Pages

Thursday, June 11, 2009

TRUYỆN NGẮN






BÁNH CANH GIÒ HEO




Nơi có cây cầu khỉ:
Tôi là người dậy sớm nhất trong khu tập thể giáo viên này. Sáng nay Chủ nhật nên mọi người ngủ nướng thêm chút nữa. Các thầy thì khỏi nói, đêm qua mưa dầm và nhậu quá trời. Không hy vọng có bạn cùng ra quán cà phê nên tôi đi một mình. Con đường đê lầy lội bởi mưa đã nhiều, đêm qua mấy thầy đi nhậu về còn làm cho khúc đường trơn thêm bóng vì té lên té xuống. Tôi cẩn thận qua được một đoạn bờ trơn như da lươn, đầy những dấu chân người... say đêm qua. Cây cầu khỉ trước mặt hiện ra thử thách. Sáng sớm mà tòm xuống rạch thì khó coi lắm nghen! Đứng tư lự một hồi, thấy nhục quá nên nhắm mắt đưa chân. Một mảnh vạt áo đàn ông còn vướng lại trên tay vịn của cây cầu khỉ. Thì ra áo thầy Dũng-xị, đêm qua thầy la làng, chửi bới cây cầu hết lời rủa xả.
Tôi qua được cây cầu khỉ mà không té mới khó hiểu! Lòng thầm cảm ơn vợ chồng Thần cầu... khỉ. Tiếp theo là một đoạn đê đất sét cứng, giữa cao, hai bên soải xuống. Tiếng địa phương gọi là sườn bò. Thật ra với loại đường này, có nằm xuống lăn... cũng bõm xuống sông chứ dễ gì qua được! Phần tôi mới được học trò cho đôi dép mới, định mang cho nó vui. Tội nghiệp thằng nhỏ... hai mươi tuổi, một vợ hai con, học lớp tám năm thứ tư mà nhất định không nghỉ vì sợ quên chữ! Hết chữ nghĩa của nó không đầy cái lá mít mà quên nữa thì làm sao đi "mần dziệc" cho Ủy ban. Thương nước một tiếng thầy, hai tiếng thầy... "Con mua đôi dép hai ba năm rồi, còn chưa xỏ tới. Thầy lấy mang đi, để nó mục".
Cuối cùng cũng ra được con đường xi-măng một mét bề ngang và dài như con rắn xuyên qua xóm làng. Đứng ở ngã ba đường, tôi phân vân rẽ phải hay trái? Bên trái được tự nhiên sắp đặt sân banh, quán nhậu, Ủy ban, cầu đò. Bên phải là quán ăn, trường học, trạm xá. Mặt trời mọc thì đi về bên phải, mặt trời lặn thì đi về bên trái. Chân lý đó do thầy Bình-mồng tơi, nghĩ ra. Chẳng biết sao thầy Bình dạy Anh văn và chỉ hát một câu nhạc Việt: Mồng tơi ơi mồng tơi! Nên thầy có tên Bình-mồng tơi là vậy. Cũng để phân biệt với thầy Bình-em gái! Tôi nhìn về bên trái, nhớ trận nhậu tối qua ở quán chị Tám Hưởng mới vui. Chị là O du kích trong kháng chiến. Sau hòa bình, chị phải mang một cái chân giả. Chị lấy anh Sáu Thưởng như lời hứa của chị: "Chừng nào hòa bình thì làm đám cưới". Những buổi trưa quán vắng, ngồi soạn giáo án ngoài quán, nghe chị kể chuyện tình trong chiến khu cũng phê phê. Anh Sáu Thưởng vì cứu chị chạy không kịp máy bay oanh kích mà mất luôn hai giò. Tổng cộng trong nhà chị có ba cái chân giả. Hai người nông dân nghe lời bọn xấu đi làm cách mạng về chỉ được cuốn sổ thương binh. Hằng tháng được cấp vài lít gạo, không đủ sống nên mở quán kiếm thêm để nuôi con. Chị nói: "Mấy thầy thương thì uống cà phê sáng và nhậu tối ở đây cho tui có gạo nuôi con là cám ơn nhiều". Nhìn hai người khật khưỡng trên những cái chân giả. Nhà thì nền đất, mái lá, bên ngoài mưa lớn-bên trong mưa nhỏ. Chẳng ai còn nghĩ đến chính trị, chính em gì. Chỉ thấy tội nghiệp. Những đêm mưa gió bão bùng, chị ngồi xổm trên chân thật, duỗi cái chân giả dài ra vì đâu co lại được - chân giả "Made in Vietnam" do Sở Thương binh Xã hội ban tặng - nó thế! Chị ngồi nhổ lông gà làm món nhậu cho mấy ông thầy giáo nghèo... cỡ chị, chứ dân Quản lý thị trường, Công an biên phòng bắt vượt biên thì họ đâu có nhậu nơi đây.
Chị Tám thường lấy bộ lòng gà xào củ hành cho mấy thầy nhậu trước. Sau đó luộc gà chín tới thì trộn gỏi bắp cải, nước lèo nấu cháo hành giải nghể là xong cho một bàn. Có khi mấy thầy nhậu hai ba bàn thì nhìn chị như con rối, tội nghiệp lắm. Gương mặt chị đẹp kiểu quê mùa, da bánh mật là tất cả những gì trời cho. Trời quở là đầu tắt mặt tối, lam lũ vì nheo nhóc đàn con. Nhiều khi chúng tôi cười trên sự đau khổ của chị rồi đêm về nằm nghĩ lại cũng ân hận. Giả như thầy Thạnh nói: "Hòa bình mới có mấy năm mà đã ba, bốn đứa con nheo nhóc, mũi rãi lòng thòng, thấy ớn..." Thầy Long tiếp: "Trời se duyên thôi. Anh Sáu Thưởng thì chị Tám Hưởng. Không nheo nhóc sao được?" Cả đám lại cười ồ lên. Hay thầy Dũng-xị là chuyên gia nhậu, tìm ra chân lý ở quán chị Tám như vầy: "Ở đây đốt đèn dầu, uống xị đầu còn nhà ngói, nhà tranh. Uống chừng ba xị, tao đố đứa nào phân biệt được cái phao câu gà với cái phao chị Tám. Bay coi kìa! Không có tới cái nùi giẻ chứ nói gì khăn. Bả đang xé gà trộn gỏi mà ai kêu cho xị rượu nữa là bả quẹt hai bàn tay mỡ vô mông. Xé vài con gà thì không còn phân biệt phao nào là gà, phao nào phao chị Tám vì cái nào cũng bóng mỡ. Uống vài xị rượu thì nhà ngói cũng như nhà tranh!"
(Nhiều năm rồi, tôi vẫn không quên được những đêm mưa Duyên Hải, những người bạn đầu xanh tuổi trẻ, cái nghề gõ đầu trẻ thì ít mà nhậu thì nhiều. Những đứa học trò dễ thương và một miền quê hiền lành nhưng nghèo lắm...)

Mặt trời đã treo trên ngọn dừa nước, tôi lững thững đi về bên phải. Định bụng xuống quán cô Chanh để ăn tô bánh canh giò heo cho ấm bụng, sau một đêm nhậu quá cỡ với đồng môn. Đầu óc lại nghĩ tiếp những vui buồn ở cái xứ quê một cục này. Cô Chanh, thoạt tiên kỳ thủy là người dễ nhìn - trắng da dài tóc. Mười tám tuổi, tốt nghiệp lớp chín. Cô Chanh về thành phố học hai năm để làm Y tá. Công thành danh toại, cô về lại địa phương làm việc trong Trạm xá. Duyên tiền định đến một ngày nắng tốt không mưa. Thầy Thạnh đau bụng quá nên bên giáo viên đưa qua cho cô Chanh "mần dziệc". Cô Chanh chẩn đoán thầy Thạnh đau ruột thừa, phải đưa về thành phố mổ gấp. Nếu không bể ruột sẽ dẫn đến nhiễm trùng khoang bụng thì hết thuốc chữa. Tình hình khẩn cấp, không đợi được tàu đò nên ông Sáu Chín là Bí thư xã ra lệnh cho ghe Ủy ban đưa thầy Thạnh về Sài Gòn, gấp. Ông Sáu Chín ngoài tật ham gái như cái tên kháng chiến của ông thì ông cũng tử tế, nhất là với bên thầy cô giáo. Đỉnh cao trí tuệ của ông là nhận định tình hình địa phương: "Tui thích nhìn con gái chổng mông cấy lúa". Cái tên Sáu Chín do đồng chí chỉ huy trong chiến khu đặt cho ông là chí phải. Vì con số sáu với con số chín quyện vào nhau, lật xấp lật ngửa gì cũng là một cặp... đang "mần dziệc".
Cô Chanh theo ghe Ủy ban về thành phố để nâng khăn sửa gối cho thầy Thạnh. Cô chẩn đoán đúng về bệnh trạng của thầy. Thầy phải mổ và bác sĩ thành phố còn cho biết là may mắn. Chỗ ruột thừa vừa bể, phải cắt một đoạn ruột nhưng không nguy hiểm đến tính mạng. Thầy chỉ phải mang cái tên thân mật: Thầy Thạnh-đứt ruột.
Cô Chanh ở lại thành phố chăm sóc cho thầy Thạnh đến ngày xuất viện. Chuyện này hoàn toàn tự ý chứ không phải nhiệm vụ được giao. Sau đó thấy gia đình thầy Thạnh 'neo đơn' nên cô về nhà thầy Thạnh chăm sóc tiếp cho đến khi thầy thật khỏe. Cả hơn tháng sau thầy Thạnh mới trở lại nhiệm sở. Cô Chanh đưa thầy Thạnh về nhà mình chăm sóc vì sợ thức ăn bên nhà ăn Liên cơ (nhiều cơ quan hợp lại gọi là liên cơ), ngoài quán xá thiếu vệ sinh trong khi ruột thầy thì cô Chanh rành hơn ai hết!
Thầy Thạnh tốt số nên lại sức mau chóng, ơn chăm sóc nên thầy sóc lại cô Chanh rất chăm để trả ơn em gái miền quê... Đâu năm sau, nhà tụi nó có tiếng con nít khóc, oe... oe... Mở hàng cho một loạt thầy giáo hát bài: ... đến đây thì ở lại đây, hổng chừng đứt ruột lại hay hơn dzìa...!

Để đáp ứng cho đòi hỏi của dân thành phố xuống công tác: Quán xá phải có vệ sinh một chút. Thầy Thạnh - cô Chanh nhận chỉ thị của anh Hiệu trưởng, mở quán bán bánh canh giò heo buổi sáng. Đại khái là rửa tô bằng nước ngọt, có xà bông. Từ đó bánh canh bên quán bà Sáu Mú bị ế, vì dơ quá. Một hôm thầy Hiển ra quán muộn, quán cô Chanh hết bánh canh. Cô xin lỗi và nói thầy Hiển ăn đỡ bánh canh bên quán bà Sáu Mú (đối diện quán cô Chanh).
Không ăn thì thôi, khơi khơi thầy Hiển nói: "Ăn đây quen rồi. Giò cô Chanh không có lông. Giò bà Sáu Mú lông không hà". Đám thầy giáo cười bò lăn... thầy Hiển mới biết mình đắc tội với thầy Thạnh. Phải đãi rượu anh em coi như làm chứng cho thầy xin lỗi thầy Thạnh. Nhưng giò cô Chanh không có lông thì nổi tiếng giang hồ miệt ruộng.
Tôi xuống đến quán cô Chanh. Thấy thầy Hiệu trưởng ngồi thù lù trong góc quán. Gãi đầu, bứt tai. Tôi hỏi.
- Chuyện gì rầu vậy sư huynh?"
- Thằng Thạnh nó cứ lo... sóc con Chanh mẹ, chăm con Chanh con. Không lo nấu bánh canh gì hết. Giờ này chưa có gì ăn, đói chết mồ tổ...
- Chuyện nhà người ta mà sư huynh...
- Tối qua, tao ngủ đây chứ đâu. Mưa quá, làm biếng về trường. Cái thằng Thạnh bỏ bạn, nhậu chưa tới đâu là đi ngủ sớm để sáng dậy sớm nấu bánh canh. Nó hầm giò thâu đêm mà quên nhóm lửa... nên giờ này mới chưa có ăn. Dạy thì dở - dzợ thì hay. Sang năm, tao cho nó dạy môn... Kỹ thuật hầm giò, được hôn?
Tôi chỉ biết cười với anh Hiệu trưởng rất tiếu lâm, thầy Thạnh lu bu trong nhà nào con, nào việc tù lu. Thấy cảnh vợ con sao mà ngán quá! Nhưng hắn vui vẻ hơn xưa, từ ngày lấy vợ hắn hiền ra và thương bạn bè hơn. Hắn ưa giành vợ cái khoản tính tiền bàn bạn bè vì có nhiêu đưa nhiêu. Hắn bỏ luôn vào tủ - không đếm.
Thầy Thạnh nói với tôi: "Ê... cu. Tối qua có người khóc thấy thương: "Chết cha tao rồi. Dzợ tao có bầu nữa rồi Thạnh ơi!"
Tôi chỉ nhìn thầy Hiệu trưởng mà thương hại sư huynh. Cứ vì đàn em thân yêu mà bỏ vợ con ở Sài Gòn. Thỉnh thoảng mới về nhà, làm sao tránh khỏi những tai nạn giao thông trên giường chiếu không đèn.

Ăn xong, tôi đi tiếp cho đến hết con đường là nhà đứa học trò biết may, lại có máy may trong nhà, mới là giàu thứ thiệt ở miệt quê. Tôi nhờ nó vá đầu gối quần jeans. Sẵn rảnh thì đi lấy luôn. Đầu óc lại nghĩ bâng quơ. Chợt nhớ ra hai ba tháng trước. Bất chợt một chiều, thầy hiệu trưởng nhận được điện tín: "Anh ve gap! Ma benh nang..." Vậy là thầy bất kể gian nan. Về nhà ở Sài Gòn mới hay là bà già vợ đi chợ, lúc qua đường không cẩn thận nên bị xe tông. Bà già mất nhiều máu quá, nhưng bốn năm người con ruột thì khác nhóm máu nên không cho mẹ được. Gia đình lại không muốn mua máu ở Trung tâm tiếp huyết vì chắc chắn là toàn máu của dân xì ke, ma túy. Vợ thầy Hiệu trưởng mới có sáng kiến gọi thầy về trong hy vọng cùng nhóm máu với nhạc mẫu. Ai dè cùng thiệt. Vậy là thầy cho xả láng. Nhạc mẫu bình phục mau chóng và được về nhà. Vợ thầy cảm kích cái ơn cứu mạng má em. Ơn đền oán trả, phu thê trùng phùng. Nên nay mới có chuyện thầy ngồi than thở với thằng có vợ là thầy Thạnh: Chết cha tao rồi! Coi như đi đứt cái danh hiệu tiên tiến năm nay vì thầy Hiệu trưởng đã có hai đứa con. Không chừng còn phải làm kiểm điểm về tội "vượt chỉ tiêu"!
Đoạn sau của thầy Hiệu trưởng mới bi đát. Từ ngày bà già vợ ở bệnh viện về. Chiều nào không có cho cụ bà một xị rượu đế thì cụ bà dỗi, không ăn cơm. Ai cũng bảo là trong người cụ bà bây giờ toàn là máu thằng rể. Không có rượu đế thì làm sao sống? Thầy phải trả tiền rượu cho nhạc mẫu mười mấy năm. Cụ bà mới cưỡi hạc quy tiên. Tôi đọc sách cũng thường, chưa nghe ai nói về trường hợp kỳ lạ như vậy. Nhưng mắt thấy, tai nghe. Không biết! Có con sâu rượu trong máu người ta, thật không? Mấy chục năm sau mới có dịp diện kiến thầy lang Nguyễn Ý Đức, tôi trình thầy thắc mắc lâu năm. Thầy nói viết chi tiết cho thầy nghiên cứu! Nhưng chưa có hồi âm.

No comments:

Post a Comment