Pages

Friday, March 4, 2011

TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN * KINH TẾ CHÍNH TRỊ


MỨC ĐỘ ÁP DỤNG

CÁCH MẠNG BẮC PHI CHO VIỆT NAM

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tê

Geneva, 24.02.2011

Web : http://VietTUDAN.net

Tuần trước, chúng tôi viết bài Quan Điểm thứ 6 với đầu đề AI CẬP: ĐƯỜNG ĐI ĐẾN TỰ DO DÂN CHỦ NHIỀU CHƯỚNG NGẠI VÀ DỄ “CHỆCH HƯỚNG “. Việc chệch hướng này có thể do chính giới trẻ mang những ý niệm quá lý tưởng về những chữ Tự do, Dân chủ, Nhân quyền. Cũng có thể chính giới trí thức làm Chính trị trong nước muốn tiến nhanh đến vị trí nắm quyền hành mà đẩy đường đi theo hướng tắt bấp bênh hời hợt. Giới tính toán Chính trị quốc tế vì muốn một sự chuyển tiếp trong trật tự theo quyền lợi của mình mà chỉ trùm lên nguyện vọng của Cách Mạng quần chúng bằng giải quyết Chính trị mau chóng cho yên chuyện.

Trên các Diễn Đàn, trước cao trào Cách Mạng sôi động ở Bắc Phi và Trung Đông, chúng tôi đọc được những bài viết thôi thúc việc đứng lên của Việt Nam. Những bài viết ấy thường nhấn mạnh: BAO GIỜ ĐẾN VIỆT NAM ?

Với bài Quan Điểm thứ 7 tuần này, chúng tôi muốn phần tích những kinh nghiệm từ Bắc Phi và Trung Đông để có thể áp dụng cho Việt Nam, dưới những khía cạnh sau đây:

=> Động lực chính và nguyện vọng căn bản của Cách Mạng Bắc Phi và Trung Đông.

=> Những bài học nào mà Cách Mạng Bắc Phi và Trung Đông cho chúng ta thấy ?

=> Áp dụng mức độ nào những bài học từ Bắc Phi và Trung Đông cho Việt Nam ?

Động lực chính và nguyện vọng căn bản

của Cách Mạng Bắc Phi và Trung Đông.

Chúng tôi đã nhiều lần phân tích về cái động lực cụ thể và chính yếu làm cho một cá nhân có đủ can đảm – hay đúng hơn liều chết – nổi dậy là cái DẠ DẦY cá nhân đó đói. Khi mà trên 40% dân chúng sống dưới mức nghèo khó với chưa đầy 2 đo-la mỗi ngày, thì khối quần chúng ấy đứng lên đòi quyền sống cho thân xác mình. Trong lúc sờ bụng thấy đói như vậy, họ lại nhìn thấy một thiểu số người cầm quyền giầu nứt khố. Đồng thời họ cũng hiểu rằng đám thiểu số cầm quyền giầu nứt khố này đã cướp bóc sức lực của họ và khai thác tài nguyên quốc gia để làm giầu riêng cho mình. Lòng GHEN TỨC và HẬN THÙ dần dần lớn lên trong người họ đối với đám thiểu số bóc lột kia. Đến một ngày nào đó tâm lý xã hội HẬN THÙ đến tột độ, cộng với DẠ DẦY đói cá nhân đến ngắc ngoải chết, thì khối quần chúng nghèo buộc phải đứng lên đứt khoát chấm dứt thiểu số giầu nứt khố bóc lột kia.

Đó là động lực chính yếu và cụ thể của Cách Mạng đứng lên đạp đổ kẻ đè đầu bóp cổ cướp bóc mình.

Đạp đổ rồi, họ phải xây dựng con đường Cách Mạng đã bắt đầu. Con đường xây dựng Cách Mạng, nếu cho đúng hướng, nghĩa là không “chệch hướng “, thì phải tôn trọng cái nguyện vọng căn bản của quần chúng. Không khó gì để thấy cái nguyện vọng căn bản của quần chúng. Thực vậy, khi DẠ DẦY họ đói mà phải liều chết đứng lên làm Cách Mạng, thì nguyện vọng gần nhất và cấp thiết nhất là phải có cái DẠ DẦY no.

Nếu giới trí thức chính trị quá xa vời với những phạm trù trừu tượng như Tự do, Dân chủ, Nhân quyền để nói rằng đó là nguyện vọng của quần chúng đói, thì quần chúng dễ thất vọng và có thể nổi xùng nói rằng: “Hỗi các ông làm Chính trị ! Các ông nhát như cáy không dám liều chết xuống đường. Bây giờ chúng tôi liều chết đuổi được đám cầm quyền cướp bóc rồi. Các ông nhẩy vào mượn DẠ DẦY đói của chúng tôi để nấu cháo Tự do, Dân chủ, Nhân quyền trừu tượng để các ông xúm lại với nhau húp mà quên cái DẠ DẦY đói của chúng tôi !”

Cuộc Cách Mạng Bắc Phi và Trung Đông là cuộc Cách Mạng DẠ DẦY. Chính yếu là như vậy, còn gọi là Hoa Lài, Hoa Bản Hạ hay Hoa Thối Địt, thì đó là tiếng gọi cho vui nhưng đừng quên cái DẠ DẠ đang đói mà quần chúng cần được thỏa mãn.

Tại sao Tunisie, Ai Cập rồi Libye đuởi được Độc tài rồi, nghĩa là có Tự do, Dân chủ, Nhân quyền, mà dân chúng lại bỏ Tự do, Dân chủ, Nhân quyền để nhào ra biển sang Liên Âu. Họ ra đi vì lo sợ rằng người ta chỉ nhét vào DẠ DẦY họ mấy chữ trừu tượng Tự do, Dân chủ, Nhân quyền thì không làm cho họ no được.

Phái đoàn Ngoại giao Liên Âu sang thăm Ai Cập mới đây và hứa gbíup USD.1 tỉ cho Ai Cập, đó là hiểu đúng nguyện vọng căn bản của Cách Mạng. Vua của Saudi Arabia trở về nước và hứa bỏ ra USD.35 tỉ để tăng lương cho công chức và nâng cấp sống cho tuổi trẻ, đó là Vua đã hiểu cái nguyện vọng căn bản của Cách Mạng vậy.

Những bài học nào mà Cách Mạng Bắc Phi

và Trung Đông cho chúng ta thấy ?

Nhìn cụ thể cái động lực chính và nguyện vọng căn bản của Cách Mạng tại Bắc Phi và Trung Đông như trên, chúng ta mới thấy những bài học để áp dụng cho cuộc nổi dậy và lập trường xây dựng Cách Mạng ở Việt Nam. Nhưng bài học ấy gồm những điểm sau đây:

1) Đây là cuộc Cách Mạng chính yếu của dân thành thị thất nghiệp và bụng đói. Đa số ở vào lớp tuổi trẻ và trung niên. Với 2 đo-la mỗi ngày mà phải sống ở thành thị, thì cái bụng đói càng ray rứt. Thực vậy, đất đai phần lớn là cát sa mạc, nên họ không thể sống với nông nghiệp. Nếu ở vùng quê nông nghiệp, thì với 2 đo-la mỗi ngày, họ có thể giải quyết bụng đói như Cụ NGUYỄN KHUYẾN vỗ bụng rau bình bịch. Nhưng ở thành thị, thì không có rau mà vỗ. Đó là tình trạng bụng đói của dân Bắc Phi và Trung đông.

2) Thất nghiệp, lớp tuổi trẻ và trung lưu có nhiều thời giờ dành cho máy Điện tử và Internet. Những nhà độc tài cấm tự do truyền thông báo chí, thì lớp người thất nghiệp này sử dụng Internet mà Nhà nuớc độc tài khó kiểm soát hết được. Cách Mạng Điện thoại Di động đóng phần không nhỏ cho cuộc hẹn hò nổi dậy, nhất nữa họ đã có sự quy tụ thường xuyên tại thành thị gần kề nhau để tụ họp lại. Không cần phải xa xôi như Bác Tám từ đồng nội lên Sài gòn.

3) Lòng HẬN THÙ của tâm lý xã hội đã lên đến cực độ đối với những nhà độc tài và gia đình. Việc khai thác nguồn dầu lửa cho túi riêng nằm sờ sờ ở sa mạc mà ai cũng nhìn thấy mỗi ngày. Nó khác với việc khai thác hầm mỏ ở rừng núi kín đáo như trường hợp ở Việt Nam. Những nhà độc tài tích luỹ tài sản kếch xù tại Bắc Phi và Trung Đông lại sống lâu năm, kéo dài tối thiểu từ 20 năm. Trong khi ấy, tại Việt Nam, đảng Cộng sản kéo dài, nhưng những Lãnh tụ thay đổi nhau mà tham nhũng vì vậy khó nhìn thấy sự tích lũy tài sản kếch xù đập vào mắt quần chúng. Thời gian lâu năm của một nhà độc tài tích lũy tài sản cho riêng mình và gia đình làm hội tụ mạnh lòng HẬN THÙ vào một người và một gia đình. Đó là điểm cắt nghĩa lòng HẬN THÙ của quần chúng Bắc Phi và Trung Đông thành cao độ tột bực.

4) Cái lòng HẬN THÙ xã hội tột bực này khiến Lập trường của Cách Mạng Bắc Phi và Trung Đông dứt khoát:

* Họ phải đạp đổ hẳn kẻ độc tài, ngay cả không chấp nhận bè đảng của nhà độc tài liên hệ đến việc đứng chung với họ để cùng làm cuộc chuyển tiếp.

* Tất nhiên không chấp nhận chiêu bài “đối thoại “ hay “hòa hợp hòa giải “ để chi đi đến thêm bớt vào chế độ cũ một ít thay đổi gọi là CẢI CÁCH.

* Quần chúng đói khổ làm Cách Mạng nhất thiết phải đưa ra xét xử những nhà độc tài và đòi lại những tài sản mà những nhà độc tài này đã bóc lột dân chúng và khai thác tài nguyên quốc gia (dầu lửa và du lịch)

Áp dụng mức độ nào những bài học

từ Bắc Phi và Trung Đông cho Việt Nam ?

Sau những chục năm trường, đảng CSVN độc tài và độc quyền bóc lột nhân lực, khai thác tài nguyên quốc gia để làm của riêng giầu nứt khố. Hố sâu giầu nghèo mỗi ngày mỗi khơi rộng. Quần chúng nghèo khó, thêm khổ cực hơn nữa vì lạm phát, vật gia tăng vọt, đồng tiền phá giá. Quần chúng mang DẠ DẦY đói, động lực chính yếu cho nổi dậy. Đồng thời quần chúng Việt Nam chứng kiến nhóm đảng Fafia CSVN giầu lên vì tham nhũng. Những chứng kiến này đã tạo được lòng HẬN THÙ của quần chúng đối với nhóm đảng Mafia CSVN. Việt Nam đã có động lực chính yếu DẠ DÀY đói và tâm lý xã hội HẬN THÙ để nổi dậy dứt bỏ Cơ chế CSVN hiện hành-

Cũng như những bài viết trong thời gian này trên các Diễn Đàn, những câu câu hỏi mà chúng tôi đặt ra : (i) Lớp người nào khởi đầu ? (ii) Khả năng sử dụng truyền thông Internet ra sao ? (iii) Vai trò Hải ngoại đóng góp gì ? (iv) Lập trường xây dựng Cách mạng dứt khoát ra sao ?

(i) Lớp người nào khởi đầu ?

Đả từ nhiều năm nay, khi Phong trào Dân Oan nổi dậy, chúng tôi đã luôn luôn nghĩ rằng chỉ có những người Dân Oan này mới đủ can đảm không sợ chết đứng lên đòi quyền sống. Nhưng trong thời Phong trào Dân Oan nổi dậy, thì cũng có Phong trào Dân chủ. Chúng tôi đã kêu gọi Phong trào trí thức Dân chủ hãy đứng chung với Phong trào Dân Oan để tổ chức nổi dậy. Nhưng Phong trào Dân chủ, có lẽ quá ngưỡng vọng vào thế “khuyến khích “ của Hoa kỳ, mà cứ ngày đêm rêu rao những từ ngữ trừu tượng Tự do, Dân chủ, Nhân quyền xa rời với cuộc đấu tranh cụ thể của Dân Oan cho quyền DẠ DẦY (Stomach Right). Những phạm trù trí thức trừu tượng này của Phong trào Dân chủ không đủ sức kéo được quần chúng xuống đường. Quần chúng nghèo phải có cái gì cụ thể, gần kề họ, thì họ mới tin tưởng.

Tiếp theo Phong trào Dân Oan này, Phong trào Giáo Oan Tòa Khâm sứ Hà Nội, Giáo xứ Thái Hà, Tam Tòa, Đồng Chiêm… nổi dậy đòi CÔNG LÝ. Họ đứng lên vì những miếng đất cụ thể và thấy những tham nhũng bất công của CSVN đối với những miếng đất ấy. Thêm vào đó, đây là việc đứng lên của những Giáo dân mang Đức Tin và và không ngại sợ bạo lực đàn áp, chống lại Đức Tin của họ. Chính lẽ cuộc Cách Mạng cứu nguy Dân Tộc phải lớn lên từ những Giáo dân này. Nhưng rất tiếc, một số Lãnh đạo Giáo gian quốc doanh đã tung ra chiêu bài “đối thoại “ làm tay sai cho CSVN, nhất là tâu trình thất lợi với Vatican để Vatican can thiệp vào loại trừ TGM NGÔ QUANG KIỆT để đặt tại Hà Nội một TGM quốc doanh NGUYỄN VĂN NHƠN. Đây là việc làm tòng phạm với tội ác của CSVN để dìm xuống một ngòi Cách Mạng cứu nguy Dân Tộc.

Việc làm phục vụ CSVN của cánh Lãnh đạo Tôn giáo như trên không những làm hại cho Đức Tin Giáo dân, mà còn là việc phá hoại sự đứng dậy để cứu nguy Dân Tộc khỏi ách độc tài CSVN.

Những cuộc Cách Mạng Bắc Phi và Trung Đông ngày này chứng minh cho đám ngợm giáo gian biết rằng lời kêu gọi đối thoại của họ chỉ làm lợi khí để độc tài tiếp tục cướp bóc bất công đối với Dân chúng.

Dầu sao Tinh Thần ĐỒNG CHIÊM đòi CÔNG LÝ của khối Công giáo vẫn còn đó và khối Dân Oan mất nhà đất vẫn mang trong lòng HẬN THÙ.

Lực lượng nổi dậy tại Việt Nam phải dựa vào Tinh thần ĐỒNG CHIÊM của khối Giáo dân Công giáo và vào Khối Dân Oan vẫn mang HẬN THÙ.

Chúng tôi ước ao rằng nhóm trí thức Chính trị đừng nổi dậy bằng miệng với những ý niệm trừu tượng Tự do, Dân chủ, Nhân quyền xa vời với động lực nổi dậy chính yếu là DẠ DẦY và tinh thần chống BẤT CÔNG mà quần chúng thấy cụ thể trước mắt.

(ii) Khả năng xử dụng truyền thông Internet ra sao ?

Chúng tôi thấy rằng cái khả năng này, giới trẻ Việt Nam có thừa để tổ chức một hệ thống truyền thông mà chính CSVN khó lòng ngăn cản được. Làm thế nào mà hệ thống truyền thông của giới trẻ không phải chỉ với nhau mà còn hội nhập vào Lực lượng Dân Oan và khối Giáo dân Công giáo để điều hợp cho có Phong trào liên kết. Giới trẻ giữ phần truyền thông điều hợp, nhưng Lực lượng Dân Oan và Giáo dân Công giáo mang sức mạnh đứng lên. Khối Giáo dân Công giáo cũng là những công dân và có nhiệm vụ cứu nước.

(iii) Vai trò Hải ngoại đóng góp gì ?

Trước đây, người Việt Hải ngoại dường như chú trọng vào việc vận động dư luận và sự yểm trợ của một số Chính quyền nước ngoài. Nhưng thực tế cho thấy rằng nước ngoài dễ cho chúng ta những hy vọng thoa dịu suông, mà họ nghĩ về quyền lợi của nước họ trước hết. Chúng tôi thường viết rằng Dân tộc mình đau khổ thì hãy tin tưởng trước vào chính mình để tự cứu. Không ai thương mình bằng chính mình thương mình. Nhiều khi nước ngoài một đàng nói Nhân quyền để an ủi chúng ta, nhưng một đàng thì bắt tay với độc tài vì quyền lợi của nước họ.

Chúng tôi thấy rằng có hai việc cụ thể mà Hải ngoại có thể hỗ trợ cho Quốc nội:

=> Các Diễn Đàn hay cá nhân Việt kiều tìm mọi cách để phổ biến Thông tin Cách Mạng Bắc Phi và Trung Đông về cho những người thân thuộc hay các Tổ chức tại Việt Nam. Việt kiều tập trung mọi nỗ lực tấn công thông tin truyền thông về Việt Nam.

=> Việc hỗ trợ thứ hai cụ thể là Truy tìm Tài sản mà những Lãnh đạo CSVN biển thủ chuyển ra cất giấu tại nước ngoài. Phải phục hồi những tài sản bất chính này về cho Quốc gia.

(iv) Lập trường xây dựng Cách mạng dứt khoát ra sao ?

Kinh nghiệm những chục năm trường phản bội của CSVN không cho phép chúng ta tin tưởng vào sự đứng chung với đảng Cộng sản VN nữa. Vì vậy, khi cuộc Cách Mạng nổi dậy, chúng ta dứt khoát:

=> Lật đổ hẳn Chế độ CSVN hiện hành

=> Không thể nói đến “đối thoại “ vì CSVN chỉ tìm mưu “đối thọi “ chúng ta mà thôi

=> Không có chiêu bài Hòa Giải Hòa Hợp mà những người làm Chính trị thời cơ đưa ra để nhằm nhẩy bàn độc.

=> Xây dựng DÂN CHỦ HÓA KINH TẾ để có những điều kiện đi đến DÂN CHỦ HÓA CHÍNH TRỊ thực sự lâu dài và bền vững.

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 24.02.2011

Web: http://VietTUDAN.net

BÀI MỞ ĐẦU CHO CHỦ ĐỀ:

TRÁCH NHIỆM QUỐC NỘI

DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN HIỆN HÀNH

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 01.01.2011

Web : http://VietTUDAN.net

Những ngày cuối năm 2010, chúng tôi đã viết hai bài: (i) NHỮNG LỰC LƯỢNG QUỐC NỘI ĐỨNG LÊN DẸP KINH TẾ MAFIA QUỐC DOANH CSVN; (ii) TRÁCH NHIỆM ĐẤU TRANH TỪ QUỐC NỘI. Hai bài này là định hướng cho Chủ đề: TRÁCH NHIỆM QUỐC NỘI DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN HIỆN HÀNH mà chúng tôi bắt đầu khai triển từ năm nay 2011.

Chúng tôi không viết và đăng bài nói về Đại Hội đảng kỳ XI diễn ra trong tháng này vì hai lý do: thứ nhất, Hội Nghị Trung Ương 12 CSVN sửa sọan cho Đại Hội đảng năm 2011 đã quyết định duy trì Kinh tế quốc doanh làm chũ đạo, nghĩa là họ vẫn duy trì Cơ chế Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế để vơ vét tài sản Quốc gia và bóc lột Nhân lực Việt Nam; thứ hai, Đại Hội đảng chỉ là việc xào nấu lại những Lãnh đạo mà những Lãnh đạo này cũng chỉ là những con giòi tham nhũng lãng phí như nhau trong Cơ chế.

Điều quan trọng là phải DỨT BỎ chính cái Cơ chế CSVN hiện hành, chứ không phải là việc xào nấu những lãnh đạo trong Cơ chế vốn là môi trường phát sinh THAM NHŨNG LÃNG PHÍ làm vỡ nợ Kinh tế Quốc gia.

Việc vỡ nợ Kinh tế Quốc gia do hệ thống Tập đoàn Kinh tế nhà nước đã hiện ra thực sự trong những tháng gần đây mà điển hình là Tập đoàn Vinashin. Cái hậu quả của vỡ nợ và tụt hậu Kinh tế này làm toàn Dân quốc nội phải chịu. Chính vì vậy mà Quốc nội buộc lòng phải đứng lên hành động để chấm dứt cái Cơ chế CSVN hiện hành. Chấm dứt Cơ chế này để toàn dân đoàn kết bảo vệ vẹn toàn Lãnh thổ trước đe dọa xâm lăng Trung quốc, để mọi người chung lưng phát triển Đất Nước trong bền vững lâu dài.

Tình trạng phá sản

của Kinh tế quốc doanh

Tình trạng phá sản quy tụ về 3 điểm chính:

(i) Tụt dốc Kinh tế vĩ mô

(ii) Vật giá nhẩy vọt;

(iii) Phá giá Tiền tệ. Cả 3 điểm có những liên hệ hỗ tương với nhau.

(i) Tụt dốc Kinh tế vĩ mô

Vinashin chỉ là cái mụn đã âm ỉ từ lâu, nay phát ra như một tỉ dụ của sự phá sản của những Tập đoàn Kinh tế nhà nước. Đây không phải chỉ nguyên một Tập đoàn riêng lẻ phá sản, mà là một tỉ dụ cho một tình trạng phá sản của một chủ trương Kinh tế gọi là vĩ mô. Chính Nguyễn Tấn Dũng đã nhờ cậy Giáo sư Michael PORTER, Đại học Havard, thẩm định về chủ trương Kinh tế vĩ mô nhà nước. Giáo sư đã viết Tập Phúc trình và kết luận như sau:

“Khi xem xét kỹ mô hình phát triển được áp dụng từ trước tới nay để xem có tiếp tục phù hợp với Việt Nam nữa không, câu trả lời của tôi là không”.

“Mô hình tăng trưởng của Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa vào việc khai thác các lợi thế có sẵn như tài nguyên và nhân công giá rẻ. “

“Các mất cân đối vĩ mô lớn như cán cân thương mại và tài khoản vãng lai, tỷ lệ tiết kiệm – đầu tư, lạm phát và tỷ giá hối đoái có thể gây ra những hậu quả “không thể xem thường. Ít nhất, chúng tạo ra tâm lý với các nhà đầu tư rằng, rủi ro khi đầu tư vào Việt Nam là rất cao. Các mất cân đối vĩ mô này có thể làm phát sinh khủng hoảng, khi niềm tin bị xói mòn và các dòng vốn nước ngoài chảy khỏi Việt Nam”.

“Việt Nam là quốc gia sẽ bị tắc ở mức thu nhập trung bình thấp và phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các nước có thu nhập thấp hơn đang trỗi dậy”.

Không phải chỉ mình Giáo sư Michael PORTER thấy sự tụt dốc của nền kinh tế gọi là vĩ mô này, mà cả World Bank, IMF/FMI, những Ngân Hàng quốc tế, những nhà Tư vấn cấp cao nước ngoài đều cảnh cáo Việt Nam là phải chữa trị chính những sai lầm Kinh tế vĩ mô, nếu không thì bị các nước láng giềng vượt qua.

Khi mà những Tập đoàn Thẩm định quốc tế như MOODY’S, STANDARD & POOR’S hạ điểm mức tin tưỡng các Công ty và Ngân Hàng VN, đó là họ thẩm định khả năng Kinh tế, Tín dụng trong tương lai dựa ttên những tụt dốc đang diễn ra.

(ii) Vật giá nhẩy vọt

Vật giá nhẫy vọt, Lạm phát tăng nhanh ở Việt Nam đến từ hai lý do chính:

* Giảm hiệu lực sản xuất của những Tập đoàn Kinh tế quốc doanh. Khi nhận một số vốn để sản xuất hàng hóa, nếu hiệu lực sản xuất kém để lượng hàng hóa xuống, thì tất nhiên giá thành sãn xuất tăng tương đối với số vốn nhận được.

* Nhà Nước muốn bảo vệ chủ trương Kinh tế quốc doanh, nên đổ thêm vốn vào mà không kiểm điểm sự tương xứng hiệu lực của sản xuất đối với số vốn cung cấp. Khối tiền càng phồng lên, mà lượng hàng hóa yếu kém, thì Vật giá tất nhiên tăng vọt sánh với đồng tiền được thổi phồng. Điều tệ hại hơn nữa là Ngân sách Nhà nước thiếu hụt, mà cứ phải đổ tiền vào cho những Tập đoàn quốc doanh, nên đành phải in tiền thêm làm Lạm phát Tiền tệ, phá giá đồng bạc Việt Nam. Người dân Việt Nam thừa hiểu cái trò này, nên không còn tin tưởng vào đồng bạc VN nữa.

Báo chí quốc nội đang la hoảng về tình trạng Vật giá nhãy vọt đến chóng mặt:

“SÀI GÒN (TH) - Lạm phát gia tăng nhanh chóng trong mấy tháng qua, vượt qua mặt những chỉ tiêu mà Quốc Hội đề ra cũng như các biện pháp “bình ổn giá” mà nhà cầm quyền quảng cáo. Hậu quả, những người có đồng lương cố định và đại đa số quần chúng đều nghèo khó lại thêm phần khốn đốn.

Tờ Thời Báo Kinh Tế Việt Nam trong một bản tin ngày 29 tháng 11, 2010 về “lo âu đường đi của giá” nói rằng, ‘luôn có trên 50% bạn đọc cho biết họ đang thực sự gặp khó khăn.’

Theo các con số do Tổng Cục Thống Kê ở Hà Nội đưa ra, lạm phát tăng nhanh nhất ba tháng trở lại đây của năm nay và là mức gia tăng tệ hại nhất trong suốt 20 tháng qua. Ðây là hệ quả của chính sách đánh sụt giá đồng nội tệ nhằm cứu ngành sản xuất xuất cảng gây ảnh hưởng dây chuyền lên cả nền kinh tế.

Theo Tổng Cục Thống Kê Việt Nam, giá cả gia tăng 11.09% trong tháng 11, 2010 so với một năm trước. Ðây là tỉ lệ lạm phát gia tăng nhiều nhất từ tháng 3, 2009 mà vào thời điểm đó lạm phát nằm ở 11.25%. Tháng 10, 2010, lạm phát là 9.66%. Nếu chỉ tính từng tháng một thì lạm phát của tháng 11 đã tăng hơn tháng mười 1.86%.

Cuối năm 2009, Quốc Hội của chế độ Hà Nội biểu quyết “chỉ tiêu lạm phát trong năm 2010 phải dưới 7%”. Nhưng đến tháng 5, 2010, thấy không kềm nổi, nhà cầm quyền trung ương “xin điều chỉnh chỉ tiêu lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI)” lên “không quá 8%”.

“Giá của tất cả mọi loại thực phẩm mà chúng tôi mua ở các chợ địa phương đều gia tăng đáng kể so với tháng trước”. Craig Jackson, quản lý nhà hàng Al Fresco (cũng có chi nhánh ở Hà Nội) nói như vậy và phải trình bày với thức khách lý do “những bất ổn trong tỉ giá” đã làm giá thực phẩm tăng vọt.

Theo báo Người Lao Động hôm 20 tháng 11, 2010 vừa qua, các siêu thị ở Sài Gòn đã tăng giá ít nhất 10%. Gạo, một thứ căn bản của bữa ăn người Việt Nam, lên giá ít nhất cũng 4%, trong khi nhà cầm quyền khoe năm nay sẽ xuất cảng 6.5 triệu tấn gạo.

Nói chung, giá thực phẩm đã gia tăng 14.78% so với một năm trước trong đó một số thứ còn tăng đến 20.45%, theo Tổng Cục Thống Kê nói trên.

Theo tờ Người Lao Động, một số mặt hàng khác gắn liền với đời sống hàng ngày là đường và gas cũng tăng đáng kể.

Báo Người Lao Động dẫn nguồn tin từ Cục Quản Lý Giá (Bộ Tài Chính Việt Nam), nói giá bán lẻ đường trắng trong nước 15 ngày đầu tháng 11 khoảng 19,000-21,000 đồng/kg, tăng 1,000 đồng/kg so với tháng 10.”

(iii) Phá giá Tiền tệ.

Bản Tin của BBC ngày 10.12.2010 như sau:

“Tiền đồng 'đang có vấn đề rất nghiêm trọng'

Ngân hàng đầu tư Mỹ Morgan Stanley nói đồng tiền Việt Nam ‘có vấn đề rất nghiêm trọng’ trong bối cảnh kinh tế yếu và mậu dịch bị thâm hụt, báo tài chính Mỹ Bloomberg đưa tin ngày 9/12.

Thực trạng cán cân thanh toán xấu đi, nền kinh tế yếu và thâm hụt mậu dịch đang tạo "sức ép lớn đáng kể " đối với tiền đồng, Stewart Newnham, chuyên viên nghiên cứu chiến lược tiền tệ tại Morgan Stanley nói tại một hội nghị ở Tp HCM.

Kể từ hồi tháng Năm 2008, thời điểm ông Newnham nói đồng tiền Việt Nam theo gót chân “khủng hoảng tiền tệ” như Thái Lan (1997), tiền đồng đã mất giá 17% so với đôla Mỹ.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều chỉnh tỷ giá tiền đồng 2% (18.932 VND /USD) vào ngày 18 tháng Tám là lần phá giá thứ ba kể từ tháng 11 năm ngoái.

Trong tuần này Quỹ Tiền tệ Quốc tế cảnh báo nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia của Việt Nam ở mức "thấp".

IMF cho biết dự trữ ngoại hối của Việt Nam vào cuối tháng Chín ở mức chỉ đủ trang trải cho 1,8 tháng nhập khẩu.”

Các Tập đoàn Kinh tế quốc doanh thâm thụt công quỹ. Nhà nước phải bơm vào bằng đồng tiền phá giá. Tất nhiên dân chúng phải mua vàng và đo-la với giá chợ đen. Đồng Tiền VN sẽ phải phá giá nữa như các nước Á châu trong cuộc Khủng hoảng Tài chánh/ Tiền tệ năm 1997.

Ông Stewart Newnham của Morgan Stanley, khi nói về Lạm phát phá giá đồng bạc Việt Nam, đã nhắc tới cuộc Khủng hoảng Tài chánh/Tiền tệ Á châu năm 1997, khiến chúng tôi nhớ lại cách đây mấy năm, 2007, chúng tôi đã viết 5 bài liên tiếp về cuộc Khũng hoãng Tài chánh/Tiền tệ Á châu 1997, dựa trên những tài liệu của Bà Francoise NICOLAS. Chính năm 2007, chúng tôi đã sang Thái Lan quan sát tình trạng phá sản của một số Xí nghiệp chịu hậu quã của việc phá giá đồng tiền.

Về việc can thiệp Chính trị (Pouvoir politique) vào quyền lực Tiền tệ (Pouvoir monétaire), Kinh tế gia Florin AFTALION đã viết:

“L’inflation est un moyen de financement très commode. Elle est apprécíee par les hommes politiques, dans la mesure òu elle permet á court terme d’accorder des hausses de salaire et des subventions, de mettre de l’huile dans les rouages. «

(Lạm phát là một cách tài trợ rất thuận tiện. Nó được ưa chuộng bởi những người làm chính trị ở phương diện nó cho phép trong ngắn hạn chấp nhận cho tăng lương và trợ cấp các xí nghiệp, cho thêm dầu vào guồng máy.)

Kinh tế gia Florin AFTALION nói đến « trong ngắn hạn « và « bởi những người làm chính trị “. Tại Việt Nam, thì không phải là ngắn hạn, mà đã làm ba lần rồi và có còn làm tiếp trường kỳ nữa ; rồi không phải chỉ « bởi những người làm chính trị “ suông, mà bởi một chế độ Chính trị độc tài độc đảng.

Dân chúng bài trừ và quốc tế không còn tin vào đồng Tiền VN là phải.

Xin nhắc thêm rằng tại Nam Dương, cuộc Khủng hoảng 1997 phá giá đồng tiền đã đưa đến hậu quả Chính trị là sự sụp đổ nhà độc tài SUHARTO.

Tóm lại, trong những tháng chót của năm 2010, bức tranh Kinh tế nhà nước Việt Nam được phơi bầy cho cả Quốc tế và Quốc nội nhìn thấy: LẠM PHÁT, VẬT GIÁ TĂNG VỌT, NGÂN SÁCH THIẾU HỤT TRẦM TRỌNG, DỰ TRỮ NGOẠI HỐI CẠN KIỆT, ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM PHÁ GIÁ XUỐNG DỐC, MẤT TIN TƯỞNG CỦA GIỚI ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÌ THÁI ĐỘ HÈN HẠ MUỐN QUỴT NỢ, NHỮNG TẬP ĐOÀN QUỐC DOANH BỊ CÁC TỔ CHỨC THẨM ĐỊNH QUỐC TẾ HẠ ĐIỂM.

Cái hậu quả của tình trậng thê thảm Kinh tế này đổ lên đầu Dân.

Trách nhiệm đứng lên hành động để

Dứt bỏ Cơ chế CSVN hiện hành

Chính toàn dân phải chịu hậu quả của tụt dốc và vỡ nợ của nền Kinh tế quốc doanh do Cơ chế chủ trương Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế.

Chúng tôi muốn nói đến tính cách tất yếu của những Lực Lượng Quốc nội buộc lòng phải đứng lên nhận trách nhiệm hành động. Những Lực Lượng này không phải là do khuyên giải, cổ võ mà đứng lên. Việc đứng lên là tất yếu vì quyền DẠ DẦY của mình. Không đứng lên lật đổ Cơ Chế hiện hành, thì mình chết. Tính cách tất yếu là ở chỗ đó.

Những Lực Lượng nào ?

1) Lực Lượng đại đa số quần chúng nghèo

Khi Vật giá tăng vọt, thì khối đại đa số dân nghèo phải cùng cực, thiếu ăn. Nền Kinh tế quốc doanh Mafia CSVN thâm thụt công quỹ, bóc lột sức lao động, làm đại đa số dân chúng đã nghèo mà còn bị khổ cực vì thiếu ăn. Lạm phát, vật giá tăng vọt đẩy dân nghèo vào cùng cực và phải tự đứng lên lật đổ cơ chế.

2) Lực lượng Công chức, Công an và Quân đội

Đây là những thành phần lãnh lương cố định. Khi vật giá tăng vọt, đồng tiền mất giá, thì những thành phần lãnh lương cố định thấy mình nghèo đi. Càng phá giá đồng bạc VN, càng tăng vật giá, thì những thành phần này càng bị đẩy vào tình trạng nghèo cùng cực. Họ phải đứng lên.

3) Lực lượng Lãnh đạo đảng CSVN

Những Lãnh đạo đương quyền tham nhũng, vơ vét công quỹ. Nhưng những Lãnh đạo hồi hưu không thể ngồi yên. Trâu buộc ghét trâu ăn. Lực Lượng Lãnh đạo này không phải vì bất đồng Chính kiến mà đứng lên, nhưng chính là sự phân chia tham nhũng không đồng đều. Trước khi đánh cướp Ngân Hàng, thì mọi người cấu kết. Nhưng sau khi cướp được tiền rồi mà phân chia không đồng đều, thì lấy súng bắn giết nhau. Vì trâu buộc ghét trâu ăn, nên Lực Lượng Lãnh đạo này đứng lên mà bắn nhau. Số cán bộ Cộng sản hồi hưu, lãnh tiền cố định, nay thấy mình nghèo đi vì Lạm phát và vật giá tăng vọt, sẽ tăng cường tham gia Lực Lượng này.

4) Lực Lượng trẻ Thanh niên Sinh viên

Mỗi năm, số người trẻ Thanh niên Sinh viên tại Việt Nam tăng lên 1 triệu và phải kiếm công ăn việc làm. Việc tụt dốc Kinh tế làm cho họ thất nghiệp và phải chịu cảnh vật giá tăng vọt. Trong khi ấy, họ so sánh với một thiểu số con cháu đảng ăn chơi, tiêu xài hoang phí, còn xuất ngoại. Việc so sánh trong cãnh thất nghiệp của họ sẽ tạo sự ganh tị, ghen ghét. Lớp người trẻ Thanh niên Sinh viên sẽ nhập cuộc đấu tranh để chấm dứt những người giữ quyền lực chính trị để THAM NHŨNG LÃNG PHÍ gây tụt dốc Kinh tế.

5) Lực Lượng Tôn Giáo chống Bất Công, đòi Công Lý

Lực Lượng Giáo dân Công giáo đã đứng lên khởi đầu là Tòa Khâm sứ Hà Nội, rồi Xứ Thái Hà, lan vào Tam Tòa, Đồng Chiêm. Tất cả việc đứng lên này có nguyên do là chống BẤT CÔNG cũa Nhà Nước về đất đai. Mà việc bất công này lại cũng là do THAM NHŨNG của quyền lực Chính trị trưng dụng đất đai đẻ bán hoặc khai thác cho túi riêng của mình. Chống bất công như vậy cũng đồng nghĩa là chống THAM NHŨNG. CSVN đã sử dụng một số Lãnh đạo Tôn giáo quốc doanh để nhằm diệt Lực Lượng này. Nhưng TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM (=chống BẤT CÔNG, đòi CÔNG LÝ) vẫn luôn luôn tồn tại bởi lẽ nó phát xuất từ Đức Tin và Lương Tâm của chính Giáo dân. Việc đấu tranh theo TINH THẦN ĐỒNG CHIÊM này đang bùng dậy tại xứ Thái Nguyên hiện lúc này.

6) Lực Lượng Tư doanh

Các Tập đoàn Kinh tế quốc doanh thiếu hụt ngoại tệ để nhập siêu vì dự trữ ngoại hối của Nhà nước chỉ còn không tới hai tháng để nhập cảng. Theo Kinh tế gia Lê Đăng Doanh, thì "số ngoại tệ Việt Nam có trong dân thì không phải là ít”, nghĩa là giới Tư doanh còn có thể vận dụng ngoại tệ để nhập cảng. Chính vì điểm này mà Lực Lượng Tư doanh nắm ưu thế đứng lên đấu tranh dành lại quyền Kinh tế mà từ trước đến nay các Tập đoàn quốc doanh nắm chủ động. Giới Tư doanh có cơ hội thực hiện Dân chủ hóa Kinh tế để tiến dần đến Dân chủ hóa Chính trị như một hệ luận tất nhiên.

Chủ đề TRÁCH NHIỆM QUỐC NỘI DỨT BỎ CƠ CHẾ CSVN HIỆN HÀNH nhằm theo rõi sự lớn mạnh của những Lực Lượng Quốc nội và cổ võ những HÀNH ĐỘNG cụ thể trong việc DỨT BỎ Cơ chế. Những đối thoại nhằm vá víu Cơ chế đã trở thành những phương tiện tuyên truyền làm bình phong để đảng CSVN che dấu cái cốt lõi là duy trì Cơ chế ĐỘC TÀI CHÍNH TRỊ NẮM ĐỘC QUYỀN KINH TẾ để dễ bề khai thác Tài sản Quốc gia và bóc lột Nhân lực Việt Nam làm của riêng cho từng cá nhân của đảng. Đối thoại với CSVN cũng như đàn gẩy tai trâu. Đối với con trâu lỳ lợm, phải lấy roi mà quất thì nó mới đi. Theo hô hào của Lãnh đạo cao cấp CSVN, 22 Trí thức thuộc đảng lên tiếng đóng góp cho đảng nhân dịp Đại Hội đảng kỳ XI này, nhưng những góp ý của họ bị cấm không được đăng cho dân chúng biết. Toàn dân hãy đứng lên ĐỐI THỌI chứ đừng ĐÓI THOẠI vô ích nữa.

Chúng tôi đã viết hai cuốn sách nói về việc phải dứt bỏ Cơ chế CSVN hiện hành, nên không viết thêm về khía cạnh này trong Chủ đề. Việc tụt lùi Kinh tế và vỡ nợ Quốc gia trong những năm tháng gần đây là bằng chứng cụ thể để kết án Cơ chế CSVN và để toàn Dân quốc nội đứng lên HÀNH ĐỘNG chấm dứt Cơ chế, trước hết là cứu DẠ DẦY của chính mình, sau nữa là bảo toàn Lãnh thổ và phát triển Đất Nước cho kịp với đà tiến của những nước trong vùng và Thế giới.

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 01.01.2011

Web: http://VietTUDAN.net

No comments:

Post a Comment