Pages

Friday, November 4, 2011

KÝ VÕ KỲ ĐIỀN




BÌNH DƯƠNG MỘT NGÀY TAO NGỘ

VÕ KỲ ĐIỀN

Buổi sáng Chủ Nhật đầu năm Dương Lịch 1979, tôi ngồi tiếp chuyện với Bà Hai ở phòng khách. Từ Búng lên Bình Dương, bà nôn nả cho hay một tin vui. Đó là cô Hà, con gái út của bà, vượt biên thành công qua bức điện tín đánh về từ một phương trời xa. Bà vui mừng nét mặt rạng rỡ. Cầm miếng giấy nhỏ màu xanh lợt trong bàn tay run run, bà nói thì thầm bên tai tôi như sợ người ngoài nghe được. - Mày coi nè, cái con nhỏ thiệt không ý tứ. Chiều hôm qua nhận được giây thép xé ra đọc rồi tao muốn nghẹt thở xỉu luôn.

Ổng nghe ồn ào chạy ra coi lại thì nói là nó tới Mã Lai bình an. Thiệt hú vía! Mày biết tại sao không? Nó hà tiện viết hai chữ "bình an" dính lại làm một. Tao ba chớp ba nhoáng đọc lộn là “bị nạn”... Mấy tuần nay tao với ổng trông đứng trông ngồi. Có tin run quá, quáng mắt đọc không ra chữ. Nói liền một hơi, rồi ngồi thở một hồi, bà chắc lưỡi tiếc cho tôi: - Phải chi hồi đó mày tính được, đi cùng một chuyến với nó là xong rồi!

Tôi mừng cho cô Ha thành công tới nơi an toàn, trong bụng cũng thấy tiêng tiếc phải chi liều gan một chút đi đại thì bây giờ khỏe rồi. Cô Hà, dạy chung một trường với vợ chồng tôi, bị cho nghỉ việc một lượt vì cái tội lúc trước làm hiệu trưởng một trường quận. Cô hiệu trưởng còn trẻ măng chưa chồng. Có một anh bạn đồng nghiệp thầm thương trộm nhớ mà không dám nói ra.


Trước khi đi cô tâm sự từ giã, trách cứ cái anh chàng Thạch cù lần - đàn ông con trai gì mà nhát như thỏ đế! - Ờ, ờ, anh Thạch e ngại bị cô từ chối, ở tỉnh nhỏ người ta nói ra nói vô khó lòng. “Xưa kia anh ở cùng làng. Bởi anh chậm bước nên nàng đi xa”. Bây giờ nhớ tới vụ vượt biên thấy câu nói đó đúng quá với tôi. Cô Hà đã thoát được còn tôi tới chừng nào? Đàn bà con gái người ta chân yếu tay mềm còn dám liều mạng như vậy trong khi mình thân dài vai rộng mà cứ do dự lừng khừng thì bao giờ mới tính chuyện lớn được. Dầu sao thì cô ấy một thân một mình cũng dễ tính.

Còn tôi thì vợ con đùm đùm đề đề, thằng Tâm Bi mới có mười tháng, vượt qua bao sóng gió, rủi có bề gì thì sao? Nhiều đêm trằn trọc nghĩ tới nghĩ lui, bàn với Duyên: - Vợ chồng mình khó mà sống yên thân. Cái thế bắt buộc phải ra đi, nhưng hoàn cảnh bề bộn của mình, anh tính không ra. Duyên khuyến khích tôi nhưng vẻ mặt buồn buồn: - Hay là anh đi trước, mẹ con em ở lai tính sau! Làm sao mà tôi chịu như Vậy.

Tôi và nàng mới cưới nhau, vừa có được thằng con trai nhỏ. Cuộc đời bây giờ đầy bất trắc, quê hương đất nước kể như tiêu tan, cái tình yêu gia đình chỉ còn lại chút xíu, làm sao dám liều lĩnh phiêu lưu, thành ra cứ hẹn lần hẹn lượt, mãi cho tới hôm nay tôi vẫn còn ngồi thừ trên ghế. Bà Hai trước khi ra về còn dặn dò: - Mầy tính thì tính lẹ đi, người ta lấy ghe lấy tàu đi từ từ hết, đến lúc muốn đi thì không còn chiếc nào, khi đó làm sao xoay trở?


Tôi gật đầu nói nhỏ: - Ngày nào xuống Búng thăm hai bác thì ngày đó con từ giã... Con cũng muốn quyết định dứt khoát nhưng có cái gì níu kéo lại. Phải rời bỏ cái tỉnh Bình Dương này, buồn lắm bác Hai ơi! Tôi dẫn cái xe đạp ra ngoài, cái xe có gắn thêm cái yên nhỏ để thằng Bi ngồi đằng trước. Nó còn nhỏ quá nên phải ràng buộc cẩn thận. Trên đầu tôi đội nón kết đỏ bầm, thứ nón của lính nhảy dù, còn Bi thì đội nón vải trắng có hình mỏ neo kiểu lính thủy có quai để khỏi rớt.

Tôi muốn chở con đi một vòng thành phố để nhìn cho hết, cho kỹ cái nơi mà tôi đã sống gần nửa đời người. Nơi đó có buồn có vui, có những hình ảnh thân yêu, có những kỷ niệm thời thơ ấu. Như có một sợi dây vô hình ràng buộc, nơi trái tim tôi như thắt lại khi phải quyết định xa quê. Trưa đó trời nắng gắt, hai dãy phố chợ như bị bỏ vôi mà hấp, hơi nóng bốc lên hừng hực từ các mái ngói, mái tole, mặt nhựa đen mốc, những lề đường xi-măng khô cứng.

Trước nhà bây giờ là giang sơn của mấy bà bán gạo lậu. Họ ngồi đông nghẹt chen lấn nhau, trước mặt là những thúng gạo tràng đầy vung, các đống khoai đỏ, vàng đổ ngổn ngang như đá vụn. Rải rác đâu đó gióng gánh vương vãi. Có vài cán bộ áo trắng, bộ đội áo kaki màu cứt ngựa xanh đùng đục, mang dép râu. Có người dắt xe đạp treo tòn ten bó rau xanh dờn đi chen lấn các bà nội trợ áo bà ba đen, nón lá. Tự dưng, nơi này trở thành cái chợ trời ngang xương.

Ban đầu có vài ba người đàn bà lạ mặt ngồi bán các thứ khoai đậu gạo nếp. Họ bày trên lối đi trước nhà. Chợ thì ở tuốt đằng kia, sát cạnh bờ sông. Từ ngày mấy ông bỏ rừng về thành phố, toàn dân miền Nam thất nghiệp. Vợ con công chức, quân nhân chế độ cũ, chồng cha bị đi đày ở một nơi khỉ ho cò gáy nào đó, ở nhà túng quẫn phải bương chải tảo tần kiếm kế sinh nhai, hầu sống qua ngày. Họ trở thành bạn hàng buôn thúng bán bưng bất đắc dĩ. Đằng kia là chợ, mà đằng này là cái hành lang lát gạch bông bằng phẳng của dãy phố nhà tôi.

Phía bên kia là công viên nắng cháy xác xơ, hồ nước cạn khô đáy đầy đất đá, bãi cỏ loang lỗ úa vàng vì không người chăm sóc, chỉ còn trơ lại một cây khuynh diệp cằn cỗi lưa thưa đứng dưới bóng cây, nhìn trở lại bên nhà, nói cho Bi nghe mặc dầu biết nó không hiểu: - Con nhớ nghe, cái nhà này là nhà của Nội. Cả đời ông nội làm việc cực nhọc vất vả lắm mới tạo dựng được. Ba được nuôi nấng lớn lên ở đây, con cũng vậy. Hồi nhỏ ba ưa đi chơi bị ông nội lấy dây nhợ cột chân vô cái cửa sắt. Mỗi khi gần Tết, ba với chú Sáu, chú Bảy con phải lau chùi hết mấy cái cửa đó.

Cực lắm mà vui. Mấy chậu sứ Thái Lan đầy bông đỏ để trên lầu mua ở vườn ươm cây bên Thủ Đức, đem về chiết ra từng chậu nhỏ, phải chăm sóc liên tục trong mấy năm mới được xum xuê như con thấy... Nghe tôi thì thầm, thằng nhỏ có biết gì đâu, u ơ mấy tiếng trong miệng nhỏ xíu. Tôi nhìn cái bảng hiệu tiệm của ba tôi. Những chữ bằng cây to dầy sơn trắng được cưa đục khéo léo đặt trên nền nâu đậm vẫn còn sáng sủa nổi bật như ngày đầu tiên thợ hồ đến gắn vào tường. Lúc đó tôi mới lớn, ba tôi muốn có một cái bảng hiệu coi được.

Cái bảng cũ trông thô sơ quê mùa. Tôi phải bỏ ra một thời gian đi trên các đường phố lớn ở Sài Gòn để ăn cắp kiểu. Rốt cuộc chọn kiểu này. Tôi đã đặt ông thợ mộc già người Bắc, điếc tai ở cầu Bình Lợi làm. Nói hoài ông không hiểu, ra dấu đến mỏi tay, cuối cùng phải dẫn ông đến cái tiệm có bảng hiệu đẹp đẽ kia, rồi xin phép chủ nhà đo lấy kiểu mẫu. Mỗi năm gần Tết, tôi phải bắc thang leo lên, lấy vải thấm nước lau cho sạch từng chữ cái.


Hiệu tiệm và tên ba tôi rất dài phải lau cả buổi mới xong. Bây giờ, làm sao còn được cái công tác cực nhọc mà sung sướng đó nữa rồi! Cha con tôi lần ra bờ sông theo đương Bạch Đằng nhỏ hẹp có cái cầu tàu mục nát cạnh chợ cá, những hàng dương già gốc nổi u sần sùi thân ngả nghiêng. Gió từ sông thổi lên nhè nhẹ, mang theo mùi tanh tanh của sông nước. Ánh nắng chói chang lấp lánh trên làn sóng bạc phản chiếu như hàng trăm ngàn chiếc gương nhỏ lăn tăn. Từng de lục bình xanh xanh trôi rập rềnh không biết về đâu.

Cuộc đời cha con tôi bây giờ sắp sửa trôi giạt như đám lục bình này. Trưa nay đứng bên dòng sông chảy ngang qua chợ, trời nóng hừng hực, cảnh vật lờ đờ lặng thinh không thơ mộng chút nào, vậy mà tôi đâm nhớ cái câu ca dao thời còn thơ ấu, nghe má đưa em trên võng: Ra đi là sự đánh liều Mưa mai nào biết nắng chiều nào hay Cái câu này hơi kỳ lạ. Tôi nghĩ quẩn nghĩ quanh. Những hình ảnh vụn vặt, chắp nối. Không hiểu tại sao tôi cứ nghĩ đây là câu hát kể lể tâm sự của một cô thôn nữ nào đó vì tiếng gọi của yêu đương mà dứt khoát ra đi lấy chồng.

Theo chồng hay theo trai? Điều đó đâu có gì quan trọng, cái quan trọng là họ yêu nhau. Đã yêu nhau rồi thì tương lai có ra sao cũng mặc kệ. Buổi sớm, buổi chiều, nắng cháy hay mưa dầm, làm sao biết trước? Giữa tình yêu nồng nhiệt cuống quít và cuộc sống lạnh lẽo buồn tênh, phải chọn một. Cô đã chọn cái tâm trạng lo lắng, sợ sệt, bồng bềnh. Tôi cũng y như cô ta, nhưng cái tình của tôi có khác đôi chút. Phải rồi, khác một chút ở cái chỗ cô tự nguyện ra đi. Còn tôi ở cái thế bắt buộc phải xa lìa.

Tôi cúi đầu nhìn xuống thằng Bi rồi chỉ cho nó cái cầu tàu bằng cây cũ kỹ đã hư mục, một phần còn gác trên bờ hàng xiêu vẹo, một phần chìm sâu dưới nước. - Con ơi, hồi nhỏ, tám, chín tuổi, ba bì bà bì bõm lặn hụp tập lội ở tại cầu tàu, chỗ gần cây dương cụt đầu này sâu lắm, có lần hụt chân tưởng bị chết đuối. Năm mười hai, mười ba tuổi, ba đi chặt trúc làm cần, cuốn căm xe đạp làm lưỡi câu lươn, không mang dép guốc nên da chân bị nứt nẻ, đất sình bùn dơ dáy ăn lở loét, phải nhờ bà nội lấy bã trầu đắp cho mới hết.

Để trả lời, thằng nhỏ chép miệng ư ư... bàn tay mũm mĩm như củ khoai mì quơ quơ muốn chụp lấy vật gì trước mặt. Tôi nhìn lên phía bên kia đường, ty Bưu Điện cũ kỹ già nua được xây cất từ hồi Pháp thuộc, mái ngói đen mốc đầy rong rêu, tường vôi loang lỗ chỗ vàng chỗ xám, cạnh tường dây leo mọc chằng chịt đứng trơ trọi hai bên bờ sông như một ông ký về già lẻ loi buồn thảm, kéo lê cuộc đời quạnh hiu. Tôi còn nhớ rất rõ, lần đầu tiên được sai đi bỏ thơ, ở nhà dặn dò kỹ lưỡng mua con cò mười lăm cắc để dán lên bao.

Tôi đến nơi rụt rè hỏi mua tới mười lăm con. Mừng rơn, nghĩ rằng bữa nay nhà nước bán rẻ, sướng quá le cái lưỡi thật dài thấm nước miếng dán một con vô bao, cẩn thận bỏ vô thùng, xong rồi đem mười bốn con còn lại, về nhà khoe rùm beng. Cũng cái thùng thơ rỉ sét này đã chứng kiến cảnh tôi bỏ từng bức thơ màu hồng yêu đương ấm áp, bức thơ màu xanh hy vọng tương lai gởi đến một cô bạn gái đẹp đẽ dễ thương nào đó mà chưa quen, tay run run, trống ngực đập thình thịch, mắt lấm lét ngó trước ngó sau, sợ lũ bạn quen bất gặp.

Cái thơ đã bỏ vô thùng mà còn ngó hoài, cứ lo sợ mất. Xa sông cách núi lỡ vời Gởi thơ sợ lạc, gởi lời sợ quên Tôi đạp xe qua bên kia chợ. Người buôn kẻ bán lưa thưa. Đúng là cảnh chợ chiều. Mũi tôi ngửi được cái mùi chợ cá quen thuộc. Mùi khô cá mặn, mùi mắm, mùi củ cải muối, mùi tro diêm, mùi đường thẻ, mùi thuốc bắc... và hàng trăm thứ mùi khác trộn lẫn nhau, quyện lấy nhau tạo không khí nơi đây một cái gì gần gũi thân yêu. Tôi đã hít thở mấy chục năm qua, từ thuở bé cho đến khi khôn lớn. Cái hơi hướng đó đã ăn tận buồng tim thớ phổi.

Tôi tin chắc rằng nếu phải xa nơi đây, tạm ngụ ở một phương trời vô định nào so, tôi vĩnh viễn không bao giờ tìm thấy được cái dư vị của những ngày thơ ấu. Đêm đêm cánh rụng lầu ngà Một thời ly biệt để già nhớ thương (Vũ Hoàng Chương) Chiếc xe lăn bánh chầm chậm trên đường phố. Bên này là đường Nguyễn Thái Học, bên kia là Đoàn Trần Nghiệp. Cũng thời là nhà cửa phố xá ngày xưa nhưng có vẻ gì tiêu điều xa vắng.

Mới bốn năm, mưa nắng đã làm cho gạch vôi ẩm mốc xám đen, tang tóc buồn thảm. Nhìn những bước chân người đi lại trên vỉa hè, tôi như thấy được nỗi chịu đựng đầy cay đắng trong cái dáng hấp tấp vội vàng hay ngập ngừng đắn đo. Ôi! Những người dân vô tội đáng thương của một đất nước “anh hùng”. Trên đường Trưng Vương, tiệm vàng Tín Thành, cao ba từng, bị tịch thâu được đổi thành Phòng Y Tế Thị Xã. Đã gần xế chiều vậy mà bệnh nhân vẫn còn sắp hàng đứng ra tới ngoài sân. Nhiều em bé trơ xương nằm lả người thiêm thiếp trên tay mẹ.

Nhiều cụ già khăn áo bạc màu hom hem còm cõi nhẫn nhục sắp hàng chờ đợi tới phiên mình. Qua đường Hùng Vương, trường Trung Học Nguyễn Trãi thương yêu ngày nào, tôi hàng ngày hai buổi đi về với bao hình ảnh thấy bạn thân thương, bao mộng ước một thời mới lớn, bây giờ trở thành Phòng Giáo Dục. Hàng dừa xanh mát rũ bóng trong sân đã được đốn đi thay vào đó là dân đánh bóng chuyền treo cái lưới rách giăng ngang, giành cho công nhân viên nhà nước chơi đùa. Rải rác có các cán bộ dép râu, nón cối gương mặt lầm lầm lì lì.


Tôi nghe đau nhói trong tim... như một thứ tình yêu rạn nứt. Đất đổi hoa màu nhà đổi chủ Trâu quên mục tử, ngựa quên chuồng (Nguyễn Bính) Không, tuy cảnh đổi thay người đổi thay, nhưng lòng tôi không thay đổi. Dầu người ta có bắn phá, đập nát, đốt cháy hết cả cái tỉnh Bình Dương này nhưng trong lòng tôi vẫn còn hoài, còn hủy hình ảnh cái chợ Phú Cường bằng bê tông cốt sắt đồ sộ với cái tháp đồng hồ cao, sừng sững, dòng sông Sài Gòn uốn khúc lặng lờ trôi từ Săn Đá xuống mang theo trong dòng nước vẩn đục từng dề lục bình xanh xanh trổ bông tim tím, dốc Ông Cò thoai thoải im mát hai hàng cây sao cao vút, dốc nhà thương, có nhà trường Nam Tỉnh Lỵ Châu Thành, có nhà thờ bằng đá hoa cương, mỗi khi hè đến hàng phượng vĩ trổ hoa đỏ rực, rền rền tiếng ve. Trong đầu óc non nớt, những ngày tháng ngây thơ đó thần tiên quá. Những hình ảnh như vậy, ngàn đời trong tôi vẫn không phai nhạt chút nào.

Nó đã thấm vào tim óc, vào từng tế bào từ lâu lắm. Chắc từ hồi còn ở truồng tắm mưa, chạy lượm xoài, lượm ổi rụng trong những cơn mưa giông, giành giựt nhau, la hét vang rần từ đầu làng cho tới cuối xóm.

Ôi Bình Dương thân yêu của tôi, chỉ vài ngày nữa thôi, tôi bắt buộc phải đứt ruột mà chia lìa. Ở đó, tôi có biết bao nhiêu bạn bè mà gương mặt xanh xao màu rau nhiều hơn thịt cá. Ở đó, tôi có biết bao nhiêu kỷ niệm thời thơ ấu, bao gắn bó của một thời mộng mơ, bao tin tưởng của thời thành đạt. Làm sao tôi có thể ra đi mà không bịn rịn xót xa.

Tôi cũng muốn đi một vòng thiệt xa để nhìn cho hết những con đường dốc khúc khuỷu quanh co bùn sình trơn trợt của các hầm đất sét ở Lò Chén, các con đường làng kẽo kẹt tiếng đọt tre đong đưa miệt Xuân Hiệp, những con đường đất đỏ ngoằn ngoèo im mát bóng cây ăn trái miệt Giếng Máy, Cầu Ông Đành, những liếp rau ngát xanh, những bờ nước đầy rong đuôi chồn vắt miệt Phú Văn rồi vòng lên các ngọn đồi cao miệt Bà Lụa để nhìn trở lại dòng sông Sài Gòn chảy uốn khúc lặng lờ qua tỉnh.

Tôi muốn gặp hết tất cả những người quen biết, tất cả bạn bè thân yêu để nói câu giã biệt. Nhưng làm sao, làm sao được! Tôi không thể nói gì hết. Gần trên bốn mươi năm nay rồi, tôi sống im lặng, vật vờ, thu mình như một cái bóng mờ, lặng thinh câm nín. Một chút động tĩnh cũng không dám. Người ta hoài nghi, soi mói.

Tôi không thể nói bất cứ điều gì dầu chỉ là lời từ giã. Nếu nói được cho thoải mái thì đâu cần phải ra đi làm gì! Đúng rồi nếu nói được thì đâu cần phải đi!!! Giờ này, dưới ánh nắng thoi thóp của buổi chiều sắp tắt tôi nhìn trở lại Bình Dương của tôi một lần.


Một lần cho thật rõ, thật kỹ những cảnh vật, màu sắc, âm thanh, mùi vị... Tôi muốn ôm hết, thu hết, ghi nhận hết trong tim, trong óc bởi vì tất cả sẽ vĩnh viễn mất đi khi tôi cất bước lên đường. Mai kia khi tôi đi rồi thì tương lai kể như mù tịt, quá khứ trở thành chiêm bao! Bình Dương bây giờ, Bình Dương của ai?

No comments:

Post a Comment