Pages

Saturday, April 3, 2010

TS.NGUYỄN PHÚC LIÊN * KINH TẾ CHÍNH TRỊ

*


CHỦ ĐỀ: DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ:

Bài 04:


TỪ LẠM PHÁT, TIỀN MẤT GIÁ
ĐẾN DÂN NGHÈO NỔI DẬY


Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
UNICODE: http://viettudan.net
Geneva, 04.03.2009



Tuần trước, chúng tôi viết bài về phá giá đồng bạc Việt Nam theo tỷ giá đối với Đo-la liên quan đến tình trạng thiếu ngọai tệ của Nhà Nước CSVN. Việc tuyên bố phá giá nội tệ ngày 11.02.2010 do Ngân Hàng Nhà Nước quyết định và có thể liên tiếp những quyết định phá giá nữa là do chính những nhà Kinh tế, Tài chánh trong nước phân tích chứ không phải chúng tôi từ Hải ngọai nhận định để CSVN chống chữa với Dân rằng đó là do tuyên truyền chống Cơ Chế hiện hành bởi “thế lực thù địch” ngọai lai. Chúng tôi dựa trên tình trạng mỗi ngày nhóm Mafia CSVN càng thiếu hụt ngọai tệ để nội tệ mỗi ngày mỗi mất giá trị, nghĩa là phá giá liên tiếp.

Phá giá đồng nội tệ đi song hành với tình trạng LẠM PHÁT tăng nhanh ở Việt Nam. Viết về tình trạng tăng nhanh lạm phát, chúng tôi cũng trích dẫn chính những phân tích và nhận định của những nhà Kinh doanh, những Ngân Hàng gia, những Giáo sư Kinh tế/Tài chánh từ Quốc nội để đám Mafia CSVN không chống chế, lừa gạt được Dân chúng bằng cách cố hữu nói trên báo đài độc chiều rằng đó là do “thế lực thù địch” hải ngọai vu khống.

Tình trạng lốc xóay phá giá nội tệ và lốc xóay lạm phát, vật giá nhẩy vọt sẽ làm cho đại đa số dân nghèo, cho những nông dân, ngư dân, công nhân và công chức có thu nhập không thay đổi trở thành thiếu thốn chi tiêu, thậm chí đói ăn. Chịu đựng không nổi cảnh đã nghèo khổ lại phải đói ăn thêm vì lốc xóay phá giá nội tệ và lạm phát, vật giá tăng vọt, đại đa số Dân chúng sẽ nổi dậy chấm dứt đám Mafia CSVN cướp bóc dân và bán nước.

Chúng tôi viết những điểm sau đây:

=> Nhận định từ Quốc nội về tình trạng Lạm phát

=> Phân tích những lý do chính của Lạm phát

=> Không chịu nổi hậu quả Lạm phát, Dân chúng nghèo đói nổi dậy



Nhận định từ Quốc nội về
tình trạng Lạm phát

Một số Phóng viên, Ký giả đã phỏng vấn những Giáo sư, Cố vấn Kinh tế/Tài chánh tại quốc nội về tình trạng Lạm phát hiện này.

Bài đăng trên Vietnamnet do Phước Hà thực hiện
Cập nhật lúc 18:37, Thứ Năm, 28/02/2008 (GMT+7)

Chỉ số tăng giá tiêu dùng hai tháng đầu năm lên đến 6,02%, đã đi được 2/3 so với chỉ tiêu Quốc hội đề ra, trong khi vẫn còn 10 tháng ở phía trước. Các chuyên gia kinh tế tỏ ra không có nhiều bất ngờ và cho rằng cần có các giải pháp đồng bộ hơn để chặn đứng lạm phát.

=> Ông Cao Sỹ Kiêm, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia, Chủ tịch Hiệp hội DN vừa và nhỏ Việt Nam:

Tốc độ tăng giá 2 tháng đầu năm lên tới 6,02% là quá cao. Đặc biệt, có những nguyên nhân chủ quan, trong đó có một nguyên nhân chính là ngân hàng đã bỏ lượng tiền lớn ra mua USD chưa thu về hết được, đầu tư nhưng hiệu quả còn thấp, ngân sách bội chi tăng lên.

=> Giáo sư TSKH Ngô Trí Long, Học viện Tài chính:

Con số 6,02% tăng cao quá. Nhìn cả một quá trình, đây là tăng cao nhất trong hơn 10 năm lại đây. Đây là một cảnh báo đối với nền kinh tế. Những tháng tới, nếu có tăng 0,5% thôi như dự báo tháng 3 của Tổ điều hành thị trường, thì cả năm cũng không thể thực hiện nghị quyết Quốc hội đề ra.

Biện pháp tiền tệ đã được thực hiện. Giá cả đang lao nhanh như thế thì những biện pháp ra chỉ có tính ngăn chặn thôi. Trong kiềm chế lạm phát, giải pháp tài chính tiền tệ có ý nghĩa quan trọng, trong đó giải pháp tiền tệ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Lạm pháp do tiền tệ !

Các ngân hàng thương mại hiện dư nợ quá lớn nên buộc phải huy động vốn, đua nhau tăng lãi suất để hút vốn về khiến cho thị trường những ngày gần đây hỗn loạn. Khi tăng lãi suất huy động lên thì cũng có tác dụng phụ là cho vay cao dẫn đến ảnh hưởng tăng trưởng. Lãi suất cao thì chi phí cao, giá thành cao thì cũng tác động đến lạm pháp.

Các ngân hàng đưa lãi suất lên cao, trong khi hoạt động của ngân hàng nước ta nguồn thu chủ yếu từ chênh lệch vay và cho vay chiếm đến 70% làm cho chi phí các ngân hàng tăng lên, năng lực tài chính yếu đi năng lực cạnh tranh giảm. Ngân hàng Nhà nước Phát hành tín phiếu với 20.300 tỷ đồng với lãi suất 7,8%, mỗi tháng lo trả 100 tỷ đồng lãi và đồng thời tăng dự trữ bắt buộc cũng phải trả thêm 100 tỷ nữa. Giải pháp tiền tệ như con dao hai lưỡi.

Chính sách tài chính phải xem lại để làm sao chi đầu tư phải hiệu quả, chi thường xuyên phải tiết kiệm, cái nào cần phải giảm, cái nào phải bỏ. Đầu tư phải hiệu quả, mua sắm tài sản công phải tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí... Chi tiêu công phải siết chặt lại, chống lãng phí, tiết kiệm tiêu dùng, tiết kiệm sản xuất - hạ giá thành sản phẩm, đầu tư hiệu quả.

=> Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam

Việc chống lạm phát năm 2008 này phải được đặt lên ưu tiên hàng đầu, hơn cả mục tiêu tăng trưởng. Vì suốt bốn năm liền lạm phát cao, cộng lại đã lên tới 40%. Điều này đồng nghĩa với việc đồng tiền mất giá, đội giá thành sản phẩm lên cao, tăng thêm dự án treo, còn đời sống người dân bị ảnh hưởng nặng.

Như vậy, về phương diện đối nội, phân phối nguồn lực đã bị lệch và tác động đến đời sống.

Cùng điều kiện, hoàn cảnh, các nước trong khu vực lạm phát thấp hơn của mình. Nếu môi trường VN vẫn bất ổn, lòng tin của nhà đầu tư sẽ giảm đi, ảnh hưởng đến cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư bỏ đi cũng sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn.

Lạm phát ảnh hưởng cũng sẽ làm cho sức cạnh tranh trong nước giảm đáng kể.

NHNN cũng đã vừa sử dụng kết hợp cả hai loại biện pháp dài hạn và tức thì. Biện pháp hành chính như bán 20.300 tín phiếu.



Ngay sau đó NHNN lại bơm ra 39.000 tỷ đồng. Điều này khiến sự vận động của dòng tiền thành bất thường, gây hiệu ứng tiêu cực.


Bài trên RFA do Mặc Lâm thực hiện
2010-03-01

Ngân Hàng Phát Triển Châu Á vừa đưa ra thông báo tỏ ý lo ngại cho việc lạm phát tiếp theo sau suy thoái kinh tế của nhiều nước khu vực Đông Nam Á.

Việt Nam là một trong các nước được đánh giá là sẽ có tình trạng lạm phát có thể lên tới hai con số trong năm nay.

=> GSTS Vũ Văn Hóa, Trưởng Khoa Kinh Tế Tài Chánh - Đại Học Quản Lý Kinh Doanh, chia sẻ them về vấn đề này:

Ngân Hàng Nhà Nước quyết định tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa đồng USD và tiền đồng VN tăng thêm 603 đồng tương đương với 3,3%. Tôi cho rằng việc này cũng coi như một sự phá giá của đồng VN, tức là cái tình trạng nhập siêu của Việt Nam ngày nay lại càng gia tăng. Mà hiện nay, nếu theo tỷ giá này thì nó càng gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu, điều đó là điều hiển nhiên rồi.

Tôi cho rằng điều này cũng không thể nào khác được bởi vì trong tình trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay, tất cả các mặt hàng nhập ngoại đều khan hiếm cả, quỹ ngoại tệ trong nước thì cũng không có nhiều, thế thì bây giờ đành phải theo chiều hướng như đã biết.

Theo tôi thì con đường mà hiện nay Việt Nam có thể làm được là vẫn tăng tỷ giá lên để có thể găm được một ít ngoại tệ ở trong nước, và có thể có một điều kiện là làm thế nào đó cho tình trạng ngoại tệ bớt đi ra nước ngoài hơn để tăng ngoại tệ.

Chứ bây giờ mà trả nợ cho nước ngoài thì như anh biết đấy, tức là cái thực lực về tiền tệ của dự trữ ngoại tệ của Việt Nam hiện nay cũng không phải là nhiều mà còn dùng cho nhiều mục tiêu, do đó mà việc tăng vốn ngoại tệ trong nước để mà trả nợ nước ngoài thì rất hạn chế.

Theo các chuyên gia kinh tế nhận định thì rất nhiều công trình có đầu tư lớn của nhà nước đang còn dở dang và những công trình này không thể ngừng lại được. Để giải quyết chúng nhà nước phải chấp nhận bỏ thêm một số tiền rất lớn trong ngân sách. Tôi nghĩ là bây giờ tình trạng lạm phát thì ai cũng đã nhìn thấy rõ mà cái này thì các nhà khoa học và kinh tế cũng đã cảnh báo cho chính phủ, không phải là từ bây giờ mà từ năm ngoái rồi. Đương nhiên là về tình trạng của nền kinh tế thì những khoản chi bất đắc dĩ thì nhà nước vẫn phải chi thôi.

Bây giờ không thể kềm chế được cho nên biện pháp quan trọng nhất hiện nay là phải xem xét lại, tức là cơ cấu lại các khoản chi thường xuyên của chính phủ. Cái thứ hai nữa là có thể trong thời gian tới nhà nước cũng có thể phải phát hành thêm trái phiếu, có thể là công trái trong đợt tới để giảm bớt số tiền trong lưu thông. Tôi nghĩ là hai nguồn đó ở trong nước thì trong tầm tay, thế còn bây giờ như anh biết đấy, tức là các nguồn ODA hoặc FDI vào thì nhiều khi nó được sử dụng không hiệu quả lắm, mà chủ yếu là dành cho các khoản chi công nghiệp chế biến.

Còn các công nghiệp khác ở trong nước thì ODA và FDI rất là ít cho nên chúng tôi cũng chưa biết là chính phủ sẽ làm như thế nào, nhưng mà chúng tôi cũng có khuyến cáo là chính phủ nên xem xét lại, tức là cơ cấu lại các khoản chi của chính phủ, không dàn trải, phải nâng cao hiệu quả. Đồng thời phải suy nghĩ đến việc phát hành công trái phiếu trong đợt tới.

Bây giờ không thể kềm chế được cho nên biện pháp quan trọng nhất hiện nay là phải xem xét lại, tức là cơ cấu lại các khoản chi thường xuyên của chính phủ.

Mới đây Ngân Hàng Phát Triển Châu Á vừa đưa ra nhận định là trong năm nay Việt Nam sẽ phải đối phó với lạm phát lên đến hai con số. Tôi nghĩ là lạm phát hiện nay nó đúng trong thực tại mà chưa thống kê hết thôi, chứ còn nếu thống kê hết thì nó có thể đến 2 con số trong hiện nay rồi, bởi vì bắt đầu từ đầu tháng 3 giá điện tăng. Trước đó thì chúng ta thấy giá dầu tăng liên tục, từ đầu năm tới giờ mới được 2 tháng mà tăng 2 lần. Thế thì tình trạng lạm phát lên đến 2 con số thì tôi cho là hiện thực và nó cũng đúng tầm, đúng với điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay.


Phân tích những lý do chính của Lạm phát

Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, phát biểu một câu làm chúng tôi lưu ý đặc biệt: “Suốt bốn năm liền lạm phát cao, cộng lại đã lên tới 40%. Điều này đồng nghĩa với việc đồng tiền mất giá. Cùng điều kiện, hoàn cảnh, các nước trong khu vực lạm phát thấp hơn của mình.“

Từ câu nói, chúng tôi rút ra ba điểm sau đây:

* Lạm phát có nghĩa là đồng tiền mất giá;

* Trong 4 năm, đồng tiền VN mất giá 40%;

* Việt Nam khác với những nước trong khu vực về Cơ Chế Chính trị-Kinh tế

Phân tích của chúng tôi dựa trên ba điểm trên đây với trích dẫn từ những Giáo sư, Cố vấn Kinh tế/Tài chánh của chính Cơ Chế CSVN.

Lạm phát có nghĩa là đồng tiền mất giá

Tuần trước, chúng tôi đã viết một bài dài có tính cách giáo khoa “TIỀN TỆ VÀ NHỮNG THỊ TRƯỜNG LIÊN HỆ”. Trong bài này, chúng tôi đã định nghĩa rằng đồng Tiền chỉ là “Phương tiện trung gian trao đổi hàng hóa” (Moyen intermédiaire des échanges des marchandises).

Trong Chế độ BẢN VỊ KHẢ NĂNG MUA HÀNG (Régime du Pouvoir d’Achat), cái GIÁ TRỊ của một đơn vị Tiền bạc mà một người đang cầm là TƯƠNG ĐƯƠNG HÀNG HÓA HAY DỊCH VỤ mà người đó nhận được khi chuyển đồng tiền sang tay người khác. Nếu 100 Đồng VN năm 2008 mua được hai hột vịt lộn, nhưng năm 2009 chỉ được 1 hột vịt lộn, thì ta nói rằng Vật giá hay Lạm phát tăng 50%, có nghĩa Đồng Tiền VN mất giá 50%.

Lý thuyết đơn giản về chuyển biến tương quan giữa đồng tiền và tương đương hàng hàng hóa được tóm tắt trong Công thức của FISHER:

M.V
------ = P
T

M : Khối lượng tiền cho vào Kinh tế; V: Tốc độ chạy nhanh chậm của đồng tiền; T: Tổng cộng Hàng hóa và Dịch vụ trong một hạn kỳ nhất định; P: Khả năng chuyên chở của đồng tiền tương đương Hàng hóa, Dịch vụ.

Công thức ấy tóm tắt cho chúng ta hai lý do chính của việc mất giá của đồng tiền hay thay đổi tương đương Hàng hóa, Dịch vụ mà người ta gọi là Lạm phát hay Vật giá tăng.

Lý do thứ nhất đến từ Khối Tiền lưu hành (M.V) tăng hay giảm. Lý do do này thuộc lãnh vực Tiền bạc.

Lý do thứ hai đến từ việc sản xuất Kinh tế thực (T) giảm hay tăng, có hiệu lực hay không.

Khi Khối Tiền lưu hành (M.V) tăng mà sản xuất Kinh tế thực (T) đứng yên, thì có Lạm phát. Lạm phát còn mạnh hơn nữa khi nền sản xuất Kinh tế còn giảm xuống. Khi Khối Tiền lưu hành (M.V) đứng yên, mà nền sản xuất Kinh tế thực (T) giảm, chúng ta cũng có lạm phát.

Chính sự tương đương Hàng hóa, Dịch vụ này mà các Lý thuyết gia về Tiền tệ nói đến tính cách Hội nhập Tiền tệ vào Lãnh vực Kinh tế thực. Với quan điểm Hội nhập Tiền tệ này mà người ta phân biệt Đồng Tiền thực và Đồng Tiền giả. Đồng Tiền mới được Ngân Hàng Trung Ương in ra chỉ là một tờ giấy không hơn không kém, chưa có Giá trị. Đồng Tiền đã Hội nhập, nghĩa là qua chu trình sản xuất Kinh tế thực, mới có Giá trị. Không phải Đồng Tiền mới in ra, thả vào xã hội mà không qua chu trình sản xuất Kinh tế thực, tự nhiên có Giá trị như Đồng Tiền thực đã được Hội nhập mà người Dân đang giữ trong tay. Việc in Tiền mới thả bừa vào Xã hội để đánh lận con đen giữa hai Đồng Tiền thực (đã Hội nhập) và Đồng Tiền giả (mới in ra chưa Hội nhập) là hành động ăn cướp của quyền lực Chính trị và quyền lực Tiền bạc đối với Dân.

Vào những thập niên 1980, việc đánh lận con đen này đã làm Lạm phát tới hàng 1000% tại một số nước Phi châu và Nam Mỹ. Kinh tế gia Florin AFTALION, chuyên gia nghiên cứu những liên hệ giữa thời kỳ lạm phát và những phong trào cách mạng, đã viết về những trường hợp gian lận này:

“L’inflation est un moyen de fiancement très commode. Elle est apprécíee par les hommes politiques, dans la mesure òu elle permet à court terme d’accorder des hausses de salaires et des subventions, de mettre de l’huile dans les rouages.“(Lạm phát là một cách tài trợ rất thuận tiện. Nó được ưa chuộng bởi những người làm chính trị ở phương diện nó cho phép trong ngắn hạn chấp nhận cho tăng lương và trợ cấp các xí nghiệp, cho thêm dầu vào guồng máy).

Với hai lý do chính có tính các giáo khoa thuộc lãnh vực Tiền Tệ và lãnh vực sản xuất Kinh tế thực, chúng tôi phân tích cho trường hợp Lạm phát tại Việt Nam cùng với những xác nhận trong phần trên từ những Giáo sư, Cố vấn Khinh tế/Tài chánh thuộc Cơ Chế CSVN.

Trong 4 năm, đồng tiền VN mất giá 40%

Theo Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, trong 4 năm, đồng Tiền VN mất giá 40%. Điều này có nghĩa là việc mất giá của đồng tiền VN không phải là có tính cách nhất thời, giai đọan với những lý do bất thường mà Nhà Nước CSVN thường nêu ra để cắt nghĩa cho dân chúng để chữa lỗi. Lý do mất giá đồng Tiền Việt Nam mang tính cách thường xuyên và trường kỳ.

Dưới chủ trương Kinh tế tập quyền chỉ huy, chúng tôi không nói đến làm gì vì nền Kinh tế này thất bại hòan tòan. Nhưng hãy kể từ 10 năm nay, từ thời đổi mới, mở cửa và tuyên bố chấp nhận nền Kinh tế Tự do và Thị trường, thì đồng Tiền VN có thể nói là mất giá 100%, nghĩa là lạm phát, vật giá tăng 100%.

=> Lãnh vực Vốn, Tiền tệ (M.V)

Những Công ty, Tổng Công ty Nhà Nước làm việc với vốn, Tiền của quốc gia. Vốn, Tiền của quốc gia được thả lỏng cho những Công ty Nhà Nước. Những dự án thi nhau trình lên Nhà Nước để lấy vốn. Có ba lọai dự án chính:

* Những dự án thuộc ngành nghiệp chuyên môn

* Những dự án thuộc hệ thống Bộ

* Những dự án thuộc vùng, mỗi Tỉnh

Thời kỳ đầu của đổi mới, mở cửa, những dự án của những Công ty quốc doanh được coi như việc thưởng công chiến tranh. Dần dần sau này, những dự án dễ dàng được cấp vốn thường là do những con ông cháu cha có quyền trong đảng.

Việc cấp vốn là theo tiêu chuẩn liên hệ quyền hành trong đảng, chứ không tất nhiên theo tieo tiêu chuẩn cần thiết và hiệu quả Kinh tế. Ví tính cách liên hệ quyền lực trong đảng, nên việc kiểm sóat xử dụng vốn cũng không thể xiết chặt giữa các quyền lực trong đảng được bởi lẽ cùng ăn bẩn như nhau thì bỏ qua những bẩn thỉu của nhau. Những chủ dự án nếu làm ăn không thành công hay thua lỗ, thì đã có vốn nhà nước cấp phát thêm.

Đối với mỗi dự án từ vốn nhà nước, trước hết chủ dự án phải nghĩ đến cắt xén cho túi riêng mình. Sau đó việc chi tiêu trong Công ty hay Tổng Công ty cũng không được người Trách nhiệm kiểm sóat chặt chẽ bởi lẽ nếu người Trách nhiệm khắt khe kiểm sóat, thì những người dưới kiểm sóat ngược lại khắt khe với mình. Đây là cả hệ thống lãng phí vốn quốc gia.

@ Chúng tôi xin trích bài viết của Bloger Người Buôn Gió :

“Phát triển kinh tế hay tư duy nhiệm kỳ?
Người Buôn Gió

Mấy chữ “tư duy nhiệm kỳ” nghe mà phát ghét. Ở đó bao hàm tất cả những cái gì là hủ bại nhất trong tính cách dân tộc, nhất là cái tính cách ăn xổi ở thì. Ăn xổi ở thì thì làm bất kỳ việc nào cũng cốt qua loa cho xong đi, để mà còn nặng túi trở về với gia đình, chăm sóc cái tổ ấm vốn đã lo đâu vào đấy trong khi đang tại chức. Cho nên mọi việc anh làm, tiếng là vì dân, nhân danh thật to tát, cuối cùng chỉ là đổ vỏ ra đấy để cho kẻ đến sau đi hót. Và chu trình cứ thế lặp đi lặp lại, trở thành một đại họa cho dân. Một thành phố Hà Nội mà càng cải tạo lại càng nhếch nhác chẳng phải vì thế thì còn gì. Nghe đâu ngài đương kim trọng thần của nhiệm kỳ này đang cố tranh thủ một mảnh đất nào đấy ở Hồ Mây, cái đích ngài cố ngắm cho trúng, chứ đâu phải là nghĩ suy về những quy hoạch tổng thể cho Hà Nội ngàn năm “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như cụ Hồ nói. Trách gì mới vài năm trước khi nước mưa biến cả thành phố thành sông thì có vị quan to đã có ngay một câu thật nổi tiếng: Dân Hà Nội bây giờ quen dựa dẫm vào Nhà nước mất rồi. Thì chính là vì dựa dẫm vào Nhà nước mà dân chúng Thủ đô chúng tôi cứ tưởng rồi sẽ có đường phố khang trang, đi lại thông thoáng hơn, nào hay bây giờ ra đường đã thấy ngay những con đường do Nhà nước cải tạo đã đang tắc ứ. Còn các khu Hà Nội mới mở từ khi Thủ đô ta giải phóng đến nay nhất là từ khi có đồng vốn vay nước ngoài để làm kinh tế thị trường, thì nhiều nơi lại còn ngõ ngách chật hẹp, chen chúc, lúc nhúc còn hơn cả Hà Nội 36 phố phường thuở xưa. Những nơi ấy xe cộ tha hồ mà tắc.”

Những Giáo sư, Cố vấn Kinh tế cho Cơ Chế CSVN, không ai không nhắc đến lý do thiếu kiểm sóat chặt chẽ Tiền, Vốn của Nhà Nước.

@ Ông Cao Sỹ Kiêm, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia, Chủ tịch Hiệp hội DN vừa và nhỏ Việt Nam nói đến “đầu tư nhưng hiệu quả còn thấp, ngân sách bội chi tăng lên.”

@ Giáo sư TSKH Ngô Trí Long, Học viện Tài chính, nhấn mạnh “Chính sách tài chính phải xem lại để làm sao chi đầu tư phải hiệu quả, chi thường xuyên phải tiết kiệm, cái nào cần phải giảm, cái nào phải bỏ. Đầu tư phải hiệu quả, mua sắm tài sản công phải tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí... Chi tiêu công phải siết chặt lại, chống lãng phí, tiết kiệm tiêu dùng, tiết kiệm sản xuất - hạ giá thành sản phẩm, đầu tư hiệu quả.”

@ GSTS Vũ Văn Hóa, Trưởng Khoa Kinh Tế Tài Chánh - Đại Học Quản Lý Kinh Doanh, nói thẳng đến các Dự án và chi tiêu của Chính phủ: ”Theo các chuyên gia kinh tế nhận định thì rất nhiều công trình có đầu tư lớn của nhà nước đang còn dở dang và những công trình này không thể ngừng lại được. Để giải quyết chúng nhà nước phải chấp nhận bỏ thêm một số tiền rất lớn trong ngân sách. Bây giờ không thể kềm chế được cho nên biện pháp quan trọng nhất hiện nay là phải xem xét lại, tức là cơ cấu lại các khoản chi thường xuyên của chính phủ. Còn các công nghiệp khác ở trong nước thì ODA và FDI rất là ít cho nên chúng tôi cũng chưa biết là chính phủ sẽ làm như thế nào, nhưng mà chúng tôi cũng có khuyến cáo là chính phủ nên xem xét lại, tức là cơ cấu lại các khoản chi của chính phủ, không dàn trải, phải nâng cao hiệu quả.

Khi lượng Tiền, Vốn bỏ ra, thả lỏng cho những Dự án chuyên môn, cho những Dự án Bộ hay những Dự án Địa phương (Tỉnh), mà hiệu quả Kinh tế không đạt được, thì đồng Tiền không Hội nhập đầy đủ, nghĩa là không có tương đương Hàng hóa hay Dịch vụ bảo đảm Giá trị của đồng Tiền. Đồng Tiền mất giá, lạm phát đã nhiều năm trường là do sự thả lỏng này. Nhà Nước lấy Tiền, Vốn đâu mà thả lỏng ra như vậy ? Tại sao không có thể nghĩ rằng trong suốt những năm trường, Nhà Nước độc tài đã ra lệnh cho Ngân Hàng Nhà Nước in tiền mới (chưa Hội nhập Kinh tế), thả vào nền Kinh tế để đánh lận với đồng Tiền thực (đã Hội nhập Kinh tế) mà dân chúng đang giữ.

=> Lãnh vực Thực hiện hiệu quả Kinh tế (T)

Người làm Kinh tế có câu nói: “Làm ra Tiền đã khó, mà tiêu Tiền còn khó hơn”. Thực vậy, tiêu Tiền không phải là vất Tiền ra cửa sổ. Tiêu Tiền theo ý nghĩa Kinh tế là phải làm thế nào để một đồng chi ra, phải thu vào tối thiểu hơn một đồng, nghĩa là nếu không có lợi nhuận, thì thà đừng tiêu. Việt Nam cũng có câu: ”Tiêu Tiền Chùa”, nghĩa là tiêu Tiền của chung thì dễ dàng phung phí, không cần nghĩ đến hiêu quả. Phải nghĩ đến hiệu quả trước khi quyết định chi tiêu.

Những Công ty, Tổng Công ty quốc doanh không làm ăn cho có hiệu quả tương xứng vì những lý do sau đây:

* Đây là Công ty Nhà Nước, lợi nhuận làm ra do cố gắng làm việc hữu hiệu, cũng thuộc về Nha Nước. Vì vậy không cần cố gắng nhiều.

* Người đứng trách nhiệm Công ty nghĩ đến cắt xén thưởng công cho mình trước khi làm Kinh tế thực sự để sinh lợi nhuận.

* Những sản phẩm công nghệ ngày nay là sự chắp nối những linh kiện rời trong hệ thống sản xuất từng phần (sous-traitance). Những Công ty Nhà Nước khó lòng phân công với nhau để sản xuất từng phần trong mục đích giảm giá thành sản phẩm cuối cùng. Những Công ty công nghệ Nhà nước chọn những dễ dãi là nhập siêu những thành phần từ nước ngòai để đem về ráp nối chặng chót. Vì vậy sản phẩm chặng chót có giá thành cao lên vì nhập siêu những linh kiện.

* Mỗi lần nhập siêu linh kiện là mỗi lần những chủ Công ty nhà nước lại có dịp thông đồng kín đáo với người bán từ nước ngòai để tăng giá mua, cắt xén cho vào túi riêng của mình.

* Cuối cùng, nếu Công ty không làm việc cho có hiệu lực, thua lỗ, thì đã có Tiền, Vốn quốc gia bù thêm vào.

Theo Công thức tóm tắt của FISHER mà chúng tôi đưa ra trên đây, thì khi nền Kinh tế không có hiệu quả, số sản phảm (T) giảm, thì Khối Tiền lưu hành (M.V) không có Hàng hóa và Dịch vụ tương xứng. Đồng Tiền mất giá, lạm phát, đồng tiền mua được ít hàng, nghĩa là vật giá tăng.

@ Bloger Người Buôn Gió viết rất đúng về thái độ làm việc của những người trách nhiệm các Công ty Nhà Nước:” Các kế hoạch xây dựng càng xây càng hỏng, nào hầm Thủ Thiêm, đường hầm Kim Liên…; có nhà máy như Dung Quất tưởng đã vận hành từ lâu thì nay lại phát hiện thêm 100 lỗi trong khi thi công nên phải tạm ngưng, không biết sẽ còn ngưng đến bao giờ. Các đại tập đoàn đứng sau Nhà nước, tưởng lập ra là cốt tăng thêm GDP, giúp cho an sinh được cải thiện, dân đỡ khổ hơn, nào hay anh nào cũng dài mồm than lỗ, mới ra Tết mọi thứ sản phẩm của họ đã tăng giá vùn vụt, nghĩa là họ chỉ góp phần vào bĩ cực mà chẳng thấy có thái lai.”

@ Giáo sư TSKH Ngô Trí Long, Học viện Tài chính, nhấn mạnh như một hiệu lệnh: “Đầu tư phải hiệu quả”.

@ GSTS Vũ Văn Hóa, Trưởng Khoa Kinh Tế Tài Chánh - Đại Học Quản Lý Kinh Doanh, cũng nhất thiết khuyến cáo: “Phải nâng cao hiệu quả”.


Việt Nam khác với những nước trong khu vực
về Cơ Chế Chính trị—Kinh tế

Xin nhắc lại lời của Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, nói: “Cùng điều kiện, hoàn cảnh, các nước trong khu vực lạm phát thấp hơn của mình.“.
Có lẽ Giáo sư Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, không dám nói ra một điều làm Việt Nam khác với các nước trong khu vực vì ngại sợ rằng Công an CSVN lại mời ông lên làm việc, rồi truy tố ông ra tòa theo Điều 88 Bộ Hình Luật. Riêng tôi, tôi đã nói từ lâu rằng cái Cơ Chế CSVN làm Kinh tế, gọi là nền Kinh tế Tự do và Thị trường định hướng XHCN, khác hẳn với việc làm Kinh tế Tự do và Thị trường ở những nước trong khu vực. Nền Kinh tế Tự do và Thị trường của những nước trong khu vực tôn trọng Môi trường Chính trị—Luật pháp dân chủ phù hợp (Environnement Politico-Juridique démocratique adéquat), trong khi ấy Việt Nam cố thủ chủ trương Chính trị độc tài nắm trọn độc quyền Kinh tế. Cái khác là ở chỗ đó và chính cái khác này làm cho Lạm phát và đồng Tiền mất giá cao hơn nhiều sánh với những nước trong khu vực.

Kinh tế Việt Nam là Kinh tế nhóm đảng Mafia CSVN độc tài cướp bóc của cải dân chúng và quốc gia cho riêng mình, chứ không phải nền Kinh tế do Dân và cho Dân. Vì nắm giữ cả hai quyền, nên Tiền, Vốn nhà nước bỏ lỏng ra để Khối Tiền lưu hành (M.V) tăng theo ý đảng và họat động Kinh tế không cần hiệu quả để không đủ sản phẩm tương xứng (T) bảo đảm cho giá trị đồng Tiền. Lạm phát, Phá giá đồng Tiền là như vậy.


Không chịu nổi hậu quả Lạm phát,
Dân chúng nghèo đói nổi dậy

Khi viết về cuộc Khủng hỏang Tài chánh Á-châu năm 1997 làm đồng tiền một số lớn những nước Á châu mất giá, Bà Francoise NICOLAS đã đưa ra tỉ dụ tình trạng lạm phát đã làm dân chúng đói nghèo nổi dậy đạp đổ chế độ độc tài SUHARTO sau 32 năm cai trị.

Thực vậy khi vật giá tăng vọt, đồng tiền mà họ tiết kiệm mất giá, những người lãnh lương như công nhân, công chức thì không được tăng lương là bao nhiêu, đa số rơi vào cảnh nghèo đói. Những người giữ quyền hành Chính trị, đặc quyền làm ăn bóc lột thì giầu có, vẫn tiêu pha, nhập siêu. Việc nổi dậy của đại đa số dân chúng nghèo đói không đến từ một thế lực ngọai lai nào khuyến dụ mà từ BỤNG ĐÓI của Dạ Dầy. Sức mạnh nổi dậy trước khi bị chết đói làm họ không sợ chết nữa. Nếu họ biết rằng việc mất giá Tiền tiết kiệm và Tiền lương của họ là do sự gian lận in tiền mới ra để lừa đảo đánh lận con đen với Tiền thực của họ, thì cuộc nổi dậy còn tăng thêm thù hận đến giết lát nữa.

Chúng tôi xin trích một đọan của bài viết của Oâng VŨ QUANG VIỆT đăng trên báo Lao Động (số 197, ngày 25.8, và số 198, ngày 27.8.2007) :“Tôi rất đồng ý với các nhà kinh tế đã nhận định là ở bất cứ đâu và bất cứ thời điểm nào lạm phát có nguyên nhân in tiền nhiều quá. Tại sao lại in tiền nhiều ? Vì nhà nước chi nhiều hơn số thuế thu được. Vấn đề là nhà nước bắt ông Ngân hàng Nhà nước mua trái phiếu. Điều này có nghĩa là bắt NHNN in tiền. Tiền nhiều hơn hàng làm ra thì tất phải lạm phát. Thời chống lạm phát cuối những năm 1980, hầu hết mọi người trong chính phủ đều cho rằng phải tăng năng suất, phải tăng cung để giảm lạm phát. Tôi đã đặt cho các bạn ấy một câu hỏi. Thế khả năng tăng sản xuất thật một năm là bao nhiêu ? Cao nhất như Trung Quốc thì cũng chỉ 10-15% là cùng, nhưng các ông lại đang tăng tiền tới cả vài trăm phần trăm một năm. Các ông có tăng sản xuất nổi vài trăm phần trăm một năm không ?“

Để kết, chúng tôi xin lấy lời nhận định của Oâng Jacques DIOUF, Tổng Giám Đốc FAO, tuyên bố với báo Financial Times: ”Si les prix continuent à augmenter, je ne serais pas surpris que l’on assiste à des émeutes de faim.” (Nếu giá cả tiếp tục tăng, thì tôi không ngạc nhiên về việc người ta chứng kiến những nổi dậy vì đói khổ) (LE MONDE, No.19523, Thứ Tư 31.10.2007)


Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 04.02.2010










Bài MỞ ĐẦU:

CHỦ ĐỀ: DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ


Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 11.02.2010


Chúng tôi đã viết một lọat bài về CHỦ ĐỀ: PHẢI DỨT BỎ CHỨ KHÔNG THỂ CẢI CÁCH CƠ CHẾ HIỆN HÀNH khi phần tích cái cội rễ của suy thóai Kinh tế Việt Nam là THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ lan tràn, tạo cướp bóc bất công về đời sống vật chất cho Dân. Tham Nhũng, Lãng Phí phát sinh và lan tràn chỉ vì đảng CSVN duy trì một CƠ CHẾ cho phép độc tài Chính trị—Luật pháp nắm độc quyền Kinh tế để tạo nên Kinh tế Mafia đảng và gia đình.

Sau lọat bài này, chúng tôi cho xuất bản cuốn sách vào đầu năm 2009 với nhan đề là “DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN”. Đòi hỏi dứt bỏ CƠ CHẾ hiện hành không phải là một đòi hỏi Chính trị, mà là một đòi hỏi Kinh tế để phát triển Đất nước. Đại đa số người Dân chỉ muốn phát triển Kinh tế để đới sống họ không phải nghèo khổ, đói ăn.

Đầu năm 2009, Một Báo Cáo của World Bank đã đưa ra nhận định về Kinh tế Việt Nam:

“Ngân hàng Thế giới đặt câu hỏi liệu Việt Nam sẽ đi theo số phận của Liên Xô cũ hoặc thành công như Mauritius, một quốc gia nhỏ bé đã cải tổ thắng lợi.

Nhà Nước VN luôn luôn tuyên truyền rằng tăng trưởng GDP hàng năm luôn ở mức cao, thậm chí trong thời điểm kinh tế khó khăn, luôn làm nức lòng người dân. Thế nhưng, tính toán mới đây của Ngân hàng Thế giới cho thấy Việt Nam sẽ phải mất hàng chục năm, thậm chí là cả trăm năm mới có thể đuổi kịp các nước láng giềng.

Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố đầu tháng này đưa ra những thống kê gây sốc cho những ai đang kỳ vọng lớn vào “con hổ Việt Nam”. Theo đó, Việt Nam có thể mất tới hàng chục năm mới đuổi kịp Indonesia và thậm chí trăm năm nữa mới bằng được Singapore về thu nhập trên đầu người.

WB còn đưa ra một cách tính toán nữa là tính bằng đồng đôla. Theo đó, tốc độ tăng trưởng thu nhập trên đầu người tính bằng đôla của các nước Việt Nam, Indonesia, Thái Lan và Singapore tương ứng là 12,5%, 6,4%, 4,9% và 6,0%. Nếu sử dụng các con số này thì thời gian để Việt Nam theo kịp các nước trên sẽ là 15 năm với Indonesia, 22 năm bằng Thái Lan và 63 năm thì ngang với Singapore.”

Trong Bài chót Kết luận cho lọat bài Chủ đề trên đây, cũng là nội dung của cuốn sách “DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN ĐỂ PHÁT TRIỂN”, chúng tôi đã nêu lên việc DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ làm nền tẳng cho DÂN CHỦ HÓA CHÍNH TRI-LUẬT PHÁP. Nếu có Dân chủ hóa Kinh tế thực sự, thì việc Dân chủ hóa Chính trị-Luật pháp chỉ là một Hệ luận. Chúng tôi đã nhiều lần viết rằng đảng CSVN luôn luôn nói với Dân là họ chấp nhận nền Kinh tế Tự do Thị trường, rồi thêm cái đuôi “định hướng XHCN” để trên thực tế họ vẫn giữ chủ trương Kinh tế Tập quyền Chỉ huy. Không thể nào có nền Kinh tế Tự do Thị trường thực sự trong một Môi trường Chính trị-Luật pháp độc tài. Nền Kinh tế Tập quyền Chỉ huy đã đã thất bại.

Chúng tôi đã đưa ra tỉ dụ của hai Quốc gia có nền Dân Chủ vững chắc nhất, đó là hai nước Hoa-kỳ và Thụy sĩ. Hai nước này bắt đầu xây dựng Thể chế Chính trị của họ bằng tôn trọng triệt để việc Tự do kiếm sống của mỗi Cá nhân. Khi những Cá nhân sống trong tương giao Xã hội, thì tinh thần tôn trọng cuộc sống vật chất (Kinh tế) cá nhân vẫn được triệt để chủ trương. Việc xây dựng hệ thống quản trị Xã hội (Chính trị) và Luật pháp cho mọi người vẫn phải lấy cá nhân làm trọng tâm.

Gương xây dựng nền DÂN CHỦ tại Hoa kỳ và Thụy sĩ bắt đầu bằng giải quyết CÁ NHÂN CHỦ những phương tiện kiếm sống cụ thể mỗi ngày cho chúng ta thấy rằng phải bắt đầu việc Dân chủ hóa Kinh tế thực sự (Démocratisation Economique). Từ đó Tiến trình Dân chủ hóa Chính trị (Démocratisation Polico-Juridique) đến như một Hệ luận.

Lọat Bài Chủ đề PHẢI DỨT BỎ CHỨ KHÔNG THỂ CẢI CÁCH CƠ CHẾ HIỆN HÀNH đòi hỏi phải chấm dứt CƠ CHẾ cho Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế để Đất Nước mới có cơ hội phát triển. Lọat Bài Chủ để mà chúng tôi bắt đầu viết từ hôm nay 11.02.2010 “CHỦ ĐỀ: DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ” nhằm mục đích khai triển những điểm cần thiết để việc phát triển có sự bền vững và lâu dài. Tiến trình Dân chủ hóa Kinh tế bắt đầu bằng giải quyết những vấn đề cụ thể và chính yếu sau đây:

=> Tôn trọng quyền TƯ HỮU các phương tiện làm ăn, mà cụ thể là quyền Tư hữu Đất đai. Nhà Nước không được quyền dưới danh nghĩa quản lý để tước đọat đất đai, nhà cửa của dân chúng.

=> Tôn trọng quyền TỰ DO làm ăn của Dân chúng. Nếu đã tôn trọng TƯ HỮU thì phải tôn trọng TỰ DO xử dụng TƯ HỮU. Nếu không thì TƯ HỮU trở thành vô nghĩa.

=> Tôn trọng TƯ HỮU, tôn trọng TỰ DO xử dụng TƯ HỮU để kiếm sống của mỗi cá nhân, thì việc tạo Môi trường Chính trị—Luật pháp Xã hội cho phù hợp (Environnement Politico-Juridique Social adéquat) phải có tiếng nói quyết định của những cá nhân thành phần Xã hội.


Tiến trình DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ đưa đến DÂN CHỦ HÓA CHÍNH TRỊ—LUẬT PHÁP vậy.


Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 11.02.2010






No comments:

Post a Comment