Pages

Friday, March 16, 2012

NHẬT TUẤN * CÁC NHÀ VĂN VIỆT NAM III


VII.“ con lươn tiết chất nhờn để … đi xa hơn nữa.”

Cha và con và…” họ hàng và…

Hết bay mùa thóc đến “ mùa lạc”
Cho nên “chiến sĩ” thiếu lương ăn
“Họ sống chiến đấu” càng khó khăn
“ Tháng ba Tây nguyên “ đỏ lửa
Tháng Tư lại “Đi xa hơn nữa”
“ Đường đi ra đảo” – “Đường trong mây”
Những “người trở về” mấy ai hay
“ Xung đột “ mỗi ngày thêm gay gắt
Muốn làm “cách mạng” nhưng lại….nhát…
( thơ Xuân Sách)

Trong đoàn “lực sĩ” chạy marathon trên ‘đường cách mệnh” để đến được cái đich xa vời là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học cách mạng : Vũ Tú Nam, Hồ Phương, Nguyễn văn Bổng, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Anh Đức … có một “đại kiện tướng” vừa bền bỉ không mệt mỏi vừa khôn ngoan luồn lách qua mọi chướng ngại vật, vừa “nhát sợ” phòng thân để về đích lĩnh ân sủng của Đảng : Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật – đó là nhà văn Nguyễn Khải mà nhà thơ Xuân Sách đã “khái quát” về ông qua mấy câu thơ chân dung nêu trên.

Nguyễn Khải, sinh 1930, ở Hà Nội , cha là tri huyện, mẹ là vợ bé, thủa nhỏ sống nhiều với mẹ ở quê ngoại tỉnh Hưng Yên . 17 tuổi làm y tá cho một đơn vị bộ đội địa phương. 19 tuổi làm phóng viên báo tỉnh Hưng Yên. 21 tuổi làm báo “chiến sĩ” Quân khu 3. Sau hoà bình, 26 tuổi về công tác ở tạp chí Văn Nghệ Quân đội.Nhiều năm là Uỷ viên chấp hành Hội nhà văn. Cứ xem quá trình ‘công tác” của Nguyễn Khải đủ thấy suốt đời ông là một thư lại, lính văn phòng, đeo chữ thọ sau đít, chưa một ngày đặt chân vào chiến trường khiến ông trở nên nổi tiếng trong hai câu thơ dân gian khi ông viết “Bút ký Hoà Vang” lấy tài liệu từ các bản thành tích thi đua từ trong Nam gửi ra : “ Hoà Vang nào ở đâu xa Hoà Vang là ở ngay nhà đó em..”

Truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Khải là “ Ra ngoài”, “Xây dựng” chẳng có giá trị gì. Năm 1956 viết tiểu thuyết “ Người con gái quang vinh” về nữ anh hùng Mạc thị Bưởi nhưng bị chìm nghỉm ngay khi mới xuất bản. Chỉ đến tiểu thuyết “Xung đột “ – phần 1 năm 1956 và phần 2 năm 1960, danh tiếng Nguyễn Khải mới nổi lên rầm rĩ trên bầu trời văn học cách mạng vốn còn rất thưa thớt sao.

Sau “Xung đột” , Nguyễn Khải viết chừng hơn 20 đầu sách khác nữa, nhưng nhắc tới ông người ta vẫn chỉ nhắc tới “Xung đột” như là một trong những đỉnh cao trong sự nghiệp không lấy gì làm vẻ vang của ông cho dù nhà phê bình chính thống “gạo cội”, Giáo sư Phan Cự Đệ tâng bốc hết lời : ” Từ nhiều năm nay , với tư cách là một nhà văn quân đội, Nguyễn Khải luôn luôn có mặt ở những vị trí hàng đầu của cuộc sống.

Tác phẩm của anh phản ánh những mảng hiện thực mang tính thời sự nóng bỏng, đồng thời vẫn nêu lên được những vấn đề triết học, đạo đức có tầm khái quát cao. Tài năng và phong cách Nguyễn Khải bắt đầu hình thành và khẳng định từ khi Xung đột – tập I được giới thiệu lần đầu tiên trên tạp chí Văn Nghệ Quân đội năm 1957…” “ Xung đột” – tập 1 viết về cải cách ruộng đất và sửa sai tại một làng công giáo toàn tòng – thôn Hỗ thuộc Giáo phận Bùi Chu. Xưa nay viết về đề tài cải cách ruộng đất, thông thường các nhà văn miền Bắc có hai chọn lựa : - hoặc diễn tả nó như là một cuộc đấu tranh giai cấp với mâu thuẫn đối kháng, địch ta : một bên là nông dân, một bên là địa chủ, cường hào đại gian đại ác.

Cuộc đấu tranh này là “một mất một còn” , ranh giới địch – ta rõ ràng và tuyệt đối. Viết theo lối này các nhà văn được đeo chữ thọ sau lưng, rất an toàn và được “bảo hiểm” bởi lẽ họ thả sức bôi xấu phe địch – tức địa chủ và thoải mái ca ngợi phe ta – tức nông dân được Đảng phóng tay phát động.

Tuyệt đại đa số các nhà văn cây đa cây đề đều theo lối viết này : “ Nông dân với địa chủ” của Nguyễn Công Hoan, “Con trâu” của Nguyễn Văn Bổng, “ Mẹ con đồng chí Chanh” của Nguyễn Đình Thi. Mặc dù được báo chí của Đảng khen “kịpï thời, kịp thời” nhưng tất cả đều vứt sọt rác chỉ vài tháng sau khi xuất bản. - hoặc diễn tả nó như là một cuộc đấu tranh trong “nội bộ nhân dân” – tức đi sâu vào chuyện “nhất đội nhì trời”, chuyện “con tố cha, vợ tố chồng”, chuyện án oán biết oán ai ….Viết theo lối này nhất định dễ “ăn đòn” bởi tội “nói xấu cách mạng”, chê Đảng lúc nào cũng tự nhận sáng suốt mà sai be sai bét..

Đi theo con đường dễ vỡ nồi cơm này có rất ít người và thường là “thân tàn ma dại” như Vũ Bão với “Sắp cưới” ,Hoàng Tích Linh với “Cơm mới”, Nguyễõn Khắc Dực với “Chuyến tàu xuôi”. Gần đây có cởi mở hơn, viết về cải cách ruộng đất theo kiểu “mâu thuẫn nội bộ” như “ Dòng sông mía” của của Đào Thắng còn được tặng thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2005. Tất nhiên khôn lõi đời như Nguyễn Khải chẳng dại gì chọn kiểu viết thứ hai – tức diễn tả cải cách ruộng đất như là cuộc đấu tranh “nội bộ” nhân dân – tức mâu thuẫn để đi tới thống nhất – dễ bị quy chụp, dễ bị ăn đòn là những thứ Nguyễn Khải cứ muốn tránh cho thật xa.

Vậy thì tốt nhất chọn lối viết thứ nhất tức diễn tả mâu thuẫn đối kháng, có tao không có mày, ta nhất định thắng, địch nhất định thua, và để an toàn hơn thế nữa, Nguyễn Khải không chọn chiến tuyến đối lập địa chủ với nông dân như các nhà văn cây đa cây đề mà chọn tuyến đối lập có tính đối kháng : một bên là bọn phản động đội lốt tôn giáo với bên kia là những nông dân nòng cốt cách mạng, trung kiên, một lòng theo Đảng.

Bởi thế tiểu thuyết Xung đột – Tập 1 của Nguyễn Khải thực ra là chuyện đấu tranh “địch ta” kiểu như một “câu chuyện cảnh giác “được vẽ vời công phu bằng văn chương đánh lừa độc giả. Xung đột – Tập I xảy ra vào năm 1956, cuộc cải cách ruộng đất vừa hoàn thành với bao sai lầm và làng thôn bắt đầu vào sửa sai theo hướng dẫn của cấp trên. Tuy nhiên cái sai lầm cải cách ruộng đất ở đây không phải do Đảng nhắm mắt học theo kinh nghiệm Trung Quốc, quy định tỷ lệ địa chủ để cố ép tìm ra cho đủ số – viết như vậy dễ “vỡ nồi cơm”, Nguyễn Khải lái thủ phạm gây nên bao sai lầm trong cải cách sang các …cha cố.

Oâng lu loa rằng khi Đội cải cách về làng , cha xứ đã ngầm gài người để cho đội “bắt rễ” và trở thành chỗ dựa cho Đội, từ đó tố oan cho những cán bộ cốt cán của Đảng để đến nỗi họ bị xử trí như Môn, xã đội trưởng, Thuỵ, cán bộ xã…có người còn bị xử tử như Rỹ , Bí thư Chi bộ…Bao nhiêu tội lỗi đều do…nhà thờ gây ra cả, cách mạng chỉ có…mất cảnh giác đôi chút thôi. Thực chất trong Xung đột – tập I Nguyễn Khải đã bẻ queo sự thực lịch sử, chạy tội cho Đảng trong việc bắn giết cả những đồng chí của mình, trút tội giết người đó sang… âm mưu thâm độc của Nhà thờ chứ không phải do sự ngu dốt sai lầm trong đường lối cải cách ruộng đất .

Từ trên cái “bệ đỡ an toàn” đó, Nguyễn Khải tha hồ phóng bút trách gì nhà phê bình Phan Cự Đệ chẳng tấm tắc khen : ” người đọc như bị hút vào những sự kiện nóng bỏng trong những năm khôi phục và cải tạo kinh tế : cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh trong nội bộ nhân dân diễn ra căng thẳng , ác liệt và vô cùng phức tạp vào khoảng cuối năm 1956 ở một số vùng đạo gốc tỉnh Nam Định, khi Đảng ta tiến hành sửa chữa những sai lầm trong cải cách ruộng đất và bắt đầu cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp”.

Chơi trò lập lờ đánh lận con đen, xuý xoá tội lỗi của Đảng trong cải cách ruộng đất, trách gì Xung đột – tập I chẳng được cả một hệ thống tuyên truyền của Đảng kéo lên mây xanh ngay trong thời gian Đảng đàn áp văn nghệ sĩ khét lẹt nhất qua vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Trong khi những tác phẩm phản ánh được chút ít hiện thực khách quan như những truyện ngắn và thơ trong nhóm Nhân văn Giai phẩm , tiểu thuyết “Vào đời” của Hà Minh Tuân, “ Phá Vây” của Phù Thăng, kịch của Hoàng Tích Linh, Nguyễn Khắc Dực… bị đòn vọt thì hàng loạt tác phẩm của Nguyễn Khải cứ nối đuôi nhau ra đời trong sự reo mừng, tâng bốc của cả một bộ máy bồi bút trong các nhà phê bình văn học của Đảng.

Mở đầu “Xung đột” – Tập 1, Nguyễn Khải chơi trò “giật gân” miêu tả một “sự kiện động trời” ngay khi làng xã mới bước vào đợt “sửa sai” sau cải cách ruộng đất. Đó là “ Đại hội công giáo tám xứ toàn miền” với đủ các gương mặt của “phe đối nghịch” tức toàn bộ các gương mặt “phản động” của nhà thờ cũng các con chiên bị dụ dỗ và mê hoặc họp thành một mặt trận, một chiến tuyến chống lại chính quyền cách mạng. Đánh vào trí tò mò của độc giả vậy, trách gì cuốn sách không hấp dẫn ? Bộ chỉ huy của lực lượng chống đối này bao gồm toàn những người khoác áo choàng thâm. Trước hết là tu sĩ Thịnh , “hoạt động phần đời nhiều hơn là phần đạo…

Thầy không phải là người tu tầm thường mà là một người hoạt động chính trị xuất sắc. Năm nay thầy mới hai mươi tám mà năm hai mươi bốn đã làm tới trưởng khu Cao Mại, một tay xây dựng hai mươi bảy ban xã uỷ, lãnh tụ liên tôn diệt cộng toàn khu…”. Rồi đến cha Vinh là người đã “mang quân từ Phát Diệm về đốt trụi xóm, lấy thóc của nhà xứ, thóc của dân đổ đầy hàng trăm chiếc thuyền đậu kín như lá tre ở cống Cả, đã quay điện con ông Thiềm bây giờ nửa sống nửa chế,đã ngủ với cô Mến có thai ba tháng, thuốc độc chết ông trùm Thuý…

Rồi thì cha Thịnh dẫu được “ đi Hà Nội họp, ăn một ngày bảy tám cân *, được gặp cả Hồ Chủ tịch” ấy vậy mà khi trở về giáo xứ lại dấu mặt tổ chức đại hội công giáo, xui con chiên :” Bây giờ các nơi công giáo đều nổi dậy cả rồi, chúng ta phải đòi công giáo tự trị…chiến tranh tàn khốc, chế độ đổi thay , chỉ có đạo Chúa là không gì diệt nổi…”. Tóm lại các tu sĩ trong nhà thờ đều là loại núp áo choàng thâm để làm việc xấu xa, bỉ ổi, gây hoạ cho dân cả. Chẳng hiểu khi bôi bác nhà thờ như vậy, Nguyễn Khải có khi nào nghĩ một thời mình cũng từ đó mà ra không ?

Trong đám tay chân đắc lực của các cha phải kể đến cô Lý, đẹp nhất nhì trong làng, nhưng lại “ làm ruộng không biết, đi buôn không vốn, hoạt động đoàn thể cũng không nốt, nào ai biết cô ả làm gì, chỉ thấy đi suốt ngày đi cả đêm. Thời tạm chiếm Lý là tay đưa tin đắc lực của đại đội cha Báu, từ ngày cha Vinh về thì lại là tay chân thân cận của ông Vinh…đặc biết có cảm tình với tu sĩ Thịnh…”.

Tay chân đắc lực cho các cha còn có anh Quảng, con trai phó trương xứ “mười bảy tuổi đã sung vào đội quân của cha Báu, mười tám tuổi chuyển qua đội quân com-măng-đô, ít lâu sau được cử làm người hộ thân cho viên quan năm chỉ huy quân sự miền hạ Nghĩa Hưng…”Khi bàn đến việc đánh cán bộ, Quảng hăng hái :” Nó có dao sắc mình cũng có dùi bén. Một trăm người không đánh nổi vài đứa à ? Có cần tử vì đạo tôi cũng xin dâng mình…”. Tóm lại, phe “phản cách mạng” nhân danh Chúa đều gồm những con người ghê gớm, dạn dầy kinh nghiệm chống nhà nước cộng sản. Bên phía cách mạng có Thuỵ là đội trưởng du kích, mặc dù bị truy ép tàn khốc trong cải cách ruộng đất vẫn khăng khăng :” Làm việc vì Đảng, đừng làm cho người ta khen.

Những kẻ có ác ý không biết nhưng Đảng tối cao, thiêng liêng sẽ biết , sẽ dành phần thưởng sau này…”. Có Môn, xã đội phó, là một trong bốn người bị giáo Thịnh bố trí “kích” lên thành đầu sỏ Quốc dân đảng ở xã. Sau khi hai trong bốn người đó, một bị xử bắn, một tự tử, Thuỵ và Môn mới được tha bổng và phục chức cũ. Chính quyền xã lúc này đang “non yếu”, dân quân du kích phần lớn là giáo dân tin theo nhà thờ, xã đội trưởng thì mải đi buôn, Chủ tịch xã là chị Nhàn thì lại hay bận đi…họp huyện.

Thế là sau vài ngày họp trù bị, bầu không khí thù ghét cải cách ruộng đất, thù ghét Đảng và Nhà nước trong đại hội công giáo đã dâng tới mức các giáo dân hô khẩu hiệu chống cộng : “ Đả đảo đội cải cách ruộng đất “ “ Đả đảo” “ Đả đảo chính sách của Đảng Lao Động…” “ Đả đảo”… Tới lúc đó cha Thuyết mới chính thức ra mặt chủ trì “đại hội công giáo toàn miền” đòi lôi cổ những người đã tố cha Vinh ra đại hội để hỏi tội.

Nực cười thay, đứng giữa đại hội, anh nông dân tên Hạ đã không thanh minh cho cha Vinh thì chớ , ngược lại còn tố cáo cha : “ ngưỡng cửa buồng cha lẽ ra phải rất trong sạch , đàn bà bước qua phải thay ngay ngưỡng cửa ấy, tại sao có người ngày nào cũng bước qua mà ông Vinh vẫn không thay…tại sao ông Vinh lại đeo lon quan ba dẫn quân bốt Thạch đi càn quét…” Người thứ hai được bố trí lên “minh oan” cho cha Vinh cũng “phản cung” như Hạ, thế là “màn kịch” của “phe nhà thờ” dầy công dựng lên bị đổ bể ngay từ đầu.

Người ta phải đặt câu hỏi với nhà văn Nguyễn Khải tại sao “nhà thờ” vốn được ông mô tả vô cùng gian ngoan, xảo quyệt, mưu sâu, đòn độc vậy sao lại dựng lên một màn kịch vụng về vậy ? Phải chăng họ ngờ nghệch đến thế ? Không phải, đó chỉ là vì mấy ông nhà văn cách mạng đã quá quen với cái thói nhiễm sâu vào trong máu “ ta nhất định thắng, địch nhất định thua”, “ta là thiện, là tốt đẹp, giỏi giang” – “địch là ác, là xấu xa, ngu dốt” nên mấy ông cha cố mới bị bôi bác xấu xa và ngờ nghệch đến thế. Sau khi thất bại trong việc bố trí người lên “minh oan “ cho cha Vinh trong cải cách ruộng đất, đại hội cử ngay ra một đoàn đi bắt “hai con quỷ dữ” là Môn và Thuỵ – cốt cán của cách mạng- tới đại hội để giáo dân hỏi tội.

Hai ông này thân cô thế cô nên đành phải mài sắc hai con dao chờ sẵn ở nhà. Mặc dầu ở nhà Thuỵ có một tiểu đội bộ đội đóng quân nhưng cũng không dám can thiệp cứ đứng nhìn “người của đại hội” tới bắt Thuỵ và Môn. Đến khi Lý và Quảng hai người tích cực nhất xông vào đánh Thuỵ, tiểu đội trưởng bộ đội mới xông vào can ngăn. Chỉ chờ có thế, Quảng va chạm vào người anh bộ đội rồi “tự thọc ngón tay cào rách màng lỗ mũi,máu rỉ ra một dòng nhỏ , hai tay hắn đưa lên quẹt khắp mặt , mặt lem nhem máu ” rồi lăn ra giả vờ chết. Thế là “tin dữ” bộ đội giết dân loang ra khắp làng khắp xóm : “Chuông bắt đầu đánh chính thức loan báo “tin nổi dậy” cho toàn xứ, cho các xứ khác.

Trống thôi thúc từng nhịp.Người từ các dong xóm vì tò mò lặng lẽ kéo đến mỗi lúc mỗi đông…” Anh bộ đội tên Nẫm bị giáo dân lôi ra đánh đập, hành hạ với những lời chửi bới :” thằng bộ đội khốn nạn đánh cả dân , ai đóng thuế nông nghiệp nuôi cho nó ăn béo, ai dệt vải cho nó mặc để nó vô ơn bạc nghĩa đi bênh mấy thằng quỷ ở xứ này. Có người đòi phải lấy đanh đóng vào tay chân nó phơi mưa…”

Cha xứ bấy lâu nay vẫn dấu mặt đến lúc này thấy cần phải chường ra để “chăn dắt con chiên”, bởi vậy cha Thuyết thân chinh đi tới chỗ quàn “cái xác” Quảng “lật chiếu nhìn mặt Quảng. Oâi có lẽ nó đã qua đời rồi, nó không còn thở nữa. Cha mở hộp dầu thơm nức dúng tay làm dấu vào trán Quảng , vào hai lòng bàn tay, hai gan bàn chân , vừa nguyện bằng tiếng la tinh. Tiếng đọc kinh nổi lên rền rĩ :

“ Lạy Chúa Ki-ri-xi-tô thương xót chúng tôi, xin Chúa thương xót chúng tôi…” Tiếng chuông đánh nhịp hai tiếng một điểm hồi dài, báo tin một linh hồn kẻ lành được lên nước thiên đàng hưởng phúc thanh nhàn đời đời. Xác Quảng được liệm bằng chăn khiêng vào trong nhà để chính gian giữa…”

Vậy là nhà thờ đã tạo ra cái cớ “bộ đội giết dân” để kêu gọi giáo dân toàn miền vùng dậy lật đổ nhà cầm quyền cộng sản. Tiếc thay, cái quả bom nổ chậm ấy, cái căn nguyên để khởi nghịch đó lại vỏn vẹn chỉ là cái chết giả vờ của một anh chàng ngờ nghệch chỉ có mỗi cái máu “chống cộng” hăng tiết vịt .

Liệu các cha Thiên chúa giáo của cả một giáo xứ có ngây thơ , ngớ ngẩn như vậy chăng, hay là do nhà văn Nguyễn Khải “vu” cho họ. Quả nhiên cái vụ Quảng giả chết để vu vạ cho bộ đội lập tức bị lật tẩy một cách dễ dàng khi chị Nhàn – Phó Chủ tịch xã đi họp huyện về yêu cầu “ phải khám nghiệm tử thi làm biên bản rồi cho chôn luôn”.

Vợ “người chết” sợ quá ôm chặt lấy ‘xác chồng” không cho động tới và ngay tối đó “hai mẹ con Quảng đem võng đến cáng hắn về. Khiêng qua cầu sang xóm bên kia, đường vắng lặng, Quảng thò cổ ra nhìn quanh không có ai, y nhỏm dậy nhảy ngay xuống đất rồi chạy vụt vào một cái ngõ sâu thẳm…”. Vậy là “âm mưu” của nhà thờ vu cáo bộ đội giết dân để làm ngòi nổ cho cả phong trào “giáo dân nổi dậy” chống chính quyền bị phá vỡ một cách quá dễ dàng và…lãng xẹt.

Cuộc XUNG ĐỘT giữa nhà thờ và chính quyền cộng sản tưởng là ghê gớm lắm, rút cuộc chỉ một chị Phó Chủ tịch xã ra một cái lệnh là “âm mưu của nhà thờ” bị tiêu tan. Tất nhiên vụ “Đại hội giáo dân” kích động dân làm loạn tuy có qua đi nhưng xung đột giữa “nhà thờ” và “cách mạng” vẫn còn đó. Nó len lỏi vào các gia đình gây nên những ‘bi kịch” mà gia đình anh bộ đội Tường là một thí dụ tiêu biểu.

Sau mấy năm xa nhà, nhân dịp tết được nghỉ phép, Tường tưởng sẽ được hưởng không khí gia đình đầm ấm sau những năm tháng xa nhà, ngờ đâu vừa đặt chân về nhà anh đã va ngay phải cuộc xung đột giữa “nhà thờ” và “cách mạng”. Trước hết là cái Khoai, đứa con gái của Tường “ nó không vồ vập, không cười, đứng né sang một bên cho bố nó dắt xe đạp vào, mắt ngước lên lấm lét như nhìn người lạ luồn ngay ra đằng sau lủi chạy mất”.. Con đã xa cách thế, đến bố cũng vậy :” Bố thấy con trai lần đầu về ăn tết với gia đình từ ngày đi bộ đội cũng không vui, cũng có vẻ hậm hực …”.

Tại sao vậy nhỉ ? Hoá ra vẫn là “xung đột” giữa “nhà thờ” và “cách mạng”. Bố anh trách : “ Dạo đầu năm vợ mày lên thăm, mày định giật ảnh tượng của vợ mày, bảo những cái ấy là vô tích sự phải không ?...Dù mày có là bộ đội nhưng trước hết vẫn là bầy tôi của Chúa, vẫn là con tao. Mày không được ăn nói bậy, nghe không ?” Rồi mặc cho anh con trai thanh minh,ông vẫn kể tội : “ Hôm ấy vợ mày nói với mày xin đánh tượng vàng đeo , mày bảo :” Chẳng đạo gì bằng đạo ăn, để tiền mà đong thóc với lại “ có người lạc hậu mới tin đạo..

Tao nghe chuyện ấy đã định viết thư lên bảo thẳng với các cấp chỉ huy của mày là không biết dậy con tao để con tao thành kẻ vô loài, rồi tao sẽ từ mày, hiểu chưa ?”. Cứ như thế những ngày Tường về phép ở nhà là những ngày “chiến tranh ý thức hệ” – tình cảm thiên nhiên của vợ chồng, của cha con dường như đã bị vót nhọn trơ lại có mỗi “xung đột” giữa “chúa và bộ đội”. Ngày Tết họ hàng tới thăm nhau , trò chuyện cũng toàn mùi “chính trị”. Quảng , cháu của Tường vừa gặp lại chú đã lên giọng khiêu kích : “ Độ này chú tiến bộ làm đến cấp gì rồi ? Gớm , các ông bộ đội chính trị bỏ mẹ…À…à…bốn túi đây mà , đại đội hay tiểu đoàn ? Aùo vải chắc là đại đội …chú đi bộ đội lâu thế vẫn là đại đội thôi à ?”

Rồi Quảng xoay sang chuyện chính trị thật : “ Chú đi xa không rõ. Ơû nhà vừa rắc rối lắm. Bộ đội đánh dân nhưng uỷ ban lật lọng thế nào lại hoá ra nhân dân đánh bộ đội…Mấy thằng phản Chúa hại dân lại ra làm việc rồi. …Chú xem , chúng nó ra nhận việc hôm trước hôm sau hạ lệnh bắt người ngay, không hiểu đem đi buộc đá bỏ biển hay tù đày mãi đâu chẳng thấy tin về. Cứ như tình hình này có lẽ chính phủ muốn tiêu diệt công giáo chắc…” Thế rồi khi hết phép, vào lúc chia tay, Tường thưa chuyện cùng bố mẹ lại cũng là chuyện…chính trị :

“ Cách mạng nổi lên hai anh em con mới ra khỏi nhà mụ Bao, từ bấy đến nay con ăn cơm bộ đội, mặc áo bộ đội, được bộ đội dậy dỗ thì sống chết với bộ đội. Còn bố mẹ sợ luỵ vì con , không muốn nhận con nữa thì cứ việc làm giấy lên uỷ ban mà từ. Con xin chịu…” Cứ như vậy, ông con trai bộ đội về phép chẳng bàn bạc gì được chuyện làm ăn kinh tế sao cho bố mẹ, vợ con ăn sung mặc sướng lại sa đà vào toàn chuyện “chúa” với “cách mạng”.

Sự thực quan hệ gia đình, họ hàng khi đứa con phương xa trở về trong những ngày tết thiêng liêng của dân tộc có đến nỗi rặt một mầu chính trị như thế không. Hay là từ cái tựa đề “xung đột” của tiểu thuyết và bài học nằm lòng của chủ nghĩa Mác đã ăn sâu vào tác giả :” tiến hoá là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập” khiến ông nhà văn nhìn vào đâu chỉ cũng chỉ thấy có xung đột chính trị.

Ngay cả trong gia đình Nhàn, Phó Chủ tịch xã, chỉ có hai mẹ con mà xem ra trò chuyện hàng ngày giống như “hai phe” đối lập nhau. Hồi cải cách, cha Vinh bị mang ra đấu. Bà mẹ của Nhàn bênh cha : “ Đấu cha là đấu Chúa đấy…Mày phải biết đỗ được đến chức cụ là trải qua trăm nghìn khó khăn thử thánh đấy . Nếu người không có nhân đức thì ngay khi chịu phép cắt tóc không hộc máu cũng phát ung nhọt , bệnh tật rồi..”

Cô con gái thì cãi lại : “ Mẹ còn nhớ nhân dân bên Thạch Bi xứ cũ của ông ấy, cơm nắm cơm gói đến chầu chực ở đây hàng tuần chỉ xin được lột da ông ấy căng mặt trống không ? Chính phủ không xử bắn là may chứ còn tiếng tốt gì ?” Bà mẹ lại kể lể : “ Nếu mày không nghe lời tao, tao không dậy được mày thì cả nhà này sẽ mắc vạ tuyệt thông , bị khai trừ ra khỏi hội thánh . Nếu thế thì mẹ chết mất…Con ơi, mẹ run sợ lắm.

Mẹ già rồi, ngày linh hồn lìa khỏi phần xác cũng chẳng bao xa…lúc đó hai con khiêng được mẹ ra đồng hay sao, hay là buộc rợ vào chân mẹ cho trâu kéo hở con…con nghĩ lại cho mẹ nhờ …” Ngày này qua ngày khác, bất kể ngày hay đêm, cứ hai mẹ con ngồi với nhau là y như rằng nổ ra “xung đột” như thế. Oâng nhà văn liệu có nói quá đi không ? Trong gia đình, họ hàng nhà Thuỵ – đội trưởng du kích, “xung đột” và chia thành hai phe ‘cách mạng” và “phản cách mạng” còn dữ dội hơn.

Chú ruột của Thuỵ là cha Thuyết, bố đẻ của Thuỵ là ông trùm Nhạc. Ngày nọ cha cho gọi các cháu trong nhà gồm có Thuỵ, Toán và Quyên tới để cha cho tiền làm nhà. Trước khi đưa tiền, cha lại nói chuyện “chính trị” : “Nói đến cải cách tao lại nhớ hồi ấy du kích chúng nó làm bùi nhùi cụ Ngô rồi đâm chém hò hét. Thật trò hề. Cụ Ngô là người rất sùng đạo. Cụ là em đức Cha Ngô Đình Thuc đấy. Nghe nói sáng nào cụ cũng đánh ô tô đến nhà thờ xem lễ rồi mới về làm việc.

Trong Nam người ta yêu quý cụ lắm…” Nghe ông chú tuyên truyền “phản động”, dẫu ông là cha đạo đi chăng nữa, Thuỵ cũng chặn họng ngay : “ Thưa cha…cha cho gọi chúng con lên để nói chuyện trong nhà hay chuyện chính trị ?” Cứ như thế, chú cháu bốp chát nhau, sau cùng cha Thuyết chỉ cho tiền Toán và Quyên , còn Thuỵ nhất định không nhận. Bởi thế ông Nhạc, bố của Thuỵ chì chiết con :

“ Khí khái rởm. Tiền đưa tận tay mà không thèm cầm. Bốn năm chục vạn chứ có ít đâu, mày thử xem đến bao giờ mới dành dụm được chục vạn mà dựng nhà ? Mày cứ bảo cha không tốt, không tốt thì cũng là cha linh hồn, cũng là em tao, chú mày. Mày đừng đâm bị thóc chọc bị gạo để anh em tao lủng củng với nhau. Không tin người ruột thịt thì tin ai ? Mày không thèm lấy tiền của cha thì tao sẽ xin cha, ăn mày cha chẳng ai cười …

” Thế là quan hệ cha con của Thuỵ – đội trưởng du kích cũng căng thẳng chẳng thua gì quan hệ mẹ con của cô Nhàn – Phó Chủ tịch xã. Liệu có phải “vẽ’ ra xung đột trong những người ruột thịt với nhau là sở trường của nhà văn Nguyễn Khải không ? Trong một số không nhiều các nhà văn miền Bắc viết về Thiên Chúa giáo như Nguyễn Thế Phương với tiểu thuyết Nắng , Chu Văn với tiểu thuyết Bão biển…có thể nói Nguyễn Khải là nhà văn bám sát nhất quan điểm Mác Lênin “tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng”.

Chẳng hiểu ông có xác tín điều đó không hay là chỉ vờ vịt làm vui lòng các lãnh tụ văn hoá văn nghệ của Đảng; song trên các trang viết của ông nhan nhản những tình tiết, những nhân vật được ông mô tả chỉ nhằm bỡn cợt Chúa. Đám rước kiệu “tượng Đức Giê-su vác câu rút “ trong ngày lễ Phục sinh được mô tả với giọng dè bỉu :

” Thỉnh thoảng xé lên lanh lảnh một vài tiếng kèn đồng te té te té…chói tai , lạc lõng, chìm nghỉm ngay trong cía hỗn độn của tiếng trống, tiếng trắc gỗ , tiếng đọc kinh ngắm đàng thánh giá , tiếng gọi nhau í ơi…”. Trung thành với quan điểm “ Thiên chúa giáo là tay sai quân xâm lược , là bọn bán nước”, “ nhà thờ đồng nghĩa với phản động” – Nguyễn Khải nhìn đám người tổ chức đám rước toàn là quân phản động. Đánh nhịp cho đội trống là Quảng và Liêu.

Quảng là “ con trai phó trương xứ , mười bảy tuổi đã sung vào đội quân của cha Báu, mười tám tuổi chuyển qua đội quân com-măng-đô, ít lâu sau được cử làm người hộ thân cho viên quan năm chỉ huy quân sự miền hạ Nghĩa Hưng ”, mới đây lại gỉa chết để vu vạ cho bộ đội giết dân. Còn Liêu bị “tình nghi ở trong đảng phái phản động, truy bức vợ chồng hắn về võ khí trong nhà xứ. Từ ngày ấy hắn quan niệm về phần đời , phần đạo hoàn toàn khác. Thày Thịnh mời hắn ra đứng trong ban thành lập hội trống nhà xứ”.

Khi hộ trống đã được thành lập với ba mươi cái trống và bốn mươi bạn hữu, Liêu lộ mặt phản động “Lý tưởng của người ta không phải là xã hội chủ nghĩa mà chính là hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng…: “. Sau đội trống thì đến nghĩa binh nam và nữ. Oâng nhà văn mượn một con bé con để diễn tả sự thờ ở của con chiên với “nỗi đau của Chúa”. Nó “còn bé lắm chừng như mới chịu lễ lần đầu , hai đầu mào trắng chấm xuống gần khoeo chân…”. Nó mếu máo đọc kinh :” Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc…bà có phúc lạ hơn người nữ…và Giê-su con bà…”, nhưng mắt nó lại nhìn “một con chuồn chuồn mình đỏ đậu rún rẩy trên bụi rơi gai ở vệ sông. Oâi con chuồn chuồn đẹp quá, đậu ngờ nghệch quá…”.

Trong khi đầu óc con bé gái chẳng nghĩ gì tới Chúa thì ngay cả bà quản giáo trong đám rước cũng vậy . “bà không đọc kinh, bà còn mải trông hơn sáu mươi em nữ nghĩa binh, học trò của bà, nếu rời mắt là chúng nó lại xô đẩy nhau, cấu véo nhau…” và bà quản giáo được mô tả đầy ác cảm “trên khuôn mặt bà không có lấy một nét nào hiền dịu, tha thứ, cởi mở của người mẹ; nó ảm đạm như người có nỗi buồn sâu kín; nó khắc khổ vì bà là người tu hành ; khi bà đánh trẻ con thì rõ là người khó tính khắc nghiệt …”

Sau đó các con chiên lần lượt vào nhà thờ nghe đọc đoạn đóng đanh tưởng nhớ đến những sự thương khó Chúa Guê-su đã chịu trên cây thánh giá. Oâng nhà văn lại tiếp tục bôi bác nhà thờ khi cha xứ khó kiếm ra được một người đọc đoạn kinh đó. “” Oâng Đông phó trương xứ chữ quốc ngữ không biết, chữ nho cũng không nốt nên sự hiểu biết đạo lý kinh sách chẳng hơn gì người bổn đạo. Còn ông trùm Hoà , trùm đạo thôn Hỗ lại càng…dốt hơn.” .

Có thực là trong các ông trùm đạo lại nhiều người mù chữ đến như thế chăng ? Và rồi với giọng riễu cợt, ông nhà văn tả nỗi đau của một bà già thương xót chúa Giê-su : “ Bà Nhàn ngồi vào một góc, cái mào đen rủ xuống hai bên má che gần hết khuôn mặt ảm đạm của bà. Bà cố bày ra trong trí khôn như xem thấy chúa Giê-su bị quân dữ đóng đanh trên cây thánh giá thật. Những cái đanh sắt mà đóng xiên qua bàn tay Chúa mình như thế thì đau đớn biết chừng nào, chỉ vì tội mình và tội tổ tông truyền. ÔI, cái mạo gai, có những bảy mươi hai cái gai lọt vào óc Chúa tôi, buốt nhức biết bao nhiêu , máu chảy đầy mặt ròng ròng. Bà cứ tự vật vã với mình , trách móc mình sao đã vội vã quên đi sự thương khó mà Chúa đã phải chịu…”

Thật là một đoạn văn tiêu biểu minh chứng cho quan điểm “tôn giáo là thuốc phiện “ của Mác. Đó, cái thứ “thuốc phiện” đó đã làm một bà già trở thành mê mụ, mù quáng đến dở hơi như thế đó. “ Chúa lấy hai cây gỗ cứng thay giường nằm, lấy mạo gai nhọn thay gối còn bà thì giường cao, chiếu sạch, chăn đắp , màn che , bà còn phàn nàn gì nữa, kêu xin gì nữa. Bà không bao giờ ao ước được sướng hơn mà chỉ muốn mình sẽ khổ đi, chịu đựng thêm vì con đường lên thiên đàng là con đường hẹp…”

Riêng đoạn văn “tôn giáo là thuốc phiện” trên đây cũng đáng để cho Ban tôn giáo Chính phủ tặng bằng khen cho nhà văn Nguyễn Khải. Lực lượng bên phía “nhà thờ” đông đảo như vậy nhưng thật ra chẳng là cái gì với chính quyền cách mạng mà tiêu biểu nhất là Môn – Chủ tịch xã. Khi dựng mối quan hệ đối lập giữa “nhà thờ” và “nhà nước” , Nguyễn Khải huỵch toẹt :” Một trong những địch thủ nguy hiểm nhất của nhà xứ là Môn, xã đội trưởng ngày trước và nay là chủ tịch xã …” Trong cải cách, do “âm mưu của nhà thờ” , Môn đang là xã đội trưởng bị kích lên “thành phần phản động” suýt nữa thì bị bắn như Rỹ.

Lúc sửa sai, Môn được phục chức và trở thành một đảng viên trung kiên của Đảng, lập trường còn vững hơn cả cấp trên. Anh ta thường xuyên theo dõi các các hoạt động trong nhà thơ và bắt ne bắt nẹt từng ly từng tý. “ Một hôm trên toà giảng, cha Vinh cao hứng nên có giảng chệch ra ngoài kinh sách E-van đôi chút :” Vinh đây dẫu đầu rơi máu chảy cũng không chịu lui đâu. Nó có vả ta má bên hữu ta còn giơ má bên tả cho nó vả nữa kia. Ai chịu bắt bớ vì sự công chính thì có phúc thật vì nước trên lời là của kẻ ấy…”

Cha chỉ giảng “ngoài “ kinh sách có thế thôi, vậy mà lập tức có kẻ mật báo, ngay sau buổi giảng, “Môn nhân danh chính quyền mời cha Vinh đến trụ sở nói chuyện”. Khi cha tới, “cha đưa tay ra nhưng không ai bắt nên lại rụt tay về”, Môn trấn áp ngay : “ Linh mục làm phản động , chính phủ bắt giữ để tự hối cải lại còn nói không lùi bước. Ý chừng linh mục muốn chống đối với chúng tôi mãi chăng ?

Muốn làm phản động lần nữa hay sao ? Nếu vậy chúng tôi sẽ có cách…” Tất nhiên cha sợ vãi mồ hôi, lần sau cạch đến già có giảng kinh thì cũng phải “uốn lưỡi bảy lần “ mới dám nói. Nguyễn Khải muốn đề cao “uy thế của cách mạng” nhưng lại vo âtình tố cáo việc đàn áp tôn giáo của Nhà nước. Trắng trợn hơn nữa, Ban chánh trương cùng các trùm họ mở một buổi tiệc mổ trâu để bầu Quý là địa chủ vào Ban chánh trương xứ.

Tất nhiên Môn được mật báo và tuy không được mời cũng lừng lững đi vào bữa tiệc như chỗ không người rồi lên giọng chủ tịch xã :” Muốn đạo gì thì đạo , đã là công dân thì phải theo đúng pháp luật của Nhà nước . Nếu ai làm trái thì dù bố mẹ đẻ ra cũng không bênh được …” Thật đúng là giọng một con sói nhảy vào giữa bầy cừu .

Uy thế cách mạng thì có cao thật nhưng cái lá chắn ‘tự do tôn giáo” giả hiệu lại bị phơi bầy khi ông Chủ tịch xã can thiệp cả vào việc bầu bán của nhà thờ :” Tôi lấy một ví dụ : đã là địa chủ thì nhất thiết phải tước hết quyền công dân, không được tham gia bất cứ một tổ chức nào cả.Thấy ban chánh trương cũ bất lực cần bầu lại thì cứ bầu, giáo dân chúng tôi hoan nghênh mà uỷ ban cũng hoan nghênh, nhưng bầu địa chủ là sai, địa chủ lãnh đạo nông dân là chuyện ngược đời, là trái chính sách , trái cả lẽ đạo…”

Ghê gớm chưa ? “Xung đột ” giữa Nhà thờ và nhà nước tưởng nổ ra dữ dội trong cuộc đấu tranh “một mất một còn” mà rút cuộc nắm chính quyền trong tay thì một anh nông dân hạng bét như Môn cũng có thể quát tháo, đe nẹt được tất cả giới chức phẩm của cả một xứ đạo. Và chỉ vài ngày sau khi chánh trương xứ Quý đi Hà Nội về, “ Môn cho hai du kích đến áp giải Quý lại trụ sở bắt ngồi xuống đất .

Môn hỏi : “ Quý ! Mày hãy nhắc lại tám điều quy định cho địa chủ sau cải cách ruộng đất để uỷ ban nghe !” Lâu lắm ông chánh trương xứ mới lại bị nghe một người khác nói đến tên mình một cách láo xược vậy. Nhưng người đó lại là …đại diện chính quyền . Bởi vậy “Môn bảo sao hắn cũng vâng dạ ngoan ngoãn lắm như người bị mê muội từ lâu nay mới có dịp thức tỉnh. Môn kết luận : “ Mày đi Hà Nội không xin phép ai , đáng lý phải trị thẳng tay làm gương cho đứa khác nhưng Uỷ ban tha thứ lần đầu.

Còn mày làm những gì thì trong này đã có hồ sơ cả . Đời mày do mày định đoạt lấy. Muốn ăn cơm nóng , ở nhà với mẹ với vợ cũng được mà muốn ăn cơm mắm, ngồi xà lim cũng được …” Ngày nay đọc lại đoạn văn này vẫn thấy “sởn gai ốc” về cung cách đối xử của Nhà nước đối với một đại diện của con chiên trong một xứ.

Chủ tịch xã Môn là một người có “đạo gốc” nhưng được cách mạng giác ngộ nên đã trở thành “ con sói dữ”, “ một trong những địch thủ nguy hiểm nhất của nhà xứ “, “không thích làm những việc vụn vặt , tầm thường , bao giờ cũng đảm đương những nhiệm vụ khó nhất, phức tạp nhất người khác không làm nổi “, là một người “ốm cũng không dám nằm thật, bị cảm đã mấy hôm vẫn ra trụ sở , hay ngồi nhà nhưng vẫn giải quyết công việc …vui lòng hy sinh đời mình cho công tác” .

Nguyễn Khải chọn một người thay mặt chính quyền “bảo hoàng hơn cả nhà vua, mácxít hơn cả những người cộng sản” như vậy thì tất nhiên cán cân phải lệch hẳn về phía cách mạng trong cuộc đấu tranh “quyết liệt” “ai thắng ai” diễn ra trên mọi mặt của đời sống miền Bắc. Thực ra “ai thắng” thì đã quá rõ rồi, và thực ra đó không phải là cuộc ”đấu tranh một mất một còn” như nhà nước vẫn tuyên truyền mà chính là một cuộc trấn áp tất cả những gì có thể gây nguy hại tới việc cầm quyền của Đảng.

Bởi thế người ta thấy mối quan tâm duy nhất của ông Chủ tịch xã Môn chẳng phải nhằm tới phát triển sản xuất nâng cao mức sống cho dân mà chỉ nhăm nhăm để ý coi nhà thờ có những biểu hiện gì xâm phạm tới “đường lối của Đảng và Chính phủ”. Từ việc nhỏ như xứ đạo mổ trâu để ăn mừng Ban chánh trương mới ra mắt cũng phải xin phép tới việc thành lập hội kèn để phục vụ lễ rước cũng trở thành chuyện “trong đại” Uỷ ban cần phải xét bên trong có âm mưu chống phá gì không ?

Khi “duyệt” cho nhà xứ thành lập đội kèn, ông Chủ tịch Môn còn đặt điều kiện : “ Người trong hội kèn chỉ biết có thổi kèn thôi, ngoài ra không được làm những việc gì khác, nói rõ ra là không được làm chính trị. Nếu có thế nào thì ban chánh trương phải chịu trách nhiệm. Còn nếu bằng lòng đặt dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban thì cụ thể phải nằm trong khối văn xã…”

Cán bộ nhà nước thì được Nguyễn Khải ca ngợi một tấc lên trời nào tinh thần làm việc tận tuỵ nào ý thức cảnh giác rất cao nào lập trường cách mạng rất vững, ngược lại với các cha đạo thì bị nhà văn ‘bôi bác” hết chỗ nói. Hình như các cha nếu không “hám gáiù” thì cũng “hám tiền”. Ở xứ đạo có một bà goá mới ngoài 40, “nhưng còn tươi tắn khoẻ mạnh lắm, khi ông bõ ở nhà xứ chết thì ban chánh trương cắt cử bà vào thay”.

Bà goá này “ngày hai bữa cơm dâng cha và các chú ăn, giặt giũ quần áo , chăn lợn, làm vườn , dần dần cai quản cả thóc lúa và việc chi tiêu trong nhà xứ. Đêm bà cũng không về nhà cứ ngủ trong cái buồng kho.” Có người đàn bà phây phây bên cạnh, làm sao mà cha không nổi lòng trần tục. “Khi thì bà lên buồng cha Vinh bưng cơm rót nước, khi cha Vinh xuống buồng bà hỏi han công việc. Có một buổi trưa cha đang ngủ bà sai cháu lên buồng cha gọi :” Cha ơi cha, bà con bảo cha cởi áo cho bà con vá…”

Ngoài chuyện “gái gủng” ra, các cha còn tìm mọi cách moi tiền của giáo dân .. Oâng Bính, một con chiên ngoan đạo nhận xét : “ Các cha xứ từ trước đã ăn mười phần thì nay nên thương con chiên mà ăn năm thôi. Các cha tải của về quê có nhiều chứ ăn là mấy . Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng, các cha không có vợ thì cho bố mẹ, anh em, bà con…”

Còn cha Thuyết thì thu tiền của giáo dân theo giá “cắt” cổ : “ Oâng kể lại một hôm ngồi hầu cơm cha Thuyết, được nửa bữa có người đến hỏi : “Lễ sáng nay làm cho linh hồn vừa mới qua đời hết bao nhiêu ?” Cha vừa ăn vừa trả lời : “ Hai vạn” Người kia móc tiền để vào đĩa, bốn tờ giấy năm nghìn còn mới . Bữa cơm chưa xong đã có tốp đến mười bà dòng vào cũng để tiền vào đĩa dâng lên. Cha ngưng đũa hỏi : “ Tiền gì?” “ Trình cha tiền tứ kỳ” *

“ Mấy vạn” “ Trình cha ba vạn mốt…” Cha lại cuộn tiền cho vào túi. Cha ăn chưa hết bát cơm mà được món bổng những hơn năm vạn, mình vai vác cầy, tay dong trâu, làm hang đá, dựng đèn đại khó nhọc hàng tháng chẳng được xu nào…” Thật là một sự “bôi bác” trắng trợn và “vơ đũa cả nắm” các cha đạo của ông nhà văn .

Đã “ấn định” là viết tiểu thuyết với chủ đề ‘xung đột” nên chẳng riêng gì các cán bộ cốt cán của chính quyền xã như Môn, Nhàn, Thuy…mà ngay chính bản thân nhà văn Nguyễn Khải nhìn đâu cũng thấy “xung đột”, nhìn cái gì cũng thấy “địch phá hoại”. Năm ấy thôn Hỗ được mùa, “no ăn cho nên thanh niên đua nhau chơi diều sáo….

Thanh niên chơi, cán bộ chơi, cả cụ già cũng thả diều…Oâng trùm Hoà nói chuyện với Môn, với Nhàn, với các cán bộ của xã :” Đấy, nhờ sự lãnh đạo của Uỷ ban, năm nay thôn nhà vui vẻ quá, đàn sáo suốt đêm…: Chơi diều ở nông thôn là chuyện bình thường, nhưng tác giả cũng có gài cho nó một ẩn ý “chính trị” : “ Thôn xóm đương sầm uất vì việc đạo , vui vẻ phần đời thì vợ Liêu ngồi bán hàng ở chợ Hỗ rỗi mồm kháo chuyện :” bây giờ ở dưới đất các ông cán bộ tranh hết phần nói nên dân lại phải làm mồm ở trên giời…”

Thế là lập tức nhiều người phụ hoạ :”Đấy, nghe kỹ mà xem, cái sáo nó cứ kêu : cha ơi…cha ơi…cha ơi….”. Thế rồi một số người xì xào to nhỏ với nhau : “ Bây giờ hoạ cộng sản dâng lên như nước thuỷ triều, không thể đối địch với chúng được , càng cựa càng bị giây pháp luật thít chặt đành phải nhờ tiếng sáo nó kêu khắp bốn phương may ra có thấu đến Chúa , đến đức Mẹ , đến các cha ở miền Nam không ?” Vậy là giống như đội cải cách trong những đợt “phóng tay phát động quần chúng” vùng lên phát hiện địch và diệt địch, ông nhà văn cũng nghe thấy tiếng nói của bọn “phản động” qua tiếng sáo diều của dân quê.

Sau vụ “sáo diều” rồi đến vụ làm “nhà nguyện”. “Cũng nhân dịp năm nay làm ăn xởi lởi nên một vài xóm rục rịch dựng nhà nguyện để sớm tối giáo hữu đến đọc kinh , đỡ phải lên mãi nhà thờ xứ…”. Thông thường, chuyện dựng nhà nguyện chẳng có gì ghê gớm, nhưng ông nhà văn cũng lồng vào đó “âm mưu phá hoại của nhà thờ”.

Thế là nhân dịp ông Chú tịch xã Môn đi vắng nửa tháng, ông trùm Hoà xin phép bà Phó Chủ tịch Nhàn dựng nhà nguyện. Bà này lý luận : “ Đứng về phía chính quyền mà xét thì việc dựng thêm nhà thờ họ lẻ rất phù hợp với chính sách bảo vệ tín ngưỡng của chính phủ, đứng về mặt đạo thì lại càng nên khuyến khích hơn , nước Chúa có được mở rộng thì mới có thêm nhiều linh hồn được cứu chuộc…”

Thế là bà Phó Chủ tịch Uỷ ban cho phép luôn. “Uỷ ban đồng ý buổi sáng thì buổi chiều họ xóm trại khởi công xây dựng nhà thờ ngay….Văn phòng của ông chánh đốc công xây nhà thờ họ chật ních người đến làm việc phúc đức. Giá thóc chợ Hồ xuống hẳn vì xóm trại đem thóc đi bán nhiều quá…:”. Như vậy chứng tỏ việc xây nhà nguyện rất được dân đồng tình và tự nguyện đóng góp. Nhưng rủi cho mấy ông trùm đạo, khi nhà nguyện cất xong, sắp sửa làm lễ khánh thành thì ông Môn, Chủ tịch xã đi công tác về. Và thế là lại nổ ra một cuộc “xung đột” và được ông nhà văn mô tả rầm rộ theo tinh thần “một mất một còn”.

*tiền dùng để cầu nguyện cho linh hồn các người đã qua đời

Oâng Chủ tịch xã Môn đi họp về thì ngôi nhà nguyện đã xây xong rồi không ngăn cản được nữa, nhưng ông gây chuyện bằng cách không cho tổ chức ăn mừng khánh thành và bắt mấy ông trùm đạo mang hết sổ sách lên để ông…kiểm tra. Rõ ra là ông muốn làm cha thiên hạ, cai quản luôn cả việc đời lẫn “sự đạo”.

Trong cuộc họp Uỷ ban, ông thẳng thừng phê bình bà Phó Chủ tịch Nhàn “hữu khuynh” đã cho phép dân xây nhà nguyện : “Tôi thử hỏi các đồng chí chỉ riêng có một xóm trại xin làm nhà thờ hay là cả miền này , cả tỉnh này đang rục rịch yêu cầu thế ? Có phải chỉ sau khi ông Lân nhân danh đức Cha đi kinh lý các xứ mới sinh ra cái chuyện này không ?

Tại sao các xóm phàn nàn là hồi này gọi đi họp rất khó. Bây giờ chưa khó lắm đâu, nay mai mà để mỗi xóm lẻ mọc lên một cái nhà thờ hoặc một cái nhà nguyện thì tối đến chỉ đánh chuông đến boong một tiếng là cán bộ ngồi trơ một mình khai hội với bức vách. Đồng chí Nhàn bảo tôi tả, nhưng tôi lại nhận xét đồng chí giải quyết các việc thuộc về tôn giáo rát khờ dại. Cứ giải quyết theo hướng đó thì có ngày uỷ ban đem vợ con lên núi ở…”

Nhưng “giải quyết theo hướng của ôâng Chủ tịch Môn” thì chỉ có nước…dẹp đạo. Cấm đoán từ thả diều vì sợ nghe tiếng diều sẽ thành tiếng “cha ơi, cha ơi” đến cấm làm nhà nguyện sợ không còn ai thiết đi họp với cán bộ, không cho ăn mừng khánh thành sợ dân đóng góp cho nhà thờ nhiều quá, cấm đoán vậy cũng chưa thoả lòng, ông Chủ tịch xã còn nhảy xổ vào cầm tay chỉ việc cho nhà thờ sát sạt đến tận từng con cá từng lá rau.

Thật không hiểu đức Giáo hoàng Phao lồ ở Vatican nghĩ sao khi trên đất nước Việt Nam “độc lập - tự do - hạnh phúc”, ông Chủ tịch xã – chính quyền cơ sở của Nhà nước lại “chỉ đạo” cho nhà thờ : “ ..vôi nhà xứ đã có sẵn mười tạ , nay mua thêm hai mươi tạ nữa là vừa đủ, xây hai cổng , xây tường hoa , quét vôi trong nhà thờ. Nhà thương phía sau nhà cô mụ quá dột nát thì sẽ vận động các xóm góp rạ , góp tre lợp độ dăm buổi .

Ghế gãy đóng lại, nếu còn thiếu thì đóng thêm. Không nên mua chiếu ngoài rất tốn, chỉ cần mua ít đay, ít cói rồi triệu tập thanh nữ, bà già lại đánh đay, đem bàn dệt vào dệt…” Theo kiểu “tư duy của nhà văn Nguyễn Khải” , ông Chủ tịch xã “thò tay chỉ việc” cho nhà thờ như vậy là Nhà nước “quan tâm” “ưu ái” đối đãi với tôn giáo lắm lắm, thể hiện rõ ràng “chính sách tự do tín ngưỡng” sáng ngời ngời của Đảng và Nhà nước ta. Than ôi, ông nhà văn đâu có biết một khi nhà thờ bị Nhà nước “quản lý” tới từng “cân vôi ”, từng chiếc chiếu, chiếc chân ghế gẫy …thì thử hỏi còn đâu là …tự do.

Nguy hiểm thay, nếu tiểu thuyết “Xung đột” của nhà văn Nguyễn Khải chẳng may lọt vào tay một chuyên viên phân tích của Toà Thánh La Mã thì bao nhiêu “lời hay ý đẹp” về tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta từ xưa tới nay sẽ vỡ tan tành như bong bóng xà phòng. Chị Phó Chủ tịch Nhàn là người “mâu thuẫn ý kiến” với Chủ tịch Môn, chị chủ trường cho dân ‘xây nhà nguyện”, cho dân “ăn mừng khai trương nhà nguyện”, cứ ngỡ õ chị đứng về phía bà con giáo dân, ngờ đâu khi bị động chạm tới quyền lực, chị ta cũng nhảy nhổm lên, lộ mặt là kẻ bạo quyền.

Nguyên ông trùm đạo mơ hồ về chính trị, phát biểu “ý kiến” theo kiểu “ ý thức công dân “ trong một đất nước có luật pháp : “ Nói thẳng ra, cứ thế này mãi thì khó ai tin được lời chị nói, khó ai tin được cái uỷ ban này nữa. Dân bầu lên thì dân cũng có quyền truất đi. Không dễ mỗi lúc bỏ tù nhau…”

Đây là niềm tin ngây thơ về thứ quyền công dân hồi Đảng và Chính phủ ta mới “giải phóng hoàn toàn miền Bắc xã hội chủ nghĩa”, họ chưa biết cán bộ chính quyền là do Đảng cử ra, “dân bầu” chỉ là trò giả hiệu và chẳng bao giờ dân có quyền “truất đi” như ông trùm đạo tin tưởng. Bởi vậy mới nghe ông trúm dạo động chạm tới cái ghế của mình, chị Phó Chủ tịch xã đã cảnh giác : “ Bây giờ ông định bàn với tôi về làm nhà thờ họ hay muốn phê bình uỷ ban ?”

Oâng trùm họ vẫn “ngây thơ về chính trị” vẫn tưởng mình còn có cái gọi là “quyền công dân” nên vẫn cứng cỏi : “ Chúng tôi là dân, chúng tôi không biết đâu đến sự làm việc của uỷ ban mà phê bình, uỷ ban làm đúng hay sai thì tự xét lấy…” Thực ra cán bộ công quyền là do dân bầu ra, dân có quyền “phán xét”, có quyền “phê bình” là chuyện bình thường trong một xã hội dân chủ. Tuy nhiên ở nước Việt Nam những năm thập kỷ 1960 và ngay cả thời Nhà nước đang “hiện đại hoá, công nghiệp hoá” hiện nay thì chuyện “phê bình”, “phán xét” cán bộ vẫn là chuyện “mó dế ngựa” bị nó đá tan xác có ngày.

Bởi thế khi nghe ông trùm đạo cả gan “phê bình” uỷ ban, chị Phó Chủ tịch Nhàn vẫn được tiếng là đứng về phía nhân dân cũng trở mặt, nổi xung : “ Từ nay nếu ông bàn với tôi về việc làm nhà thờ họ thì tôi vẫn hết sức nghe ông, nhưng ông lại nói lếu láo, bậy bạ về uỷ ban, gây dư luận không tốt trong nhân dân thì uỷ ban sẽ chiếu theo pháp luật mà giữ ông lại. Ngày xưa cũng thế, bây giờ cũng vẫn thế , đã làm bậy thì dù là cha cụ, là chánh trương, trùm trưởng hay con chiên thường cũng đều phải chịu xét xử như nhau , chẳng nể mặt một ai.

Toà Giám mục cũng không can thiệp được vào công việc của chúng tôi, toà thánh La mã cũng không dúng vào được công việc của Uỷ ban. Ông đừng có doạ, tôi phụ trách về tư pháp tôi biết hơn rõ ông ….” Ghê gớm chưa, “thằng dân” vừa mới lắp bắp định mở miệng “phê bình chính quyền” thì bà Phó Chủ tịch xã đã đao to búa lớn, tới tấp ra đòn đánh dập đầu , đánh “tiêu diệt”, đánh cho đối thủ không kịp trở tay, mang cả Toà Thánh La mã ra đe nẹt khiến cho ”mặt ông trùm đờ ra , môi nhợt trắng như người phạm lỗi bị bắt quả tang…”..

Th? m?ùi biết, quyền lực là thứ “thiêng liêng tối thượng” của Đảng và Nhà nước, xưa đã thế mà nay cũng thế, sau này càng thế, bất kỳ ai động chạm tới cái món “quốc bảo” đó hãy coi chừng hộc máu mồm. Trong khi khắc hoạ chân dung bà Phó Chủ tịch xã Nhàn ‘trung với Đảng”, hết lòng bảo vệ chính quyền, ông nhà văn Nguyễn Khải vô tình đã làm rớt bộ mặt “dân chủ giả hiệu” dân biết, dân bàn, dân làm mà cả một bộ máy tuyên truyền khổng lồ của Đảng và Nhà nước đã ra rả cổ động cho nó năm này qua năm khác. Sau khi đã nạt nộ người dân bằng những lời lẽ hách dịch sặc mùi cảnh sát như vậy, chị Phó Chủ tịch Nhàn lại tỏ vẻ “nhân đức bà Tú Đễ”, trong cuộc họp Uỷ ban giỏ những giọt nước mắt cá sấu tâm sự với ông Chủ tịch : “ Lạy Chúa, sao tôi lại sinh ra ở cái đất này ! Sao tôi lại là con chiên của Chúa !

Tôi không bỏ đạo được mà tôi cũng không thể bỏ hoạt động được . Tôi muốn làm cả hai nhưng không ai để cho tôi được yên thân…”

Đây là những giọt nước mắt, những lời than thở ông nhà văn bịa tạc đặt vào mắt vào miệng nhân vật cho nó có vẻ “ phong phú và đa dạng “ vậy thôi. Thực chất những cán bộ ‘trung kiên của Đảng” như Môn, như Nhàn…đều là những con chiên ghẻ, bán Chúa theo cộng sản, họ còn chưa bỏ đạo chính là vì muốn ở lại đạo để làm một thứ mật vụ theo dõi nhất cử nhất động của nhà thờ để mà tăng cường các biệân pháp quản lý đó thôi chứ chẳng “sụt sùi nghĩ ngợi” như ông nhà văn cài đặt vào tích cách bà Phó Chủ tịch xã một cách sống sượng thế đâu. Oâng lại còn cho bà Phó Chủ tịch bật khóc : “ Rồi Nhàn bật khóc thành tiếng : “ Tôi theo Chúa, tôi theo Chính phủ, tôi theo cả hai mà không được sao ? Oâi, lạy chúa.

Con cho họ miếng bánh nhưng họ đã ném đá trả lại, con đến với họ với tấm lòng nhân từ của mẹ, nhưng họ lại đối đãi với con như kẻ thù…” Kìm kẹp, thắt buộc, bắt giữ người dân như thế mà dám bảo là “ cho họ miếng bánh” với cả “ đến với họ với tấm lòng nhân từ của mẹ” , còn thằng dân mới chỉ “ em xin phê bình cán bộ” vậy mà đã la làng lên “ họ ném đá trả lại” thì rõ thật là gái đĩ già mồm” theo lối nói của các cụ ta ngày xưa… Nếu như “Xung đột” phần 1 ( viết năm 1956) khép lại những cuộc “xung đột” giữa chính quyền và giáo hội thì “ Xung đột” phần 2 ( viết năm 1961) mở ra những “xung đột” giữa con người với “lợi ích vật chất”, tiền bạc. Trước hết là cha Thuyết, người cha linh hồn của cả giáo phận, được Nhà nước “quan tâm” cho đi mổ lấy sỏi mật, bỗng dưng biến thành một người ca ngợi “miếng ăn, miếng uống” sặc mùi “ơn Đảng, ơn cụ Hồ”. Ta hãy nghe đấng chăn chiên “hồ hởi phấn khởi” bốc thơm bệnh viện Nhà nước :

“ Oâi chao, quý hoá quá sức mình , cao trọng quá đỗi. Cái nhà thương rộng dễ đến một xóm của ta , cao ngân ngất như đền thánh đức Mẹ ở Phú Nhai vậy …” Rồi cha khoe cha được “ưu tiên” hơn cả cán bộ xã : “ Này, thằng Thuỵ, con Nhàn có ốm cũng chưa dễ đã được vào chỗ tôi nằm đâu.

Lúc đầu tao cũng chẳng tin gì vào cái khoa mổ xẻ , còn chần chừ lắm. Nhưng chính phủ đã bỏ công, bỏ tiền xây dựng một toà nhà to như vậy, nuôi hàng trăm ông bác sĩ thì tao chắc họ làm phải giỏi…” Mổ bụng vậy mà cha …không được đánh thuốc mê hay sao mà cha một tấc đến trời : “ Lưỡi dao họ lách vào đến đâu tai tao nghe rõ đến đó , nhưng chẳng đau đớn gì sốt. Để tôi lấy bà lão xem cái vật quý này – Cha chạy vào mở tráp cầm ra một cái gạc bông .

Bà đã thấy chưa , lúc họ mới đưa tôi để làm kỷ niệm nó to bằng ngón tay cái sờ rắn như đá sỏi. Nó nằm trong bầâu mật dễ đã hàng chục năm nay, cái cơn đau vừa rồi mà ở nhà quê chắc là chết….” Rồi cha bầy tỏ tình cảm của mình với cái nhà thương mà Nhà nước đã cho cha nằm : “ Một tháng ở đấy thanh nhàn vui sướng chẳng nói được, toại lòng phỉ chí đến không muốn ra về nữa…” Đến cái cách cha ca ngợi “miếng ăn hàng ngày” mới thật thảm hại : “ Cha cười ầm ầm : “ Min ăn suốt ngày, thật như con trẻ, bốn bữa, năm bữa, mỗi bữa ăn một vực cơm đầy. Bây giờ thì min có thể sống thêm được vài chục năm nữa…”

Được Nhà nước cho chút “bổng lộc” cha trở giọng chửi bới cha Lân ở Toà Giám mục vốn là người đang bị chính quyền nghi ngờ kích động giáo dân : “ Tao cứ trông thấy thằng Lân ở đâu là chỉ muốn lánh mặt. Nó chỉ đem phiền muộn đến cho mình. Muốn an nhàn một chút cũng chẳng được. Cái thứ ấy chẳng liên quan gì tới tao, tao là đấng chăn chiên thì chỉ biết vâng theo lệnh bề trên thôi…” Cha nói vậy thôi, ngay với đức bề trên trực tiếp là cha Tuệ, giám quản địa phận Bái, cha cũng giở giọng bóng gió độc ác nói với ông Thường trực Uỷ ban xã : “Tao thấy ở đời này lắm người có đạo mà lại hay bỏ vạ cáo gian , đức hạnh nết na chả có, lòng đầy rẫy những sự ghen tuông, hờn giận , oán thù.

Mặc áo thầy tu mà trong lòng thì dữ tợn quá con quỷ…” Sau khi đặt vào miệng cha những lời bôi xấu cha bề trên cay độc đến mức độ khó tin , nhà văn Nguyễn Khải lại khoác thêm cho cha cái tội “tố giác” cha giám quản Phạm Ngọc Tuệ hoạt động chống Nhà nước : “Oâng Tuệ có ý mời các cha trong địa phận về Bái họp, áng chừng muốn dùng số đông khiếu nại lên chính phủ…” Và cha bầy tỏ lòng quy thuận với nhà cầm quyền :

“ Nhưng bây giờ thì tao mặc, tao cũng có nói với lão Lân rằng : ở Toà Giám đã có đức giám quản sáng suốt khôn cùng, đã có cha chánh xứ, cha cố vấn, hội đồng tư vấn gồm toàn những con người khôn ngoan rất mực thì còn cần gì đến những thằng già lẩm cẩm chỉ biết giảng kinh , giải tội cho con chiên, chỉ biết chú mục làm việc Chúa cho danh Cha cả sáng…”

Rồi cha còn làm cái việc phản phúc là nộp cho nhà cầm quyền cái thư của cha Giám quản gửi cho cha trong đó đầy những lời bóng gió : “ Trong cuộc giao tranh thiêng liêng để chiếm nước thiên đàng, đạo binh hùng dũng nhất là đạo binh cầm tràng hạt Mân Côi chứ không phải là khí giới cầm tay…” Than ôi, chẳng lẽ Nhà nước mới chỉ bố thí cho chút lộc đi chữa bệnh một chuyến mà cha đã bán linh hồn cho quỷ dữ ca ngợi kẻ cầm quyền và tố cáo cả người trong giáo hội mình sao ?

Quả thực, trong việc vu cáo và bôi xấu linh mục, giải nhất ‘cây bút vàng” phải giành cho nhà văn Nguyễn Khải trong tiểu thuyết Xung đột 2. Sau cha Thuyết, đến lượt chính “đồng chí” Thuỵ, thường trực Uỷ ban xã sa ngã vì bả vật chất. Bị cha Thuyết mồi chài, thuyết phục, ông Uỷ viên thường trực xã lao vào xây dựng nghĩa trang bằng tiền của nhà thờ và tất nhiên qua đó ông cũng làm cái việc ăn bớt ăn xén, “moi ruột công trình” như thời bây giờ. “ Rồi cha móc túi lấy ra một cuộn bạc chẳng cần đếm là bao nhiêu đưa cho Thuỵ. Từ đấy Thuỵ là người cai quản hết thảy mọi việc…qua mỗi việc Thuỵ lại lên trình bẩm với cha và lần nào về cũng đưa cho vợ hàng gói bạc…”

Thế là ông cán bộ uỷ ban bắt đầu dấn sâu vào việc “ăn tiền” của nhà thờ : “ Mấy lần đầu do còn ngượng ngập , chưa quen cái việc cầm tiền của người khác nên Thuỵ tỏ ra hết sức sòng phẳng vừa để cho ông cha biết anh vẫn giữ được tấm lòng trong sạch của một cán bộ vừa để an ủi lương tâm mình không bị đồng tiền trói buộc. …” Nhưng cái việc “giữ tấm lòng trong sạch của cán bộ” chẳng kéo dài được bao lâu.

“ Đáng lý chỉ cần một trăm thì cha lại vứt ra một trăm rưởi . Cái con số lẻ ấy mới đầu như chênh vênh nhưng dần dần nó đã tìm được chỗ đứng vững chắc…”. Thế là ông cán bộ thường trực Uỷ ban dần dà bị mua đứt. Từ nay hàng ngày, trên mâm cơm nhà ông không chỉ là “rau muống luộc chấm nước cáy” nữa, “vợ Thuỵ đã phải lăn xuống bếp : hôm giết con gà, hôm đánh bát tiết canh vịt, rồi nào lòng xào, lòng nấu miến, khúc cá rán, khúc nẩu riêu, rau muống cũng phải xào đẫm mỡ…” Từ đó cách sống nhà ông thường trực uỷ ban thay đổi hẳn, “ toàn một giọng hỉ hả, đài các, toàn những chuyện may sắm , lựa chọn cái này cái nọ, tính toán giá gỗ đóng giường, giá vải hoa làm màn che, cái phích đựng nước nóng, bộ ấm pha trà…”

Kể ra so với các quan tham bây giờ, cái “sự ăn” của Thuỵ, thường trực Uỷ ban thấy quả thực là…tội nghiệp, không bằng một anh phó thường dân ngày nay, nhưng đối với thời đó, mức sống như Thuỵ đã là “tư sản hoá” rồi. Từ chỗ thay đổi mức sống, Thuỵ dần dà biến đổi cả tính cách : “ Cái không khí tâng bốc , phỉnh nịnh càng bao vây anh thì tính kiêu ngạo , tự mãn càng choán mọi hành động , ý nghĩ của anh.

Anh độc đoán trong mọi ý kiến, người khác chỉ có thể tán thành chứ không có quyền phản đối. Và nếu kẻ nào tỏ vẻ ngang bướng, cứng cổ thì không ngần ngại gì anh tìm cách ghép họ là chân tay của bọn phản động đã bị đánh gục trong sửa sai nay lại muốn ngóc đầu trỗi dậy…” Hoá ra từ thời đó đã manh nha một loại người mới xuất hiện sau cách mạng : “ cán bộ” .

Tham lam tiền bạc, khăng khăng giữ ghế và sẵn sàng hạ độc thủ với bất kỳ ai động chạm tới cái ghế của họ. Hình ảnh ông Thường trực uỷ ban xã đúng là chân dung bậc tiền bối của quan chức các cấp thời bây giờ. Cóù điều , ông nhà văn chỉ dám dựng nhân vật đó như một trường hợp cá biệt, một “con sâu làm rầu nồi canh”, còn tuyệt đại đa số cán bộ ta vẫn chí công vô tư, hết lòng vì nước vì dân. Và ông nhà văn tin tưởng sắt đá rằng loại “cán bộ tiêu cực” như Thuỵ nhất định sẽ bị đào thải : “ Hơn nửa năm nay …Thuỵ không còn được đảng viên trong chi bộ tín nhiệm nữa. Kỳ bầu ban chi uỷ vừa qua, Thuỵ chỉ được vỏn vẹn có hai phiếu, một lá của Môn và một nữa chắc do Thuỵ viết…”

Oâng nhà văn tuyệt nhiên không dám lộ hé rằng loại cán bộ như Thuỵ mới chính là “nhân vật thời đại” của Đảng ta. Nó như một thứ ký sinh trùng ngày càng sinh sôi nảy nở, hằng hà sa số, sống bám trên cơ thể dân tộc, đục khoét, ăn cắp từ tiền bạc, địa vị xã hội tới tài nguyên, môi trường, phá hoại những di sản quá khứ và làm băng hoại những giá trị tinh thần và đạo đức xã hội. Sau khi tiến hành xong công cuộc cải cách ruộng đất phá tan hoang nền tảng đạo lý cổ truyền ở làng quê Việt Nam, vào những năm đầu thập kỷ 1960, Đảng và Nhà nước lại rầm rộ phát động một cuộc cách mạng tiếp theo : công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp mà hơn 20 năm sau đó nó đã phá huỷ gần hết năng lực canh tác trên ruộng đồng .

Tuy nhiên phải đợi tới năm 1986, tính chất phá hoại của nó đã rõ rành rành, cái chết do nó gây ra đã tới sau lưng, Đảng mới ngấm ngầm xoá bỏ nó bằng việc trả lại ruộng đất cho dân và giải tán các hợp tác xã nông nghiệp. Sự sụp đổ của công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp đã kéo theo cái chết hàng loạt những tác phẩm của các nhà văn lừng lẫy một thời : Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm của Đào Vũ, Đất làng của Nguyễn thị Ngọc Tú và cả Xung đột ( tập 2) của Nguyễn Khải…. Bao nhiêu thành tích, bao nhiêu tính ưu việt , bao nhiêu sự đổi thay tích cực của bộ mặt nông thôn, bao nhiêu sự đổi đời sung sướng của người nông dân được các nhà văn tô vẽ, tâng bốc lên mây xanh bỗng chốc tan tành ra sương khói bới cái nghị quyết “ khoán sản phẩm” của Đảng - thực chất là sự cáo chung cho “ lề lối làm ăn tập thể”, cho “hợp tác xã nông nghiệp” mà suốt mấy chục năm đám bồi bút ra sức tô vẽ. Trong Xung đột – phần II, “vào ngày lễ mở đầu tháng đức Mẹ cũng là ngày thứ ba của cuộc “vận động hợp tác hoá” sôi nổi, rầm rộ suốt tám xóm trong xã. Mỗi xóm thành lập một ban vận động gồm những người trong ban quản trị hợp tác xã cũ, đội trưởng đội sản xuất và một vài người mới nữa. Tiếng trống , tiếng loa nổi lên từ lúc chuông nhất và chỉ tắt đi vào khoảng gần nửa đêm…” Chống đối lại cuộc vận động đó, theo ông nhà văn, tất nhiên chỉ có…nhà thờ : “Tiếng loa của đức chúa Trời và lời giảng hùng hồn của cha Lân “ đối lập với “tiếng trống của người thế gian và lời lẽ vận động đầy sức thuyết phục của cán bộ xã “ làm cho “cuộc sống ở thôn Hỗ cứ náo động suốt đêm ngày. Không có tiếng súng nổ nhưng tâm trạng con người thì giống hệt như trong một trận chiến đấu. Cũng có những người kiên quyết và những kẻ dao động, tin tưởng và bi quan, phẫn nộ và bình tĩnh…” Đó là cuộc chiến tranh được ông nhà văn “tô vẽ” giữa “nhà thờ” và chính quyền cộng sản đại diện là mấy ông cán bộ xã . “ Tiếng loa của đức chúa trời “ chẳng thấy đâu nhưng lời giảng của cha : “ Hiện nay ma quỷ đang dùng thóc gạo làm chước độc để mê hoặc linh hồn các con. Song các con hãy nhớ lời Chúa đã từng phán tỏ tường rằng : bay lo ngày mai mà làm chi, đến ngày mai sẽ hay , bởi chưng sự khốn khó ngày nào đã đủ cho ngày ấy…” không những chẳng lọt được vào tai giáo dân : “ không nói đâu xa xem như vợ chống thằng Quảng kìa, chồng vay hợp tác xã được mấy chục cân thóc gánh về, vợ đã mặc áo ra nhà thờ thấy thóc cởi cả áo ra, chồng xay vợ sàng hì hụi từ chập tối đến nửa đêm, vừa làm vừa đùa bỡn nhau dễ còn vui hơn cả lễ Phục Sinh…” mà còn bị bôi bác : “Aáy vậy mà cha mới nói là ma quỷ dùng thóc gạo cám dỗ nên người thế gian mới bỏ cả đức tin, bỏ cả Chúa…” Vậy là “cha” thua một cách dễ dàng, nông dân ào ào nộp đơn vào hợp tác xã . Ông nhà văn diễn tả một ông bố sai con viết đơn với nhiệt tình và lòng thành kính như viết đơn cho Chúa Giê xu xin lên …thiên đàng : “ Vui, này lấy giấy bút ra đây tao muốn nhờ mày một việc…” Cô con gái lấy ra tờ giấy có vệt mực lem luốc , lập tức bị ông bố mắng : “ Mày coi khinh bố mày thế hả con , không nỡ cho bố một tờ giấy đẹp đẽ ư ? Đã dùng vào việc cao trọng thì chớ lấy những thứ dơ dáy. .” Rồi ông quay sang vợ : “ Cả đời chỉ có một lần. Bà hiểu cái việc tôi nói là việc gì rồi chứ ?” và lệnh cho con : “ Lấy vạt áo lau sạch cái ngòi bút đi thì nét nó mới thanh được. Bắt đầu như thế nào nhỉ ? Việt Nam dân chủ cộng hoà… năm thứ mười lắm…” Trong thực tế, lùa được nông dân vào hợp tác xã là một việc phải thúc ép, cưỡng chế vậy mà ông nhà văn “tâng” lên thành một thứ ý nguyện thiết tha của người dân làng thì đủ hiểu ông đã bồi bút đến mức nào. Ông còn “mượn mồm” một bà nhà quê để ca ngợi cái ưu việt của lề lối “ làm ăn tập thể” : “ Như nhà tôi chỉ riêng khoán cày khoán bừa hai mẫu cũng mất đứt hai chục thóc rồi.Cái trò đem trâu cày ruộng nhà người đến mùa lấy thóc thì làm kỹ sao được…

Còn vụ vừa rồi ai cày ai bừa mặc ai, chị em chúng tôi cứ ra công cấy, làm chung ăn chung, anh làm dối thì cái cót thóc của anh cũng ít…” Ca ngợi “ làm chung ăn chung” như vậy, ông nhà văn đâu có biết cái kiểu “tập thể hoá “ đó khác gì “ cha chung không ai khóc” khiến đồng ruộng bỏ hoang, mùa màng thất bát làm Đảng lại phải giải tán “làm chung” trảû ruộng đất về cho ai nấy làm. Ngyà đó chắc ông chưa nhận ra điều đó hoặc đã nhận ra rồi mà ông vẫn giả ngu, vẫn ca ngợi nhiệt tình xin vào hợp tác xã của bà nông dân này :

“ Tôi chẳng gì cũng nhiều tuổi hơn các chị, cái khổ cái sướng đã trải qua, trước khi vào hợp tác xã tôi cũng tính toán chán, nếu không có lợi thì tôi vào đầu làm gì…Lạy Chúa, từ ngày biết làm ngươiø tới giò, chỉ có mỗi vụ chiêm vừa rồi vào hợp tác tôi mới nhàn nhàn cái thân chút ít…” Tất nhiên không phải ai cũng hồ hởi phấn khởi xin vào hợp tác xã như vậy, cũng có người lừng khừng , đắn đo để rồi đến lúc :

“ Không vào cũng chẳng được, họ vác trống vác loa đến tận đầu nhà kể lể, than vãn nghe nẫu cả ruột chứ dễ được yên ư ? Hết tốp cán bộ này ra, lại đến tốp khác nối chân vào. Ngồi tiếp chuyện các ông ấy thì mất ngày mất buổi , lánh mặt lại sợ họ bảo mình có ý tứ gì…”

Vậy là caû làng cả tổng đều ‘tiến bộ”, đều trở thành xã viên hợp tác xã cả chỉ trừ ra có mỗi …ông linh mục, người chăn dắt con chiên khiến bà con phải phàn nàn : “ Ông Tam ạ, tôi xem ra các cha mà tiến bộ được như mình thật là khó. Mình theo chế độ mới nào có mất gì, chỉ được thôi, còn các ông ấy mà theo ta thì túi tiền vơi đi quá nửa…”

Thế rồi ông nhà văn lấy ‘dạ tiểu nhân đo lòng quân tử”, lấy cái “tâm lúc nào cũng lo ăn” để phân tích các cha tinh thần : “ Tôi tính cho các ông các bà nghe nhá. Trước kia ở tổng này có ba chục thằng địa chủ , đứa nào hàng năm chẳng có mấy ngày giỗ kỵ cha mẹ , tổ tiên , lại sửa một mâm chén , tiền lễ đưa cha để cha cầu nguyện cho.

Vậy là một món. Nhà nào có cha già mẹ héo cũng phải cố thu xếp mời bằng được cha đến làm phúc , cơm ăn rồi còn tiền đưa tận tay cho cha cầm về. Một năm một lần làm lễ kỳ hồn cho cả xứ, gia đình nào cũng phải đưa tiền , neo túng thì hai ba đồng , sang trọng thì từ một trăm trở lên. Ba món nhé !...

Chả trách người ta đồn vàng ở Toà thánh còn nhiều hơn cả thế gian gộp lại…” Nhìn nhận về thiên chúa giáo như vậy, quả thực ông nhà văn Nguyễn Khải xứng đáng là người…”duy vật”. Chỉ có điều tới ngày nay nếu có dịp đọc lại tác phẩm của mình, hẳn ông nhà văn phải cay đắng thừa nhận rằng cái “hợp tác xã nông nghiệp” mà ông hết lòng ca ngợi nhiệt liệt đã sụp đổ từ tám đời, nay chỉ còn là cái “bia miệng” cho thiên hạ chê cười , còn cái nhà thờ thiên chúa mà ông ra sức bôi bác, xỏ xiên vẫn cứ đứng lừng lững mà xem ra mỗi ngày cái “sự đạo” lại càng thêm tưng bừng náo nhiệt.

Tuy mang nặng thiên kiến do những cặp kính “tính Đảng”,“tính dân tộc” che kín mắt, nhưng đọc kỹ Xung đột của Nguyễn Khải người ta cũng có thể lọc ra ít nhiều chi tiết mang dấu ấn của cái thời đại “ hợp tác hoá nông nghiệp” kinh hoàng đó. Vợ chồng nhà Lận trong làng có con trâu sẽ phải đưa vào hợp tác xã nhưng được hoá giá quá rẻ nên tự mổ thịt bán cho bà con trong xóm. Ở một nước dân chủ, quyền tư hữu được bảo hộ thì đó là chuyện quá thường tình.

Nhưng trong thời hợp tác hoá thì đó là tội ác tày đình và chỉ tiến hành được một cách lén lút ngoài bờ đê trong lúc ông Môn, Chủ tịch xã đi vắng. Trong số những người chạy ra đám mổ trâu mua về xâu thịt có ông Phó Chủ nhiệm Tam mà vì “đến mấy tháng nay mâm cơm không có được miếng thịt “ nên “đụng vài cân cho trẻ nó xởi lởi”.

Thịt trâu ăn vào bụng cả nhà rồi chẳng ngờ ông Môn, Chủ tịch xã đi họp về biết chuyện, mắng xa xả : “ Con trâu khoẻ mạnh thế mà nỡ giật ngửa ra ở rìa đê mổ thịt. Thàng Minh gộc pha thịt, thằng Long chọc tiết. Phen này ông cho cả lũ đi tù, chúng nó định làm loạn à ?” Ghê gớm chưa ? Người dân ăn có miếng thịt trâu của chính mình mà ông Chủ tịch xã đã doạ “cho cả lũ đi tù” thì hoá ra ở cái xã hội xã hội chủ nghĩa ưu việt này, con người ta lúc nào cũng sẵn sàng…đi tù.

Riêng ông Phó Chủ nhiệm Tam, là cán bộ, trót dại vì thương con cái thèm thịt mua về một xâu, ông vừa lo bị Chủ tịch xã dằn vặt, vừa lo “mất uy tín” “ hàng trăm cặp mắt chế giễu, căm giận, hàng nghìn lời nói đay nghiến, chì chiết sẽ bao vây lấy anh, tấn công anh và kẻ bị hành hình đã đành không thể sống nổi cũng không chết ngay được …”.

Oâi chao ôi, xã hội gì kỳ quặc, ăn có miếng thịt trâu mua bằng chính đồng tiền của mình mà ông Phó Chủ nhiệm Tam phải điêu đứng thế đến nỗi ông phải than trời : ” Oâi, tủi nhục quá, cay chua quá và dại dột không biết chừng nào…Đằng nào thì trong ngày hôm nay địa vị của anh cũng sẽ thay đổi . Anh sẽ được nghe những tiếng hò reo gian ác, khoái trá của Đoàn và đồng bọn :” Tưởng gì, hoá ra cũng là một anh đạo đức giả.

“ Và Tam quay mặt đi khóc nức nở…” Muốn khóc gì thì khóc, trót ăn miếng thịt trâu rồi, ông Phó Chủ nhiệm sẽ bị đưa ra đại hội xã viên xem xét và bị Chủ tịch xã Môn chửi xơi xơi vào mặt : “ Anh không xứng đáng, anh phụ lòng tin cậy của tôi , của cả chi bộ . Thằng địch có đâm tôi một nhát dao vào giữa ngực cũng không đau đớn bằng cướp đi của tôi một người bạn.Thế là anh đã chết rồi, phải coi như là anh đã chết rồi. Biết vậy mà không sao cứu được nữa…”

Oâi chao ôi, từ cổ chí kim, trên khắp mặt địa cầu này, có lẽ chẳng ở đâu chỉ vì bỏ tiền túi ra mua một miếng thịt trâu bỏ miệng mà bị rủa xả nhục nhã, coi như đã chết rồi đến như vậy. Chỉ nguyên cái chuyện “thịt trâu mổ lậu” này, Nguyễn Khải đã “vô tình” lột trần cái tính chất phi nhân văn trong quan hệ giữa các đồng chí cán bộ đảng viên với nhau. Bởi vậy dân gian thường nói không phải vì “thân yêu nhau chúng ta gọi đồng chí”, mà chính là khi sắp sửa sát phạt nhau nảy lửa trong hội nghị , các cán bộ đảng viên mới dùng hai chữ “đồng chí” để đưa nhau lên thớt mà thôi. Phó Chủ nhiệm ăn thịt trâu bị xử nặng thế, tất nhiên vợ chồng Lận , thủ phạm chính trong vụ giết trâu của mình, tội còn lớn gấp bội.

Từ sáng sớm còn nhọ mặt người, ông Chủ tịch xã Môn đã cho đánh trống họp ban quản trị và kế toán trưởng hợp tác để xử vụ giết trâu. Vợ chồng Lận được kêu đến. Người đàn bà khốn khổ không dám đứng chỉ “lom khom nhìn ngó xung quanh rồi lại thụp xuống ngay” rồi thưa gửi : “Thưa với chư ông trong nhà túng bấn quá nên tôi cũng có chót bán đi lấy ít tiền để trang trải công nợ ạ….” “ Bà bán trâu, tậu nghé, mưu mẹo lắm …”

Và cuộc hỏi cung diễn ra với những câu hỏi như quan toà với tội phạm :”bán cho nhà ai ? ở đâu ? Trong việc bán trâu này ông bà có bàn tính với nhau không …?” Hỏi xong vợ rồi hỏi đến chồng. Anh chồng bí quá đổ thừa cho vợ tự ý bán trâu làm bà vợ ông Chủ tịch xã phải nói chen : “ Thế ra quyền bà ấy lại to hơn cả ông à ?

” Vậy là bà vợ ông Chủ tịch xã không chỉ “dắt mũi’ ông chồng khi ở nhà mà còn ra cả “công đường” phụ với chồng xử tội người khác. Sau cùng ông Chủ tịch xã luận tội “bán trâu” : “ Việc bán con trâu nhà ông , dù có vợ bán hay chồng bán cũng mặc, dứt khoát là phạm pháp. Tư pháp sẽ có trách nhiệm xét xử việc này…”

Và chẳng cần chờ tới khi “tư pháp” xét xử, ông Chủ tịch Uỷ ban xã quyết định luôn : “ Còn con nghé hiện nay ông mới mua uỷ ban sẽ quản lý…” Gọi là “quản lý” nhưng thực chất Uỷ ban đã cướp trắng tài sản của thằng dân đen khiến nó phẫn uất : “Cứ việc. Chính quyền có tịch thu tôi cũng không dám kêu ca gì . Xưa nay bị cướp bóc đã nhiều chứ chẳng phải mới có lần này…Đ…mẹ cả đứa mua lẫn đứa bán đều là dại cả. Xin chào chư ông thôi ạ .

Thế bao giờ ông Chủ tịch cho người sang dắt nghé tôi đây ?” Một phiên “xử án” tịch thu tài sản của đương sự còn tệ hại hơn lý trưởng, chánh tổng ngày xưa trong đó “ phu nhân của quan lớn” cũng nhảy bổ vào để kết án thằng dân. Vậy là trong một xã mọi quyền sinh sát, mọi việc lớn nhỏ từ miếng ăn cho tới việc làm, mọi số phận người dân đều nằm trong tay duy nhất một người : ông Chủ tịch xã. Để thực thi cái trách nhiệm quá nặng nề ảnh hưởng trực tiếp tới cả mấy ngàn con người như thế, ông Chủù Chủ tịch xã Môn là người thế nào ?

Thật đáng lo ngại làm sao, ngoài lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, nắm thật vững và thi hành thật mù quáng mọi chủ trương đường lối của Nhà nước, ông Chủ tịch này mù tịt về mọi kiến thức khiến có lúc ông có những câu hỏi thật ẩm ương khi nghe nói chuyện về tên lửa của Liên Xô đã được phóng lên trời : “ Tôi còn thắc mắc một điều là ví như cái tên lửa nếu nó bay được cao nữa thì có chạm phải nền trời không ?”

Khi được giải thích cặn kẽ, ông vẫn còn chưa thông : “ Vậy cái tên lửa nó bay mãi như thế mà không vướng núi ư ? Đến một đoạn nào đó tất cũng phải rơi xuống chứ ?” Khi được nghe giải thích :” trái đất mình ở nó tròn như quả cam, quả bưởi lơ lơ lửng lửng giữa không gian chứ có bám víu vào đâu đâu. Còn tên lửa là bay vòng bên ngoài kia…”

Vậy mà ông Chủ tịch xã vẫn chưa hiểu : “ Rắc rối nhỉ. Mỗi tuổi mỗi nghe thêm nhiều chuyện lạ. Kể cũng hay…” Hoá ra trình độ hiểu biết của ông Chủ tịch xã vẫn thuộc vào thời…ông Copernic phải lên giàn hoả vì ông cho rằng “trái đất nó quay”. Với trình độ như vậy người ta thấy rõ các ông cán bộ cách mạng có thể quản lý và bóp nghẹt mọi hoạt động tâm linh của nhà thờ, có thể cướp ruộng, cướp nghé của người dân vô tội, có thể đưa ra Toà kết án kẻ làm thịt trâu của chính mình.

Những việc đó họ làm thật xuất sắc vì chẳng cần dùng gì tới những kiến thức phổ thông của nhân loại. Tuy nhiên họ không thể làm cho cánh đồng tăng năng suất lúa, đàn gia súc tăng trưởng nhanh bởi lẽ họ mù tịt về khoa học kỹ thuật tiên tiến và hiện đại.

Trong lúc thế giới đang phát triển như vũ bão về phát minh, phát kiến, về cuộc cách mạng xanh, thay vì mở toang cửa đón nhận mọi thành tựu nhằm nâng cao phúc lợi, cải thiện đời sống người dân, họ lại đóng cửa xua mọi người vào cuộc tranh giành, đấu tranh giai cấp gây nên những tổn hại không sao kể xiết. Sau khi giành chính quyền , họ giỏi chia chác lại phần bánh trong đó giành cho người cầm cày phần tối thiểu khỏi chết đói chứ tuyệt nhiên họ không đủ đầu óc và nhiệt tình động viên tất cả mọi người làm cho miếng bánh ấy lớn thêm để phần bánh của mỗi người được to ra. Đó quả thực là cái thông điệp toát ra một cách khách quan, ngoài ý muốn của nhà văn Nguyễn Khải qua tiểu thuyết Xung đột.

Với bà con xã viên trong làng, mấy ông chính quyền còn thắt buộc thế, vậy đối với “ nhà thờ”, tất nhiên phải coi như…kẻ thù của nhân dân, luôn luôn âm mưu phá hoại chính quyền. Ông Môn, Chủù tịch xã, coi cha xứ Thuyết là “ tinh khôn quá kẻ cướp” và lên mặt : “ Tôi biết thừa mấy tay linh mục chỉ hay mè nheo với cấp tỉnh vì các ông ấy phải giữ đúng chính sách mà, còn ở xã ấy à, một phép…”

Vậy là tay Chủ tịch xã này vô tình đã lật tẩy cái tự do tín ngưỡng giả hiệu của Nhà nước – chỉ cần tỏ vẻ “tôn trọng” tôn giáo ở cấp tỉnh thôi, còn ở dưới cấp xã thì tha hồ chèn ép. Chính vì thế gã mới khoe khoang : “ Ngay như tay Vinh tự xưng là thánh Tô-ma thời nay vậy mà mỗi lần gọi ra uỷ ban mặt cắt không còn hột máu …” Chính phủ trung ương chỉ đạo chính quyền cấp xã thế nào mà các linh mục mỗi lần bị gọi ra Uỷ ban đều phải run sợ thế ?

Một tay chót bét trong bộ máy chính quyền cũng có thể mắng sa sả vào mặt các nhà tu hành về chuyện chủng viện đào tạo thầy dòng : “ Tôi có lần đã nói thẳng với ông Thuyết ở đây : các ông đừng có lập lờ, chỉ bịp được các con chiên ngu dốt chứ cán bộ chúng tôi thì nhìn thấy tận cuống ruột các ông , chủng viện gì, trường đào tạo gián điệp đấy thôi…” Tất nhiên cấp trên phải gỉ tai về chính sách ngầm của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo thế nào nên tay cán bộ cấp xã mới dám “công xúc tu sĩ” ngay giữa công đường :

“ Trường gián điệp ( tức chủng viện) ngay giữa miền Bắc này , chẳng những không ai dám đả động đến nó mà còn phải cấp cả gạo ăn, than đốt , giấy bút học, thỉnh thoảng lại còn văn công, xi nê để giải trí nữa…” Nếu ‘chủng viện” đúng như vậy thì chắc chắn đó là “trường quốc doanh đào tạo cán bộ tôn giáo vận” đội lốt chủng viện. Chắc ông Chủ tịch xã “ ngây thơ” không hiểu được điều cơ mật đó, nên cứ ra rả mắng mỏ học sinh chủng viện : “ Mấy đứa người xã này đi học ở Bái tôi biết., khi đi chúng nó nết na, hiền lành thế , học được một hai năm về thăm nhà mặt mũi đã nhâng nháo như kẻ cướp , ăn nói hỗn xược, toàn xui gia đình phá chính sách, có đứa mang cả tài liệu chống cộng về phân phát trong xóm…”

Sự thực trong lòng xã hội miền Bắc những năm 1960 không khí khủng bố khét lẹt, làm gì có chuyện mấy đứa học sinh dám mang “tài liệu chống cộng về phân phát trong xóm”. Trong thời kỳ này, một anh cán bộ Đài phát thanh trung ương chỉ mới làm đùa hai câu thơ vui : “Tiến lên ta quyết tiến lên Tiến lên ta gọi cấp trên bằng…thằng” Chỉ mới “đùa vui” vậy thôi mà đã bị công an xích tay đưa đi cải tạo liền, huống hồ “phân phát tài liệu chống cộng trong xóm” thì tội đáng…lăng trì, xử trảm, ai mà dám to gan thế ?

Xem vậy đủ biết Chủ tịch xã Môn đã vu cáo cho nhà thờ trắng trợn đến đâu. Gã còn trắng trợn quy kết : “ Mình là hàng cha chú chúng nó, có đến chơi thì giương mắt đứng nhìn, hằn thù cán bộ còn hơn cả quân Pháp ngày xưa. Mới mười bốn mười lăm tuổi đã thành phản động con cả , nữa là để chúng nó dạy dỗ nhau năm mười năm nữa…”

Một ông cán bộ mặt trận tỉnh tên Mẫn được phái về tăng cường cho xã lẽ ra phải uốn nắn cho Chủ tịch xã thái độ ứng phó với nhà thờ sao cho kín đáo uyển chuyển hơn , đằng này lại phụ hoạ với Chủ tịch xã Môn, hung hăng không kém trong thái độ thù ghét nhà thờ . Oâng cán bộ tỉnh nhận xét về các linh mục thật coi người bằng nửa con mắt : “ Bọn ấy tuy chẳng tài ba gì, trước sau vẫn một ngón võ nấp sau lưng con chiên thôi, nhưng đừng tưởng họ ít thủ đoạn đâu nhé. Đức Giám quản vừa cho cánh mình một vố khá ngọt đây…”

Tưởng “vố” gì ghê gớm, hoá ra chỉ là lời đùa bỡn của linh mục Tuệ với cán bộ Mẫn : “ Tôi sinh đúng vào năm cách mạng tháng Mười , đến cách mạng tháng Tám thì được truyền chức linh mục , hoà bình lập lại làm Giám quản địa phận. Đời tôi thế là dính liền với cách mạng đấy nhé…” Cán bộ rủa xả, nhục mạ linh mục thì không sao, ngược lại linh mục chỉ nói giỡn vài câu với cán bộ đã bị coi là … khiêu khích cách mạng.

Thực ra cái số cán bộ thù ghét nhà thờ “ghi xương khắc cốt” kiểu như Chủ tịch xã Môn với cán bộ Mặt trận Mẫn là hiếm có; bởi lẽ chính họ cũng từ giáo dân mà ra, vợ con, bố mẹ họ vẫn là những con chiên ngoan đạo, hà cớ gì họ phải “báng bổ” nhà thờ đến như vậy ?

Trong khi đó họ vẫn được Đảng và Nhà nước huấn luyện về “tôn giáo vận”, vẫn được dặn dò cần phải có sách lược mềm dẻo, linh hoạt để “tỏ rõ” chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng chính phủ kia mà ? Thì ra ông nhà văn Nguyễn Khải đã “vẽ rắn thêm chân”, đã phóng đại cái lòng “căm ghét nhà thờ” trong giới cán bộ xã và tỉnh để chính ông bày tỏ với Đảng sự dứt khoát từ bỏ gốc gác thầy dòng của ông, từ bỏ theo kiểu chặt cầu và không khoan nhượng để được Đảng tin cậy.

Và có lớn tiếng mượn mồm người khác mạt sát nhà thờ như vậy, ông nhà văn mới tỏ rõ được lập trường giác ngộ giai cấp, giác ngộ Đảng một cách quyết liệt, từ trong tim, trong máu chứ không phải chỉ là ở đầu môi chót lưỡi. Lập trường này của ông lại càng được củng cố khi sau 1975 gặp lại gia đình đã di cư vào Nam, ông vẫn quyết liệt lên án họ trong tập “ Gặp gỡ cuối năm” để làm yên lòng Đảng.

Chính vì cái gốc gác ‘xuất thân thầy dòng” nên Nguyễn Khải phải ‘giữ gìn”, phải luôn luôn “bày tỏ lòng trung thành” với Đảng chứ tuyệt nhiên không bao giờ dám láo như cái đám Trần Dần, Lê Đạt , Hoàng Cầm….ỉ i xuất thân cán bộ cốt cán của Đảng, hung hăng chống lại Đảng trong vụ Nhân văn Giai phẩm. Bởi vậy trong thời kỳ văn nghệ sĩ miền Bắc bị khủng bố gắt gao nhất , Nguyễn Khải vẫn luôn luôn là đứa con cưng của Đảng được bao bọc và ấp ủ trong vòng tay của “văn nghệ quân đội”. Công lớn của Nguyên Khải trong hai tập tiểu thuyết “Xung đột” không những chỉ là bôi xấu, vu cáo nhà thờ mà còn tô vẽ cho hợp tác xã một bộ mặt thật tốt đẹp để chứng minh chủ trương tập thể hoá nông nghiệp của Đảng là cực kỳ ưu việt và sáng suốt.

Cái sự “tô vẽ” ấy đôi khi quá đà tới mức lố bịch , khó nghe. Chẳng hạn đây là lời một anh nông dân tên Điệp bênh che cho việc Nhà nước cướp ruộng, cướp trâu của nông dân : “ Sống ở xã này mỗi năm một thấy khác. Có hai bác tôi xin nói thật, nhân dân ở đây họ có tin ở chính phủ lắm mới trao ruộng, trao trâu cho hợp tác xã, cơ nghiệp hàng mấy đời người chứ đâu phải chuyện bỡn…” Sự thực vì áp lực đè lên đủ các mặt , người nông dân đành nuốt nước mắt chịu cho hợp tác xã cướp ngày cả ruộng lẫn trâu chứ đâu có chuyện tự nguyện như ông nhà văn tô vẽ ?


Rồi cũng chính anh nông dân này “ca ngợi” Nhà nước đã ‘cướp thóc của dân” : “ Cứ lấy việc thu thóc nghĩa thương vụ mùa năm ngoái mà suy thì ai cũng phải phục cái sáng suốt của huyện của tỉnh. Ngày ấy không kiên quyết thu thì bây giờ lấy đâu ra thóc cứu đói…” Hoá ra “thuế nghĩa thương” là thuế thóc dự trữ để khi nào có thiên tai đói kém thì Nhà nước khỏi phải lấy quỹ thóc quốc gia ra cứu trợ mà bắt người dân đóng góp từ trước phòng hờ thiên tai. Thật là một thứ thuế độc nhất vô nhị trên thế giới chứng tỏ sự sáng suốt , nhìn xa trông rộng của Đảng ta. Mượn mồm anh nông dân, ông nhà văn tiếp tục ‘tô vẽ” : “ Năm Aát Dậu ngoài chợ Hỗ thóc bán có năm đồng một thùng mà người chết đầy đường, năm nay thóc bán tám chín đồng, mười đồng cũng là , vậy mà không nhà nào đến nỗi phải nhịn cơm hai bữa…”

So sánh giá thóc năm 1945 theo tiền Đông Dương với giá thóc năm 1960 ông nhà văn quên bẵng mất là lúc này cách mạng đã có Ngân hàng Nhà nước làm gì ra tiền Đông Dương như hồi Pháp thuộc ? Và rồi ông xuýt xoa : “(thóc cao vậy mà…) vẫn họp hành , vẫn sản xuất , con gà con vịt , buồng chối lá rau tịnh không một ai lấm lét , tơ hào.

Thời Nghiêu Thuấn cũng đến vậy chứ gì ?” Ôi trời ôi, cái thời “ mỗi người làm việc bằng hai, để cho chủ nhiệm mua đài mua xe” mà ông nhà văn coi là ‘thời Nghiêu Thuấn” thì nghề “bốc thơm”, “bồi bút” phải lấy ông Nguyễn Khải làm…tiên sư.. Chẳng riêng gì nông dân, bản chất con người ta là “tư hữu” tức gìn giữ những gì mình có trong tay.

Tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp, Đảng phát động thu gom ruộng đất, trâu bò, nông cụ vào hợp tác xã thực chất là một cuộc cướp bóc trắng trợn . Người nông dân chẳng qua vì áp lực chính trị, vì súng kề cổ nên phải ngậm đắng nuốt cay mà giao sản nghiệp cho hợp tác xã thôi. Đó là một sự thực hiển nhiên ở nông thôn không ai là không biết. Aáy thế mà ông nhà văn Nguyễn Khải tô vẽ cho sự giao nộp ấy như một tự nguyện “cao đẹp”, như ý nguyện thiêng liêng của người nông dân đối với cuộc vận động của Đảng .

Oâng Điệp mới được vào hợp tác xã, làm ngay một mâm cơm gà, cá kho mời bằng được cán bộ xã tới ăn mừng : “ Hôm qua chúng tôi vừa tổ chức liên hoan vào hợp tác xã, hôm nay làm bữa cơm nhạt mời hai bác sang uống chén rượu gọi là mừng cho anh em chúng tôi đi theo con đường xã hội chủ nghĩa…”

Không hiểu ngày nay, đọc lại cái câu “đi theo con đường xã hội chủ nghĩa” mà mình đã ấn vào mồm anh nhà quê, ông nhà văn Nguyễn Khải có thấy “hài hước” chăng ? Chắc bây giờ ông đã nhận ra cái “con đường xã hội chủ nghĩa “ ấy càng đi càng mù mịt , càng phá tanh bành cả cái hợp tác xã mà Đảng và Nhà nước vẫn cứ bắt dân “kiên trì” đi theo nó. Trong tiểu thuyết Xung đột công cuộc vận động nông dân góp ruộng, góp trâu bò vào hợp tác xã xem ra rất xuôi chèo mát mái; bà con nông dân cứ là tranh nhau làm đơn xin gia nhập.

Thực tế hoàn toàn không phải vậy ? Mảnh ruộng, con trâu, cái cầy, ao cá là tài sản bất ly thân của người nông dân không dễ gì họ để cho bị cướp trắng. Mặc dầu Đảng và Nhà nước đã dùng cả một bộ máy toàn trị để bao vây, cưỡng bách nhưng công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp không phải là không vấp phải sự chống đối của nông dân. Những phản ứng của nông dân như giết trâu bò, phá huỷ nông cụ, chây lì không chịu ký đơn…chắc chắn phải nổ ra.

Tuy nhiên tất cả những chuyện đó bị bịt đi và ngược lại việc cưỡng chế nông dân vào hợp tác xã được cả một bộ máy tuyên truyền báo chí của Đảng tô vẽ như một cuộc đổi đời tự nguyện của người nông dân. Nguyễn Khải cũng không đứng ngoài được “sự nghiệp tuyên truyền vận động hợp tác hoá” đó. Chẳng những ông không dám đi sâu vào khai thác và phản ánh cuộc đấu tranh ngấm ngầm cũng như ra mặt của nông dân chống lại việc cưỡng bức vào hợp tác, ngược lại ông còn tô hồng cho nó đúng như một tên bồi bút có hạng.

Chính vì thế cái phần “xung đột” giữa Đảng và nông dân trong tiểu thuyết “Xung đột” rất mờ nhạt. Chỉ có mỗi vụ Quảng “giả chết” ở đầu truyện để vu vạ cán bộ xem ra còn có vẻ xung đột gay gắt còn sau đó chỉ thấy toàn thấy nông dân “ơn Đảng, ơn chính phủ” được vào hợp tác hoá để đổi đời. Phản ánh hiện thực nông thôn thời kỳ này, Nguyễn Khải đã thực hiện đúng theo lý luận kinh điển của Đảng :” mâu thuẫn trong nhân dân “ là mâu thuẫn “nội bộ ”, mâu thuẫn “thống nhất”, mâu thuẫn để ..cùng đi lên.

Trong lúc cố xoá mờ , giảm nhẹ xung đột giữa dân và Đảng, Nguyễn Khải lại tô đậm mối xung đột giữa “nhà thờ ”ø với chính quyền vừa dễ viết cho sinh động vừa đúng đường lối của Đảng coi đó là mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn “địch - ta”. Bởi thế, phần lớn “Xung đột” phần II xoay quanh chuyện Nhà nước o ép nhà thờ. “Gậy ông lại đập lưng ông”, ngày nay chính những điều Nguyễn Khải mô tả trong tiểu thuyết vô tình đã vạch trần bản chất lừa bịp trong chính sách “tự do tín ngưỡng” , “tốt đạo đẹp đời” mà Đảng và Nhà nước xưa nay vẫn tuyên truyền.

Một trong những vũ khí chống lại thiên chúa giáo của nhà văn Nguyễn Khải là dựng nên những bi kịch cá nhân do nhà thờ gây ra. Cô Huệ , con gái ông Bốn sau 10 năm đi tu đã tố cáo tội ác của nhà thờ với bố đẻ : “ Bốù ơi, khi con ở nhà đức tin con mạnh, con vào ở đây đức tin con chẳng còn nữa , tất cả mọi người lừa dối con.

Bà Nhất thì cay nghiệt hơn dì ghẻ, đuối tay đuối sức một chút là bị phạt rồi. Mỗi lần con nằm chực ở ngưỡng cửa cho bạn bè bước qua , cúi mặt xuống hôn đất để tạ lỗi, con lại nhớ đến ngày ở nhà được bố mẹ nuông chiều. Sao con lại tự đưa mình vào chốn khổ , khổ mà chẳng được ơn ích gì . Họ mặc áo bà dòng khấn khứa từ sáng đến tối mà vẫn tằng tịu với người khác giới, có người uống thuốc thôi thai, có người đi đẻ giấu , có người còn đang tay bóp chết con nhỏ.

Mẹ Nhất cũng có nhân tình. Con chẳng tin vào ai cả Con chẳng tin có cái gì khác ngoài những điều mắt con trông thấy, đời con thế là hết rồi…” Chỉ một năm sau gặp bố, nữ tu Huệ chết trong một cơn “giãy giụa đau đớn”. Một nơi địa ngục trần gian, đầy xấu xa và tội lỗi như vậy mà lại là một nhà nữ tu thì quả thực liệu người ta có thể tin vào sự trung thực của ông Nguyễn Khải chăng ? Điều đó hoàn toàn có thể kiểm chứng được bởi lẽ nơi cô nữ tu bị đầy đoạ trong suốt hơn mười năm trời là một địa chỉ cụ thể, theo như tác giảù là thôn Bái thuộc Bùi Chu.

Nếu một cuộc điều tra chính thức được mở ra , ông nhà văn rất có thể ra Toà về tội vu cáo. Sau nữ tu, đến lượt các đấng chăn chiên bị ‘bôi bác”. Trước hết ông nhà văn giễu Toà thánh : “ Người ở thôn Hỗ vẫn coi cái địa phương xa lắc ấy còn ruột thịt hơn cả quê hương mình, còn thiêng liêng hơn chính linh hồn mình và ràng buộc mình bằng trăm ngàn sợi dây bền chắc” Thậm chí ông nhà văn còn giở giọng xỏ xiên :

“ Hầu như đức Giám ở Bái kêu khát , con chiên ở Hỗ đã thấy cổ mình se lại; đức Giám mục đi vấp, con chiên ở đây đã thấy đầu ngón chân mình rớm máu; đức Giám mục se mình người ta đã đồn đại nhau với nét mặt lo âu.Ngay đến những quyết định hệ trọng nhất của đời người như nên sống thế nào, nên đi theo đường nào , họ cũng tuỳ thuộc vào cái đầu đội mũ hàm ếch lắc hoặc gật.Hình như cái gậy vàng của Giám mục đối với xứ Hỗ còn có hiệu lực sai khiến hơn cả chính con chiên ở Bái. “

Và rồi “chân dung biếm hoạ” của Đức Giám mục được ông nhà văn vẽ nên : “Người xứ Hỗ chỉ được nom dung nhan đức Giám khi người xuất hiện ở bàn độc, trịnh trọng trong bộ áo lễ rực rỡ, chỉ được nghe lời nói dịu ngọt và đầy sức quyến rũ của người qua những bức thư luân lưu, còn ở Bái thì người ta lại kháo nhau về những tính tình quá trần tục của từng cha một . Rằng cha giám quản thích ăn trứng trụng xôi, mỗi sáng có thể mút hàng chục quả với muối.

Rằng không những đức Cha chỉ biết đưa bàn tay cao quý cho kẻ khác hôn vào mặt nhẫn, mà cũng những ngón tay nuột nà ấy còn biết xấp nước bọt đếm tiền nhanh như nhân viên ngân hàng…” Quả thực người ta thật khó hiểu vì sao nhà văn Nguyễn Khải lại “ngậm một khối hờn căm” đối với Thiên chúa giáo đến vậy.

Người ta cho rằng chính vì ông là thầy tu xuất đi theo Đảng nên phải luôn luôn tỏ ra khinh ghét thiên chúa giáo để bày tỏ sự dứt khoát “chia tay ý thức hệ” của mình, sự trung thành một lòng theo Đảng của một con chiên đã từ bỏ Chúa. Một nơi của nhà thờ làm ông nhà văn “ngứa mắt” không thua gì Toà Giám mục chính là chủng viện.

Ta hãy coi ông tả : “ Ở cái trường đạo nổi tiếng ấy anh sẽ được thăm những dẫy nhà ăn hôi mốc, tanh tưởi như mùi chiếc đũa tre lâu ngày không rửa, những đứa bé đứng ngồi, ăn húp, cười đùa gõ bát gõ đũa như những kẻ mất dậy…”

Than ôi, chủng viện là nơi nhà thờ đào tạo tu sĩ đâu đến nỗi như trại tạm giam trẻ móc túi ở Chí Hoà vậy? Và đây là nhà ngủ của các học sinh chủng viện : “ “ Những dẫy nhà ngủ chiếu cuộn lại từng đống trên giường, dưới đất, hoặc nửa ở trên giường, nửa ở dưới đất, những cái gối gỗ bong sơn , những chiếc thập giá nằm dài ở đầu giường mệt mỏi…”

Giường chiếu đã như thế, sách vở còn tệ hơn : “… những kinh sách do chính toà giám biên soạn truyền bá đạo lý của nhà Chúa và những sự vô luân của quân cộng sản, những truyện trinh thám, kiếm hiệp, ái tình từ cái đời thủa nào vẫn được lưu lại…:” Đi sâu vào chủng viện còn kinh hãi hơn : “ Sau những dãy nhà lắm ngách lắm cửa tối hun hút và bí hiểm kia, còn những lớp nhà phía sau nữa , những lớp nhà dài dằng dặc và trống rỗng đặc biệt vẫn có cái mùi hôi mốc quen thuộc, thứ mùi của sự ngưng trệ, lười biếng.

Ở tận một xó, một xó bị bỏ quên trong vùng tối bùng nhùng ngay giữa cả lúc trời nắng vang lên những tiếng cười lạc lõng : hai ông bõ già đang ngồi ăn cơm , một người to béo mặt mùi sần sùi vừa câm vừa điếc lúc nào cũng nhìn người khác với nụ cười khó hiểu và một người tay bưng bát cơm cứ run rẩy như trong cơn sốt , vừa ăn vừa ho vung vãi…” Người của chủng viện đã tật nguyền và tâm thần vậy, đến con chó của chủng viện cũng không ra hồn…con chó : “

“ Dưới chân họ một con chó đen đã gần trụi hết lông, trơ ra những đám thịt héo hon đen tím , mắt đầy nhử , quanh ra quanh vào chậm chạp, thấy người lạ nó cũng chỉ đưa được đôi mắt kèm nhèm như van vỉ nhìn lên một thoáng rồi lại cúi xuống tha thẩn như cũ, đụng đầu vào cột, vào bậu cửa như một người đã lẫn cẫn…” Con chó chủng viện đã như chó hoang vậy, tu sĩ trong chủng viện cũng chẳng hơn gì những kẻ tâm thần :

“ Nhưng đêm đến , cái xác chết tưởng như sắp thối rữa kia khi đã ngửi thấy mùi ẩm ướt của bóng đêm lập tức hồi sinh lại một cách nhanh chóng. Những khung cửa tối om bỗng đỏ rực lên như hàng trăm con mắt lóng lánh. Ở nhà họp công cộng trên tầng gác, bàn ghế đã được kê lại ngay ngắn, học sinh ngồi nghiêm chỉnh trên các ghế. Và cái anh tu sĩ tầm thường của ban ngày, cái anh gầy gò, nhai trầu bỏm bẻm lúc nào cũng có cái điệu bộ ngớ ngẩn , ngu dại nói lắp bắp, dưới ánh đèn của ban đêm đã thay đổi hình dạng. Anh ta nhìn từng dãy ghế xoi mói, thuật lại một cách hoạt bát những việc xảy ra trong ngày…”

Thầy đã thế còn trò cũng xấu xa không kém : “ Quả thực cái bọn học trò đã trở thành một lũ lưu manh ấy không thích về với bố mẹ chúng thật. Bây giờ học làm thầy chúng cũng không thích, học văn hoá lại càng đáng chán hơn. Phải học , dù học gì cũng là gò bó, trói buộc rồi. Chúng chỉ ao ước cái thời kỳ giằng co với cộng sản sẽ kéo dài nữa. Chỉ mong được sống mãi mãi như thế này : ăn thoả thích, chơi bời thoả thích, nói năng bậy bạ, tục tĩu thoả thích và đêm đêm lại tập hợp nhau làm những chuyện ly kỳ…”

Than ôi, trường đào tạo linh mục của nhà thờ sao mà tăm tối, bệ rạc và chủng sinh thì lưu manh quá vậy ? Bôi đen chủng viện đến như thế thì phải nói ngòi bút của Nguyễn Khải là đệ nhất thiên hạ. Cái nhà trường của giáo xứ bị Nguyễn Khải mô tả “dơ dáy, xấu xa và vô tích sự” đến thế nhưng mà lo lắng nó “đào tạo gián điệp, phản động” nên Nhà nước vẫn cứ khăng khăng giải tán nó. Trước hết “ uỷ ban triệu tập những gia đình trong xã có con đi học ở chủng viện Bái đến thảo luận và thi hành quyết định của tỉnh.”

Cứ căn cứ vào chế độ chính sách tín ngưỡng của Đảng và Chính phủ thì việc giáo dân cho con em mình đi học tại chủng viện là chuyện bình thường, vậy mà khi bị triệu tập, họ vẫn phải tới trong tâm trạng lo sợ. “ Thời gian chờ đợi cũng lâu, những người đến trước không trò chuyện, đùa bỡn như ở các cuộc họp khác . Họ chỉ lặng lẽ nhìn nhau như những kẻ mất hồn, làm ra vẻ đờ đẫn, ngây dại….Người ta dò hỏi nhau bằng con mắt, nghe ngóng một cách lo âu những việc sẽ xảy ra và dành sự suy nghĩ cho những mưu mô sắp đem đối phó…”

Nguyễn Khải đã mô tả chính xác tâm trạng người dân khi phải tới “cửa quyền” theo lệnh triệu tập của Uỷ ban. Họ lo lắng, khép nép, rúm vào nhau chứ làm gì có tinh thần “làm chủ” như sách báo vẫn tuyên truyền : “ Môn – Chủ tịch xã mở đầu, nét mặt đã cau có : “Chúng tôi đã cử người đi mời từ chiều hôm qua, vậy mà chỉ có – Môn ngừng lại đưa mắt đếm một lượt – hơn 10 gia đình…Sao các bà lại ngồi túm vào một góc thế ? Ghế đây !Rộng rãi bao nhiêu. Đã đi họp thì phải ngồi cho đàng hoàng thì nghe mới lọt vào tai chứ . Nào, mời các bà ngồi dịch lại đằng này…” Vậy là giữa dân và chính quyền đã có một bức tường ngăn cách, một đằng cố tránh ra xa, một đằng cố kéo lại không phải vì sự thông cảm mà là để “ làm việc” .

Thấy dân tránh xa mình như tránh dịch, viên Chủ tịch xã càng nóng nảy : “ Các bà cứ đi nghe những chuyện nhảm nhí đâu đâu rồi lại thắc mắc với chính phủ, với Uỷ ban. Uỷ ban cho người đến tận nhà mời lại nói chuyện thì viện cớ từ chối. Chính quyền là công bộc của nhân dân, nhưng nhân dân cũng phải biết vâng lời chính quyền chứ. …”

Nhà nước rất giỏi trong giáo dục đào tạo cán bộ . Một mặt cán bộ răm rắp phục tùng cấp trên thực hiện đầy đủ mọi chủ trương chính sách của Đảng tức là vắt kiệt sức lực nông dân trên đồng ruộng và tước đoạt mọi của cải vật chất chỉ để lại vừa đủ sống lay lắt, mặt khác miệng lúc nào cũng leo lẻo “ vì nhân dân phục vụ”, “cán bộ là đầy tớ dân” một cách rất … thành thực. Bởi thế ông Chủ tịch xã Môn rất cáu kỉnh vì sao “ chính quyền là công bộc của dân” vậy mà dân lại cứ…sợ, cứ né tránh chính quyền như thế ?

Và thế là ông ta thò ngay cái bộ mặt trấn áp ra : “ Được, những gia đình nào không cử người đến chúng tôi sẽ có cách , phải cảnh cáo. Trên không ra trên, dưới không ra dưới thì còn thành thể thống gì nữa. Dân chủ nhưng phải có kỷ luật…:” Vậy là bản chất “chuyên chính vô sản” bên trong con người cán bộ đã bộc lộ ra hết. “ Dân chủ nhưng phải có kỷ luật” – đó chính là dân chủ tập trung, dân chủ xã hội chủ nghĩa bao năm nay Đảng đã áp đặt lên đầu lên cổ dân.

Sau cùng, ông Mẫn , cán bộ trên huyện cử xuống cũng huỵch toẹt ra rằng “trong khi nhà trường chuẩn bị một chương trình dậy văn hoá đầy đủ thì phải giải tán số học sinh hiện nay. “ Và ra lệnh cho phụ huynh học sinh : “ Vậy như ơû xã ta đây, các ông các bà đã cho gọi các em dưới ấy về chưa ? Chẳng lẽ cứ để chúng nó chơi bời dông dài mãi. Về nhà học thêm được ngày nào lợi ngày ấy. “ Như thế là “ý đồ ” của cán bộ huyện đã rõù : khi chưa dám công khai giải tán chủng viện thì chơi trò lén lút áp lực với dân rút con em về không cho học nữa. Oâng ta còn giở giọng đểu cáng : “ Chúa gọi thì nhiều Chúa chọn có mấy, trăm người may đỗ cụ được vài người…” Một bà là phụ huynh của học sinh chủng viện nghe ngứa tai quá, phản ứng lại :

“ Thưa với chư ông, cho con đi tu cũng chẳng mong gì con đỗ cụ để làm bà cố đâu ạ. Số mệnh nó đã do Chúa định thì giao phó cho nhà Chúa. Chúng tôi là kẻ làm cha mẹ chẳng dám ân hận điều gì…”. Đó thật là một cái tát vào mặt cán bộ , bởi suy bụng ta ra bụng người, cán bộ cứ cho rằng bà con cho con cái đi học chủng viện là sau này “đỗ cụ”, làm “ông nọ bà kia” mà thực ra bà con chỉ mong giao phó con cho nhà Chúa vậy thôi. Tuy nhiên câu nói như cái tát tai của người dân hoàn toàn “ nằm ngoài vùng phủù sóng” của ông Chủ tịch xã, chuyện “giao con cho Chúa” với ông là chuyện tầm phào, bởi vậy ông lại tiếp tục lên giọng mạt sát cái đám học sinh chủng viện :

“ Các bà tưởng cái trường ấy chỉ có đào tạo người đi truyền giáo hẳn. Học đạo một phần, học làm kẻ thù của cách mạng chín phần…” Trong thâm tâm phần lớn cán bộ Nhà nước thấm nhuần “chủ trương chính sách của Đảng” , tất cả những ai theo đạo Thiên chúa giáo đều là kẻ thù, là phản động, là gián điệp nhất thiết phải có ranh giới “ bạn thù” dứt khoát : “ Thử hỏi những đứa do công an tóm được đi kẻ khẩu hiệu , dán truyền đơn chống cộng là ai, toàn học sinh chủng viện cả .” Rồi ông Chủ tịch xã giở giọng xuyên tạc, doạ nạt bà con :

“ Khi đi chúng là người tử tế lúc về hoá ra thằng ma cà bông. Các bà có muốn có con các bà đi một bước công an phải theo dõi một bước không ?” Đám quần chúng ngoan ngoãn và cam chịu nhưng khi nghe cán bộ mạt sát con cái họ cũng phải ngẩng mặt dậy. “ Một bà gầy gò, vấn khăn trắng ngồi gần mé đèn lên tiếng : “ Oâng nói như thế chúng tôi không được đồng ý. Lúc nó ở nhà có một, đi học về lại gấp năm gấp mười, hẳn hoi , tử tế. Thực thà là không thấy nó ăn nói cấc lấc điều gì, bố mẹ cũng phải nể con chứ không nói khác…”

Như vậy lại thêm một cái tát nữa vào cái miệng nói láo của ông Chủ tịch. Giá như còn chút liêm sỉ, hẳn ông sẽ phải thấy xấu hổ vì sự vu cáo của mình bị lật tẩy. Đằng này đuối lý, ông Chủ tịch giở giọng “chính quyền” với kẻ vừa cả gan cãi hắn : “ Bà Đỗ có định gọi cháu nó về nhà không ? Niên học mới thì chưa đến, nhà trường chưa khai giảng vậy còn để con nó ở đấy làm gì ?”

Đứng trước cường quyền, người đàn bà vẫn không chịu khuất phục nhưng đành phải mềm dẻo : “ Thưa với ông, cháu đã nhất quyết đi tu, không gánh vác phần đời , không màng chuyện thế gian, là tự do tín ngưỡng của nó, tôi nào nỡ gọi nó về, phải tội chết…” Nghe mấy chữ “tự do tín ngưỡng”, ông Chủ tịch giật mình vì nó nằm trong “chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước”, hắn vội ngắt lơiø và chuyển câu hỏi sang hướng khác :

“ Bà có chắc rằng cậu ấy chỉ đi tu chứ không làm việc gì khác ?” Oâng Chủ tịch hỏi một câu rất khôn, gạt ngay chuyệân “tự do tín ngưỡng “ đi cho khỏi vi phạm “chính sách tôn giáo” của Đảng để chuyển ngay sang chuyện “truy tìm phản động”. Hắn cười gằn, giở giọng đe doạ: “ Bà có biết những người có trách nhiệm ở đây đã dùng con bà vào việc gì không ? làm liên lạc đưa tài liệu tin tức chống cộng đấy.

Vụ hè vừa rồi con bà về mang cả một bản kinh “ cầu cho giáo hội im lặng” đút vào trong giầy ống. Nó mới mười lăm tuổi đầu, còn ngây thơ lắm. Chớ để nó đi sâu vào con đường lầm lạc rồi sau này nó oán trách bố mẹ đấy…” Thấy chính quyền chụp cho con tội “phản động” tầy trời, bà mẹ hoảng sợ không còn dám cãi nhau tay đôi với ông Chủ tịch xã nữa, “đành chỉ thở dài uất ức rồi lại ngồi nén mình như cũ. Oâng Chủ tịch ép đến tận cùng :

“ Nếu các bà không đi được thì cứ viết thư cho các cháu, uỷ ban chúng tôi sẽ cử cán bộ đi đón về…” Đây là một thủ đoạn rất nham hiểm, một khi nắm được những lá thư gọi con về của bố mẹ, Uỷ ban sẽ có cớ để dẹp bỏ cái trường chủng viện kia một cách êm thấm mà vẫn không phạm vào chính sách “tự do tín ngưỡng của Đảng và chính phủ”.

Chắc hiểu rõ dã tâm của tên Chủ tịch xã, người mẹ chối phắt : “ Dạ không dám ạ, cháu nó bé còn phải mang xống áo cho cháu …thật tình không dám phiền đến Uỷ ban…sợ cháu nó không chịu về lại thêm mất thời gian ” Vậy nhưng ông Chủ tịch vẫn dai như đỉa, giở giọng nhân nghĩa : “ Uỷ ban chịu phiền cũng được , miễn là phục vụ được nhân dân…Mất đến nửa tháng cũng chẳng sao. Nếu bà đồng ý mai chúng tôi sẽ cho người đi…”

Nhưng người dân đời nào chịu “gửi trứng cho ác”, giao con cho uỷ ban với du kích, người mẹ bị dồn vào chân tường, sau cùng cũng đành phải chống lệnh của chính quyền : “ Thưa với các ông, tôi xin thưa thực là tôi không có quyền phép gì gọi cháu nó về. Trước đây nó là con tôi đẻ ra, nhưng bây giờ thì nó là quân lính nhà Chúa. Nếu nhà có ơn phúc thì nó cứ đàng ngay lối thẳng mà đi, nhược bằng phận mỏng đức bạc , làm chuyện bậy bạ thì chính phủ cứ việc bắt bớ bỏ tù, vợ chồng tôi không dám thắc mắc…”

Do đã quá nhiều kinh nghiệm xương máu với chính quyền, do đức tin với Chúa, người dân đã mềm mỏng bẻ gẫy được âm mưu thâm độc giải tán chủng viện của Đảng và Nhà nước . Sau khi giở giọng“chính quyền” ra lệnh, vu cáo, doạ nạt, vẫn thất bại , ông Chủ tịch xã thay đổi chiến thuật, giở giọng mẹ mìn, “đồng chủng đồng bào” để cố lay chuyển bà con : “

Tôi với các bà tuy không cùng máu mủ, ruột thịt nhưng dù sao vẫn là người làng…Bây giờ các bà chỉ nhìn tôi là anh chủ tịch hay gây gổ , cái thằng khô đạo nhưng một ngày kia nếu tôi và các bà gặp nhau ở một nơi nào thật xa, như trong Nam chẳng hạn thì chắc là lúc ấy chẳng ai còn nghĩ đến những điều nghi kỵ bực dọc ngày hôm nay mà chỉ thấy quý mến nhau, tin cậy nhau vì là người làng, cùng quê…”

Không đầy hai chục năm sau, câu nói trên đã được “chứng nghiệm” khi những ông Chủ tịch kiểu như Môn theo chân “giải phóng miền Nam” vào làm quân quản ở những xã công giáo như huyện Thống Nhất Đồng Nai, lúc đó chẳng những “ nghi kỵ, bực dọc” nhân lên gấp bội mà còn ra sức đầy đoạ, hành hạ người dân khiến làng đạo lại phải tìm cách vượt biên để một lần nữa chạy trốn cộng sản. Hòng lung lạc người dân, ông Chủ tịch lại tiếp tục thở ra giọng mẹ mìn :

“ Cái tình quê hương đối với con người ta thắêm thiết lắm , chứ không thờ ơ được đâu .Nếu tôi không nghĩ đến quê hương thì đã sinh cơ lập nghiệp tận đẩu tận đâu chứ còn mò về cái làng này làm gì để chịu khổ sở đói khát. Nếu không nghĩ tới làng xóm thì tôi cũng đã xin rút lui công tác từ năm nọ kia chứ chẳng phải đợi ai đánh đổ. Tôi năm nay bốn mươi chín rồi. Ở đây tôi chỉ kém tuổi có bà Bân thôi, đâu cách nhau gần một giáp thì phải .

Đời tôi lăn lộn nhiều , đã từng nếm đủ mùi cay đắng cơ cực, cái cao xa chẳng nói làm gì , còn cái trước mắt thì tôi không thể lầm được…Các bà hãy tin ở lời khuyên của tôi …” Sau khi đã “nam mô” lâm li một hồi như vậy, ông Chủ tịch xã lại giở giọng phù thuỷ : “ Các bà hãy tin vào lời khuyên của tôi. Đã đành chúng nó không phải là con tôi nhưng chúng là người của xã này , là người của làng tôi, làm ngơ thế nào được khi biết chúng đi vào con đường tồi tệ…

Mình giác ngộ hơn nó mà không bày vẽ chỉ bảo cho chúng nó thì cái tội của nó chính là cái tội của mình, tôi sẽ có lỗi trước bà con…” Cái khó của ông Chủ tịch xã là làm sao vừa kết án được chuyện “đi tu” để ông có cớ giải tán chủng viện, nhà tu mà lại vẫn không phạm vào chính sách “tự do tín ngưỡng của Đảng”. Ông lý luận : “Đi tu, ừ, đã đành chính sách không cấm, quyền tự do của mỗi người . Nhưng vì lẽ gì mà phải tu, chán đời ư , không kiếm được cơm ăn áo mặc ư, thiếu gì việc.

Con trai bằng lứa tuổi chúng nó người ta đeo huy hiệu Đoàn, ao ước được thành bác sĩ, kỹ sư, ao ước được bay nhảy đây đó , còn chúng nó co lại trong chiếc áo dài thâm, sáng khấn, tối khấn, có bố mẹ mà không được nuôi nấng, có quê hương không dám nghĩ đến ngày về, có thể lấy vợ đẻ con thì lại làm tội mình cho đến chết…”

Say sưa bài bác cái áo thầy tu đến thế này không hiểu là tâm tư của nhân vật Chủ tịch xã hay là của chính ông nhà văn Nguyễn Khải ? Kết thúc bài “diễn văn” lên án đám học sinh chủng viện, ông Chủ tịch xã cao giọng : “ Chỉ đọc kinh mà sống được ư ? Ai cho nó ăn, ai cho nó mặc, vẫn là nhân dân. Còn chúng nó thì làm gì cho nhân dân ? Chẳng làm gì cả , một bọn ăn bám , cái lưng dài thườn thượt , cái chân cái tay bủng beo vì bệnh lười…”

Lời mạt sát của ông Chủ tịch bộc lộ một điều : Nhà nước toàn trị không cho trẻ con đến tuổi cắp sách đến trường nằm ngoài sự “quản lý của Đảng”. Dẫu rằng nó vẫn ăn cơm của bố mẹ nhưng nó phải vào Đoàn, phải đi học dưới “mái trường xã hội chủ nghĩa” nếu không nó sẽ bị coi là “ăn bám” - ăn của bố mẹ thì vẫn bị coi là “của nhân dân”. Sau khi dùng chán chê “lý lẽ của đời” để doạ nạt, lung lạc nhưng người mẹ vẫn không chịu gọi con về, ông Chủ tịch xã chuyển sang bài bác “lý lẽ của đạo” mong “cắt cơn nghiện của nhân dân” ( ông Mác chẳng đã nói ” tôn giáo là thuốc phiện” mà.): “Tôi cũng là người công giáo đấy, nhưng nói thất lỗi với các bà, các ông, tôi không bao giờ tin được là có Chúa thật.

Nếu bảo bất cứ việc gì đều được lên trời thì tại sao vệ tinh của Liên xô lại bay được lên trời, vậy ra Chúa ủng hộ cộng sản ư ? Chúa ủng hộ vô thần ư ? Tại sao Toà Thánh là đất Chúa ngự không phóng một vệ tinh bằng quyền phép thiêng liêng của Chúa cho thiên hạ thêm lòng tin cậy. Chẳng có gì cả đâu…” Đúng là chỉ có một đầu óc tăm tối, vô thần , tư duy không vượt qua các “chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ” như của tên Chủ tịch xã này mới đẻ ra một lý lẽ “bài bác Chúa ” ngu muội đếùn như vậy.

Và đây là sản phẩm của “chủ nghĩa duy vật thô sơ” đã được cài đặt vào đầu cán bộ : “ Ai có trình độ khoa học cao, ai lao động giỏi thì kẻ ấy làm được việc kỳ lạ. Cha Thuyết bị sưng gan chín phần chết, một phần sống , vậy ai cứu được mạng của cha? Chính phủ ta, các bác sĩ Liên xô, toàn những người vô thần cả. Chính cha cũng đã từng nói với tôi:” Bố mẹ sinh ra lần thứ nhất, các bác sĩ Liên xô sinh ra lần thứ hai…”

“Cha tuyên uý” của chủ nghĩa “duy vật biện chứng”, chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng của Đảng, tín đồ trung thành của chủ nghĩa maoít-stalinnít ,- Chủ tịch xã Môn cứ thế “giác ngộ” cho đám quần chúng đang bị “tôn giáo ru ngủ” : “Ngay đến các cụ đạo ngày ngày đứng trên toà giảng vị tất các ông ấy đã tin chắc là có Chúa thật, nếu họ tin sẽ có ngày phán xét chung thì vía cũng chẳng dám làm bậy, chẳng dám nằm với người nữ , chẳng dám cầm súng bắn giết con chiên, moi tiền của kẻ khó…” Để kết thúc bài diễn văn hùng hồn kích động con chiên bỏ đạo, công kích nhà thờ – ông Chủ tịch xã sổ toẹt : “ Bịp bợm cả . C

ác bà tin được tôi thì tin, không thì thôi, nhưng sau này các bà sẽ thấy lời tôi nói hôm nay là đúng. Xã hội người ta cứ tiến chứ có ai chờ con các bà giác ngộ rồi người ta mới cất bước đâu…” Than ôi, đã gần nửa thế kỷ trôi qua, “xã hội người ta cứ tiến” – người ta đây có thể hiểu rộng ra là thế giới, mà các “đồng chí” kiểu như Chủ tịch xã Môn vẫn còn u mê với các chủ thuyết “ đấu tranh giai cấp” và “xây dựng chủ nghĩa xã hội” là ba cái thứ rác rưởi loài người đã loại bỏ.

Và cái lối “giáo dục cưỡng ép” ấy, tất nhiên không bao giờ chinh phục được con tim và khối óc của người dân : “ Trong các cuộc họp người ta đến miễn cưỡng , uể oải, cái xác ngồi đấy , nhưng tâm thần để tận đâu đâu. Họ không cần nghe cán bộ giải thích , đằng nào cũng thế, thuế vẫn phải đóng, đi dân công vẫn phải đi, nghe nhiều nào có lợi ích gì.

Họ cứ sống như xưa kia họ sống…” Giáo dân với Đảng và Nhà nước còn như vậy, linh mục với chính quyền tất nhiên là “xung đột” còn dữ dội hơn. Tuy nhiên, Nguyễn Khải chưa phơi bầy cho người đọc hết cái ác liệt của cuộc chiến giữa Toà thánh và Nhà nước, ông lại chỉ sử dụng ngón nghề quen thuộc : “vu cáo “ và “bôi xấu”.

Một lần có hẳn một phái đoàn 5 người gồm bốn linh mục và một tu sĩ ghé thăm xứ Hỗ. Đây là dịp ông nhà văn xây dựng chân dung các nhà tu hành. Trước hết là cha Thuyết, cha chủ nhà được một cha trong đoàn giới thiệu : “Oâng ấy vừa đi nằm nhà thương ở Hà Nội về. Phải mổ gan lọc mật mới sống sót đấy. Tôi thì cho rằng chỉ tại cái món thịt chó cả thôi. Aên nhiều thịt chó dễ bị tích kén lắm. Cái giống ấy nó chẳng nhiệt quá mà…” Vậy là một đấng chăn dắt linh hồn con chiên suýt chết vì…xơi thịt chó thường xuyên. Rồi đến một cha khách, cha Lân, khi ngồi vào mâm cơm thì mắt sáng lên : “ Ở đây cha cũng cho thả cá rô phi à.

Cái giống cá ấy sinh sôi nảy nở đến nhanh. Nhưng cá này phải hầm hoặc om kỹ mới ngon, còn rán thì xương khí rắn…Bày vẽ quá lắm, biết thế chẳng báo trước ;làm phiền cha chủ sự…” Rồi lần lượt cha giới thiệu “tâm hồn ăn uống “ của các cha : “Xin các cha cứ tự nhiên cho…Mỗi người một ý thích một tâm tính…Như đức cha người chỉ thích ăn trứng luộc, một lúc ăn hàng chục quả vẫn ngon lành. Tôi xin chịu. Cha Giản đi kiết thì chỉ nghiện chè bột sắn, cứ nấu một soong to, cha đủng đỉnh ăn cả ngày cũng hết.

Cha Thuỵ ở trên tỉnh lại ưa món chim câu hầm, nhưng ông cụ không có răng, cứ nhấm nháp qua loa rồi nhè ra đĩa, lão bõ ở đấy chỉ ăn bã nhả ra mà béo trắng. ..Còn tôi thì được cái bình dân, toàn nghiện những món rẻ tiền như bánh đa mật chẳng hạn. “ Quả thực không biết ở cái xứ đạo nào mà ông bõ trong nhà thờ chỉ ăn bã do cha nhả ra mà…béo trắng thì thật nghề bôi xấu phải trao giải nhất cho ông nhà văn. Kinh hoàng hơn nữa là khi các cha bàn về món…tiết canh gà : “ Xin lỗi, các cha đã được ăn tiết canh gà bao giờ chưa ?” Cha râu dài vừa nhai nhồm nhoàm vừa nói : “ Mới nghe lần đầu đấy. Chắc là tanh lắm hả ?”

“ Lậy cha, cha lạc hậu quá. Thật tình rất thơm ngon…Rắn sần sật mà bùi lắm. Cái dân Hà Nội họ làm món ăn thì người khó tính đến đâu cũng phải vừa lòng…” Hết món ăn rồi đến món uống. Cha sở tại, “sau vài hớp rượu da mặt ông càng đỏ rực mãi lên một cách đáng sợ, tưởng như bật được máu tươi : “Chính thế, nấu rượu được nếp thầu dầu thì quý hoá nhất – cha Thuyết đưa con mắt nhỏ tí, lóng lánh sáng nhìn mọi người – Vâng thưa các cha, ngon nhất đấy ạ, càng để lâu càng đượm, càng thơm mà nước rượu cứ trong vắt như nước mưa. Còn nếp bắc thì chóng nhạt rượu lắm , nước rượu cũng đục

…” Than ôi, nếu các đấng chăn chiên, các đức cha linh hồn của mấy chục vạn giáo dân Bùi Chu – Phát Diệm mà tham ăn tục uống như trên thì đúng là cha …“quốc doanh “ ; tức các cán bộ tuyên giáo, công an chìm Đảng đưa vào trường của nhà thờ để học thành linh mục trà trộn vào hàng ngũ giáo phẩm “nắm tình hình.” Tất nhiên năm ông linh mục này không phải “cha quốc doanh”, sau khi bàn chuyện ăn uống chán chê rồi họ mới bàn chuyện ứng phó của giáo hội trong xã hội cộng sản.

Dưới ngòi bút Nguyễn Khải, họ đích thị là những tên biệt kích, đám người phản động, đối tượng của cách mạng : “Cha Lân ném một cái nhìn nảy lửa, đôi lông mày rậm trở nên dữ tợn, giọng ông ta đanh lại, độc ác, tàn nhẫn : “ Trong tay chúng ta còn những gì ? Chỉ còn lại mỗi cây thánh giá. Chúng ta chỉ trông cậy được vào Chúa và các đấng thánh thần. Còn quần chúng của ta , cái lực lượng mười vạn con người của chúng ta đâu rồi, vắng lặng bốn bề như tiếng gọi giữa sa mạc. May thay chúng ta còn một vũ khí sắc bén mà không một kẻ nào tước nổi, đó là cái lưỡi của chúng ta. Chúng ta hãy còn một khu vực tranh chấp mà không một kẻ nào dám đoạt lại : đó là Toà giảng của nhà thờ. Từ đấy chúng ta sẽ tiến công ra, sẽ chiếm đoạt lại tất cả…”

Như vậy ï nhà văn Nguyễn Khải đã vạch một chiến tuyến dứt khoát giữa giáo hội và Nhà nước – đó là một cuộc đối đầu “ ai thắng ai”, “một mất một còn”. Mặc dầu xuất thân nhà dòng nhưng xem ra ông nhà văn hiểu biết về tôn giáo, nhất là Thiên chúa giáo cũng chỉ ngang một anh cán bộ tuyên huấn nằm trong Ban tôn giáo Chính phủ mà thôi. Cuộc đối đầu giữa “giáo hội” và “Nhà nước” bộc lộ ngay sau đó khi các cha vừa dùng cơm xong, ông bõ vừa bưng trà lên thì ông Chủ tịch xã Môn và ông cánb bộ huyện Mẫn ập vào. Đãõ không xin phép được gặp, đã không báo trước sẽ tới, ông đại diện chính quyền xông vào phòng khách của Toà thánh khơi khơi như vào trụ sở Uỷ ban và lại còn hậm hực :

“Ghê thật, hội họp với nhau mà không thèm báo một lời cho uỷ ban biết. Có chứng cớ ông thử tóm cổ một lượt xem có trắng mắt ra không ?” Vậy là trong “tim đen” nhà cầm quyền luôn luôn chỉ muốn “bắt” với “tóm cổ” sạch các cha để nhân dân khỏi bị “tôn giáo đầu độc”. Chưa có cớ gì để “bắt”, hai ông chính quyền mới chỉ đưa ra được yêu sách chủng việân phải dậy văn hoá cho chủng sinh, tất nhiên là cái thứ văn hoá “phổ thông trung học” của Nhà nước cộng sản, trong đó các môn học đều nặng mùi bài bác “ tôn giáo là thuốc phiện” của chủ nghĩa mác Lênin vô thần.

Đòi chủng viện dậy văn hoá tức là phải dậy theo chương trình phổ thông của Nhà nước, do giáo viên Nhà nước vào dậy tức muốn “nhuộm đỏ “ cả trường học của nhà thờ. Một đòi hỏi thật ngang ngược. Oâng Mẫn , cán bộ huyện nói thẳng : “ Trước đây khi toà Giám mục xin mở trường cũng có đề ra chương trình một ngày học sáu tiếng giáo lý và hai tiếng văn hoá…Là đấng chăn chiên mà hiểu biết ít thì rao giảng cũng khó khăn…”

Cha Lân, đại diện cho Toà Giám mục phải “nói nhẽ nhọt” : “ Nhưng ông rõ cho, theo luật lệ toà thánh thì nhà trường không phải phục quyền các vua chúa phần đời, không để cho nhiễm thói tục phần đời. Trường đạo chỉ chịu quyền ở Tioà Giám mục. Toà Giám mục lại chịu quyền ở Toà thánh, không thể muốn thế nào cũng được…

Ngay đến chương trình học từng năm kẻ làm thầy phải giảng giải những gì, đứa học trò phải đọc những sách gì đều do sự định liệu trước của Toà Thánh cả. Nói nôm na toà thánh cũng như chính phủ trung ương bên tôi ấy mà…”

Trước lý lẽ của linh mục , chặn bàn tay lông lá của Nhà nước vào chủng viện, ông Chủ tịch xã trở mặt, giở ngay ra cái chiêu bài chụp mũ “phản động” doạ nạt : “ Tôi xin hỏi cha, vậy như trước kia các ông cụ đạo đi làm tuyên uý trong quân đội Pháp hay làm sĩ quan có phải đợi lệnh của Toà Thánh cho phép không ?” Doạ chán rồi, ông Chủ tịch xã nổi cáu :”Nói chuyện với bọn này cứ như người đấm bị bông, mất thì giờ mà chẳng đâu vào đâu…”.

Oâng cán bộ huyện Mẫn cũng vứt bỏ những lời đường mật thường dùng để giở giọng đe nẹt : “ Nếu như Toà Giám đặt mục tiêu cho cái trường ấy là nơi đào tạo những phần tử chốùng đối lại cộng sản thi tôi xin nói trước sẽ không bao giờ cụ giám quản đạt được ý nguyện đâu, mà có khi còn mang vạ vào thân là khác. Vì các cụ cũng biết đấy, pháp luật thì rất vô tư…nhà trường ngày nào cũng bắt các em làm bài chửi cộng sản , chửi các cơ quan nhà nước thì chúng tôi khó chịu đến đâu…” Rõ thật là ngang ngược, trắng trợn đòi xâm phạm vào trường học của nhà thờ không được lại vu vạ là chủng viện “đào tạo phần tử chống đối cộng sản”.

Ở một đất nước do Đảng “toàn trị” một khi đã bị nhà cầm quyền mang con ngoáo ộp “tội chống đối” ra doạ chỉ có nước bán xới khỏi xứ sở, bởi vậy ngay đến cha cố cũng phải xuống nước : “ Chúng tôi biết địa vị của chúng tôi lắm chứ . Chính phủ thì có trong tay nào quân đội, nào công an, còn chúng tôi thì chỉ có tượng thánh thôi.

Chỉ mong đừng ai đụng chạm đến mình là mừng chứ còn chống đối gì.” Rồi biết rằng nếu nhún nhường sẽ bị “nhà cầm quyền” lấn tới, cha đánh bạo : “Chúng tôi thì cho rằng bắt trường đạo phải dậy văn hoá đó là một bước lấn của ông vào quyền hành giáo hội của chúng tôi…” Và cha vạch trần “tim đen” của nhà cầm quyền : “Đã dậy văn hoá thì ắt phải có giáo viên chứ gì . Tu sĩ của Trường thì lại không có bằng cấp, chẳng qua kẻ lớn dậy kẻ bé. Mà cử giaó viên ngoài giờ chúng tôi lấy làm e ngại …Nếu ông giáo viên theo đạo Thacíh ca chẳng hạn , tất nhiên ông ta sẽ quan niệm về thế giới, về vũ trụ theo cái cách của ông ta.

Hay nói cho rõ ràng hơn nếu ông ta là vô thần thì lại càng rắc rối. Vì ông ta có thể nói với học trò rằng thế giới này là do bàn tay lao động làm ra chứ không phải là do một đáng sáng tạo nên… ” Lý lẽ của cha đưa ra làm ông cán bộ huyện cứng họng. Chính bản thân anh ta cũng thấy đòi hỏi đưa giáo viên vào dậy trong trường của nhà thờ là vô lý . Anh ta cho rằng : “Tôn giáo và văn hoá quả thực có điều điều không thể đứng cạnh nhau.

Chẳng lẽ lại giảng là trái đất vuông , qua lớp mây xanh kia là thiên đáng…Chẳng lẽ nói cây lúa mọc lên là do ý Chúa chứ không phải do phát triển biện chứng của nó. Chẳng lẽ nói con người là đất bụi hèn hạ chứ không phải là sinh vật cao quý…Một đằng dìm con người xuống, một đằng làm cho con người trở nên sáng suốt biết sống một cách có ý thức. Và có thể lấy thêm hàng nghìn thí dụ khác về sự đối lập không sao dung hoà được…”

Vậy là hiểu biết của “nhà cầm quyền” về tôn giáo mới chỉ dừng ở mức độ coi nó như một thứ “mê tín dị đoan” đúng là “thuốc phiện đầu độc nhân dân” đúng như ông thánh Mác-Lenin đã dậy. Chính vì vậy ông cán bộ nhìn các linh mục như quân thù : “ Có thể nói những người ngồi quanh cái bàn này đã tượng trưng được phần nào cho cái thế giới cha cụ hết sức phức tạp của địa phận bái. Có những tên chống đối cách mạng đến điên cuồng; có những người còn bán tin bán nghi…nhưng giữa cái đám hùm sói ấy họ cũng không dám lên tiếng, vì lòng dũng cảm của họ còn ít quá, họ còn cân nhắc quá nhiều đến cái địa vị và uy tín giả dối của mình…

” Sau cùng vì sợ lộ mặt đàn áp tôn giáo nên chính nhà văn Nguyễn Khải cũng bỏ lửng không dám nói rõ liệu nhà cầm quyền có ép được chịu cho nhà nước đưa giáo viên vào dậy văn hoá hay không ? Cả 2 tập tiểu thuyết Xung đột đại khái cứ xoay quanh chủ yếu những “xung đột” mà ông nhà văn tưởng tượng ra như thế.

Những xung đột vặt vãnh không hàm chứa được một tư tưởng gì cao siêu hơn là chê bai, mạt sát Thiên chúa giáo ở tầm cảm hứng của một anh cán bộ tuyên truyền thực hiện đúng giáo huấn của Đảng “tôn giáo là thuốc phiện”.

Nhân vật của tiểu thuyết chia làm hai “phe” địch-ta rõ ràng. Một bên là các cha Thuyết, cha Lân, cha Bản…tham ăn, tục uống và đều là những kẻ nhát sợ trước cường quyền. Một bên là Môn, Chủ tịch xã, Nhàn , Phó Chủ tịch, Mẫn…cán bộ huyện…người nào người nấy ngùn ngụt ngọn lửa cách mạng muốn xông lên xoá sạch nhà thờ để…xây dựng hợp tác xã. Dù là ở bên này, hay bên kia, mỗi nhân vật “tiểu thuyết” của Nguyễn Khải đều chỉ là cái loa phát thanh tư tưởng “cách mạng hơn cả ông Các Mác” của ông.

Thay vì ông cho nhân vật sống như một con người trong cõi nhân sinh trong tất cả những buồn vui, hạnh phúc và bất hạnh của nó, ông lại chỉ cho nó nói ra đằng mồm cái tinh thần cách mạng Đảng đòi hỏi ở các cán bộ. Nhân vật chính được chăm chút nhất trong truyện là Chủ tịch xã Môn. Oâng ta như một cái đầu máy xe lửa lúc nào cũng sôi sùng sục những…”chủ trương, chính sách “ của Đảng :

” Tôi không có cái lỗi xã giao lịch thiệp cha cha tôi tôi tay bắt mặt mừng rồi. Dứt khoát coi các anh là đối tượng phải trấn áp. Gọi anh đến trụ sở uỷ ban ra điều kiện. Một : có chịu dậy văn hoá cho các em học sinh không ? Thứ hai : có chịu giải tán số học sinh hiện nay không ?Toàn con cái địa chủ , phú nông, việt gian, nguỵ quân nguỵ quyền cả…”.

Nhân vật thứ hai cũng được “khắc hoạ công phu” là chị Phõ Chủ tịch Nhàn. Chị này lấy “công tác cách mạng” làm lẽ sống ở đời :” Vậy mình là gì ? Là cán bộ xã, cán bộ huyện, là chính phủ của địa phương mình…Bây giờ công tác là niềm vui của em…có lẽ em không chính phủ của địa phương mình…Bây giờ công tác là niềm vui của em…có lẽ em không Xung đột tập 1 và 2 của Nguyễn Khải một thời được giới phê bình trong nước kéo lên mây xanh, được nhắc tới như một thành tựu văn học cách mạng, được coi như một tiểu thuyết sáng giá được đưa cả vào sách giáo khoa dậy trong trường phổ thông và đại học.

Sau “Xung đột”, Nguyễn Khải viết tiếp một cuốn tiểu thuyết khác, khá nổi tiếng cũng về thời ký hợp tác hoá nông nghiệp : “Chủ tịch huyện”. Mặc dầu tựa tiểu thuyết là “ Chủ tịch huyện” nhưng chương một mở đầu lại chuyên viết về “Chủ tịch xã”. Đó là một “chủ tịch xã trẻ và tính toán giỏi nhất huyện…Con người tài giỏi đã bắt đầu nghĩ : vắng tôi mọi việc đều không ra gì …”

Trước hết cái “tài giỏi” của anh Chủ tịch xã tên An chỉ “áp dụng” được vào việc công, việc trong xã thôi, còn việc nhà thì anh ta lại rất dở. Hai vợ chồng anh có cái áo thả cá, khi bắt đầu tát, anh tính toán chắc phải được hơn vạn con, nào ngờ tát lên chỉ được khoảng hai ngàn. Oâng Chủ tịch xã làm kinh tế gia đình thế là lỗ nặng. Vậy nhưng ngược lại, khi làm “kinh tế” cho toàn xã, ông Chủ tịch này lại rất tài giỏi.

Cái kiểu “việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng” theo nhà văn đó cũng là phẩm chất “cộng sản” của anh cán bộ. Vậy Chủ tịch xã được nhà văn Nguyễn Khải khen và ca ngợi đó sự thực “tài giỏi “ ra sao ? Trước hết ông ta xắn quần lội ruộng để kiểm tra và một lần bắt gặp “ hai sào ở đồng Con Cú của đội hai, cày còn dối lắm, chỉ vài xá vòng quanh”, lập tức Chủ tịch xộc ngay đến nhà ông Chủ nhiệm hợp tác xã để vạch tội.

Oàng Chủ nhiệm lại cho gọi thợ cầy đến. Anh thợ cầy đành phải thú nhận đã cày dối làm mọi người phục lăn ông Chủ tịch xã đi sâu đi sát. Lần khác, ông Chủ tịch xã sau 3 tháng nằm viện về, nghe tin mức bán thóc thuế nghĩa vụ của các hợp tác xã trong xã còn thấp, lập tức ông ta cùng kế toán lặn lội tới từng hợp tác xã để tính toán lại mức thu nhập và quả nhiên họ đều phải nâng cao mức bán thóc nghĩa vụ cho Nhà nước.

Cũng trong thời gian ông Chủ tịch xã nằm viện, ở nhà ông Phó Chủ tịch đã “ngã giá mua năm gian nhà ngói của ông Cẩm với giá bốn nghìn đồng để rỡ ra làm trường học”. Chủ tịch xã An đi viện trở về nhất định không chịu giá đó và quyết định chỉ mua với giá…hai nghìn đồng mà gia chủ cũng đành phải bán. Một lần chủ nhiệm hợp tác xã An Lạc Hạ “ lên xin uỷ ban cho phép mổ con lợn năm chục cân láy thịt cho xa viên ăn”.

Mặc dầu ông Phó Chủ tịch xã tên Như đã đồng ý cho phép mổ, nhưng ông Chủ tịch xã An đi công tác về khăng khăng không cho mổ là vì “ mổ rồi, nuốt vào bụng rồi mà không thu được đủ phiếu thì cũng đến cười xoà với nhau…”. Vậy có nghĩa là muốn mổ lợn , ông Chủ nhiệm phải được duyệt “ phương án chia hoa lợi “cái đã. Một lần khác , ông Trưởng phòng lương thực xuống xã đề nghị ký hợp đồng xay thóc kho.

Lại một lần nữa ông Chủ tịch xã trẻ tuổi lại tỏ ra xuất sắc vì biết tính toán tới cả “ chín xu một cân điện, vị chi là chín hào. Lại còn tiền dầu luyn. Ba ngày phải thay một lần dây cua-roa bốn mét, mỗi mét mười hai đồng. Lời lãi đâu mà nhiều…”. Mặc dầu “tài năng tính toán “ của ông Chủ tịch xã chỉ có “nhiêu đó”, nhưng ông Chủ tịch huyện đã như mở cờ trong bụng :” Đấy !Cán bộ xã của huyện này như thế đấy !Thật là hiện đại nhé !

Mặc dù máy xay chưa về đến xã , mà hắn ta đã biết lui tới như một ông Giám đốc thực thụ vậy…” Ngày nay coi lại chân dung ông Chủ tịch xã được coi là xuất sắc, tài giỏi này người đọc phải bật cười. Hoá ra tài năng của ông đứng đầu chính quyền một xã chỉ là đi xét nét thợ cày, tính toán sao cho Nhà nước bóc lột dân được nhiều hơn nữa, xét duyệt cho hợp tác xã mổ trâu, tính toán giá công xay thóc…

Nếu chỉ bằng vào những khả năng đó thì trình độ ông Chủ tịch xã “xuất sắc và tài giỏi” cũng chỉ ngang với một anh nông dân hạng bét. Người ta không thấy ông có mảy may ý thức mình là người đứng đầu chính quyền một xã để có những ý tưởng mới trong tổ chức sản xuất, trong việc thực thi pháp luật của nhân dân trong xã mà chỉ loanh quanh những việc vụn vặt, con cá lá rau bất kỳ anh nhà quê ngớ ngẩn nào cũng làm được.

Chân dung “chủ tịch xã” đã méo mó vậy, còn Chủ tịch huyện ra sao ? Đó mới là phần chính trong tiểu thuyết “ Chủ tịch huyện” của Nguyễn Khải. Cái “ông Chủ tịch huyện” này chắc chắn phải là một anh “nhà quê” đặc sệt bởi lẽ : ”Buổi sáng vừa ngủ dậy, ông Chủ tịch huyện hãy còn cầm trong tay chiếc bàn chải đánh răng đã có thể gọi phóng lên dãy nhà trên :” Các cậu ở nông lâm ơi, sáng nay An Trạch nó gieo đay thí nghiệm đấy đã cử người xuống chưa ?’

Một ông quan đầu huyện mà làm việc theo kiểu “xó bếp” vậy, đủ hiểu cái công việc ở Uỷ ban ‘tẹp nhẹp “ và “tạp pí lù” đến chừng nào. Thời đó chưa có các dự án, chưa có các nguồn vốn ODA, WB, chưa có nước ngoài vào đầu tư xây dựng các khu công nghiệp…nên các cấp chính quyền trong huyện, ngay cả ông Chủ tịch huyện cũng chẳng có gì mà “ăn chia phần trăm” hay là “rút ruột công trình”…

Bởi thế trụ sở Uỷ ban huyện chưa nguy nga, bề thế như hiện nay mà chỉ là cái nhà dài, tập thể , ở đó “người ta sống như trong một gia đình”. Đó là “một dãy nhà ngang thấp tối ở khuất hẳn phía trong, vẫn lợp rạ , trát vách..Gian đầu là chỗ ở của Chủ tịch huyện, gian thứ hai là chỗ ở của Chánh văn phòng Uỷ ban và anh thư ký đánh máy, gian thứ ba là của bà nấu cơm và chị phụ trách lớp mẫu giáo, vỡ lòng trong toàn huyện, còn hai gian ngoài cũng giành riêng cho gia đình bà Phó Chủ tịch huyện…”

Thật không thể tưởng tượng nổi một ông quan đầu huyện lại ăn ở kiểu “lán trại” như công nhân trên công trường : “ Oâng Chủ tịch nằm duỗi thẳng trên giường, cảm thấy rất rõ rệt các đầu xương đang rời ra vừa khoan khoái, vừa mỏi mệt. Nhạn, chánh văn phòng uỷ ban đã ngáy đều đều bên kia vách tường. Khi Nhạn thôi ngáy một lúc nào đó lại đến tiếng nghiến răng của bà nấu cơm ở buồng bên kia nữa…”

Uỷ ban huyện “ăn ở” lúi sùi và bệ rạc như vậy trách gì công việc hàng ngày của ông Chủ tịch huyện cũng chỉ toàn chuyện “bếp núc”. Trước hết ông Chủ tịch huyện làm việc không có giờ giấc gì hết : “ Ở huyện người ta không thể làm việc đúng giờ giấc được, và cũng khó có thể chủ động dành một khoảng thời gian hoàn toàn cho riêng mình, kể cả khi anh ốm nhưng không đi nằm bệnh viện, anh về nhà vui chơi với vợ con hoặc ngay sau khi anh đang ngủ say sưa sau một ngày làm việc mệt…”

Vậy nhưng công việc của ông Chủ tịch huyện bao gồm những gì mà ông phải làm việc suốt 24/ 24 vậy ? Hoá ra nó chẳng có gì ghê gớm mà toàn là những việc hành chính, lặt vặt . Trước hết một ngày ông phải “ký hàng trăm tờ công văn ( tuy chính người ký cũng không thể biết hết nội dung của nó) vì huyện có những hăm nhăm xã và hăm hai phòng, ngành, mặc dầu các phòng ngành đều ăn chung một bếp , ra vào đều chạm mặt nhau nhưng vẫn cứ phải đọc công văn của nhau”. Công văn gì mà lắm thế, thì đại loại toàn những chuyện “gieo đay của các xã’, “tình hình đào đắp của các đội thuỷ lợi và số mét phải hoàn thành”,”tình hình dồn ấp trại về làng để khoanh vùng cơ giới”…

Ta hãy coi công việc hàng ngày của Chủ tịch huyện.Trước hết một ông chủ nhiệm hợp tác xã trồng đay đến kiện anh phụ trách chi điếm ngân hàng huyện không cho vay tiền. Anh này bị ông chủ nhiệm tố cáo đã nhận ba sào đất của một ông chủ nhiệm khác nên đã cho vay dễ dàng còn ông không có gì lót tay nên bị gây khó dễ.

Thế là ông Chủ tịch huyện chẳng biết nếp tẻ ra sao, chẳng “điều tra điều nghiên” gì hết ra ngay cái lệnh cách chức anh ngân hàng dễ dàng như ông bố trong nhà phạt con cái. Rồi đến cuối buổi có một ông lão chạy vào Uỷ ban đề nghị ông Chủ tịch huyện can thiệp để xe ô tô khách chở cho “mấy chục cân rau của hợp tác xã đưa lên cho anh em trên công trường, trên ấy hiếm rau lắm…”.

Tất nhiên là ông Chủ tịch huyện tức khắc chạy ra bến xe ra lệnh cho nhà xe phải chở cả ông lão với bao tải rau của ông. Đại khái công việc hàng ngày của ông Chủ tịch huyện toàn những việc chẳng ra ngô ra khoai như vậy, chẳng cần tới hiểu biết về khoa học quản lý cũng như những kiến thức tối thiểu về khoa học kỹ thuật . Cứ theo nội dung công việc của ông thì bất kỳ anh nhà quê thất học nào cũng làm được “chủ tịch huyện” , miễn là nắm vững đường lối chính sách của Nhà nước và tuyệt đối trung thành với Đảng.

Trong “công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa” ở miền Bắc ngày xưa, đúng với bản chất nông dân của cuộc cách mạng, ý thức lao động gân bắp được coi là “phẩm chất số một” của việc đánh giá và đề bạt cán bộ. Bởi vậy người ta không lấy làm lạ vì sao trong tiểu thuyết “Chủ tịch huyện” của Nguyễn Khải, các ông Chủ tịch xa,.

Chủ tịch huyện và Bí thư tỉnh uỷ ông nào ông nấy đều mở đầu việc lãnh đạo nông dân bằng…”xắn quần móng lợn đi thăm đồng ruộng”. Oâng Quang, Bí thư tỉnh uỷ, vừa đánh xe con xuống huyện đã lôi ngay ông Chủ tịch huyện Hiệp lên xe , kéo nhau ra đồng coi tình hình sâu phá ngô ra sao ? Và ông Bí thư chỉ thị cho ông Chủ tịch huyện cái việc mà lẽ ra cấp xã cũng có thể quyết định được : “ Nơi nào nhiều sâu quá nên bán chịu thuốc trừ sâu cho họ hoặc ứng một khoản tiền nào đó cho họ vay mua thuốc. Chú ý đấy, không thì hỏng ăn cả…:”

Liền đó ông Bí thư lại khuyến cáo ông Chủ tịch huyện nên đi thăm các cán bộ xã đội ở 25 xã trong huyện là vì “ Khi họ mổ lợn, ăn cơm liên hoan mình không đến cũng được , nhưng khi họ túng thiếu , ốm đau, gặp khó khăn thì phải tìm mọi cách chia sẻ với người ta. Dân mình có câu :” lời chào cao hơn mâm cỗ” là có ý nghĩa sâu sắc lắm. đấy…”

Trong một xã hội toàn bộ nông dân đều bị nhốt trong hợp tác xã với kỹ thuật canh tác lạc hậu “ con trâu đi trước, cái cày theo sau” từ ngàn năm trước thì đời sống con người hết sức đơn giản – không du lịch, không tài sản, không luật sư, không phương tiện di chuyển, không máy móc phục vụ sinh hoạt và giải trí, không cả hàng hoá và chợ búa, con người chỉ nhăm nhăm lo sao cho “ăn đủ no, mặc đủ ấm ” vậy thôi ; việc quản lý xã hội bởi thế mà trở nên hết sức đơn giản và dễ dàng. Nhà nước công nông thực ra chỉ lo “quản lý “ sao cho nông dân và công nhân đổ hết lao động gân bắp ra để thu thóc và sản phẩm công nghiệp.

Chính vì vậy ông “quan đâàu tỉnh” chẳng cần có đầu óc nảy sinh ý tưởng mới, chẳng cần có kiến thức khoa học quản lý và khoa học kỹ thuật, ông chỉ “đòi hỏi được biết cái tình hình thực , cái tình hình tự nhiên nhất, không bị tô vẽ, không bị che lấp bởi bất cứ một thứ sắp xếp giả tạo nào. “ . Cái tình hình thực đó thực ra rất đơn giản xoay quanh có mỗi chuyện “ nước, phân, cần, giống” mà bất kỳ một anh cán bộ cấp xã nào cũng có thể điều hành được chẳng cần tới một ông “quan đầu tỉnh”. Bởi vậy khi xuống huyện, ông bí thư tỉnh uỷ “sẵn sàng kiếm ngay một cái buồng riêng chui vào đó làm việc một mình như ở nhà, hoặc đọc báo hoặc ngủ một giấc nếu như đêm trước anh không được ngủ….”

Để tô vẽ cho ông “bí thư tỉnh uỷ” đi sâu đi sát quần chúng, ông nhà văn “bắt” ông xộc cả vào phòng ngủ vợ chồng người ta, làm cái việc rất kỳ cục là dậy chủ nhà … sắp xếp quần áo: “Này, đừng có thu dọn theo cái cách ấy. Anh hãy để thứ nào vào thứ ấy, đúng với cái chỗ của nó, xem nào !” Miệng nói , tay Quang ( bí thư tỉnh uỷ) đã giũ tung cái đống quần áo lẫn lộn cái bẩn, cái sạch, cái khô, cái ướt, rồi lượm lại từng cái một :” cái này của chị ấy thì để riêng ra, của chúng nó cũng xếp riêng ra. Cái quần này của cậu phải không ? đã giặt chưa đấy ? Thôi, chốc nữa đem giặt đi, đói cho sạch rách cho thơm…”

Chưa hết, để tỏ ra đi sâu đi sát quần chúng, ông bí thư tỉnh uỷ còn ‘thọc sâu” vào việc gia đình người ta : “ Đồng chí Bí thư tỉnh uỷ liền tính toán với ông chủ gia đình về công việc của tùng đứa, buổi sáng chúng làm gì ? Trưa chiều nên giao cho chúng những việc gì ? Rồi Quang bày cách thu dọn lại nơi ăn chốn ở, từ chỗ xếp quần áo, đến sách vở, guốc dép, đồ dùng thức đựng trong gia đình…”

Cứ xem cái cách ông “bí thư tỉnh” dạy bảo ông “bí thư xã” người ta phải bật cười về sự lố bịch của ông quan đầu tỉnh , chẳng rõ bà chủ nhà – tức vợ ông “bí thư xã” sẽ phản ứng ra sao khi chứng kiến cái cảnh một thằng cha căng chú kiết nhảy vào giữa chỗ riêng tư nhất trong tổ ấm của chị , “xía vô” tới cả những việc lẽ ra chỉ có vợ chồng chị biết với nhau. Ngược đời thay, thời đó con người ta lại lấy thế làm “vinh dự” và cảm động vì được ‘đồng chí bí thư tỉnh uỷ” quan tâm ,săn sóc đến cả những việc nhỏ nhất.

Văn hoá ứng xử xã hội chủ nghĩa nặng mùi “ nô lệ”, “tôi tớ” như vậy đó. Con người ta sẵn sàng tự tước bỏ những quyền con người tối thiểu nhất là quyền riêng tư trong gia đình khi được nhận ơn mưa móc của cấp trên dù chỉ là những lời quan tâm tào lao. Quả nhiên sau khi ‘dậy dỗ bảo ban” gia chủ chi li cặn kẽ, ông “bí thư tỉnh uỷ” liền ban phát ân huệ, ra lệnh cho ông Chủ tịch huyện trích quỹ cho ông này vay “hai trăm mua một con nghé, chăn dắt một năm bán đi cũng được ba bốn trăm, có thêm một khoản tiền…”.

Đảng “lãnh đạo’ ở cấp tỉnh là như thế đấy, nổi hứng cá nhân lên là một ông bí thư tỉnh uỷ có quyền tuỳ tiện móc công quỹ ra ban phát cho kẻ này kẻ khác bất chấp luật lệ về thu chi tài chính của Nhà nước. Xuống xã lần này, ông Bí thư tỉnh uỷ cũng được chứng kiến một ông Chủ tịch xã tham ô. Oâng này lợi dụng chức vụ “ viết giấy giới thiệu lên huyện xin mua những…hai chục tạ phân đạm rồi bán ra ngoài theo giá tự do” rồi thì “một năm trời làm ngơ cho thằng Kim ở Đại Lâm mổ lậu mười lăm con lợn , mổ mỗi con lại mời ông chủ tịch một bữa chén, nếu không ăn thì hắn cho con đưa sang một nửa cỗ lòng.” .

Rồi thì “chỉ riêng số gạo cứu đói cho Du Lâm tháng ba năm ngoái , ông Chủ tịch cũng để riêng cho gia đình mình hơn hai tạ…”. Mua bán chênh lệch hai tấn phân đạm, ăn của đút “nửa cỗ lòng heo”, “một bữa chén”, ăn chặn hai tạ gạo…chỉ có thế thôi mà ông Chủ tịch xã vẫn phải đi tù. Đó là tình hình tham nhũng vào những năm đầu thập kỷ 1970. Hơn 30 năm sau, tốc độ ăn cắp của cán bộ Đảng ta đã gia tăng đến khủng khiếp nếu ta tính được số tiền và của cải bọn Nguyễn Việt Tiến, Bùi Tiến Dũng…moi móc của Nhà nước.

Từ “nửa cỗ lòng heo” ngày xưa đến biệt thự, trang trại ngày nay - cán bộ Đảng ta quả thực đã tạo được một bước nhảy vọt vĩ đại, có tính cách lịch sử trong sự nghiệp…tham nhũng, nâng nghề ăn cắp thành chuyên nghiệp, thành một phần máu thịt trong cơ thể “Đảng ta”. Tại sao một Đảng “anh hùng” và ‘vĩ đại” như Đảng cộng sản lại để căn bệnh ăn cắp phát triển thành trọng bệnh vô phương cứu chữa như ngày nay ?

Đó là vì họ không dám nhìn vào cốt lõi, vào chính sự “độc quyền lãnh đạo’ đã dẫn tới tình trạng “siêu quyền lực” ở các cấp tạo điều kiện cho cán bộ Đảng ăn cắp thoải mái. Họ vẫn khăng khăng chỉ thừa nhận đó là do sự ‘suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ”. .

Oâng bí thư xã nhận xét về ông Chủ tịch xã tham ô “ là một cán bộ đã được rèn luyện, một con người tốt, có năng lực làm việc ..” , sở dĩ mắc tội tham ô là vì “những sai lầm của anh ấy chúng tôi biết cả, biết ngay từ đầu.. Chỉ vì trong Đảng uỷ nể nả nhau quá, nhân nhượng nhau nhiều lần quá thành thử lỗi nhỏ thành lỗi lớn…”

Ngày xưa đã thế và ngày nay vẫn nguyên xi vậy. “Các đồng chí chưa bị lộ” thừa biết đang cùng nhau đồng lòng ‘móc túi nhà nước” nhưng “nể nả, nhân nhượng nhau” , bưng tai bịt mắt, ngó lơ, ngậm miệng ăn tiền, chỉ đến lúc tranh ăn, đấu đá nhau để trở thành các đồng chí “bị lộ” mới lăn xả vào tố cáo nhau , sủa ăng ẳng như bầy chó đói tranh ăn.

Đó là căn nguyên vì sao “các cơ sở Đảng bị tê liệt “ như những vụ tham nhũng đã và đang xảy ra ở Bộ Giao thông vận tải, Tổng công ty điện lực, dầu khí, thiết bị viễn thông….và khắp nơi nơi trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, thời kinh tế hợp tác xã trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bổng lộc chưa có bao nhiêu, các cán bộ chưa cắn xé nhau tranh miếng mồi lớn như ngày nay nên ông Bí thư vẫn còn cao giọng rao giảng đạo đức cách mạng cho cấp dưới : “Hoặc là chúng ta phải nghĩ tới nhân dân , tới phong trào; hoặc là chúng ta chỉ lo lắng cho riêng mình…”

Ngày nay các đồng chí “bí thư tỉnh uỷ” chẳng còn nói năng theo kiểu “chống chủ nghĩa cá nhân” thời “bác Hồ” được nữa, một là vì “"ngượng mồm"” , hai là sợ cấp dưới nó cười cho thối ruột. Khác với tiểu thuyết “ Xung đột” còn có “mâu thuẫn địch – ta”, còn có chuyện đấu đá giữa ‘nhà nước” và “ nhà thờ” nên câu chuyện còn có chút phong phú, ly kỳ, trong “ Chủ tịch huyện”, Nguyễn Khải chỉ mô tả quan hệ giữa các cán bộ và bà con xã viên với nhau, tức “mâu thuẫn nội bộ” nên ít có “pha gay cấn”, đấu đá “một mất một còn” như cán bộ Nhà nước và linh mục nên chuyện dễ rơi vào nhàm chán, tẻ nhạt. Bởi vậy để lôi cuốn độc giả, ông nhà văn đã phải “ làm động tác giả”, tạo ra những “xung đột” tưởng như ác liệt mà thực chất lại là hoà hợp vui vẻ.

Chuyện là ở hợp tác xã Nam Hoà , “sau khi rỡù khoai mùa xong, có hai chục hộ gửi đơn thẳng lên trung ương khiếu nại về đời sống khó khăn , thu hoạch quá thấp , xin được ra ngoài làm ăn, nhưng vẫn “trung thành với Đảng, với chủ nghĩa xã hội”. Thời nay, bà con nông dân làm đơn khiếu kiện lên trung ương là chuyện cơm bữa, là chuyện thường ngày ở nông thôn, nhưng vào thời đó – thời đang xây dựng hợp tác xã thì việc dân làm đơn lên thẳng trung ương xin ra khỏi hợp tác xã là một chuyện ghê gớm, kinh khủng, chắc phải có phản động ở bên trong xúi giục.

Bởi vậy ngay lập tức , chủ nhiệm hợp tác xã triệu tập cuộc họp gồm Ban quản trị và các hộ đã nộp đơn xin ra khỏi hợp tác. Người đọc chờ đợi ông nhà văn qua sự kiện này vạch mặt bọn cường hào mới ở nông thôn, ăn cắp tài sản hợp tác xã , chèn ép và bóc lột sức lao động, đẩy người dân vào nghèo đói cùng cực khiến họ phải vùng dậy phản kháng, qua đó chứng minh đường lối xây dựng kinh tế hợp tác xã của Đảng là một sai lầm nghiêm trọng. Lẽ ra một nhà văn trung thực nhất thiết phải làm được chuyện đó.

Tiếc thay, ông Nguyễn Khải đãø làm cái việc ngược lại. Ông bôâi xấu những người khiếu kiện, ông mô tả một trong những người đầu đơn xin ra hợp tác đó lại là một tên “ ăn mặc kỳ quái. Hắn ta khoác lên người không phải cái áo mà là những mảnh giẻ, một cái quần không ra chùng, không ra cộc vá víu hàng chục mụn, và cái thằng vô giáo dục đã không biết giữ liêm sỉ , khi cái phần đáng lẽ ra phải giấu kín thì nó lại phơi bầy ra trước mắt mọi người…” Oâng nhà văn đã dựng chân dung một người phản kháng, xin ra khỏi hợp tác là một thằng lưu manh, chày cối như vậy đấy. Tệ hại hơn nữa, hắn nghèo đói nhưng không phải do hợp tác xã gây ra mà chính là hắn …cờ bạc. Ta hãy nghe bà chủ nhiệm kể tội hắn :

” Chúng tôi còn có khuyết điểm là đã để anh thua bạc phải gán nợ hàng tạ thóc đến nỗi vợ con anh phải đói.Lại không biết khuyên anh thôi rượu, thôi chè chén, thành thử trong lưng anh bây giờ không còn lấy được vài đồng đong gạo cứu đói…”

Như vậy đó, Nguyễn Khải coi những kẻ làm mất trật tự trong hàng ngũ đó chẳng qua là đám “giòi bọ”. Oâng thừa nhận tuy có những người đi ngược lại chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước xin ra khỏi hợp tác xã nhưng đó là bọn cờ bạc, lưu manh ở nông thôn chứ không phải nông dân làm ăn lương thiện. Cái cách Nguyễn Khải bênh vực chủ trương xây dựng hợp tác xã nông nghiêp như vậy thật vụng về và lố bịch.

Tuy nhiên, dẫu là “nông dân lạc hậu” hay “nông dân tiên tiến” một khi đã xin ra khỏi hợp tác xã thì là một chuyện tầy đình không khác gì có bọn “phản động chui vào phá hoại hợp tác xã”. Bởi thế ông Chủ tịch huyện có lần đi công tác mấy ngày liền, trở về cơ quan , đã định nghỉ ngơi , “tự pha một ấm chè thật đặc, rồi ngồi co cả hai chân hớp từng ngụm nước nóng chát, thoáng ngọt và rít thong thả từng hơi thuốc…”, nhưng nghe tin ở dưới xã có cả chục hộ viết đơn xin ra hợp tác, lập tức cái “hạnh phúc nhỏ nhoi “ được nghỉ ngơi đó biến mất, cho dù đang nửa đêm ông cũng lặn lội đạp xe xuống tận nơi để giải quyết làm như trời sắp sập đến nơi. Đau đớn cho ông Chủ tịch huyện cái người cầm đầu nhóm người nộp đơn xin ra khỏi hợp tác ấy lại là ông lão Hoá – một nông dân cách mạng nòi, ngày xưa đã từng đào hầm cứu sống ông Chủ tịch huyện hồi còn kháng chiến chống Pháp.

Nghe chính miệng ông Hoá tự nhận đã viết đơn xin ra khỏi hợp tác, ông Chủ tịch huyện sững sờ : “ Ô hay sao lại là ông ?” Thật là không tưởng tượng nổi, thà những đứa cờ bạc , rượu chè, lười lao động xin ra hợp tác vì ngại đi làm còn hiểu được, đằng này “lão thành có công với cách mạng” như ông cụ Hoá cũng đòi ra là làm sao ? Oâng Chủ tịch huyện nổi giận : “ Ai mà hiểu tại sao ông lại hành động nông nổi đến thế ? …

Oâng đã nghĩ kỹ chưa mà lại làm ăn như thế ?” Đúng là chuyện không thể hiểu nổi. Đảng đề ra chính sách hợp tác hoá là để “giải phóng sức lao động”, nâng cao đời sống”, “đổi đời cho nông dân” vì sao họ lại xin ra khỏi hợp tác xã ? Người ta cứù tưởng nhà văn Nguyễn Khải phát hiện ra một “lỗ hổng” trong chính sách hợp tác hoá buộc xã viên phải nộp đơn xin ra sẽ dẫn tới nguy cơ tan vỡ hợp tác xã.

Nhưng không phải vậy, ôâng nhà văn đã “làm động tác giả” để kích thích trí tò mò độc giả, tăng phần hấp dẫn cho cuốn sách đó thôi. Hoá ra ông già Hoá và một số xã viên làm đơn xin ra khỏi hợp tác xã không phải vì “bất mãn chế độ” mà ngược lại, chính là để đòi cán bộ hợp tác xã thực hiện đúng ..chủ trương chính sách của Nhà nước. Nguyên là ở vùng này có nhiều đất vườn mà đất vườn có thể gieo trồng, chăn nuôi nhiều thứ , giá trị hơn cả ruộng khiến “ người ta có thể trao cho hợp tác xã tất cả đất ruộng của mình , nhưng cốt tử phải giữ lấy mấy sào vườn…”.

Bởi vậy trong hợp tác xã có tình trạng xã viên chỉ chăm chút vào mảnh vườn riêng của mình mà lơ là ruộng của chung. Rồi thì phân bón của hợp tác xã cũng có nguy cơ chạy vào mảnh vườn riêng. Đứng trước tình trạng “mầm mống tư hữu” có nguy cơ trỗi dậy đó, ông lão Hoá và một số xã viên “tiên tiến” đã đấu tranh với cán bộ đòi uốn nắn tư tưởng cho xã viên, yêu cầu họ phải coi trọng ruộng đất chung trong hợp tác quan trọng hoá hơn mảnh vườn riêng của họ. Tuy nhiên do cán bộ cũng có “mảnh vườn riêng” nên yêu cầu đó không được thực hiện , bởi vậy họ bày mưu làm đơn ra khỏi hợp tác xã để gây áp lực buộc cán bộ thực hiện đúng chủ trương của Đảng và chính phủ mà thôi.

Trong tiểu thuyết “ Chủ tịch huyện”, Nguyễn Khải đã bịa đặt ra một loạt nhân vật giả, xã viên hợp tác xã “cách mạng hơn cả Đảng”, “bảo hoàng hơn cả nhà vua” , “mác xít hơn cả người cộng sản”. Thực ra tại các hợp tác xã, các địa phương, do Đảng nắm độc quyền lãnh đạo nên các cán bộ của Đảng không hề bị kiểm tra, kiểm soát bởi báo chí hoặc bất kỳ cơ chế quyền lực nào khác nên chúng ra sức tự tư tự lợi, ăn chặn ăn bớt của xã viên, ăn cắp công quỹ. Sự sa đoạ , xuống cấp của hàng ngũ cán bộ đã xảy ra từ rất lâu, từ thời bắt đầu xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở nông thôn. Tuy nhiên trong các tiểu thuyết của Nguyễn Khải, các cán bộ từ tỉnh, huyện, xã, thôn xóm đều là những người “đầy tớ tận tuỵ của dân’, lặn lội ngoài đồng ruộng giúp nông dân nâng cao nâng cao năng suất.

Như ông “bí thư tỉnh uỷ” đi sâu đi sát nhân dân, vào tận buồng riêng nhà người ta mà cắt đặt việc gia đình, ông Chủ tịch huyện ăn ở lẫn lộn với cán bộ, nghe tin ở đâu có hiện tượng xã viên xin ra khỏi hợp tác xã là ông phóng xe xuống giải quyết bất kể ngày đêm. Cán bộ xã thì “từ mờ sáng tới nửa đêm : mồm nói , chân chạy, xem xét, hỏi han, tranh cãi, la hét , cáu giận , ngọt ngào , thôi thì đủ…”.

Mô tả cán bộ từ tỉnh xuống xã đều tận tuỵ với dân , không tham ô, tham nhũng là hết sức sai lệch so với thực tế đời sống . Càng đọc “Chủ tịch huyện” người ta càng nhận rõ cái cảm hứng chủ đạo của nhà văn là “ca ngợi một chiều”, là thực hiện đúng nhiệm vụ ”tuyên truyền cho đường lối chính sách của Đảng” của nhà văn “cách mạng”. Bởi thế tác phẩm của họ cũng nhanh chóng rơi vào quên lãng. Khi nhiệm vụ chính trị qua đi, tác phẩm văn học “phục vụ kịp thời” cho nhiệm vụ chính trị đó cũng chết theo. Đó là “số phận” của những tiểu thuyết viết về nông thôn Việt Nam của Nguyễn Khải.

Suốt cả cuốn tiểu thuyết “ Chủ tịch huyện”, người ta thấy cán bộ từ thôn xã lên tới huyện tỉnh, anh nào anh nấy hai bàn tay đều sạch bong như tờ giấy trắng, nhất mực chỉ “vì Đảng vì dân” không mảy may tơ hào công quỹ lấy một cân gạo, không nhũng nhiễu ăn tiền của dân lấy một đồng bạc. Có lẽ “tô hồng” quá đáng vậy sợ bạn đọc cười, Nguyễn Khải “liều mình” dựng lên một ông Chủ tịch xã tự tư tư lợi, lợi dụng chức quyền ăn tiền của dân .

Nguyên ở xã Hoà Trung có anh chủ tịch xã tên An làm ăn rất giỏi khiến cấp phó của anh là Như ghen ghét rắp tâm làm hại. Anh này xúi ông chú họ tên Đào làm nghề buôn chuyến đến mua lại hai nghìn ngói của ông chủ tịch xã với giá cao hơn giá mua của Nhà nước tám chục nghìn. Mua bán xong xuôi, ông Đào lại biếu ông Chủ tịch hai ngàn lá cọ và đề nghị ông mua giúp cái dầm cầu xã bỏ đi để làm cột nhà giá có 200 ngàn nhưng lại đưa những 300 ngàn, coi như “biếu” Chủ tịch xã chỗ chênh lệch.

Chuyện “tham ô” của Chủ tịch xã hoá ra chỉ có thế, chẳng qua là ông vô tình tưởng chuyện nhỏ , ai ngờ tay Phó Chủ tịch thổi lên thành chuyện lớn. Rất may, “đồng chí Bí thư Đảng uỷ xã” đã có mặt kịp thời, phân tích cho Chủ tịch xã “nhận ra sai lầm” của mình, trả lại tiền cho lái buôn, nhờ vậy vẫn giữ được phẩm chất của một cán bộ cộng sản.

Hoá ra lại một lần nữa Nguyễn Khải “làm động tác giả” khi mon men tiến gần tới cái cốt lõi của đám cán bộ Đảng ở nông thôn : máu tham ô, bòn rút của công. Tiếc thay, tiểu thuyết “Chủ tịch huyện” hoàn thành vào tháng 2 năm 1971 khi bộ mặt của “cán bộ mua đài mua xe” đã lộ ra gớm ghiếc, khi bất công xã hội đã trở nên vô cùng sâu sắc, khi “chợ vua quan” và “chợ của nhân dân anh hùng” mỗi ngày một cách biệt, vậy nhưng ông nhà văn vẫn nhắm mắt, bưng tai không dám nhìn, không dám nghe những xấu xa, đồi truỵ của đám quan lại cán bộ này, vẫn hết lời ‘bốc thơm” chúng. Kết thúc cuốn tiểu thuyết, ông nhà văn đặt vào mồm Chủ tịch xã trẻ và Chủ tịch huyện già những đối thoại qua đó “ca ngợi “ không còn biết xấu hổ về phẩm chất của thế hệ cán bộ mới này.

Chủ tịch xã : “ …khó khăn mấy rồi cũng vượt qua được cả thôi . Thế hệ cha anh đã đánh thắng bọn xâm lược Pháp , thì thế hệ chúng em sẽ đánh thắng bọn xâm lược Mỹ. Chắc chắn là như thế…”. Chủ tịch huyện : “Chắc chắn phải là như thế…” Chủ tịch xã : “ …cái khó nhất là đoàn kết được với nhau, không có gì phải ngờ nhau , phải đối phó với nhau thì việc gì cũng làm được . làm được hết…” Anh Chủ tịch xã này nói năng y như …bác Hồ kêu gọi toàn dân “đoàn kết, đại đoàn kết” vậy.

Nhưng cán bộ làm sao mà đoàn kết được khi họ phải bon chen, chèn lấn, đẫm đạp lên nhau giành ghế để tồn tại ? Người bộ trong bộ máy Đảng và Nhà nước thì đông như quân Nguyên, ghế ngồi thì có hạn, càng lên cao, ghế càng ít, cuộc đấu đá giành giật càng khốc liệt. Kêu gọi đoàn kết trong đám tranh ăn, một mất một còn rõ ra là trò ảo tưởng, bịp bợm, hài hước. Để kết thúc cuốn tiểu thuyết, ông nhà văn còn cho Chủ tịch huyện phát biểu một câu thật “lãng mạn”…cách mạng : “ Nói cho cùng, cái thử thách lớn nhất, phức tạp nhất vẫn là tự mình vượt qua mình. Ngoài ra những khó khăn khác, những thử thách khác đều không đáng sợ, có phải không, đều không có gì đáng sợ…”

Tuy nhiên, thử thách lớn nhất, phức tạp nhất đối với các cán bộ chẳng phải là vượt qua mình mà chính là vượt qua…cái ghế của mình . Bởi thế họ phải trui rèn cho mình một phẩm chất … bất nhân, gian manh và đểu cáng để giẫm đạp lên đồng chí, đồng đội mà leo cao. Ngoài ra cái khó vượt nhất trong con người cán bộ chính là máu tham, nhu cầu hưởng thụ và đòi hỏi lớp cán bộ như Nguyễn Việt Tiến, Bùi Tiến Dũng…vượït qua đượïc cái “máu” đó thì quả thật còn khó hơn con voi mượn cánh con bướm mà bay qua đại dương.

Bởi thế tiểu thuyết “Chủ tịch huyện” cũng giống như “Xung đột” của Nguyễn Khải đã “hoàn thành nhiệm vụ lịch sử “ của nó chỉ sau vài năm ra mắt bạn đọc và hiện giờ nó chỉ còn được nhắc tới bởi các nhà phê bình lý luận văn học ăn bổng lộc Nhà nước. Cha và con và… Hồi tháng 2 năm 2006, nhà văn Nguyễn Khải có trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ .

Khi được hỏi : ” Nếu người ta gọi ông là nhà văn thời sự thì ông buồn hay vui ?” và “ thời sự hình như không mấy tương đồng với sức sống lâu dài của một tác phẩm. Chủ quan mình, ông nghĩ tác phẩm nào của mình sẽ có được cái lâu dài ấy ?” Nhà văn Nguyễn Khải sốt sắng trả lời : “ Nhiều tác phẩm hay đã được bắt đầu từ những bức xúc rất nhỏ của một “chuyện hôm nay”, của cái “bây giờ” nhưng vẫn làm nhiều thế hệ bạn đọc xúc động…Phần mình, tôi nghĩ “ Một cõi nhân gian bé tí”, “ Cha và con và…”, “ Điều tra về một cái chết “ cùng một số truyện ngắn của tôi có được cái thân phận ấy của con người…” Vậy là trong vài chục tác phẩm, Nguyễn Khải đã chọn “ Cha và con và…” là một trong vài tác phẩm ông cho rằng có thế để đời, còn lại mãi với thời gian.

Viết xong vào tháng 8 năm 1978 , xuất bản ngay trong năm, dày vỏn vẹn chừng 200 trang và sách vừa in ra đã được “phê bình gia” Vương Trí Nhàn tung hô trên báo Văn Nghệ với cái tựa bài to tát :” Cha và con và…triết luận về tôn giáo và chủ nghĩa xã hội “. Ghê gớm chưa ? Vậy giá trị thực của cuốn truyện này ra sao ?

Như trên đã nói, viết về “nhà thờ” luôn là mặt mạnh của Nguyễn Khải vì ông luôn coi quan hệ giữa nó và Nhà nước là “đối kháng” nên viết dễ sinh động lôi cuốn, gay cấn hơn là viết về ‘dân” với “cán bộ’, vốn là mâu thuẫn ông coi là “nội bộ”đơn giản và tẻ nhạt. “ Cha và con và…” lại cũng xoay quanh chủ đề ‘bôi bác nhà thờ” như hai tập tiểu thuyết “Xung đột”. Đó là câu chuyện về một linh mục trẻ, mới ngoài ba mươi, tên là Thư được Toà Giám mục cử về “nhậm chức thầy cả” ở xứ Nhất. Về địa phương, trước hết cha phải tới trình diện chính quyền xã.

Cái cách đối xử của cán bộ uỷ ban làm cha không được vui, phàn nàn với ông chánh trương : “ Cả cái uỷ ban của các ông nữa. Họ để tôi leo cả mấy bậc thềm , tự bước vào trong nhà, tự đến trước bàn giấy của bà Chủ tịch ngả mũ chào, rồi bà ta mới đứng lên chào lại.

Bà ta là Chủ tịch thật nhưng còn là con chiên của Chúa. Chúa chiên đến mà con chiên dám xử sự vậy sao ?” Tuy nhiên, đó mới chỉ là nỗi phiền lòng đầu tiên ông cha trẻ gặp phải khi tới nhậm chức ở vùng đất mới. Chờ đợi ông ta ở phía trước còn vô số những “ chọc phá”, những ‘đòn phép” bổ vào đầu ông mà đau đớn thay không phải từ phía chính quyền vốn “thù địch “ với nhà thờ , mà lại từ phía những con người thuộc phe ông – những linh mục già, chánh trương, trùm trưởng, con chiên …luôn luôn giăng bẫy trên đường đi tới của cha linh mục trẻ mới nhậm chức.

Trước tiên, cha linh mục trẻ phải tới gặp cha linh mục già để nhận “bàn giao”. Mới qua vài ba câu chuyện, cha trẻ đã nhận ra tính cách xỏ xiên của cha già : “ Lạy Chúa ! Tại sao ông già này lại nói nhiều về sự yếu lẫn của mình. Oâng già ấy định giăng cái bẫy nào đây ?” Lời nói như gan ruột , nhưng cái miệng thì bỡn cợt , con mắt thì hấp háy, biến ảo quá chừng “ Cha trẻ cúi mặt thở dài rất nhỏ, lái câu chuyện sang hướng khác…’

Một cha trẻ mới ngoài 30 tới nhậm chức, một cha già ngoài 80 sắp về với Chúa phải rời chức. Hai cha đối xử với nhau thật chẳng khác gì hai quan cán bộ trẻ già hằm hè nhau khi bàn giao ghế. Quả thực Ban tôn giáo chính phủ cần cấp bằng khen cho nhà văn Nguyễn Khải về thành tích “bôi xấu thiên chúa giáo”.

Hành hạ “cha trẻ” vậy nhưng “cha già” vẫn chưa chịu buông tha. Tới bữa ăn “cha già” còn “quay” một hồi nữa khiến “cha trẻ” cảm giác “bữa cơm kéo dài như một hình phạt. Chẳng phải vì một già một trẻ , một cũ một mới , một cha quản hạt và một cha mới nhậm chức, mà còn vì một cái gì khác nữa, chưa rõ rệt , rất khó dò tìm đã khiến vị linh mục trẻ mất hẳn phương hướng đối đáp trong những mẩu chuyện vặt vãnh không đầu không đuôi…”

Thoát được “cha già” , “cha trẻ” được phái về xứ Nhất nơi còn biết bao nhiêu điều phiền tạp chờ đợi ï cha. Trước hết, “ lễ nghênh tiếp vị chủ chiên của ban hành giáo hàng xứ rất đúng phép tắc , nhưng gượng gạo, vênh váo…”. Lẽ ra theo thông lệ, cuộc tiếp rước phải “ cờ phướn, có chè chén, tối có đánh bạc” nhưng chính quyền không cho phép. Chỉ còn lại “ những trình bẩm, ban truyền, những ân sủng, kính cáo , toàn những chữ nghĩa đã chôn đi, đã quên đi từ đời kiếp nào , nay phải móc lên cả lượt.”. Cái cảnh các ông già bà cả cung kính chào cha chăn dắt linh hồn được ông nhà văn riễu là “ ông già cúi người trước một chàng trai trẻ, xưa là thế , vì nó còn là con vua cháu chúa, còn nay mà thế tự nghĩ cũng ngược lẽ, cũng nực cười…”

Trong đám đón rước cha, có ông trùm họ An Cựu, “đội khăn xếp, áo thâm dài, đi giày mũi nhọn, lại cắp cả ô nữa mà trời vẫn nắng ráo” liền bị chê cười “ Oâng trưởng khu lên hầu cụ lớn đấy à ?”. Để biến việc đón rước cha thành một vở hài kịch, ông nhà văn còn cho ông trùm An Cựu đi tới trước mặt cha “ quỳ hẳn gối vái một vái , ông hổn hển đứng dậy vái thêm một vái nữa và cứ bước giật lùi” , chẳng ngờ “ gót giày lại dẫm ngay vào bàn chân bà trưởng hộị khấn…khiến bà đang véo von chúc thày cả liền kêu thét như bị ai cấu, dùng cả hai tay ấn mạnh ông trùm ra một bên, miệng nói the thé : Mắt mù hay sao mà giẫm nát cả chân tôi” Thật là bôi bác nhà thờ một cách hết sức thô thiển và tiểu nhân. Chẳng hiểu thiên chúa giáo có ân oán gì với ông Nguyễn Khải mà ông thù ghét thâm căn cố đế đến vậy ?

Chưa hết, khi con chiên còn đang xúm xít đón cha thì “ một tiếng gọi hết sức bất ngờ , hết sức rành rõ :” Anh Thư”. Cả mọi người chết lặng vì tiếng gọi quá sức láo xược của một đứa nữ nào đó…”. Gọi tên cúng cơm của cha ngay giữa lễ đón tiếp, mà lại do một giọng nữ rất âu yếm thì quả bằng trát bùn vào mặt cha giữa lúc linh thiêng, long trọng nhất. Thế là cả đám rước biến thành một đám trò . “Trong nháy mắt , những tiếng cười bị dồn nén luồn lỏi khắp các nhóm người , đến nỗi các chức dịch hàng xứ đứng hầu cha cũng không dám ngước nhìn vị chủ chiên, e rằng chính mình cũng khó giữ được sự kính cẩn cần phải có. …”

Dùng chuyện “trai gáiù’ để bôi bác linh mục là một trong những “sở trường” của Nguyễn Khải. Khi có tiếng người nữ gọi tên cha âu yếm như vậy, lập tức ông trùm An Cựu “làm ra vẻ bầy tôi sốt sắng “ hò hét : “ Các người bị ma ám quỷ xui cả sao dám hỗn láo thế ? Đứa nào gọi tên cha trước ? Đứa nào ? Là con cái nhà ai để tôi thưa với cha phạt nó. Nó là đứa nào ?”

Thật chẳng ngờ đứa con gái đó lại là thị Thảo, con gái của chính ông làm “đám đông cười vỡ ra. Họ không dám cười linh mục mà chỉ cười cha con ông trùm An Cựu nên có thể cười thật thoả thuê” làm ông trùm trợn mắt : “Chúng bay đừng có bỏ vạ cáo gian mà sa xuống hoả ngục đời đời. Nhà tao mấy đời thờ phượng Chúa…” Lại cười , cười như thể đang xem vở tuồng, vở chèo gặp một vai đắc ý. Rồi họ nói chen vào như nói đế : “ Đời ông chỉ biết thờ Chúa, chứ con gái ông chỉ biết thờ các cha thôi…”

Đám đông vỗ tay tán thưởng màn kịch cương, lời lẽ đã hay mà vai diễn cũng hay…” Than ôi, cái cảnh con chiên đón tiếp đức cha linh hồn về xứ mình hỗn xược như vậy ở một xứ công giáo toàn tòng như Bùi Chu, Phát Diệm làm gì có cảnh đó. Oâng nhà văn Nguyễn Khải quả đã xuyên tạc, bôi xấu nhà thờ một cách trắng trợn và hèn nhát.

Cô Thảo, con gái ông trùm An Cựu đã cả gan gọi tên cúng cơm của cha giữa đám đón rước, về nhà còn chớt nhả với bố : “Oâng cu ïmới tới nom trẻ đẹp quá, bố ạ…chúng con chỉ thích xem người chứ không xem lễ…” Oâng bố chửi : “ Con nhà vô phúc, rồi mày kéo cả bố mẹ xuống hoả ngục với mày thôi…” Nó toét miệng cười : “Xin mời các cụ lên thiên đàng hầu Chúa, còn con xin đi theo cha xuống hoả ngục?” Bịa ra chuyện con gái một ông trùm đạo cả gan mang đấng chăn chiên ra bỡn cợt ngay cả với bố mình như vậy, quả thật ông nhà văn đã tìm ra một hình ảnh thật sinh động để dựng nên sự suy đồi của đạo tại một xứ toàn tòng.

Công việc đầu tiên của cha mới là xem xét “bình Mình Thánh, chén đĩa, chân đèn, ảnh tượng, khăn bàn, khăn thánh…”. Buồn cho cha, chẳng có vật gì ưng ý, “tất cả đều cũ kỹ, sứt vỡ, hôi mốc, khập khiễng như nhà vắng chủ đã lâu ngày…”. Tâm sự cha trẻ lúc này thật ngao ngán “một ông linh mục quá già, một đàn chiên quá đông, thế tất việc chăm sóc phải biếng, sự giảng dậy phải nhác…Công lao vun trồng vườn nho của Chúa suốt mấy chục năm của các đấng bậc đi trước , rút lại tay không ?”.

Vậy là cái gia sản “cha già “ để lại cho “cha trẻ” quá èo uột”, cái trách nhiệm gây dựng lại việc đạo cha trẻ phải gánh vác quá nặng nề. “Gai góc lại mọc đầy như thủa ban đầu và dây leo đã sắp bò kín cả ảnh tượng. Người kế nghiệp trẻ tuổi sẽ bắt đầu công việc khai phá từ đâu ?” Và ông nhà văn cảnh báo ông linh mục : “Nhân nhượng với đời hay hay đối mặt với đời ? Hoặc giả có việc phải đối mặt và cũng có việc phải nhân nhượng ? Là người anh em tốt mà vẫn là người chăn dắt tốt. Cười vui với tất cả mà vẫn chỉ huy được tất cả.

Đã có giáo sĩ nào trong địa phận biết dung hoà lề luật của nhà Chúa với lề luật của thế tục chưa ? Chưa một ai thì phải. Người được toà giám mục hài lòng thì chính quyền căm ghét. Người được chính quyền chiều chuộng thì Toà giám mục phải đề phòng. Hoặc là đầu này hoặc là đầu nọ, tìm được một chỗ đứng vững chắc ở quãng giữa thật khó lắm thay…” Lo lắng cho cha trẻ như vậy khác nào “lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử “, ông Nguyễn Khải coi mối quan tâm lớn nhất của linh mục là làm sao dung hoà giữa toà thánh và Nhà nước để giữ vững cái ghế linh mục của chính ông chứ không phải là chăm lo phần hồn cho con chiên. Oâng nhà văn quả đã mô tả cha xứ theo kiểu mô tả một Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện. Ngày làm việc đầu tiên, cha Thư đã như bị dội cả một thùng nước lạnh khi gặp người giúp việc thân cận nhất của mình : ông chánh trương xứ vì “ông ta già quá , ốm yếu quá , kèm nhèm và ngu tối thế nào ?”.

Và lạ chưa, câu chuyện đầu tiên giữa hai người lại là …tranh luận về cải cách ruộng đất xoay quanh chuyện cụ Thượng người trong làng, bỏ tiền xây cất nhà liền mấy cái nhà thờ sau bị cách mạng xử lý. Oâng linh mục nói : “Địa phận ta còn mắc nợ với Ngài nhiều lắm…” Oâng chánh trương cãi : “ Thưa cha ông ấy còn mắc nợ chúng con rất nhiều…” Oâng cha trẻ gườm gườm nhìn người giúp việc : “ Ruộng đất của người ta, cơ nghiệp một đời của người ta một sớm một chiều mất sạch . Thế còn chưa đủ khổ sở ư ?” Ông chánh trương nói nhỏ nhưng bướng bỉnh : “ Cái khổ cả trăm gia đình chẳng ai biết đấy là đâu.

Cái khổ của một nhà lại như chiều ai oán. Cũng là tôi tớ của Chúa mà…” Người đọc không khỏi buồn cười vì cái nhân vật “chánh trương” này nói năng chẳng khác gì ông bí thư xã. Vậy chắc ông là “chánh trương quốc doanh” do Nhà nước cài vào để theo dõi Nhà thờ ? Mang tiếng là “cánh tay phải”, là người giúp việc thân cận cho cha, không hiểu sao vừa mới gặp, ông chánh trương đã giở giọng khủng bố tinh thần : “ Thưa cha , năm nay con đã bảy chục tuổi, đã hầu hạ cha già trọn bốn mươi năm…

Mắt con đã nhìn nhiều sự đổi thay, người ta hợp nhau rồi người ta lại chia nhau ra . Hôm qua là cha là con , hôm sau có tao không mày . Hôm qua chén chú chén anh, hôm sau nhét rọ buông sông. Đời người biến ảo khôn lường, một sớm một chiều chưa thể biết được…” Oâng cha trẻ chân ướt chân ráo về giáo phận đã bị cha già răn đe cho một buổi muốn điên đầu, nay lại gặp ông chánh trương buông giọng bí hiểm, nửa kín nửa hở doạ nạt về cái sự khó ở đời . Những tưởng ra trường sẽ cùng người nhà Chúa xắn tay áo làm việc đạo , ai ngờ như lạc vào trận đồ bát quái, xung quanh là cả một rừng gươm giáo. “

Cha trẻ đưa tay lên che mặt, đầu óc quay cuồng , ông rên rỉ : “ Khó hiểu quá ! Các ông nói gì với tôi mà khó hiểu vậy ? Tôi chỉ xin các ông một điều :: nếu xứ này còn cần linh mục thì tôi ở lại, dẫu khổ hạnh thế nào tôi vẫn cứ ở. Bằng không thì trả tôi về toà Giám, dừng dùng mưu mẹo làm nhục tôi , bức hại tôi…”.

Oâng nhà văn diễn tả cái tâm trạng đau buồn, bế tắc của cha “ mùi mẫn” chẳng khác gì một chàng trai si tình bị người yêu ruồng rẫy : “ Và, lạy Chúa, con chỉ ước nguyện sẽ được nằm ở cái giường đơn sơ kia mà trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay âu yếm của Chúa”…Cha xứ đã cởi áo, buông màn và nằm xuống, hai tay chắp ngang bụng, thổn thức vì những ý nghĩ thương cảm xa xôi, miệng khẽ gọi những tên cực thánh : Giêsu – Maria – Giuse…” Liệu một đấng chăn dắt linh hồn của cả một giáo phận hàng chục ngàn con chiên, có dễ “tủi phận mình”, thổn thức như một anh đồng cô ẽo uột vậy chăng ?

Xây dựng nhân vật cha Thư ngây ngô, ngớ ngẩn như vậy trách gì các “sự khó” cứ ùn ùn kéo tới với cha. Trước tiên là thị Thảo, cô gái cả gan gọi tên cúng cơm của cha ra trong buổi tiếp rước hôm trước, xin gặp riêng cha với tư cách là trưởng hội hát.. Oâng cha trẻ chưa trải đời chấp thuận để cô cùng hội hát quyên góp may áo lễ mới cho cha vì cái cũ đã sờn rách. Mặc dầu các cô đã dặn nhau “ Không được nói lại với ai đấy nhá !

Cấm đấy nhá…” nhưng chỉ một thời gian sau cả xã đã biết chuyện, gây ra bao tai tiếng làm ông Chủ tịch mặt trận xã phải tìm tới tận nhà ông chánh trương phàn nàn : “ tôi nghe con mẹ Tộ vừa la vừa khóc : vậy là mày giết tao. Đứa nào xui mày ? Thằng nào con nào xui mày để tao băm vằm nó ra ?...Chúng nó chim chuột dăng dện nhau thì mặc mẹ nó chứ , hà cớ gì lại khi dỗ mày. Mày ăn cơm hay ăn cứt mà dại dột thế ?” Hoá ra con gái bà Tộ lấy đôi bông tai để quyên góp may áo mới cho cha làm bà ta chửi toáng :” đã có ông linh mục nào đến xứ này mà chê tiền không ? Mà chê gái không ?

Tôi cũng là người có đạo tôi không nói vu cho ai bao giờ…” Cha quản hạt thì sao ? “ – Rụng hết răng thì còn ăn gì được , giả thử còn đủ cả hai hàm chắc cũng chẳng từ…”. Ở giữa một xứ đạo toàn tòng, sao lại nảy nòi ra một mụ đàn bà oang oang chửi cả cha trẻ lẫn cha già như một mụ đàn bà mất gà mà kẻ cắp lại chính là… các cha. Chắc chẳng con chiên nào hỗn xược , phai nhạt đức tin đến mức chửi cha quá quắt như thế mà chỉ có ông nhà văn Nguyễn Khải mượn mồm đàn bà bôi xấu linh mục thôi.

Oâng chánh trương nghe ông Chủ tịch hạch tội cha vậy chẳng những không thanh minh, bênh vực , bảo vệ lại còn tố cáo cha : “ Cái ông ấy ( tức cha Thư) đến là dại. Lại còn không biết nó ( thị Thảo) là ai mà dính vào…Lần đầu nó xin gặp cha còn nài tôi cùng ngồi. Mấy lần sau chả thấy ông ấy lý gì tới mình nữa.

Không biết đâm mù con mắt xác thịt thì có ngày hỏng…” Lão Chủ tịch Mặt trận nhân đó riễu cha : “ Da thịt nó như thế, môi mắt nó như thế, thánh năng ngồi gần còn có khi cháy huống hồ là cha…” Cứ như thế kẻ tung người hứng, một bên là đại diện nhà thờ, một bên là đại diện chính quyền ra sức bôi bác cha.

Vậy là đang ở bên phía nhà thờ, trợ giúp linh mục, chẳng hiểu sao ông chánh trương lại trở mặt , hùa theo chính quyền , đánh đằng sau lưng cha hiểm độc như vậy ? Oâng ta là “chánh trương xứ” hay là người của Ban tôn giáo vận cài vào nhà thờ để phá đạo ? Oâng nhà văn lập lờ không nói rõ ra để mượn mồm “chánh trương xứ” vốn là đại diện cho con chiên của cả một xã chửi bới linh mục và cũng tức là chửi bới thiên chúa giáo. Tất nhiên việc mấy cô hội hát quyên góp may áo cho cha như vậy là tan , “ thị Thảo phải hoàn lại đôi hoa cho mẹ con bà Tộ. Các nhà góp tiền mua áo lễ cũng lần lượt kéo tới đòi tiền về…”.

Mọi lời đàm tiếu tất nhiên chĩa cả vào cha xứ làm “ cha Thư khi được hay mọi chuyện liền đóng cửa buồng ở lì trong đó cả tuần lấy cớ cảm cúm.”. Và cũng từ đó, mỗi làn buộc phải làm việc với chánh trương , cha xứ đều gọi thêm người trong ban hành giáo tới dự để ” khỏi mặt đối mặt với ông già nham hiểm quỷ quái…” Và khi cha “ ló mặt làm lễ sáng chúa nhật nước da khô tái như vừa qua khỏi một cơn trọng bệnh…”

Cái “sự khó” dường như luôn luôn đuổi theo cha Thư . Cơn ông chưa qua cơn bà đã tới, vụ quyên góp làm cha mất mặt hãy còn râm ran trong xứ đạo thì một chuyện đau đầu khác cũng lại tới. Nguyên là cha Thư một hôm nhận được thông tư của Toà Giám mục chỉ thị cho các xứ đạo tổ chức “ bách chu niên đức cha Phước dâng địa phận Tây đàng ngoài trong tay Đức Mẹ ”.

Cha Thư tìm tới cha già quản hạt để bàn việc tổ chức không ngờ ông này lại giở giọng …bàn lùi : “ Đức cha Phước là tên gọi Việt Nam , còn tên chính của ngài là Puginier . Ngài coi sóc địa phận kẻ Sặt kế vị đức cha Theurel ..” Cha trẻ còn chưa hiểu sao, cha già quản hạt lại lên giọng giảng giải : “ Với người có đạo thì đức cha có công lớn lắm . Ngài đã giữ trọn lành một giáo phận giữa lúc hiểm nguy. Nhưng là người Việt nam thì tên tuổi của ngài lại gợi lên cái năm bị mất thành Hà Nội . Chả là năm ấy, đức cha lại nhận lời ông Ngạc Nhi * đi làm thông ngôn cho ông ta trong cuộc đàm phán giữa người Pháp với các quan giữ thành. Đầu tháng đàm phán , giữa tháng chúng đã nổ súng thần công giết chết cha con người ta, chiếm lấy thành rồi…”

Hoá ra cha già quản hạt lại là “người yêu nước” , ông kết tội cha “Ngạc Nhi” đã làm ‘thông ngôn” tiếp tay cho Pháp để chiếm thành Hà Nội . Bởi vậy thật bất ngờ, cha già thở ra giọng “địch vận” lôi kéo cha trẻ về “tình yêu nước” : “ Mình là người có đạo thì phải nghĩ theo cách nghĩ của hội thánh. Nhưng mình còn là người Việt Nam nữa nên khó…” Nghe tuyên truyền chính trị lại nói ra từ chính miệng cha già quản hạt , lẽ ra cha trẻ phải phản ứng, vùng lên bảo vệ đức tin , không ngờ cha lại quá thụ động, chỉ than thầm .

“Cha trẻ cúi đầu, thầm nghĩ đau đớn :” Vâng, đúng thế, đúng là thế. Người có đạo là người có tội, tội truyền kiếp, tội của tổ tiên…” Thái độ khiếp nhược của cha trẻ làm cha già dấn tới : “ Đạo của Chúa đến cùng một lúc với giặc giã kéo đến . Các cố đứng trong đám giặc mà truyền đạo . Người theo đạo thì không thể nghĩ đến nước. Đã nghĩ đến nước thì rất khó theo được đạo…”

Một câu nói sặc mùi “ kính chúa yêu nước”, ai dám tin được lại là lời lẽ của một linh mục già quản hạt. Choáng váng vì những lời lẽ “báng bổ” thật không ngờ lại phát ra từ miệng cha quản hạt, ông cha trẻ phải thốt lên : “ Lậy Chúa, vậy chúng con phải làm gì ? Bất tuân toà giám cũng cũng có tội như bất tuân chính quyền…” Cha già quản hạt không những không động viên cha trẻ giữ lấy đức tin giữa hai lằn đạn mà còn cả gan “chửi xéo” đức Thánh Cha : “ Đức Thánh Cha ở chỗ cao xa , Ngài không thể biết hết được những khổ đau của người dân ở xứ này. Ngài chưa thể biết hết lịch sử truyền giáo ở xứ này …”

Coi thường “Đức Thánh Cha” đến mức khó tin như vậy chắc không phải cha già quản hạt mà chính là ông …nhà văn Nguyễn Khải. Những lễ nghi của nhà thờ thường được quy định chi tiết và được chấp hành một cách tôn nghiêm. Aáy thế mà ông nhà văn Nguyễn Khải cũng biến chuyện đó thành…trò hề.

Nguyên là cha tổng quản địa phận gửi giấy về các xứ nhắc lại lễ nghi chầu phép lành quy định :” ra đền thờ bái một lần, lên trải khăn thánh, mở cửa nhà chầu bái lần nữa. …”. Cha trẻ hỏi cha già đã đọc giấy quy định chưa, cha lắc đầu bảo chưa rồi lên giọng khinh khỉnh, coi như chuyện tào lao :” Bái bốn lần hả ? Ừ thì là bốn lần . Chắc là mọi khi cũng bái đủ cả bốn lần…” Thái độ vừa báng bổ vừa coi thường phép tắc nhà Chúa của cha già làm cha trẻ phải coi ông ta là “ Một ông già đã quá tuổi làm lễ, đã rất hay quên, đã chẳng còn hiểu mình nói gì và sẽ nói những gì…”.

Tuy nhiên cha trẻ nhận ngay ra nhận xét thế là sai “ Nhưng…hình như không phải là thế, hoàn toàn không phải là như thế…” Không phải thế thì hẳn là một lão già quỷ quyệt, nham hiểm không thể coi thường. Dưới ngòi bút của Nguyễn Khải, hai linh mục - cha già và cha trẻ hiện ra như hai địch thủ luôn luôn rình rập triệt nhau chứ chẳng phải cùng là “con cái Chúa” hoặc hơn nữa cùng là đấng chăn chiên. Dã tâm bôi xấu đạo Thiên Chúa của Nguyễn Khải bộc lộ rõ nhất ở xung đột giữa hai ông cha này.

Quả đắng tiếp theo ông cha trẻ phải nhận là ông trùm đạo An Thuận nhân việc toà Giám mục cấp sắc cho lập xứ đạo riêng đã tổ chức quyên góp để chè chén linh đình và đổ hết trách nhiệm cho cha trẻ. Rất may được ông chánh trương mật báo, ông cha trẻ đã kịp thời ngăn được việc đầy tai tiếng đo và than trời :” Ai cũng xấu cả thì tôi biết san sẻ công việc với ai ? …Cái miệng lưỡi con người ta gian ngoan thật…” Tuy nhiên bản lĩnh linh mục của cha trẻ thực sự bị thử thách là trong việc thay mặt nhà thờ làm chứng cho một cặp vợ chồng trẻ.

Anh chồng là bộ đội ở mãi “vùng ngoại vi Saigòn. Bị thương rồi mới chuyển ra đây…”, chị vợ cũng là cán bộ. Anh bộ đội được nghỉ phép 15 ngày để lấy vợ, khi tới xin cha làm chứng thì đã qua mất 5 ngày, bởi vậy anh rất muốn cha viết giấy “làm chứng “ ngay để hôm sau tổ chức lễ cưới tại nhà thờ. Tuy nhiên, theo luật của hội thánh , cha vẫn phải hỏi : “ Hai người đã chịu phép rửa tội tại xứ họ nào ?”

“ Gia đình con vốn ở Lạc Hải , mới về xã được có mươi năm…” Cha Thư hắng giọng : “ Vậy chị phải xin với cha chánh xứ ở bên đó tờ chứng đã làm phép rửa tội…Phải đã chịu đủ các phép bí tích từ khi lọt lòng tới tuổi lớn không mới có thể cho chịu phép cưới. Luật lệ của Hội Thánh đã định thế …” Vậy vẫn còn chưa xong, sau khi đã có hai cái giấy chứng đó rồi thì còn phải dự…khảo kinh nữa. Lúc này “anh bộ đội” mới lên tiếng :

“ Xin thú thật với cha, cả hai chúng tôi đều đi công tác đã lâu, kinh bổn chắc là không còn thuộc…” Cha xứ nói điềm nhiên : “ Nên học lại , vốn đã thuộc thì học lại cũng mau chứ ?” “ Chúng tôi chỉ còn ít ngày phép. Một trăm thứ việc đồn lại trong mấy ngày, xin cha thông cảm cho…” Cha xứ vẫn quyết liệt : “ Nếu không theo đúng những luật Hội Thánh đã buộc, dẫu làm phép cũng không thành…”

Đãõ là cha xứ thì phải giữ lề luật của nhà thờ, xử sự như cha Thư là rất đúng. Nhưng anh bộ đội lại quen thói ngạo mạn , ta ở chiến trường ra, phải châm chước cho ta mọi chuyện, bởi thế “ anh bộ đội đưa cặp mắt nhọn nhìn soi mói ông cha đạo từ đầu tới chân như nhìn một giống người xa lạ, trong giọng nói đã có sự thách đố ngấm ngầm . Anh lên giọng :“ Chúng tôi đi chiến đấu không dám kể công với những người ở hậu phương, nhưng ở nơi sống chết mới biết bỏ qua những chuyện vặt vãnh…” Cha xứ cũng giương mắt nhìn lại : “ Đối với người có đạo thì hàng ngày xin ơn Chúa, tỏ lòng tin, cậy, mến Chúa là việc hệ trọng nhất…”

Hai người nhìn nhau gằm ghè… Thật không ở đâu, ngày giữa nhà thờ , lại có thứ con chiên hỗn hào với cha xứ đến vậy . Tệ hơn nữa, anh bộ đội lên giọng riễu cợt : “ Giả thử chúng tôi đều trúng tuyển qua kỳ khảo thi của cha thì điều kiện tiếp theo có phải là bỏ quân ngũ không ?” Vậy là anh con chiên mặc áo bộ đội đã không ngần ngại úp lên đầu cha xứ một cái nón cối tổ bố : ép tín đồ đào ngũ, bỏ bộ đội. Và sau cùng, “ anh ta vẫn không rời mắt nhìn ông thầy tu, vành môi trên hơi nhếch lên, cái nhếch môi mới kiêu hãnh làm sao :

“ Chúng tôi vẫn tự hỏi : Sự có mặt của các cha có cho thêm chúng tôi được cái gì không ? Một câu hỏi đứng đắn đấy. Cha còn trẻ, tôi tin rằng cha có đủ thời gian trả lời…” Đúng là một thằng khiêu khích, phá hoại “chính sách tín ngưỡng của Đảng, Chính phủ” , vậy mà ông nhà văn lại hạ bút khen :” cái nhếch môi mới kiêu hãnh làm sao…”.

Hoá ra không những đồng tình, ông nhà văn còn ca ngợi cái hành động “khiêu khích” đó nữa. Tuy nhiên, mải mê bôi bác, trách móc nhà thờ, ông nhà văn quên béng một điều là bất kỳ ‘cuộc chơi” nào cũng có luật của nó. Nếu bài xích nhà thờ dữ dội vậy, thì anh bộ đội với chị cán bộ cứ ra Uỷ ban mà tổ chức đám cưới theo đời sống mới, hà cớ gì phải vào nhà thờ khẩn khoản cha cố “linh động giải quyết” và khi không được thì lập tức giở mặt buông lời riễu cợt mang đầy tính đe doạ, lộ ra bộ mặt giả dối khi muốn nên vợ nên chồng trước mặt đức Chúa Giêsu.

Vênh váo và phách lối vậy, anh bộ đội đã theo “đạo” cộng sản vô thần lại còn muốn cưới vợ trong nhà thờ đâu có biết rằng “Sự có mặt của các cha” sẽ còn kéo dài mãi mãi, còn sự nghiệp của mấy anh bộ đội thì chỉ trong mươi năm nữa là Đảng và Nhà nước “đá” mấy anh về “ mất sức”, trả về địa phương tự bươn chải, kiếm sống. Lúc đó biết đâu , anh bộ đội “đòi cưới vợ trong nhà thờ “ thân tàn ma dại, gặp lại cha xứ để nghe cha trả lời : “dù không thêm cho mấy anh được cái gì, nhưng chúng tôi vẫn tồn tại và chắc chắn nhà thờ sẽ tồn tại lâu hơn là trường Đảng của mấy anh…”.

Phải chẳng đó là một khía cạnh “triết luận về tôn giáo và chủ nghĩa xã hội “ của Vương Trí Nhàn tung hô tác phẩm của Nguyễn Khải lên mây xanh trên báo Văn Nghệ. Sau cha già và cha trẻ, ông Nguyễn Khải cho thêm một cha thứ ba nữa ‘ra sân khấu”. Đó là cha Hoè người “đi làm phúc, đi thăm kẻ liệt” bằng xe máy

. Một lần cha phóng xe, chẳng may đâm vào một bà lão, cha phải chở bà vào bệnh viện , phải trả “mười đồng năm hào” tiền thuốc tiền ăn, lại biếu cụ năm chục để cụ bồi dưỡng, ấy thế mà con gái cụ vẫn mò đến tận nhà xứ - mà theo lời cha - “cái con quỷ cái ấy nó vừa khóc lóc vòi tiền , lại vừa hăm doạ xa xôi rút lại cha đành phải đưa thêm cho nó năm chục nữa.

Vị chi là một trăm mười đồng năm hào. Aáy là chưa kể tiền xăng đi đi về về thăm nom bà lão suốt mười ngày điều trị…” Quả thực Nguyễn Khải vẽ ra một thằng chạy mánh đâm phải một bà cụ rồi xuýt xoa tính toán chi li số tiền phải móc túi ra đền, chứ chẳng phải một cha xứ gây tai nạn cho con chiên sau đó săn sóc họ với tình thương bao dong. Thế rồi, một hôm cha Hoè tới thăm cha Thư, dùng cơm trưa xong, “khách quý hớp một ngụm nước to, súc nhổ ầm ầm , lấy tăm gẩy giòn giã cả hai hàm răng vừa to vừa khoẻ rồi lại tiếp tục nói ào ào…”

Cứ hình dung theo cách mô tả của ông nhà văn, người đọc dễ thấy hình ảnh một anh lái trâu chứ không hề là một linh mục, chăm sóc phần hồn của con chiên… Tuy nhiên đọc tiếp nữa, người ta lại thấy cái ông linh mục Hoè này ngoài cái hình hài rất giống anh lái trâu ra, cái bên trong, lại đúng là một anh cha cố “quốc doanh” được Nhà nước cài vào giáo hội để khủng bố tinh thần các linh mục khác. Cơm nước xong, cha Hoè doạ cha Thư : “ Chắc là cha biết chuyện Uỷ ban xã Lạc Hồng mời cụ Vịnh ( linh mục) lên chất vấn chứ ?” Rồi cha Hoè kể tội :

“ Thật không ai dại như cụ Vịnh. Người ta vừa bế mạc hội nghị Thiên Chúa Giáo chiều thứ bảy, sáng chúa nhật là ngày lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, cụ dám lên Toà giảng nói xưng xưng :” Chúa Thánh thần lấy hình lưỡi lửa hiện xuống, cho nên người bổn đạo phải chú ý sửa lưỡi , phải nói ngay nói thật kẻo lỗi giới răn thứ tám…”.

Nói thế bằng tuyên chiến công khai với mặt trận còn gì…” Và cha rủa cha Vịnh : “Mà ông ta đâu đã trọn, cũng gian dối, cũng mưu mẹo còn hơn kẻ khác…” Nghe cha Thư nói cha không làm gì cha đâu có sợ , cha Hoè lại doạ : “ Cha không làm gì nhưng kẻ khác làm người ta vẫn cứ lôi cha vào. Một thằng áo chùng làm láo thì cả bọn áo chùng phải mang tội mang vạ. Biết để còn kịp ngăn nhau chứ …” Rồi cha giở trò “tâm lý chiến : “ ……chỉ những tội trọng mà cụ Vịnh đã chủ mưu , đã nhúng tay trong thời kỳ sửa sai cải cách ruộng đất cũng đủ để chính phủ họ xử bắn rồi, không phải chỉ bắn một lần mà phải bắn đủ mười lần . mấy năm nay con đi hầu cụ Vĩnh tại xứ Nhất này , nên con biết…”

Khủng bố tinh thần cha Thư chán chê, cha Hoè mới lộ ra ý đồ bêu xấu, báng bổ đạo Chúa mà chính ông ta đang làm cha cố : “ Con được cử ra coi sóc xứ đạo trước cha vài năm, con xin thưa với cha một sự thật đau đớn . Nơi nào phần đời thịnh thì giáo hữu còn làm được việc này việc khác, yên ấm nhiều bề. Nơi nào phần đạo thịnh thì cờ bạc , rượu chè, kiện cáo, đôi khi còn đánh chém nhau ngay cả trong nhà xứ. Mắt con nhìn thấy, tự con là người trong cuộc, bảo rằng không nên tin thì chỉ còn cách đâm thủng cả hai tai, chọc mù hai mắt…”

Sau khi mượn mồm giáo dân, chánh trương, trùm họ với cả cán bộ Đảng và Nhà nước để chửi bới đạo chưa thoả lòng mong ước, ông nhà văn Nguyễn Khải chui cả vào linh mục , mượn mồm cha để mà chửi rủa cho bõ tức. Thật không hiểu, ngoài lý do lấy điểm với Đảng và Nhà nước, còn một lý do nào khác làm ông nhà văn này thâm thù đạo Thiên chúa đến tận xương tuỷ như vậy. Cứ theo đúng như lời ông cha Hoè thì giải tán nhà thờ, buông bỏ mọi việc đạo xã hội sẽ “yên ấm” nhiều bề, còn không thì sẽ biến hết thành ma quỷ, xúm vào đâm chém nhau. Vốn là linh mục mới ra trường, đức tin còn rất nặng, cha Thư không sao lọt tai được những lời lẽ của tên phản Chúa, ông “cười nhợt nhạt” :

“ Nếu tôi hiểu được lời cha nói thì cha đang làm lại giáo lý ?” Đây thật là một lời kết tội nặng nề đối với một đấng “chăn chiên”, nhưng với cha Hoè, nó không là cái gì đáng để cha phải nghĩ ngợi, cha vẫn thở ra cái “triết lý sống” vô thần và thực dụng sặc mùi cộng sản : “ nếu con làm theo ý muốn của đức Giám mục thì thân con phải ngồi tù, xứ đạo sẽ khô héo.Con làm theo cách hiểu của con thì việc đời sẽ vui vẻ mà sự đạo cũng trọn lành.”

Cái cách của cha là cam chịu trở thành cái đuôi cho chính quyền muốn vẫy ngược vẫy xuôi sao cũng được , nhà thờ và giáo hội chỉ còn là một tổ chức quần chúng của Đảng, “ kính Chúa và yêu nước tức là yêu chủ nghĩa xã hội…” – chính là con đường Đảng mà Nhà nước muốn xỏ mũi các tổ chức tôn giáo để dẫn dắt họ vào chỗ tự tiêu diệt. Vài ngày sau, trên đường “kiệu mình Thánh” ở các xã, cha Hoè lại ghé vào thăm cha Thư. Lần này cha Thư còn kinh ngạc hơn nữa vì cha Hoè “ không mặc áo nhà tu mà vận sơ mi ngắn tay màu vàng nhạt, quần mầu sẫm, đi giày da nâu , đầu trần , lại cả kính râm nữa.

Với bộ quần áo ấy nom cha trẻ đẹp hẳn , mà tự nhiên, thoải mái hết sức…” Thật hệt chân dung một gã làng chơi đàng điếm chứ chẳng ai ngờ đó lại là cha xứ. Không hiểu Toà Giám mục có còn tồn tại nữa không mà lại để một cha xứ ăn mặc ngông nghênh, nói năng càn rỡ như cái ông cha Hoè này. Đã vậy ông ta còn chọc tức người đồng đạo : “ Con mang cái vỏ của thế gian nom có nghịch mắt quá không ?”

Cha Thư kêu lên : “ Đi kiệu MìnhTthánh mà mặc xống áo này ?” Rồi cha giảng giải : “ Tôi đi kiệu Mình Thánh phải đi từ sớm mai, túi Mình Thánh đeo trước ngực , áo phép phủ ngoài , dọc đường chỉ nghĩ tới những sự khốn khó Chúa phải chịu, ai hỏi không nói, ai gọi không thưa, mà còn hãi chưa được sùng kính…”

Cha Hoè không những phớt lờ cả luật lệ nhà thờ mà còn trâng tráo, báng bổ : “Con thì khác. Đã hỏi là con phải thưa, phải chào. Còn nghiêm mặt đi thẳng họ lại nghĩ mình hờn giận việc gì, bực tức gì sinh hiểu nhầm nhau rồi khổ…” Các nghi thức tế lễ của bất kỳ tôn giáo nào cũng đều là những quy định hết sức ngặt nghèo và chi tiết để đảm bảo tinh chất tâm linh thiêng liêng là cốt tuỷ của đạo. Aáy vậy mà ông cha Hoè này phớt lờ, tự ý thay đổi coi như chuyện đùa giỡn thì chẳng nói gì tới chức cha xứ mà nếu là con chiên cũng phải chịu hình phạt rút phép thông công. Oâng cha này tới chở cha Thư về giáo phận của mình để tham dự “tuần chầu lượt thay địa phận”. Cha Thư từ chối chẳng được đành ngồi rúm sau xe máy cho cha Thư chở đi. Lúc xe máy chạy qua chợ, thấy hai linh mục chở nhau, các cô bỡn cợt , “hét lanh lảnh” :

“Anh ơi…anh cho em đi cùng với…” Cha Hoè ngồi nhún nhảy, miệng trả lời, đầu vẫn không ngoảnh lại : “ lần sau, lần sau tôi sẽ cho ngồi cùng…” Cái cảnh “cha và con” chim chuột, bỡn cợt nhau ngay giữa ban ngày ban mặt ở chính giữa chợ liệu có thể xảy ra ở một xứ công giáo toàn tòng như Bùi Chu- Phát Diệm được chăng ? Oâng nhà văn thật khéo bịa đặt bôi xấu thiên chúa giáo. Thời bấy giờ, cả nước đang đói, nông dân vắt mình trên đồng ruộng hợp tác mỗi công tính ra cũng chỉ được vài lạng thóc, ngày hai bữa ngô sắn, rau muối là chính, vậy mà ông nhà văn tả bữa ăn của các cha xứ thật không thua gì mấy ông Uỷ viên Bộ chính trị : “ Thịt gà rán, miến xáo lòng, lại thêm bát riêu cá thật cay, ăn với rau ghém …”

. Hai cha lại còn có cả rượu thuốc đưa cay. Cha xứ sống “sướng” như vậy, ai chẳng muốn đi tu. Sau bữa cơm có một cặp trai gái đến xin làm phép cưới. Khác với cái lần “anh bộ đội và chị cán bộ” bị cha Thư cương quyết từ chối vì không thuộc kinh; lần này đến với cha Hoè , hai “anh chị cán bộ” này cũng “xin không phải khảo kinh”.

Nhưng cha Hoè khôn hơn, không máy móc như cha Thư, cha gà cho hai con chiên : “ Hỏng, hỏng, các anh các chị đi làm cán bộ rồi thì bỏ đạo hết. Hội Thánh đã dậy : đi đâu thì đi, ở đâu thì ở, sớm tối vẫn phải nhớ đọc kinh…Thế nào, không thuộc được một câu nào hả ? Chỉ cần thuộc một câu là tôi làm tờ chứng cho ngay.

Vậy kinh Tạ ơn Đức bà có thuộc không ? “ Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Đức Chúa Lời ở cùng bà…” Cặp thanh niên đã ngồi lại rất nghiêm ngắn lẩm nhẩm đọc theo…”

Vậy là xong, “thủ tục” làm lễ cưới tại nhà thờ được giản hoá tới mức độ hài hước, ngay đến người chứng cũng chỉ là ông trùm, chốc lát đã xong, cha xứ dặn dò : “ Vậy là được, sáng mai tôi sẽ viết tờ chứng là cặp này không có mắc trở gì ? Ngày mốt sẽ làm lễ hả ? Cũng được , cô cậu chỉ phải chi phí ít tiền dầu nến, ít thôi, ít thôi, dăm mười đồng gì đó, cứ đưa cho thầy Tín, ông ấy mua bán thế nào sẽ tính toán lại sau. Nào còn có lo lắng gì nữa ?”

Cả mấy người đều đứng lên mặt tươi rói, riêng có cha Thư bụng thắc mắc : “Họ làm những công việc thiêng liêng ấy một cách trần tục vậy sao ?” Khi còn lại có hai cha với nhau, cha Hoè mới “truy vấn” cha Thư , dồn cha vào cái bẫy để kết tội cha “lẹo tẹo” với con chiên : “ Con lạy cha, cha đừng diễn trò cả với con nữa.

Cô ấy đã thú nhận với cả con rồi…cha đã lợi dụng lòng sùng kính thiêng liêng của những cô gái thơ ngây để mưu lợi lộc cho riêng mình….” Cha Thư choáng váng trước đòn vu cáo trắng trợn. Cha như “ người bị bóng đè, muốn kêu cứu thật to nhưng tiếng kêu không lọt qua được kẽ răng, muốn vùng chạy ra ngoài nhưng chân tay đã bị trói chặt . Còn cái mặt quỷ thì cứ sát gần lại mãi, đã nhìn rõ cả vè mắt của nó, chóp mũi của nó, chân răng của nó. Và cả cái giọng nói của quỷ, nhẽo nhợt, tanh tưởi, cứù bò bám lần lần lên khắp da thịt…”.

Oâng nhà văn viết về hai linh mục mà người đọc có cảm giác ông viết về hai cán bộ Đảng. Họ cũng moi móc, sát phạt nhau, nhìn nhau như quỷ dữ chẳng khác gì cán bộ trong “đấu tố” . Phải chăng do đi sâu đi sát cán bộ, ấn tượng về họ quá chi tiết , quá sinh động đã ăn sâu vào tâm khảm ông nhà văn nhưng không dám viết ra nên dồn nó vào hình tượng linh mục. Cái lối lột trần nhau ra một cách trắng trợn không phải của các nhà tu hành mà chính là của cán bộ Đảng: “ Cha phàn nàn kêu ca rằng diềm ren áo lễ của cha rách, rằng giây thắt lưng của cha ngắn , rằng vải may áo chùng thâm vừa thô vừa dày. Cha đã kêu than thì bọn họ phải góp sức mà lo liệu…

Đến khi việc vỡ lở, chính quyền can thiệp, lập tức cha nhắm mắt, sõng tay, coi như kẻ đứng ngoài . “ Nào tôi được biết gì đâu. Họ đã lợi dụng danh nghĩa tôi để làm bậy đấy chứ.!” Hèn lắm cha ơi !...” Cái lối nói lóc thịt lóc xương, chỉ trong các buổi họp “đấu tố” , các cán bộ mới moi gan móc ruột nhau như thế. Chẳng hiểu có phải “suy bụng ta ra bụng người” , ôâng nhà văn dựng lên một linh mục tên Thư quay quắt, nham hiểm, cơ hội chủ nghĩa không khác một tên cán bộ gian manh.

Tên cha cố này chẳng còn “niềm tin nơi đức chúa Giê xu” mà đối với đức cha bề trên y cũng đầy tức tối : “ Quay mặt về toà giám thì đấng bề trên chỉ một mực hò hét chống cộng, bất hợp tác với chính quyền. Aáy là ngài xui bề tôi làm, còn chính ngài lại nhỏn nhẻn, nhũn nhẽo như kẻ biết vâng phục nhất. Rủi khi mình bị tóm gáy, còng tay thì ngài mới sửng sốt kêu lên : “ ơ, cái thằng ngu thế, Chúa nào bảo nó chống lại người cầm quyền. Nó có ngồi rục xương trong tù cũng là phải…” Liệu có một đấng Giám mục nào “chỉ một mực hò hét bất hợp tác với chính quyền” khi tu sĩ bên dưới bị tóm gáy lại trở mặt “ Chúa có bảo chống lại người cầm quyền đâu ?”. Số các cha Giám mục ở miền Bắc không nhiều, liệu ông Nguyễn Khải có dám dẫn chứng một đức Cha “lá mặt, lá trái “ như vậy không ? Cha bề trên đã vậy, đến các linh mục chăn chiên ở bên dưới cũng ma lanh không kém : “ Nhưng, thưa cha kính mến, chúng con cũng khôn lắm , chúng con đã liếc mắt, cười duyên với nhà cầm quyền từ lâu rồi. Hẳn là họ phải tin chúng con hơn, dẫu sao chúng con cũng được lớn khôn dưới chế độ mới. Còn cha quản hạt , người coi sóc giáo lý và tu đức của chúng ta ? Oâng ấy mặc kệ, ai muốn làm gì thì làm miễn là đừng có lôi ông ta vào cùng một rọ…” Từ đầu truyện, ông Nguyễn Khải đã đặt nhà thờ trong tương quan đối đầu với Nhà nước, tới đây ông lại tưởng tượng ra những “con ngựa thành Troie”, những cha cố phản Chúa “đi đêm với cộng sản”. Phải chăng đây là khía cạnh “triết luận “ giữa “công giáo” và “nhà thờ” mà phê bình gia Vương Trí Nhàn đã tâng bốc tác phẩm của Nguyễn Khải ngay khi nó mới được xuất bản ? Sau vố bị cha Hoè truy vấn và mạt sát , cha Thư rút ẩn vào chính mình , “ đã hoá ra con người trầm lặng và buồn bã”. Trong số người giúp việc , cha chỉ quý mến có mỗi mình một cậu bé giúp lễ tên Tú với một tình cảm đặc biệt : “ Cậu bé chỉ đứng nhìn ông cha trẻ bằng cặp mắt trong suốt, nghiêm nghị và miệng hơi mỉm cười là bao nhiêu bực giận đã lập tức tiêu tan , là đã muốn mỉm cười đáp lại và thăm hỏi một câu thật dịu dàng” Tình cảm giữa ông cha trẻ và cậu bé giúp lễ được đẩy xa tới mức như tình cảm …cha con , anh em lại phảng phất mầu “bồ bịch” : “ Vả lại cậu ta còn biết cách săn sóc người chủ vừa tỉ mỉ vừa âu yếm, đem lại cái vị mặn của trần tục vào cuộc sống nhạt nhẽo thiêng liêng. Chính là cái vị muối của thế gian đã gắn bó họ lại như anh em, như cha con, và nếu họ phải xa nhau thì nỗi đau đớn chia ly cũng sẽ rất xác thịt…” Rất có thể có sự gắn bó thân mật giữa một cha linh mục và một phụ lễ trong hoàn cảnh vắng vẻ của nhà thờ, nhưng ông nhà văn lại để cho ông cha dậy cậu bé giúp lễ những điều lọc lõi, gian ngoan thì chẳng đúng với tâm hồn nhà tu hành chút nào. Ta hãy nghe đức cha dậy bảo cậu bé con : “ Người lớn hay nghi ngờ, hay cứng cỏi, còn trẻ con thì tin tưởng và phó thác. Người lớn thì kiêu ngạo, tham lam, còn trẻ nhỏ thì hiền hoà , nhường nhịn. Người lớn gian xảo, dối trá, còn trẻ nhỏ chỉ nói có nếu là có , nói không nếu là không. Người lớn là con rắn, trẻ nhỏ là bồ câu. Chúa đã từng vẫy gọi :” Hãy để trẻ thơ đến cùng ta, đừng có cản chúng. Bởi chưng nước Trời thuộc về những kẻ giống như chúng…” Oâng cha có thể ca ngợi trẻ con với trẻ con, nhưng sao lại gây cho trẻ con lòng thù ghét, ngờ vực người lớn đến thế này : “ Con ơi ! Thầy ghê sợ mọi người, trừ trẻ nhỏ. Ai ai cũng có thể hãm hại được thày , trừ những kẻ trong trắng, ngây thơ như các con. Thầy nói bằng thật vì thầy đã từng biết. Lời nói ngọt ngào nhưng lại đọng vị đắng cay ; mời chào và cởi mở là bẫy vô hình : gương mặt thánh thiện che đậy những mưu mô hiểm độc. Thầy đã bị khốn mấy lần rồi. Con nên tin lời thầy dặn…” Thật vô lý hết sức, ông cha Thư mới chỉ va chạm với cha Hoè, với một số chánh trương, trùm trưởng vài ba chuyện lặt vặt nhỏ bằng con kiến mà trong đầu cha đã hằn lên lòng căm thù và mất tin tưởng với người lớn, tức giận với con người thì ông còn tu ra làm sao ? Đã vậy , ông còn xui bậy con nít : “ …phải biết ngờ vực những cảm tưởng tốt đẹp ban đầu, phải biết tránh xa những cám dỗ có tính xác thịt. Mắt thấy đẹp tức là không đẹp, tai nghe hay tức là không hay, lưỡi nếm ngon tức là không ngon…” Linh mục là đấng chăn dắt linh hồn cho con chiên. Con chiên gần gũi linh mục ắt phải được học hỏi, trau dồi tâm hồn trong sáng và cao thượng. Vậy mà cậu bé phụ lễ gần gũi cha Thư, suốt ngày bị cha nhồi nhét tư tưởng thù hằn và mất lòng tin vào người, nhà thờ đã biến thành nơi đầu độc con người nguy hiểm như vậy, liệu có đáng tồn tại ? Hoá ra “triết luận “ về đạo Thiên chúa và “chủ nghĩa xã hội” của Nguyễn Khải là như thế đó.

Cậu Tú phụ lễ cho cha sống trong nhà đạo cũng không yên, cậu phải đi lao động công ích với thanh niên nam nữ trong xóm. Ra ngoài, tiếp xúc với đời, lại nghe lời khích bác rủ rê của một ông nguyên trưởng đội kèn : “ Giả sử chúng tôi lại có một người con trai như cậu, nói cậu bỏ lỗi nhá, thì tôi chẳng còn ước ao cái nước thiên đàng nào khác. Cậu đưa bàn tay tôi xem, bàn tay đẹp quá, vừa mỏng vừa mềm, tay này có học nghề gì cũng mau giỏi, mau khéo…”

Ra ngoài đời được vui vẻ, thoải mái, được tâng bốc rủ rê, trở về nhà đạo, cậu Tú lại nghe ngập tai những chuyện bê bối xấu xa trong các thầy dòng, các cha cố. Nào chuyện khai gian tiền chợ để tư lợi, nào chuyên trai gái của các cha đời trước…Cứ một đằng “đời” thì kéo, một đằng “đạo” thì đẩy như vậy, trước sau cậu Tú phụ lễ cũng phải bỏ đạo mà về với đời.

Bàn tay dàn xếp của ông nhà văn quá lộ liễu tới mức lòi cả cái động cơ bôi xấu nhà thờ của ông ra. Cuốn sách vì thế mà mất hẳn đi phần chân thực là cái cốt lõi, không thể thiếu cho một tác phẩm văn chương. “Cái xấu” của nhà thờ, từ miệng những người ngoại đạo nói ra đã ghê, nay lại từ miệng một cậu phụ lễ nói ra thì “độ tin cậy “ lại càng tăng lên gấp bội, nhất là cậu lại nói với cha xứ : “ Thưa thầy, ngày hôm nay con được nghe nhiều chuyện đến nhơ nhớp , chưa bao giờ con được nghe người ta nói với con, nói với nhau những chuyện lạ lùng đến thế …”

Lẽ ra cha xứ là linh hồn của nhà thờ, phải bảo vệ uy tín cho đạo, phải tìm cho ra thực hư trong “những câu chuyện nhơ nhớp” mà cậu phụ lễ “buôn chuyện’ ở đâu về nói với cha, đằng này không những không răn đe đệ tử, cha Thư lại còn phụ hoạ với cậu, bôi thêm tiếng xấu , kể tội nhà thờ mà chính cha là đại diện: “ Một cặp kết bạn đến đưa cho đấùng chăn chiên tám chục đồng, đấy là tiền biếu riêng , còn phí tổn dầu nến người ta đã chi một món khác rồi. Đấng chăn chiên đưa trả lại năm đồng, chỉ cầm có bảy mươi nhăm đồng, rồi bảo :” Cha chỉ lấy một nửa , còn cha cho con một nửa.

Vậy là cha đã nâng giá lễ xin phép cưới từ tám chục lên trăm rưởi…” Vào những năm của thập kỷ 60, nền kinh tế thị trường còn hoàn toàn xa lạ với “miền Bắc xã hội chủ nghĩa”, thì chuyệân lấy tiền “làm lễ cưới” như một thứ dịch vụ là một “tội lỗi xấu xa” làm hai thầy trò cha xứ và cậu phụ lễ rất ghê tởm. Cha lại tố cáo tiếp : “ Có bảy cặp làm lễ vào tối thứ bảy .

Sáng chúa nhật linh mục rao ở nhà thờ chỉ hoan hô có ba đôi sáu anh chị em đã có tinh thần ngoan đạo. Đấy là ba đôi có tiền xin lễ cưới, còn bốn cặp kia chỉ làm phép cưới suông thì coi như không có. Có tin được không ? Không thể tin được ! Không thể tin như vậy được ! Lạy Chúa…” Cha kêu lên vì phẫn nộ, cha không còn biết chia sẻ với ai cái nỗi ghê tởm đó ngoài cậu phụ lễ mà cha coi như người đồng tâm ý hợp, như một đứa con tinh thần .

Cha đứa chén nước cho cậu phụ lễ, ân cần : “ Con uống với thầy một chén. Cả hai chúng ta đều phải nghe những chuyện quá đỗi tồi tệ trong ngày, uống một chén trà để thanh tẩy chúng ra khỏi tai ta , ra khỏi mắt ta, ra khỏi miệng ta…” Vậy là cha linh mục và thầy phụ lễ đã ngầm với nhau họp thành một khối tách khỏi sự dơ bẩn của nhà thờ. Tất nhiên ông nhà văn không dừng lại ở chỗ đó, ông sẽ còn đẩy cha cố và thầy phụ lễ đi xa hơn nữa về phía…cách mạng để cho trong cái cuộc gọi là “triết luận về Thiên Chúa giáo và chủ nghĩa xã hội” , phần toàn thắng phải thuộc về ‘sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân”, minh hoạ cho “luận thuyết “ “ai thắng ai” một thời bao trùm lên đời sống tinh thần của nhân dân miền Bắc.

Mang sẵn trong lòng những ám ảnh ghê tởm nhà thờ, cha Thư không còn con đường nào khác ngoài …đi về phía nhân dân lao động . Và một ngày nọ, ông chánh trương trố mắt nhìn cha linh mục ăn mặc như một anh nông dân :” cha mặc chiếc quần xanh đã cũ, một cái áo cộc tay nhuộm nâu, chân đi dép cao su, đầu đội mũ lá như …một anh cán bộ”, khiến ông chánh trương phải kêu lên : “ Lạy Chúa ! cha đi đâu sớm vậy , mà lại ăn mặc như vầy ?” Hoá ra cha đi thăm…bà con đang lao động sản xuất, hơn thế nữa, cha muốn cùng lao động với bà con : “Oâng chánh giới thiệu tôi với ông phụ trách tổ làm màu nhá. Tôi muốn hàng ngày tới đó làm một buổi. Còn việc nhà Chúa chỉ cần làm một buổi là đủ…”

Quả ông nhà văn thật “to gan”, ông gán ghép cho cả cha cố “giác ngộ ý thức lao động”, coi “lao động là vinh quang” , từ bỏ vị trí “đạo cao đức trọng” để đòi “ba cùng” với nông dân không khác gì cán bộ cải cách ruộng đất. Tất nhiên ông chánh trương không đời nào để cha phá vỡ lề luật của nhà thờ như vậy . Oâng nhắc nhở cha :

“ Chúa đã phân mỗi người một việc. Việc của cha trọng hơn việc chúng con, sao lại bỏ việc trọng để làm những việc khác…” Cha chẳng những không nghe theo ông chánh trương mà còn tỏ vẻ thích thú được thoát cái vỏ làm cha : “ Tôi ra cùng làm với bà con chứ thăm thú gì …. Ra đến đường , cha Thư lấy kính râm đeo rồi hỏi nhỏ : “ Nom tôi đã ra anh cán bộ chưa ?” Oâi trời ôi, làm cha cố mà lại muốn..giống cán bộ, muốn học theo bác Hồ ‘đi sâu đi sát” , cùng lao động với nhân dân . Oâng “cha cố” của Nguyễn Khải đúng là cha dở người, sắp bỏ áo choàng thâm để xin vào Đảng thật rồi. Quả nhiên ông chánh trương nghĩ thầm về cha :” Oâng này đã ra dở thật . Mặt mũi thì võ vàng , quầng mắt thì thâm đen, ăn nói lúc khôn lúc dại. Đến tội nghiệp!” và cố khuyên giải cha : “ Cán bộ họ không vận áo thâm chùng, thì người mặc áo thâm chùng không nên vận quần áo của cán bộ, ăn mặc phải cho nó phân minh…”

Thấy cha xứ khăng khăng không chịu nghe theo, ông chánh trương đoán già đoán non : “ Không khéo ông này đã có ý định bỏ xứ về gánh vác việc đời hẳn. Người còn trẻ lại đẹp đẽ thế kia, có đi tu cũng khó…” Tất nhiên, cha Thư không hề có ý định bỏ đạo, ông chỉ muốn làm một thứ “linh mục đời mới” một chân trong nhà thờ, một chân thò ra ngoài xã hội , thực hiện đúng phương châm Nhà nước đề ra cho các nhà tu hành sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa :” tốt đời đẹp đạo”. Bởi thế, cha Thư mới tuyên bố :

“ Tôi vẫn dâng trọn đời tôi để rao giảng Tin Mừng, nhưng không ở nhà tu, không mặc áo chức. Tôi sẽ sống như mọi người…” Đó chính là cái hình mẫu “ linh mục” “tốt đời đẹp đạo” mà Đảng và Nhà nước bấy lâu nay vẫn đưa ra làm mẫu mực cho các linh mục trong Hội những “người công giáo yêu nước”. Vậy thực chất của cái gọi là “triết luận về thiên chúa giáo và chủ nghĩa xã hội” mà nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn gán cho “ Cha và con” của Nguyễn Khải thực ra chẳng có gì là ghê gớm mà chỉ “minh hoạ” cho cái chủ trương “tôn giáo vận” của Đảng và Nhà nước đẻ ra cái hình mẫu quái thai “ cha cố tốt đời đẹp đạo’ mà thôi.

Cái hình mẫu “quái thai “ ấy nhất định vấp phải sự phản đối của con chiên. Bởi thế khi cha Thư xin một chân “lao động sản xuất” ở trại rau để “tự nuôi mình” : “ …tôi không muốn ai nuôi tôi cả . Tôi còn khoẻ mạnh, tôi có thể làm lấy mà ăn được…” lập tức bị ông Tài – con chiên, phản đối : “ Thưa cha không được đâu ạ, không thể làm thế được ạ, rồi cái đứa xấu bụng nó nói này nói nọ, chúng con sẽ giải thích ra làm sao ….Lạy cha, cha mà làm thế bằng trát bùn vào mặt chúng con còn gì. Xứ đạo này đâu đã đến nỗi túng thiếu ?”

Oâng linh mục trẻ vẫn khăng khăng đòi đi “lao động sản xuất “ : “ Họ nghĩ sao mặc họ, miễn là mình làm không sai…” Đến nước này, ông Tài đành phải viện dẫn “cha bề trên ” ra : “ Xin cha cứ theo gương cha quản hạt mà xử sự. Ngài chẳng phải làm gì mà việc đời cũng tốt , việc đạo cũng hay…” Thật không ngờ, câu nói đó lại làm ông linh mục trẻ nổi cáu, ông phẫn nộ ‘chê trách ’ cả đấng cha bề trên : “ Tôi khác, tôi còn trẻ, tôi không thể sống giống như một ông già đã chín chục tuổi đầu. Cụ ấy có thể giơ bàn tay ngồi ngắm cả giờ không chán , chứ tôi mà ngồi thế thì phải nổi điên…”

Quả thực người ta không hiểu ông nhà văn đang viết về một linh mục hay là một thanh niên “tích cưcï lao động xã hội chủ nghĩa” đây ? Cứ cái đà nhiệt thành “cải tạo đạo thiên chúa” này chắc hẳn nhà văn Nguyễn Khải phải viết hẳn một cuốn “Cha và con” – phần 2 để cho linh mục Thư cởi bỏ áo choàng thâm, giác ngộ Đảng, giác ngộ giai cấp , phấn đấu thành một cán bộ tuyên huấn mất.

Chẳng thế mà ông nhà văn cho ông linh mục hăng máu lên, mạt sát nhà thờ : “ Tôi không muốn sống như các linh mục khác, sống như thế nhơ nhớp lắm , mỗi người nhơ nhớp mỗi cách. Tôi còn trẻ, tôi còn đủ thời giờ để lại chút ít tiếng tốt cho xứ đạo. Bằng không làm được gì hơn thì trả lại áo chức mà về. Sống như kẻ có tội đã đau đớn, lại không được phép cứu chuộc mới thật là đau đớn hoàn toàn …”

Trải qua mấy thập kỷ, ông nhà văn hẳn đã thấy rõ, ai là người sống nhơ nhớp ? Các linh mục trong nhà thờ hay các quan chức cán bộ ở ngoài đời ? Có lẽ trong đời chưa một lần chứng kiến cảnh linh mục lại mạt sát cha cố tàn bạo thế, bởi vậy ông Chánh trương Tùng và Tổ trưởng sản xuất Tài cứ trợn cả mắt há cả mồm . “Oâng Tùng đưa mắt nhìn ông Tài , có ý hỏi :” Cái ông này bữa nay làm sao vậy ?” . Oâng Tùng cũng nhìn lại , buồn bã :” Thì đã bảo ông ta ra dở rồi mà…” Đúng là chỉ có một cách giải thích duy nhất là cha Thư bị…điên thì mới hành xử ngược đời ngược đạo đến vậy. Càng ngày cha càng biến đổi , càng ngày cha càng xa rời “linh mục” để biến dần thành anh “cán bộ”.

Trước hết, về y phục , cha “bình dân hoá” à bằng cách “ Có hai bộ quần áo trắng mặc trong cha đem dấn nâu tất. Ơû trong nhà xứ thì mặc quần áo nâu, ra ngoài nhà xứ chùm lên cái áo chùng thâm và đi đôi dép cao su. Có bận lại thắt ngoài một sợi dây vải nữa…”. Còn về ăn uống, cha chỉ dùng “ mỗi ngày một bữa cơm vào giữa trưa, còn bữa tối chỉ húp lưng cháo hoặc ăn vài củ khoai riềng….”

Ban chánh trương không cho cha “tham gia lao động sản xuất” sợ mang tiếng, thì “cha đi lang thang khắp các dong xóm , vào nhiều nhà, hỏi han đủ chuyện và nếu chủ nhà giữ lại mời cơm thì cha trả lời rất nhũn nhặn :” Tôi đã ăn rồi, tôi không ăn được nhiều, đừng có ép tôi…”. Xưa nay, các xóm đạo được cha tới thăm là một vinh dự hiếm có, cả làng cả xóm, rục rịch chuẩn bị đón cha từ mấy ngày trước. Riêng đối với cha Thư thì ngược lại ,vì cha cứ tới luôn xoành xoạch “ngồi tiếp thì mất việc mà bỏ đi làm cũng không đành, nên vừa thấy sứ giả của Chúa lò dò vào cổng là trẻ con được bảo trước đã chạy vội ra nói dối bố mẹ hay ông bà nó vắng nhà…”

Thật chưa có ông linh mục nào lại giảm sút uy tín trong con mắt giáo dân như cha Thư cho dù đang cố gắng thực hiện phương châm “ tốt đạo đẹp đời” mà Đảng và Nhà nước cho kẻ thành khẩu hiệu dán đầy ở các xóm đạo. Đi xuống dân bị dân tránh mặt, cha Thư đành “đóng cửa ngồi lì trong phòng riêng đọc sách từ sáng đến tối , không tiếp một ai…”.

Ngồi trong buồng chán rồi, cha Thư mang sách ra ngoài trời đọc. Hôm đó cha tìm được “một cụm tre ngay sát một cái cầu đá” , rất yên ắng và mát mẻ để ngồi đọc sách. Dân làng dường như đã quen với những hành vi khác thường của cha xứ nên khi cha vừa đi qua “ họ liền ngoái cổ nhìn theo, cái nhìn bần thần xót tiếc :” Khốn nạn ! Con người khoẻ mạnh đẹp đẽ thế mà ra dở ?”.

Cha xứ đã muốn “lìa đạo” rồi, ai ngờ ngồi đọc sách ở cái “cụm tre bên cái cầu đá” ấy lại cũng gặp một anh…tu xuất, bỏ đạo về đời. Anh này đã học ở “tràng lý đoán” – tức trường học ra làm cha xứ được vài năm, đã được “ chịu phép cắt tóc là đã được vào sổ các thầy tư giáo”, trong Hội thánh có 7 chức thì anh ta đã “được chịu chức cầm nến” tức là chức thứ tư rồi, chỉ còn hai năm nữa là anh ta đã thành linh mục năm mới 24 tuổi. Tu sắp thành “chính quả” vậy mà anh chàng ngang xương bỏ về bởi lẽ những người thầy dậy anh trong hội thánh đều là bọn mà anh ta cho là “ học vấn thì tầm thường, mọi quan niệm đều lạc hậu, tư cách lại hèn kém, nói cho thật họ không được phép rao giảng những lời cao đẹp…”

Vậy là dựng nên nhân vật cha Thư chửi đạo dường như chưa thoả lòng căm giận thiên chúa giáo, ông nhà văn Nguyễn Khải phải đẻ thêm một chàng “tu xuất” nữa để mượn mồm chàng chửi tiếp cho hả dạ. Anh này đưa ra cái lý do bỏ tu thật là ‘cao quý” : “ Con chỉ không muốn bị dắt kéo bởi những người mù. Theo chân họ rồi có ngày bị sa hố…” Ta hãy thử tưởng tượng một chàng thanh niên tuổi hãy còn măng tơ, vào học trường dòng từ nhỏ, sắp sửa tốt nghiệp thành cha, vậy mà dám chê bai những người thày của mình là hèn kém, là dốt là mù….thì anh ta nếu không phải là phường vô ơn bạc nghĩa cũng là quân đầu đường xó chợ, trốn học đi bụi đời.

Sau lần cha Thư gặp thày “tu xuất” nghe thày báng bổ đạo được vài ngày thì lại tiếp thêm một ông cha Hoè hăng hái bôi đen cái áo choàng thâm nữa. Oâng này kể chuyện về một “ chiến sĩ đầy lòng quả cảm của Hội thánh, một nhà lãnh đạo và tổ chức hết sức khôn ngoan của địa phận “, người đó là “cha Vinh” vừa mới bị ‘đuổi khỏi hàng ngũ giáo sĩ hết sức đột ngột” vì tội …hủ hoá. Bằng một giọng vô cùng khoái trá của kẻ tiểu nhân, cha Hoè kể lại vụ việc “ngã ngựa” của người đồng liêu.

Trước hết cha lên giọng mạt sát : “Oâng Vinh được chết lành thì còn ai muốn giữ mình cho nên. Một đời mưu chước hại người, nay mới bị người hại lại. Mà dơ dáy vô cùng, dẫu người thân cũng phải che mặt mà tránh…” Chửi bới chán chê rồi cha mới đi vào tường thuật chi li bằng thứ ngôn ngữ chẳng phải của nhà tu hành chút nào : “ Cái đứa nữ ấy cũng đã ngoài ba chục tuổi , vốn có tính huê nguyệt , người mỡ màng phốp pháp, ăn nói cũng khôn khéo, ngọt ngào… Cha đã có tuổi hay đau ốm vặt nên cái đứa kia mới có dịp bưng cơm lên dọn cơm xuống , rồi hầu nước hầu thuốc , lâu dần thành cô hầu phòng , ngày nào không thấy đến, ông già lại có ý giận, có ý ghen…”

Lẽ ra nói về ‘cái sự trượt ngã của người khác”, nhất là của đức cha Tổng Giám mục , nếu là người có đôi chút tự trọng, ắt chỉ nói qua loa, vắn tắt, bóng gió, ngờ đâu, cha Hoè càng kể càng chi li, thích chí : “ Mà chuyện cũng đã dăm sáu năm nay rồi, chứ chẳng phải mới có ngày hôm qua…Mãi đến đêm hôm vừa rồi , cái chuyện mờ ám giữa hai người mới hoàn toàn bị vỡ lở. Ai đời ngủ với nhau lại không cài then cửa bao giờ . ờ thì cái chuyện ăn vụng bị bắt quả tang tiếng là xấu nhưng thế gian cũng đã thường.

Cái tâm lý con người mình có thể hiểu được …” Rào đón kỹ càng rồi, cha mới hạ nhục đồng liêu xuống đất đen : “ Nhưng cái ông già ấy lại quỳ sụp xuống mà xưng con xưng cháu, khóc lóc kêu van những kẻ đối địch hãy tha thứ , hãy làm ngơ , cần gì sẽ dâng hiến bằng hết thì tôi không thể nào hiểu nổi. Cái tâm lý ấy nó kỳ quái quá, làm sao mà hiểu được …” Cái giọng bôi bác “thày cả” độc địa này không một chút tình cảm thông , đập một nhát cho chết, rõ là không phải giọng của linh mục “đồng liêu” mà là của …nhà văn Nguyễn Khải ra sức bôi bác nhà thờ để lấy điểm với Đảng và Nhà nước : “ Cấy ác thì gặp ác, dẫu là tôi tớ của Chúa cũng chẳng thể bênh .

Chúa chẳng có tội gì còn bị đẩy lên khổ giá huống hồ một kẻ tội lỗi chất chồng. Rồi còn nhục nhã hơn nữa kia, chưa hết đâu…” Thật khó hiểu vì sao, đức cha Hoè sau khi đã thoả thuê mạt sát đức cha Vinh tội hủ hoá, tiếp đó lại còn lớn tiếng chửi bới suốt lượt cả giới linh mục nhà Chúa mà chính ông ta cũng là một thành viên : “ Có nhiều cha hễ mở miệng nói rặt điều nhân đức nhưng cách sống lại rất đáng phàn nàn .

Chuyện ông Vinh chỉ là một chuyện vặt được lôi ra trước công luận . Còn lắm chuyện hệ trọng hơn vẫn được nhiều đấng bậc ở toà giám giữ kín trong bóng tối, con là cái thằng hay thóc mách nên cũng biết được ít nhiều. Vì được biết ít nhiều nên con mới dám nói này nói nọ mà không sợ bị phạt vạ treo chén. Họ làm bậy còn được quyền tế lễ Chúa, huống là con…” Thực là một lời tố cáo hết sức đanh thép sự thối nát của Toà Giám mục , nhất là lại từ miệng một đức cha sống ngay trong nhà Chúa đưa ra thử hỏi ai mà còn dám nghi ngờ.

Oâng nhà văn Nguyễn Khải quả là rất ranh ma khi mượn lời toàn của người nhà Chúa để mạt sát các đấng chăn dắt con chiên của Chúa . Cuốn sách gọi là tiểu thuyết “ Cha và con và…” thực ra là một bản án hết sức nặng nề đối với thiên chúa giáo tại Việt Nam mà lạ thay gần 40 năm sau khi nó ra đời vẫn chưa có một ý kiến phản biện nào thuộc phía những người bị bôi xấu. Cuốn sách vẫn nghiễm nhiên là một “thành tựu” trong kho tàng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bôi đen đạo thiên chúa là cảm hứng chủ đạo xuyên suốt cuốn truyện “ Cha và con và…” của Nguyễn Khải cho tới tận chương cuối cùng.

Ông cha Vinh sau khi bị bắt quả tang ngủ với cô hầu phòng đã “ cướp quyền của Đức Chúa Trời , tự huỷ hoại cuộc sống của mình. Khi người nhà xứ phá cửa vào đã thấy xác treo lủng lẳng . Mà phải chết từ đêm vì chân tay đã cứng.”. Sau khi cha Vinh chết, cha quản hạt cho gọi cha Thư – ông linh mục đang “chán đạo muốn về đời”, tra vấn : “Xin cha tha lỗi cho tôi nếu tò mò muốn hỏi một câu này : cha còn điều gì chưa được hoàn toàn hài lòng về những người cộng sản ?” Đó là một câu hỏi xúc phạm đối với cha Thư - một người rất có cảm tình với cách mạng, bởi vậy cha nghiêm mặt : “ Thưa cha, sao cha lại hỏi con chuyện đó ?:” Rồi cha bầy tỏ “lập trường cách mạng” : “ Con cảm phục cuộc cách mạng nói chung , có cách mạng chúng con mới được làm người tự do, làm một giáo sĩ tự do.Nhưng con chưa thể hoàn toàn bằng lòng những cán bộ cách mạng nói riêng. Đến là mâu thuẫn.

Nhưng …thưa cha, con có thể sống được lâu dài với cái mâu thuẫn ấy. Vì con biết vâng lời người cầm quyền..” Ngày nay nếu ông Nguyễn Khải nói với cha Nguyễn văn Lý rằng “ có cách mạng mới được làm một giáo sĩ tự do” chắc hẳn cha sẽ tưởng ông nhà văn này giễu cợt, bởi lẽ bằng vào đối xử của Đảng với các tôn giáo trong mấy chục năm qua, ngay đến cán bộ tôn giáo vận của Đảng cũng không dám nói những điều “ngượng mồm” như vậy . Aáy thế mà ông Nguyễn Khải lại đưa nó vào tác phẩm văn học thì đủ hiểu ông ta bồi bút đến cỡ nào. Oâng cha trẻ nói năng đã “lập trường” vậy, đến ông cha già quản hạt lại còn ‘cách mạng” hơn. Oâng ‘chỉnh” câu trả lời của cha Thư : “ Vâng lời chưa đủ, còn phải hiệp tác.

Có hoan hỉ thật lòng thì mới hợp tác được.” Vậy là cha quản hạt muốn cha Thư phải ngoan ngoãn vâng lời nhà cầm quyền một cách tự nguyện chứ không phải miễn cưỡng, tức phải “ hoan hỉ mà vâng lời” kia. Sau khi gặp cha quản hạt trở về, cha Thư vui vẻ cho phép cậu giúp lễ tham gia vào…đội gặt của hợp tác xã.

Khi cậu ta đi rồi, cha càng thấy chán đạo, càng cảm thấy nhà thờ ngày càng giống như nhà tù : “ Rồi trong cái nhà tù này chỉ còn có ta thôi, một ông cha xứ đã lẩn thẩn , và mấy người hầu việc đã quá già. Nhà tu, nhà nguyện, nhà dòng, nơi chỉ chăm lo có sự cứu rỗi thì bóng tối và cái chết là ơn ích của nó…” Không hiểu ông nhà văn còn đòi hỏi ở nhà thờ những gì ngoài “chăm lo sự cứu rồi”, không lẽ ông muốn thành lập hợp tác xã thủ công sản xuất quạt nan hoặc đậu phụ thì mới xua được “bóng tối và cái chết” ?

Nhìn nhận về tôn giáo nông cạn thế mà ông nhà văn muốn nhân danh “chủ nghĩa xã hội” để “triết luận” với thiên chúa giáo thì thật là mù quáng đến tội nghiệp. Cái nỗi buồn chán đạo đẩy ông cha trẻ đến chỗ muốn đào nhiệm khỏi cái áo chùng thâm : “ Còn luyến tiếc làm gì , còn tìm cách lại gần làm gì cái thế gian của những bổn phận , những mưu trá , những khổ đau. Những…ngay trong toà nhà của ông thánh Phêrô vẫn có đầy đủ mọi tấn bi kịch đã từng xảy ra ở ngoài đời.” Nếu “ngoài đời “ cũng đầy rẫy những thối tha như trong “nhà thờ” thì đức cha cứ ở yên trong nhà Chúa tội gì về với đời ?

Tuy nhiên, ông cha trẻ còn cho rằng “nhà thờ” còn thua cả “ngoài đời” ở chỗ : “ Ngoài đời còn có sự sống và ánh sáng , chứ còn ở đây thì chỉ có mùi ẩm mốc và cái chết…” Thật là một câu chửi đạo thiên chúa mang đầy tính khái quát. Oâng linh mục trẻ tên Thư ấy đã chất chứa trong tâm can biết bao sự phiền muộn và khinh ghét giáo hội, khi cùng mẹ đẻ tới thăm gia đình ông chánh trương lại được bà vợ ông này “tố khổ” tội lỗi của các linh mục trước kia nữa :

“ Trình cha với cố , mấy năm Pháp nó đóng đồn ở đây, cha Hoàng Quỳnh từ Phát Diệm sang coi sóc xứ đạo này , chúng con đã tưởng tới ngày mạt thế. Cha đòi lại ruộng đất được chính phủ chia cho năm trước , rồi truy tô các chủ ruộng , thiếu một đồng cũng không được . Kẻ nào chậm chạp lập tức bị nhốt hầm ngay . Oâng lão nhà con cũng bị nằm hầm cả mấy tháng.Kẻ có đạo chỉ biết kêu xin có Chúa , nhưng đấng thay mặt Chúa lại bịt chặt cả mọi đường. May mà anh em bộ đội về giải phóng sớm , chậm chút nữa không khéo các cụ ấy giết chết hết con chiên…”

Đến vợ ông chánh trương tức phu nhân của ông đứng đầu các con chiên mà còn thở ra những lời lẽ “căm thù” các đấng chăn chiên như thế, thử hỏi cái xứ đạo này có đáng “giải tán” không ? Oâng cha trẻ nghe chuyện không tin, hỏi lại : “ Trong nhà xứ có hầm nhốt người à ?’ Oâng chánh trương xác nhận : “ Thưa, nó vốn là cái hầm chứa đồ thánh, cha Quỳnh về mới cho xây rộng ra để nhốt người…

Năm anh em bộ đội về đánh bốt chúng con cho xây bịt lại luôn…” Chỉ tưởng tượng thêm chút nữa, ông nhà văn sẽ biến nhà thờ thành cái bốt Tây có súng lớn , có bãi mìn chống lại cách mạng. Bà vợ ông chánh trương lại tố cáo tội ác của các cha nữa : “ Trình cha con cứ nghĩ cái năm thằng cháu trai đậy chiếu nằm đấy mà không có tiền mua áo.

Chồng chạy vào cha Hiển, vợ chạy sang ông bà Tư van vỉ khóc lóc cả buổi , rút lại vợ vềø tay không, chồng cũng vềø tay không . mà là chánh trương với cha xứ cả đấy. Vậy là phải bó cháu bằng bao tải , bằng chiếu , chồng gánh một đầu. Vợ gánh một đầu , trời lại mưa tầm tã…” Rõ ra là một màn con chiên đấu tố “linh mục”, tự nguyện mà đấu tố chứ chẳng phải do Đảng “phóng tay phát động”. Oâng nhà văn quả là khéo bịa đặt quy tội cho nhà thờ. Bà vợ ông chánh trương khóc sụt sùi : “ Một đời người ngoảnh đi ngoảnh lại chỉ những khổ là khổ .

Kêu Chúa, Chúa cao xa quá nên nghe không thấu, đến với cha, cha xua tay bảo :” Vậy cái khó của tôi thì tôi kêu ai ? Gắng mà chịu chứ !” Những lời “tố đạo” của con chiên làm ông linh mục trẻ như bừng tỉnh. Oâng ngộ ra rằng :” Nếu các đấng bậc ấy tin là có một Thiên Chúa thật, có hoả ngục và thiên đàng thật, có sự xét xử tối hậu thật,lẽ đâu họ dám hành động càn rỡ đến thế ? Hình như họ đã không còn tin ở những điều thiêng liêng đó nữa…”

Thế là ông linh mục xét lại “đức tin’ của các cha. Oâng cho rằng ‘đức tin’ ấy là không có thực, là vờ vịt, giả vờ để các cha “hành nghề” linh mục : “ Với họ đi tu là một nghề nghiệp , Hội Thánh là một tổ chức xã hội , danh vị và tiền bạc vẫn có sức mạnh vạn năng , mọi tội lỗi và đam mê chỉ khác đi là đã được thánh hoá…Các đấng bậc tự cho phép thoả mãn mọi dục vọng, còn giáo hữu thì è vai gánh vác mọi khó khăn thì vừa cuồng ngạo vừa ngu ngốc , bọn áo chùng chúng ta ở giáo phận này là sứ thần của quỷ chứ đâu phải của Chúa ?”

Than ôi, một khi linh mục Thư đã báng bổ đạo của chính ông như thế, đã vứt bỏ đức tin như vậy, con đường tất yếu dẫn ông tới là “bỏ đạo” về với “chính quyền”.

Quả nhiên một tối cha Thư mặc ra ngoài chiếc áo chùng thâm một cái áo dài trắng – biểu tượng của sự từ chối chức linh mục và cho mời ông chủ tịch mặt trận và ông chánh trương xứ tới trịnh trọng đề nghị : “ Thưa hai cụ, hai cụ là đại diện có thẩm quyền của giáo dân xứ nhà…tôi cúi mình cầu xin hai cụ hãy rửa tội cho tôi lần nữa.. vì từ nay tôi là tôi tớ trung thành của các người…”

Như vậy ông cha Thư không còn là “con cái Chúa “ nữa mà là tôi tớ của giáo dân, tức ‘đầy tớ của nhân dân”. Thế là ông Chủ tịch mặt trận làm lễ “rửa tội” cho ông linh mục theo kiểu “ngược lại” với nhà nhà thờ : “ Oâng vục nước đổ lên đầu cha xứ lần nữa, miệng đọc to : “Tao rửa mày nhân danh Cha và Con và Giáo hữu xứ Nhất…”

Như vậy, lẽ ra “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, ông nhà văn Nguyễn Khải đã để cho ông Chủ tịch mặt trận sửa “ thánh thần” thành “giáo hữu” – tức là từ nay, ông linh mục sẽ từ bỏ “thánh thần” mà trở về với “nhân dân”. Thật là một hư cấu vừa ngược ngạo vừa ấu trĩ tới mức dở hơi trong “triết luận về chủ nghĩa xã hội và thiên chúa giáo” như phê bình gia “ Vương Trí Nhàn tôn vinh nhà văn Nguyễn Khải trong cuốn “tiểu thuyết” “Cha và con và…”. Sinh thời Nguyễn Khải hay “khoe rằng” tớ là người theo triết lý “con lươn” hễ gắp khó khăn rắc rối là tớ tiết chất chờn lủi mất. Vụ “đề dân” của Nguyên Ngọc bị ăn đòn và Nguyễn Khải lủi mất tiêu vào Sàigòn là một dẫn chứng sinh động nhất. Tuy nhiên, cả đời ông cứ tiết chất nhờn đẻ mà “lủi” như vậy thì làm sao mà có được tác phẩm để đời ?


No comments:

Post a Comment