Pages

Sunday, July 18, 2010

NGUYỄN THIÊN THỤ * TRUYỆN NGẮN




NGÔI NHÀ VÀNG

Ở Việt Trì, tại Ngã Ba Hạc có một cây đa rất lớn, mà bên dưới là hang hốc chồn cáo. Nhiều đêm, bọn ma quỷ, bọn hồ tinh thường hội họp bàn tán. Chúng bàn mọi việc trên trời dưới đất, trong xóm ngoài làng. Một con Ma chê bọn Cáo:
-Bọn bây nghe nói pháp thuật tinh thông mà ở chỗ hang hốc thấp kém, hôi thối.
Hồ ly nói:- Đó là nét văn hóa đặc thù của loài Cáo chúng tôi. Dù có tài thiên biến vạn hóa, chúng tôi vẫn giữ truyền thống cũ:
Ta về ta ở hang ta,
Dù to, dù nhỏ, hang nhà vẫn hơn!

Có một độ chúng ma nói chuyện với nhau về ngọc vàng. Một con nói:
-Tôi đã xuống Long vương thấy trong phòng Long vương chưng vô số ngọc, viên nào cũng to bằng quả trứng gà, đủ màu sắc.
Một Hồ Ly nói:
-Tôi thấy ở trong cung, hoàng hậu đội một cái vương miện bằng vàng to bằng cái rổ, xung quang đính những viên ngọc to bằng trái nhãn lồng!
Con ma khác nói:
-Ăn thua gì, bên Thái Lan có những ngôi chùa và tượng Phật bằng vàng thật.
Một con quỷ lên tiếng:
- Bên Thái Lan thì nói làm gì. Ở tại thôn Đoài, xứ Đoài có một cái nhà vàng .
Các ma tranh nhau hỏi:-Thật không?
-Thật chứ. Cái nhà toàn bằng vàng, ở trong có đủ thứ bửu vật. Ma thuật chuyện ấy cho nhau nghe, và bảo rằng cái nhà quý báu hiện có trên thế gian, ngay gần đây không xa.

Câu chuyện lọt vào tai Thổ công. Ông nghĩ rằng ông là thổ công xứ này, đưọc thiên đình giao cho việc theo dõi tình hình địa phương. Dưới ông là các đội trưởng, toán trưởng , tổ trưởng và hàng trăm quan lại thượng thừa đủ chủng loại và cấp bậc gồm những thằng tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư, trung tướng, thiếu tướng, và hàng chục vạn nhân viên , cứ mỗi nhân viên coi mười nhà. Nhân dân chúng nó ăn gì, vợ chồng chúng nó chửi nhau ra sao, yêu nhau ra sao đều báo cáo đầy đủ về bộ An Ninh Thiên Đình. Thế mà một cái nhà vàng nằm chình ình trong khu vực của ông lại không ai báo cáo việc này.


Nhân viên ông, thủ hạ ông toàn là những tay cốt cán, đã có thành tích phá tan hàng vạn cuộc nổi dậy và biểu tình chống đối. Chúng rất tích cực đến độ trước mắt quốc tế, chúng đánh đập nhân dân công khai, và trước tòa án, trước các phóng viên báo chí trong ngoài, chúng lấy tay bịt miệng người ta không cho nói. Danh từ " bịt miệng" không còn là nghĩa bóng mà là nghĩa đen rùng rợn, rõ rệt và man rợ! Chúng luôn trung thành với ông, với Thiên Đình, không lẽ chúng lo làm giàu mà quên nhiệm vụ? Không lẽ tất cả chúng nó đã chạy theo "diễn biến hòa bình" mà bỏ ngũ? Không lẽ kẻ thù tài ba ghê gớm có thể che thần nhãn của ông?

Việc to lớn như thế mà ông không biết, chứng tỏ ông và thủ hạ bất lực, sớm muộn sẽ bị thiên đình phát giác và trừng phạt. Lúc đó thì ông ăn cám, và về đuổi gà cho vợ cũng không xong!

Theo thói quen nghề nghiệp, ngay đêm ấy ông đến chơi đức Thành hoàng bổn cảnh để hỏi xem có tin tức về câu chuyện của ma nói xem thử hư thực như thế nào. Thành hoàng rất ngạc nhiên khi nghe ông bạn An Ninh kể chuyện. Ngài bảo:
- Ông còn không rõ, tôi thì đi đâu mà biết được. Tôi quanh năm nằm trong đình làng thôi thì làm sao biết việc ở làng khác, tỉnh khác!

Hai ông ngẩn người, bèn bảo nhau qua nhà Đông Trù Tư mạnh Táo quân, rồi cùng nhau đem việc lạ ấy hỏi Đông trù tư mệnh Táo quân. Đông trù nghe hai ông khách, lại tưởng chuyện Phong thần, cười và nói:
- Tôi chỉ công tác trong nhà chứ đâu công tác ngoài xã hội. Nếu có nhà vàng thì phải do cấp trên cao hơn theo dõi, chứ tôi chỉ công tác trong xó bếp nhân dân thôi! Nước ta nghèo, theo XHCN, làm gì có kiểu sang giàu như vua chúa đời xưa! Lạ quá. Xin các ông hãy kể nốt câu chuyện cho tôi nghe.

Thấy hai ông kia ngơ ngác, bấy giờ mới suy ra là chuyện thực. Đông trù thú thật rằng, chưa biết việc ấy bao giờ.
- Tôi tra xét việc thế gian, năm năm tâu lên Thượng đế, và nghe các đồng nghiệp trình tâu tình hình các nơi mà không thấy một việc lạ như thế. Vả lại ở thế gian, nếu có lâu đài vĩ đại, bất quá chỉ làm bằng đá bằng cây, chạm trổ đủ hình, đủ kiểu, hoặc vài nơi mạ vàng như bàn thờ hoặc câu đối chớ có nghe đâu nhà toàn bằng vàng như các ông bảo.
Thành hoàng nói:
-Vùng Sơn Tây thuộc Tản Viên linh thần. Ta nên lên Tản Viên hỏi thử.
Cả ba lên Tản Viên nhưng không được gặp vì Tản Viên sơn thần đi đự hội nghị ngoài biển đông với Long vương.


Táo quân nói:-Âu chúng ta nên hỏi Nam tào giữ sổ nhân gian xem sao.
Cùng nhau lên xe mây, để thiên ngưu kéo về thiên đình, thì bỗng gặp một nhà tu hành kỳ quái, không biết ở đâu lại hiện ra giữa không trung chặn đường.
Các thần đều hỏi:
- Ông là ai? Xin cho biết quý danh?
Người lạ đáp:
- Tôi là nhà tu Thích Đủ Thứ, sống trong một thế giới khác, nên các ngài không biết được. Nhưng về sau rồi các ngài có thể biết.
Các thần hỏi:
- Vậy ông chận đường chúng tôi có việc gì?

Nhà sư kỳ dị đáp:
- Tôi cũng vừa nghe các ngài bàn việc lên trên kia hỏi một vị thần khác giữ sổ thế gian, xem cái nhà vàng ở đâu. Tôi sợ các ngài đi xa nhọc nhằn mà sẽ không kết quả gì, vì chắc chắn trên kia, vị thần mà các ngài đến hỏi chuyện cũng không thấu rõ cái kỳ quan đó. Bọn họ chỉ lo kiếm vàng chứ không biết chuyện nhà vàng đâu. Các ông một là phải theo thủ tục đầu tiên, hai là phải có quyền thế, vây cánh và phải có giấy giới thiệu của cơ quan và của lệnh bài của Thiên Đình. Nếu không, chúng chỉ sang Nam Tào, Nam Tào lại chỉ về Bắc Đẩu, Bắc Đẩu lại chỉ sang Thái Thượng Lão Quân, Thái Thượng lão quân lại chỉ sang Vương Mẫu, Vương mẫu lại chỉ sang Đông Hải Long vương. Các ông chạy trăm năm cũng không có ai giải quyết vấn đề cho đâu!


Các thần nhìn nhau, rồi hỏi:
- Thế ông có cách gì cho chúng tôi biết không?
Nhà sư kỳ lạ gật đầu rồi dẫn các thần trở lại thế gian, về thôn Đoài, tỉnh Đoài. Đến đây thì trời rạng đông, các ma đã tản lạc theo đêm tối về phương khác. Người lạ rút trong tay áo ra một hạt ngọc trong như thuỷ tinh, hạt ngọc chiếu những tia sáng tinh anh. Rồi cho những tia sáng ấy rọi về phía xa, trỏ cho các thần xem. Các thần chăm chú nhìn tức thì thấy cách đó ba dặm, trong một cảnh thật huyền ảo, cái nhà vàng rực rỡ xuất hiện giữa một vườn cây kỳ dị.
Các thần rú lên:
- Đích rồi! Hoàng kim ốc!

Vừa nói xong, hạt ngọc và người lạ bỗng dưng biến mất. Các thần nhìn nhau, rồi nhìn về chốn huyền ảo khi nãy, thì chỉ thấy ánh sáng ban mai nhuộm hồng rừng núi và đồng ruộng. Ở đấy rải rác một vài nóc nhà, và chính nơi cái nhà vàng vừa thấy, thì lại là một túp lều tranh nhỏ.

Lúc bấy giờ trong ngôi nhà tranh, một chàng thư sinh vừa buông sách xuống, định ngả lưng nằm nghỉ. Bỗng nhiên ngó lên mái nhà, thầy ba bóng người đang vạch mái tranh nhìn xuống. Một ông mặt đen như nhọ chão, một ông đội mũ vàng, một ông bịt khăn rằn che mặt. Cả ba ông bàn cãi nhau và trong giấc mộng, chàng nghe ba ông bảo:
-Sao lại thế nhĩ?
Chàng thở ra, thở vào đều đều, rồi an giấc.
Đông trù cằn nhằn Thổ công:
- Hắn ta chỉ là một anh học trò khó, nghèo xơ xác, mà lại bảo ở nhà vàng. Hoang đường quá! Mộng mị quá ! Các ông là nhà cách mạng lại đi tin những điều yêu hồ nhảm nhí! Nếu dân chúng và thiên đình biết được thì uy tín các ông không còn, mà lại có thể bị rút thẻ "Ưu tiên" và đuổi xuống hạ giới!


Thành hoàng cũng bực mình:
- Tôi bỏ qua hết ba cuộc lễ kỳ yên rồi còn gì. Mấy ông thần hoàng bạn tôi ở Hà Nội, Hà Đông, Nam Định mời tôi về ăn nhậu, chơi bời, có em út và ca sĩ khắp bốn bể năm châu về, có sòng bài, đủ thứ vui. Khi về còn được hàng chục phong bao dày cộm. Thế mà vì việc chẳng ra chi mà đành lỡ hẹn với các ông trên ấy. Thật đáng tiếc, mất cả chỉ lẫn chài! Chẳng cái dại nào bằng cái dại nào!
Thổ công vuốt râu cười hắt:
- Thôi các ông đừng trách móc nhau nặng lời. Ta thử xem trên đường có gặp thằng nhà sư quỷ quái kia không mà cho nó một trận nên thân!

Ba ông vừa đi vừa nhìn kỹ, quả nhiên thấy bên gốc cây vệ đường, nhà sư kỳ dị đang nằm ngủ.
Cả ba thần đánh thức nhà sư và quát lón:
-Ông là nhà sư sao lại nói dối hả?
Nhà sư cười:
-Các ông quyền cao chức trọng nhưng sức học lớp ba, lớp năm trường làng cho nên chẳng biết chữ nghĩa của thánh hiền. Tôi xin mời ông trở lại ngôi nhà vàng.
Ba vị thần linh theo nhà sư bước vào ngôi nhà tranh. Người học trò đang nằm ngủ. Nhà sư mở cửa cùng ba thần linh đi vào nhà . Vị sư chỉ hai câu đối treo trên tường nhà người học trò:
Ngã độc thư, ngô mao lư thị hoàng kim ốc,
Quân hành thiện, quân Phật tâm tức bích ngọc thành.
(Ta đọc sách, nhà tranh ta là nhà vàng,
Ông làm thiện, tâm Phật của ông ấy thành ngọc)

Ông sư lại mở bồ sách, lấy ra một quyển nhan đề là "Trạng Nguyên Thi" và chỉ cho ba thần xem thì thấy hàng chữ:
"An cư bất dụng giá cao đường. Thư trung tự hữu hoàng kim ốc.Thiện tâm mao ốc hóa lâu đài."
( Ở yên là đưọc, không cần làm nhà cao. Trong sách có nhà vàng. Có lòng thiện thì nhà tranh thành lâu đài.)

Sau cả ba lên thiên đình, trình tấu sự việc. Thượng Đế cười:
-"Chúng nó lý tưởng quá, lý tưởng quá thì khổ. Nhà tranh sao là nhà vàng, sách nói hoang đường. Ta đây sống trên trời nhưng rất thực tế. Ta tranh đấu là tranh đấu cho ta, cho chúng ta, cho địa vị, tiền bạc cho vật chất vì chúng ta theo Duy Vật chủ nghĩa mà! Nhà của ta đây mới là nhà vàng, cung điện của ta giá hàng tỷ mỹ kim, nơi nghỉ mát của ta giá hàng triệu mỹ kim, tối tân hơn vạn lần cái nhà vàng trong mộng của chúng nó! Nhưng thằng đó nghèo mà dám nói nhà nó là nhà vàng. Đó là tư tưởng duy tâm thần bí! Nói như thế là nó bảo nó giàu sang hơn ta, đó là hành động chống phá triều đình! Các khanh nên đem nó đi học tập Đại Học Trường Kỳ."
Các thần bèn lạy tạ mà lui ra!



CẢNH ĐẸP THIÊN ĐƯỜNG

Lư sinh quê ở Thuận Hóa, lấy vợ ở Hà Tiên. Sở dĩ sinh lấy vợ xa như vậy là vì ngày trước, Lư công được triều đình biệt phái vào Nam giúp việc cho Tổng trấn Gia Định thành. Còn bố vợ là Đào công, quê Hà Tiên, đỗ cử nhân được bổ nhậm làm quan tại Gia Định thành, Hai ông gặp nhau, rồi kết bạn uống rượu, ngâm thơ. Hai gia đình trở nên thân thiết, bèn kết thành thông gia. Hai vợ chồng lấy nhau đã năm năm, sinh được hai trai, hai gái. Sau hai ông về hưu trí, Lư sinh theo cha về Thuận Hóa, còn bố vợ thì lui về Hà Tiên.


Mười năm sau, nghe tin nhạc phụ lâm trọng bệnh, sắp qua đời, Lư công tử bèn đem vợ con theo đường biển mà về Hà Tiên. Một đêm, thuyền đậu gần Tháp Chàm, công tử nằm ngủ thì thấy có một mỹ nhân áo tía bước tới cúi chào xin cùng công tử vui chơi. Công tử nghĩ rằng nơi sông hồ, núi non trùng điệp, làm gì mà có giai nhân. Chắc nàng là giống ma Hời hoặc giống Hồ Ly nên không dám gần gũi. Hôm sau, lại có một nữ nhân áo vàng đến, hỏi chàng có muốn đi ngao du không. Công tử nhận lời.

Chàng theo nàng áo vàng ra ngoài dạo cảnh. Nàng hỏi chàng có đi thăm chốn Thiên Đàng hay không. Công tử nghĩ Thiên Đàng chắc phải xa lắm. Chàng hỏi:
-Thiên Đàng ở đâu? Có xa không?
Nàng bảo Thiên Đàng gần đây thôi. Nàng nắm tay chàng đưa chàng bay lên không. Giây phút đến một vùng đất bao la, cung điện trùng trùng điệp điệp. Một bức tường cao rộng bao vây xung quanh Thiên Đàng. Muốn vào phải qua một cánh cỗng lớn, có lính canh gác. Nàng đưa Công tử đến cỗng, giao Công tử cho người mấy lính gác và nói nhỏ với họ điều gì đó. Một lát sau, bên trong có một mỹ nhân áo xanh chạy ra, chào đón chàng, và nói với người thiếu nữ áo vàng:
-Công tác của đồng chí đến đây là hoàn tất. Đồng chí nên trở về cơ quan.
Thiếu nữ áo vàng chào chàng và chàng cũng chào lại và ngõ lời cám ơn giai nhân.

Thiếu nữ áo xanh mời chàng vào một văn phòng khá rộng rãi, có bình hoa hồng và vài loại hoa khác. Trên sàn nhà trải tấm thảm Ba Tư rất đẹp. và trên tường treo tranh mỹ nữ theo nghệ thuật Trung Quốc đời xưa. Trên án thư có lò hương trầm , mùi trầm bay thoang thoảng trong không gian. Nàng hỏi chàng :-"Đại biểu" quê quán ở đâu? Đến đây du lịch hay tính việc đầu tư? Đại biểu mang vào đây bao nhiêu vàng? Đại biểu có mang châu báu gì không? Đại biểu có quen ai nơi đây không?
Chàng bảo rằng chàng chỉ đi du lịch theo đề nghị của thiếu nữ áo vàng hôm trước. Chàng không có ý định đầu tư. Chàng chẳng quen ai, chẳng có vàng bạc hay châu ngọc gì cả.

Nghe xong, thiếu nữ đưa cho chàng giấy bút bảo khai lý lịch, trong đó phải ghi rõ tam đại tổ tông. Chàng chỉ khai tên cha mẹ, nhưng không biết tên ông nội và ông cố vì thân phụ chàng là một trẻ mồ côi, được một phú ông đem về nuôi dạy. Giai nhân xem qua lý lịch, sắc diện có vẻ giận dữ. Nàng hỏi tại sao lại giấu diếm lý lịch. Nàng gọi một nhân viên đến và nói nhỏ với người này. Người này cúi đầu ra đi, một lát trở lại, nói nhỏ với nàng. Nàng lấy lại sắc mặt bình thường, hỏi chàng muốn đi đâu. Chàng trả lời là muốn đi xem cảnh Thiên Đường.

Nàng vui vẻ nói:-Trên thượng giới, nơi này thuộc Thiên Đường nhưng tên thật là Xứ
" Cáo Lông Đỏ Mặt Trắng". Xứ này có ba nơi là Thượng Thiên Đàng, Trung Thiên Đàng và Hạ Thiên Đàng. Đại biểu muốn tham quan nơi nào?
-Chàng đáp muốn tham quan cả ba.
Nàng đáp:-Đại biểu chỉ có thể tham quan Trung Thiên Đàng và Thượng Thiên Đàng. còn Hạ Thiên Đàng nay đang sửa chữa và xây dựng cho to đẹp hơn mười lần xưa nên chưa cho du khách tham quan.
Chàng bằng lòng.

Thiếu nữ áo xanh bèn ra hiệu cho hai nhân viên dẫn chàng đi. Họ dẫn chàng vào Thượng Thiên Đàng. Quả thật nơi đây sang trọng hết sức, hơn cả vua chúa xứ Ba Tư. hay Anh Quốc. Đi một hồi, hai nhân viên này kêu mệt và khát. Chàng bèn bảo họ dừng chân, tìm nơi nghỉ ngơi, ăn uống. Họ đưa chàng vào một tửu lâu to lớn. Chàng bảo họ cứ tự do ăn uống, tốn bao nhiều, chàng sẽ trả. Hai nhân viên này kêu rượu thịt. Giây lát, rưọu thịt được bưng ra, và lập tức có hơn mười thiếu nữ khác bu xung quanh. Kẻ đấm lưng, người lấy khăn ướp lạnh, người đề nghị khui rưọu này, người thì ân cần mở chai rượu khác, rất nhiệt tình. Có một vài nàng ngồi trong lòng chàng và hai nhân viên kia. Tất cả đều vui vẻ, trẻ trung, không bút mực nào tả xiết. Chàng ở lại với họ thâu đêm. Hôm sau thì đi tham quan Trung Thiên Đường.

Vừa ra đầu đường là chàng thấy nhiều thanh thiếu niên tập võ, đấu kiếm rất ngoạn mục, chỗ nào cũng có những cô gái cầm hoa nhảy múa, cảnh tượng rất vui vẻ. Chàng đi một đoạn thì thấy hàng trăm thanh thiếu niên, ông già, bà cả cầm sách mài miệt đọc.

Chàng hiểu rằng xứ này là Thiên Đường nhưng rất có tổ chức như vua chúa ngày xưa. Thượng Thiên Đàng chính là nơi vua chúa ở, ngày xưa ở trần gian thì gọi là nội cung, nội thành hay cấm cung. Còn Trung Thiên Đường thì chia ra nhiều loại. Một là các cơ quan, bộ viện, nhà thương, trường học và hai là các công xưởng, các nhà hàng, các công ty. Nơi đây là nơi làm việc của các quan lại và nhân viên, nhân dân phải có giấy phép mới được vào. Nhà thương, trường học hay các cửa hàng nơi đây là để dành cho các quan lại. Chàng hỏi nhà tù ở đâu. Cả hai nhân viên rùng mình sợ hãi, đồng thanh bảo rằng đây là thiên đàng, không có nhà tù, chỉ có các trường đại học. Chàng lấy làm ngạc nhiên vì trong kinh thánh có nói đến Thượng Đế đã giam Sa Tăng, sao lại ở đây bảo rằng không. Không lẽ có nhiều thiên đàng, và thiên đàng nơi đây là tốt nhất?

Chàng định bí mật đi thăm Hạ Thiên Đường. Khi hai nhân viên khác đến tìm chàng thì chàng cáo bệnh, xin ở nhà một ngày dưỡng sức. Ăn sáng xong, chàng bèn đi dạo quanh. Chàng kêu xe đưa ra khỏi Thượng Thiên Đàng, qua Trung Thiên Đàng. Hôm nay đường sá vắng tanh, không rộn ràng như hôm chàng đăng ký tham quan. Chàng đi dạo trong Trung Thiên Đàng thì thấy một người đàn bà ốm yếu dắt con đi trong cửa hàng. Nhìn kỹ thì bà chính là người đàn bà đã nhảy nhót ca múa rồi đứng lên choàng một tràng hoa vào cổ chàng trong ngày hôm qua. Chàng tiến lại chào hỏi. và hỏi nàng đi đâu. Nàng đáp nàng được tuyển vào ban ca vũ trong đoàn Công tác ngoại kiều để khi có quan khách đến thì ra biểu diễn. Vì vậy nàng có giấy phép ra vào mua hàng hóa.

Chàng khen nàng múa đẹp. Nàng cười mà bảo: -Đói mê tơi! Đói rụng rời nhưng được lệnh phải biểu diễn.
Chàng khen:- Nhân dân đây từ trẻ con cho đến ông già đều ham học, ham đọc quá nhỉ!
Nàng cười:-Tất cả là trò biểu diễn để chứng tỏ đất nước phần thịnh, dân chúng vui vẻ, yêu chế độ, thích đọc sách báo của Thiên Đình! Thực ra, dân chúng chỉ dùng sách báo của Thiên đình mà chùi. . . .

Đi qua một khu hoang vắng, có hàng rào kẽm gai xung quanh, chính giữa là một toà nhà mấy chục tầng, phía dưới là khu lô cốt, có hàng trăm lô cốt. Chàng hỏi khu này là gì. Nàng đáp đây là nhà tù. Trên kia là tù thường, dưới lô cốt là trọng phạm. Năm mười trọng phạm chung một lô cốt.Tội nhân nơi đây bị xích lại, nhốt trong phòng kín. Trong phòng có hàng trăm, hàng ngàn con vật hình dáng như gián, kiến càng, bò cạp đủ màu sắc, đủ chủng loại và kích cở bu vào cắn chân tay và thân mình. Vào đây coi như bị xử tử vì sau vài ngày không ăn uống và bị hút máu là chết.

Nói đến đây, chàng bỗng nghe tiếng chân người chạy thình thịch, và tiếng chó sủa. Người đàn bà cùng chàng chạy trốn. Nàng đưa chàng chạy qua bụi rậm rồi chạy vào một cao ốc. Cả hai leo đưọc đến tầng ba thì bị lính đuổi kịp. Chúng nắm chàng và người đàn bà ném xuống đất qua cửa sổ. Chàng sợ hãi kêu to lên. Giật mình tỉnh dậy mới biết mình nằm mơ.

LỤC ĐẠO NHÂN


Trương Nhân quê ở Quảng Ngãi bị Mọi Đá Vách nổi lên chống triều đình, chúng cướp phá thôn trang, khiến cho thân phụ chàng phải đem gia đình vào Phú Yên lánh nạn. Tại đây, Trương sinh gặp Mai Thế Hòa là người Gia Định theo cha ra Phú Yên vì cha chàng được đổi ra làm việc ở dinh quan Án sát. Hai chàng cùng theo học tại trường quan Giáo Thọ, và cùng chơi thân với nhau. It lâu sau, quan Tuần Vũ Quảng Ngãi là Nguyễn Cư Trinh dẹp ta mọi Đá Vách, xóm làng yên ổn, gia đình Trương lại về Quảng Ngãi.

Từ đó, hai chàng xa cách nhau và cũng it thư từ qua lại. Vài năm sau, Mai Thế Hòa thi đỗ tú tài, làm lại viên trong dinh quan Bố Chánh, cưới vợ là con quan huyện sở tại sinh được ba trai, hai gái.

Ông tú Hòa say mê ca nhạc, tửu sắc. Ngài thường cùng các quan viên trong phủ, huyện lân cận nghe hát ả đào. Nhà hát mà ông hay lui tới do một ả đào già cai quản, tên là Mai bà. Không ai biết bà quê quán ở đâu, nghe giọng nói của bà, người ta đoán là người Bắc. Dưới tay bà có năm cô đào thanh sắc tuyệt vời. Ông tú mê nhất là cô đào Mai Hoa. Ông đã đưa nhiều bài thơ cho nàng ca, lời lẽ tha thiết, như bài sau:


Nhớ Người

Giai nhân nan tái đắc
Trót yêu hoa nên dan díu với tình
Mái Tây hiên nguyệt gác chênh chênh
Rầu rĩ bấy xuân về, oanh nhớ

Phong lưu tài tử đa xuân tứ
Trường đoạn tiêu tương nhất chỉ thư

Nước sông Tương một dải nông sờ
Cho kẻ đấy, người đây mong mỏi !
Bứt rứt nhẽ trăm đường nghìn nỗi !
Chữ chung tình biết nói cùng ai ?
Trót vì gắn bó một hai ....!

Hai bên gắn bó với nhau. Bỗng một hôm Mai Hoa buồn bã. Nàng khóc mà nói:
-Tình duyên giữa chàng và thiếp đến nay phải đứt đoạn , thiếp xin bái biệt.
Ông tú ngạc nhiên hỏi tại sao. Nàng thưa rằng mẹ già ở quê bệnh nặng, gửi thư gọi nàng về. Ông tú hỏi nàng bao giờ trở lại. Nàng nói thân gái tuỳ lệnh mẹ cha, nàng không quyết định được. Ông tú lúc đó mới thấy ông rất cần nàng, ông van xin nàng ở lại. Nàng thưa rằng vì chữ hiếu phải về, không thể trái lệnh mẹ cha. Ông tú bèn nói:
-Ta rất yêu nàng. Nếu nàng trở lại thì ta sẽ cưới nàng làm hầu thiếp.
Mai Hoa bằng lòng, nàng hứa hẹn ba tháng hay nửa năm sau sẽ trở lại.

Quả nhiên, ba tháng sau nàng trở lại. Ông tú giữ lời hứa thu nạp làm thiếp. Gia đình của ông tú vui vẻ thuận hòa. Nhưng ba năm sau, vợ cả của ông và con trai đầu của ông lăn ra chết đột ngột. Ông đau khổ vô cùng.

Một hôm, ông tú nghe trẻ vào báo tin có Trương tiên sinh đến. Hai bạn cũ gặp nhau vui vẻ. Ông tú sai trẻ mang trà rượu ra mời bạn. Ngồi một hồi, Trương nói:
-Nhà của bạn có yêu khí mà hoạ diệt gia sẽ xảy ra không lâu.

Ông tú không tin lời bạn vì xưa nay ông vẫn không thích chuyện bói toán, ma quỷ. Nể bạn, ông hỏi:-Tại sao anh biết được?
Trương đáp:-Tôi có học qua thuật phong thủy, thấy nhà bạn đầy sát khí, nếu không lo cho mau thì vài tháng, hoặc một năm sẽ liên tiếp có người bệnh hay chết.
Ông tú hỏi:-Theo ý bạn thì phải làm sao? Bạn có thể ra tay trừ yêu quái không?
Trương đáp:-Tôi chỉ biết thuật phong thủy. Còn việc trừ tà phải nhờ đến Lục chân nhân, thầy tôi thì mới được.
Ông tú hỏi:-Lục đạo nhân ở đâu?
Trương đáp:-Thầy tôi ở đền Bát Quái trên Ngũ Hành Sơn.

Nghe theo lời Trương, hôm sau ông tú cùng Trương âm thầm đi Quảng Nam. It hôm sau, hai người rước Lục chân nhân về. Lục chân nhân bước vào cửa đã lắc đầu mà nói:
-Ở đây yêu khí nặng nề. Trong nhà này chắc chắn có yêu tinh hay hồ ly ẩn náu. Và trong nhà, nhiều người đã trúng tà.

Lục đạo nhân đi khắp nhà xem xét. Đoạn ông yêu cầu được gặp mặt hết mọi người trong nhà. Ông tú theo lời, gọi tất cả con trai con dâu, thiếp, gia nhân tới sảnh đường. Lục đạo nhân nhìn kỹ từng người, tới Mai Hoa thì đạo nhân ngửa mặt cười lớn không thôi. Mọi người đang kinh hãi thì thấy Mai Hoa nhảy tới cào vào mặt đạo trưởng, và phun khí đen vào mặt đạo trưởng. Đạo trưởng cầm phất trần đánh tới, trúng đầu, Mai Hoa ôm đầu, run rẩy tái mặt, thân hình chợt co rúm lại chỉ còn bằng con chó con. Lăn lộn một lát, nàng hiện hình thành con cáo lông đỏ, mặt trắng, đuôi vàng. Đạo trưởng nắm đầu cô ta xem sau gáy, thấy có một dãy kim nhọn như là lông nhím. Đạo trưởng bèn nhổ hết. Con Cáo run rẩy, khóc lóc. Đạo trưởng bèn bỏ nó vào hồ lô.

Tiếp theo đó, đạo trưởng cùng tú tài vào phòng riêng. Đạo trưởng lần lượt khám từng người. Lúc này, trong nhà còn hai người con trai, một cô dâu, còn hai con gái đã xuất giá. Người đầu tiên được khám là con thứ của tú tài. Nhìn sắc diện, đạo sĩ nói:
-Cháu bị trúng độc nặng. Hãy cởi áo ra. Người con thứ vâng lời cởi áo thì mọi người thấy trên lưng hiên hai ngôi sao đỏ to bằng hạt đậu xanh.
Đạo trưởng bảo:- Cháu trúng độc nặng, ba tháng nữa thì chết.
Đến người con trai thứ ba thì đạo trưởng xem mạch, rồi bảo:
-“Cháu nhẹ hơn anh cháu. Hãy cởi áo ra. Người con trai thứ ba bèn cởi áo , thì thấy có một ngôi sao đỏ màu nhạt.
Đến lượt người con dâu, đạo trường bảo:
-Cháu bị tà khí nặng lắm, hãy cởi áo cho ta xem. Người con dâu xấu hổ không chịu vén áo lên, con trai của tú tài phải ép vén lên, thấy trên lưng có ba ngôi sao đỏ đậm.
Đạo trưởng bảo:- Trong một tuần nữa thì không thoát tai nạn.
Xem đến con dâu thứ hai, đạo trưởng nhìn mặt và xem mạch thì cười bảo:
-Cháu không trúng độc.
Đạo trưởng bảo nàng cởi áo ra thì không thấy dấu vết gì đặc biệt.
Đạo sĩ bèn làm phép trừ tà, và cho mọi người uống thánh dược. Đạo sĩ bảo từ nay không còn lo hoạn nạn nữa.

Đạo sĩ quay lại tìm hồ lô thì thấy hồ lô nhẹ tênh. Đạo sĩ bảo con này pháp thuật cao cường đã bỏ trốn rồi nhưng đã bị nhổ độc châm nên không thể làm hại ai và cũng không còn pháp thuật. Nó chỉ loanh quanh đây thôi. Đạo sĩ bèn cùng gia nhân đi tìm kiếm khắp nơi. Khi đến chuồng gà thì thấy có một con gà lông đỏ, đuôi trắng mà lại chân cáo. Đạo sĩ bèn hô to:
-Nó đây rồi.
Đạo trưởng bèn bắt ấn trói chồn tinh, dùng lửa tam muội đốt chết nó.

Công việc trấn trừ và trị tà xong xuôi, chủ nhân mời đạo sĩ dùng cơm chay. Trong khi ăn, tú tài hỏi đạo trưởng:-Thưa đạo trưởng giống hồ này sao lại muốn giết người như vậy?
Đạo trưởng đáp:
-Loài yêu này không phải tầm thường. Đây là loại mới từ địa ngục lên. Chúng nó sinh ra từ các xứ phía bắc Trung Quốc, sau tràn vào Trung Quốc mà qua Việt Nam. Các thứ ma quỷ chuyên hút tinh khí người để bồi dưỡng nguyên thần và nâng cao công lực. Còn thứ này khác hơn, cao hơn, ác hơn. Chúng giết hàng triệu người để trừ những thế lực chống đối và những ai bất tuân. Chúng giết người không cần có tội hay không có tội mục đích là khủng bố. Còn lại thì chúng dùng mê dược làm cho điên đảo tâm thần, mất lương tri, tin vào bọn Cáo và coi Cáo như là thần thánh, cam tâm làm nô lệ cho chúng.
May phước nhà ông mới chết hai người, nếu để lâu thì nhà ông bị bọn Hồ ly chiếm, bản thân ông, dâu con ông bị giết, bị làm nô lệ cho yêu hồ!

xin đọc

No comments:

Post a Comment