Pages

Monday, October 24, 2011

TS. NGUYỄN PHÚC LIÊN * TÀI CHÁNH

Sunday, October 23, 2011



PHONG TRÀO “BẤT BÌNH“

ĐỐI VỚI GIỚI TÀI CHÁNH

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 20.10.2011

Web: http://VietTUDAN.net

Hoa kỳ và Liên Aâu sống giữa hai cuộc Khủng hoảng Tài chánh/ Kinh tế năm 2008 và năm 2011. Năm 2008, Khủng hoảng bắt nguồn từ NỢ TƯ làm cho các Thị trường Chứng khoán hỗn loạn. Năm 2011, Khủng hoảng bắt đầu bằng NỢ CÔNG làm cho các Thị trường Chứng khoán đảo điên. Giới Tài chánh bao gồm những Ngân Hàng, những Tổ chức Vốn, những Bảo Hiểm liên hệ làm ăn ở những Thị trường Chứng khoán.

Tại Hoa kỳ cũng như tại Liên Aâu, Phong trào, phần lớn thuộc thành phần Trẻ, tụ lại tại những nơi tượng trưng cho hoạt động thuần túy về Tiền bạc để tỏ sự BẤT BÌNH đối với giới cầm VỐN làm ăn chính yếu ở các Thị trường Chứng khoán.

Chúng tôi đề cập tóm tắt hai khía cạnh sau đây liên quan đến Phong trào “BẤT BÌNH“ này:

=> Phong trào tại Hoa kỳ và Aâu châu diễn tiến ra sao

=> Mục đích của Phong trào đòi hỏi gì và Lý do tại sao bất bình

Phong trào tại Hoa kỳ và Aâu châu

Diễn tiến ra sao

Phong trào bắt đầu từ Hoa kỳ và cụ thể hơn là từ New York bằng chiếm cứ “Wall Street“, được gọi là “OCCUPY WALL STREET”. Từ New York, Phong trào đang lan ra một số các Tiểu bang khác. Tại Aâu châu, Phong trào cũng chiếm cứ các công viên ở những thành phố gọi là “Địa điểm Tài chánh “ (Places Financìeres) như Luân Đôn, Francfort, Rome, Madrid, Zurich, Geneve.

Bản Tin mới nhất về Phong trào tại Hoa kỳ như sau:

“67% Dân New York: Đồng Ý Với Occupy Wall Street

NEW YORK - Với xung lực hậu thuẫn gia tăng ở mức toàn cầu, phong trào Occupy Wall Street tiếp tục biểu tình qua tháng thứ nhì.

Dù bị chỉ trích về chính trị và bị cảnh sát bắt, phong trào không tỏ ra dấu hiệu mất sức. Tình nguyện viên đang phân lọai vật phẩm hiến tặng tại nhà kho do Liên Đoàn Giáo Chức cung cấp gần công viên Zuccotti ở Lower Manhattan - các kệ trong kho chất đầy quần áo, mền, thực phẩm đóng hộp và chip khoai tây.

Thứ Ba 18-10 là ngày thứ 32 của Occupy Wall Street. Gần như không có lãnh đạo, lý tưởng mơ hồ, phong trào đã đứng vững lâu dài hơn dự đoán của nhiều người.

Giáo sư Michael Heaney phụ trách khoa chính trị của trường đại học Michigan cảm thấy ngạc nhiên về sự tồn tại của Occupy mà ông nói là chưa thấy tiền lệ. Trong lúc đoàn biểu tình nêu ra nhiều vấn đề, chủ đề vẫn là khuynh huớng thủ lợi của doanh nghiệp và của các nhà chuyên nghiệp về tài chính, về chính trị. Tại miền bắc California, đôi khi đề tài khác giành ưu thế, như chống can thiệp tại Iraq và Afghanistan.

Mặt khác, cuộc khảo sát của trường đại học Quinnipac cho hay 67% công chúng tại thành phố New York đồng ý với các quan điểm của Occupy.

1 nghi vấn tại Hoa Kỳ vào lúc này là liệu Occupy sẽ trở thành đối trọng cấp tiến với Tea Party hay không. Theo giáo sư Heaney, 1 phần tạo thành Occupy là phản ứng trước cuộc thương lượng về giới hạn nợ công vài tháng trước.

Cho tới nay, Tea Party chú trọng vào công tác tổ chức, với các nhà tranh đấu muốn vận dụng các chiến luợc truyền thống gồm vận động hành lang và hậu thuẫn các chính khách tranh cử chức vụ dân cử. Các phần tử vô chính phủ trong buổi đầu của Occupy không có kinh nghiệm và cũng không định làm những việc ấy.”

Tại Aâu châu, Nhật báo LE TEMPS (Thụy sĩ) ngày 17.10.2011, trang 4, viết tóm lược:

“Le mouvement des Indignés contre la crise et la finance mondiale, qui a pris samedi une dimension planétaire avec les dizaines de milliers de manifestants à travers le monde, s’est prolongé dimanche en Allemagne, au Royaume-Uni et aux Pays-Bas. Cette volonté de poursuivre le mouvement un deuxìeme jour consécutif s’est traduite par par un campement sauvage à Londres au coeur de la Cité. Une même intention s’est exprimée à Francfort, òu près de 200 personnes campent dans les tentes devant le sìege de la Banque Centrale Européenne.”

(Phong trào những người Bất bình đối với Khủng hoảng và với tài chánh Thế giới đã lấy hôm thứ Bảy một tầm mức toàn cầu với từng chục ngàn người biểu tình khắp Thế giới, còn tiếp tục ngày Chủ nhật ở Đức, ở Anh quốc và ở Hòa Lan. Cái ý chí tiếp tục Phong trào ngày thứ hai nữa liên tiếp buộc phải cắm trại tại chỗ ở chính trung tâm thành phố Luân Đôn. Cùng một ý hướng này tại Francfort, có gần 200 người cố thủ tụ trì trong những lều trước Tòa nhà chính của Ngân Hàng Trung ương Aâu châu.)

Tờ báo cũng cho biết riêng tại Thụy sĩ: 1000 người biểu tình tại Zurich, 200 người tại Geneve.

Mục đích của Phong trào đòi hỏi gì

và Lý do tại sao bất bình

Cho đến nay, Phong trào vẫn mang tính tự phát, chưa có tổ chức quy mô và cũng chưa nêu ra những đòi hỏ rõ rệt. Tuy nhiên, những nhà phân tích có thể nhìn thấy rằng đây là những người phần lớn là trẻ và có những ưu tư về tương lai công ăn việc làm trong tình trạng hiện tại thất nghiệp mỗi ngày mỗi tăng, nhất là cho tầng lớp trẻ. Nếu Phong trào tiếp tục nữa, người ta sẽ nhìn thấy những đòi hỏi rõ rệt hơn.

Riêng về Lý do tại sao bất bình, thì Phong trào đã nói rõ, đó là sự bất bình đối với Giới Tài chánh gồm những Ngân Hàng, những Tổ chức Vốn và những hãng Bảo Hiểm. Giới này cầm đồng VỐN (TIỀN) để tạo ra những Sản phẩm Tài chánh buôn bán với nhau ở những Thị Trường Chứng Khoán xa với đời sống Kinh tế thực. Trong nhiều năm gần đây, người ta gọi giới Tài chánh bằng tiếng Kỹ nghệ Tài chánh (Industries Financìeres) tách ra khỏi Kỹ nghệ sản xuất hàng hóa hay dịch vụ thực (Industries productives des Biens et des Services réels) của Kinh tế. Kỹ nghệ Tài chánh thu vào được LỢI NHUẬN rất cao và nhanh chóng trong phạm vi một số người hạn hẹp, trong khi ấy Kỹ nghệ Sản xuất thu vào LỢI NHUẬN thấp và với thời gian dài hơn nhiều và cho số đông quần chúng tham dự. Hoạt động Tài chánh mang tính “siêu hình“ bí hiểm ít kiểm soát được, trong khi ấy hoạt động sản xuất là cụ thể trước mặt mọi người để có thể nhìn rõ.

Chúng tôi có nhiều năm làm việc trong lãnh vực Tài chánh ở ngành đầu tư với Lợi Nhuận cao (High Yield Investment/ Private Placement Programs) với Thị trường Chứng khoán, nên có lẽ dễ hiểu lý do bất bình hiện giờ của Phong trào. Chính chúng tôi đã có những bất bình trong Lãnh vực Tài chánh này. Chúng tôi xin trình bầy cái kinh nghiệm bất bình của mình trước khi phân tích Lý do BẤT BÌNH của Phong trào lúc này.

* Rút ngắn Chu trình khai thác (Cycle d’Exploitation)

Ngân Hàng, Tổ chức Tài chánh, Bảo Hiểm giữ Tiền tiết kiệm của quần chúng. Khi quần chúng đem tiền đến gửi, họ chỉ cho Lãi suất hàng năm thấp. Nhưng họ sử dụng những số tiền gửi ấy để đầu tư, họ có thể lấy vào tiền lời hàng giờ, nghĩa tổng cộng lại LỢI NHUẬN họ thu vào rất cao hàng năm. Lợi nhuận là số thặng dư thâu vào được sau một Chu trình khai thác (Cycle d’Exploitation). Ơû Lãnh vực Kinh tế thực, Chu trình khai thác phải có thời gian dài mới hoàn tất. Tỉ dụ để sản xuất xong một cái bàn, phải mất tối thiểu 3 ngày chẳng hạn, rồi phải đem ra chợ bán. Bán xong rồi mới thấy Lợi nhuận hiện ra. Trong khi ấy, Chu trình của một thương vụ Tài chánh tại Thị trường Chứng khoán có thể ký xong trong 15 phút và chuyển đi. Chu trình càng được thu ngắn lại với truyền thông điện tử.

* Nhân vốn đầu tư lên bằng phát hành tiền tương lai (Monnaie virtuelle)

Số tiền mà quần chúng đem gửi ở giới Tài chánh sẽ làm căn bản để giới Tài chánh nhân lên bằng phát hành Tiền tương lai. Tỉ dụ Ngân Hàng chỉ có Tiền mặt 20%, họ phát hành Bảo Lãnh lên 100% và họ đầu tư bằng loại vốn tương lai này.

* Giới Tài chánh trọng giầu khinh nghèo

Khi chúng tôi làm việc về cung cấp vốn cho những Dự án (Project Funding), cái khó khăn cho những Dự án nhỏ và Chủ dự án trẻ, nghèo là tờ Bảo Lãnh Ngân Hàng. Năm 2001, chúng tôi đã phải cố gắng kết hợp giữa Đầu Tư Lợi Nhuận Cao để có thể cung cấp Vốn bằng Lợi nhuận cho những Dự án của những người trẻ còn nghèo. Chúng tôi gọi đó là Phương Pháp Cho Vay Hỗ trợ (Sustained Loan Method ) sau khi làm việc trong gần hai tháng tại Nassau, Bahamas, với Off-shore Funds. Chính chúng tôi đã viết bằng tiếng Anh năm 2001 như sau cho những Chủ dự án trẻ:

“During years of works in Project Financing, we observed that Prime Banks prefer to provide Funds to Great Companies in rich Countries and that when a young and poor Entrepreneurs go to Banks, requesting funds to their excellent Projects, the Banks ask them if they can provide a Prime Bank Guarantee.

How a poor young man can provide such a Prime Bank Guarantee ? There will be no loan to him for his excellent Project ! How poor Countries can develop their economic Projects when the Bank Guarantees issued by their Central Banks are not accepted or difficultly acceptable with very low price ?

Our main efforts were in search of Methods sustaining loans to the above poor Countries and to the above young and poor Entrepreneurs. We were thinking of the combination of financial possibilities such as the Leasing Bank Guarantees, the motivation of Assets and the Private Placement in High Yield Investment Programs “.

Những kinh nghiệm của chúng tôi với giới Tài chánh giúp chúng tôi hiểu những nỗi BẤT BÌNH của Phong trào hiện nay, nhất là giới trẻ đang lo sợ thất nghiệp, ở những điểm sau đây:

=> Giới Tài chánh (Ngân Hàng, Tổ chức Vốn và Bảo Hiểm) giữ Tiết kiệm của quần chúng và chỉ cho Lãi suất hàng năm thấp. Họ nhân số vốn ấy lên gấp nhiều lần bằng phát hành Tiền tương lai để đầu tư trong những thương vụ tài chánh ở các Thị trường Chứng khoán với Chu trình thực hiện kiếm Lợi nhuận rất nhanh. Lợi nhuận tổng cộng của họ rất cao như “Tiền đẻ ra Tiền “. Chúng tôi đã viết cách đây 12 năm về Tỉ dụ Oâng Chà Già cho vay ở góc Chợ Bến Thành và thu lời vào mỗi ngày để Lợi nhuận hàng năm lên tới 500%.

=> Lợi nhuận của giới Tài chánh thu vào rất cao, nhưng họ đã giúp rất ít cho việc làm giảm thất nghiệp ở Lãnh vực Kinh tế Sản xuất thực. Ở Lãnh vực này, chính những Công ty nhỏ và trung bình (Petites et moyennes Entreprises) mới tạo nhiều công ăn việc làm, còn những đại Công ty Liên quốc gia thì sử dụng máy móc nhiều hơn là nhân công hoặc là mang nhà máy sang Tầu để khai thác nhân công rẻ mạt. Giới Tài chánh lại thích cho những đại Công ty vay vốn hơn là cho những Công ty nhỏ và trung bình vì họ sợ những Công ty này khó khăn hoàn lại vốn.

=> Hai cuộc Khủng hoảng 2008 và 2011 bắt đầu từ giới Tài chánh (Ngân Hàng, Tổ chức Vốn và Bảo Hiểm) và hiện ra hỗn loạn ở các Thị trường Chứng Khoán. Khi giới Tài chánh bị hoạn nạn bởi Khủng hoảng, thì các Nhà Nước lại lo cứu vớt họ với những lượng tiền lớn. Aûnh hưởng việc cứu vớt giới Tài chánh này đẩy đến việc thắt lưng buộc bụng của quần chúng và tăng thuế mà quần chúng phải chịu. Giới Tài chánh giầu có, thu vào Lợi nhuận cao và cất kỹ. Đến khi họ gặp hoạn nạn thì có Nhà Nước cứu mà ảnh hưởng có thể lại đổ lên đầu quần chúng đang thất nghiệp.

Đó là những Lý do khiến quần chúng, nhất là giới trẻ BẤT BÌNH và đang xuống đường chiếm Wall Street hay những địa điểm Tài chánh hiện nay.

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 20.10.2011

Web: http://VietTUDAN.net

VAI TRÒ DOLLAR QUAN TRỌNG

DO ĐỒNG THUẬN QUỐC TẾ

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 20.10.2011.

Web: http://VietTUDAN.net

Từ khi cuộc Khủng hoảng Tài chánh/ Kinh tế Thế giới năm 2008 lan tràn mà nguồn gốc là Tín dụng rởm Địa ốc (Sub-Prime Mortgage Credit) từ Hoa kỳ, một số Chính quyền đã đặt ra vấn đề Ngai vàng Độc tôn Dollar từ Hội Nghị Bretton Woods 1944 đến nay. Thậm chí Trung quốc muốn thay thế đồng Dollar bằng một đồng Tiền quốc tế nào đó phát xuất từ IMF/FMI (Quỹ Tiền Tệ Quốc tế). Một số Chính quyền cũng hùa theo.

Năm nay 2011, Hoa kỳ và Liên Au lại trải qua một cuộc Khủng hoảng Tài chánh nữa: NỢ CÔNG (Sovereign Debt) chất chồng tại Mỹ và nhiều nước thuộc Liên Au. Mấy tháng trước đây, khi Tín dụng Hoa kỳ lần đầu tiên bị mất cấp bậc AAA, tôi xem Đài Truyền Hình Thụy sĩ TRS1 và thấy một bình luận gia gốc Hy Lạp nói rằng Dollar sẽ mất vị trí độc tôn và thêm rằng trong tương lai gần có lẽ phải thay thế vào đó đồng YUAN của Trung quốc ! Nghe và thấy chói tai nghịch lý bởi lẽ Tiết kiệm là Tư hữu tích lũy trong thời gian lâu dài dưới dạng một đồng Tiền, nên đồng Tiền ấy tối thiểu phải là đồng Tiền TỰ DO tôn trọng Tư hữu, đó là đồng Dollar, đồng Euro, đồng Yen hay đồng Franc Thụy sĩ. Nếu thay vào đó bằng đồng Yuan ĐỘC TÀI quyết định tùy ý bởi một Nhà Nước độc tài, thì bố ai dám tích lũy Tư hữu của mình bằng đồng tiền độc tài này để rồi Nhà Nước độc tài kia quyết phá giá làm tiêu tan tài sản tư hữu của mình.

Hôm nay, tôi lại đọc trên Diễn Đàn thấy một bài do một Tiến sĩ Luật sư viết và trình bầy đồng Dollar như một phương tiện áp đặt thống trị, bành trướng của Hoa kỳ lên các nước khác trên Thế giới. Thâm chí Tiến sĩ Luật sư ấy còn coi đồng Dollar từ Hội Nghị Bretton Woods 1944 như nguyên nhân của chiến tranh Irak và cái cớ can thiệp quân sự của Hoa kỳ vào Cách mạng Hoa nhài ở Bắc Phi và Trung Đông. Tôi nhớ lải lời công kích của STALINE đối với đồng Dollar: “IMPERIALISME DU DOLLAR “!

Hoa kỳ không độc đoán ấn định Dollar

như “Impérialisme du Dollar“

Đọc bài viết của Tiến sĩ Luật sư mà tôi nói ở phần mở đầu làm lý do để tôi viết bài này như góp ý, tôi cảm tưởng Mỹ đã quá lợi dụng đồng Dollar như một phương tiện thống trị Thế giới, thậm chí như nguyên cớ để làm những cuộc chiến tranh từ Irak cho đến can thiệp quân sự tại những quốc gia Bắc phi và Trung Đông hiện nay. Nếu như vậy, thì lời công kích “Impérialisme du Dollar“ của Staline là đúng.

Thực ra Hội Nghị Bretton-Woods năm 1944 là thiện ý của Hoa kỳ và đồng Dollar được Quốc tế hóa làm phương tiện thanh trả thương mại quốc tế là do các Quốc gia khác chấp nhận chứ không hẳn là Hoa kỳ ấn định Tiền tệ của mình một cách độc đoán theo công kích của Staline.

Năm 1944, cuối Thế chiến thứ II, các đồng Tiền mỗi nước Âu châu đều ở trong chế độ Bản Vị Vàng (Régime ETALON-OR) cũng như đồng Dollar. Tỷ giá giữa các đồng Tiền được định theo lượng Vàng mà mỗi nước có toàn quyền quyết định một cách độc lập:

Tỉ dụ:

FF.1.- = 10 gr.or fin (FF : Franc Francais )

DM.1.- = 20 gr.or fin (DM : Đức Mã)

Tỷ giá hai đồng Tiền được thiết lập mà không cần qua trung gian đồng Dollar :

20 gr.or fin

DM.1.- = -------------- = FF.2.-

10 gr.or fin

Nhưng Thế chiến thứ II đã làm cho các đồng Tiền Au châu mất hết Vàng bảo chứng cho Tiền tệ. Chỉ có hai đồng Tiền còn Vàng làm bảo chứng, đó là đồng Dollar và đồng FS (Franc Suisse). Chính vì vậy, Hội Nghị Bretton-Woods 1944 là một thiện ý của Hoa kỳ vẫn giữ chế độ Tiền tệ Bản Vị Vàng (Etalon-OR) với Cải Cách là sử dụng đồng Tiền nào còn Vàng bảo chứng để làm trung gian thiết lập Tỷ giá giữa hai đồng Tiền khác. Staline không thể kết án Mỹ là « Impérialisme du Dollar « vì Mỹ để tự do mỗi Quốc gia chọn trung gian là đồng Dollar hay đồng Franc Thụy sĩ vì hai đồng Tiền này còn Vàng bảo chứng. Chế độ Tiền tệ Cải cách này được gọi là « Régime Etalon-DEVISE-Or «. Tiếng DEVISE này có thể là Dollar hay Franc Suisse, nghĩa là « Régime-DOLLAR-Or « hay « Régime-FRANC SUISSE-Or« .

Tỉ dụ :

USD.1.- có 40 gr.Or.fin làm bảo chứng, FS.1.- có 20 gr.Or.fin làm bảo chứng. Hai đồng Tiền này có Vàng làm bảo chứng. Còn những đồng Tiền không có Vàng bảo chứng nữa, thì phải định nghĩa tương đương với hai đồng Tiền còn Vàng.

Tỉ dụ :

FF.1.- = USD.0.20 hoặc FF.1.- = FS.0.10

DM.1- = USD.0.30 hoặc DM.1.- = FS.0.15

Tỷ giá giữa DM và FF sẽ là :

USD.0.30 FS.0.15

DM.1.- = ------------ = ---------- = FF.1.5

USD.0.20 FS.0.10

Lấy đồng Dollar hoặc Franc Suisse là trung gian vì Dollar hoặc Franc Suisse còn Vàng bảo chứng, như vậy Tỷ giá giữa Franc Pháp và Đức Mã không trôi nổi vì có lượng Vàng cố định qua Dollar hoặc qua Franc Suisse cầm cương. Chế độ Bản Vị Cải cách này « Régime Etalon-DEVISE-Or« từ Hội Nghị Bretton Woods năm 1944 cũng quy định rằng những đồng Tiền còn Vàng bảo chứng và được chọn làm trung gian phải tôn trọng « CONVERTIBILITE «, nghĩa là những đồng Tiền ấy có thể chuyển thành cân lượng Vàng.

Đồng Tiền Franc Suisse có thể đứng ở vị trí trung gian như Dollar để cầm cương cho Tỷ giá giữa hai đồng Tiền khác. Nhưng Thụy sĩ quá nhỏ nên không có khả năng bao trùm lượng tiền trung gian khắp Thế giới. Chính vì vậy các nước khác chọn đồng Dollar chứ không phải Hoa kỳ độc đoán ấn định để Staline công kích là « Impérialisme du Dollar « .

Sau Thế chiến thứ II, Au châu được tái thiết với Chương trình MARSHALL USD.173 Tỉ. Au châu bắt đầu nối lại Thương mại với các cựu Thuộc địa. Thậm chí Pháp còn mang quân đội tái chiếm Đông Dương để đặt ách thống trị trong khi ấy Ong được mệnh danh là « Người Giải Phóng « (Libérateur) Pháp khỏi ách thống trị Đức ! Khi Thương mại với các cựu Thuộc địa phát triển, những nước Au châu lại yêu cầu người mua hàng phải trả bằng đồng Dollar. Đây cũng không phải Hoa kỳ bắt buộc các nước mua hàng phải thanh toán bằng Dollar mà chính các nước Au châu yêu cầu việc thanh trả bằng Dollar.

Thời kỳ sử dụng « Máy Hơi nước « (Machines à Vapeur) trong kỹ nghệ và vận tải, người ta khai thác Năng lượng Than đá. Nhưng sau Thế chiến thứ hai, đó là Thời kỳ « Máy Nổ « (Machines à Explosion ) khiến việc khai thác Năng lượng Dầu lửa bùng nổ mạnh.

Au châu phát triển và bán hàng cho các cựu thuộc địa, đã thâu vào được khối lượng Dollar lớn cho mình. Khối lượng Dollar tồn trữ tại Aâu châu được gọi là EURO-DOLLAR. Các nước A-rập bán dầu lửa cũng thâu vào được khối lượng Dollar khổng lồ gọi là PETRO-DOLLAR.

Vào những thập niên 70, có hai biến cố xẩy ra chống lại Hoa kỳ khiến có hai cuộc tiểu chiến tranh Tiền tệ :

* TT. De GAULLES muốn đi hai hàng : chơi với Khối Cộng sản, nên đã bỏ NATO/ OTAN và yêu cầu Mỹ phải chở Vàng sang đổi lấy Euro-Dollar. Làm như vậy để hài lòng Mạc Tư Khoa.

* Khối A-rập, vì Hoa kỳ ủng hộ Do Thái trong chiến tranh 1967, nên muốn phản ứng lại là yêu cầu Hoa kỳ chở Vàng sang đổi lấy Pétro-Dollar.

Cả hai cuộc tiểu chiến tranh Tiền tệ này đều dựa trên khẳng định « CONVERTIBILITE « của Dollar lấy Vàng từ Hội Nghị Bretton-Woods. Nhưng làm sao Hoa kỳ có đủ lượng Vàng theo định nghĩa từ năm 1944 để chở sang Pháp và cho Khối A-rập ! Chính vì vậy mà năm 1971, TT. NIXON tuyên bố bỏ Chế độ Bản Vị « Etalon-Devise (Dollar)-Or«, không chấp nhận vấn đề Chuyển đổi Dollar sang Vàng nữa (Convertibilité). TT. NIXON đã trả lời TT.De GAULLES bằng một câu bất hủ : « Đồng Dollar là Tiền của nước Mỹ, còn nếu đồng Tiền của nước ông có những vấn đề, thì đó là những vấn đề của nước ông « !

Tỷ giá Tiền tệ bắt đầu Trôi Nổi (Flottant) vì không có Vàng bảo chứng cầm cương. Tiền tệ Thế giới đi vào Chế độ Bản Vị Tương đương Hàng hóa (Régime du Pouvoir d’Achat) tùy thuộc Kinh tế mỗi nước khi lên khi xuống. Tiền tệ của một nước vững khi nền Kinh tế của nước đó vững. Kinh tế Hoa kỳ vẫn vững, nên đồng Dollar vẫn vững dù không cần Vàng bảo chứng.

Trong Chế độ Bản Vị lấy Vàng bảo chứng Régime Etalon-Or hay Etalon-Devise-Or, đồng Dollar đã được cả Thế giới sử dụng trong thanh toán Thương mại. Bây giờ trong Chế độ Régime du Pouvoir d’Achat, đồng Dollar vẫn vững và được Thế giới sử dụng vì Kinh tế Hoa kỳ vững.

Đồng Dollar vững và phổ quát, nên các nước chọn Dự trữ Tiền tệ chính là đồng Dollar trong các Ngân Hàng. Hoa kỳ không bao giờ bắt buộc một Quốc gia phải chọn đồng Dollar làm Tiền Dự trữ. Tỉ dụ Việt Nam có toàn quyền quyết định chọn đồng Yuan độc tài của Chệt làm Tiền Dự trữ, nhưng nếu Bắc Kinh độc đoán quyết định cho gía trị của đồng Yuan sau này, thì Việt Nam ráng mà chịu. Ngay cả Tầu cũng không tin tưởng vào đồng Yuan độc tài, mà phải chọn Dollar làm Tiền Dự trữ.

Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (FMI/IMF)

Quỹ này được lập ra từ Hội Nghị Bretton-Woods 1944 với mục đích là hỗ trợ Tiền tệ cho những Hội viên (Quốc gia) khi đồng Tiền của quốc gia này chao động và yếu xuống. Có thể gọi đó là một thứ Quỹ Tương tế Tiền tệ (Caisse d’Entraide Monétaire) giữa các Hội viên. Mỗi nước tùy khả năng đóng góp vào Quỹ. Hoa kỳ đóng góp tới 70%. Đây cũng là thiện chí của Hoa kỳ.

Sau đó, số Hội viên của Quỹ tăng lên. Trong số những Hội viên, có những nước không đóng góp, mà chỉ nhằm xin hỗ trợ. Nếu xin vay, thì một số nước Hội viên nhỏ này cũng quỵt nợ luôn. Một số nước nhỏ Hội viên thuộc Nam Mỹ hoặc Phi châu, khi nhận được Xe xúc Tuyết từ Liên Xô để hốt tuyết tại Sa mạc Sahara, thì lớn tiếng ca tụng tình hữu nghị đồng chí Liên Xô, trong khi ấy lại muốn nhận được Tiền giúp đỡ từ Quỹ IMF/FMI mà Hoa kỳ đóng góp tới 70%, thì lại theo tuyên truyền « Cách Mạng Giải Phóng « chống lại Hoa kỳ « Impérialisme du Dollar« , nên Hoa kỳ khó chịu đóng tiền ít đi vào cho Quỹ.

Ý tưởng Quỹ giúp Phát triển Kinh tế các nước kém mở mang chưa có từ lúc ban đầu ở Hội Nghị Bretton-Woods 1944.

Nếu viết về đồng Dollar và Hội Nghị Bretton-Woods 1944 trong ý tưởng « Impérialisme du Dollar « mà Staline công kích, nhất là cắt nghĩa Dollar như một trong những nguyên cớ chiến tranh, thì có thể xa với thiện chí của Hoa kỳ về Tiền tệ.

Một trong những cá tính căn bản của Tiền tệ là TỰ DO chấp nhận. Đó là tính UNIVERSALITE (PHỔ QUÁT) của tiền tệ, nghĩa là nhiều người chấp nhận. Tiền được sử dụng để TÍCH LUỸ (Stockage) tư hữu tài sản trong thời gian, phải có quyết định tự do của sở hữu chủ tài sản. Không thể dùng quyền độc tài bắt cá nhân phải tích lũy tài sản bằng đồng YUAN hay VN ĐỒNG bởi vì hai đồng tiền này không có tự do và quyền lực độc tài có thể quyết định phá giá nó để tài sản cá nhân bị tiêu tán, vô giá trị trong thời gian.

Mỗi khi có chao động Tiền tệ là những người ta tìm đến Vàng hay một đồng Tiền vững có thể tin tưởng trong thời gian. Vàng từ thời thượng cổ cho đến nay luôn luôn vững với cân lượng của nó. Vàng hoàn toàn có tính cách UNIVERSALITE (PHỔ QUÁT) không những trong quá khứ mà còn trong tương lai lâu dài nữa. Vàng càng phổ quát hơn đối với Nữ Giới, những người giữ túi Tiền. Câu Tục ngữ : « Lấy Lửa thử Vàng ; lấy Vàng thử Đàn Bà ; lấy Đàn Bà thử Đàn Oâng « . Đến Oâng Dominique STRAUSS-KAHN, làm đến chức Tổng Giám Đốc IMF/FMI do Hội Nghị Bretton Woods 1944 lập ra, cũng còn bị thử thách chới với bởi Đàn Bà, mà người Đàn Bà tại Hotel thử thách Ong cũng chỉ vì nhìn qua Oâng thấy Dollar (Vàng) !

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

Geneva, 20.10.2011.

Web: http://VietTUDAN.net


No comments:

Post a Comment