Pages

Sunday, August 31, 2008

GIẢI ĐAP CÔNG ÁN CHĂNG PHẢI THIỀN TÔNG

Lê Anh Chí

__________________________________________

Dàn Bài :

I) Ba Phương Thức Thiền Tông

II) Pháp môn ‘‘Giải (đáp) công án’’

III) Giải (đáp) công án là tri thức chẳng phải Kiến Tánh

IV) Khởi nghi tình chớ chẳng phải là ‘‘tìm đáp án cho công án’’

V) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi vấn

VI) Khởi Nghi tình rồi . . .

VII) Nguyên Lý Phá Nhập

VIII) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chánh pháp

IX) Sao gọi là chánh nghi ?

__________________________________________







I) Ba Phương Thức Thiền Tông



Việc tu hành của pháp môn Kiến Tánh gồm 3 Phương Thức :

1) truyền tâm ấn tâm

2) tự tu bằng Kinh Kim Cang

3) khán công án, thoại đầu

Chỉ vỏn vẹn có 3, không hai, không bốn, không năm.

Xem bài

Nguyên Lý Phương Thức Thiền Tông



Từ 800 năm nay, phần đông hành giả Thiền Tông đều tu theo pháp

công án, thoại đầu.

Pháp khán công án, thoại đầu là: khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối, duy trì nghi tình, đến khi nghi tình bỗng tan vỡ thì Kiến Tánh.



Xin lưu ý : Công án khác thoại đầu

Công án là một câu chuyện.

Thoại đầu là một câu nói.

Công án và thoại đầu đều dùng để khởi nghi tình



Bài này sẽ dùng chữ Công án thay cho cả hai chữ Công án và thoại đầu.





II) Pháp môn ‘‘Giải (đáp) công án’’



Có một số nơi tu hành như sau : thầy đưa ra một vấn đề, gọi là công án, trò tìm cách giải công án đó ; hết công án này lại đến công án kia. Giải được khoảng hơn 700 công án thì được xem là bậc thầy, là đắc đạo

Tu hành như vậy, trong bài này, được gọi là theo Pháp môn ‘‘Giải (đáp) công án’’





III) Giải (đáp) công án là tri thức chẳng phải Kiến Tánh



Ba Phương Thức Thiền Tông đều cùng một mục đích : Kiến Tánh.

Kiến Tánh là chứng ngộ Phật Tánh,

là chứng ngộ Phật Tâm

là chứng ngộ Đại Niết Bàn,

là chứng ngộ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh,

là chứng ngộ Bản Thể của Tâm



Kiến Tánh là chứng ngộ, là một sự thực chứng. Thực chứng Đại Niết Bàn,

thực chứng Thường Lạc Ngã Tịnh ,thực chứng Trạng Thái Kiến Tánh



Kiến Tánh là một sự chứng ngộ , chẳng phải là Kiến Văn Giác Tri.



1) Biết rằng tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh của ta bình đẳng với chư Phật, đều là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Biết như vậy chẳng phải là Kiến Tánh .

Hiểu, tin rằng tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh của ta bình đẳng với chư Phật, đều là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Hiểu, tin như vậy chẳng phải là Kiến Tánh .

Nhận thức rằng tất cả chúng sinh đều có Phật Tánh, rằng Phật Tánh của ta bình đẳng với chư Phật, đều là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Nhận thức như vậy chẳng phải là Kiến Tánh .



Kiến Tánh là một sự chứng ngộ .

Nhận thức, hiểu, biết , tin như trên là thuộc về Kiến Văn Giác Tri, là lòng tin, là lý luận ( mà lý luận rất gần với hí luận), đều chẳng phải là Kiến Tánh ; mà chỉ là điều kiện cần thiết để tu theo Thiền Tông mà thôi !



2) Giải (đáp) công án là tri thức, là thuộc về Kiến Văn Giác Tri chẳng phải Kiến Tánh

Giải (đáp) được một công án chỉ là dùng lý luận để giải quyết một vấn đề (nhân tạo) là tri thức , chẳng dính dáng gì đến sự thực chứng Thường Lạc Ngã Tịnh, chẳng phải là Kiến Tánh.

Giải (đáp) được 700công án chỉ là dùng lý luận để giải quyết 700 vấn đề (nhân tạo) là tri thức , chẳng dính dáng gì đến sự thực chứng Thường Lạc Ngã Tịnh, chẳng phải là Kiến Tánh.



Vì mục đích Thiền Tông là Kiến Tánh

Cho nên,

Giải (đáp) công án là chẳng phải là Thiền Tông.





IV) Khởi nghi tình chớ chẳng phải là ‘‘tìm đáp án cho công án’’



Pháp khán công án, thoại đầu là: khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối, duy trì nghi tình, đến khi nghi tình bỗng tan vỡ thì Kiến Tánh.



Việc phải làm là khởi nghi tình chớ chẳng phải là tìm đáp án cho công án.

Cho nên,

Giải (đáp) công án là chẳng phải là Thiền Tông.





V) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi vấn



Xin nhớ cho rằng đây là nghi tình ; nghi tình chớ chẳng phải là nghi vấn !

Thoại đầu không là một câu đố.

Công án không là một bài toán đố.

Tham công án, thoại đầu chẳng phải là để tìm đáp án cho một vấn đề.

Tham công án, thoại đầu để khởi nghi tình. Rồi sau đó , . . .

Rồi sau đó , như thế nào thì đã nói ở trên, và lập lại sau đây





VI) Khởi Nghi tình rồi . . .



Khởi Nghi tình rồi kết nghi tình thành một khối.

Pháp khán công án, thoại đầu là: khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối, duy trì nghi tình, đến khi nghi tình bỗng tan vỡ thì Kiến Tánh.



Tại sao tham công án, thoại đầu lại có thể Kiến Tánh ? - nguyên tắc là "dĩ độc chế độc" : Thiền sư Nguyệt Khê bảo rằng tu theo các pháp môn khác giỏi lắm chỉ đến "vô thủy vô minh", cần phải dùng "nhất niệm vô minh" để phá "vô thủy vô minh". Khi vô thủy vô minh bị phá thì Kiến Tánh.



Pháp tham công án, thoại đầu dùng nghi tình làm nhất niệm vô minh (để phá vô thủy vô minh) ; bởi vậy, cần khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối (ở giai đọan này, nghi tình là nhất niệm vô minh) và gắng sức giữ nghi tình :

nghi tình thành một khối là nhất niệm vô minh

vì nghi tình thành một khối và chỉ có một vô minh, nên vô minh này cũng là vô thủy vô minh

khi nghi tình bỗng tan vỡ thì "nhất niệm vô minh" bị phá và "vô thủy vô minh" cũng tan vỡ

khi vô thủy vô minh bị phá thì Kiến Tánh.



Tu theo Phương Thức này cũng cần có thầy vì : a) khởi nghi tình có thể làm thần kinh căng thẳng b) "thiền bệnh" : thiền sinh có thể có thiền bệnh ở vài giai đoạn của pháp môn.



Vì cần khởi nghi tình, kết nghi tình thành một khối (nhất niệm vô minh) , nên gọi đó là làm ra "cái độc", dùng "cái độc" này để phá "cái độc" vô thủy vô minh, nên gọi là dĩ độc chế độc





VII) Nguyên Lý Phá Nhập



Xem bài

Nguyên Lý Vượt Nhập và Phá Nhập

( Nguyên Lý Nguyên Lý Thiền Tông [3] )



1) Kiến Tánh = Nhảy Một Cái vào thẳng đất Như Lai

Trong Chứng Đạo Ca ,Thiền Sư Huyền Giác đã diễn tả sự Kiến tánh như sau :

NHẤT SIÊU trực nhập Như Lai địa

mà Trúc Thiên dịch :

Một nhẩy vào liền đất Như Lai .

đây là bản dịch ‘chính thức’ được nhiều người công nhận.

Tôi dịch là :

NHẢY Một Cái vào thẳng đất Như Lai
Dịch là Nhảy Một Cái thì gợi hình, gợi ý hơn và nhất là Việt hơn. Nhảy Một Cái còn nói lên được sự hoát nhiên của Ngộ.

Đây là cái nhảy siêu không gian, vượt thời gian.



2) siêu không gian

Nhảy từ Vọng tâm sang Chân tâm, từ thế giới Tam Độc sang thế giới Thường Lạc Ngã Tịnh, từ vũ trụ Ái Dục sang vũ trụ Phật Tánh , từ vũ trụ chúng sinh sang vũ trụ chư Phật.



3) vượt thời gian

Nhảy vượt ngược thời gian từ rào Vô Thủy Vô Minh sang Đại Niết Bàn, từ nghiệp chướng của vô lượng kiếp sang thời điểm Vô Sinh !

Để :

_NHẢY Một Cái vào thẳng đất Như Lai

có hai cách :
_Vượt Nhập : Vượt rào vô thủy vô minh mà Nhập đất Như Lai

_Phá Nhập : Phá rào vô thủy vô minh mà Nhập đất Như Lai



4) Nguyên Lý Phá Nhập là Phá rào vô thủy vô minh mà Nhập đất Như Lai !

Điển hình của Nguyên Lý Phá Nhập này là phương thức ‘tham công án thoại đầu‘ : dùng nghi tình làm nhất niệm vô minh để phá vô thủy vô minh .

Khi nghi tình bỗng tan vỡ thì "nhất niệm vô minh" bị phá và "vô thủy vô minh" cũng tan vỡ

Khi vô thủy vô minh bị phá thì

_NHẢY Một Cái vào thẳng đất Như Lai

tức Kiến Tánh.

Xem bài viết " Nguyên Lý Phương Thức Thiền Tông"





VIII) Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chánh pháp



Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chánh pháp

Trên con đường đến Thánh Đạo, ‘nghi ngờ Chánh pháp’ là một trong năm chướng ngại.

Đối với Thiền-tông, nhận thức, hiểu, biết , tin nhận Chân-tâm còn là điều kiện cần thiết để tu theo Thiền Tông :

Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chân-tâm

Khởi Nghi tình nhưng không nghi ngờ Chánh pháp , không nghi ngờ Chân-tâm





IX) Sao gọi là chánh nghi ?



Nghi tình là chánh nghi

Sao gọi là chánh nghi ? Vì :

_Nghi tình chớ chẳng phải là nghi vấn

_Nghi tình chớ chẳng phải là nghi ngờ Chánh pháp

_Nghi tình là phương tiện để Kiến Tánh :Khởi Nghi tình rồi dùng Nghi tình mà phá rào vô thủy vô minh mà Nhập đất Như Lai ! ( Nguyên Lý Phá Nhập)

Vì Nghi tình là một giai đọan để đạt được Kiến Tánh, nên Nghi tình là chánh nghi



*

*

* Lê Anh Chí *.

_____________



Kinh sách tham khảo

Kinh :

Kinh Đại Bát Niết Bàn, dịch giả Thích Trí Tịnh

Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận

Cuộc đời Đức Phật (Trích dẫn Kinh), dịch giả Thích Trung Quán

Kinh Trường A Hàm, dịch giả Thích Thiện Siêu

Kinh Kim Cang, dịch giả Đoàn Trung Còn

Kinh Kim Cang, dịch giả Thích Trí Tịnh

Kinh Kim Cang và Chánh Pháp chưa từng có, dịch và chú giải : Thích Huyền Vi

Kinh Kim Cang, dịch giả Thích Duy Lực

Ngữ Lục (đến đời Lục Tổ):

Sáu cửa Thiếu Thất, Đạt Ma Sư Tổ, dịch giả Trúc Thiên

Luận Tối Thượng Thừa , Ngũ Tổ, dịch giả Thích Thanh Từ

Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Minh Trực

Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ, dịch giả Thích Duy Lực

Chứng Đạo Ca, Huyền Giác, dịch giả Trúc Thiên

Ngữ Lục (sau đời Lục Tổ):

Bá Trượng Ngữ Lục, dịch giả Thích Duy Lực

Truyền Tâm Pháp Yếu, Hoàng Bá, dịch giả Thích Duy Lực

Cội nguồn truyền thừa và phương pháp tu trì của thiền tông, Nguyệt Khê, dịch giả Mai Phúc Hiền

Chơn tâm trực thuyết, Phổ Chiếu

Lâm Tế Ngữ Lục

Thiền Đốn Ngộ, nhiều tác giả : Huyền Giác, Huệ Hải, Thạch Thành Kim, Oánh Sơn, Hư Vân; dịch giả Thích Thanh Từ

Tọa Thiền Luận, Đại Giác, dịch giả Như Hạnh

Tu tâm quyết, Phổ Chiếu

Sách :

Tứ Diệu Đế, Thích Thiện Hoa

Thiền Sư Việt Nam, Thích Thanh Từ

Tổ Thiền Tông, Thích Thanh Từ

Cao Tăng Dị Truyện, Hạnh Huệ biên dịch

Thiền Luận, Tập Thượng . Suzuki, dịch giả Trúc Thiên

*

*

Trang Nhà Kiến Tánh www.kientanh.com

-------------------------------------------------------

* Trang Chính * M ụ c L ụ c * Đoản Luận * Thơ *

------------------------------------------------------------------------------

* Hộp Thư * Nối kết Trang Nhà Phật Pháp Việt Nam * Nối kết Văn Học *

------------------------------------------------------------------------------

Bài mới Kiến Tánh * Bài mới Trang LêAnhChí *

No comments:

Post a Comment