Pages

Friday, February 27, 2009

TRẦN BÌNH NAM * BÌNH LUẬN

=


Tư Bản và Xã Hội
Hai mặt của một vấn đề

Trần Bình Nam

Không có gì giải thích rõ ràng sự khác biệt giữa khuynh hướng Cộng Hòa và khuynh hướng Dân Chủ tại Hoa Kỳ bằng hai câu nói của tổng thống Ronald Reagan và Barack Obama về vai trò của chính phủ.
Ngày 20/1/1981 trong bài diễn văn nhậm chức tổng thống Reagan nói: “Trong cuộc khủng hoảng hiện nay, chính phủ không phải là giải pháp, chính phủ chính là vấn đề của chúng ta” (nguyên văn: In this present crisis, government is not the solution to our problem; government is the problem).


Tổng thống Obama, trong bài diễn văn nhậm chức ngày 20/1/2008 thì nói: “Chúng ta không còn thắc mắc chính phủ quá lớn hay quá nhỏ, thay vào đó chúng ta hỏi chính phủ có làm việc hữu hiệu không – có tạo ra công ăn việc làm lương đủ sống, có chế độ săn sóc sức khỏe tốt, có hưu bổng đầy đủ cho người nghỉ hưu không…” (nguyên văn: The question we ask today is not whether our government is too big or too small, but whether it works -- whether it helps families find jobs at a decent wage, care they can afford, a retirement that is dignified.)



Đối với tổng thống Reagan, đại diện cho khuynh hướng Cộng Hòa, nguyên tắc cung cầu là bàn tay vô hình điều khiển nền kinh tế quốc gia. Và chính sách thuế khóa của chính phủ nếu thích hợp (chính yếu là giảm thuế) sẽ tạo điều kiện cho giới tư bản đầu tư tiền bạc đúng lúc đúng chỗ mang lại sự phồn thịnh. Nếu chính phủ dùng quyền viết ngân sách để đánh thuế cao rồi dùng tiền thuế bỏ vào các chương trình chi tiêu và trợ cấp để ảnh hưởng đến sinh hoạt xã hội thì nền kinh tế sẽ héo mòn như một cái cây cần đất khô lại được trồng vào một vùng đất lắm nước. Nói cách khác chính phủ sẽ là nguyên nhân của mọi vấn đề nếu can thiệp vào sự vận hành của luật cung cầu.



Những người Dân Chủ hiểu luật cung cầu là cốt tủy của một nền kinh tế tự do, và vai trò quan trọng của các ngân hàng và các đại công ty trong một nền kinh tế, nhưng họ không khoán trắng vào tay các nhà tư bản. Nếu để hoàn toàn tự do không có sự kiểm soát của chính phủ, lòng tham (bản tính tự nhiên của con người) sẽ làm các nhà tư bản bóp méo sinh hoạt kinh tế và đến một lúc nào đó khủng hoảng kinh tế sẽ bộc phát.




Mặt khác trong thế giới tư bản của luật cung cầu thành phần có khả năng trí tuệ và đa năng sẽ chiếm thế thượng phong, tích lũy một tỉ số lớn tài sản quốc gia tạo ra sự chênh lệch khả năng kinh tế giữa các tầng lớp trong xã hội. Cho nên những người Dân Chủ chủ trương chính phủ phải nhúng tay vào sinh hoạt kinh tế, dùng quyền ngân sách để phân phối tài nguyên quốc gia sao cho sự vận hành dưới bảng chỉ đường của luật cung cầu không trở thành méo mó tạo ra bất công xã hội.
Nói chung người Cộng Hòa hay người Dân Chủ đều biết giới hạn kinh tế tư bản và sự cần thiết của sự can thiệp của chính phủ. Cái khác biệt là mức độ.



Kinh tế thị trường huy động sức người sức của hữu hiệu nhưng thỉnh thoảng theo chu kỳ tạo ra khủng hoảng kinh tế. Trong khi sự can thiệp quá nặng tay của chính phủ tạo ra sự trì trệ kinh tế. Cho nên ai cũng thấy sự cân bằng giữa sự vận hành của luật cung cầu và sự can thiệp của chính phủ là cần thiết.



Và đó là lý do tại sao tại Hoa Kỳ qua các cuộc bầu cử định kỳ đảng Dân Chủ và đảng Cộng Hòa thay phiên nhau cầm quyền để sinh hoạt kinh tế (và qua đó sinh hoạt chính trị) được điều chỉnh vĩ mô qua thời gian, và tại sao nếu đảng này vào tòa Bạch cung thì đảng kia thường nắm Quốc hội để làm nhiệm vụ đối lập điều chỉnh vi mô các chính sách kinh tế làm cho sinh hoạt xã hội được hài hòa.
Trên thực tế, Lực lượng Tư bản và Sự Can thiệp của Chính phủ là hai điều đều cần thiết và bổ túc cho nhau. Tuy nhiên mỗi lần do điều kiện kinh tế phải chuyển đổi “chính trị” từ phương thức này sang phương thức khác bởi quyết định của dân qua bầu cử thì phe mất quyền chính trị thường có khuynh hướng đối kháng để kềm hãm phe thắng thế không đi quá đà trong các chính sách mới, đồng thời chuẩn bị thế chính trị cho khuynh hướng của mình.



Và khi sự chuyển đổi chính trị là kết quả của một tình trạng khủng hoảng xã hội và kinh tế thì phản ứng đối kháng càng mạnh mẽ. Và điều này giải thích sự phản kháng đầy mầu sắc đảng phái của đảng Cộng Hòa đối với luật kích thích kinh tế 787 tỉ vừa được tổng thống Obama ký ban hành ngày 17/2/2009. Các lý lẽ phản kháng (như quá nhiều chương trình chi tiêu, quá nhiều chương trình trợ cấp, chương trình phi lý như giúp những người mất nhà do họ thiếu trách nhiệm khi vay tiền mua nhà biết rằng mình không có khả năng trả ...) đều hữu lý trên mặt lý thuyết nhưng không hữu lý trên mặt thực tế. Khi con bệnh đang hồi thập tử nhất sinh phương thuốc cần nặng về chữa trị biến chứng hơn là nặng về chữa trị nguyên nhân có tính dài hạn. Và đó là bản chất và nội dung của luật kích thích kinh tế 787 tỉ mỹ kim.



Trong 8 năm cầm quyền tổng thống George W. Bush áp dụng đường lối kinh tế thuần tư bản đặt nặng trên hai nguyên tắc làm kim chỉ nam từ thời tổng thống Reagan là (1) giúp đỡ cho các đại công ty phát triển làm ăn, tin rằng người nghèo sẽ được hưởng phúc lợi theo (trickle –down economics) và (2) giảm thuế - nhất là giảm thuế cho những người giàu có, những tay tư bản – để các nhà tư bản có thêm tiền đầu tư làm cho nền kinh tế chuyển vận mang lại phúc lợi cho xã hội (supply-side economics).



Tuy nhiên chính phủ Cộng Hòa đã tạo ra một khung cảnh sinh hoạt kinh tế thiếu kiểm soát đưa đến quá đáng và lợi dụng. Giới tư bản (tượng trưng là Wall Street và Main Street – Thị trường Chứng khoán và Ngân hàng) được tự do do sự phá bỏ các khâu kiểm soát (regulations) trở nên làm ăn thiếu nguyên tắc. Ngân hàng Trung ương giảm lãi xuất quá thấp và quá lâu, các dân biểu kiếm phiếu bằng cách khuyến khích mọi người mua nhà dù không đủ điều kiện và làm ngơ trước mọi dấu hiệu bất ổn đã đưa đến cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nỗ vào tháng 9/2008. Sau gần 6 tháng (9/2008 – 2/2009) các cơ sở tài chánh lớn và các ngân hàng kếch xù trụ cốt của kinh tế quốc gia hoàn toàn sụp đổ và mới nhất là sự lung lay của hai đại ngân hàng còn sống sót là Bank of America và City Bank. Đây là cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất và trầm trọng nhất kể từ cuộc đại khủng hoảng năm 1929.



Và đã có khủng hoảng kinh tế thì chính phủ phải can thiệp.
Đó là điều từng xảy ra như một nguyên tắc, mặc dù mỗi lần xẩy ra đều có cuộc tranh cãi giữa các chính trị gia và các nhà kinh tế về mức độ và sự hữu hiệu của phương pháp chữa trị.
Trong cuộc đại khủng hoảng năm 1929 tổng thống Franklin D. Roosevelt đã thành lập Tổng Cục Tìm Việc Làm (Work Projects Administration – WPA) tạo ra 8 triệu công ăn việc làm, thành lập chương trình An sinh Xã hội (Social Security) cho người nghỉ hưu và người già cũng như các cơ chế bảo vệ và kiểm soát như FDIC (Federal Deposit Insurance Commission) và SEC (Securities & Exchange Commisssion). Trong cuộc khủng hoảng tháng 9/2008 tổng thống Bush cũng đã khẩn cấp quốc hữu hóa hai đại công ty cho vay tiền (chính yếu để mua nhà) sạt nghiệp Fannie Mae và Fredie Mac và vội vàng thông qua luật cho phép Bộ Tài chánh tiêu 700 tỉ mỹ kim cứu nguy các cơ sở tài chánh nòng cốt của nền kinh tế quốc gia đang trên đà sụp đổ.




Và sau khi tổng thống Obama nhậm chức, công việc đầu tiên của ông là thúc đẩy quốc hội, và chưa đầy một tháng đã ký ban hành ngân sách kích thích kinh tế (stimulus package) 787 tỉ mỹ kim gồm gần 25% giảm thuế theo yêu sách của đảng Cộng Hòa, và còn lại cho các chương trình tạo công ăn việc làm ngay trước mắt và xây dựng căn bản hạ tầng cho sự phát triển bền vững như sửa chữa đường sá, cầu cống, trường học, hệ thống điện toán đa dẫn (broadband), chương trình tự túc năng lượng ...



Các nhà kinh tế tư bản cũng như một số dân biểu nghị sĩ đảng Cộng Hòa cho rằng ngân sách 787 kích thích kinh tế của tổng thống Obama không giúp đặt căn bản cho sự phát triển dài lâu như sự giảm thuế cho giới tư bản và khuyến khích giúp đỡ các đại công ty. Họ quên rằng các chính sách trên đã được thi hành trong 8 năm của Bush và vì quá tin vào sự nhiệm mầu của thuyết supply-side và trickle-down quên cả nhiệm vụ kiểm soát đã đưa đến tình trạng nguy ngập hôm nay.



Người ta phê bình đảng Dân Chủ và ông Obama đang áp dụng nguyên tắc xã hội chủ nghĩa của Âu châu, hậu quả sẽ làm cho Hoa Kỳ trở nên nghèo khó thiếu thốn như tại Âu châu. Sự phê bình này có giá trị ở chỗ Hoa Kỳ là một nước tư bản và nền kinh tế tư bản cung cầu của nó đã giúp nước Mỹ thành cường quốc kinh tế thế giới. Nhưng sự phê bình không có giá trị ở chỗ là nếu không tạm thời Âu châu hóa nền kinh tế Hoa Kỳ thì trận bão táp kinh tế 2008 này có thể sẽ làm tê liệt quốc gia. Các nước Âu châu không phải bỗng nhiên có một chế độ kinh tế tư bản đậm mầu sắc xã hội như hiện nay, trong đó sự giúp đỡ người yếu kém trong xã hội cũng cần thiết như sự phát triển kinh tế.




Là một lục địa già và cũ (Old Europe - theo lời của cựu bộ trưởng quốc phòng Donald Rumsfeld) Âu châu đã trải qua mọi thử thách, và có thể họ đang chọn cái giải pháp mà họ cho là tối hảo.
Chương trình kích thích kinh tế tổng thống Obama vừa ký ban hành sẽ làm chậm lại đà suy thoái kinh tế hiện nay, đó là điều không cần bàn cãi. Điều cần bàn cãi là nó có giúp cho nền kinh tế phục hồi hoàn toàn hay không, và một câu hỏi then chốt khác là hệ lụy thâm thủng ngân sách (để có tiền kích thích kinh tế) là một gánh nặng con cháu chúng ta có kham nổi hay không.




Vị trí của Hoa Kỳ trên thế giới sau cuộc khủng hoảng này hoàn toàn lệ thuộc vào đáp số của hai câu hỏi trên.
Nhìn rộng ra, hình như chính trị và kinh tế thế giới biến chuyển qua lại giữa hai quan niệm phát triển kinh tế và an sinh xã hội. Khi tình trạng phát triển kinh tế gặp trở ngại như suy thoái kinh tế đe dọa an sinh xã hội thì các biện pháp mang lại an sinh xã hội trở thành ưu tiên. Khi các biện pháp quá chú trọng về an sinh xã hội làm cho kinh tế bị ngưng trệ thì đó là lúc giảm sự can thiệp của chính phủ đề nền kinh tế được tự do.




Khi những người lập quốc Hoa Kỳ hình thành trên căn bản một chế độ lưỡng đảng, một bên Cộng Hòa chủ trương phát triển là chính (dân sinh sẽ được phục vụ do thành quả của kết quả kinh tế), một bên Dân Chủ chú trọng đến dân sinh (phát triển là một quan tâm nhưng ưu tiên sau dân sinh) bảo đảm bởi một Hiến pháp đa đảng họ đã thấy sự vận hành này của xã hội mà mọi chế độ chính trị đều phải tuân theo như một quy luật. Cho nên sự tranh cãi giữa Cộng Hòa và Dân Chủ tại Hoa Kỳ không là một vấn đề.




Đó là một sinh hoạt dân chủ để làm cho Hoa Kỳ luôn là một quốc gia hùng mạnh trong khi nhân dân được bảo đảm một đời sống tự do, phóng khoáng và đầy đủ.
Thuyết Mác xít do Karl Marx và Angel chủ trương trên bản chất là một nỗ lực giải quyết bất công xã hội do cuộc cách mạng kỹ nghệ tại Anh quốc (cuối thế kỷ 18 kéo dài sang đầu thế kỷ 19) mang lại như môi trường bị hủy hoại, đời sống kinh tế chênh lệch, thành phần thợ thuyền bị bóc lột... Nhưng lý thuyết cải tạo xã hội của Marx chủ trương tiêu diệt tư hữu và thị trường đã đi quá đà, chệch hướng, và đã cung cấp một căn bản lý thuyết cho những tay đầu cơ chính trị thiết lập những chế độ độc tài.



Chế độ độc tài Mác xít tại Liên bang Xô viết (trong đó chính phủ nắm toàn bộ sinh hoạt kinh tế) đã tàn tạ cùng với các nước Đông Âu, và các chế độ cộng sản tại Trung quốc, và Việt Nam cũng trên con đường tàn tạ nhường chỗ cho kinh tế thị trường.



Tại Việt Nam chính quyền cộng sản từ năm 1986 đã tạm từ bỏ chế độ kinh tế tập trung trả quyền quyết định kinh tế cho nông dân và các thương gia nhưng vẫn kéo dài cái đuôi “xã hội chủ nghĩa” trong một nền kinh tế mệnh danh là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Lý thuyết “định hướng” này không có gì sai trái nếu nó được dùng như một phương thức để tránh những thái quá của kinh tế thị trường như sự phân nhiệm “Cộng Hòa, Dân Chủ” tại Hoa Kỳ . Rất tiếc tại Việt Nam nó là một công thức để bảo vệ đảng cầm quyền. Đảng nắm các sinh hoạt quốc doanh nói là để bảo vệ xã hội nhưng thực chất là để bảo vệ quyền lợi của đảng.



Tại Trung quốc có một biến chuyển đáng quan tâm do ông Cheng Li nêu ra trong bài viết nhan đề “China’s Team of Rivals” đăng trong tạp chí Foreign Policy số Tháng Ba/Tháng Tư 2009. Theo ông Cheng Li, Hồ Cẩm Đào, Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung quốc đã có một quyết định độc đáo trong Đại hội đảng thứ 17 (10/2007) là cất nhắc hai Ủy viên Trung ương đảng trẻ tuổi vào Ủy ban Thường trực của Bộ chính trị là hai ông Tập Cận Bình (Xi Jinping) và Lý Khắc Cường (Li Keqiang) để chuẩn bị cho một trong hai trở thành Tổng bí thư đảng vào đại hội đảng thứ 18 năm 2012.
Hai nhân vật này có khuynh hướng và đường lối chính trị khác nhau. Ông Tập Cẩm Bình thuộc nhóm có khuynh hướng cởi mở chủ trương kinh tế thị trường, khuyến khích kinh tế tư nhân (gọi là nhóm Con Dòng – Elitism) (1) trong khi ông Lý Khắc Cường thuộc nhóm có khuynh hướng chăm lo các vấn đề xã hội và sự ổn định của đời sống nông thôn là chính (gọi là nhóm Dân Túy – Populist).


Hình như ông Hồ Cẩm Đào có ý chuẩn bị hai khuynh hướng đối chọi nhau trong đảng như một cơ chế điều chỉnh những thái quá của sự nhắm mắt phát triển bất chấp hậu quả hay sự can thiệp quá sâu đậm của nền kinh tế xã hội tàn dư của nền kinh tế Mác Xít. Có thể đảng Cộng sản Trung quốc đã cảm nhận được rằng đảng không thể giữ tính chính thống và tồn tại nếu tiếp tục đường lối kinh tế dựa vào xuất cảng là chính như hiện nay và đàn áp mọi tiếng nói đối lập của nhân dân. Với công thức mới đảng Cộng sản Trung quốc chuẩn bị cho đối lập lên tiếng qua khuynh hướng Lý Khắc Cường (hoặc ngược lại qua khuynh hướng Tập Cẩm Bình nếu khuynh hướng Lý Khắc Cường cầm quyền). Mèo trắng mèo đen đều có ích nếu duy trì được sự chính thống của đảng. Và vào đại hội thứ 18 tùy theo đảng Cộng sản Trung quốc chọn đường lối ưu tiên phát triển hay ưu tiên chăm lo dân sinh ổn định xã hội mà ông Tập Cẩm Bình hay Lý Khắc Cường sẽ được bầu vào chức vụ Tổng bí thư.



Nếu quả thật đây là thâm ý chính trị của đảng Cộng sản Trung quốc thì chuyển biến này sẽ tạo ra tại Trung quốc một khung cảnh chính trị không khác gì Cộng Hòa và Dân Chủ tại Hoa Kỳ.
Âu, Á, Tư Bản chủ nghĩa và Xã Hội chủ nghĩa gặp nhau ở đây. Và cuối cùng công thức xã hội Âu châu, một xã hội có tự do dân chủ, có một nền chính trị đa đảng và một chế độ xã hội trong đó người không may mắn và ít khả năng vẫn có thể sống chứ không bị chôn vùi dưới lớp gạch nặng nề của các đại ngân hàng và của các đại công ty sẽ là cái xã hội mà Hoa Kỳ và Trung quốc vốn khởi đầu từ những xuất phát hoàn toàn đối nghịch với nhau sẽ cùng đi đến.

Trần Bình Nam
Feb. 27, 2009
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com

(1) Có nơi dịch là nhóm “bảo hoàng” hay nhóm “vương tử”


=

No comments:

Post a Comment