Pages

Friday, November 27, 2009

KINH THÁNH


**


THÁNH KINH TẠI VIỆT NAM

I. Danh Ngôn " Biêt mà không nói...

Hàn Phi Tử: Biêt mà không nói là bât nhân; nói mà không nói hêt là bât nghiã.

Edmund Burke: Sự xấu sa tràn lan là vì nguòi tôt im lặng.

Nguyễn HyVọng

II Thánh Kinh của Ky-Tô-Giáo


Tôi không thấy Người Việt Quốc Gia có bản tiếng Việt của bộ Thánh Kinh của Ky-Tô-Giáo La Mã (Công Giáo). Ngay chính ông Trương Tiến Đạt, một người nghiên-cứu rất kỹ Thánh Kinh Ky-Tô-Giáo La-Mã (Công Giáo), mà cũng chỉ dùng bản tiếng Việt của bộ Kinh Thánh của Tin Lành mà thôi. Trong Bản Tin “Tiếng Loa Cảnh Báo” số 1 mà ông Trương Tiến Đạt gửi cho tôi vào năm 1999, ở trang 31, ông ấy viết: “Kinh Thánh (Bible) là bộ sách gồm 66 cuốn”. [Ở dưới nhan đề Mục Lục (Contents) trong bộ Tân Thánh Kinh của Mỹ (The New American Bible), phía Ky-Tô-Giáo La-Mã (Công Giáo), họ có ghi chú: “The books of the Old and New Testaments...) nghĩa là các “sách” của các kinh Tân và Cựu Ước. Ở cuối bộ Kinh Thánh (The Holy Bible), phía Tin Lành, họ có viết: “The Bible is a library of books...) nghiã là Kinh Thánh là một thư-viện “sách”.

Nhưng vì các sách (books) ấy chỉ được in chung liền với nhau trong mỗi phần (và cả 2 phần Tân và Cựu Ước cũng thường được in chung liền với nhau trong một “bộ” Thánh Kinh hoặc Kinh Thánh), chứ không in riêng từng cuốn một, vậy chữ “book” nên được dịch ra là “sách” thay vì là “cuốn”]. Như thế, “bộ” (toàn-bộ, trọn bộ, đầy-đủ) Thánh Kinh (hoặc Kinh Thánh) gồm có 2 phần (kinh Cựu-Ước và kinh Tân-Ước), và mỗi phần (kinh) thì có nhiều “sách” (thí-dụ: trong kinh Cựu Ước có “Sách Sáng Thế”, trong kinh Tân Ước có “Sách Khải Huyền”), và mỗi “sách” thì có nhiều “chương” và mỗi “chương” thì có nhiều “câu”. Theo tôi nghiên-cứu, thì bộ Kinh Thánh mà gồm có 66 sách như ông Trương Tiến Đạt trích dẫn thì là của Tin Lành (39 sách thuộc kinh Cựu Ước và 27 sách thuộc kinh Tân Ước).


Còn bộ Thánh Kinh của Ky-Tô-Giáo La-Mã (Công Giáo) thì gồm có 73 sách, tức là có thêm 7 sách (46 sách thuộc kinh Cựu Ước) mà Tin Lành không có: Tobit, Judith, 1 Maccabees, 2 Maccabees, Wisdom, Sirach, và Baruch. Tuy nhiên, Thánh Kinh 73 sách của Ky Tô Giáo La Mã (Công Giáo) thì Người Việt Quốc Gia không có bản dịch ra tiếng Việt.

Trong lúc đó, hiện nay, Người Việt tín đồ Ky-Tô-Giáo La-Mã (Công Giáo) ở trong nước thì đã có bộ Kinh Thánh 73 sách bản dịch ra tiếng Việt rồi.

III Kinh Thánh của Ky-Tô-Giáo La-Mã (Công Giáo) bản tiếng Việt tại Việt Nam

Bản tiếng Việt hiện có tại Việt Nam, của bộ Kinh Thánh 73 sách này, cho thấy một số đặc-điểm sau đây: *được viết theo lối chữ Việt hậu-Việt-Nam-Cộng-Hòa (không có dấu nối giữa các từ-ngữ đa-âm).


Thí-dụ: thời VNCH: “Kinh-Thánh; Cựu-Ước và Tân-Ước; Vả, đất là vô-hình và trống-không, sự mờ-tối ở trên mặt vực” (có dấu nối giữa “Kinh-Thánh”, “Cựu-Ước”, “Tân-Ước”, “vô-hình”, “trống-không”, mờ-tối”,...); thời hậu-VNCH: “Kinh Thánh”, “Cựu Ước”, “Tân Ước”, “Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm,...” (không có dấu nối giữa các từ-ngữ lưỡng-âm kể trên). *do Nhóm Phiên Dịch Các GiỜ Kinh PhỤng VỤ thực hiện (theo TGM Phạm Minh Mẫn thì Nhóm này, mà các công trình có tính nghiêm túc, và những bản dịch trung thành với nội dung mặc khải, đã đươc nhận vào Hiệp Hội Kinh Thánh Công Giáo thế giới). *có Dẫn Nhập Tổng Quát, Dẫn Nhập Cựu Ước, và Dẫn Nhập Tân Ước. *có đính thêm bảng Chú Thích cho tất cả 73 sách. *được ấn hành với sự giúp đỡ của Liên Hiệp Thánh Kinh Hội (United Bible Societies)”, mà “United Bible Societies” thì là tên của tổ-chức đã xuất-bản bộ Kinh Thánh 66 sách bản tiếng Việt của Tin Lành. *được sự phê chuẩn của Phao-lô Nguyễn Văn Bình, Tổng Giám Mục Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, cho phần Tân Ước; và của Gio-an Bao-ti-xi-ta Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, cho phần Cựu Ước. *có Lời Giới Thiệu của Đức Tổng Giám Mục Gio-an Bao-ti-xi-ta Phạm Minh Mẫn. *do Tòa Tổng Giám Mục Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện. *và do Nhà Xuất Bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành.


IV Kinh Thánh của Công Giáo tại Việt Nam có gì lạ?


1) 1 Thessalonians 4:4 (Thư của các Tông Đồ Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê, gửi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca, chương 4, câu 4): “The New American Bible” của Công Giáo (do “The Bishops’ Committee of the Confraternity of Christian Doctrine” bảo trợ) viết như sau: “each of you guarding his member in sanctity and honor”. “The Holy Bible” của Tin Lành (do “The Gideons International” xuất bản) viết như sau: “That each of you should know how to possess his own vessel in sanctification and honor” “The Holy Bible” của Tin Lành (do “Holman Bible Publishers” ấn hành) viết như sau:

“That every one of you should know how to possess his vessel in sanctification and honour” và tham-chiếu sách Romans, chương 6, câu 19: “I speak after the manner of men because of the infirmity of your flesh: for as ye have yielded your members servants to uncleanness and to iniquity...”. “Kinh-Thánh” của Tin Lành (do “United Bible Societies: Liên Hiệp Thánh Kinh Hội” phổ biến) dịch ra như sau: “mỗi người phải biết giữ thân mình cho thánh-sạch và tôn-trọng”, “Tôi nói theo cách loài người, vì xác-thịt của anh em là yếu-đuối”. “The Holy Scriptures” của Tin Lành (do “Jehovah’s Witnesses: Nhân Chứng Giê-Hô-Va” xuất bản) dẫn chiếu sách Colossians, chương 3, câu 5:

“Deaden, therefore, YOUR body members that are upon the earth as respects fornication, uncleanness, sexual appetite, hurtful desire, and covetousness...”. “Thánh Kinh” của Tin Lành (do “International Bible Society: Thánh Kinh Hội Quốc Tế” ấn hành) Bản Diễn Ý (không theo sát từng lời Chúa, chỉ phỏng lời Chúa mà diễn theo ý của nhà truyền đạo) dịch ra như sau: “Anh em hãy tiêu diệt những thói quen trần tục như gian dâm, ô uế, tình dục, ham muốn xấu xa và tham lam...”. V.v...

Theo “Random House Webster’s Unabridged Dictionary” thì “member” cũng có nghĩa là “tứ chi” hoặc “dương vật”, và “vessel” cũng có nghĩa là “cái ống, ống dẫn, chứa và vận chuyển, truyền dẫn máu hoặc chất lỏng khác của cơ thể con người”. Do đó, câu Kinh nói trên có thể được hiểu nôm-na là Chúa cấm sử-dụng tay chân, kể cả dương-vật, trong việc trai/gái độc-thân làm tình với nhau; vợ/chồng ngoại-tình; người nam thòm-thèm, ngọ-ngoạy, chiếm đoạt người nữ không phải vợ mình; v.v....

Thế mà Kinh Thánh, do Tòa Tổng Giám Mục Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện, đã dịch ra như sau: “(Ý muốn của Thiên Chúa là anh em) mỗi người hãy biết lấy cho mình một người vợ để sống cách thánh thiện và trong danh dự” (trang 1529). Các dịch-giả ấy dịch sai ý Chúa, bởi vì: có những người nam đã “lấy cho mình một người vợ” rồi, mà vẫn còn cứ tham muốn, léng-phéng, v.v... (nên Chúa mới cấm). Linh mục Antony Trần Văn Kiệm cho rằng Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca, nơi mà Tông Đồ (của Chúa Jesus) là Thánh Phao-lô (và các trợ lý) gửi thư này đến, gồm có cả các môn đồ (hướng dẫn các tín hữu khác trong Hội Thánh ấy), mà các môn đồ ấy thì cũng tương tự các linh mục ngày nay; thế thì câu kinh nói trên, trong Kinh Thánh hiện hành ở Việt Nam, có ý hô hào các linh mục phải lấy vợ. 2/ Luke 1:26,27

Trong sách Lu-Ca, chương 1, các câu 26 và 27 được viết như sau: Theo “The New American Bible” (Công Giáo), do “The Bishops’ Committee of the Confraternity of Christian Doctrine” xuất bản: “In the sixth month, the angel Gabriel was sent from God to a town of Galilee named Nazareth, to a virgin betrothed to a man named Joseph, of the house of David. The virgin’s name was Mary.”

Theo “The Holy Bible” (Tin Lành), do “Holman Bible Publishers” ấn hành: “And in the sixth month the angel Gabriel was sent from God unto a city of Galilee, named Nazareth, to a virgin espoused to a man whose name was Joseph, of the house of David; and the virgin’s name was Mary.”

Theo “The Holy Bible” (Tin Lành), do “The Gideons International” phổ biến: “Now in the sixth month the angel Gabriel was sent by God to a city of Galilee named Nazareth, to a virgin betrothed to a man whose name as Joseph, of the house of David. The virgin’s name was Mary.” Theo “New World Translation of the Holy Scriptures” (Tin Lành), do “Watch Tower and Tract Society” tức “Jehovah’s Witnesses: Nhân Chứng Giê-Hô-Va” ấn hành: “In the sixth month the angel Gabriel was sent forth from God to a city of Galilee named Nazareth, to a virgin promised in marriage to a man named Joseph of David’s house, and the name of the virgin was Mary.”

Kinh-Thánh (của Tin Lành), do “United Bible Societies” (Liên Hiệp Thánh Kinh Hội) dịch ra như sau: “Đến tháng thứ sáu, Đức Chúa Trời sai thiên-sứ Gáp-ri-ên đến thành Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê, tới cùng một người nữ đồng-trinh tên là Ma-ri, đã hứa gả cho một người nam tên là Giô-sép, về dòng vua Đa-vít.” Và trong Kinh Thánh của Ky-Tô-Giáo La-Mã (Công Giáo) bản tiếng Việt, do Tòa Tổng Giám Mục Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện, tại Việt Nam, tôi đọc thấy, ở sách Lu-Ca, chương 1, các câu 26 và 27 như sau: “Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.” (trang 1353)

Như đã trích dẫn trên kia, chỉ có “The Holy Bible” (của Tin Lành), mà do “Holman Bible Publishers” ấn hành, mới dùng từ ngữ “espoused (to Joseph)” nghĩa là (khi thiên sứ đến cùng người nữ Ma-ri-a thì người nữ này “đã được (Joseph) cưới làm vợ rồi". Rõ-ràng là Nhóm Phiên Dịch Các GiỜ Kinh PhỤng VỤ (mà TGM Phạm Minh Mẫn giới thiệu là các công trình có tính nghiêm túc, và những bản dịch trung thành với nội dung mặc khải), đã chọn lựa nội dung mặc khải như tôi đọc thấy trong “The Holy Bible” của “Holman Bible Publishers” mà dịch ra như trên.

Và nội dung Kinh Thánh trong đó có câu “(Đức Mẹ) đã thành hôn với Giu-se (khi thụ thai Chúa Giê-Su)” thì đã được Tòa Tổng Giám Mục Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện, Nhà Xuất Bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, và Gio-an Bao-ti-xi-ta Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh phê chuẩn và viết Lời Giới Thiệu. Tôi không biết có còn có những đoạn nào khác nữa mà ý Chúa đã bị dịch sai tương-tự hay không, trong bộ Kinh Thánh của Ky-Tô-Giáo La Mã (Công Giáo) hiện được lưu hành ở Việt Nam.

LÊ XUÂN NHUẬN

*

No comments:

Post a Comment