Pages

Saturday, August 6, 2011

MÂY CAO NGUYÊN * CỘNG SẢN




Cộng Sản Và Phát-Xít


Mây-cao-Nguyên (Sưu tầm)

Tháng qua, tôi có đọc một bài tường trình kể lại buổi họp báo của hai tác giả Peter Navarro, Greg Autry và những diễn giả có thẩm quyền cũng như kiến thức về Trung Quốc thay phiên nhau vẻ nên một bức tranh, cận cảnh, rõ ràng, về hiểm họa mà chính sách của quốc gia này đang mang đến cho thế giới.
Trong phần trình bày linh động và cặn kẽ, kéo dài suốt gần một tiếng đồng hồ, tiến sĩ Peter Navarro khiến cử tọa lặng người đi, và bị thuyết phục, rằng nếu tình trạng hiện tại cứ tiếp diễn, thì nhân loại, hay trong một phạm vi hẹp hơn, người dân và đất nước Hoa Kỳ, sẽ “chết dưới tay Trung Quốc”.
Tại sao? Câu trả lời đầy đủ nhất dĩ nhiên nằm trong tác phẩm “Death by China” hơn 250 trang, kết quả của hơn hai năm nghiên cứu, phỏng vấn và những chuyến viếng thăm nhiều miền khác nhau trên đất nước Trung Quốc của cả hai tác giả, và phụ tá của họ.
Với 16 chương, tác phẩm “Chết Dưới Tay Trung Quốc” được chia làm hai phần chính, gồm lập luận cũng như dẫn chứng về hiểm họa Trung Quốc, và lời kêu gọi một số hành động mà cả chính quyền, giới đầu tư lẫn người tiêu thụ Hoa Kỳ cần phải làm, và cần làm ngay, để có thể tránh được hiểm họa này, nếu không nhân loại sẽ dần dà bị chết hết dưới tay Trung Quốc, vì:
*Thứ nhất, người tiêu thụ sẽ bị hàng hóa độc hại của Trung Quốc giết dần giết mòn.
*Thứ hai, chính sách cạnh tranh bất chính của nhà cầm quyền Trung Quốc tạo nên một loạt những “vũ khí” được sử dụng một cách có hệ thống để tiêu diệt nền kinh tế của các quốc gia khác, nhất là nền kinh tế Hoa Kỳ.
*Thứ ba, biện pháp cho gián điệp vào nước Mỹ, ăn cắp bí mật quốc phòng, cộng với việc ngày càng tăng ngân quỹ quốc phòng, sẽ khiến Trung Quốc chỉ trong vài năm nữa có thể đuổi kịp rồi vượt qua Hoa Kỳ về sức mạnh quân sự.
*Thứ tư, Chính sách tìm đủ mọi cách để chế tạo ra những hàng hóa với giá thành rẻ nhất, Trung quốc sẽ hủy hoại môi sinh tàn tệ và nhanh chóng đến mức khó có thể nào cứu gỡ được.
Dẫn chứng sự độc hại và nguy hiểm của hàng hóa Trung quốc, như melamine trong sữa, trong thức ăn cho chó và mèo (pet food), quần áo cho trẻ em dễ bốc cháy, thuốc asperine chứa độc tố, thuốc Lipitor và Viagra giả, chất arsenic trong nước ngọt, chất chì trong các loại trà, than giả, gạo giả, trứng giả, miến bằng ny-lon, vi cá giả..., nôi em bé chỉ dùng vài lần là gãy thành khiến nhiều em bị ngã gãy cổ, trẹo sườn, điện thoại di động bị phát nổ, “dry wall” chứa độc tố, Sofar bị xịt đầy chất “dimethylfumarate” gây bịnh ngứa ngoài da kinh niên, áo quần, giày, vớ..., những món ăn chứa đầy chì, vòng đeo cổ và đồ chơi gây khó thở, và còn rất nhiều ví dụ khác. Những dẫn chứng về sự cạnh tranh bất chính cũng nhiều không kém.
Trước tiên, Trung Quốc đập tan những qui ước về cả tự do mậu dịch lẫn thương mại bằng chính sách: “Vừa con buôn thủ lợi, vừa bảo vệ nền công nghệ nội địa” bằng cách đổ tiền của nhà nước vào từng ngành công nghệ mà họ muốn cạnh tranh với Hoa Kỳ, và cướp đi công việc của người dân Mỹ. Những võ khí được sử dụng có hệ thống để giết hại nền kinh tế của Hoa Kỳ.
*Hổ trợ cho các hàng xuất cảng vi phạm luật lệ của WTO (Tổ Chức Thương Mại Thế Giới) mà Trung Quốc đã ky’ kết: Sản xuất hàng giả, đánh cắp kỹ thuật, hoàn toàn không quan tâm đến những cách sản xuất có hại cho môi sinh, và ngược đãi công nhân, biến họ thành lao nô.
Điểm chánh là thao túng hối suất, khiến hàng nhập vào Trung quốc giá thành rất cao, tạo cho Hoa Kỳ một nguy cơ như trái bom nổ chậm: thâm thủng mậu dịch hàng năm lên đến gần một tỉ. Các hàng hóa du nhập vào Trung Quốc đều bị đánh cắp về kỹ thuật và phát minh. Trường hợp Google và Google China là một ví dụ điển hình. Ly’ do là luật của Trung quốc đòi hỏi các công ty vào nước họ phải chuyển bộ phận nghiên cứu và phát triển đến đó. Kể từ khi Trung quốc gia nhập WTO năm 2001, chủ trương “con buôn trục lợi” và bảo vệ công nghệ nội địa của họ đã khiến nhiều của Hoa Kỳ: như may mặc, bàn ghế, hóa chất, giấy, sắt, bánh xe, bị thu nhỏ lại còn một nửa. Riêng kỹ nghệ dệt bị triệt tiêu hơn 70%. Trong ngành Vi tính và điện tử, Trung Quốc đã lấy đi của Hoa Kỳ hơn 40% công ăn việc làm. Cũng theo họ, trong con số13.9 triệu người đang bị thất nghiệp tại Mỹ, 10 triệu việc làm được chuyển sang Trung quốc.
Vũ khí cuối cùng rất thâm độc của Trung Quốc gọi là “xâm lăng” hay “chiếm lãnh thuộc địa” khắp nơi bằng cách lạm dụng tự do mậu dịch để giành lấy tài nguyên của các quốc gia đang phát triển. Một kịch bản quen thuộc: Một ông Trung quốc bụng phệ, mang ngân phiếu đến một quốc gia nghèo khó nào đó, và hứa sẽ cho quốc gia đó mượn một số tiền khổng lồ với tiền lời rẻ mạt để “giúp” xây cất đường sá, canh tân quân đội. Đối lại, quốc gia này chỉ cần làm hai điều rất nhỏ cho Bắc Kinh: Trao hết quyền khai thác tài nguyên, đồng thời cho phép Trung quốc được quyền bán những sản phẩm được chế tạo bởi chính những tài nguyên vừa khai thác được từ nước này cho người tiêu thụ quanh vùng. Tại sao đây lại là mánh lới quỷ quyệt? Vì những hợp đồng loại này biến quốc gia vừa ky’ kết cho Trung Quốc khai thác tài nguyên trở thành thuộc địa của họ. Cả thị trường cũng của Trung Quốc nốt.
Xin bạn đọc đi đọc lại bài viết của hai nhà trí thức nêu trên, để hiểu hoàn cảnh của một nước Việt Nam nhỏ bé nằm cạnh một anh láng giềng hung bạo, nham hiểm, độc ác, lương lẹo, tham lam, thủ đoạn, gian manh, xảo quyệt...và một tập đoàn lãnh đạo hèn nhát, tham nhũng, ngu muội đã để cho đất nước và dân tộc Việt Nam kiêu hùng rơi vào vòng kiềm tỏa của bọn Rợ Hán mà không tốn một viên đạn. Những cảnh biểu tình chống đối và những căng thẳng trên vùng tranh chấp ở Biển Đông được chúng dàn dựng để bắt đi những thành phần yêu nước. Nhiều người võ đoán:
Liệu có xung đột võ trang giữa Trung Quốc và Việt Nam hay không? : Liên tiếp trong vòng 10 ngày, Trung quốc đã không chỉ xâm phạm lãnh hải của Việt Nam ở miền Trung mà còn có hành động gây hấn khiêu khích. Đó là cắt cáp tàu Bình Minh 2 vào ngày 26 tháng 5 và cắt cáp tàu Viking 2 vào ngày 9 tháng 6 năm 2011 bên trong thềm lục địa 200 hải ly’ của Việt Nam. Chúng từng bước “hợp thức hóa” vùng lưỡi bò 80% diện tích Biển Đông. Chúng đã tức tốc đưa 11 tàu chiến kết hợp với lực lượng hải quân vùng đảo Hải Nam để chuẩn bị....tập trận. Trung tướng Việt cộng Nguyễn chí Vịnh lần đầu tiên đã lên tiếng một cách mạnh mẽ: “Sẵn sàng chiến đấu nếu Bắc Kinh tiếp tục vi phạm”. Thủ tướng Việt cộng Nguyễn tấn Dũng vừa ky’ sắc lệnh nghĩa vụ quân sự có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 8 năm 2011.
Hoa Kỳ và các quốc gia Đông Nam Á cũng tỏ ra quan ngại và Hoa Kỳ đã chính thức đưa chiến hạm USS Chung Hoon về phía Tây Thái Bình Dương. Trung Cộng sẽ tránh đụng đầu với lực lượng của Hoa Kỳ và Phi-Luật-Tân, nhưng sẵn sàng đối đầu với hải quân Cộng Sản Việt Nam vì 4 ly’ do sau đây:
*Trung Cộng đã tạo một không khí “thù nghịch” đối với Việt Nam trong lòng xã hội Trung quốc. Chúng đã tuyên truyền rằng VN và các nước Đông-Nam-Á đã cướp biển của dân Trung quốc chứ không phải là nạn nhân của bá quyền Trung quốc.
Đây là đòn: “vừa ăn cướp vừa la làng” của chúng.
*Thứ hai, đặc biệt là 15 ủy viên Bộ Chính Trị và thành phần lãnh đạo cốt cán của Hà Nội đã bị Trung quốc tung tiền mua chuộc và hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi của TQ khó có thể buông thả. Những phản hồi của phía VN thường thì sau 2, 3 ngày sự kiện đã xảy ra. Sau khi đã bàn thảo và nhiều khi “xin phép” trong sự chừng mực nào đó để không làm cho Bắc Kinh giận dữ.
*Thứ ba, các sĩ quan và quân đội bị Đảng kềm chế đã không dám làm gì. Ngoài ra Hải Quân Cộng Sản Việt Nam không đủ khả năng và quá chênh lệch đối với lực lượng của TQ. Mặc dầu từ năm 2010, Cộng Sản Việt Nam đã bỏ ra 4 tỷ Mỹ kim để mua 6 tàu ngầm Kilo từ Nga, mua trực thăng, xe tăng và súng đạn. Nhưng phải đợi đến năm 2014 mới có đầy đủ những thiết bị nói trên.
*Thứ tư, Biển Đông rất quan trọng với Trung quốc về mặt an ninh chiến lược và phát triển công nghiệp.
Bắc Kinh sẽ ra tay và đặt Cộng Sản Việt Nam vào chỗ đã rồi khi thời cơ chín muồi. Đây là một chiến lược rất thâm độc của Bắc Kinh để làm cho CSVN mất hậu thuẫn trong quần chúng vì chính sách “hèn với giặc-ác với dân” trong nhiều năm qua. Bọn lãnh đạo Bộ Chính Trị tại Hà Nội dựa theo kinh nghiệm đã để mất Trường Sa năm 1988, Thác Bản Dốc, Ải Nam Quan, Bãi Tục Lãm và hơn 700 cây số vuông vùng biên giới năm 2000, cho thấy bọn CSVN đã coi quyền lợi của Đảng Cộng Sản cao hơn quyền lợi của đất nước.
Trong hai tháng qua, người dân Việt Nam trong nước và hải ngoại đã xuống đường biểu tình để lên án bọn bành trướng Bắc Kinh. Đây là những hành động đơn giản nhưng cần thiết nhất hiện nay để chứng tỏ cho bọn Rợ Hán này biết rằng dân tộc Việt Nam sẵn sàng chết để bảo vệ tổ quốc.
Trước khi mời bạn tìm hiểu sự tàn bạo của con người đối với con người, tôi xin kể hầu bạn một câu chuyện xưa: “Người chặt cây quế trong cung trăng” như sau:
“Trong mặt trăng có cây quế cao 500 trượng. Dưới gốc có một người cầm búa chặt mãi, nhưng chặt xong thì dấu chặt dính liền lại như cũ. Người ấy tên Ngô Cương quê ở Tây Hà, tu tiên có lỗi bị chặt cây. Ngô Cương và Phùng Mông là học trò của Hậu Nghệ. Nghệ sinh ở bờ biển Đông tức nước Hữu Cùng, võ nghệ phi thường, sức có thể nhổ núi lấp sông, lại giỏi về kỵ xạ. Hai người học trò cũng đều tài ba xuất chúng.
Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tánh khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải nhân dân. Ngô Cương lại tòng theo thầy làm nhiều điều gian ác, giết chóc sinh linh vô số. Phùng Mông là người hiền, can thầy can bạn không được, bỏ đi theo đám dân nghèo chống lại thầy.
Hậu Nghệ bắt Hằng Nga làm hoàng hậu. Sợ nàng trốn, Nghệ giam một nơi và bắt Ngô Cương canh giữ. Một hôm, Nghệ đi săn, Hằng Nga lấy cỏ Linh Chi (cỏ trường sinh) của Nghệ uống vào, mình nhẹ bổng nên nàng cùng con Ngọc Thổ bay lên cung trăng. Nghệ đi săn về thấy mất Hằng Nga nên tức giận, bóp cổ Ngô Cương cho đến chết. Vong hồn Ngô Cương bay lên cung trăng gặp Hằng Nga, định giết nàng báo thù. Hằng Nga hoảng hốt thì vừa lúc ấy Nguyệt lão đến, quát to:
-Ngày trước nhà ngươi giết hàng triệu sinh linh, ngày nay phải chịu quả báo, thế chưa biết ăn năn hối cải sao?.
Ngô Cương đáp: “Tôi chết rồi..vì Hằng Nga trốn đi nên đại vương giết tôi. Tôi chết oan uổng nên hồn không tiêu tan, tôi muốn trả thù.
Cụ già mỉm cười:-“Nhà ngươi chết như thế phải lắm, còn muốn chết làm sao nữa?”.
-Tôi hết lòng trung vì chúa, đánh đông dẹp bắc, ngày đêm lo việc trị dân.
Cụ già gật gù hỏi: “Nhà ngươi trị có được không? Hay càng trị càng rối?”.
-Tại đại vương quá hận giết tôi. Nếu không, tôi có cách trị an thiên hạ.
-Cách gì?.
Ngô Cương tỏ vẻ cương quyết: “Giết”.
Cụ già cười ha hả: “Nhà ngươi giết mấy chục năm rồi mà càng giết càng đông, càng loạn. Đồ khùng! Thân xác đã chết rồi mà hồn chưa tỉnh ngộ, Ngô Cương, có thấy cây quế không?”.
Cụ già vừa nói vừa đưa tay trỏ cây quế. Ngô Cương đáp: “Thấy, mà có quan hệ gì tới tôi?”.
-Nhà ngươi chặt cây kia ngã được thì mới có thể giết người để bình thiên hạ được.
Cụ già vừa nói xong, đưa tay móc túi lấy ra một cây búa trao cho Ngô Cương. Hắn tiếp lấy búa, đưa thẳng tay lên chặt vào cây quế. Lửa trong cây quế văng ra. Cương buông búa, xu?y’t xoa kêu: -“Cây cứng quá!”.
Cụ già cười xòa: “Thôi, chặt không được đâu”.
Ngô Cương càu nhàu: -“Thây kệ tôi”.
-Đồ ngu, đến chết mà vẫn không tỉnh. Nhà ngươi không thấy cây quế ấy, mày càng chặt thì cây càng lớn, càng cao, càng đẹp sao? Được, mặc kệ cho mày chặt. Ta đi đây. Cụ già nói xong biến mất. Ngô Cương vẫn cầm búa chặt mãi…chặt mãi mà cây quế kia không bao giờ đứt, vẫn tươi sống kiếp kiếp đời đời”.
Hiện nay trên thế giới chỉ còn có bốn nước: Trung cộng, Việt nam, Bắc Hàn và Cu Ba áp dụng tuyệt đối chủ nghĩa cộng sản của Marx và Engels. Chỉ riêng cuộc chiến tranh tại Việt Nam đã chấm dứt vào ngày 30 tháng Tư năm 1975 sau 20 năm đánh nhau đã gây ra nhiều sự hy sinh bẽ bàng:
-Hơn 3 triệu binh sĩ và dân sự Hoa Kỳ đã phục vụ tại chiến tuyến VN từ 1954 tới 1975, với tổng số 53,193 tử vong, 120000 bị thương (trong đó hơn 20000 người vĩnh viễn tàn tật).
-Khoảng 239,587 tử vong phía Việt Nam Cộng Hòa.
-Khoảng 680,000 quân chính quy Bắc Việt và 251,000 binh sĩ Mặt Trận Giải Phóng miền Nam, tổng cộng lên tới 931,000 tử vong.
-Tổng số tử vong “bên lề chiến tranh” cả Nam lẫn Bắc Việt được ước lượng từ 1 triệu 500 ngàn tới 2 triệu người dân vô tội.
Ngay cả Quân Đội và Nhân Dân Bắc Việt cũng lâm vào cảnh ngộ không sáng sủa gì hơn, nếu không nói là khốn đốn, nguy ngập. Quân đội và nhân dân Bắc Việt đã thắng nhờ vào kỹ thuật chiến tranh có viện trợ của Nga Sô và nhất là của Trung cộng. Họ đã chiếm được Sàigòn, nhưng ngay sau 1975 và ngày hôm nay họ đang thua trên toàn quốc VN, vì một mặt thì thiếu khả năng quản trị đất nước trong “hòa bình”, khi mất cớ lùa bịp dân chúng với chiến tranh, và nhất là về mặt đối ngoại khi họ phải trả nợ hơn 50 năm viện trợ Trung Cộng bằng cách xóa bỏ biên giới, cầm cố đất đai, rừng già, bán biển, bán các hải đảo.
Bạn thấy đó, hiện nay trên thế giới, những người trẻ thích đùa cợt bằng cách sử dụng những biểu tượng phổ biến trong quá khứ. Trong khi chữ thập ngoặc của Đức-quốc-Xã bị xem là một trò đùa ác y’, thì biểu tượng của Xô-Viết không được xem như vậy. Nói cho cùng Cộng sản không phải là Phát xít. Nó đề cao sự bình đẳng và hài hòa. Tự y’ tưởng đó không có gì là sai trái. Nhưng…thực sự là có. Có một điều làm nó không như những xã hội không tưởng khác. Lenin tin vào “cuộc đấu tranh giai cấp”. Có nghĩa rằng sự hài hòa tuyệt đối chỉ có thể đạt được sau một nhóm người khác bị tiêu diệt. Ban đầu, khi những người cộng sản lên nắm quyền thì xã hội không có vấn đề gì, ngay cả ở Nga, Ba Lan, Cuba, Nicaragua hoặc ở Trung quốc. Ban đầu, họ giết khoảng 10% dân số và họ chọn lựa rất kỹ lưỡng. Họ làm việc này không chỉ để tiêu diệt kẻ thù. Họ giết người để thiết lập lại cơ cấu xã hội. Một phương pháp xây dựng xã hội. Tất cả trí thức, những công nhân tốt nhất, các kỹ sư tốt nhất đều bị họ giết hết. Và sau đó họ cố gắng xây dựng một xã hội mới. “Treo cổ ít nhất 100 tên Cu-lắc. Bắn bỏ hết bọn con tin. Hãy để cho những người đứng cách xa hàng trăm dặm đều thấy và run sợ” Lenin đã dõng dạc tuyên bố. Những người cộng sản nắm chính quyền ở Nga vào năm 1917. Lenin lúc này đã có cơ hội để áp dụng chủ nghĩa Marx vào cuộc sống thực tiễn! Những người chống đối lại đã bị bắn. Có những vụ tàn sát khủng khiếp những nông dân phản kháng lại. Và không biết chính xác bao nhiêu người đã chết. Chúng ta có thể đoán rằng có khoảng 10 triệu người hoặc hơn nữa đã bị giết. Nhưng ngay cả sự khủng bố tàn nhẫn nhất cũng không thể phá vỡ được sự kháng cự của nhân dân.
Đặc biệt là ở các nước cộng hòa thiểu số, nơi mà sự khủng bố của cộng sản được cấu kết với áp bức dân tộc. Ví dụ như tại Ukraina. Ngày 11 tháng 9 năm 1932, Stalin đã viết cho người đồng sự của mình là Kaganovich “Tình hình ở Ukraina hiện rất nghiêm trọng. Nếu chúng ta hành động ngay, chúng ta có thể mất Ukraina”. Một kế hoạch được ra đời sau những cuộc họp kín của những kẻ thân cận với Stalin. Đó là một kế hoạch khủng khiếp. Vào mùa đông năm 1932 và 1933, tất cả lương thực được chuyển khỏi Ukraina. Một hàng rào cách ly khổng lồ được lập ra để cô lập toàn bộ người dân Ukraina. Ban đầu thì những người dân không chết ngay. Một ít lúa mì và rau quả còn sót lại giúp cho họ sống sót. Nhưng điều này không nằm trong kế hoạch của Stalin. Thế là Stalin bèn ra lệnh cho Bộ Dân Ủy Bội Vụ tịch thu tất cả lúa mì và thực phẩm còn sót lại. Bằng cách này, Stalin biết rằng ông đã tuyên án tử hình đối với họ. Tất cả khoai tây, củ cải, cải bắp…toàn bộ những thùng cải bắp muối cũng bị tịch thu hết. Họ lấy đi tất cả những gì có thể ăn được. Họ đã lấy đi mọi thực phẩm. Sau khi toàn bộ thực phẩm bị tịch thu, nông dân bị cấm tìm kiếm thức ăn ở nơi khác cho dù là mua, trao đổi, hay kiếm được. Và lúc ấy, nạn đói bắt đầu. Những người đang đói không được phép vào các thành phố. Có những đội quân đặc biệt chuyên ngăn chặn những người sắp chết và những người đói ăn lên tàu hỏa. Rất nhiều người chết trên đường rày xe lửa đi tới Kharkov hay Kiev. Người dân Ukraina đã chết dần chết mòn một cách khủng khiếp. Trẻ em khóc và quằn quại đau đớn để xin bố mẹ bánh mì. Có nhiều người đã quên đi nỗi sợ và họ tìm đến các cánh đồng mà Bộ Dân Ủy Nội Vụ trông coi để mót lúa mì. Họ bị bắn chết ngay tại chỗ. Những ngày đó thực sự kinh khủng! Tất cả những người chết được quẳng xuống hố chôn nhiều đến nỗi rung chuyển cả mặt đất. Những người cộng sản đã làm gì với lúa mì tịch thu từ người dân Ukraina?. Họ đã xuất khẩu hàng triệu tấn lúa mì này sang phương Tây. Mặc dù nạn đói đang xảy ra, nhưng sản lượng xuất khẩu lúa mì của Ukraina đã tăng đến mức tối đa. Báo chí Tây phương đã tường thuật chi tiết về mức độ cũng như bản chất của nạn đói ở Ukraina. Người Ukraina đang bị diệt chủng trước sự chứng kiến của thế giới. Nhưng thế giới đã không làm gì để giúp họ. Bảy triệu người đã chết đói chỉ trong vòng một năm.
Xã hội Xô-Viết là xã hội cộng sản đầu tiên trên thế giới. Đó là một cuộc thí nghiệm xã hội khổng lồ. Cái chết đau đớn của 7 triệu người Ukraina có một y’ nghĩa sâu sắc trong quan điểm méo mó của các kiến-trúc-sư của chủ nghĩa cộng sản. “Chúng ta phải thực hiện một cuộc cách mạng rồi thiết lập chế độ độc tài của giai cấp vô sản và sau đó mới có thể tạo ra “con người mới”. Sự ra đời của “con người mới” là mục đích cuối cùng của chủ nghĩa Marx. Tạo ra một loại người cách mạng mới có cách suy nghĩ và hành động khác hẳn. Cộng sản không phải là những người duy nhất tiến hành quá trình này. “Chúng ta phải tạo ra những con người mới! Và một xã hội mới sẽ xuất hiện!”. Chủ Nghĩa Xã Hội Quốc Gia của Hitler cũng chú trọng vào việc tạo ra con người mới. Cả hai hệ thống đều dựa trên một hệ tư tưởng với tham vọng tạo ra con người “mới”. Có nghĩa là cả hai chế độ đều không hài lòng với bản chất hiện tại của con người. Họ đấu tranh chống lại bản chất tự nhiên của con người. Đấy là cội rễ của chế độ toàn trị và là điều hiển nhiên trong cả hai hệ tư tưởng. Chủ nghĩa Phát-xít là một hệ tư tưởng dựa trên quan điểm sinh học sai lầm và chủ nghĩa cộng sản được dựa trên quan điểm xã hội học sai lầm. Nhưng cả hai hệ tư tưởng đều muốn chứng minh là mình có cơ sở khoa học.
Tại sao nhất thiết phải giết người? Điều này được nói đến lần đầu tiên vào tháng Giêng năm 1849 trong một bài báo đăng trên tờ tạp chí theo chủ nghĩa Marx “Neue Rheinis Zeitung”, Engels đã giải thích về y’ nghĩa của cuộc đấu tranh giai cấp theo quan điểm Marxist. Theo ông, khi cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra sẻ xảy ra đấu tranh giai cấp. Một số xã hội nguyên thủy ở Châu Âu thì đã bị trễ đến hai thời kỳ, bởi vì những xã hội đó chưa đạt tới giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Engels gọi người Basques, Britons, Scots và người Serbia là những “dân tộc cặn bã”. Họ sẽ phải bị tiêu diệt vì họ đang tụt hậu lại quá xa nên không thể đưa họ đến cùng thời với cuộc cách mạng được. Engels nói về sự thô tục và đáng khinh bỉ của các dân tộc Slav. Ví dụ ông cho rằng Ba Lan không có ly’ do để tồn tại “các chủng tộc và các giai cấp quá yếu để thích ứng với điều kiện sống mới, nên họ phải nhường bước. Họ phải bị tiêu diệt trong cuộc thảm sát của cách mạng” (Karl Marx). Marx là cha đẻ của nạn diệt chủng chính trị hiện đại. Những lời dạy của Marx và Engels đã được nghiên cứu kỹ lưỡng bởi Lenin, người đã khai sinh ra nhà nước Marxist đầu tiên trên thế giới. Một năm sau cái chết của Lenin vào năm 1924. Báo The New York Times công bố một bài viết ngắn, nhưng không nhận được sự chú y’ của độc giả lúc bấy giờ. Bài báo nói về một đảng chính trị mới được thành lập ở Đức “Đảng Công Nhân Quốc Gia Xã Hội Chủ Nghĩa”, do Adolf Hitler là người sáng lập và bảo trở, luôn tin rằng Lenin và Hitler giống nhau. Ai là người nói ra điều này? Chính là tiến sĩ Goebbels. Tiến sĩ Goebbels khẳng định rằng: Lenin là người vĩ đại nhất chỉ sau Hitler và có rất ít khác biệt giữa chủ nghĩa cộng sản và tư tưởng của Hitler. Hitler thường nói rằng ông đã học được rất nhiều khi nghiên cứu chủ nghĩa Marx, ông cho rằng chủ nghĩa xã hội Quốc Gia hoàn toàn dựa trên ly’ thuyết chủ nghĩa Marx. Bernard Shaw-nhà soạn kịch nổi tiếng người Anh-đã ủng hộ Hitler trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Mỗi người trong chúng ta đều biết có một nửa tá người vô dụng trên thế giới. Họ có vấn đề cả trong thế giới của riêng mình. Hãy hỏi họ: “Bạn có vui lòng biện minh cho sự tồn tại của mình?. Nếu bạn không thể biện minh cho sự tồn tại của chính bạn, nếu bạn không sản xuất ra nhiều của cải hơn mức tiêu thụ của bản thân thì rõ ràng là xã hội không nên để một thành viên như bạn sống. Bạn không nên sống vì cuộc sống của bạn không có lợi cho chúng tôi và cho cả chính bạn nữa”. Bernard Shaw ủng hộ việc diệt chủng theo giai cấp chứ không theo chủng tộc. Ví dụ như những người tàn tật, thất nghiệp hoặc lập dị. Tiêu diệt các tầng lớp ăn bám trong xã hội là luận điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội trong chủ nghĩa Marx. Trong một tờ báo ở Luân Đôn, Bernard Shaw đã kêu gọi các nhà khoa học nên chế tạo ra một loại hơi ngạt nhân đạo có thể giết người ngay lập tức và không gây đau đớn. Chết hoàn toàn, nhưng nhân đạo mà không tàn nhẫn.
Mười năm sau đó, loại hơi ngạt đã được phát minh. Nó được gọi là Cyclone-B. Adolf Eichmann là người đã chỉ đạo việc áp dụng Cyclone-B tại Auschwitz, tù nhân đã chết mà không đau đớn. Cyclone-B là một loại hơi ngạt nhân đạo. Vâng, Eichmann đã dùng chính xác những từ đó. Phải nhìn nhận rằng Bernard Shaw và những người cánh tả nói chung cơ bản phản đối chủ nghĩa Phá-xít. Bởi vì Hitler đã hoàn toàn bóp méo chủ nghĩa Marx đến nỗi không nhận ra được nữa. Giết người bằng khí độc dựa vào sắc tộc của họ là không thể tha thứ. Việc lựa chọn phải dựa trên giai cấp. Hitler đã hoàn toàn sai lầm. Chính những loại người khác mới thực sự cần bị tiêu diệt!.
Quốc gia duy nhất áp dụng chính xác chủ nghĩa Marx chính là Liên-Xô. Nó giết người dựa trên các nguyên tắc của chủ nghĩa Marx một cách sát sao-Kẻ thù giai cấp- Nói chung, quá trình này cũng tương tự như việc tiêu diệt người Do Thái. Đầu tiên là nạn nhân bị nhạo báng và làm nhục trước công chúng rồi sau đó bị giết. Hàng triệu người! Hãy vạch mặt bọn chúng! Rồi chúng ta có thể lôi ra hết những kẻ giấu mặt còn sót lại! Đừng sợ bọn chúng! Nếu kẻ thù không nhận tội, chúng sẽ bị tiêu diệt. (Bạn có thấy giống như cuộc Cách Mạng Văn Hóa của Trung cộng vào thời Mao-trạch-Đông và cuộc đấu tố trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất ở Hà Nội dưới thời Hồ-chí-Minh hay không).
Trong thập niên 1930, kỹ thuật xử tử đã được hình thành. Mỗi khu vực hành chánh đều có một khu riêng để chôn các xác chết. Việc xử bắn được thực hiện trong nhà tù. Trong tầng hầm có một phòng bắn đặc biệt có các bức tường bê-tông và cống để thoát máu. Tù nhân được đưa xuống một hành lang dẫn tới “phòng Đỏ”. Đó là lúc xác định danh tính lần cuối. Các nạn nhân phải tự khai bản tên của mình và sau đó họ sẽ được đưa tới phòng này. Khi nạn nhân bước vào, họ sẽ bị bắn một viên đạn vào sau gáy. Đúng vậy, nạn nhân bị giết bởi một phát đạn vào đầu. Họ bị giết theo nhóm khoảng một hoặc vài trăm người mỗi đêm. Ngay sau đó, các xác chết được chuyển lên xe tải chở đi khỏi thành phố và được chôn trong các khu rừng hoặc công viên gần đó.
Bikivina, Butov, Leningrad, Vinica, Harkov…những ngôi mộ tập thể khổng lồ nằm rải rác khắp mọi nơi trong cả nước.
Cả một thế hệ trẻ em bị mất cha mẹ và trở thành những kẻ vô-gia-cư. Chúng được gọi là trẻ em đường phố. Hàng triệu trẻ em đường phố đi lang thang xin ăn ở các thành phố của Liên-Xô. Đó là một cảnh tượng xấu hổ đặc biệt là với những người ngoại quốc đến thăm thành phố Moscow. Nhưng Stalin đã giải quyết vấn đề này. Giữa thập niên 1930, khi vấn đề vô-gia-cư trở nên nghiêm trọng, Stalin đã cho phép bắn những trẻ em trên 12 tuổi. Người dân bị bắn chết vào ban đêm tại một quốc gia lớn nhất trên thế giới. Stalin thậm chí đã đi xa tới mức giết người ngẫu nhiên và theo chỉ tiêu. Ví dụ: có 100000 người dân trong huyện Tambov. Mỗi một người bị bắt và bắn chết sẽ được tính vào sổ chỉ tiêu. Họ không quan tâm người đó là ai. Khi hoàn thành xong chỉ tiêu, chính quyền địa phương sẽ báo cáo cho Stalin và Trung Ương Đảng, để yêu cầu tăng mức chỉ tiêu cho họ!. Khrushchev từng yêu cầu tăng thêm chỉ tiêu của mình! Ông ta được phép giết 7 đến 8 nghìn “kẻ thù”. Ông ấy yêu cầu: “Hãy tăng mức chỉ tiêu của tôi lên thành 17 nghìn”. Và việc gia tăng chỉ tiêu giết chóc đã được chấp thuận. Và sau khi hoàn thành mức đề ra, họ lại tiếp tục yêu cầu tăng thêm nữa. Vì thế, đây là một vòng tròn luẩn quẩn. Một cổ máy xay thịt người chỉ biết giết, giết và giết. Stalin đã tắm trong máu. Stalin, Molotov, Voroshilov, Kaganovich và Zhdanov là năm kẻ giết người hăng máu nhất. Kết quả là giữa những năm 1937 và 1941 đã có 11 triệu người bị xử tử. Mười một triệu người. Bạn có thể tưởng tượng nổi mức độ đàn áp của họ lên chính dân chúng của mình? Giết hàng triệu người trong một thời gian ngắn quả là một thành tích đáng nể. Tôi không nghĩ rằng, cụ thể là Châu Âu chưa bao giờ thấy kiểu giết người như thế này về quy mô cững như tính chất. Có một người ở Châu Âu luôn theo sát tình hình tại Nga: Hitler. Holocaust lúc này chỉ mới là y’ tưởng trong đầu Hitler.
Chuẩn bị cho một trật tự thế giới mới: Thế giới méo mó của Hitler đã bắt đầu hình thành từ đây. Sát nhập Áo, chiếm đóng Tiệp Khắc. Mọi người đều vỡ lẽ ra muốn tránh một thảm họa toàn cầu thì cần phải chặn đứng Hitler. Nhưng Stalin đã từ chối tham gia liên minh chống Hitler. Ý tưởng phá hủy trật tự quyền lực cũ ở Châu Âu cũng là y’ định của Stalin. Nhưng Hitler lại bị cho là kẻ ác. Ông ta sẽ phá hủy các trật tự cũ ở Châu Âu. Sẽ không còn quốc hội, công đoàn, quân đội và chính phủ. Và sau đó Stalin sẽ xuất hiện như một người giải phóng. Hàng triệu người mắc kẹt trong các trại tập trung đang chờ được tự do. Stalin và Hồng quân của ông ta sẽ đến như những giải phóng quân. Đây là kế hoạch của ông.
Nhưng Hitler thiếu cả nguồn lực và sân sau an toàn để bắt đầu một cuộc chiến quy mô lớn. Vì thế, vào ngày 23 tháng 8 năm 1939, Hitler và Stalin đã ky’ kết một hiệp ước bảo đảm an toàn cho biên giới phía đông nước Đức và đảm bảo nguồn cung cấp nguyên vật liệu chiến lược khổng lồ nằm trong một hiệp định thương mại được ky’ sau đó. Ngày 24 tháng 8, bộ trưởng Ngoại giao Đức Quốc Xã Ribbentrop báo cáo Hitler về chuyến thăm Moscow. Hitler hoan hỉ!. Bây giờ ông ta có đủ mọi thứ cần thiết để bắt đầu một cuộc chiến tranh thế giới.
Vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, Hitler tấn công Ba Lan từ phía tây. Ba Lan tuyệt vọng chiến đấu chống lại Đức Quốc Xã, nhưng sau đó, vào ngày 17 tháng 9, Ba Lan bị tấn công bất ngờ từ phía đông bởi Liên Xô. Theo tất cả các qui tắc của luật pháp quốc tế quyết định của chính phủ Liên Xô chiếm đóng Ba Lan rõ ràng là hành động xâm lược. Máy bay của Không Quân Đức ném bom các thành phố Ba Lan và trạm vô tuyến của Liên Xô đặt tại Minsk đã hướng dẫn chúng đến các mục tiêu.
Hồng Quân năm 1939: Lúc ấy Hồng quân trông khác hẳn. Họ đã tham gia chiến tranh Thế Giới Thứ II bên cạnh lực lượng SS. Người dân địa phương không thể phân biệt được ai là ai. Vì vậy, để bảo đảm, họ thường chào đón cả hai. Quân đội Đức gặp Hồng quân ở miền Trung Ba Lan. Và hai con quái vật độc tài: Đức và Liên Xô chia đôi quốc gia này. Báo chí Xô Viết mô tả đây là cuộc chiến chống lại “Phát-Xít” Ba Lan. Những người yêu hòa bình ở Đức Quốc Xã và Liên Xô đang chiến đấu chống lại chủ nghĩa Phát-xít Ba Lan hiếu chiến. Nhưng thế giới đã không biết rằng cả hai kẻ độc tài đã đi đến thỏa thuận bí mật được ky’ kết tại điện Kremlin một tuần trước khi chiến tranh nổ ra, Hitler và Stalin đã đồng y’ việc phân chia cả Châu Âu. Ban đầu, đề xuất của Ribbentrop không đề cập đến việc này. Mặc dầu điều này nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng Stalin là người đề xuất thỏa thuận bí mật ấy. Theo nghị định mật thì Hitler đã bật đèn xanh cho Stalin chiếm đóng một số quốc gia Châu Âu. Quốc gia đầu tiên trong danh sách là Phần Lan. Khi máy bay đầu tiên ném bom Helsinki trong tháng 11 năm 1939, người dân Phần Lan cho đấy là máy bay Nga lạc đường và bắn phá nhầm Helsinky. Nhưng máy bay ném bom Liên Xô lại tiếp tục nhắm vào Helsinki. Thành phố tiếp tục bị phá hủy. Bạn cảm thấy nhịp tim của bạn đập nhanh hơn, chứng kiến những tòa nhà sụp đổ khi bom nổ. Moscow cáo buộc Phần Lan là một chế độ Phát-xít và phát động một cuộc chiến tranh bằng đường bộ. Đây là một thất bại thảm hại. Người Nga thiệt hại khoảng 300,000 người, chết vì lạnh và bị thương. Phần Lan bé nhỏ đã chống lại quân đội lớn nhất thế giới một cách phi thường, nhưng với một cái giá quá lớn. Cờ Phần Lan tiếp tục bay! Dù phải đi qua thung lũng tử thần, dù có thể mất tự do và lãnh thổ, họ vẫn tiếp tục chiến đấu!. Vì xâm lược tàn bạo vào Phần Lan, Liên Xô đã bị trục xuất khỏi Hội Quốc Liên. Chỉ có ba quốc gia bị lên án bởi Hội Quốc Liên là gây hấn và xâm lược: Nhật Bản quân phiệt, Phát xít Ý và Đức Quốc Xã. Bây giờ Liên Xô đã gia nhập với nhóm trên. Ở Châu Âu, Liên Xô chỉ còn lại một đồng minh: Hitler.
Hitler phát động một cuộc chiến tranh chớp nhoáng về phía tây. Đức quốc Xã chiếm đóng Đan Mạch, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg. Na Uy đã bị chiếm đóng dưới sự hỗ trợ trực tiếp của Liên Xô. Stalin đã cho phép Đức quốc Xã xử dụng một căn cứ Hải Quân gần Murmansk, để Hitler đưa quân tấn công Na-Uy. Khi Berlin quyết định kết thúc việc xử dụng căn cứ này, Đô Đốc người Đức Raeder đã viết một bức thư gửi Tư Lệnh Hải Quân Liên-Xô Kuznetsov, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về việc đã hổ trợ Hải Quân Đức. Stalin đã viết cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Đức Quốc Xã Ribbentrop: “Tình hữu nghị giữa Đức và Liên-xô được bảo đảm bằng máu”. Hiển nhiên là bằng máu các nạn nhân của Liên-xô và Đức-quốc-Xã. Và đó thực sự là tình hữu nghị. Các sĩ quan Liên-xô và Đức-quốc-Xã gặp nhau và thảo luận về tiến trình của cuộc chiến. Lúc này là tháng 12 năm 1939. Tiến trình vẫn tốt và triển vọng còn tốt hơn. Đó là ly’ do tốt để ăn mừng. Liên-xô đã trở thành nhà cung cấp nguyên vật liệu chính cho cổ máy chiến tranh Đức-quốc-Xã. Hàng ngàn tấn dầu, quặng sắt và vật liệu xây dựng, thậm chí cả những đoàn xe lửa chở đầy lúa mì Liên-Xô cũng được gửi đến cho quân đội Đức. Trong khi những người dân Sô-Viết đang đói thì chính phủ của họ cung cấp lương thực cho Hitler. Liên-Xô còn đi xa hơn nữa. Họ còn thuyết phục các đảng cộng sản ở châu Âu phá hoại phong trào kháng chiến và hỗ trợ Đức-quốc-Xã. Công nhân thành phố Paris vui vẻ trò chuyện với các binh sĩ Đức như bạn bè trên đường phố hay trong các quán cà-phê. “Làm tốt lắm các đồng chí! Cứ tiếp tục như vậy nhé!”. “Dưới sự bóc lột của giai cấp tư sản, tình huynh đệ giữa con người luôn là một hy vọng hão huyền, nhưng nay đã thành sự thực”. Đảng cộng sản Pháp đã nói những điều này vào tháng 7 năm 1940. Giờ đây đảng cộng sản nói rằng họ đã chống lại Đức-quốc-Xã từ trước năm 1941-thời điểm Liên-xô bị Hitler tấn công. Trên thực tế, họ chống lại chính phủ của Thống Chế Pe1tain hơn là chống lại người Đức.
Tháng 6 năm 1940, Hitler nghiền nát nước Pháp. Trong khi đó Stalin chiếm Lithuania, Latvia, và Estonia. Quốc gia duy nhất còn lại ở châu Âu chống lại Hitler là nước Anh. Nếu nước Anh đầu hàng, phe Trục sẽ giành quyền kiểm soát. Châu Âu lục địa, Châu Á, Châu Phi, Châu Úc và các vùng biển. Và họ sẽ dành được các vị trí chiến lược để sử dụng nguồn tài nguyên quân sự và hàng hải khổng lồ cho các hoạt động kiểm soát toàn bộ bán cầu này. Tổng Thống Mỹ Roosevelt xem Liên-xô như một nước thuộc phe Trục. Ai cũng thấy quá rõ ràng là Stalin đã từng thuộc phe Phát-xít. Thủ Tướng Liên-xô Molotov đã đến Berlin để thương lượng về việc phân chia quyền lực thời hậu chiến. Ông ta viết một bản danh sách các vùng lãnh thổ mà Liên-xô quan tâm đến. Có lẽ ông đang nói về các lợi thế của chủ nghĩa Phát-xít vì chính thủ tướng Liên-xô Molotov, chứ không phải Goebbels, từng cảnh báo phương Tây không nên chiến đấu chống lại hệ tư tưởng Đức-quốc-Xã. Còn hơn nữa. Trong bài phát biểu với lãnh đạo Xô-Viết tối cao tại điện Kremlin, Molotov tuyên bố rằng: “Đấu tranh chống lại hệ tư tưởng Đức-quốc-Xã là một tội ác!”. Bài phát biểu này đã được đăng trên tất cả các tờ báo lớn của Liên-Xô. Sau này, trang báo đó đã biến mất trong các thư viện công cộng của Liên-Xô, cùng với những tuyên bố ủng hộ Đức-quốc-Xã của chính quyền Xô-Viết. Vậy tại sao chống lại Đức-quốc-Xã lại được xem là tội ác dưới quan điểm của Liên-Xô? Bởi vì giết người hàng loạt và trại tập trung là cơ sở của hệ tư tưởng này. “Lao động sẽ giải phóng bạn”-khẩu hiệu tại trại tập trung của Đức-quốc-Xã. “Lao động là vinh quang”-khẩu hiệu tại trại tập trung của Sô-Viết. Nếu ai đó chống lại hệ tư tưởng của chủ nghĩa Phát-Xít-cũng có nghĩa là họ cũng chống lại chế độ Xô-Viết. Molotov biết rõ điều này. Bởi vì Molotov chính là người đích thân giám sát việc tiêu diệt 7 triệu người Ukraina. Còn Himmler chịu trách nhiệm tiêu diệt người Do Thái. Cả hai đều đồng y’ rằng vì lợi ích chung, những nhóm người nào đấy cần phải bị tiêu diệt. Winston Churchill không chỉ coi tư tưởng của Đức-quốc-Xã và cộng sản là rất giống nhau. Theo quan điểm của ông, chủ nghĩa Phát-xít là một hình thức của chế độ chuyên quyền cộng sản. “Chế độ chuyên quyền cộng sản ghê tớm” như cách Churchill gọi vào năm 1940, cuối cùng đã chiến thắng với sự trợ giúp của Đồng Minh. Đây là lễ kỷ niệm 60 năm chiến thắng vĩ đại. Một cuộc diễn binh lịch sử không kém so với cuộc diễn binh chiến thắng đầu tiên của quân đội Xô-Viết trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai cùng với Đức-quốc-Xã.
Liên-Xô không bao giờ nói rằng đã từng diễn binh dưới cờ Đức-quốc-Xã. Moscow cũng công khai miêu tả mình là một cựu chiến binh chống Phát-xít. Nhiều người đã tin vào điều này. Có nhiều người Do Thái chạy trốn sang Liên-Xô để trốn thoát Hitler. Và rồi Stalin đã làm những điều không thể tưởng tượng được. Họ bị giam lại và được chuển ngay cho Gestapo để thể hiện lòng hữu nghị.
Sự hợp tác giữa Liên-Xô và SS: SS của Đức-quốc-Xã và NKVD của Liên-Xô (Lực lượng An Ninh của Stalin) cộng tác với nhau rất chặt chẽ. Các tài liệu lưu trữ cho thấy có sự cộng tác ở quy mô rất lớn giữa hai cơ quan này. Danh sách dài những người cộng sản Đức và Do Thái mà Liên-Xô đã giao cho Đức-quốc-Xã.
Tháng 12 năm 1937-tháng 4 năm 1938-tháng 5 năm 1938-tháng 11 năm 1938: Hầu hết những người này chết trong các trại tập trung của Đức-Quốc-Xã. Tuy nhiên, sự cộng tác của SS và NKVD không chỉ giới hạn ở việc dẫn độ những kẻ thù chung. NKVD huấn luyện cho Gestapo!. Bộ máy khủng bố của Liên Xô đã hoạt động được hai mươi năm trước khi Đức-quốc-Xã hình thành. Một phái đoàn của Gestapo và SS đến Liên-Xô để học cách xây dựng trại tập trung.. Các sĩ quan Liên-xô đã lần lượt đi đến Krakow lúc còn Đức-quốc-Xã chiếm đóng để gặp các đồng nghiệp SS. Các vấn đề Do Thái được đặt lên hàng đầu trong chương trình nghị sự. Các sĩ quan Liên-Xô sẽ phối hợp trục xuất người Do Thái với chuẩn tướng SS Otto Wachter, một trong những kiến trúc sư của Holocaust. Ông ta chuyển những người Do Thái tới các khu tập trung người Do Thái ở Krakow và sau đó tiêu diệt họ trong các phòng hơi ngạt.
Sự thực là Nga không còn phủ nhận việc Liên-Xô đã hợp tác với SS. Những cái mà họ vẫn phủ nhận là sự hợp tác dựa trên một văn bản thỏa thuận. . Nó được viết bằng tiếng Đức có chữ ky’ của Beria. Dịch từ tiếng Đức: “Reichsfuhrer SS, chánh văn phòng An Ninh Trung Ương: Berlin, 3 tháng 11, 1938 “Với giấy phép này, tôi ủy quyền cho Đại Tá SS Muller ky’ thỏa thuận hợp tác giữa NKVD và văn phòng An Ninh Trung Ương Đức tại Moscow. Chúng tôi mong đợi nhiều rằng thỏa thuận này sẽ củng cố nền hòa bình và an ninh giữa hai quốc gia của chúng ta”. Trung Tướng SS Heydrich. Đính kèm theo tài liệu Lavrenti Beria. Tài liệu này được một nhân viên lén lấy từ kho lưu trữ bí mật của tổng thống tại Moscow. Và nó đã xuất hiện trên truyền hình Nga. Sau đó, đoạn phim này đã biến mất khỏi kho lưu trữ truyền hình. Không giống những quan chức hiện tại của điện Kremlin, các cựu viên chức Liên-Xô cũ, những người có thể truy cập vào kho lưu trữ của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng (nay là khu lưu trữ Tổng Thống), công nhận sự tồn tại của bản thỏa thuận này.
Vladimir Karpov, cựu đại tá tình báo quân đội, hai lần danh hiệu Anh Hùng Liên-Xô, ủy viên Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên-Xô-cơ quan tối cao của Liên-xô. Chúng tôi đã phỏng vấn ông Karpov tại căn hộ của mình ở chung cư Kutuzov. Đại lộ số 26, Moscow. Tòa nhà này cũng la nơi ở của cựu giám đốc KGB-Andropov và nhà lãnh đạo Liên-Xô Leonid Brezhnev. Một thỏa thuận hợp tác bí mật đã được ky’ giữa KGB (NKVD lúc bấy giờ) và Gestapo. Tuy nhiên, Moscow không chấp nhận nó. Họ không thừa nhận bản chất tội ác của chế độ Xô-Viết. Bất kỳ tài liệu nào vạch trần bản chất đó thường được tuyên bố là giả mạo. Ví dụ như hiệp ước bí mật phân chia châu Âu. Điều thú vị là trong trường hợp này, một sử gia phương Tây đã ủng hộ sự phủ nhận của điện Kremlin. David Irving, người nổi tiếng với việc phủ nhận Holocaust. Nhưng tại sao ông ta lại phản đối tính xác thực của tài liệu này?. Chúng ta chỉ có thể đoán dựa vào đoạn trích dẫn sau trong văn bản thỏa thuận: “NKVD sẽ đề xuất với chính quyền Sô-Viết một chương trình giới hạn những người Do Thái làm việc trong các tổ chức chính phủ và cấm người Do Thái tham gia vào các hoạt động văn hóa và giáo dục. Ky’ bởi cục trưởng Cục An Ninh Quốc Gia thuộc Bộ Dân Ủy Nội Vụ Beria-đại diện chánh văn phòng An Ninh Trung Ương Đức Muller. Nghe có vẻ sốc. Nhưng thậm chí tệ hơn là ngày nay tại Nga, những việc làm của Stalin còn được hợp ly’ hóa nhiều hơn trước kia. Igor Radionov-cựu bộ trưởng quốc phòng Nga. Đây là một cuộc chiến thực sự. Một cuộc chiến chống chủ nghĩa Phát-xít Do Thái trong quốc gia của chúng ta.
Radionov chỉ là một trong nhiều người Nga ngày nay tin rằng việc ủng hộ và hỗ trợ Hitler trong cuộc chiến chống lại người Do Thái trong thập niên 30 thực sự là một cuộc chiến cao quy’ chống chủ nghĩa Phát-xít. Họ gọi đó là chủ nghĩa Phát-xít Do Thái ở Nga ngày nay.
Năm 1939, Stalin sa thải ngoại trưởng kỳ cựu Litvinov. Bởi vì Litvinov là một người Do Thái, điều này không hợp với việc ky’ kết bất kỳ một hiệp ước nào với Đức. Litvinov bị cách chức, lính và xe tăng của NKVD đã bao vây Bộ Ngoại Giao Liên-Xô và Stalin ra lệnh: “Dọn sạch cái giáo đường Do Thái này”. Không phải là một lời lẽ tốt đẹp lắm. Tưởng rằng chỉ Hitler mới nói như vậy. Nhưng Stalin cũng có thành kiến tương tự với người Do Thái.
Nhà lãnh đạo cộng sản lưu vong Trotsky đã cảnh báo về chủ nghĩa bài Do Thái của Stalin cũng như về sự thông đồng giữa Stalin và Hitler. Cảnh sát mật của Stalin (GPU) giờ đây tương đương với Gestapo của Đức-quốc-Xã. Những bài phát biểu thẳng thắn của ông đã trở nên nguy hiểm đối với điện Kremlin.
Trotsky biết rằng mỗi bài phát biểu của ông đều có thể là bài cuối cùng và hiểu rằng Stalin đang theo sát ông. Nhưng ngay cả trong cơn ác mộng tồi tệ nhất của mình, công cũng không thể tưởng tượng rằng ông sẽ chết một cách cực kỳ đau đớn.
Stalin đã gửi một điệp viên tới Mexico. Hắn ta lẻn vào nhà của Trotsky và đập đầu ông bằng một chiếc búa leo núi. Trotsky đã chiến đấu với tử thần trong hai ngày cho đến khi ông qua đời trong cơn đau khủng khiếp.
Trong thời gian Stalin lãnh đạo, những người chỉ trích điện Krmlin không hề được đối thoại, mà họ sẽ bị giết. Liên Bang Sô-Viết cũng như Đức-quốc-Xã không chỉ phạm tội mà còn có bản chất của một tập đoàn tội phạm. Để trở thành một thành viên trong Bộ Chính Trị của Stalin thì người đó phải có trách nhiệm giết người để được tin tưởng. Tương tự như một băng đảng tội phạm. Stalin hiếm khi ky’ các lệnh xử tử một mình. Các thành viên khác của Bộ Chình Trị cũng phải ky’ vào danh sách tử hình. Ngay cả những người sau đó lên án Stalin cũng chịu chung trách nhiệm về những vụ giết người hàng loạt. Những đồng chí đoàn kết với nhau vì một tội ác chung. Họ không có con đường nào khác ngoại trừ việc tiếp tục phạm tội ác.
Vào tháng 3 năm 1940, trong một khu rừng gần làng Katyn, 8 hố chôn người đã được đào. Xe tải chở nhiều người đến đây. Họ là sĩ quan dự bị của quân đội, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên người Ba Lan. Họ được ra lệnh bước xuống xe. Không ai được biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng tiếng ồn của xe tải làm người kiểm lâm thấy bất thường. Ông ta đã bị bắt giam trong 25 năm dưới một cái tên giả và không được liên lạc với thế giới bên ngoài. Họ có thể giết ông ta, nhưng không biết vì ly’ do gì họ chỉ giam ông ta. Có rất nhiều tài liệu về việc này. Vậy ông ta thấy những gì? Ông ta thấy các nhân viên NKVD giết người Ba Lan. Các nạn nhân bị đưa tới miệng hố. Và mỗi người bị bắn một phát vào gáy. Tay của họ bị trói chặt sau lưng. Họ bị bắt quì gần miệng hố để ngã luôn xuống hố sau khi chết. Bộ Chính Trị đã quyết định xử tử tất cả các tù nhân tại ba trại giam. Vụ thảm sát Katyn là vụ diệt chủng hàng loạt mang tầm vóc lớn đầu tiên trong Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Sau đó Đức-quốc-Xã tiếp tục việc này. Vụ thảm sát Katyn khởi đầu cho hàng loạt các vụ thảm sát “công nghiệp” và sớm đưa Thế Chiến thứ II thành cuộc tàn sát đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại.
Sau Katyn, Liên-Xô tiếp tục các cuộc thảm sát khác một cách thường xuyên. Riga, Tartu, Lviv, Minsk. Thân nhân thường không thể nhận diện được xác chết. Họ đã bị tra tấn dã man đến mức bị biến dạng hoàn toàn.
Trong khi đó, Liên-Xô đã trở thành một sức mạnh của phe Đồng Minh.
Các sĩ quan Liên-Xô từng nhổ móng tay, cắt lưỡi và đóng đinh vào sọ của nạn nhân...giờ lại được nhận lương từ tiền viện trợ của phương Tây. Luật tội phạm chiến tranh của Anh bảo đảm cho họ quyền miễn bị truy tố ở Anh. Bởi vì theo luật tội phạm chiến tranh chỉ có người Đức mới phạm tội ác này. Bạn muốn biết mục tiêu của chúng tôi là gì? Tôi có thể trả lời đơn giản: Chiến thắng! Chiến thắng bằng mọi giá!.
Suốt 60 năm qua, toàn bộ thế giới phương Tây chỉ tin rằng mọi tội ác chiến tranh đều do Đức-quốc-Xã gây ra. Rất khó để thay đổi quan điểm đó. Liệu châu Âu sẽ bao giờ có thể nhận ra những trang sử đầy tội ác này? Rất khó để trả lời câu hỏi này. Thảm sát là thảm sát. Không nên có sự phân biệt tùy thuộc ai là kẻ thủ phạm. Tuy nhiên sự phân biệt đó vẫn tồn tại. Các sĩ quan Sô-Viết đã được trao huân chương cho việc tiêu diệt 20,000 người tay không tấc sắt. Thiếu tá Soprunenko là người tiến hành việc xử tử tại Katyn được nhận Huân Chương Danh Dự. Và Serov, người sau này là thủ trưởng Cơ Quan KGB đã được nhận Huân Chương LeNin, huân chương nhà nước cao quy’ nhất cho việc bắn chết các sĩ quan Ba Lan. Hơn 27 triệu công dân Sô-Viết đã chết trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ II. Nhưng đảng cộng sản, luôn cố gắng giảm bớt con số này. Tại sao? Bởi vì chỉ có một phần nhỏ trong số họ bị giết bởi người Đức. Chúng ta phải nhớ rằng khi Hồng Quân ra trận, đi sau Hồng Quân là một đội quân thứ hai-NKVD với xe tăng riêng và súng máy nhắm bắn về phía trước để không ai có thể thối lui.
Viktor Baturin, Chủ Tịch Hội Quân Sử Nga, đã kể những câu chuyện ghê tởm trong quân đội Sô-Viết- Sau những trận đánh lớn, các đơn vị đặc biệt của NKVD lùng sục khắp chiến trường để thu hồi các thẻ bài của các binh lính Liên-Sô tử trận, để biến họ thành những kẻ vô danh. Không có quốc gia nào trên thế giới đối xử như thế với binh lính của mình. Vì chính sách ghê tởm của chính quyền Sô-Viết, hơn một triệu công dân Sô-Viết đã gia nhập phe Đức quốc Xã. Tôi thề sẽ tuân theo lệnh của Tổng Tư Lệnh Tối Cao Adolf Hitler. Họ phải quay lại chống đồng bào của mình. Những ai từ chối sẽ bị thẳng tay trừng trị bởi những kẻ thân Đức. Nếu như xung quanh chúng ta xuất hiện kẻ phiến loạn, chúng ta sẽ xử ly’ chúng không thương xót!.
Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại sắp kết thúc. Stalin đang ngự trị trên đỉnh cao của danh vọng, ông biết rằng không ai dám phán xét những người đã chiến thắng Hitler.
Vì vậy, khi kết thúc chiến tranh, ông ta tiếp tục phạm những tội ác khủng khiếp nhất. Stalin đã đày ải hoàn toàn hơn chục dân tộc! Kể cả trẻ em và người già, nam, nũ, thậm chí có cả đảng viên cộng sản. Họ bị đày tới Trung Á, Kazakhstan, Chechnya, Ingush, Kalmyk, Karachaevs và Crimeantatar. Cả chục nước Cộng Hòa trên đã bị xóa sổ hoàn toàn. Liên-Xô lưu đày các dân tộc với quy mô lớn tương tự như SS đã làm. Việc lưu đày này cực kỳ khủng khiếp, 60 đến 70 người bị nhồi vào những toa chở súc vật. Không có chỗ để đi vệ sinh, chỉ có một cái lỗ duy nhất trên sàn tàu. Họ bị nhồi chặt đến nỗi chỉ có thể đứng chứ không ngồi được.
Tại nhà ga, họ phải dọn dẹp hàng trăm xác chết ở trên tàu. Emmakorpa-người sống sót trong trại Cu-lắc-đã kể lại: “Sau đó chúng tôi kéo các xác chết trên xe trượt tuyết đến nghĩa trang. Lúc con trai tôi được kéo tới nơi, không có lính gác trực-trẻ em không bị cho là tù nhân nên chúng được chôn ở nghĩa trang dân sự. Còn tất cả chúng tôi chỉ được phép chôn trong đầm lầy. Khi một đứa trẻ khác chết, tôi cũng phải kéo nó đến đó. Và tôi mới có cơ hội thăm viếng mộ của con trai tôi lần cuối cùng”.
Tháng 5 năm 1945, lực lượng đồng minh đã đánh bại Hitler. Liên-Xô không hề phá hủy các trại tập trung của Đức-quốc-Xã vì họ tiếp tục sử dụng chúng sau chiến tranh. Các thỏa thuận mà Stalin đã ky’ kết với các nước phương Tây ảnh hưởng tới toàn bộ châu Âu trong 50 năm tiếp theo. Mặc dầu tội ác của hai chế độ độc tài tương tự như nhau, nhưng hậu quả chính trị của chúng sau chiến tranh hoàn toàn khác nhau. Số phận người dân Đông Âu và Tây Âu cũng rất khác nhau.
Liên-Xô đã chuyển một lượng lớn người Nga đến sống tại các nước vùng Baltic mà họ vừa chiếm đóng được. Đây rõ ràng là một vụ vi phạm Công Ước Geneva đã nghiêm cấm chuyển dân thường tới sống tại các nước hiếm đóng. Kremlin có chiến lược thanh tẩy sắc tộc trong vùng Baltic nhằm biến người Nga trở thành đa số trong những thành phố lớn vùng Baltic.
Trong khi đó người Estonia, Latvia và Litra bị đưa lên các toa tàu chở súc vật và bị đày tới Siberia. Các quốc gia Baltic nhỏ bé bị đưa tới bờ vực của sự tuyệt chủng. Lưu đày, xử tử và tra tấn đã trở thành thực tế hàng ngày cho hàng triệu người thời hậu chiến. Các trại tập trung nằm rải rác khắp Đông Âu đến tận Siberia. Tại đó, những thí nghiệm y tế khủng khiếp được tiến hành trên con người.
Trong trại Buturichaga ở Magaden, KGB đã sử dụng hàng ngàn tù nhân như chuột thí nghiệm trong các thí nghiệm với bộ não. Những tù nhân vẫn còn sống khi thí nghiệm được thực hiện.
Tất cả những việc này xảy ra sau khi Đức-quốc-Xã bại trận và các nạn nhân đều được tưởng niệm. Còn nạn nhân của các trại tử thần của Liên-Xô được chôn trong các ngôi mộ tập thể. Và chẳng có các đài tưởng niệm nào ở đây cả. Chỉ có đống giày của các nạn nhân bị giết, có cả giày của trẻ em.
Biết rằng không bị truy tố, KGB tiếp tục khủng bố dân chúng và tự do bộc lộ bản năng thú vật của họ. Rita Papina- người sống sót trong nạn khủng bố Sô-Viết: “Chúng tôi ra khỏi đó. Có một vũng máu lớn chúng tôi lấy máu cho vào một lọ thủy tinh. Bởi vì đó là máu của cha tôi. Tôi cảm thấy rất khó nói về chuyện này. Như thế là vết thương lòng của tôi đang rỉ máu lần nữa.”. Các sĩ quan KGB đã đánh đập và tra tấn phụ nữ liên tục trong 20 tiếng đồng hồ. Không phải ai cũng chịu đựng được. Veronika, vợ của Valtmans Ernests đã bị đánh đập và tra tấn bởi Dzintars và những đồng sự say mềm trong bốn ngày liền. Cuối cùng, bà ta đã treo cổ tự tử trong phòng giam của mình. Khi Liên-Xô sụp đổ, Dzintars đã chạy trốn về Nga. Điện Kremlin từ chối dẫn độ hắn và gọi hắn là cựu chiến binh danh dự. Dưới bàn tay của các cựu chiến binh KGB, Liên-Xô đã khủng bố và tra tấn những người dân vô tội. Họ là những người lính gác các trại tử thần, nơi hàng triệu người đã bị giết và hàng ngàn người được sử dụng trong các thí nghiệm y học khủng khiếp.
Nhiều cựu cai tù của các trại tử thần này vẫn còn sống. Không như các đồng nghiệp SS, họ tự hào về những gì mình đã làm. Họ tự hào về Liên-Xô, nhà nước cho phép họ làm những việc này. Cựu tổng thống (nay đương kim Thủ Tướng) Nga, ông Putin, đã nói: “Ta phải thừa nhận rằng sự sụp đổ của Liên Bang Sô-Viết là thảm họa chính trị lớn nhất của thế kỷ này”. Không ai muốn thừa nhận rằng cha ông của họ là tội phạm. Đó chính là vấn đề. Tôi nghĩ rằng nước Nga trong vai trò thừa kế của Liên-Xô có nghĩa vụ tiến hành điều tra toàn diện các tội ác và bản chất thật sự của chế độ Sô-Viết. Tôi nghĩ rằng cho đến nay họ không sẵn sàng hoặc không thể làm việc đó. Trong thời kỳ Gorbachev và Yeltsin ít nhất các tội ác của Liên-Xô đã không được công khai. Trong thời đại của Putin chúng ta lại thấy một ứng xử hoàn toàn khác. Với quan điểm rằng nước Nga hiện tại đang nối bước của Liên-Xô cũ và bắt kỳ công kích nào vào Liên-xô được xem là công kích vào nước Nga hiện tại.
Hình ảnh của nước Nga đã được tạo dựng rằng họ thuộc về một đế chế lớn. Khi đế chế ấy mất đi, họ cảm thấy như họ bị mất bản sắc của chính mình. Đây là cảm giác tự ti của nỗi nhục quốc gia đã tồn tại ở Đức sau khi Chiến Tranh Thế Giới thứ Nhất kết thúc và chúng tôi cũng có những cảm giác như vậy sau khi Liên-Xô sụp đổ. Đó là mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa Tân Phát-Xít.
Đừng quên, nước Nga bây giờ, không phải chỉ khoanh tay ngồi hối tiếc cho một thời đế quốc Liên Xô vùng vẫy dọc ngang, ngang dọc, mà như con hổ đang bị thương chờ hồi phục.
Tên bồi bút hạng nặng tại Hà Nội: nhà “đại thi hào” Tố Hữu, đã có những lời thơ não nùng, ai oán: “Ới ông Sít-ta-lin ơi!. Hỡi ơi! Ông chết đất trời biết không?. Thương cha, thương mẹ, thương chồng, Thương mình, thương một, thương ông thương mười” Hoặc: “Hoan hô Sít-ta-Lin, Đời đời công đại thọ. Sít-ta-Lin, Sít-ta-Lin, Yêu biết mấy nghe con tập nói, Tiếng đầu lòng con gọi Sít-ta-Lin”.
Những tên đồ đệ trung thành một cách tuyệt đối chủ nghĩa ngông cuồng của Marx, Engels và Stalin tại Hà Nội, đã thi hành giết chóc không gớm tay đồng bào ruột thịt của mình: Từ năm 1945-1957, chúng đã giết tầng lớp trí thức: 50000 người.
Cải cách ruộng đất trên đất Bắc: 10,303,004 người. Tết Mậu Thân (1968): 5800 người. Xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975: 10,000,000 người. Sở Công An Sài gòn đến cuối tháng 7 năm 1975 đã đẩy 154,772 quân nhân viên chức VNCH cũ vào các trại tập trung. Đến cuối tháng 10, cùng năm (1975), công an bắt thêm 68,037 người nữa. Cộng chung đến ngày 30 tháng 10 năm 1975, tổng số cựu quân nhân viên chức VNCH cũ, bị chúng giam giữ trong khoảng 200 trại tập trung trên toàn cõi Việt Nam là 222,809 người. Đến tháng 4 năm 1992 người cuối cùng mới ra khỏi trại tập trung. Trong 17 năm đó, ước lượng từ 8000 đến 10,000 tù chính trị bị chết do chính sách thù hận thâm độc của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Và hiện nay, chúng đang đối đầu với chánh sách bành trướng, một đồng chí thân thiết nhất, “môi hở, răng lạnh”: bọn thổ phỉ Trung Cộng. Bọn Rợ Hán này đang nắm trong tay sinh mạng của đám lãnh đạo hèn nhát và đã có kế hoạch để đồng hóa và tiêu diệt gần 90 triệu dân Việt trong những năm sắp tới đây.
Những quốc gia văn minh cần phải phát triển một chính sách thống nhất để chấm dứt những hành động thù nghịch của những nước gây hấn, bất kể họ là ai. Về vấn đề này, lịch sử có thể cống hiến những bài học giá trị. Chúng ta cần phải học những lỗi lầm của những người khác như Thượng Đế biết chúng ta không có thời giờ để lập lại tất cả những lỗi lầm như vậy. Trong khoảng thời gian giữa thập niên 1930, Adolph Hitler với sự trợ giúp của Heinrich Himmler, đã tiến hành một chiến dịch chống lại những người cấp tiến, Do Thái, những người theo chủ nghĩa xã hội, Cộng Sản, những người Gypsy, và những nhóm không được ưa chuộng khác. Một Âu châu thụ động đã theo đuổi một chính sách nhân nhượng vô nguyên tắc đối với Hitler với ý nghĩ rằng làm như vậy sẽ tránh được xung đột và chiến tranh. Không ai có một phản ứng nào cả khi Đức xâm chiếm vùng Saar [nằm ở khu vực biên giới giữa Đức và Pháp] vào năm 1935; hay vùng Rhineland [nằm ở khu vực biên giới giữa Đức, Bỉ, Luxembourg, và Hòa Lan] vào năm 1936, hoặc Áo và Tiệp Khắc vào năm 1938. Sau khi Đức xâm chiếm Ba Lan vào tháng 9, 1939, Thế Chiến Thứ Hai bắt đầu, hàng triệu người chết một cách vô ích bởi vì không ai có can đảm để ngăn chặn chế độ Nazi sau khi họ đồng hóa vùng Saar vào năm 1935.
Khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, những cường quốc quân sự ưu thế trên thế giới đã để cho Liên Bang Xô Viết xâm chiếm hoàn toàn một số quốc gia và tước đoạt quyền tự quyết của một số đông dân chúng tại Ba Lan, Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc, Lỗ Ma Ni, An Ba Ni, và tạo ra cả Đông Đức. Chính hoàn cảnh này đã gây ra chiến tranh lạnh. Hàng ngàn tỉ đô la đã được đổ vào những công nghệ quân sự thay vì dùng để khám phá ra những cách chữa trị những căn bệnh giết người, chấm dứt nạn đói trên thế giới, và những thứ tương tự.
Ngày nay, đang có một mối đe dọa giống như vậy có thể làm thế giới bất ổn. Nó không được biết đến nhiều như mưu đồ của Hitler hay Stalin, tuy nhiên cũng xảo quyệt, tính toán, và khôn vặt. Nguồn gốc của mối đe dọa này bắt nguồn từ phía đông của Vịnh Bắc Việt trong một vùng mà người Việt Nam và chính tôi gọi là Biển Đông. Dĩ nhiên, những người Trung Quốc gọi là Biển Nam Trung Quốc, suy cho cùng, họ là một kẻ mạnh ở trong vùng và trong cố gắng muốn viết lại lịch sử đã hăm dọa và tiêu diệt những ai chống lại sự thâu tóm quyền lực của họ.
Điều quan trọng không phải là Biển Đông có vào khoảng 30,000 hòn đảo và đá ngầm. Thâu tóm lại, Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Phi Luật Tân, Mã Lai, và Brunei đòi hỏi chủ quyền trên một số những mảnh đất nhỏ bé này. Vì những hòn đảo này nằm trong “Biển Nam Trung Quốc”, chúng đều phải thuộc Trung Quốc, bất kể đến lịch sử thật sự.
Những văn bản cổ của hai sử gia Trung Quốc Lĩnh Ngoại Đại Đáp (Ling Wai Da) và Chu Phan Chi (Zhu Fan Zhi) cho thấy rằng Hoàng Sa (Paracel Islands) và Trường Sa (Spratly Islands) nối kết với và là một phần của một vùng nay là Bắc Việt Nam. Sự kiện này đã được nhắc lại trong tài liệu của Thế Kỷ 17; bản đồ của vùng trong năm 1838; và bởi đế quốc tây phương Pháp qua triều đại nhà Nguyễn vào năm 1887 và 1933. Nhiều tài liệu tham khảo liên kết những đảo Hoàng Sa và Trường Sa với Việt Nam từ thời cổ. Khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, Trung Quốc toan tính chiếm đất ở Biển Đông, nhưng Tuyên Ngôn Cairo (Cairo Declaration) ủng hộ đòi hỏi chủ quyền của Việt Nam đối với những đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quan điểm này được xác nhận tại Hội Nghị San Francisco về Thỏa Hiệp Hòa Bình (San Francisco Conference on the Peace Treaty) với Nhật Bản vào năm 1951. Cho đến ngày hôm nay, Trung Quốc là một nước đã thành công nhiều nhất trong việc lùng kiếm để lấy thêm đất đai. Trung Quốc thôn tính Tây Tạng vào năm 1950; Trung Quốc hiện nay kiểm soát kinh đào Panama, Hồng Kông kể từ 1997 và Ma Cao 1999.
Vào năm 1988 không bị gây hấn Trung Quốc tự dưng tấn công vào đảo Trường Sa mang cờ Việt Nam. Đây là một hành động giết người có tính toán đáng lẽ làm sỉ nhục cả thế giới. Trên 64 người Việt bị giết chết một cách vô ích và một số khác bị mất tích vì cuộc xâm lăng trắng trợn. Cho đến nay, quân đội Trung Quốc tiếp tục thi hành chính sách quấy rối những thuyền đánh cá và nghiên cứu khoa học không phải của Trung Quốc tại Biển Đông. Gần đây, Trung Quốc đâm vào và đánh đắm những thuyền đánh cá của Việt Nam và bắt giữ toàn thể thủy thủ đoàn.
TNS John McCain đã tuyên bố công khai rằng ông không ủng hộ Trung Quốc trong việc đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông. Vào ngày 23 tháng 7, 2010, Bộ Trưởng Ngoại Giao Hillary Clinton đã đề nghị một giải pháp cho toàn vùng Biển Đông. Ngay sau đó, báo Manila Times đã tường thuật rằng Ngoại Trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì (Yang Jiechi) đã tuyên bố rằng “Việc mời Việt Nam tới Hoa Kỳ để dàn xếp (vấn đề Biển Đông) là một hành động tấn công vào Trung Quốc.” Đây là những lời nói bừa bãi của một kẻ xâm lăng du côn cốt để dọa dẫm kẻ yếu. Đây là Hitler của 1935. Đây là Stalin của 1945. Biển Đông không chỉ thuộc Trung Quốc và thế giới phải bảo đảm rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ kiểm soát tất cả các đường tiếp cận và tài nguyên của vùng này. Một sự nhân nhượng đối với kẻ xâm lăng côn đồ ngày hôm nay chắc chắn sẽ tạo ra một cuộc xung đột võ lực trong tương lai gần. Tất cả những quốc gia Đông Nam Á đang tích cực tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho vấn đề nan giải này không thể bị bức chế bởi một nước đang tìm cách bóp méo sự thật của lịch sử và sau đó sát hại để bảo vệ sự dối trá của họ.
Vì lợi ích của hòa bình thế giới, lương thiện, và công ly’ mà ngày nay thế giới cần làm điều phải và hổ trợ chủ quyền của Việt Nam đã được chứng minh bằng tài liệu đối với các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chúng ta bắt buộc không thể trở thành nạn nhân của những kẻ lạm dụng sức mạnh và đe dọa dùng bạo lực để đạt được mục tiêu chính trị đảng phái, trong khi đó những người yếu đuối là những kẻ phải chịu thiệt thòi như Hitler đã làm vào thập niên 1930 và Stalin trong thập niên 1940.
Đã hơn 36 năm qua, dân tộc Việt Nam đã trải qua những phân ly, chết chóc. Trên ba triệu người đã may mắn trốn thoát khỏi địa ngục trên dương thế và đang ở rải rác khắp nơi trên thế giới. Riêng tại Hoa Kỳ, đã có vào khoảng 1.6 triệu người Việt tỵ nạn. Trước khi tôi gửi đến bạn những thành quả vượt bực của con, cháu chúng ta trên những quốc gia tạm dung, tôi xin kể hầu bạn câu chuyện:
Ngựa tái ông: Điển tích Ngựa Tái Ông trong cổ văn có ghi: “Đắc mã thất mã nan tri họa phúc” (tức là: được ngựa mất ngựa chưa biết họa phúc ra sao).
Tái Ông là tên gọi tắt của Tái Thượng Ông, một ông lão ở cửa ải Nhạn Môn Quan, nơi giáp với phiên bang (Trung Quốc).
Tái Ông có một con ngựa lang bỗng nhiên đi mất. Người trong xóm được tin Tái Ông mất ngựa liền rủ nhau đến chia buồn.
Tái Ông tươi cười, vui vẻ đáp: “Mất ngựa chưa chắc là điều họa, biết đâu đó là chuyện may!?”.
Hàng xóm nghe nói rủ nhau ra về.
Vài ngày sau, con ngựa lang của Tái Ông lại trở về, dắt theo con ngựa cái khác.
Hàng xóm nghe Tái Ông được ngựa lại rủ nhau đến chúc mừng.
Tái Ông nói: “Được ngựa chưa chắc là may! Biết đâu đó là họa.
Hàng xóm nghe nói lại rủ nhau về.
Tái Ông có người con trai, tuổi vừa thành niên, tánh ham chơi, bỗng nhiên có con ngựa mới, con ngựa này rất hay, nên người con trai Tái Ông thích lắm, ngày nào cũng cưỡi vào rừng săn nai, đuổi thỏ.
Chẳng may, một hôm rủi ro, con trai Tái Ông bị té ngựa gãy tay. Tin đồn khắp nơi, hàng xóm lại chia buồn và nói: “Chà! Kỳ này lão ông rủi ro quá! Con trai gãy tay thật đau xót”.
Tái Ông nói: “Con trai tôi gãy tay chưa chắc đó là họa. Biết đâu lại là chuyện may”.
Chẳng bao lâu trong nước có giặc, nhà vua ra hịch truyền thanh niên đến tuổi thành niên phải đi lính. Con trai Tái Ông vì bị gãy tay nên được miễn. Kỳ tuyển binh đó nhiều thanh niên bị tử vong, trong lúc con trai của Tái Ông được ở nhà, phụng dưỡng cha già rất hiếu thảo.
Câu chuyện ngựa Tái Ông là điển tích người đời sau thường dùng để nói lên việc họa phúc trong đời người không biết đâu mà lường trước được.
Trong một bài thơ của cụ Huỳnh-thúc-Kháng có nói đến tích Ngựa Tái Ông: “Kìa tụ tán chẳng qua là tiễn biệt, Ngựa Tái Ông họa phúc biết về đâu”.
Đã hơn 36 năm, dân tộc Việt Nam đã chịu thống khổ đọa đày dưới sự thống trị của một tập đoàn bán nước. Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước chỉ có thể được bảo toàn bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, chứ không một ai, một cá nhân nào có thể lo nổi. Đảng và Nhà Nước có trách nhiệm nhưng không thể chỉ có Đảng và Nhà Nước lo. Nói như vậy là xóa bỏ trách nhiệm công dân, tạo nên khoảng cách xa vời giữa nhân dân với Đảng và Nhà Nước; vô hình chung phá vỡ sức mạnh dân tộc, xói mòn lòng yêu nước.
Hãy để cho nguồn sức mạnh ấy được phát huy, được lan tỏa từ mỗi con người, mỗi góc phố, mỗi xóm làng trên khắp đất nước Việt Nam thân yêu. Có như thế, chúng ta mới bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ đất nước và chủ quyền dân tộc.
Cũng nhờ cuộc đổi đời cay nghiệt 30 tháng 4 năm 1975, dân tộc Việt Nam cả ba miền, mới thấy rõ bộ mặt thật của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Một hình ảnh nổi bậc trong đoàn biểu tình chống Trung Cộng vào ngày 24 tháng Bảy năm 2011 vừa qua tại Hà Nội: Anh thư Trịnh Kim Tiến- tiêu biểu cho giới trẻ Việt Nam ở quốc nội- đã tạm gác thù cha, xuống đường cùng đồng bào Hà Nội biểu tình phản đối Trung Quốc. Đây là lần thứ năm cô tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội.
Tại hải ngoại, con em của chúng ta đã thành công vượt bực trên mọi lãnh vực.
Ước vọng của tôi là: một ngày nào đó bọn thổ phỉ Trung Cộng và bè lũ bán nước Việt cộng sẽ bị xé ra từng mảnh. Tôi nghĩ đây cũng là ước vọng chung của tất cả mọi người yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
(Đa tạ những văn nhân, dịch giả…có những đoạn trích đăng trong bài sưu tầm này. MCN)
Mây-cao-Nguyên
(Canada-Tháng 7 năm 2011)

--
Trước


No comments:

Post a Comment