Pages

Sunday, March 8, 2009

TIN TỨC & BÌNH LUẬN


S.O.S Nhan Dinh Ve Ky Nghe O VN


LỜI GIỚI THIỆU CỦA VẠN MỘC CƯ SĨ:

Cộng sản nghĩa là chú trong phát triển kỹ nghệ để xây dựng đất nước giàu mạnh gấp mười tư bản, và nâng cao đời sống giai cấp vô sản. Do đó thịnh thời cộng sản đã đẻ ra bao kế hoạch năm mười năm càng làm cho đất nước điêu linh từ Liên Xô sang Trung Quốc Việt Nam. Đầu lưỡi cộng sản thường là khoa học, kỹ nghệ nặng, còn chê bai kinh tế tư bản là kinh tế tiêu dùng, là phồn vinh giả tạo.

Sau thời đổi mới, không còn kế hoạch 5 , 10 năm, không còn công kỹ nghệ, chỉ còn cướp đất, bán nước, buôn dân, lập nhà hàng, khách sạn ăn chơi. Bài sau đây của người Hà Nội viết về ý kiến của một thương gia Nhật Bản, và một số bài khác để bạn đọc tham khảo.



Hà Nội (NV) - Tại diễn đàn kinh tế Việt-Nhật lần ba diễn ra vào sáng 3 Tháng Ba ở Hà Nội, ông Mitsuo Sakaba, đại sứ Nhật tại Việt Nam thú thật rằng ngành công nghiệp phụ trợ (sản xuất vật liệu phục vụ các ngành công nghiệp khác) của Việt Nam làm ông ta “sốc”. Vị đại sứ này bảo rằng: Vì ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam hiện chỉ cung cấp được thùng carton, thậm chí chưa thể sản xuất vỏ chai rượu đủ chất lượng, tỉ lệ nội địa hóa rất thấp nên thời gian để tranh đấu cho ‘sinh mệnh của nền công nghiệp’ Việt Nam không còn nhiều”.



Ông Mitsuo Sakaba kể rằng, năm ngoái, sau khi đi thị sát một số doanh nghiệp Nhật đang hoạt động tại Việt Nam, ông ta ngỡ ngàng khi Việt Nam vẫn phải nhập các loại phụ tùng, linh kiện từ Nhật và các nước Ðông Nam Á. “Tôi đã rất ngạc nhiên khi được biết Việt Nam chỉ có thể cung cấp thùng carton và thật sự 'sốc' khi được biết, các doanh nghiệp sản xuất rượu của Nhật Bản tại Việt Nam phải nhập khẩu cả vỏ chai rượu”.
Các doanh nghiệp sản xuất rượu của Nhật Bản tại Việt Nam không thể sử dụng vỏ chai rượu do Việt Nam sản xuất vì độ dày của vỏ chai không đều, ảnh hưởng đến lượng rượu đổ cào chai. Phối màu của vỏ chai cũng không đều nên chai rượu không bắt mắt. Cũng vì vậy, ông Mitsuo Sakaba nhận xét: “Thật đáng tiếc, khi ở Việt Nam chưa có nhà sản xuất nào có thể làm và cung ứng sản phẩm vỏ chai rượu đáp ứng yêu cầu của phía sản xuất rượu”.




Chẳng riêng vỏ chai rượu, theo ông Mitsuo Sakaba, ngay cả những phụ tùng, linh kiện nhỏ trong các phụ tùng, linh kiện cho các nhà sản xuất cũng phải nhập khẩu, nên tỉ lệ “nội địa hóa” (tỉ lệ sử dụng vật liệu, linh kiện, phụ tùng do Việt Nam sản xuất) thấp hơn báo cáo rất nhiều.
Ðại sứ Nhật khẳng định: “Ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam chưa đủ tin cậy và điều đó liên quan đến cả vận mệnh của công nghiệp Việt Nam lẫn quan hệ đầu tư thương mại và chính sách ODA trong tương lai giữa Nhật Bản với Việt Nam và địa vị chính trị của Việt Nam ở Ðông Nam Á.
Có lẽ nên nhắc lại rằng, trong hai thập niên vừa qua, chính quyền CSVN đã đề ra nhiều chính sách ưu đãi nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp, với mục đích phát triển công nghiệp phụ trợ, tạo thêm việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách và đặc biệt là tiếp nhận công nghệ hiện đại. Tuy nhiên do quản lý tồi và vì tham nhũng (không giám sát chặt các cam kết của nhà đầu tư nước ngoài), đến nay, các mục tiêu vừa kể đều không đạt. Công nghiệp phụ trợ thì thảm hại như đại sứ Nhật nhận xét.


Khoảng năm 2000, Bộ Công Nghiệp (nay là Bộ Công Thương) CSVN đã từng tổ chức một cuộc khảo sát các liên doanh sản xuất xe hơi tại Việt Nam. Báo cáo về cuộc khảo sát này khiến công chúng sửng sốt: Tuy chính quyền CSVN dành nhiều ưu đãi cho các hãng sản xuất xe hơi nước ngoài (cho thuê đất với giá rẻ, cấm nhập xe hơi second hand và tăng thuế nhập khẩu xe hơi mới lên tới 300% giá trị thật), nhằm giúp các liên doanh sản xuất xe hơi trong nước có thể chiếm thị trường nội địa, qua đó kích thích công nghiệp phụ trợ phát triển, từng bước tiếp nhận công nghệ hiện đại, để có thể sản xuất xe hơi như Nam Hàn... Thế nhưng suốt mười năm, các liên doanh sản xuất xe hơi tại Việt Nam vẫn không dùng vật liệu, linh kiện, phụ tùng do Việt Nam sản xuất. Ngay cả các loại ốc vít cũng phải nhập từ nước ngoài và chỉ có hãng Toyota chuyển giao công nghệ... sơn. Ðiều này được xem như đồng nghĩa với việc chính quyền CSVN bắt tay với các hãng sản xuất xe hơi nước ngoài, ép người tiêu dùng Việt Nam phải mua xe hơi nội địa với giá cao gấp 2 hoặc ba lần so với giá thị trường bên ngoài.


Trở lại diễn đàn kinh tế Việt-Nhật diễn ra vào sáng 3 Tháng Ba, tại Hà Nội, đại sứ Nhật tại Việt Nam tiết lộ: “Khoảng Tháng Sáu năm ngoái, một lãnh đạo của chính phủ Việt Nam từng nói với ông: 'Chính phủ Việt Nam đã có quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp phụ trợ'. Trên thực tế, Việt Nam đã có một quy hoạch như thế nhưng đến giờ, Việt Nam vẫn chưa có kế hoạch hành động cụ thể nào về việc sẽ làm gì và làm như thế nào”.


Việt Nam vẫn tự hào vì dồi dào nhân công giá rẻ song ông Mitsuo Sakaba cảnh báo: Năng lực cạnh tranh quốc tế nhờ vào giá rẻ sẽ giảm dần. Nếu không sản xuất được sản phẩm chất lượng cao, giá rẻ, phù hợp nhu cầu thì không thể tránh được việc bị loại khỏi thương trường. Nếu một doanh nghiệp đa quốc gia, có nhiều cơ sở sản xuất ở Ðông Nam Á và phát triển chiến lược kinh doanh mang tính toàn cầu thì họ có thể từ bỏ việc sản xuất ở Việt Nam để nhập sản phẩm ở các nước lân cận.


Nền công nghiệp nội địa của Việt Nam sẽ ra sao khi quá trình tự do hóa trong khu vực ASEAN và giữa Trung Quốc với ASEAN đã bắt đầu? Ông Mitsuo Sakaba nhận định: “Không còn nhiều thời gian để tranh đấu vì sinh mệnh của nền công nghiệp Việt Nam ”. (G.Ð.)


===
TRI THỨC CÔNG NGHỆKhoa học – Công nghệ Việt Nam: Đang ở đâu?Thứ ba, 24/02/2009, 16:03 (GMT+7)
(SGGP_12G).- Đây là câu hỏi được nhiều người quan tâm và nhiều người muốn tìm câu trả lời. Không thể so sánh với những quốc gia tiên tiến về Khoa học – Công nghệ (KH-CN) trên thế giới, nhưng VN có thể so sánh với các quốc gia trong khu vực? Và đâu là thước đo cho sự so sánh này?
Vì sao phải nhìn lại?
Không phải ngẫu nhiên mà vào những ngày cuối năm 2008, Viện Nghiên cứu phát triển (IDS) và Liên hiệp các Hội KH-KT Việt Nam đã tổ chức buổi tọa đàm với chủ đề “10 năm KH-CN Việt Nam”. Theo GS Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ KH-CN, vào tháng 12-1996, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ban hành Nghị quyết Trung ương 2, xác định KH-CN là “quốc sách hàng đầu, là nội dung then chốt của sự phát triển...”.

Đến hết năm 2007 là tròn 10 năm và hiện nay, các cơ quan chức năng đang tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện nghị quyết này. Đây chính là thời điểm cần thiết phải nhìn lại những gì KH-CN Việt Nam đã và chưa làm được.

Niềm vui trong ngày lễ tốt nghiệp của tân khoa. Ảnh: LÂM VIÊN
Theo GS Chu Hảo, 10 năm qua, KH-CN Việt Nam đã có những tiến bộ, gặt hái được nhiều thành công; mức độ đầu tư cho KH-CN cũng đã tăng dần hằng năm.

Từ năm 2000 đến nay, KH-CN Việt Nam đã tạo ra 142 giống cây trồng mới; 100% diện tích điều, 90% diện tích lúa, 80% diện tích bắp, 60% diện tích mía dùng giống mới; tạo nhiều giống thủy sản mới như cá rô phi toàn đực, cá mè toàn cái, tôm càng xanh, cua biển, ốc hương, bào ngư; làm chủ các công nghệ bê tông dự ứng lực (đến 60m), bê tông đúc hẫng (đến 200m), đóng tàu biển 100.000 tấn; ứng dụng thành công các kỹ thuật: ghép tạng, nội soi, chữa bỏng…; nghiên cứu thành công công nghệ sản xuất vaccine với 9/10 loại trong chương trình tiêm chủng mở rộng (kể cả H5N1, viêm gan B); hàng trăm tiến bộ KH-CN được chuyển giao và ứng dụng rộng rãi, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn; nhiều công trình KH-CN trong nước đã tiết kiệm cho quốc gia hàng trăm triệu USD so với công nghệ nhập ngoại...
Tuy nhiên, hầu hết ý kiến các nhà khoa học tham gia buổi tọa đàm đều cho rằng, nếu cơ chế quản lý, hoạt động KH-CN hiện nay không tiếp tục đổi mới thì khó đạt được những mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 2 (Khóa VIII) đã đặt ra. Quản lý hoạt động KH-CN hiện vẫn còn mang nặng tính hành chính, bao cấp và cơ chế xin - cho, chưa đổi mới kịp với nhu cầu xã hội và nền kinh tế.

Chính vì vậy, rất nhiều chương trình nghiên cứu KH-CN không đi vào thực tế, gây lãng phí. “Đây chính là một trong những điểm yếu nhất của nền KH-CN ở Việt Nam hiện nay”, GS Lưu Bích Hồ khẳng định.
Theo GS Hoàng Tụy, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ đối với những người làm công tác nghiên cứu KH-CN còn nhiều bất cập. Trong khi đó, GS Chu Hảo cho rằng, lực lượng nghiên cứu khoa học của Việt Nam hiện nay rất thiếu và yếu. Lý do, đào tạo, cấp bằng thạc sĩ và tiến sĩ hiện nay ở Việt Nam chủ yếu nhằm đáp ứng yêu cầu “đủ bằng cấp” để làm quản lý, lãnh đạo ở các cấp chính quyền và cơ quan nghiệp vụ, chứ không nhắm xây dựng đội ngũ nghiên cứu khoa học...
Thước đo và cách nhìn về thực tế
Theo hầu hết các nhà khoa học, thước đo tương đối chính xác cho mức độ phát triển KH-CN chính là việc công bố các kết quả nghiên cứu, số bằng sáng chế, giải pháp hữu ích của mỗi quốc gia được cộng đồng khoa học quốc tế thừa nhận.

GS Chu Hảo cho biết, năm 2005, số lượng bài báo đăng trên các tạp chí KH-CN trong nước là 12.326, số lượng đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích là 2.162. Số công bố trên quốc tế của Việt Nam mới đạt khoảng 300 bài/năm, tỷ lệ của Việt Nam trên tổng số công bố của thế giới chỉ đạt 0,02%. Trong khi đó, tỷ lệ này của một số nước, vùng lãnh thổ là: Hàn Quốc và Đài Loan: 0,77%; Singapore: 0,25%; Thái Lan: 0,11%; Malaysia: 0,08%; Philippines: 0,05%; Indonesia: 0,04%.
Theo số liệu thống kê của Cơ quan quản lý nguồn nhân lực (Bộ KH-ĐT) và Bộ GD-ĐT, hiện cả nước có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên, trong đó có khoảng 34.000 thạc sĩ, tiến sĩ. Số lượng người làm trong các tổ chức KH-CN gần 53.000 người và cả nước có tới 1.295 tổ chức KH-CN hoạt động trên 60 lĩnh vực với trên 125 ngành nghề, gần 800 chuyên ngành khác nhau. Mỗi năm nhà nước dành 2% tổng chi ngân sách (tương đương 0,4%-0,45% GDP) và các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đầu tư khoảng 1,2%-1,3% tổng chi ngân sách (tương đương 0,3% GDP) cho hoạt động KH-CN.
So với Thái Lan, năm 2007 Việt Nam cũng có khoảng cách khá lớn. Tổng cộng, trong năm 2007, Việt Nam công bố 692 bài báo khoa học trên các tạp khí khoa học quốc tế, trong đó Viện KH-CN Việt Nam công bố 98 bài, ĐH Quốc gia TPHCM là 56, ĐH Quốc gia Hà Nội là 53, ĐH Sư phạm Hà Nội là 27 và ĐH Bách khoa Hà Nội là 26... Cùng thời gian này, ĐH Chulalongkorn và ĐH Mahidol (đều của Thái Lan) đã có 709 và 707 bài báo khoa học được công bố quốc tế. Chỉ một trường ĐH của Thái Lan thôi đã có số công bố quốc tế nhiều hơn tất cả của Việt Nam cộng lại!
Bộ trưởng Hoàng Văn Phong cũng thừa nhận, để KH-CN Việt Nam thực sự phát triển, cần có sự đầu tư lớn hơn, thỏa đáng hơn. Bên cạnh việc quyết liệt để chuyển đổi các tổ chức KH-CN sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm và hình thành các doanh nghiệp KH-CN, cần tăng mức đầu tư cho các trường ĐH, CĐ và tạo những cơ chế để đào tạo, thu hút và phát huy tốt hơn nữa nguồn nhân lực trí thức trẻ, nhằm tạo lực lượng trụ cột cho nền KH-CN của Việt Nam.

Đặc biệt, phải thực hiện những chính sách cụ thể, hiệu quả trong việc sử dụng và trọng dụng đội ngũ tri thức KH-CN; từng bước xóa bỏ chủ nghĩa bình quân và tư duy hành chính kéo dài nhiều năm, một trong những nguyên nhân gây giảm sút sức sáng tạo và nhiệt huyết của những nhà khoa học.
http://www.sggp.org.vn/trithuccongnghe/2009/2/182186/

No comments:

Post a Comment