thay đổi, không còn đất sống, sau khi anh tôi là Sĩ Quan Thiết Giáp từ trại cải tạo về, hai ông bà lại vét những đồng tiền dành dụm, góp cho chủ tàu và liên tục nếm mùi thất bại từ những chuyến vượt biển. Có lần suýt bị bắt, anh chị tôi chạy bán sống bán chết, may nhờ ngư dân Phú Hài chở che, cho ẩn nấp qua đêm. Mãi đến khi giấy bảo lãnh của cha mẹ chị dâu đến San Jose, Bắc California, có hiệu lực thì đã qua 13 năm. Ông bà ngoại qua đời, đứa cháu ngoại bơ vơ, thiếu tình thương gia đình trong một thời gian dài.
Sự bùng nổ của Internet và các mạng xã hội làm cho người dân Việt bình thường như tôi hiểu tường tận về sự thật lịch sử sau bốn mươi hai năm Đảng Cộng Sản cầm quyền. Nhà Văn Dương Thu Hương khi đặt chân đến Sài Gòn sau ngày 30 tháng Tư, đã phải khóc: “Nền văn minh đã thua chế độ man rợ.” Nghệ sĩ Kim Chi sau một thời gian cũng đã hiểu ra: “Đảng nói dzậy mà không phải dzậy.” Còn tôi và những con người từng sống ở miền Nam, từng hít thở không khí của tự do, dân chủ, lại càng thấy rõ sức tàn phá, hủy hoại ghê gớm của Đảng Cộng Sản đối với đất nước này.
Miền Nam với đồng bằng sông Cửu Long, đồng ruộng bát ngát, thẳng cánh cò bay, nông dân no ấm, yên tâm làm chủ mảnh ruộng của mình qua chính sách cải cách điền địa và người cày có ruộng. Hồi đó, tôi nhớ đã được ăn các loại gạo có tên mười hai thứ Nàng dẻo thơm danh tiếng lẫy lừng, bây giờ không còn tìm thấy.
Cũng khẩu hiệu người cày có ruộng, ở miền Bắc, Đảng Cộng Sản chiêu dụ nông dân để giành chiến thắng trong Cách Mạng Tháng Tám, nhưng sau đó nối gót Trung Quốc, thực hiện cuộc đấu tranh giai cấp thảm khốc với cải cách ruộng đất, rồi đất đai thuộc về Sở hữu toàn dân, do Nhà Nước quản lý. Nhà nước là đại địa chủ, chính quyền các cấp có nhiều hình thức “thu tô.”
Sau 30 tháng Tư, nông dân miền Nam cùng chung số phận tá điền của Nhà Nước như miền Bắc. Sự lạc hậu của chính sách kinh tế, quản lý đất đai đã khiến nạn tham nhũng tràn lan, bị Tổ Chức Minh Bạch thế giới xếp thứ hai về nạn tham nhũng ở Châu Á. Chính quyền ngoéo tay với nhà đầu tư dự án, nông dân phải rời ruộng đất với giá đền bù rẻ mạt. Dân oan mất đất, mất ruộng nổi lên khắp nơi, bị công an đàn áp đánh đập.
Tháng tư năm nay, lần đầu tiên trong lịch sử, 6000 nông dân Mỹ Đức, Đồng Tâm, đã thành công bằng sự đoàn kết, bắt tạm giam 30 lính cơ động đến cưỡng chế đất, để đấu tranh với chính quyền đòi sự công bằng về đất đai. Nhưng tiếng bom Đoàn văn Vươn, Tiên Lãng, tiếng súng Đoàn ngọc Viết xả vào đoàn dự án, rồi tự sát, đã không dừng lại. Hàng triệu lá đơn khiếu nại gởi đến chính phủ, trong đó 70% là tranh chấp đất đai…
Văn hào Thomas Hardy đã cảnh báo: Có một trạng thái tồi tệ hơn mù lòa là thấy thứ không thật sự tồn tại . Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, người trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác Lê, đã phải thú nhận – đến cuối thế kỷ 21, chưa biết là đã có Chủ Nghĩa Xã Hội hay chưa!
Nói về kinh tế thị trường kèm theo cái đuôi định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, nguyên Bộ Trưởng Đầu Tư Kế Hoạch, Bùi Quang Vinh, đã phải thốt lên: Làm gì có cái đó mà tìm.
Vậy mà qua bốn thập kỷ, đất nước bị Đảng dẫn dắt đi theo Chủ Nghĩa hoang tưởng đó, để một xứ sở kinh tế phát triển như miền Nam Việt Nam, một Hòn Ngọc Viễn Đông, vốn là niềm mơ ước của các nước trong khu vực, trở nên tụt hậu thê thảm về mọi phương diện: Kinh tế bất ổn, giáo dục loay hoay, lạc thời so với thế giới.
Đất nước có thật sự thống nhất, người dân có yên bình hay không, khi mà đến 30 tháng Tư, Nhà Nước tổ chức cờ xí tung bay, tự hào chiến thắng trong khi lòng dân lo toan thường trực với thực phẩm không an toàn, cá chết vì nước xả thải formosa, phải đối mặt với đạo đức xuống cấp, tội ác lên ngôi, đe dọa sự an toàn của xã hội và hạnh phúc của mọi gia đình.
Phải mất nhiều năm sống trong chế độ Cộng Sản, tôi mới trải nghiệm câu nói của thủ tướng lỗi lạc người Anh, Winston Churchil: Chủ Nghĩa Xã Hội là hệ tư tưởng của sự thất bại, là tiếng kêu của sự ngu dốt, là lời truyền giáo của sự ghen tị; ưu điểm của nó là chia sẻ đồng đều sự nghèo khổ. Nhà báo Tống Văn Công, từ một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn, 56 năm tuổi Đảng Cộng Sản, sau nhiều lần góp ý cho Đảng, đành bất lực, nói lời chia tay với Đảng và cho rằng “Đảng Cộng Sản chỉ có thể vứt đi chớ không thể cải hóa được.”
Những ngày tháng Tư, nhớ nao nao hình ảnh chị chủ nhà trọ, đôi mắt thẫn thờ, tay làm dấu Thánh Giá, thốt lên, mất nước rồi! Tôi giờ đã hiểu chị.

(Tác giả từng là một nhà báo tại Sài Gòn)


THIÊN HẠ LUẬN * GIẢI PHÓNG

Giải phóng




Học sinh Việt Nam diễn tập mừng ngày "giải phóng." (Hình: REUTERS/Kham)

Trân Văn

Nếu giải phóng là gạt bỏ những trói buộc thì sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 đã giải phóng nhiều người tham gia hoặc có liên quan đến công cuộc mệnh danh “giải phóng”.
***
Càng ngày sự tự hào của Đảng CSVN về “công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” càng giảm.
Càng ngày càng nhiều người thuộc “bên thắng cuộc” trải lòng – kể lại công khai, chính xác những gì mà họ biết một cách tường tận hay những gì mà họ cảm nhận về công cuộc “giải phóng”.
***
Dịp 30 tháng 4 năm nay, facebooker Võ Đắc Danh – con của một “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, người có chồng và hai con trai hy sinh trong công cuộc “giải phóng” – kể rằng, sự hãnh diện trong ông vì những đóng góp của cha anh mình cho cách mạng chỉ kéo dài chừng hai năm. Sự hãnh diện ấy bị bào mòn từ việc mẹ ông, sau một thời gian dài giấu lúa nuôi cách mạng, phải tiếp tục giấu lúa để không bị cách mạng tịch thu. Sự hãnh diện tiếp tục sụt giảm khi ông chứng kiến một người bạn phải bỏ dở việc học vì gia đình bị quy kết là tư sản, mất nhà và những căn nhà bị tịch thu như thế được cấp lại cho những bạn bè mà cha mẹ tham gia công cuộc “giải phóng”...
Những chuyện như thế càng ngày càng nhiều và đó là lý do Võ Đắc Danh liên tục từ chối gia nhập Đảng CSVN để được “qui hoạch” làm lãnh đạo. Trong một status chừng vài trăm chữ với tựa là “Giải phóng để làm gì” trên trang facebook của mình, Võ Đắc Danh kết luận: “Nếu như năm 1975 tôi hãnh diện vì ‘lý lịch đỏ’ thì bây giờ, sau 42 năm, tôi hãnh diện vì quyết định từ chối vào đảng của mình”.
Facebooker Nguyễn Quang Lập – một nhà văn nổi tiếng - đăng lại status “Sài Gòn giải phóng tôi” mà ông từng viết hồi năm ngoái. Nguyễn Quang Lập tròn 19 tuổi đúng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nhờ sự thông thương giữa Nam với Bắc, cậu sinh viên miền Bắc – nơi khởi xướng và kết thúc thành công “công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” – cùng bạn bè đồng lứa mới biết đến bút bi, mì gói và máy cassette.
Cũng kể từ đó thành viên của “gia đình bảy đảng viên cộng sản” mơ được đến Sài Gòn. Tháng 8 năm 1976, khi vào Sài Gòn thăm người bác ruột, buổi sáng đầu tiên tiếp xúc với dân chúng Sài Gòn, Nguyễn Quang Lập sửng sốt khi thấy bà chủ tiệm tạp hóa thưa, gửi với khách, bỏ hàng hóa vào bọc nylon, cột lại cẩn thận… Nguyễn Quang Lập tiếp tục sững sờ khi thấy trong đống sách cũ bày bán trên vỉa hè có cả “Tư bản luận”, “Hành trình trí thức” của Karl Mark do các nhà xuất bản ở Sài Gòn in và phát hành từ thập niên 1960.
Facebooker Nguyễn Quang Lập kể rằng ông chỉ có 30 buổi sáng như thế ở Sài Gòn, nhiều chuyện tưởng như rất nhỏ nhưng lại tạo nơi ông những cảm nhận lớn lao, khác thường. Vào thời điểm đó, ông không cắt nghĩa được đó là gì song khi quay ra Hà Nội, ông bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, nói khác đi. Tuy bạn bè ngày đó gọi ông là thằng hâm, thằng lập dị nhưng ông “rất vui vì biết mình đã được giải phóng”.
Nguyễn Quang Lập viết “Sài Gòn giải phóng tôi” sau khi bị tạm giam gần ba tháng với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” rồi được phóng thích vì đã “cam kết từ bỏ hoạt động vi phạm pháp luật để tập trung vào lĩnh vực văn học nghệ thuật, phục vụ xã hội”.
Khác với Võ Đắc Danh và Nguyễn Quang Lập – chỉ có “quan hệ liên đới”, facebooker Đinh Hữu Hanh là người trực tiếp cầm súng, tham gia “công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.
Đinh Hữu Hanh chỉ có chừng 700 người bạn trên facebook. Đa số bạn bè của Đinh Hữu Hanh hoặc là cựu chiến binh như ông, hoặc là thân nhân của các cựu chiến binh.
Trang facebook của Đinh Hữu Hanh đáng chú ý vì nó là nơi đăng “Ký ức một thời bi tráng” – thời người Việt được Đảng CSVN điều động từ Bắc vào Nam thực hiện công cuộc “giải phóng”.
“Ký ức một thời bi tráng” do Đinh Hữu Hanh viết có nhiều kỳ - hiện đang ngừng ở kỳ thứ 29.
“Ký ức một thời bi tráng” có nhiều điểm đặc biệt. Nó được những độc giả vốn là đồng đội cũ của Đinh Hữu Hanh “giám sát”, góp ý trực tiếp để tác giả sửa chữa, bổ sung. Từ câu chuyện của những giảng viên, sinh viên Đại học Sư phạm Vinh bị biến thành lính, tới hoạt động của Trung đoàn 6, Quân khu Trị Thiên từ 1972 đến 30 tháng 4 năm 1975,… làm người ta vừa ngậm ngùi, vừa ngỡ ngàng, song đáng chú ý nhất vẫn là những bình luận. Mức độ của sự cay đắng nơi những người lính “giải phóng” tăng dần, không có điểm dừng từ lúc bị buộc cầm súng cho tới nay.
Đọc “Ký ức một thời bi tráng”, Hồ Thái Hà – một facebooker từng là đồng đội của Đinh Hữu Hanh, giống như Đinh Hữu Hanh, từng bị gọi nhập ngũ và điều vào Nam, cảm thán bằng thơ như thế này: “Chín người chết sáu còn ba. Thế là ta ‘thắng’ địch ‘thua’ rõ ràng. Ba mươi năm cuộc đao binh. Nồi da nấu thịt để giành ‘tự do’. Tự do bỏ xác nơi mô. Tự do bệnh tật tự do đói nghèo”.
Chưa biết đến lúc nào thì “Ký ức một thời bi tráng” hoàn tất nhưng facebooker Nguyễn Kỳ Nam – một hậu sinh – đã gom các kỳ của hồi ký này vào một chỗ và giải thích lý do là vì: Những ngày này ký ức của những người lính năm xưa lại ùa về. Có niềm vui và cả những nỗi buồn. Có nụ cười, có nước mắt cùng cả sự hối tiếc. Nhiều người lính ở cả hai phía đã nhận ra kẻ thù của họ là ai và cuối cùng chỉ có nhân dân chúng tôi là người thua cuộc.
  • Thiên Hạ Luận

    Tự kể điều mình biết, tự nói điều mình nghĩ với hàng triệu người đã trở thành chuyện đơn giản và bình thường. Khi một người nói, nhiều người có thể cùng nghe, bất kể người nói là ai, làm gì, ở đâu thì vai trò, vị trí của cá nhân trong tương tác với xã hội đã khác trước và chắc chắn sẽ càng ngày càng khác.
    Đó cũng là lý do để dù muốn hay không, hệ thống truyền thông chính thống phải tự thay đổi. Ban Việt ngữ VOA cũng thấy phải tự thay đổi...
    Trước mặt bạn là “Thiên hạ luận” – chuyên mục mới của Ban Việt ngữ VOA. Tuy nhiên đây chỉ là bước đầu tiên - tập hợp thông tin, ý kiến của nhiều người sử dụng mạng xã hội bằng Việt ngữ về những sự kiện, vấn đề đang được nhiều người quan tâm và có thể là mọi người nên biết, nên bàn thêm - của một tiến trình.
    Liệu “Thiên hạ luận” có thể trở thành nơi mà độc giả chủ động đóng góp mọi thứ (thông tin, ý kiến, hình ảnh) về những sự kiện, vấn đề mà theo họ, mọi người cần biết, cần bàn hay không sẽ do các bạn quyết định.
     http://www.voatiengviet.com/a/nguyen-quang-lap-vo-dac-danh-dinh-huu-hanh/3837500.html


ĐINH CÔNG ĐỨC * AI CÒN NHỚ VÀ AI ĐÃ QUÊN

Tháng 4 đen - AI CÒN NHỚ VÀ AI ĐÃ QUÊN?

Ai còn nhớ, và ai đã quên? CS Bắc việt là hiểm họa kinh hòang nhất cuả dân tộc. Hãy xem hình ảnh đau thương, chết chóc, chia lìa khi đồng bào chạy trốn Cộng sản 37 năm về trước .

Tại Tuy Hòa , Vạn Ninh (Tỉnh Phú Yên, Tỉnh Khánh Hòa)
Ngày 23-3-1975 phần đuôi đoàn xe di tản bị mắc kẹt trên Tỉnh Lộ 7 gần quận Phú Túc, cách Thành Phố Tuy Hòa khoảng 40 km về phía tây, vì pháo cộng sản bắn vào đoàn xe ở phía trước



Bà mẹ mất con tại Tuy Hòa. Ngày 25 - 3 – 1975
Ngày 26 tháng 3 năm 1975 tại Vạn Ninh, Ninh Hòa.
Những người dân chỉ có vài món đồ trên lưng , tức tưởi dẫn gia đình trốn chạy cộng sản




Tại Nha Trang
Ngày 31 - 3- 1975 tại phi trường Nha Trang




Trên chuyến bay cuối cùng rời khỏi phi trường Nha Trang ngày 31 - 3- 1975 Trong cuộc hổn loạn những người Lính VNCH không chỉ lo cho riêng bản thân mình mà còn giúp đở bảo vệ sự sinh tồn của người dân nhất là những em bé




Phi trường Nha Trang Ngày 1 - 4- 1975
http://farm8.staticflickr.com/7274/7033729371_a43f57ee94_z.jpg Ngày 2 - 4- 1975. Trong cảnh di tản ra khỏi Nha Trang. Một người dân đang đu trên cánh cửa máy bay




3 giờ sáng Ngày 30 - 3 - 1975. Chiếc HQ 802 cập bến cãng Cam Ranh




... đến 8 giờ tối Ngày 30 tháng 3 năm 1975, nhổ neo tiếp tục cuộc hành trình, rời cảng Cam Ranh để về Vũng Tàu




Hai ngày sau, là ngày 3-4-1975. Tàu HQ 802 đang trên biển Đông




Ngày 2 tháng 4 ngăm 1975 Nha Trang thất thủ
Tại Phan Rang , Phan Rí
Tại Phan Rang . Ngày 16 tháng 4 năm 1975.




Tại Cửa Phan Rí . Ngày 18 tháng 4 năm 1975.




Tại Xuân Lộc
Ngày 12 tháng 4 năm 1975, đồng bào bỏ chạy khi việt cọng tới Xuân Lộc và người thanh niên xấu số này đã gục ngã trong vòng lửa đạn trên quốc lộ 1




Ngày 13 - 4 - 1975.




Tại Xuân Lộc
Ngày 14 - 4 - 1975, em trai này di tản một mình bằng chiếc xe lăn trên đoạn đường dài từ Xuân Lộc, đang di chuyển trên quốc lộ 1




Ngày 14-4-1975 , dân chúng Xuân Lộc chạy hổn loạn tranh dành leo lên chiếc trực thăng.




Ngày 15 - 4 - 1975




Ngày 23 tháng 3 năm 1975 tại Xuân Lộc




Ngày 31 - 3 - 1975




Ngày 23 tháng 3 năm 1975 Xuân Lộc thất thủ
Tại Lâm Đồng , Long Khánh
Ngày 15 tháng 4 năm 1975, tại tuyến phòng ngã ba Dầu Giây




Ngày 19 - 3 - 1975, trên quốc lộ 20 từ Lâm Đồng về Dầu Tiếng




Ngày 20 - 4 – 1975, Quốc lộ 20 từ Lâm Đồng về Dầu Giây




Ngày 20 - 4 - 1975 tại Dầu Tiếng




Ngày 21 - 4 - 1975, dân chúng Long Khánh chạy tránh cọng sản




Ngày 21 - 4 - 1975, người chồng cuả phụ nữ này bị trúng đạn pháo kích của cộng sản




Ngày 21 - 4 - 1975, cộng sản vô tới Long Khánh




Ngày 21 tháng 4 năm 1975 Long Khánh thất thủ
Khắp nơi - Dân chạy tránh giặc cộng sản
Một chiếc tàu vận tải Vishipco chở số người tị nạn nặng trĩu từ miền trung khi cộng sản tràn vô




Một chiếc thuyền tị nạn ở miền trung




Người chạy giặc chỉ có đôi giày, vài cái túi, và một cái radio




Một gia đình dắt dìu nhau chạy giặc từ miền trung tránh đợt tấn cộng của cộng sản




Gia đình và trẻ em chạy giặc từ miền trung vào nam trong ngày cuối tháng 4 năm 1975




Hai em bé lạc loài trong dòng người di tản




Với chút hành trang còn lại người cha cõng đứa con chạy trốn cộng sản ở Trảng Bom ngày 23 - 4 -1975




Khắp nơi - Dân chạy tránh giặc cộng sản
Vũng Tàu Ngày 9 tháng 4 năm 1975




Dân chúng chen chúc tìm lối thoát tại các bến tàu




Ngày 21 – 4 - 1975, người dân Sài Gòn lũ lượt kéo nhau chạy ra Vũng Tàu tị nạn




Vòng đai thành phố Sài Gòn những ngày cuối tháng 4 năm 1975 đã bị vây chặt bởi nhiều sư đoàn của cọng sản
Tại Sài Gòn
Ngày 24 - 4 - 1975. cọng sản đã ném bom vào Sài Gòn




Lúc 3 giờ 30 Ngày 27 tháng 4 năm 1975, cộng sản pháo kích vào hành phố Sài Gòn




Ngày 28 - 4 - 1975, cộng sản tiếp tục pháo kích vào Sài Gòn




Ngày 28 - 4 – 1975, Xác T-54 trên đường Trương Minh Giảng, gần Lăng Cha Cả







Ngày 29 tháng 4 năm 1975, một chiếc trực thăng đáp trên sân thượng nhà 4 tầng của người dân trên đường Truơng Minh Ký




Tại Bến Sông Bạch Đằng
Người dân Sài Gòn tìm thoát trên bến phà Thủ Thiêm trên bến sông Bạch Đằng




Ngày 28 - 4 - 1975, người dân leo qua hàng rào bến cãng để trốn thoát khỏi Sài gòn




Những cửa ngõ duy nhất có thể thoát ra khỏi Sài Gòn như Toà Đại Sứ Mỹ, khu DAO ở gần Air Vietnam và bến Bạch Đằng, thì lúc nào cũng đông nghẹt người chen chúc chờ đợi một cơ hội cuối cùng. Đa số là thành phần trong chính quyền cao cấp hoặc những người có liên hệ với Mỹ trước đây







Và những người sài Gòn đang liều mạng trèo lên các xà lan tại bến cảng Sài Gòn họ cố gắng trốn thoát khỏi cộng sản




Ngày 29 - 4 - 1975




Một bé trai đầu đội mũ lính, trên lưng cõng một đứa bé lạc loài trong đoàn người di tản




Sài Gòn vào những ngày cuối tháng Tư năm 1975 như một cái chảo đặt trên lửa đang nóng dần lên và dân chúng như đàn kiến loi ngoi trong đó không lối thoát

Thursday, May 4, 2017

NGUYỄN HUY * 30-4





30 tháng 4 năm 2017 và 2 Việt Gian Hải ngoại

Xin gởi, bài viết dưới này, đăng tại báo Thời Mới, số 767, ngày 5 tháng 4, 2017, tác giả Nguyễn Huy.

Có những vị cảm thấy " bình thường" khi tổ chức vui chơi ca nhạc vào tháng Tư đen, miễn không vào ngày 30 tháng 4.

Tôi cho rằng chúng ta nên tôn trọng cả Tháng 4 đen vì bối cảnh của cộng đồng Việt hải ngoại rất đặc biệt. It nhất là trong tuần lễ cuối của tháng 4 và nhất là vào các ngày gần kề như 27, 28, 29 thì càng nhạy cảm và càng nên tránh.

Như ngày giổ của Cha Mẹ đã mất, thì chỉ có những người con đại bất hiếu mới trong những ngày gần kề đó mà đi vui chơi ca hát.

Các vị làm trong các hội đoàn/ đoàn thể chính trị càng nên làm gương. Vì các vị mang trọng trách và nhận niềm tin từ bao nhiêu người.

Các vị bầu sô, ca nhạc sĩ đến các đất nước xa xôi, cộng đồng Người Việt ít, như Na Uy, càng không nên chà đạp lên Tháng Tư đầy tang tóc. Các vị có thể chọn một tháng khác. Các Cộng đồng Người Việt Quốc gia ở những nước ít dân Việt càng cần giúp đỡ ủng hộ.

Chính những lời ngụy biện và thái độ vô cảm thiếu trách nhiệm, mà để cho cộng sản và các nhóm các bầu sô và ca sĩ thân cộng ngày càng lấn tới.
DD


CÓ NHỮNG CHUYỆN KHÔNG THỂ LÀM
Nguyễn Huy

Tôi chỉ là người bình thường. Tôi không rành văn chương. Tôi cũng không thích bài xích ai. Nhưng có những việc tôi nghĩ mình phải lên tiếng, và mong mọi người lên tiếng mạnh mẽ với tấm lòng của một người yêu thương dân tộc và đất nước Việt Nam.


Trong cộng đồng hải ngoại, chúng ta nên tôn trọng ngày 30 tháng 4, là ngày để tang cho nạn nhân của cộng sản Việt Nam, là ngày Quốc Hận để tang cho ngày đã kết thúc nền Tự Do Dân Chủ của dân tộc Việt, và là ngày bắt đầu sự tang thương của nước Việt Nam phải sống dưới chế độ độc tài đảng trị. Ngày 30 tháng 4 cũng là ngày Quốc Hận cho những thế hệ của người dân Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản Bắc Việt cùng Trung cộng và Liên sô cưỡng chiếm. Là ngày đánh dấu từng đợt sóng của người Việt liều mình để lánh nạn cộng sản đi tìm Tự Do. Và là ngày nhắc nhở tuổi trẻ Việt Nam về giá trị của một thể chế Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền.


Sự tham tàn độc ác mất tính người và tội ác bán nước của cộng sản VN không có bút mực nào kể đủ. Viết bao nhiêu giấy đây, khi báo chí truyền thông và nhiều người đã lên tiếng cụ thể từng tội ác của chế độ thối nát này, khi bao người dân trong nước đều nhận ra dù họ phải im miệng chịu đựng trong phẩn uất và đau thương, khi đất nước Việt Nam mà ông cha tổ tiên hy sinh gìn giữ nay trở thành nơi mạng người bị coi rẻ, nhân phẩm không được coi trọng, và đất nước rõ ràng đang dần lọt vào tay Trung cộng.

Người dân hải ngoại chúng ta có thể thấy nhiều chuyện dồn dập trong những năm gần đây, khi mà làn sóng của tập đoàn đỏ cộng sản đang tìm mọi cách tẩu tán tài sản ra nước ngoài, thì chúng càng tích cực đẩy mạnh Văn Hóa Vận cộng sản. Âm mưu xâm nhập và chia rẽ cộng đồng hải ngoại của cộng sản rất thâm hiểm, làm nhiều người ham lợi danh hoặc nhiều người bị lợi dụng đã vô tình trở thành công cụ của cộng sản. Như nhóm Canada Vietnam Society (CVS) do đại sứ quán cộng sản ở Ottawa thành lập và gian giảo tự xưng đại diện cộng đồng người Việt Canada. Và nhóm du học sinh Vietnamese Students Organization in Canada (VietSoc) tự xưng đại diện du học sinh tại Canada, công khai đánh bóng chế độ cộng sản VN. Cộng đồng tỵ nạn cộng sản còn phải thấy các ca sĩ cộng sản hãnh diện mặc áo cờ đỏ sao vàng hát ở VN như Thu Phương và Đàm Vĩnh Hưng rồi lại cùng các bầu sô vô lương tri thách thức tại các show nhạc hoặc thi Hoa hậu ở hải ngoại. Chúng dùng cách dần dần làm cộng đồng hải ngoại quen mắt và làm mũi lòng những người yêu thích văn nghệ để đưa đến chia rẽ trong cộng đồng đang tẩy chay những ca sĩ cộng sản đó.


Giờ đây, cộng đồng Hải ngoại chúng ta bắt đầu phải chịu bị cộng sản phủ đầu tấn công bằng những nhóm tổ chức ca nhạc, không chỉ chọn vào tháng Tư đen là tháng đau thương, mà còn chọn ngay vào ngày 30 tháng 4. Là hành động không chỉ chà đạp trên nỗi đau của những người tỵ nạn cộng sản, mà còn chà đạp lên sự đau khổ mất mát của hàng triệu triệu dân oan, dân khổ và quê hương đang tan tác. Là thủ đoạn thâm độc vì người dân VN đau thương và những nhà đấu tranh cho nhân quyền ở VN luôn xem hải ngoại như là một thành trì chống cộng, một lực đồng hành và là điểm hy vọng và ủng hộ cho quốc nội, để lên tiếng với quốc tế và các chính phủ của các nước Dân Chủ Tự Do.

Mà nếu đó là một vị có được sự kính trọng trong Tôn giáo, một vị Cha hay vị Thầy thì lại càng không thể nào chấp nhận được, vì đây là hành động tạo nên một tình trạng chia rẽ trong cộng đồng hải ngoại. Nhiều Giáo dân hoặc Phật tử vì tôn giáo mà có khi nhắm mắt và tự nhủ lòng “thôi chuyện gì Cha/ Thầy làm, mình cứ ủng hộ”.Và từ đó kéo theo bè bè lũ lũ cộng sản được thể lấn tiếp, và có tiền lệ thì cộng sản mừng lắm từ đó sẽ tiếp tục quấy phá.


Trong khi các chùa hay nhà thờ ở VN bị san bằng, bị đàn áp cấm đoán. Trong khi Cha Lý hy sinh thân mình cho dân tộc. Trong khi Cha Thục, Cha Nam ở miền Trung mạnh dạn lên tiếng để giúp người dân đòi lại quyền lợi vì các Cha xót xa nỗi thống khổ mất mát của ngư dân và gia đình họ.Trong khi giáo dân và đồng bào chịu đánh đập vẫn quyết phản đối Formosa. Trong khi nhiều người can đảm dám đến nhà thờ Đức Bà ở Saigon biểu tình giữa làn dày đặc công an để lên tiếng nói cho miền Trung. Và trong khi tại hải ngoại đang đấu tranh chống những tên Việt gian ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, với những tên di dân và du học sinh con ông cháu cha vừa muốn ra hải ngoại với khối tài sản tham nhũng để vui hưởng lợi ích của các nước Văn minh Tự Do vừa tìm cách nhuộm đỏ hải ngoại, và với những người thờ ơ quên đi dân mình đang khổ.

Thì tại hải ngoại, nay lại cùng lúc có 2 nhóm tổ chức ca nhạc vui chơi vào ngày 30 tháng 4, 2017:
Đó là Hội chợ mùa xuân 2017 của Giáo xứ các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại thành phố Houston, USA vui chơi trong 3 ngày 28, 29, 30 tháng 4, 2017. Dù có ngụy biện gì, tôi không hiểu sao một số vị giáo dân và linh mục đứng đầu giáo xứ này lại có thể làm một chuyện như vậy.

Một linh mục ở VN thường qua hải ngoại cất cao “Tiếng hát cho người nghèo” để gây quỹ giúp người nghèo người bệnh ở VN. Từ Phật tử cho đến Giáo dân hải ngoại đều hết lòng ủng hộ khi các năm linh mục nầy qua Mỹ, Canada .., để tổ chức gây quỹ. Nay linh mục này lại tổ chức hát hò vào đúng ngày 30 tháng 4, 2017 tại Lyon nước Pháp, hãnh diện với một dàn ca nhạc sĩ. Xin được hỏi Cha, có nhiều ngày để hát giúp người nghèo khổ, sao Cha lại chọn ngày Quốc Hận 30 tháng 4?

Tôi không muốn dùng những lời nặng nề. Nhưng tôi nghĩ là các vị tổ chức các buổi ca hát lễ hội vui chơi vào ngày 30 tháng 4 xin hãy suy nghĩ lại.

Lương tri con người giúp mình phân biệt đúng sai thiện ác.
Trí tuệ và sự thông cảm giúp mình không làm chuyện gì mà gây tổn thương cho cả một cộng đồng và bao người dân ở quê hương.
Trái tim con người giúp mình biết nỗi đau của đồng loại.
Lòng ái quốc giúp mình biết đất nước đang lâm nguy, dù đang mặc áo dòng hay áo tăng bào thì mình vẫn là người dân nước Việt.
Tự trọng của con người giúp mình không làm chuyện mà nhiều người khinh bỉ.

Mong những người tổ chức, tham gia, ủng hộ ca hát vào ngày 30 tháng 4 hãy tôn trọng chính mình. Các vị đang tiếp tay cho cộng sản, chà đạp trên bao nhiêu vong linh của nạn nhân cộng sản, đánh vào nỗi đau của cộng đồng Người Việt Tự Do và giúp Việt Cộng phá hoại ngày Tang của dân tộc khi quê hương còn nằm dưới ách độc tài đảng trị.

Ngày Quốc Hận 30 tháng 4 là thời điểm để mỗi người Việt vinh danh Tự Do Dân Chủ Công Lý và Nhân Quyền, để thúc đẩy cuộc đấu tranh cho quyền sống của người dân Việt, chống lại đảng cộng sản Việt Nam phản bội dân tộc và chống lại sự xâm lược của Trung cộng.


Nguyễn Huy

NGUYỄN NGỌC GIÀ * BIẾT ƠN VIỆT NAM CỘNG HÒA

Tôi biết ơn Việt Nam Cộng Hòa

* Bài viết đã đăng trên Danlambao vào tháng 4/2014 của Nguyễn Ngọc Già.
Nguyễn Ngọc Già (Danlambao) - Một số người trong nước cũng như người Việt hải ngoại cho rằng không nên vực dậy "xác chết" có tên Việt Nam Cộng Hòa.
Tuy nhiên, lịch sử là nguồn cội của bất kỳ dân tộc nào. Lịch sử là khoa học và tính Người được thể hiện cao nhất từ đó. Bất kỳ một giai tầng nào hay một bậc vua chúa hoặc một nhà độc tài nào đi nữa, cũng không thể nào trốn được lịch sử. Lịch sử là Con Người.

Lịch sử dù đau thương như VNCH đã để mất Hoàng Sa, hay đáng tủi hổ như công hàm 1958 của VNDCCH và hội nghị Thành Đô của CHXHCNVN cùng nhiều biến cố sự kiện quan trọng khác không thể không nhắc lại. 
Nhắc lại để hiểu rõ hơn và để cho thế hệ con cháu hôm nay, ngày mai nghiền ngẫm, dọn mình cho một thời đại mới - đang bắt đầu ló dạng. Tôi không biết mình có mơ mộng hão huyền trong tình thế của nước CHXHCNVN hôm nay không, nhưng trong tâm hồn tôi, từ lâu, tôi muốn nói: Cám ơn Việt Nam Cộng Hòa - Nhà Nước mà ở đó, làm cho tôi "Trích Lục Bộ Khai Sanh" [*]. 
Sài Gòn - nơi tôi được sinh ra, lớn lên, chứng kiến một góc nhỏ nhoi những trầm luân của số phận dân tộc Việt Nam. 
Dù VNCH tồn tại ngắn ngủi, nhưng tôi không sao quên được cuộc sống chan hòa nhân ái của tuổi hoa niên, dù ngay trong những ngày chiến tranh lửa khói.
Hôm nay, bỗng nhiên trong tôi bật ra lời thành tâm này. Tôi viết với nỗi xúc động rưng rưng trên khóe mắt, khi xem lại hình ảnh những tử sĩ đã ngã xuống tại Hoàng Sa - Trường Sa ngày xưa. 
Thay mặt gia đình
Như đã viết rải rác trong nhiều bài trước đây, tôi sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn, trong một gia đình trung lưu với việc làm ăn phát đạt, dần dẫn đến giàu có hơn. 
Thật ra, sau này tôi mới biết ba tôi là "Việt Cộng nằm vùng", do đó có thể nói, gia đình tôi là gia đình "ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản". Cách đây vài chục năm, khi nghe câu này, tôi khá giận dữ và cảm thấy bị sỉ nhục. Cảm giác đó dễ hiểu bởi sự thật chưa được phơi bày như sau này.
Tuy nhiên, cũng nhờ đó mà tôi tự tìm tòi. Tôi nghĩ, không có cách gì thuyết phục nhất cho mỗi người, nếu như tự thân mình không chủ động tìm hiểu và can đảm nhìn thẳng vào Sự Thật. Nhìn một cách thẳng thắn, không hề né tránh là điều chưa bao giờ dễ dàng, cho bất kỳ ai, cho bất kỳ điều gì, không riêng lãnh vực chính trị.
Ít nhất, cho đến nay, tôi có thể nói, tôi đã nhìn thẳng vào Sự Thật mà tôi biết, tôi tin một cách có căn cứ. 
Từ cảm giác giận dữ, dần dần tôi chuyển qua cảm giác nhục nhã. Nhục nhã vì sự vong ân bội nghĩa của gia đình mình đối với Quốc Gia mà từ đó gia đình tôi làm ăn khá giả một cách chân chính, còn bản thân tôi lớn lên từ đó.
Tôi không có ý định chạy tội cho ba tôi hay những người thân khác. Suy cho cùng, gia đình tôi vừa là đồng phạm, vừa là nạn nhân của cộng sản. Đó là sự thật. Ba tôi chưa bao giờ giết bất kỳ một ai.
Ba tôi đã chết dưới tay người cộng sản. Tôi có căm thù không? Có. Có muốn báo thù không? Đã từng. Điều mỉa mai, ba tôi chết không phải vì người cộng sản trả oán hay trù dập mà cái chết của ba tôi đến từ sự "ân sủng" dành cho ông - một người chưa bao giờ cầm một đồng tiền bất chính nào, cũng như chưa bao giờ nhận bất kỳ sự "ban ơn" nào từ người cộng sản. Một cái chết khá đặc biệt trong muôn vàn cái chết, do người cộng sản gây ra. Có thể đó là một niềm an ủi cho tôi. Cũng có thể đó là một ơn huệ của Ơn Trên, đã sắp đặt cho ba tôi một cái chết không hề nhơ nhuốc mà nhuốm màu thê lương trong một con người thơ ngây và chơn chất. Nhưng đó là câu chuyện quá vãng của gần 20 năm về trước, không phải những gì tôi muốn viết hôm nay.
Tôi có ba người chú ruột đều được "phong liệt sĩ". Cả ba người đều chết thời Pháp. Bà nội tôi được "tặng" "bà mẹ Việt Nam anh hùng". Tôi có hai người cậu ruột, trốn ngoại tôi để đi tập kết năm 1954. Hai người cậu ruột khác lại làm trong chế độ VNCH. Hai người cậu này đều có chức phận vào thời bấy giờ. Tôi có một người chị ruột làm trong nhà thương và "thân cộng" lúc đó. Một người anh ruột là sĩ quan thuộc quân lực VNCH (nhưng thật ra là VC nằm vùng), một người anh ruột khác là hạ sĩ quan cũng thuộc quân lực VNCH (thuần túy là lính, không quan tâm và tham gia vào chính trị, cũng như không phải VC nằm vùng). Tôi có vài người anh, chị ruột nữa, họ là dạng "cách mạng 30/4". Một số bà con thân thuộc nội ngoại khác, người thì ở trong "khu", người lại chống Cộng triệt để. Vài người khác, người thì là quân nhân, người nữa lại là công chức của VNCH v.v...
Hồi trước 1975, đa số gia đình đều đông con. Ít thì ba, bốn; nhiều thì chín, mười. Có gia đình lên đến mười hai - mười bốn người con, đều bình thường trong nếp sống lúc bấy giờ. Một đời sống sung túc, hầu hết gia đình khá giả, đều giống nhau suy nghĩ: nhiều con là phúc lộc Trời cho. Chế độ VNCH cũng không có việc "sinh đẻ có kế hoạch". Mắn đẻ lại là điều tốt mà phụ nữ thời xưa luôn tự hào. Cuộc sống dung dị như thế. Không chỉ riêng những gia đình giàu có mà có thể nói hầu hết đều tương tự như vậy.
Dông dài như thế, để nói rằng giòng tộc nội ngoại của tôi khá phức tạp. Giá như... 
Vâng, chính cái "giá như" nó đã làm hầu hết giòng tộc, anh chị em đại gia đình tôi "tan đàn xẻ nghé" từ dạo ấy. Dạo mà "rầm rập bước chân ta đi rung chuyển đường phố Sài Gòn" với ngày 30/4/1975 (!)
Một giòng tộc như thế mà nói đến "đoàn kết" (như CSVN đang kêu gọi) thì quả là... hài kịch.
Ba tôi và anh chị tôi đã từng đi tù dưới chế độ VNCH. Ba tôi ra tù sớm, chị tôi thì được tha bổng sau vài tuần tạm giam, vì không đủ chứng cớ kết tội. Riêng anh tôi nhận án "20 năm khổ sai" và bị đày đi Côn Đảo cho đến (tất nhiên) 1975.
Điều tôi cám ơn Nhà Nước Việt Nam Cộng Hòa thật giản dị:
- Ngày ba tôi ra tù, ông vẫn mạnh khỏe. Về đến nhà chỉ một tuần sau là ông có thể bắt tay trở lại công việc làm ăn.
- Suốt thời gian ba và anh chị tôi bị điều tra cho đến lúc kết án chính thức, gia đình tôi (những người không liên quan) không hề bị săn đuổi, bắt bớ vô pháp, hành hung, xách nhiễu v.v... Má tôi đã gánh vác mọi việc làm ăn vào lúc đó. Chúng tôi vẫn đi học bình thường và sống trong môi trường không hề bị kỳ thị của bất kỳ thầy cô hay bạn bè nào. Hàng xóm láng giềng cũng không vì thế mà ghẻ lạnh, hắt hủi hay tiếp tay như kiểu bây giờ mà người ta gọi là "đấu tố thời đại mới".
- Anh tôi - người ở tù Côn Đảo, ngày trở về đất liền vẫn mạnh khỏe, dù ốm o đen đúa, nhưng không hề mang thương tật gì cả.[**]
Cá nhân tôi
Tôi cám ơn Việt Nam Cộng Hòa, không chỉ vì tôi được sống trong một xã hội - có thể chưa phải là tốt đẹp nhất - nhưng tốt đẹp hơn chế độ cộng sản 39 năm qua, mà tôi còn biết ơn vì tôi đã hấp thụ được nền giáo dục, có thể nói, cho đến nay 39 năm, dù VNCH không còn, dù CHXHCNVN cố gắng "cải cách" giáo dục nhiều lần rất tốn kém nhưng không hề mang lại chút tiến bộ nào khả dĩ. Và nói cho công bằng, giáo dục hiện nay tính về chất lượng, vẫn không thể nào đạt được như trước 1975 của miền Nam.
Nền giáo dục trước 1975 mà tôi hấp thụ, dù ngắn ngủi, nó thật sự là nền giáo dục nhân bản và khai phóng. Trung thực và hiền lương. Ganh đua nhưng không đố kỵ. Biết phẫn nộ nhưng không tàn ác. Đặc biệt nền giáo dục đó giúp cho hầu hết học trò luôn biết dừng lại đúng lúc trước cái sai với nỗi xấu hổ và tính liêm sỉ - tựa như "hàng rào nhân cách" được kiểm soát kịp thời.
Chính xác hơn, tôi cám ơn Thầy - Cô của tôi, có lẽ bây giờ hầu hết đã qua đời, nếu còn sống chắc cũng đã nghễnh ngãng hay quá già yếu.
Tôi biết ơn các Giáo sư [***]. Tôi muốn nói rõ: Tôi không hề có danh vị, bằng cấp gì cả.
Tôi biết ơn Thầy - Cô của tôi, vì nhiều độc giả thương mến (có lẽ qua những bài viết), họ ngỡ tôi là: giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, nhà văn, nhà giáo v.v... nhưng tôi thưa thật, tôi chỉ là một người "tay ngang" trong viết lách. Qua từng bài viết, tôi rút ra kinh nghiệm. Đặc biệt, tôi luôn cố gắng viết cẩn trọng và khách quan nhất để thuyết phục độc giả. Tính cách này, tôi đã học từ Thầy - Cô tôi, ngày xưa. Dù môn Văn Chương ngày ấy, tôi luôn nhận điểm thấp tệ.
Tôi biết ơn Thầy - Cô của tôi cũng vì, sau 1975, cả nước rơi vào đói kém, làm cho "tính người" trong xã hội cũng mai một dần và tôi không là ngoại lệ. Thảm trạng xã hội lúc đó biến tôi trở nên chai lỳ, mất cảm xúc và lạnh lùng. Đặc biệt "chữ nghĩa" hầu như trôi sạch hết cùng những "tem phiếu", "xếp sổ mua gạo", chầu chực "mua nhu yếu phẩm" v.v... ngày xưa.
Về sau này, khi cuộc sống đỡ hơn, tôi có thời gian hơn cùng với thời cuộc đảo điên, dần dần, tôi cảm nhận tôi "trầm mình" trong nỗi đau của bản thân, gia đình, từ đó tôi mới thấu hiểu những điều ngày xưa tôi học và tôi giật mình vì sự lãng quên đáng trách đó.
Tôi tìm lại được "tính Người" mà bấy lâu nay tôi đánh mất.
Một lần nữa, tôi cám ơn Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa và các Thầy - Cô của ngày xưa.
______________________________________
Chú thích:
[*] Vì những năm loạn lạc, đặc biệt tết Mậu Thân, nhiều nơi cháy nhà và thất lạc giấy tờ. Sau khi tạm bình yên, má tôi đã ra Tòa Hành Chánh Quận 3 thời bấy giờ để làm "Trích Lục Bộ Khai Sanh" cho tôi.
[**] Tôi nhớ khoảng đến cả tháng sau (tức đâu khoảng cuối tháng 5/1975) anh tôi mới về tới SG, nhưng chưa được về nhà ngay mà ở đâu đó (lâu quá rồi tôi không còn nhớ địa điểm, hình như lúc đó ở tại một trường học nào đó thì phải?) đợi thẩm vấn điều tra từ "chính quyền cách mạng lâm thời" lúc bấy giờ, đâu hết cả hai tuần nữa mới được về nhà. Tôi nhớ lúc đó, tôi hỏi anh tôi rất ngây ngô: Ủa! Sao hơn cả tháng trời anh mới về nhà? Anh tôi cười và im lặng không nói. Mãi về sau, tôi mới lò mò tìm hiểu, thì ra, dù là "phe mình", nhưng bản chất người cộng sản là "bản chất Tào Tháo". Họ có tin ai bao giờ đâu! Họ giữ lại tất cả tù chính trị để điều tra xem thử có phải là gián điệp (các loại) được cài lại hay không (để tính chuyện lâu dài).
[***] Trước 1975, từ đệ thất (nghĩa là lớp 6 bây giờ), Thầy - Cô được gọi là Giáo Sư - một cách gọi trân trọng, không phải học hàm như bây giờ nhiều người biết.

Wednesday, May 3, 2017

SƠN TRUNG * TRUNG CỘNG, ÔNG THẦY VIỆT CỘNG



TRUNG CỘNG, ÔNG THẦY VIỆT CỘNG

SƠN TRUNG
Trong thế giới hiện nay, có hai thầy trò nhà Cộng là nổi tiếng hung đồ, gian manh và tham lam. 
Thế giới ngày càng thâu ngắn lại vì phương tiện giao thông tối tân. Máy bay, du thuyền đã đưa Trung Cộng và Việt Cộng đi khắp nơi. Họ càng đi nhiều càng bộc lộ cái dã man và nghèo đói của họ.
Xin xem các hình ảnh  dưới đây:
 Starbucks hối hận vì cho phép khách tự mang cốc riêng, nhìn món đồ họ mang tới, nhân viên chỉ biết khóc ròng
 
 


Để đáp ứng lời mời ngọt ngào ấy, từ sớm, một hàng dài người đã xếp hàng chờ tới giờ mở cửa. Điều đáng nói ở đây là mọi người không mang theo cốc (ly), mà là…



Theo truyền thông Trung quốc đưa tin, hưởng ứng Ngày Trái Đất thế giới 22/4, hãng cà phê nổi tiếng Starbucks đã có một số chương trình hoạt động khuyến mãi vô cùng hấp dẫn.


Theo đó, khách hàng mang cốc riêng đến một số cửa hàng trong chuỗi Starbucks sẽ được uống cà phê miễn phí. Để đáp ứng lời mời ngọt ngào ấy, từ sớm, một hàng dài người đã xếp hàng chờ tới giờ mở cửa. Điều đáng nói ở đây, là mọi người tới không phải mang theo cốc, mà là tô lớn, nồi, chảo, chậu rửa mặt, thậm chí can đựng nước 20 lít.
 


Một phụ nữ Trung Quốc đã bị bắt giữ hôm 30/7, do đổ nước cam vào tiếp viên hàng không trên chuyến bay từ Dubai tới Hong Kong.
Cảnh sát đã chờ chuyến bay số hiệu CX746 của hãng Cathay Pacific từ Dubai tới sân bay quốc tế Hong Kong (Trung Quốc) vào lúc 5h để bắt giữ hành khách gây rối này.


Hanh khach Trung Quoc bi bat vi hat nuoc cam vao tiep vien hinh anh 1
Cảnh sát đã có mặt và bắt giữ người phụ nữ gây rối. Ảnh: Scmp.
 
Vụ việc phát sinh khi người phụ nữ (đi theo nhóm đông người) tức giận do các suất ăn cho trẻ con không được chuẩn bị trước. Điều này dẫn tới tranh cãi giữa hành khách và tổ bay. Sau đó, người phụ nữ này đã đổ nước cam vào tiếp viên hàng không. Theo báo cáo của cảnh sát, nạn nhân không bị thương và vụ việc đang được điều tra.
Đây không phải lần đầu tiên hành khách Trung Quốc gây rối trên máy bay. Tháng 12/2015, một nhóm du khách Trung Quốc đã tạt mì,  nước sôi vào một tiếp viên hàng không Thái Lan và đe dọa đánh bom máy bay chỉ vì không hài lòng về chỗ ngồi. Tháng 6, một cuộc ẩu đả giữa các hành khách Trung Quốc cũng đã xảy ra trên chuyến bay của hãng Hainan Airlines.





Khách Trung Quốc tranh nhau ăn hoa quả ở Việt Nam


Trong đoạn video mới được đăng tải trên Daily Mail, các du khách Trung Quốc vây quay nhân viên phục vụ và tranh nhau “dọn sạch” đĩa hoa quả khi nhân viên vừa đặt xuống.
Những du khách nóng vội trong đoạn video này đã tranh nhau để lấy phần hoa quả trên đĩa ở bàn cạnh hồ bơi tại một khách sạn Việt Nam. Đoạn băng này xuất hiện sau khi hình ảnh du khách Trung Quốc lấy đĩa xúc thức ăn vô tội vạ tại một bữa buffet ở Thái Lan lan truyền trên mạng.


Khach Trung Quoc tranh nhau an hoa qua o Viet Nam hinh anh 1
Các du khách tranh nhau lấy hoa quả. Ảnh: Shanghaiist.
Đoạn video bắt đầu với hình ảnh nhân viên phục vụ đang cố đặt đĩa vải lên bàn. Đám đông du khách xung quanh liên tục vươn tay ra lấy quả, khiến nhân viên chật vật mới chuẩn bị xong. Khi đĩa quả vừa được đặt lên bàn, trong tích tắc các du khách đã tranh nhau lấy sạch. Clip không có thời gian quay, tuy nhiên địa điểm diễn ra được cho là ở Việt Nam.

Khach Trung Quoc tranh nhau an hoa qua o Viet Nam hinh anh 2
Du khách Trung Quốc lấy thật nhiều thức ăn và sau đó bỏ thừa. Ảnh: Weibo.

Tuần trước, một video về hành vi tương tự của du khách Trung Quốc ở Thái Lan đã lan truyền với tốc độ chóng mặt. Các du khách này lấy đĩa xúc rất nhiều tômvà bỏ thừa phần lớn.
  Đó là những biểu lộ của văn minh Mao Trạch Đông, Tập Cận Bình, Hồ Chí Minh. Đó là biểu thị của chủ nghĩa ăn cướp, ăn cướp bằng nhiều cách bất kể liêm sỉ!



 

Monday, May 1, 2017

LÊ XUÂN NHUẬN * TRUNG TÁ NGUYỄN VĂN LONG

Quốc Hận 30-4-1975 
TRUNG-TÁ NGUYỄN VĂN LONG
 
CỘNG-SẢN chiếm được Miền Nam đã mười năm rồi mà tôi vẫn còn tiếp-tục bị chúng kêu lên, kêu xuống hỏi cung. Tuy thế, nhờ những thời-gian đợi đi “làm việc” như thế tại các trại giam như Thanh-Liệt ở Hà-Nội; Kho-Ðạn, Hội-An,và Hòa Sơn ở
Quảng-Nam; mà tôi có dịp gặp nhiều cán-bộ Việt-Cộng cấp cao bị bắt về tội “kinh-tế” hoặc “tham-ô” và cả “bạo-loạn” nữa, cũng như đồng-bào nhiều giới phạm tội “phản-động hiện-hành”, vượt biên, vượt biển, đưa hối-lộ, xâm-phạm hoặc phá-hoại tài-sản xã-hội chủ-nghĩa, vân vân, nên tôi biết nhiều và biết sớm những biến-cố xảy ra bên ngoài thế-giới “cải-tạo” hơn đa-số anh+chị+em khác trong tù.
Tôi đã nghe tin Trung-Tá Nguyễn Văn Long tự-tử từ lâu. Nhưng vì có những trường-hợp sự thật khác với tin đồn; vả lại, biết đâu đó không là một người khác mà lại trùng tên với người mà tôi thân+thương; hơn nữa, anh Nguyễn Văn Long của tôi là một tín-đồ Ky-Tô-Giáo, lẽ nào lại tự hủy mình; do đó, tôi vừa âm-thầm đau-khổ về hoàn-cảnh chung, vừa bán-tín bán-nghi về phần anh Long. Ðến khi tôi được nghe thêm hai viên “thủ-trưởng” ― một thuộc Cục Xuất-Nhập-Khẩu 2 tại “thành phố Hồ Chí Minh”, một thuộc Ban Hậu-Cần Quân-Khu 5 ― khẳng-định là họ có nghe đề-cập trong nội-bộ cơ-quan rằng, ngoài một số tướng-lĩnh Miền Nam đã tự-sát chứ không chịu đầu-hàng hay trốn chạy ra nước ngoài, có một trung-tá Cảnh-Sát tên Nguyễn Văn Long, từ Ðà-Nẵng di-tản vào, đã tự-tử chết phía trước trụ-sở Quốc-Hội Việt-Nam Cộng-Hòa, tôi mới tin chắc đó chính là anh Nguyễn Văn Long.
Anh Long vĩnh-biệt cõi đời giữa cảnh lửa-bỏng dầu-sôi, bạn-bè nói riêng và đồng-bào nói chung thì còn bận lo tự cứu lấy mình, trong khi kẻ thù thì càng thù hận anh thêm, lấy đâu có những vòng hoa và những nén nhang cùng những dòng lệ thương tiếc tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.

Năm 1982, tại Trại bí-mật Thanh-Liệt, thuộc Huyện Thanh-Trì, Hà-Nội, là nơi giam-cứu các phần-tử quan-trọng nhất, mà đa-số là cán-bộ Ðảng, Nhà-Nước và Bộ-Ðội ở cấp Trung-Ương, do Bộ Nội-Vụ trực-tiếp quản-lý, tôi mới được một “bạn tù” cho biết thêm một chi-tiết quý-báu về cái chết hùng-vinh của trung-tá Nguyễn Văn Long. Ðó là Phạm Trung Linh, một trung-tá bộ-đội Bắc-Việt, nguyên Trưởng Tiểu Ban Thanh Tra & Xét Khiếu Tố thuộc Trung Ương Cục Miền Nam ― tổng-thư-ký của một tổ-chức đảo-chính quân-sự dự-định hành-động vào đêm 24 rạng ngày Nô-En năm 1979 nhưng bất-thành nên bị bắt cùng với một số tướng+tá và cán-bộ cao-cấp khác ― xác-nhận rằng gã đã có trông thấy bức ảnh chụp cảnh trung-tá Nguyễn Văn Long mặc cảnh-phục chỉnh-tề nằm chết trước một tượng-đài Chiến-Sĩ Quốc-Gia phía trước trụ-sở Quốc-Hội Việt-Nam Cộng-Hòa, in trên bìa trước của một tạp-chí Hoa-Kỳ, trong kho sách+báo ngoại-quốc mà Việt-Cộng ở một số cấp cao đã sưu-tầm để nghiên-cứu những gì có liên-quan đến Việt-Nam.
Thế là từ đó không những tôi nguôi tủi sầu mà trái lại còn cảm thấy lòng mình vui thỏa cho anh Long. Báo Mỹ mà đã đăng lên thì khắp thế-giới đều biết. Anh, cùng với những vị anh-hùng tuẫn-quốc khác trong biến-cố lịch-sử 30-4-1975, đã nói lên được hùng-hồn và cụ-thể tinh-thần bất-khuất của dân-tộc Việt-Nam yêu chuộng Tự-Do trước quyền-lực của cộng-sản bạo-tàn.
                                                                                  *
Thuở ấy, vào khoảng 1947-1950, ở Miền Trung có hai hệ-thống an-ninh: một bên là Pháp với hai cơ-quan Sûreté fédérale (Liêm-Phóng Liên-Bang) và Police française (Cảnh-Sát Pháp), một bên là Việt-Nam với hai cơ-quan Công-An & Cảnh-Sát Quốc-Gia. Anh Nguyễn Văn Long tùng-sự bên Sûreté Fédérale (chính-trị) của Pháp, trong số vài người phụ-trách nội-ô Thần-Kinh; còn tôi thì bên Cảnh-Sát (hình-sự) của Việt-Nam. Tôi kiêm cả việc sáng-tác, ra báo, và dựng kịch cho sở-làm, và cho riêng mình.
Chúng tôi thường uống cà-phê ở quán Lạc-Sơn, nhà hàng lộ-thiên trên lề Đại-Lộ Trần Hưng-Ðạo, quay lưng vào Chợ Ðông-Ba. Nhân-viên hai bên không ưa gì nhau, nhưng gặp mặt mãi cũng thành quen nhau.
Dạo ấy, tôi viết cuốn truyện “Trai Thời Loạn” chống Pháp xâm-lược và Bảo-Ðại bù-nhìn, nên bị bắt giam; sau nhờ phái-đoàn của các nhân-sĩ Cao Văn Tường, Cao Văn Chiểu, cùng với nhà-báo Phạm Bá Nguyên và cả Giám-Ðốc Thông-Tin Lê Tảo can-thiệp với Thủ-Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được trả tự-do. Ra tù, tự-nhiên tôi được thiện-cảm của nhiều người hơn.
Một hôm, anh Long tâm-sự với tôi: “Tôi chống Việt-Minh nên lỡ vào làm với Tây; nay tôi đã quyết sẽ thôi để qua làm với người mình”.
Anh ít nói, không văn-hoa, lại lớn tuổi hơn tôi nhiều, mà đã nói thẳng với tôi như thế thì tôi hiểu rằng anh đã đau-lòng khổ-trí đến ngần nào trước thời-cuộc bấp-bênh của nước nhà. Trong thời-gian chờ-đợi, anh Long đã nghe theo lời thuyết-phục của tôi, bỏ qua cho nhiều bạn thơ của tôi, thí-dụ Nhất-Hiên, Vân-Sơn PMT, Như-Trị, v.v... mà Sûreté Fédérale đã định bắt giam. Liêm-Phóng Liên-Bang của Pháp mà đã bắt ai thì người ấy khó về được vẹn toàn.
Sau đó, anh đã chuyển qua Công-An Việt-Nam; và Vân-Sơn Phan Mỹ Trúc cũng như Như-Trị Bùi Chánh Thời thì vào Sài-Gòn; kẻ thành ký-giả tên tuổi, người nên luật-sư tài-danh.
Sau khi gia-nhập vào đúng hàng-ngũ thích-hợp để phụng thờ Chính-Nghĩa Quốc-Gia, trải qua mấy chục năm trời gắn bó với Lực-Lượng Cảnh-Sát & Công-An Việt-Nam Cộng-Hòa, anh Nguyễn Văn Long tận-tụy phục-vụ, và đã nổi tiếng là một trong số những cấp chỉ-huy tích-cực, cương-trực và liêm-khiết nhất trong Ngành.
                                                                                      *
TÔI về lại Miền Trung đảm-trách Giám-Ðốc Ngành Ðặc-Cảnh tại Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Vùng I vào ngày 26 tháng 9 năm 1973. Tìm gặp lại các bạn cũ, thuộc lứa tuổi trên tứ-tuần, đã từng giữ các chức-vụ Trưởng Ty Công-An, Cảnh-Sát-Trưởng, Trưởng Ty CSQG trở lên, từ thời Bảo-Ðại qua thời Ðệ-Nhất Cộng-Hòa đến nay, mà hiện còn lại tại Vùng này, tôi thấy chỉ có 6 người, trong đó có anh Nguyễn Văn Long.
Một số chưa có chức-vụ tương-xứng thì tôi nâng lên hoặc hợp-thức-hóa cho làm Phó Giám-Ðốc, Chánh-Sở. Anh Long thì đã là một Chánh-Sở nắm Sở Tư-Pháp rồi, nên tôi không giúp gì về chức-vụ mà chỉ giúp về công-vụ mà thôi; những tin-tức về hình-sự mà tôi có được, thay vì xếp bỏ thì tôi chuyển qua cho anh. Tuy nhiên, đáp lại, chính anh giúp tôi nhiều hơn, rất nhiều, cả trong công-tác cụ-thể hằng ngày lẫn về phương-diện tinh-thần.
Anh Long tự-nguyện làm thêm nhiệm-vụ chính-trị ― diệt-Cộng ― ngoài phần-vụ chính của anh là truy lùng kẻ phạm-pháp về mặt hình. Là một tay cừ trong giới tình-báo cũ, anh đã nhân làm công-tác sưu-tầm về hình-phạm mà thu-thập thêm tin-tức về quốc-phạm, và đã cung-cấp cho Ngành Ðặc-Cảnh của tôi nhiều manh-mối về cộng-sản nằm vùng. Theo anh quan-niệm, đã là Cảnh-Sát Quốc-Gia, với chức-năng an-ninh trật-tự, thì phải góp phần trực-tiếp hoặc gián-tiếp vào lãnh-vực tình-báo, để phát-hiện và loại-trừ cộng-sản ― mà trong giai-đoạn hiện-tại thì đối-tượng Việt-Cộng phải là ưu-tiên hàng đầu ― để bảo-vệ và duy-trì an-ninh & trật-tự chung. Anh không thể chỉ tự bằng lòng với phận-sự tiễu-trừ tội-phạm xã-hội, mà phải tham-gia phần nào, trong khả-năng mình, vào trách-nhiệm thanh-trừng giặc loạn để giữ nước và cứu dân.
Qua thái-độ và hành-động chính-đáng của mình, Trung-Tá Nguyễn Văn Long đã mặc-nhiên gửi một thông-điệp, một lời nhắn-nhe tâm-huyết, đến những anh+chị+em đồng-nghiệp nào mà vì lý-do nào đó đã tự cho mình là Cảnh-Sát Sắc-Phục thì không dính-dấp gì về tình-báo, nhất là Cộng-Tặc Miền Nam và Cộng-Sản Bắc-Việt Xâm-Lăng.
Trung-Tâm Huấn-Luyện Tình-Báo của tôi nằm trên bãi biển Sơn-Chà, tuốt bên kia bờ Hàn-Giang. Lần nào khai-giảng hoặc bế-giảng Khóa nào Nhà-Trường cũng đều có mời các cấp chỉ-huy cả Ðặc-Cảnh lẫn Sắc-Phục đến dự. Về sau, tôi bỏ bớt tiệc mãn-khóa, chấm dứt tình-trạng bắt các học-viên góp tiền. Không còn tiệc-tùng, thì phần lớn quan-khách ngớt vãng-lai, viện cớ bận việc và đường quá xa; nhưng anh Long vẫn tiếp-tục đến dự ― anh nói ― để yểm-trợ tinh-thần chung.
Về mặt tư-pháp, Trung-Tá Nguyễn Văn Long đã thực-hiện đúng khẩu-hiệu “pháp bất vị thân”. Ngay đối với chính đồng-nghiệp, bất-cứ nhân-viên Cảnh-Sát nào mà phạm tội hình-sự là anh truy-tố ra Tòa thẳng tay ― anh nói ― để lành-mạnh-hóa nội-bộ, và nêu gương thượng-tôn luật-pháp cho người dân. Bởi thế, anh bị nhiều người gọi bằng cái tên “Long Lý”, ý nói anh chỉ biết chiếu-lý chứ không vị-tình.

Sau Hiệp-Ðịnh Paris 1973, tình-hình xã-hội Miền Nam thật là rối-ren. Bên ngoài thì Cộng-Sản Bắc-Việt công-khai ồ-ạt đổ thêm quân và chiến-cụ, vũ-khí vào tấn-công ta; bên trong thì các tổ-chức xưng-danh đối-lập và lợi-dụng tự-do quá-khích, tiếp tay với các phần-tử nằm vùng, ngày càng gia-tăng mức-độ và cường-độ gây hỗn-loạn trật-tự và làm suy-thoái tinh-thần các lực-lượng Quốc-Gia. Về mặt chính-trị, CSQG vừa phải đối-phó với các bộ-phận Ðảng, Mặt-Trận, Nhà-Nước và Nhân-Dân của CSXL và “Việt-Cộng”, vừa phải chống-đỡ các phần-tử, phe nhóm chủ-bại và nội-ứng cho kẻ thù.
Về mặt tệ-đoan xã-hội, ung nhọt tràn lan khắp nơi. Riêng về nạn dịch nhũng-nhiễu tham-lam, công-tác đương-đầu đã gặp quá nhiều khó-khăn. Hầu như kẻ nào làm bậy cũng đều nấp dưới danh-nghĩa của một chính-đảng, tìm sự che-chở của một đoàn-thể hay một số cấp lãnh-đạo nào đó trong Chính-Quyền. Ðụng vào họ, dù họ là kẻ phạm-pháp, có thể là tự rước lấy tai-họa vào mình. Thế mà anh Long đã dám xúc-tiến điều-tra, lập hồ-sơ truy-tố nhiều nhân-vật đáng sợ. Nhiều vụ lắm. Và vụ mà tôi thích nhất là vụ “tiền trợ-cấp dân Quảng-Trị tị-nạn”. Ðại-khái như sau:
Ðầu năm 1975, đồng-bào từ Tỉnh Quảng-Trị bắt đầu di-tản. Chính-Quyền Trung-Ương tổ-chức đón tiếp và cứu-trợ họ tại Trại Tạm-Cư Ðà-Nẵng. Trên thực-tế, có người đã vào, có người vẫn còn ở lại ngoài kia. Do đó, có một tổ-chức quy-mô đứng ra lập hồ-sơ ma để lãnh các món cứu-trợ di-tản nhiều hơn bội-phần: tiền mặt, thực-phẩm, thuốc-men, áo+quần, giường+mùng chăn+chiếu, xi-măng, tôn, v.v..., cấp cho cả đồng-bào ở Trại lẫn đồng-bào vẫn còn ở Tỉnh cũ mà được chứng-nhận là đã nhập Trại Tạm-Cư, do ngân-sách của Bộ Xã-Hội đài-thọ. Thậm chí, họ còn lập thêm hồ-sơ theo diện tị-nạn, dành cho đồng-bào dời-cư từ các xã bất-an và “xôi-đậu” đến định-cư tại các xã an-ninh, để lãnh thêm loại trợ-cấp này vốn áp-dụng chung cho bất-cứ vùng quê nào. Chưa thỏa, họ còn chứng-nhận cho cũng những đồng-bào ấy là nguyên cơ-sở của Việt-Cộng ở vùng địch kiểm-soát, nay bỏ kẻ thù về với Quốc-Gia, để hưởng các khoản trợ-cấp loại này do Bộ Chiêu-Hồi cung-cấp định-kỳ, v.v... Ngoài ra, người dân di-tản cũng bị lôi-cuốn vào tình-trạng hỗn-tạp chung bên ngoài Trại, lẫn-lộn giữa hợp-pháp và bất-hợp-pháp. Một số trở thành nhân-viên Chương-Trình Áo Xanh, do một tổ-chức xã-hội Hoa-Kỳ tài-trợ, cung-cấp việc làm cho người lao-động thất-nghiệp. Một số cũng là hội-viên Hội Cựu-Chiến-Binh và Dân-Phế, quy-tụ lính cũ đâu từ thời Pháp-thuộc, thời Nhật chiếm, thời kháng-Pháp, thời Bảo-Ðại, và nạn-nhân các vụ tai-nạn lưu-thông, ẩu-đả, hủy-hoại thân-thể, tàn-tật bẩm-sinh, vân vân, nhưng cũng được lập hồ-sơ và lãnh đều đều từ một tổ-chức nhân-đạo Hoa-Kỳ những món viện-trợ tiền mặt, thực-phẩm, thuốc-men, đồ dùng, v.v... Hơn nữa, một số giả-danh là Thương-Phế-Binh, cưỡng-thu “hụi chết” tại các hàng quán, bến xe. Phanh-phui vụ này lòi ra vụ kia. Tóm lại, một người lãnh nhiều trợ-cấp với nhiều tư-cách trong nhiều hoàn-cảnh khác nhau; nhưng chỉ lãnh được một ít, còn thì nạp vào túi riêng của bọn gian+tham.
Vụ án đã làm chấn-động dư-luận, vì dính đến nhiều cấp+chức thuộc nhiều giới, ngành, từ cấp Tổ, Toán, Khóm, Thôn, Xã, Phường, lên đến Quận, Tỉnh, vào thấu Sài-Gòn, là những phần-tử chứng-nhận láo, chấp-thuận bừa, do đó, đã phí-phạm công-quỹ và phá-hoại chính-sách của Trung-Ương.
TRONG việc móc-nối đầu mối, nuôi-dưỡng đường dây, lắm lúc nhân-viên Ðặc-Cảnh phải giao-tiếp với những kẻ bất-lương. Bởi thế, đã có một số Trưởng Mối bị trừng-phạt oan, vì phía Hình-Cảnh nghi là đồng-lõa hay đỡ đầu. Sau khi có thêm bộ-phận An-Ninh Cảnh-Lực, Ðặc-Cảnh càng gặp nhiều khó-khăn hơn, đến nỗi Trưởng Ngành Ðặc-Cảnh Trung-Ương hồi đó là Trung-Tá Nguyễn Mâu đã phải lên tiếng phản-đối công-khai trước một đại-hội toàn-quốc, do Tổng Giám-Ðốc chủ-tọa, nhưng chưa ngã-ngũ ra sao.
Với tôi, anh Long đã chịu nhượng-bộ: nếu gặp nhân-viên Ðặc-Cảnh liên-can đến các vụ hình, anh để tùy tôi xét trước, để tránh oan-ức, trở-ngại cho công-tác chìm. Ấy là nhờ anh hiểu rõ phương-thức tình-báo và đặt nhu-cầu chống Cộng lên hàng ưu-tiên. Ðó là quyết-định linh-động duy-nhất trong cương-vị Chánh Sở Pháp-Cảnh của anh Long.
                                                                             *
KỶ-NIỆM đậm nét nhất trong đời tôi về anh Long là vụ rút lui ra khỏi Ðà-Nẵng, thành-lũy cuối cùng của Quân-Khu I Việt-Nam Cộng-Hòa.
Lúc ấy vào khoảng 10 giờ tối ngày 28-3-1975.
Trên máy vô-tuyến truyền-tin thuộc hệ Cảnh-Sát Sắc-Phục nội-thành Ðà-Nẵng, tôi nghe một đài gọi đài trung-ương, nhưng không có ai trả lời. Lát sau, có một đài khác cất tiếng: “Ðừng gọi vô-ích, bọn chúng chạy hết cả rồi!” Tôi bèn hỏi đài hồi nãy, thì được báo-cáo là có nhiều người ăn mặc lộn-xộn, vũ-khí cầm tay, đang nép hai bên lề đường từ hướng Hòa-Cường tiến vào.
Tôi dùng làn sóng của hệ Ðặc-Cảnh ra lệnh cho Sở Tác-Vụ Vùng và Sở Ðặc-Cảnh sở-tại đối-phó, đồng-thời gọi máy điện-thoại cho Đại-Tá Nguyễn Xuân Lộc, Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực Vùng I, lúc ấy đang cùng có mặt với các Chánh-Sở cấp Vùng và một số Chỉ-Huy-Trưởng Cảnh-Lực cấp Tỉnh tập-trung tại đây.
Lát sau, anh Long đến ngồi tại phòng truyền-tin Ðặc-Cảnh Vùng của tôi ― nơi đây có máy âm-thoại của cả 2 hệ nổi+chìm địa-phương lẫn hệ toàn-quốc, và máy điện-thoại bưu-điện, điện-thoại quân-sự ― cách dăm mười phút lại gọi hỏi tôi tình-hình thế nào.
Vì máy quá bận, tôi khuyên anh vào phòng-giấy của Đại-Tá Lộc để cùng theo-dõi diễn-biến tình-hình chung.
Khoảng sau 11 giờ đêm, từ đài Ðặc-Cảnh Vùng I Trung-Tá Long gọi tôi. Lần nầy tôi nghe giọng anh run lên, lời-lẽ trịnh-trọng khác thường: “Tôi xin mời ông Phụ-Tá, hiện là cấp chỉ-huy cao chức nhất, đến đây ngay để tổ-chức phòng-tuyến và điều-khiển đội-ngũ tử-thủ cùng với anh+em chúng tôi!” (Tử-thủ là lời cam-kết của Trung-Tướng Ngô Quang Trưởng đọc trên Ðài Phát-Thanh Ðà-Nẵng suốt chiều hôm nay).
Tôi hỏi về Đại-Tá Lộc thì anh đáp gọn với giọng bực-tức và chán-chường: “Các ngài đào-ngũ hết rồi!”
Anh Long kể lại với tôi là anh được lệnh, cùng với mọi người có mặt tại trụ-sở Vùng ― Chánh-Sở các Sở, Chỉ-Huy-Trưởng của một số Tỉnh, có cả mấy viên đại-tá quân-đội ― theo Đại-Tá Lộc xuống bến Giang-Cảnh, lên tàu Giang-Cảnh [thuộc BCH/CSQG Thị-Xã Đà-Nẵng], rời bến hướng ra biển Ðông.
Anh hỏi đi đâu thì Đại-Tá Lộc trả lời: “Chúng ta di-tản vào Nam!” Anh thấy máu uất xông lên đỉnh đầu, la lên: “Giặc chưa tấn-công, thuộc-viên vẫn còn ở lại, mà cấp chỉ-huy đã lén-lút bỏ đi như thế này là hèn!” Lộc cố giải-thích: “Bộ Tư-Lệnh Quân-Ðoàn đã rút đi rồi. Trong tình-huống này chúng ta đành phải phụ lòng anh+em mà thôi!” Long bèn rút súng, nhìn thẳng vào mặt từng người với vẻ khinh thường, và bảo tàu ghé vào bờ cho anh trở lui.
Và anh đã về trụ-sở, để cùng chiến-đấu, sống chết có nhau với anh+em.
TÔI tin-tưởng và kính-phục anh Long vô cùng; nhưng tôi thấy rõ là nếu đến sở thì sẽ dính kẹt ở đó, khó lòng điều-động hoạt-động bên ngoài, nên nói là tôi bận họp. Anh xin mượn tôi một máy vô-tuyến cầm tay, và đòi đến họp với tôi.
Tôi kéo Thiếu-Tá Ngô Phi Ðạm, Chánh Sở Tác-Vụ, ra xe. Ðến bến Bạch-Ðằng quả thấy xe Jeep xanh+trắng [của CSQG] và ô-liu [của QLVNCH] bỏ đậu nghênh-ngang; gọi máy vô-tuyến trên hệ Sắc-Phục đến Đại-Tá Lộc ở sở, ở nhà, không ai trả lời; tôi bèn chỉ-thị Trung-Tâm Hành-Quân Ðặc-Cảnh Vùng báo-cáo sự-việc lên Trung-Ương.
Anh Long đã đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu, tôi đáp là đến Ðặc-Khu, nhưng tôi đến Bộ Tư-Lệnh Quân-Ðoàn; nơi đây vắng hoe. Anh hỏi, tôi đáp là vào phi-trường, nhưng tôi đến Sở An-Ninh Quân-Ðội; nơi đây cũng chẳng còn ai. Anh không gặp tôi, lại hỏi; và tôi lại dối, tránh anh. Cứ thế mà tôi đến khắp các nơi vốn là chỗ dựa cho niềm tin của dân-nhân.
Ðến sau nửa đêm thì cả thành-phố đổ dồn qua cầu Trịnh Minh Thế để qua bến cảng, bãi biển Quận III, để mong chạy vào Sài-Gòn. Tôi cùng Ngô Phi Đạm, Chánh Sở Tác-Vụ, và Trần Văn Phú, Chỉ-Huy-Phó Thám-Sát Ðặc-Biệt Vùng, quan-sát xong tình-hình bên đó, len lách trở về thành-phố thì thoáng dưới ánh đèn pha thấy rõ hình-dáng của anh Nguyễn Văn Long, mặc cảnh-chiến-phục, gác khẩu M-16 ngang đùi, mặt-mày đỏ gay, tức uất nhưng đầy cương-nghị, lái xe ngược chiều chạy vụt qua.

ÐÓ là hình-ảnh cuối cùng của Trung-Tá Nguyễn Văn Long, mãi mãi hằn sâu trong ký-ức tôi.

                                                                         *
GẦN sáng, ngày 29-3-1975, Việt-Cộng pháo-kích hải-cảng, phi-trường. Mờ sáng, đặc-công từ hướng Núi Non-Nước bắt đầu tấn-công vào. Ðến trưa, tôi gọi máy về cho Đại-Úy Nguyễn Văn Tuyên, Chánh Sở Nghiên+Kế, lúc đó còn ngồi tại chỗ, ra lệnh giải-tán Trung-Tâm Hành-Quân của Ðặc-Cảnh Vùng I, là bộ-phận sau rốt của Chính- Quyền VNCH còn hoạt-động đến phút cuối cùng, và cho phép thuộc-viên tự tìm phương-tiện thoát thân.
Xế chiều, tôi mới kiếm được chiếc thúng, rời bờ, liều-lĩnh trước các làn đạn pháo-kích của địch và trực-xạ của chính bạn mình.
Và tôi không còn gặp lại anh Long.

                                                                        *
                                                                       * *

CÁI chết của Trung-Tá Cảnh-Sát Nguyễn Văn Long làm tôi suy-nghĩ rất nhiều.
Anh đã phục-vụ dưới nhiều chế-độ khác nhau, đảm-trách công-tác ở nhiều lĩnh-vực khác nhau, nhưng vẫn giữ mình trung-chính khiết-liêm. Anh tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ-trung trong lối sống và trong công việc, không bị lứa trẻ sau này vượt qua.
Trong lúc nước nhà đang bị cộng-sản xâm-lăng, anh ý-thức được chúng là kẻ thù số một của toàn-dân, sự-nghiệp chống Cộng phải là ưu-tiên số một của mọi người yêu quý Tự-Do, nên anh phải góp phần vàọ thành-quả chống Cộng của CSQG nói chung, là đã có lúc hạ được nhiều tên cộng-tặc hơn cả con số chúng bị thiệt-hại trên chiến-trường, do đó, anh tự nhận lãnh vào bản-thân mình một phần trách-nhiệm đối với đối-phương về những tổn-thất mà chúng hứng chịu nặng-nề; nhưng trên tất cả là sự sụp đổ thảm-khốc của Việt-Nam Cộng-Hòa, mà đối với Tổ-Quốc, Dân-Tộc, Lịch-Sử, và Thế-Giới, thì cái trách-nhiệm vô cùng lớn-lao ấy nhất-định là của mọi người, trong đó có anh; nên anh tự xử ― cũng như các anh-hùng Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, vân vân ― để tạ tội với Tiền-Nhân và Quốc-Dân, và để nói lên tinh-thần bất-khuất của người chiến-sĩ Tự-Do, không chịu hạ mình đầu-hàng kẻ thù.
CÁI chết của anh Long làm tôi hãnh-diện vô cùng. Tuy người chết không mong được đời nhắc đến, nhưng bổn-phận của người sống là phải phát-huy những tấm gương trí-dũng ngời sáng ấy, để nhờ đó mà mình tin-tưởng và phấn-khởi tiếp-tục lo toan sự-nghiệp chung.
Bây giờ, đối với toàn-dân, Nguyễn Văn Long không còn là một trung-tá, là một Chánh-Sở Tư-Pháp, là một viên-chức An-Ninh, là những gì gì khác nữa ... mà anh đã là và vẫn còn là đại-diện cho bất-cứ chiến-hữu ưu-tú nào, không phân-biệt cấp/bậc, chức-vụ, ngành/nghề, hình-sự hay phản-gián, phái mạnh hay phái đẹp; mà anh đã vinh-quang đi vào Lịch-Sử với tư-cách một anh-hùng của Dân-Tộc Việt-Nam nói chung và Lực-Lượng BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 466Cảnh-Sát Quốc-Gia nói riêng.


Ghi-Chú:
Nguyễn Văn Long sinh ngày 1 tháng 6 năm 1919 tại Phú-Hội, Huế, tuẫn-tiết tại Thủ-Đô Sài-Gòn của Việt-Nam Cộng-Hòa ngày 30 tháng 4 năm 1975.

;CSH