Pages

Thursday, April 26, 2012

TRẦN ĐỨC ANH SƠN * HUẾ, TRÒ CHƠI VÀ THÚ TIÊU KHIỂN 2



 TRÒ CHƠI VÀ THÚ TIÊU KHIỂN CỦA NGƯỜI HUẾ 2 
TRẦN ĐỨC ANH SƠN  *



CÁC TRÒ ĐỎ ĐEN KHÁC
Ngoài các trò nói trên, ở Huế còn có một số trò giải trí ăn tiền khác
như: tứ sắc, bài xẹp, tổ tôm, kiệu, tài bàn, mạt chượt, bài vụ, xóc dĩa... Ðó là
những trò giải trí nặng tính sát phạt, cao thấp, du nhập từ những vùng khác,
đặc biệt từ Trung Hoa và miền Bắc Việt Nam. Vì thế, cách chơi, sự thưởng
phạt đều tương tự.
- Bài tứ sắc và bài xẹp: Đều dùng chung một bộ bài, thường gọi là bài
tứ sắc, nhưng khác luật chơi. Các quân bài gồm: tướng - sĩ - tượng - xe - pháo
- mã - tốt. Mỗi quân bài có 16 lá gồm 4 lá màu xanh lục; 4 lá màu đỏ; 4 lá
màu vàng và 4 lá màu trắng. Bảy quân bài có tổng cộng 112 lá bài.
Ảnh 28: Chơi tứ sắc - Ảnh Đào Hoa Nữ
- Tổ tôm và kiệu: Đều dùng chung bộ bài tổ tôm. Bộ tổ tôm cũng gồm
3 pho: văn, vạn, sách. Mỗi pho có 9 quân bài từ nhất cho đến cửu. Mỗi quân
bài có 3 lá bài như nhau. Ngoài ra có thêm hàng yêu đỏ gồm 3 quân bài: chi
chi, cung thang và ông lão. Mỗi quân bài trong hàng yêu đỏ này gồm 4 con
bài giống nhau. Tổng cộng là 120 con bài. Tổ tôm thì chơi năm người, trong
khi kiệu có thể chơi hai, ba hay bốn người đều được.
53
Ảnh 29: Chơi bài kiệu
- Tài bàn và mạt chượt: Cũng dùng các quân bài như trong bộ tổ tôm
nhưng thay vì làm bằng giấy thì chúng được làm bằng sừng hay nhựa. Tài bàn
chỉ chơi ba người, trong khi mạt chượt thì chơi bốn người. Riêng bộ mạt
chượt có thêm các quân bài: trung, phát, bạch, đông, tây, nam, bắc. Sau này
người ta bổ sung thêm vào bộ mạt chượt 16 quân bài mới gọi là bốn “bộ hoa”
gồm: tổng-đồng-vạn-sách; hoa-nguyên-hỷ-hợp; xuân-hạ-thu-đông; mai-lancúc-
trúc, khiến cho trò này ngày một hấp dẫn hơn, thú vị hơn.
Ảnh 30: Bộ mạt chượt người Huế thường chơi
54
- Bài vụ: Đây là một trò chơi dân gian rất phổ biến trong các làng quê
xứ Huế, thường được tổ chức trong các dịp Tết đến, xuân về. Trò chơi này thể
hiện nét văn hóa đặc trưng của cư dân nông nghiệp thông qua sự xuất hiện
hình vẽ các con vật trên con vụ và trên bàn chơi bài vụ.
Bộ đồ chơi bài vụ gồm một con vụ làm bằng gỗ và chiếc bàn chơi
bằng giấy có vẽ hình tám con vật rất quen thuộc với người nông dân là: heo
(lợn) đen, voi trắng, trâu xanh, ếch vàng, ngựa đỏ, rùa vàng, tôm xanh và cá
vàng và một bộ tô - dĩa để xoay con vụ. Con vụ là một khối gỗ nhỏ hình lăng
trụ tám mặt, mỗi mặt có vẽ hình một trong tám con vật như trên bài chơi bằng
giấy; hai đầu con vụ có gắn hai chiếc đinh gỗ để nhà cái cầm và xoay vụ. Con
vụ được đặt trên chiếc dĩa sứ, phía trên có chiếc tô sứ úp kín con vụ khi nó
đang xoay.
Ảnh 31: Bộ đồ chơi bài vụ
Tết đến, người ta chọn những khoảnh đất bằng phẳng đầu làng hay
đầu ngõ xóm để tổ chức chơi bài vụ. Nhà cái, cũng là một người dân trong
cộng đồng, bày chiếc bàn giấy, con vụ và bộ tô - dĩa xoay vụ trên chiếc chiếu
trải giữa khoảng trống là có thể bắt đầu trò chơi bài vụ. Người chơi cũng là
những người dân lối xóm, sẽ đặt tiền vào hình vẽ con vật mà mình ưa thích có
trên mặt bàn chơi bàn giấy. Sau khi người chơi lựa chọn và đặt cược hoàn tất,
nhà cái sẽ xoay con vụ trên lòng dĩa, sau đó dùng chiếc tô sứ úp lên con vụ
đang xoay. Trong lúc con vụ đang xoay, người chơi có thể đặt thêm hoặc di
chuyển tiền đã đặt đến hình các con vật khác. Sau khi người chơi đã hoàn tất
việc đặt cược tiền và con vụ đã ngừng xoay, nhà cái sẽ nhấc chiếc tô lên khỏi
55
dĩa và hô tên con vật xuất hiện ở mặt trên con vụ. Người chơi nào đặt cược
tiền vào hình con vật đó sẽ được nhà cái “chung” tiền theo tỉ lệ đặt 1 ăn 6.
Những người đặt cược sai với hình con vật xuất hiện trên mặt chiếc vụ thì sẽ
mất số tiền đó vào tay nhà cái.
Bài vụ là một trò chơi có tính đỏ đen và chỉ xuất hiện trong những dịp
đặt biệt như Tết nhứt, hội hè. Về sau, nhiều cung nữ trong hoàng cung triều
Nguyễn cũng du nhập trò bài vụ vào chơi trong cung để giải khuây trong
những đêm dài mòn mỏi chờ đợi sự đoái thương của các đấng quân vương.
Ảnh 32: Chơi bài vụ trong chương trình Đêm Hoàng Cung
56
III. TRÒ GIẢI TRÍ VÀ TIÊU KHIỂN MANG TÍNH CÁ NHÂN
CHƠI NON BỘ
Chơi non bộ không phải là một thú vui của riêng người Huế, càng
không phải là do người Huế khai sinh. Song có một điều cần phải ghi nhận
rằng Huế là nơi có số người chơi non bộ nhiều vào hạng nhất, nhì Việt Nam.
Nguyên do là vì non bộ thường gắn với nhà vườn, mà nhà vườn chính là một
đặc trưng văn hóa của xứ Huế. Non bộ hiện diện nhiều nơi trên đất Huế: trong
cung vua, phủ chúa; trong lăng tẩm của các vị hoàng đề triều Nguyễn; trong
những ngôi nhà vườn miệt Kim Long, An Cựu, Vỹ Dạ...; trong cả những ngôi
nhà cao tầng nơi phố xá đông người.
Nhiều người Huế chơi non bộ, nhưng cách chơi và cách hiểu non bộ ở
Huế không giống nhau. Với người này, non bộ là sự vận dụng của thuật
phong thủy trong một không gian cụ thể. Với người kia, non bộ đơn giản là
một phần của nghệ thuật tạo hình hay nghệ thuật trang trí ngoài trời. Song
chiếm số đông vẫn là những người coi việc chơi non bộ như một trò giải trí
thuần túy và dựa vào các tích tuồng xưa để tạo cho mình những hòn non bộ
ưng ý.
Ảnh 33: Non bộ phía trước Trường Du Tạ ở cung Diên Thọ
57
Huế có những nơi có non bộ đẹp nổi tiếng, như ở cung Trường Sanh,
Trường Du Tạ trong cung Diên Thọ, hồ Kim Thủy (Ðại Nội); hồ Tịnh Tâm,
vườn Trường Thanh (Thành Nội), đảo Tịnh Khiêm (lăng Tự Ðức), chùa Thiên
Mụ (hòn Linh Phong). Huế cũng có người say mê non bộ như ông Bửu
Nghiêu (thường gọi là mệ Nho) ở chợ Cống, người đã lập hẳn cả một vườn
đá, đủ muôn hình vạn trạng trong khu vườn của mình và dành trọn một đời
cho thú vui ấy.
Ảnh 34: Non bộ phía trước Duyệt Thị Đường
Nhiều người Huế coi việc tạo một hòn non bộ trong vườn nhà như là
một yếu tố để cân bằng âm dương hay có chức năng trấn yểm theo phong
thuỷ. Ðó là những hòn non bộ được xây dựng ngay trước lối dẫn vào một ngôi
nhà, có tác dụng như một bức trấn phong, đảm bảo cho ngôi nhà tránh được
những điều bất lợi đến từ bên ngoài.
Chỗ khác thì coi non bộ như là một tiểu vũ trụ, như một hình thức sắp
xếp không gian theo ý muốn chủ quan của con người, tạo nên các vùng đất
linh kiệt hay chốn tiên cảnh dựa theo truyền thuyết và giai thoại: non bộ trên
đảo Bồng Lai (hồ Tịnh Tâm) tượng trưng cho ngũ nhạc (năm ngọn núi thiêng
của Trung Quốc); non bộ ở Trường Du Tạ (cung Diên Thọ) tượng trưng cho
tứ trấn, trấn yểm bốn phương: đông - tây - nam - bắc...
58
Khi tạo một hòn non bộ, người ta thường gắn thêm một số nhân vật và
đồ vật dựa theo các điển tích xưa: tượng ông già ngồi câu dựa theo tích Thái
Công điếu Vị (Khương Tử Nha ngồi câu danh vọng bên sông Vị); tượng hai
người, một trẻ, một già, ngồi đánh cờ, nhắc tích Triệu Khuông Dẫn gán núi
cho Trần Ðoàn để trừ nợ thua cờ trước khi trở thành Tống Thái Tổ; hay tượng
ông già ngồi nhìn đàn dê đang leo lên mỏm núi, nhắc tích Tô Vũ mục Hồ
dương (Tô Vũ chăn dê cho rợ Hồ).
Non bộ Huế cũng thường có nhiều tháp, đa số tháp đều 13 tầng.
Những ngọn tháp này tượng trưng hai ý nghĩa: thứ nhất là để cầu mong điều
tốt lành, vì nơi xây tháp được coi là một thánh địa để người ta tới cầu phúc,
cầu an; thứ hai là để trấn yểm.
Về mặt tạo hình những người chơi non bộ ở Huế thường tránh những
điểm sau:
- Thứ nhất là tránh xuyên tâm, tức là các hang động giả trên non bộ
không được thông từ trước ra sau. Non bộ được coi là một cái trấn phong, mà
xuyên tâm thì sẽ có gió lọt vào, vai trò trấn phong không còn nữa. Non bộ là
một hòn núi thu nhỏ, nếu có lổ thủng, coi như hòn núi đó bị mất linh khí.
- Thứ hai là những ngọn núi trên non bộ Huế thường không làm nhọn.
Non bộ cần có tính vững chãi trong khi cái nhọn không cho người ta cảm giác
vững chãi. Ðó cũng là một trong những lý do khiến nhà Nguyễn chọn núi
Ngự Bình, bằng phẳng hơn, làm tiền án cho Kinh Thành Huế, chứ không phải
là núi Kim Phụng, dù cho Kim Phụng cao hơn và hùng vĩ hơn Ngự Bình.
- Thứ ba, những con dốc quanh co trên hòn non bộ thì không bao giờ
lên đến đỉnh núi. Ðỉnh tượng trưng cho chân lý và chân lý là con đường
thẳng, không phải đường cong. Vả lại mấy ai đã đạt tới chân lý mà dám làm
cho mình một con đường lên tới đỉnh.
Một hòn non bộ được đánh giá là đẹp phải đạt đến tính cân đối, vững
chãi, toàn vẹn, có trước có sau, tránh được những điều kiêng kỵ trên đây. Thứ
hai, là các tích tuồng ở trên non bộ phải là những tích hay, tích hiền, không
phải là tích xấu, tích ác. Thứ ba hòn non bộ ấy được đặt trong một khung cảnh
phù hợp, tương xứng với tầm vóc và không gian xung quanh. Một hòn non bộ
to lớn, đặt trong một khuôn viên chật hẹp thì không thể gọi là đẹp được.
Người Huế có điều kiện chơi non bộ vì họ có một không gian cư trú rộng hơn
người xứ khác. Nhà ở Huế thường có vườn, có sân nên việc tạo lập một hòn
non bộ dễ dàng hơn và tránh được nhược điểm nói trên.
Chơi non bộ là một cách tìm về với thiên nhiên. Ðó là một thú tiêu
khiển tĩnh lặng, không xô bồ, huyên náo như những trò giải trí khác nên phù
hợp với tính cách của những người trầm tĩnh, kín đáo, mà đức tính đó chính là
nét đặc trưng của người Huế. Non bộ là một phần nhỏ của hoa viên, là một
59
bức tranh sơn thủy thu nhỏ trong ngôi nhà vườn xứ Huế và là cảm quan nghệ
thuật của và tư tưởng của chủ nhân ngôi nhà ấy. Vì thế, khi ngắm một hòn
non bộ, người tinh ý có thể hiểu được một phần tính cách của chủ nhân.
THÚ CHƠI HOA KIỂNG
Huế được mệnh danh là thành phố vườn, nhờ vào những vườn cây
trong các cung điện, lăng tẩm, chùa chiền, phủ đệ, trong các khu dân cư và
trên đường phố. Ðặc trưng ấy hình thành từ lối sống gắn bó với thiên nhiên,
hòa mình với thiên nhiên của con người xứ Huế và đó cũng là tiền đề cho một
thú tiêu khiển có truyền thống và phổ biến ở Huế. Ðó là thú chơi hoa kiểng.
Nhà ở Huế đa phần là nhà vườn, nên chủ nhân có không gian thuận lợi
để chơi hoa kiểng. Hầu như ngôi nhà nào cũng có một vài loại hoa và cây
kiểng mà chủ nhân yêu thích. Trong đó hoa mai là loài hoa được người Huế,
từ nông thôn đến thành thị, yêu thích. Hoa mai có mặt trong hầu hết các ngôi
chùa ở Huế và phụ cận; trong cung điện, lăng tẩm của vua chúa triều Nguyễn;
trong các phủ đệ, tư dinh của giới hoàng thân quốc thích và quan lại đương
triều. Hoa mai được trồng ở trước sân, sau vườn, hay trên những vùng đất đồi
ở Dương Xuân, Long Thọ. Thậm chí ở những vùng cồn cát của các huyện
Phong Ðiền, Quảng Ðiền cũng có hoa mai. Mai thường được trồng từ hai cây
trở lên, tránh trồng một cây (do kiêng chữ mai một).
Hoa hồng, người Huế gọi là bông hường vì kiêng húy vua Tự Ðức,
cũng là một loại hoa được trồng nhiều ở Huế. Trong các ngôi chùa như chùa
Huyền Không, chùa Từ Hiếu, hay trong vườn An Hiên, hồng được trồng
thành vườn với hàng chục loại khác nhau. Có những người chơi hồng chuyên
nghiệp như gia đình ông C.X.D. ở đường Chi Lăng, là những nơi nhập các
giống hoa hồng từ các vùng khác về ươm, chiết, lai giống mới để cung cấp
cho những người chơi hồng ở Huế. Ngoài ra, lan cũng được những người chơi
hoa kiểng ở Thừa Thiên Huế yêu thích, dù đó là một loài hoa đòi hỏi sự chăm
sóc đặc biệt. Các vị sư ở chùa Huyền Không còn tạo lập một vườn lan với gần
200 loại khác nhau, bốn mùa đều có hoa nở, khiến khách vãng cảnh chùa phải
ngẩn ngơ, thèm muốn.
Khi đô thị ngày một sầm uất hơn, không gian cho những người lập
vườn xứ Huế bị thu hẹp thì nhiều người Huế tìm đến với nghệ thuật bonsai,
cây kiểng. Trên những ngôi nhà cao tầng người ta tạo ra những khoảng không
gian khiêm tốn để chơi cây kiểng. Ðó là những gốc tùng, bách, mai... cổ thụ
khéo léo thu mình trong những chiếc chậu xinh xắn, hay những loại thảo mộc
tầm thường như sanh, bồ đề, tràm... qua bàn tay chăm sóc và tạo tác con
người đã trở thành những tác phẩm nghệ thuật giàu sức sống và đầy triết lý.
Người chơi cây kiểng đã chủ động tạo cho cây những dáng, những thế tùy
60
thích, rồi đặt theo những dáng, thế ấy như: phụ tử, huynh đệ, phu thê, long
thăng, phụng vũ, tam đa, ngũ phúc... Cây kiểng kiểu bonsai không chỉ được
trồng trong những nơi có không gian hạn chế mà còn xuất hiện trong các cung
điện, lăng tẩm triều Nguyễn, chứng tỏ đó cũng là một thú vui được tầng lớp
quyền quý quan tâm.
Ảnh 35: Chăm sóc hoa kiểng - Ảnh Đào Hoa Nữ
Có thể nói, thú chơi hoa và cây kiểng trong các tầng lớp người Huế đã
góp phần tạo cho vùng đất này một thần thái riêng biệt, một không gian đô thị
đầy sắc xanh và tràn ngập hương hoa. Thú vui này cũng đóng góp vào việc
duy trì đặc trưng thành phố vườn như một nét riêng của đất thần kinh.
THÚ NGỦ ĐÒ
Thừa Thiên Huế có nhiều sông nhưng chỉ có con sông Hương mới
khai sinh nên thú ngủ đò, vốn rất quyến rũ nhưng cũng đầy tai tiếng. Dòng
Hương Giang gắn bó với nhiều trò giải trí của xứ thần kinh, nhưng với riêng
thú ngủ đò thì sự gắn bó đó thật là đặc biệt vì không có dòng sông, con đò thì
lấy đâu ra thú ngủ đò.
Huế xưa là kinh đô, cũng là nơi gặp gỡ của bao tao nhân mặc khách từ
mọi miền đổ về. Họ là những sĩ tử Bắc Hà hay những công tử vùng sông nước
Nam Bộ, khăn gói về kinh mong kiếm cho mình một chỗ đứng trên quan lộ
nhờ nghiệp thi cử. Họ cũng là những kẻ giang hồ, thích rày đây mai đó cho
thỏa chí tang bồng. Có khi họ là quan lại tứ phương về kinh tại chức, sống xa
61
gia đình, thiếu vắng hơi ấm phụ nữ. Cùng với họ là những ông hoàng, những
cậu ấm đất thần kinh, lớn lên trong vòng cương tỏa của luân lý Nho gia,
nhưng lại mang trong người một tâm hồn lãng tử , nay muốn phá bĩnh, đi tìm
chút tự do phóng khoáng ngoài sự răn dạy của thánh hiền và gia tộc. Tất cả
hạng người ấy đã khai sinh nên thú ngủ đò.
Gọi là ngủ đò nhưng có ai xuống đò để ngủ bao giờ. Khách xuống đò
là để nghe đàn ca xướng hát, để ngâm vịnh thơ ca, để tìm kiếm bạn tri âm, tri
kỉ, hay để được thao thức trong khoang thuyền với cô gái Huế bởi những câu
chuyện thâu đêm của nàng, mà dân Huế vẫn quen gọi là chuyện canh trường.
Rồi từ những vui thú tao nhã ấy mới thai nghén nên cái trần tục khiến khách
xuống đò phải nao lòng trước thú mua hoa bán nguyệt. Vì thế mà sau này
trong giới ngủ đò mới hình thành nên các cụm từ “ngủ chay”, “ngủ mặn” để
nói về mức độ và tính chất của những chuyến xuống đò.
Ảnh 36: Con đò xứ Huế - Ảnh Đào Hoa Nữ
Khách đò thuở trước lịch lãm và nho nhã lắm. Hành trang mang
xuống đò của họ không chỉ là niềm đam mê lạc thú, mà cả một hồn thơ lai
láng, một trí tuệ uyên thâm và niềm háo hức muốn trải nghiệm một đêm trên
dòng sông của trăng, của thơ và của nhạc. Khách hiếm khi xuống đò một
mình mà thường đi với một, hai người bạn. Lúc con thuyền rời bến, ngược
dòng Hương đi về phía Kim Long, Thiên Mụ là lúc những sử tích, những giai
thoại về dòng sông và những địa danh ven bờ được khơi dậy. Ðó là những bài
học lịch sử và địa dư lý thú và lãng mạn nhất mà khách đò được học trong
đời. Nó hấp dẫn bởi giọng Huế ngọt ngào của người kỹ nữ sông Hương, bởi
khung cảnh thi vị của một đêm trăng, bởi cảm giác được bồng bềnh trên sông
62
nước với những con sóng lao xao ru vỗ mạn thuyền và tiếng mái chèo khua
nước róc rách.
Ảnh 37: Buông neo - Ảnh Đào Hoa Nữ
Con đò dừng lại, buông neo và một giọng hò mái nhì cất lên lan dài
trên mặt sóng. Người ta nghe trong giọng hò ấy những nỗi niềm của thân
kiếp; những sử tích về cuộc đời của nàng công chúa biết dứt tình riêng để
mang hoà bình, và cả một phần giang sơn, về cho tổ quốc...khiến lòng lãng
khách bùng lên mối cảm thông sâu sắc và cả một nỗi buồn vô cớ nhưng da
diết. Giọng hò chợt tan biến vào thinh không, cũng bất ngờ như lúc nó ngân
lên. Thay vào đó là tiếng dây cuốn neo xé nước roàn roạt. Con đò quay mũi
63
về xuôi trong tiếng thủ thỉ kể chuyện canh trường của phận nữ trong khoang
đò. Rồi khách đò đi vào giấc mộng lúc nào không hay. Ðến khi người con gái
đẩy liếp bước ra trước mũi đò, vẫy gọi chiếc thuyền nan tới bán hàng ăn cho
khách đò lót dạ, thì bình minh cũng vừa ló dạng trước bến Ðông Ba. Và khách
cũng đã trải qua một đêm ngủ đò trên dòng Hương thơ mộng
Tuy nhiên, cái tạo nên sức thu hút của thú ngủ đò lại nằm ngoài những
đam mê thức giả và bặt thiệp đó. Nó ở vào một phía khác của đời thường,
được diễn tả bằng hai chữ hoan lạc, mà khách đò vẫn quen gọi là “ngủ mặn”.
Khi bước chân viễn chinh của quân đội Pháp đưa cuộc chiến tranh ra khắp
vùng nông thôn ven đô sau khi đã tái chiếm cố đô Huế, thì những người dân
quê ở ngoại ô Huế cũng bắt đầu những cuộc di dân vô nội thành tạo nên một
áp lực về dân cư và việc làm nơi đất cố đô. Ðám kỷ nữ sông Hương được bổ
sung thêm những cô gái đến từ nơi thôn dã và khách đò cũng được mở rộng
đối tượng ra đám lính viễn chinh và bản xứ trong quân đội Pháp (và sau đó là
lính Mỹ và lính quân đội Sài Gòn). Thú ngủ đò từ đó phát triển sang một
hướng khác, trần tục hơn nhưng cũng sôi động hơn.
Con đò xứ Huế có những nét khác biệt so với con thuyền các xứ khác.
Ðò Huế không to tròn nhưng ghe bầu Nam Bộ, không lớn và trống trải, thông
suốt từ mũi đến lái như con thuyền xứ Quảng, không ngắn và bẹt như con
thuyền Nghệ An. Ðò Huế thon dài, được ghép từ năm mảnh ván, phần lái và
mũi vút cao để giảm bớt sức cản của nước. Ðò Huế có mui hình vòm, đan
bằng tre khác với thuyền mui phẳng các xứ khác dùng để chở hàng hóa. Con
đò Huế có ba phần: trước mũi là một khoảng không gian rộng và thoáng. Ðó
là nơi để du khách hóng mát, ngắm trăng. Khoang giữa có mui vòm, sàn gỗ
ván bào nhẵn, trải chiếu hoa với đôi gối thêu, là chổ dành cho khách và “hoa”.
Sau cùng là khoang dành riêng cho gia đình chủ đò. Ðò Huế là ngôi nhà di
động trên mặt nước, phù hợp với cuộc sống trôi nổi của cư dân sông nước.
Những khi không có khách thuê đò, khoang giữa sẽ là nơi nghỉ ngơi của con
cái chủ đò, còn khoang trong cùng kín đáo hơn, dành cho cha mẹ của chúng.
Người Huế vốn tinh tế nên trong cái thú vui tế nhị này người ta cũng
biểu hiện sự ý tứ của mình bằng việc thiết kế một khoang thuyền riêng, tạo
cho lãng khách một thế giới riêng tư và kín đáo, cũng như họ luôn đưa con đò
đến ẩn khuất nơi một bến vắng, xa hẳn chốn đông người trong những chuyến
đò đêm.
Chuyện ngủ đò thuở trước sao mà lãng mạn và quyến rũ. Những điều
ấy nay đã phôi pha, nhưng dẫu sao đó cũng từng là một thú vui một thời vang
bóng nơi mảnh đất cố đô.
64
PHỤ LỤC
65
PHỤ LỤC 1: MỘT SỐ BÀI BẢN CA HUẾ PHỔ DỤNG Ở HUẾ
CỔ BẢN
1. Vì cuộc diễn kịch ở Lao-kay để lấy tiền giúp nạn dân Nghệ Tĩnh
Ơn ai ơn đồng bạn, vì mối thương hoài
Kịch tân thời, giúp ai xa khơi
Thuật đôi lời, tỏ lòng vì ai
Ta An nam cùng họ chi khác trong ngoài
Đó Trung kỳ, đây miền Lao-kay
Nghìn dặm đường xá nài, nỗi ngậm ngùi, ngậm ngùi!
Tai hại vì đâu? Non sông oán sầu
Thần Thiên đế. Thiên đế cơ cầu
Quanh vùng Nghệ, Nghệ Tĩnh liền nhau
Nắng thiêu đồng mạ, hư hại vườn rau
Dân tình khó khăn, đói cùng nhau
Đâu trận cuồng phong
Mờ mịt lầm cát tung trời
Gần xa bời bời
Gió cuồng phong
Dến miền đường trong
Hung độc, thạch mộc tơi bời
Thôn quê thiệt thòi
Ấy nhiều nơi
Kinh kinh tế
Kinh kinh tế
Kinh tế nguy nàn
Khó làm ăn
Lúc tiền khan
Dân cùng thất nghiệp như số muôn vàn
Cuộc sinh tồn, cậy nhờ cùng nhau
Nhìn người hơn. Ngắm vào ta
Chung lòng hợp dạ
Sum họp giống nhà
Giống Tiên Rồng, may mà...
Đêm trường làm vui
Mướn trò chơi
Ca đôi lời
Chơi bời vui vẻ
Như giãi tâm hoài
Cuộc mua cười
Vì người Việt Nam
Hợp người Bắc, Nam
Người nhiều nơi
Đất Lao-kay
66
Sum vầy ân ái
Nghệ Tĩnh phương trời!17
2. Nói về liệt đại anh hùng nước ta
Dân số hai nhăm triệu, về giống da vàng
Chi Hồng Bàng, họ dòng Hùng Vương
Học cho tường, truyện nhà làm gương
Xưa Văn Lang trường trị, sau trước Chu, Đường
Ấy là đầu, về đời Hồng hoang
Nhiều truyện còn phi thường, mặt anh hường, anh hường
Trưng thị quần thoa. My linh tướng tài
Đời Đông Hán, Hán quan vô loài
Riêng thù chị, lận bận lòng ai
Núi sông thề nguyện
Yên ngựa cành mai
Cơ đồ bá vương, gái tài trai
Sông Bạch Đằng giang
Giồng cọc, là đúng Ngô Quyền
Hoàng Thao chìm thuyền
Sóng vừa yên
Đến hồi Trần - Tiên
Quang Phục, độc mộc tranh cường
Qua sang Tùy, Đường
Có Phùng – Hoan
Đinh Tiên Hoàng
Đinh Tiên Hoàng
Tiên Hoàng oai thần
Lá cờ lau. Thống thần dân. Khai đầu đế nghiệp
Lê, Lý đến Trần
Dịp Yêu - Hồ
Bản đồ về Minh
Một người Lam san
Ngùi lầm than
Đánh mười thu
Gươm vàng Lê Lợi
Lau sạch máu thù
Nọ còn chìm trong hồ
Ngang đời nhà Thanh
Ấy Càn Thanh
Tôn, Tôn Sầm. Tôn, Tôn Sầm
Tôn, Sầm hai gả
Binh mã tung hoành
Động Nam Đình
Trận thành Thăng Long
17 Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản cục, Tư liệu do Võ Quê sưu tầm.
67
Ngọn cờ Quang Trung
Dòng thần minh
Khách tài danh
Nghe nhời ca lý
Bao hạn ân tình18
3. Dan díu chi trần lụy. Rầu héo gan vàng
Nơi hồng trần, mịt mù càng thương
Bậc phi thường, lọ là giầu sang
Công danh kia là nợ, này chớ mơ màng
Có ra gì, hỡi người hoàng lương
Bàn chuyện đời thêm càng, đoạn can tràng, can tràng
Ân hận mà chi, đa mang với đời
Cùng giăng gió, sớm khuya ru hoài
Khi nhàn hạ, bè bạn làm vui
Nước non còn rộng, du lịch là hay
Trên đời như rứa, có là ai? Ấy là ai?
Danh lợi trường trung, trì trục, thêm rối tơ lòng
Kìa ai đèo bòng. Có, thành không
Nhớ từ đời xưa, Tô Tử. Cùng bạn giong thuyền
Nước non còn truyền. Thú thần tiên
Riêng vui lòng, vui lòng giang hồ
Thú tiều ngư, với cầm thư; khi buồn chén rượu, khi tính nước cờ
Cuộc doanh hoàn, kẻ tài người danh; mặc người đua tranh
Chút lòng thanh, đối trời xanh, băng hồ yên lạng chi bợn thế tình
Thiệt là đời, riêng mình
Trên đời là bao? Có là đâu! Trông trông vời
Trông vời thiên cổ, thanh khí tương cầu
Động tâm đầu, tựa làn giăng thâu
Vịnh vài ba câu. Chút tình sâu, nhắn cùng nhau
Tâm tình sau trước
Ôi bạn đa sầu!19
NAM BẰNG
Tâm sự của người đàn bà lúc bị chồng bỏ
Khoan khoan đã, ới anh!
Phụ phàng chi cho lắm
Duyên nợ ba sinh
Đời mình, đã xe sợi tơ mành
Sợi tơ mành
Tào khang, nên cho trọn chút tình
18 Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản cục, Tư liệu do Võ Quê sưu tầm.
19 Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản cục, Tư liệu do Võ Quê sưu tầm.
68
Xin lòng đừng ly
Quyết đá vàng
Trăm đàng thân thiết
Xiết bao ân tình
Đoái thương nước bạc non xanh
Nguyền non nước
Bắc Nam sao đành!
Mặc trò đời
Chi đâu
Nay đượm đà mai phụ
Gạt dòng châu
Than thở đôi câu
Trông lại cùng nhau
Trăm năm bạc đầu20
HÀNH VÂN
1. Tựa văn phòng, tựa văn phòng
Tuyết lạnh giời đông
Ngàn mây tía che kín non sông, bao la mờ mịt
Mòn con mắt trông giời nam bóng nhạn về thưa
Những trạnh lòng thương người tri kỷ
Người chung hội, duyên nợ xa xăm, cái ruột con tằm, dạ sầu trăm đoạn
Ngồi sầu ngâm, sầu ngâm
Hồn man mác. Lẩn khuất bằng chừng
Mong tới cung hằng. Nhắn dì giăng, dì giăng
Lời ước nguyền trông mong dì giăng
Tâm tình lai láng, đêm đêm ngồi tựa bâng khuâng21
2. Nhạn ven trời, nhạn ven trời
Én liệng ngoài khơi
Cầu Ô Thước, ta bước sang chơi, ấy nơi tình tự
Về non Giáp, trông dòng Tương
Sóng rợn rồi sao, nỗi đợi chờ thêm càng thương nhớ
Vòng nợ duyên, vòng nợ duyên
Ngọc Lam điền, hiệp đoàn loan phụng
Hội Thần tiên, thần tiên
Bồng đào, bông lý, ấy nhụy bông hường
Thơm nức bên tường, ấy mùi hượng, mùi hương
Gẩy nhịp đàn, dâng cầu quỳnh hương
Tơ tình lăng líu, líu lăng vì sợi tơ vương22
20 Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản cục, Tư liệu do Võ Quê sưu tầm.
21 Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản cục, Tư liệu do Võ Quê sưu tầm.
69
3. Cảnh Thanh bình Cảnh Thanh bình
Xinh thiệt là xinh
Nhìn đây đó, hương gió thanh thanh
Quang vinh rạng rỡ
Đường ngay chính ta cùng đi vai lại kề vai
Sống cuộc đời muôn người như một
Đường tiến đạt, đường tự do
Xây dựng cơ đồ...
Bảo tồn quốc thổ
Đượm màu hoa quốc gia
Lòng tha thiết dân Việt kiêu hùng
Cháu Lạc con Hồng
Một lòng chung thành công
Kết giải đồng nhân, dân hằng mong
Tinh thần tranh đấu
Khí thiên làm rạng non sông23
NAM AI
Bâng khuâng, nhớ cảnh. Thương người
Trông vời xa vời vợi. Nay bao tuổi đầu xanh
Duyên với nợ lênh đênh.
Trong giấc mộng phù sinh
Nước non chút tình, ta trông cậy ông giời xanh
Kìa hỡi bạn đồng thanh, cách xa thêm sậu mình duyên mình
Xa xôi, có tỏ, cho cùng
Bên lòng đây chờ đợi
Gánh san thuỷ đầy vơi; riêng nặng với ai?
Ai đi? Ai đi nhắn nhe cùng
Người ước mong. Trời trời đông
Chao ôi sương lạnh phòng không
Bấy lâu trong bụi hồng. Ơn sinh dục, thiệt hoài công
Gió mưa ghẹo anh hùng
(Song anh hùng chút lòng bao quản)
Lòng bao quản vì đâu?
Khí thanh tương cầu, nên vịnh một vài câu
Xa nhắn nhủ cùng nhau
Non sông gánh sầu
22 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
276.
23 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
276-277.
70
TỨ ĐẠI CẢNH
1. Chen chân vào, vòng thế nhân
Qua dâu bể, ngẫm nghĩ thêm buồn
Khôn biết ai tri kỷ mà giãi son tấm son
Nay ruột tầm ngày một héo hon, thẹn với nước non
Thương đoá trà, cơn gió bụi bao nỗi trần ai
Ông hoá công cay nghiệt nhường lại ngươi trêu ngươi
Vui gì đời, mà bướm lả ong lơi, cho phấn nhạt hương phai
Đêm thiếp ngồi, nương gối tựa, tay lựa cầm xoang
Nghe tiếng tơ văng vẳng hồ xừ xang xế xang
Khúc đoạn tràng, càng khêu mối thảm thương, mà trăm nỗi ngổn ngang
Người người đâu? Sao mà khéo
Tài danh! Giống đâu đa tình?
Khiến ai trong mộng, giằn giọc năm canh, cho mòn mỏi ngày xanh
Sầu sầu riêng. Tơ lòng, có, là đây!
Vấn vương thế này. Ấy ai trông đợi, mờ mịt mây sương mây
Biết bao, ngán ngao canh dài
Ai đi về, nhắn nhủ cùng ai?
Ai đi về! Nhắn nhủ cùng ai!24
2. Hoa thu cười, trăng thu sáng
Sông Ngân Hán, lai láng lưng trời
Trông hoa động, mường tượng ai như ai
Gương non Đoài, lần gát giữa nhành mai
Dầu đã cạn, phai hương phai...
Quyên kêu dục, châu chan giọt
Đã tư tưởng tai mày tai
Nghiên mài lụy, mài lụy đưa tin mai
Xưa gương dài, đặng chút thơm rơi
Mừng sạch sẽ cân đai
Keo sơn hẹn, trăm năm vẹn
Lan huệ đều tươi
Nay tình trạng, đòi đoạn nguôi khốn nguôi
Nay rồi mai, nay lại rồi mai
Mượn chén mua vui
Trằng trằng ôm cây đợi bóng cho bền quai
Dám sai tấc lòng
Khen cho tài Tạ Dạo vẫn không ai,
Chừng lạc bước thiên thai
Thề ngày xưa, tóc đã chấm ngang vai
Dám sai một lời
Trăng hoa, mấy phen đồi dời
Sự đời, dặng lòng thai khoan thai
24 Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản cục, Tư liệu do Võ Quê sưu tầm.
71
Đua bơi, nước non lâu dài
Khi bầu rượu tiếng đờn thảnh thơi
Khi bầu rượu tiếng đờn thảnh thơi!25
3. Chen chân vào vòng nhân thế
Qua dâu bể, ngẫm nghỉ thêm buồn!
Không biết ai tri kỷ, mà giải tấm lòng son!
Rồi ruột tầm, ngày một héo hon
Cành hổ thẹn với nước non
Thương đóa trà, cơn gió bụi
Bao nhiêu nỗi trần ai!
Ông Hóa công cay nghiệt
Dường lại người trêu người!
Vui chi người, mà bướm lả với ong lơi
Cho phấn lạt với hương phai!
Đêm thiếp ngồi, nương gối tựa, tay dựa cầm xoan
Nghe tiếng tơ vàng vãng họ, xự, xang, xê, xang...
Khúc đoạn tràng, càng kêu mối thảm thương
Sầu trăm nỗi ngổn ngang!
Người người đâu, sao lại khéo tài danh?
Giống đâu đa tình
Khiến cho mình trằn trọc đêm thanh
Cho mòn mỏi ngày xanh!
Sầu, sầu riêng, tơ lòng có phải là giây
Vấn vương thế nầy! Ấy ai, ấy ai trông đợi
Mờ mịt, mờ mịt, mây sưng mây
Biết bao, ngán ngao canh chầy
Ai ra về, nhắn nhủ cùng ai
Ai ra về, nhắn nhủ cùng ai26
4. Thương trăng tròn, thương trăng khuyết
Thương tha thiết, trăm mối bên lòng?
Thương đóa hoa vừa nở, dập dìu ong bướm ong
Thương đóa hoa tàn, lạt phấn phai hương
Nào ai kẻ buồn trông?
Thương mây bạc, gió đưa xiêu lạc, không biết về đâu!
Thương nước trôi bèo dạt, bèo dạt trôi nơi nao!
Thương số ba đào, chìm nổi lao đao
Đời vất vả biết là bao?
Thương chim nhạn, đêm đông kiếm bạn
25 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
290.
26 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
290.
72
Bao quản tuyết sương!
Sương tuyết sương dày dạn, tiếng nhạn kêu thảm thương!
Thương kẻ si tình, theo dõi người thương,
Trông mòn mỏi ngày xanh!
Đành đành thương, thông đỉnh Ngự chiều đông
Thông reo não nùng! Gió mưa không ngừng
Nào bạn tác ngày xuân, ai chịu lạnh cùng thông?
Ngùi ngùi thương, ca nhi giữa sông Hương
Véo von gọi tình, năm canh
Năm canh đành phải dầu giãi
Dầu dãi sương gió sương?
Cái thương, sao cứ doanh bên mình
Thương chi trọn trăm nghìn mối thương
Thương đâu vẹn trăm nghìn mối thương!27
LƯU THỦY
1. Kể từ ngày gặp nhau
Trao lời hẹn cho vẹn vàng thau
Dây tơ mành ràng buộc lấy mình
Đêm thu rạng, xui mình chạnh nhớ
Cảm thương người, ngậm ngùi ba thu
Ấy vì ai, canh dài đêm thâu
Xa cách nhau đêm nằm thấy
Thấy, thấy, thấy chiêm bao...
Chiêm bao lại vấn vương bên mình
Mình dực mình đòi cơn
Biết sao đặng, keo sơn mọi đường
Tình thương
Tư Lương đoạn trường
Song cũng nguyện cho vẹn can trường
Ai đen bạc cũng mặc lòng ai
Khuyên cùng bạn chớ phụ trúc mai
Đá non mòn chi sờn dạ ngọc...28
2. Mình, một mình ngồi trông
Bên non Tề, dựa kề dòng sông
Xa, xa chồng, nên nỗi trông chồng
Hai hàng lụy, hai hàng lụy ứa
Ứa hai hàng, lụy càng chứa chan
27 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
290-291.
28 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
275.
73
Chốn trường giang, phương trời mênh mang
Mang, mênh mang, trông rồi thấy
Thấy, thấy quan san
Thấy chim nhạn, xa xa dặm ngàn
Sự tình bên mình ngổn ngang
Trách con Tạo chi chi phụ phàng
Vì đâu, nên câu đoạn trường
Châu, châu lụy, châu lụy khôn hàn
Trăm nghìn giận, càng giận càng thương
Như lời hẹn, đừng thẹn tấc gang
Gánh cương thường xa đường phải nặng29
NAM BÌNH
1. Thương nhau vì nợ tri âm
Mối tình thâm!
Buộc ràng đây đó
Vẫy cuộc ca ngâm
Dưới trần, như đã riêng phần
Để riêng phần!
Mặc duyên may, hay là nợ với nần
Chi bằng ưa ý
Nợ hay duyên, hỏi người thanh khí
Ai là kẻ xoay vần?
Tuổi xuân xanh, chưa từng cái nợ phong trần
Vướng chi vào cuộc ái ân
Càng cay đắng, đắng cay muôn phần
Được như lời ước mong
Cho thỏa tình tư tường
Tưởng rồi trông
Ngồi tựa bên song
Thỏa mùi bông
Vấn vương tơ lòng
Ơi người Việt ơi!
Gặp khi thời lai...
Ngọn đèn kiến thức
Bừng rạng muôn nơi
Trí tài đua kịp theo người
Kịp theo thời sánh chung vai...
Cho xứng mặt giống nòi
Sống đời khang thái...
29 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
276.
74
Bước quang vinh ta càng hăng hái
Thêm vững thêm dài
Hết chông gai... tung cánh bằng
Bay lượn khắp trời
Nhân dân chờ một tương lai...
Mừng nay đến... đến trong mọi người
Vững một niềm an vui...
Đô thị cùng thôn dã đặng hòa hai
Rạng ngời ánh mai... cảnh càng tươi
Ý dân là ý trời30
2. Huyền Trân công chúa
Nước non ngàn dặm ra đi
Cái tình chi?
Mượn màu son phấn
Đến nợ Ô Ly
Đắng cay vì
Đương độ xuân thì
Độ xuân thì!
Cái lương duyên, hay là cái nợ duyên gì?
Má hồng da tuyết
Quyết liều như hoa tàn trăng khuyết
Vàng lộn theo chì!
Khúc ly ca
Sao còn mườn tượng nghe gì!
Thấy chim hồng nhạn bay đi
Tình lai láng, bóng như hoa quì...
Dặn một lời Mân Quân
Nay chuyện mà như nguyện
Đặng vài phân
Vì lợi cho dân
Tình đem lại mà cân
Đắng cay muôn phần!31
3. Gối loan trằn trọc
Gối loan trằn trọc năm canh
Mối sầu đoanh
Lụy hồng lai láng
Vì nợ ba sanh!
Ai xui mình gánh một khối tình!
30 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
278-279.
31 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
279.
75
Gớm ghê cho bấy nhiêu sợi tơ mành
Thương càng thêm rối
Rối trăm vòng, khốn lần ra mối
Thiệt lạ cho đời!
Muốn thôi thương
Song mà chẳng đặng với trời...
Ôi cơ chi gần gủi tấc gang
Niềm ân ái thở than đôi lời!
Nực buồn cười, ông xanh
Đem buộc mình vô cuộc
Nợ én oanh
Dày dặt xuân xanh
Cho thỏa lòng anh
E tan khối tình...32
4. Gắng công chờ đợi sông Tương
Vắng người thương
Nặng tình trăng gió, vì sợi tơ vương
Đâu mà gởi đặng can trường...
Xa xa trông muôn dặm tin hồng
Tin càng thêm vắng
Vắng tin hồng, thêm càng cay đắng
Lấn lựa canh trường
Gánh tương tư
Thôi đà gánh nặng khôn lường
Nhớ khi vành nguyệt tây tương
Càng thêm nhớ, tiếng ai bên tường!
Bắc dịp cầu cho qua,
Xin cậy hồn Tinh Vệ, chị Hằng Nga
Vì tình đợi ta
Chuyện gần xa
Dưới sông Ngân Hà
Đó đây tình nặng ơn sâu
Dắt dìu nhau
Một lòng son sắt, đừng nghĩ đâu đâu
Đá mòn sông cạn, ví dầu
Nghĩa tương cầu
Trăm năm coi như buổi ban đầu
Trên đường ân ái
Thấy chông gai, ta càng hăng hái
Muôn sự xem thường
Nếm chua cay
32 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960, tr.
281.
76
Nhưng mà hơn mật hơn đường
Ai cho vàng ngọc không ơn
Bằng xây đắp tấm yêu cho tròn!
Đã nặng lời non sông
Đau khổ, là hương vị, của tình chung
Dày dạt khó đong
Nguyện tình không
Dám sai tấc lòng!33
NAM AI
Huyền Trân công chúa
Ngoảnh lui cố quốc, ngập ngừng gót ngọc
Mây phủ kín trời thương, ngơ ngẩn bâng khuâng
Hoa đang độ thanh xuân, dập vùi, cứu nạn muôn dân
Không sánh đặng Chiêu Quân, cho trọn đạo quân thần
Vẻ chi một đóa yêu kiều, diễm lệ
Vàng thau lẫn lộn xót phận hổ hang
Gẫm thân bẽ bàng, kiếp hồng nhan
Duyên nợ dở dang, ôi Phụ Hoàng!
Vì nghĩa giao bang, hiếu trung đôi đàng
Thân ngọc vàng đem vùi cát bụi
Cho rảnh nợ Ô Lý, ngậm ngùi kẻ ở người đi
Cơn nước lửa phò nguy, nát thân sá gì34
33 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn 1960, tr.
282.
34 Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn 1960, tr.
282.
77
PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ ĐỀ THẢ THƠ DO VĨNH CAO, HẢI TRUNG
VÀ TRẦN ĐỨC ANH SƠN SƯU TẦM VÀ BIÊN SOẠN
CHO CHƯƠNG TRÌNH ĐÊM HOÀNG CUNG
TỔ CHỨC Ở ĐẠI NỘI HUẾ NĂM 2007
Chọn 1 trong 5 phương án: A, B, C, D và E để điền vào vị trí O trong
các câu thơ sau:
Mai sau dầu đến thế nào
Kìa gương nhật nguyệt nọ O quỷ thần
Các chữ gợi ý để thả:
A. dao B. gương C. gươm D. oan E. uy
Đáp án: Đây là câu thơ số 907 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là A. dao.
Xe châu dừng bước cửa ngoài
Rèm trong đã thấy một người O ra
Các chữ gợi ý để thả:
A. sấn B. lọt C. bước D. dìu E. nâng
Đáp án: Đây là câu thơ số 923 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là C. bước.
Mai sau ở chẳng như lời
Trên đầu có O mặt trời rạng soi
Các chữ gợi ý để thả:
A. ánh B. bóng C. lúc D. mãi E. khi
Đáp án: Đây là câu thơ số 1031 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là B. bóng.
Sinh rằng từ thuở tương tri
Tấm riêng riêng những nặng O nước non
Các chữ gợi ý để thả:
A. lòng B. vì C. buồn D. tình E. cùng
Đáp án: Đây là câu thơ số 1329 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là B. vì.
Trăm điều ngang ngữa vì tôi
Thân sau ai chịu tội O ấy cho
Các chữ gợi ý để thả:
A. trời B. tình C. này D. mình E. đời
78
Đáp án: Đây là câu thơ số 1345 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là A. trời.
Sinh rằng: "Hay nói dè chừng,
Lòng đây lòng đó chưa O hay sao?"
Các chữ gợi ý để thả:
A. cùng B. từng C. đồng D. tình E. nồng
Đáp án: Đây là câu thơ số 1361 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là B. từng.
Chiến hòa sắp sẵn hai bài
Cậy tay thầy thợ, mượn O dò la
Các chữ gợi ý để thả:
A. người B. lời C. thời D. tài E. điều
Đáp án: Đây là câu thơ số 1373 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là A. người.
Bây giờ kẻ ngược người xuôi
Biết bao giờ lại nối O nước non
Các chữ gợi ý để thả:
A. tình B. đường C. lời D. cùng E. thành
Đáp án: Đây là câu thơ số 1977 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là C. lời.
Giác Duyên thiệt ý lo lường
Đêm O mới hỏi lại nàng trước sau
Các chữ gợi ý để thả:
A. xuân B. khuya C. thanh D. tàn E. nằm
Đáp án: Đây là câu thơ số 2071 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là B. khuya.
Sâm thương chẳng vẹn chữ tòng
Tai ai O dám phụ lòng cố nhân
Các chữ gợi ý để thả:
A. há B. nào C. đâu D. ai E. chẳng
Đáp án: Đây là câu thơ số 2333 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là A. há.
Nhớ khi lỡ bước sẩy vời
Non vàng O dễ đền bồi tấm thương
79
Các chữ gợi ý để thả:
A. nào B. chẳng C. chưa D. đâu E. há
Đáp án: Đây là câu thơ số 2349 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là C. chưa.
Còn nhiều ân nghĩa với nhau
Cơ duyên nào đã O đâu vội gì?
Các chữ gợi ý để thả:
A. có B. đến C. hết D. thấy E. biết
Đáp án: Đây là câu thơ số 2541 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là C. hết.
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy O là ta cam lòng
Các chữ gợi ý để thả:
A. mặt B. được C. trước D. thỏa E. thích
Đáp án: Đây là câu thơ số 2349 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là A. mặt.
Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tìm luống những O chừng nước mây
Các chữ gợi ý để thả:
A. liệu B. e C. dè D. hỏi E. chẳng
Đáp án: Đây là câu thơ số 2999 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là A. liệu.
Quanh co theo dải giang tân
Khỏi rừng lau đã tới O Phật đường
Các chữ gợi ý để thả:
A. nơi B. sân C. thăm D. chân E. ngôi
Đáp án: Đây là câu thơ số 3009 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là B. sân.
Canh khuya thân gái dặm trường
Phần e đường O phần thương dãi dầu
Các chữ gợi ý để thả:
A. vắng B. sá C. hiểm D. khó E. cách
80
Đáp án: Đây là câu thơ số 2035 trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn
Du. Đáp án đúng là B. sá.
Hàm Tử, Chương Dương còn O đó
Các chữ gợi ý để thả:
A. đó B. ngóng C. thấy D. nhớ E. mãi
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Thăng Long hoài cổ của Hoàng
Trọng Cẩn in trong tập Hương Bình thi phẩm: Hàm Tử, Chương Dương còn
đó đó. Non sông luống để bụi trần đeo. Đáp án đúng là A. đó.
Cá tôm còn ngại O hào khô
Các chữ gợi ý để thả:
A. lúc B. nỗi C. chốn D. thuở E. với
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Cảnh hồ Tịnh Tâm của Nguyễn
Đôn Dư in trong tập Hương Bình thi phẩm: Thành quách đà ê cơn lửa cháy.
Cá tôm còn ngại nỗi hào khô. Đáp án đúng là B. nỗi.
Nhớ đình Lương Tạ O ngâm thơ
Các chữ gợi ý để thả:
A. lúc B. buổi C. tối D. đứng E. mãi
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Sông Hương lai láng bóng trăng
xưa của Nguyễn Đôn Dư in trong tập Hương Bình thi phẩm: Nhớ bến Văn
Lâu ngồi thưởng nguyệt. Nhớ đình Lương Tạ đứng ngâm thơ. Đáp án đúng
là D. đứng.
Nhuộm đen áo vải O làn bụi
Các chữ gợi ý để thả:
A. muôn B. đôi C. bao D. vài E. không
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Trở lại đất Thần kinh của Huỳnh
Thúc Kháng in trong tập Hương Bình thi phẩm: Nhuộm đen áo vải bao làn
bụi. Tiêu trắng ngày xanh mấy tiếng sanh. Đáp án đúng là C. bao.
Trăm năm bến cũ O còn lưa
Các chữ gợi ý để thả:
A. mãi B. vết C. vẫn D. dấu E. cảnh
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Sông Hương Giang của Hoàng
Ưng Bình in trong tập Hương Bình thi phẩm: Sáu nhịp vòng cung cầu đã
bắc. Trăm năm bến cũ dấu còn lưa. Đáp án đúng là D. dấu.
81
Rêu biếc in O theo bước khách
Các chữ gợi ý để thả:
A. hài B. sương C. đường D. lần E. trăng
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Xuân hứng của Vũ Duy Thanh in
trong Chơi chữ Hán Nôm, những bài thơ độc đáo của Hải Trung (Nxb.
Thuận Hóa, 2003): Rêu biếc in sương tùy bước khách. Hài hoa lỏng lẻo tới
đàn thơ. Đáp án đúng là B. sương.
Dẫu có thương O thời để dạ
Các chữ gợi ý để thả:
A. thầm B. ai C. yêu D. không E. nhau
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Không đề của Tương An Quận
Vương in trong Tâm trạng Tương An Quận Vương: Dẫu có thương không
thời để dạ. Tấm tình chớ khá lậu ai hay. Đáp án đúng là D. không.
Hết nửa ve O mới biết cay
Các chữ gợi ý để thả:
A. rồi B. thời C. lòng D. sau E. sầu
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Uống rượu của Tương An Quận
Vương in trong Tâm trạng Tương An Quận Vương: Chừng ba chung trước
còn khen ngọt. Hết nửa ve sau mới biết cay. Đáp án đúng là D. sau.
Nguyệt rạng O hoa thẹn bóng cây
Các chữ gợi ý để thả:
A. sáng B. tỏ C. chiếu D. rạng E. tỏa
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Tương tư của Tương An Quận
Vương in trong Hương Bình thi phẩm: Xuân đưa ngành liễu nghe tin gió.
Nguyệt rạng rạng hoa thẹn bóng cây. Đáp án đúng là D. rạng.
Lòng ta là những O O cũ
Tự ngàn năm bỗng nghe tiếng loa xưa
Các chữ gợi ý để thả:
A. cung thành B. lâu đài C. rêu phong D. hoang thành E. thành
quách
Đáp án: Đây là những câu thơ trích trong bài thơ Lòng ta là những thành
quách cũ của Vũ Đình Liên in trong tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa
Thông tin, Tập 2, trang 244): Trôi đi thuyền! Cứ trôi đi xa nữa. Vỗ trăng
khuya bơi mãi! Chèo mơ. Lòng ta là những thành quách cũ. Tự ngàn năm
bỗng nghe tiếng loa xưa. Đáp án đúng là E. thành quách.
Gầy guộc gió sương tùng Thế Miếu
82
Bẽ bàng trăng nước O Hương Giang
Các chữ gợi ý để thả:
A. cỏ B. trúc C. sóng D. nắng E. phượng
Đáp án: Đây là những câu thơ trích trong bài thơ Viếng thành Huế sau
ngày khói lửa của Quách Tấn in trong tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn
hóa Thông tin, Tập 2): Gầy guộc gió sương tùng Thế Miếu. Bẽ bàng trăng
nước trúc Hương Giang. Trông vời Thiên Mụ mây man mác. Lơ lửng
chuông hôm rụng tiếng vàng. Đáp án đúng là B. trúc.
Em đi gót nhẹ O hồn cỏ
Các chữ gợi ý để thả:
A. xanh B. vương C. nghiêng D. say E. lay
Đáp án: Đây là những câu thơ trích trong bài thơ Rất Huế của Huỳnh Văn
Dung in trong tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Tập 2): Giữ
chút gì rất Huế mặn mà. Dạ thưa ngọt lịm ai mê say. Em đi gót nhẹ xanh
hồn cỏ. Và hơi thở mềm sương khói bay. Đáp án đúng là A. xanh.
Ngùi ngậm giai nhân khẽ thở dài
Nắng chiều ngả tía O lâu đài
Các chữ gợi ý để thả:
A. bóng B. sắc C. nét D. dáng E. tím
Đáp án: Đây là những câu thơ trích bài thơ Trong đôi mắt Huế của Đông
Hồ in trong tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Tập 2): Ngùi
ngậm giai nhân khẽ thở dài. Nắng chiều ngả tía sắc lâu đài. Gượng cười
trong nét vàng son cũ. Như ả cung tần tuổi nhạt phai. Đáp án đúng là B.
sắc.
Da sông mát rải da trời
Đây mùa xuân O trên loài cỏ hoa
Các chữ gợi ý để thả:
A. chín B. ngát C. nở D. bén E. mọng
Đáp án: Đây là những câu thơ trích bài thơ Chiều xuân Trung kỳ của Hồ
Dzếnh in trong tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Tập 2):
Chiều xuân qua bến đò đông. Trai tơ khăn lục, gái hồng thắm môi. Da sông
mát rải da trời. Đây mùa xuân bén trên loài cỏ hoa. Đáp án đúng là D. bén
Chao ôi, mong nhớ! Ôi mong nhớ!
Một cánh chim thu lạc cuối O
83
A. ngàn B. đàng C. đàn D. trời E. bầy
Đáp án: Đây là những câu thơ trích bài thơ Xuân của Chế Lan Viên in trong
tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Tập 1): Có đứa trẻ thơ
không biết khóc. Vô tình bỗng nổi tiếng cười ran. Chao ôi, mong nhớ! Ôi
mong nhớ! Một cánh chim thu lạc cuối ngàn. Đáp án đúng là A. ngàn.
Tôi nghe xa O làn mây bạc
Rời bóng Kinh Thành lửng thửng đi
Các chữ gợi ý để thả:
A. lắm B. thẳm C. tít D. ngút E. vọng
Đáp án: Đây là những câu thơ trích bài thơ Giao thừa của Trần Huyền Trân
in trong tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Tập 1): Ấy lúc
hồn hoa gót trở về. Thả đàn chim mộng xuống đêm khuya. Tôi nghe xa lắm
làn mây bạc. Rời bóng Kinh Thành lửng thửng đi. Đáp án đúng là A. lắm.
Mắt vương vào mắt em thôi
Sao lòng O O nổi trôi như thuyền
Các chữ gợi ý để thả:
A. trỗi sóng B. chao đảo C. chếnh choáng D. chới với E. nghiêng
ngả
Đáp án: Đây là những câu thơ trích bài thơ Sóng của Giang Quân in trong
tập thơ Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam (Nxb. Văn học, Hà Nội, 2000): Sen
tàn để gió lô xô. Hơi thu vỗ sóng Tây Hồ quanh tôi. Mắt vương vào mắt em
thôi. Sao lòng chao đảo nổi trôi như thuyền. Đáp án đúng là B. chao đảo.
Thương màu tím Huế đầy vơi
Sông Hương xanh suốt những lời cho nhau
Các chữ gợi ý để thả:
A. biếc B. ngắt C. suốt D. ngát E. thẳm
Đáp án: Đây là những câu thơ trích bài thơ Nếu như chẳng có sông Hương
của Huy Tập in trong Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Tập 1): Nếu
như chẳng có dòng Hương. Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh rơi. Thương
màu tím Huế đầy vơi. Sông Hương xanh suốt những lời cho nhau. Đáp án
đúng là C. suốt.
Cây sầu đông, cây sầu đau
Thương tôi cây cũng O màu hoa râm
Các chữ gợi ý để thả:
A. trổ B. nở C. nhuốm D. ngát E. kết
84
Đáp án: Đây là hai câu trích trong bài thơ Địa chỉ buồn của Hoàng Phủ
Ngọc Tường, in trong tập thơ Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà
Nội, 2004, Tập I): Nhà tôi ở phố Đạm Tiên. Dưới dòng nước chảy bên trên
có cầu. Cây sầu đông, cây sầu đau. Thương tôi cây cũng trổ màu hoa râm.
Đáp án đúng là A. trổ.
O O bờ xa lộ bóng nhà
Các chữ gợi ý để thả:
A. Khói trắng B. Thuyền đỗ C. Sóng trắng D. Mái cũ E. Bến mới
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
của Văn Cao in trong Dạ thưa xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội,
2004, Tập I): Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha. Em nghe anh dạo khúc thu xa.
Thuyền xuôi về bến mô thuyền hỉ. Sóng trắng bờ xa lộ bóng nhà. Đáp án
đúng là C. Sóng trắng.
Những O O như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng
Các chữ gợi ý để thả:
A. cung điện B. đền đài C. lối gạch D. mái ngói E. lăng tẩm
Đáp án: Đây là câu thơ trích trong bài thơ Tạm biệt của Thu Bồn Dạ thưa
xứ Huế (Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2004, Tập I): Bởi vì em dắt anh
lên những ngôi đền cổ. Chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu. Những lăng
tẩm như hoàng hôn chống lại ngày quên lãng. Mặt trời vàng và mắt em nâu.
Đáp án đúng là C. lăng tẩm.
85
PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ ĐỀ ĐỐ THƠ TRẦN ĐỨC ANH SƠN VÀ VĨNH
CAO SƯU TẦM VÀ BIÊN SOẠN CHO CHƯƠNG TRÌNH ĐÊM
HOÀNG CUNG TỔ CHỨC Ở ĐẠI NỘI HUẾ NĂM 2007
橮 吿 儙 頂 橮 琘 幑 吿 儛 頂 幑 秥
搩 沚 媭 衦 橮 幑 琘
Trâu ăn trên đỉnh, trâu no. Bò ăn dưới đỉnh, bò đói,
Nước chảy quanh suối, trâu đói, bò no.
Là cái gì? Đáp án: Cối xay bột
夛 边 些 蘿 边 艚
茹 禥 時 固 茹 腂 時 空
Cây bên ta lá bên Tàu
Nhà sang thì co, nhà giàu thì không
Là cây gì? Đáp án: Cây lọng
有 骨 有 皮 無 有 肉
宜 春 宜 夏 不 宜 冬
Hữu cốt hữu bì vô hữu nhục
Nghi xuân nghi hạ bất nghi đông
Là cái gì? Đáp án: Cái quạt
哶 斏 据 倚 才 亗 疈
邚 姫 坤 椖 瀝 喼 焵
Cong lưng cứ ỷ tài đâm bắn
Lố mắt khôn dò lạch cạn sâu
Là con gì? Đáp án: Con tôm
憽 固 歳 憽 空 別 鏅
岞 空 固 歳 岞 鏅 吁 吁
Mẹ có cánh mẹ chẳng biết bay
Con không có cánh con bay vù vù
Là cái gì? Đáp án: Cung tên
禞 浌 沒 懎
袄 鍯 縷 桃
空 嬹 麻 拯 螙 靭
暛 挦 歇 數 酭 壌 沒 坘
Mình dài một tấc
Áo mặc đề đa
Bác mẹ sinh ra vô ngôn bất ngữ
Đến ngày chí tử mới nói nhất ngôn
86
Là cây gì? Đáp án: Cây pháo
空 歳 麻 鏅 酭 邏 圅
乑 曾 醘 揾 又 過 眡
逍 遙 世 界 懯 怺 禯
歷 覽 初 哰 易 亖 圡
Không cánh mà bay mới lạ đời
Đã từng vượt biển lại qua khơi
Tiêu diêu thế giói ngàn muôn dặm
Lịch lãm xưa nay dễ mấy người
Là cái gì? Đáp án: Tờ báo
坿 靭 闙 亪 澄 歮 翓
宮 簷 貞 於 墨 迎 卬
燯 審 丟 穯 皟 眜 収
旘 抉 衝 耒 蜆 汰 眗
Nghiến răn sấm dậy đứng ra cửa
Cung thiềm riêng ở mặc nghênh ngang
Hang thẳm đâu thèm đua hụp lặn
Lưỡi quét xong rồi kiến thảy tan
Là con gì? Đáp án: Con cóc
高 硏 權 駆 壦 丗 扄
擜 黃 牟 墛 墨 圡 峧
儙 高 亖 翓 招 排 好
搓 玐 四 僟 彮 闧 媫
Cao thấp quyền về tay kẻ múa
Trắng vàng màu lựa mặt người ưa
Trên cao mấy cửa chiêu bài hảo
Xoay đủ tứ bề ngọn gió đưa
Là cây gì? Đáp án: Cây cờ
炦 壭 些 甧 輸 之 玉
峼 獱 珄 戼 勅 娎 涹
搓 毜 搭 咜 功 當 重
眗 誟 桖 斾 玌 仍 群
Mặt vuông ta há thua gì ngọc
Lòng đỏ mình nên giữ lấy son
Xây tảng đắp nền công đáng trọng
Tan xương nát thịt dấu nhưng còn
Là cái gì? Đáp án: Hòn gạch
87
聮 茹 壁 篤 徵 頭 藼
塊 翓 迎 昂 歳 袄 昷
拖 顮 圡 禥 插 堼
曕 湄 丗 苦 勠 空 硑
Nằm nhà vếch đốc chưng đầu vịt
Khỏi cửa nghênh ngang áo cánh dơi
Đỡ nắng người sang khi xếp lọng
Che mưa kẻ khó lúc không tơi
Là cái gì? Đáp án: Cái dù
乑 剾 曲 豧 乄 戼 凩
又 螱 椎 柚 抵 勌 頭
俤 曢 熢 尙 堆 祝 刬
婮 鑬 砿 砿 固 之 丟
Đã đem khúc mít làm nên miệng
Lại sắm dùi dâu để gỏ đầu
Tăm tiêng vang lừng đôi chốc đó
Ruột rà trống rỗng có gì đâu
Là cái gì? Đáp án: Cái mỏ
婣 橮 桑 豧 推 停 咾
壊 纅 朩 色 恜 圡 癡
渚 擬 殼 辌 圡 敬 你
旕 砿 空 嬘 沒 細 覀
Da trâu tang mít thôi đừng láo
Kẻ rồng năm sắc phỉnh người ngây
Chớ nghĩ xác to người kính nể
Bụng rỗng không trơn một tí giày
Là cái gì? Đáp án: Cái trống
挒 滿 交 更 崐 旘 虦
挦 慮 點 刻 渒 尗 幱
樓 涹 閣 紫 曾 醎 訦
鬥 賦 輸 圡 沛 呭 靭
Đêm mãn giao canh buông lưỡi chắt
Ngày lo đếm khắc chép môi nhăn
Lầu son gác tía từng lui tới
Đấu phú thua người phải cắn răng
Là con gì? Đáp án: Con thằn lằn
様 蚠 卭 涹 芁 亖 懎
篂 覻 殼 擜 別 包 箰
88
螙 翓 責 埃 朱 槒 律
更 長 帒 揦 訴 共 哀
Thẳng rẳng tim son soi mấy tấc
Lăn tròn xác trắng biết bao ngoai
Hé cửa trách ai cho trót lọt
Canh trường nhỏ giọt tỏ cùng ai
Là cây gì? Đáp án: Cây đèn sáp
借 債 皆 空 亦 尾 隨
女 男 老 幼 莫 不 驚
南 北 東 西 皆 到 戶
四 海 歸 收 一 盈 囊
Tá trái giai không diệc vỹ tùy
Nữ nam lão ấu mạc bất kinh
Nam bắc đông tây giai đáo hộ
Tứ hải qui thu nhất doanh nang
Là ai? Đáp án: Người ăn xin
擎 天 沒 焈 剶 壦 壜
油 闧 椫 崊 共 庄 牢
房 蘔 刯 岞 空 計 制
茹 蜫 官 客 易 勸 嘲
Kình thiên một cốt giơ tay chống
Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao
Buồng chất cháu con không xiết kể
Nhà nhiều quan khách dễ khuyên chào
Là cây gì? Đáp án: Cây cau
刧 竿 趣 味 俼 俼 搩
沒 弙 風 流 闧 闧 斏
韜 略 乑 伶 懯 禯 捕
江 山 逈 篤 沒 壦 播
Nửa càn thú vị trời trời nước
Một sợi phong lưu gió gió trăng
Thao lược đã đành ngàn dặm bủa
Giang sơn tóm dốc một tay phăng
Là ai? Đáp án: Ngư ông
共 玐 瑈 誟 共 玐 庒
迎 股 吿 暭 准 海 河
曢 雖 坺 硏 肝 空 嫎
闙 琑 喑 喑 共 庄 牢
89
Cũng đủ lông xương cũng đủ da
Nghểnh cổ ăn chơi chốn hải hà
Tiếng tuy rằng thấp gan không bé
Sấm sét ầm ầm cũng chẳng sao
Là con gì? Đáp án: Con vịt
厽 變 羕 劍 圡 虗 炦
固 此 乄 磜 蹱 苉 城
鐘 磬 廟 堂 烪 敢 逞
勌 牐 共 固 愳 櫒 櫒
Sắc lẽm dường gươm người gớm mặt
Có thuở làm chông đứng trước thành
Chuông khánh miếu đường chưa dám sánh
Gõ nghe cũng có giọng canh canh
Là cái gì? Đáp án: Mảnh sành
有 果 有 花 本 一 杆
有 身 無 葉 重 輕 難
君 子 小 人 誰 敢 定
思 三 念 四 永 乎 疑
Hữu quả hữu hoa bổn nhất can
Hữu thân vô diệp trọng khinh than
Quân tử, tiểu nhân thùy cảm định
Tư tam niệm tứ vĩnh hồ nghi
Là cây gì? Đáp án: Cây cân
江 北 深 雪 白
江 南 末 年 開
問 名 即 有 約
冬 至 又 栽 培
Giang Bắc thâm tuyết bạch
Giang Nam mạt niên khai
Vấn danh tức hữu ước
Đông chí hựu bồi tài
Là cây gì? Đáp án: Cây mai
龍 頭 鳳 尾
挂 柱 擎 天
敬 神 即 用
交 約 為 先
Long đầu phụng vỹ
Quải trụ kình thiên
90
Kính Thần tức dụng
Giao ước vi tiên
Là cây gì? Cây cau
陰 陽 受 稟 並 干 支
凶 吉 皆 知 莫 計 時
日 月 轉 流 身 益 瘐
春 來 不 及 已 分 離
Âm dương thụ bẩm tịnh can chi
Hung cát giai tri mạc kế thì
Nhật nguyệt chuyển lưu thân ích sậu
Xuân lai bất cập dĩ phân li
Là cái gì? Đáp án: Cuốn lịch
享 受 求 祈 不 計 春
夕 朝 紅 色 又 更新
此 問 有 誰 不 敬 仰
插 拔 隨 宜 不 惜 憐
Hưởng thụ cầu kỳ bất kế xuân
Tịch triêu hồng sắc hựu canh tân
Thử vấn hữu thùy bất phủ ngưỡng
Tháp bạt tùy nghi bất tích lân
Là cái gì? Đáp án: Bát nhang
臨 江 接 水 自 何 年
無 學 給 文 又 莫 烦
有 樓 不 用 誰 知 故
進 士 高 名 亦 幾 天
Lâm giang tiếp thủy tự hà niên
Vô học cấp văn hựu mạc phiền
Hữu lâu bất dụng thùy tri cố
Tấn sĩ cao danh diệc kỷ thiên
Là gì? Đáp án: Phu Văn Lâu
人 面 不 知 何 處 去
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đáp án: Người nhiều râu hoặc con khỉ
龍 鬚 腰 曲 身 常 短
一 行 拜 步 到 寒 山
Long tu yêu khúc thân thường đoản
91
Nhất hành bái bộ đáo Hàn san
Là con gì? Đáp án: Con tôm
倊 頒 朱 忬 袄 黃
朱 印 朱 抉 峃 榮 中 朝
厰 侼 戼 畨 丗 戓
厰 倈 厰 夝 時 痥 乄 之
Vua ban cho mặc áo vàng
Cho ấn cho quyết vẻ vang trong triều
Mười hai nên lắm kẻ yêu
Mười ba mười bốn thì chiều làm chi
Là cái gì? Đáp án: Cuốn lịch
迃 岄 厰 佂 堆 厰
勠 哶 勠 梄 籒 宼 乄 之
乄 戼 馭 騎 傘 曕
朩 妻 僴 妾 共 為 固 岄
Tuổi em mười chín đôi mươi
Lúc cong lúc thẳng chớ cười làm chi
Làm nên ngựa cỡi tàn che
Năm thê bảy thiếp cũng vì có em
Là cây gì? Đáp án: Cây bút
四 口 一 十
Tứ khẩu nhất thập
Là chữ gì? Đáp án: Chữ 圖 (Đồ)
一 口 四 十
Nhất khẩu tứ thập
Là chữ gì? Đáp án: Chữ 畢 (Tất)
身 如 岞 雁 高 飛
边 時 肥 厁 邊 時 瘖 姑
中 朩 沛 斘 湄 粗
中 斘 時 沛 玐 朱 倈 挦
Thân như con nhạn cao phi
Bên thì phì mập bên thì ốm o
Trong năm phải tháng mưa to
Trong tháng thì phải đủ cho ba ngày
Là chữ gì? Đáp án: Chữ 八 (Bát)
竹 疏 宜 入 畫
樹 少 不 成 村
92
Trúc sơ nghi nhập họa
Thụ thiểu bất thành thôn
Là chữ gì? Đáp án: Chữ 彭 (Bành)
Thiên địa cộng lập
Là gì? Đáp án: 人 參 (Nhân sâm)
合 十
Hợp thập
Là củ gì? Đáp án: 三 七 (Củ tam thất)
沒 夛 擼 暛 炧 花
止 固 沒 果 拯 緥 拯 嫩
Một cây trổ đến trăm hoa
Chỉ có một quả chẳng già chẳng non
Là cây gì? Đáp án: Cây cân (cái cân)
昆 貓 抣 賊 方 奢
昆 馭 於 茹 聮 硟 咵 炉
Con mèo đánh giặc phương xa
Con ngựa ở nhà nằm ị đống tro
Là trái gì? Đáp án: Trái khoáy (trái ngược)
在 憽 爘 袄 賖 壦
岞 澾 谞 蔵 袄 飛 撾 橋
Tại mẹ may áo rộng tay
Con quên gài nút áo bay qua cầu
Là con gì? Đáp án: Con lừa mẹ (con dối mẹ)
沒秕 卥 懯 兆 銅
分 厰 晫 秕 懞 翁 仐 用
Một tỉ là nghìn triệu đồng
Phần mười của tỉ mong ông nhận giùm
Là gì? Đáp án: Tiền hoa hồng (tiền lại quả)
次 之 吿 沛 苦 岃
荕 蔄 賛 擓 聮 時 空 双
Thứ gì ăn phải khó đi
Đứng lên mệt mỏi, nằm thì không xong
Là gì? Đáp án: Bánh bò
欺 岃 欺 荕 時 聮
93
欺 聮 時 荕 坙 愪 物 之
Khi đi khi đứng thì nằm
Khi nằm phải đứng, hỏi thầm vật chi?
Là gì? Đáp án: Bàn chân
湄 淫 曩 帞 憹 儙
衛 茹 畨 烈 於 边 栿 廈
Mưa dầm nắng lửa ngồi trên
Về nhà lấm lét ở bên xó hè.
Là cái gì? Đáp án: Cái nón
炨 之 麻 据 勒 豑
媫 撾 媫 徠 朱 皮 時 催
Trái gì mà cứ lắc lư
Đưa qua đưa lại cho vừa thì thôi
Là trái gì? Đáp án: Trái đu đủ
方 覻 攞 擦 媭 暳
為 乴 儒 士 檝 姑 橣 身
Vuông tròn mài xát quanh co
Vì chàng nho sĩ gầy gò tấm thân
Là cái gì? Đáp án: Thoi mực
外 覻 麻 方 边 中
固 堆 倈 岲 乄 峼 蔢 迷
Ngoài tròn mà vuông ở trong
Có đôi ba chữ làm lòng say mê.
Là gì? Đáp án: Đồng tiền trinh
侤 馪 橣 峼 貝 搩 筃
沖 清 妙 兘 樣 乛 乛
神 京 物 貴 埃 空 適
又 倘 香 茶 味 寔 撛
Trĩu nặng tấm lòng với nước non
Trong thanh dịu ngọt dáng thon thon
Thần kinh vật quí ai không thích
Lại thoảng hương trà vị thật ngon
Là trái gì? Đáp án: Trái thanh trà
曩 嫩 哣 洌 棾 崘
湄 俼 沒 嶎 錃 兮 獕 丟
Nắng non ríu rít lè kè
94
Mưa trời một bữa chẳng hề thấy đâu
Là cái gì? Đáp án: Cái bóng
酭 學 止 別 伊 詞
侙 麻 倻 學 岲 垎 乄 之
Mới học chỉ biết i tờ,
Thế mà bắt học chữ hờ làm chi?
Là chữ gì? Đáp án: Chữ Thi
荕 挊 処 勠 哛 逩
篈 旗 於 疜 嗔 湶 岲 之
Đứng bóng hay lúc giữa trưa
Cắm cờ ở cuối xin thưa chữ gì?
Là chữ gì? Đáp án: Chữ Ngọc
生 歮 自 准 壘 燶
結 成 夫 婦 笈 崘 固 饒
塲 身 拯 計 隖 腂
凩 撛 物 怱 蔞 荼 拯 辭
Sinh ra từ chốn lũy tre
Kết thành phu phụ cặp kè có nhau
Nương thân chẳng kể nghèo giàu
Miếng ngon vật lạ dưa rau chẳng từ
Là gì? Đáp án: Đôi đũa
賒 吹 擬 徠 朱 媑
乄 身 昆 礘 亖 吝 絲 娨
Xa xôi nghĩ lại cho gần
Làm thân con nhện mấy lần tơ vương
Là gì? Đáp án: Số 08
產 峼 愛 國 初 哰
麻 峼 勅 搩 欺 揻 欺 睰
Sẵn lòng ái quốc xưa nay
Mà lòng giữ nước khi đầy khi vơi
Là cái gì? Đáp án: Ấm trà
珄 覻 麻 固 侼 頭
垖 銜 垖 品 垖 腂 垖 禥
官 員 朱 旦 聖 神
名 榮 德 行 調 中 身 尼
95
Mình tròn mà có hai đầu
Nuốt hàm nuốt phẩm nuốt giàu nuốt sang
Quan viên cho đến Thánh Thần
Danh vang đức hạnh đều trong thân này
Là cái gì? Đáp án: Ống đựng sắc phong
固 幹 固 鐥 空 尓
又 固 隻 旘 朲 魂 當 驚
Có cán có mũi không mồn
Lại thêm chiếc lưỡi ghê hồn đáng kinh
Là cái gì? Đáp án: Cái dao
身 輪 訨 架 威 儀
曢 俤 篵 銿傳 之 默 峼
欺 令 炧 戶 伏 從
欺 崐 埅 乳 沉 禞 憥 空
Thân luôn theo giá uy nghi
Tiếng tăm chiều sớm chuyện chi mặc lòng
Khi lệnh trăm họ phục tòng,
Khi buông lời nhũ đắm mình cõi không
Là cái gì? Đáp án: Cái trống
并 歯 只 沒 暣 浌
麻 炒 固 力 暣 懷 空 過
Tính ra chỉ một thước dài
Mà sao cố sức bước hoài không qua
Là cái gì? Đáp án: Cái bóng
固 身 時 固 個 尼
圡 浌 几 襽 丟 呍 絆 峼
晫 珄 儍 固 常 用
圡 外 勠 重 勠 曾 輕 欺
Có thân thì có cái này
Người dài kẻ ngắn đâu hay bận lòng
Của mình nào có thường dùng
Người ngoài lúc trọng lúc từng khinh khi
Là cái gì? Đáp án: Cái tên
夛 之 儙 峑 空 蘿
琾 之 儛 帀 沒 誟
昆 之 沒 諁 外 埞
英 麻 斷 特 訴 詳 岄 呍
96
Cây gì trên rừng không lá
Cá chi dưới bể một xương
Con gì một vảy ngoài nương
Anh mà đoán được tỏ tường em hay
Là gì? Đáp án: Cây nấm - Con mực - Con ốc
夛 枯 剾 拮 中 茹
止 固 沒 炨 吱 緥 吱 嫩
Cây khô đem cất trong nhà
Chỉ có một trái chê già chê non
Là cái gì? Đáp án: Cái cân
身 浌 梗 蘿 乛 乛
嫩 吿 緥 半 刯 昆 覄 壇
Thân dài cành lá thon thon
Non ăn già bán cháu con đầy đàn
Là cây gì? Đáp án: Cây tre
身 岺 拯 學 刼 之
麻 炧 次 岲 曰 時 特 桰
Thân nhỏ chẳng học chút gì
Mà trăm thứ chữ viết thì được ngay
Là cây gì? Đáp án: Cây bút
侼 頭 麻 拯 固 蝊
固 特 曲 哛 勁 麻 緲 浉
Hai đầu mà chẳng có đuôi
Có được khúc giữa cứng mà dẻo dai
Là cái gì? Đáp án: Cái đòn gánh
墢 歳 仍 拯 別 飛
戞 訨 夲 闧 斣 挦 清 台
Mang cánh nhưng chẳng biết bay
Vui theo sóng gió đêm ngày thảnh thơi.
Đáp án: Chiếc thuyền buồm
昆 之 固 瑈 固 蝊
稚 緥 瞾 俽 墢 訨 引 唐
Con gì có lông có đuôi
Trẻ già trai gái mang theo dẫn đường
Là con gì? Đáp án: Con mắt
97
丐 之 供 買 供 迷
供 自 儙 倂 供 駆 沔 埊
Cái gì cúng mãi cúng mê
Cúng từ trên núi cúng về miền xuôi
Là cái gì? Đáp án: Cái mủng
春 青 几 尚 圡 夭
位 高 名 望 戼 蜫 艱 難
峼 空 嚢 躺 貯 真
冬 珡 拯 管 飢 寒 液 冰
Xuân xanh kẻ chuộng người yêu
Vì cao danh vọng nên nhiều gian nan
Lòng không dạ thẳng chứa chan
Đông sang chẳng quản cơ hàn giá băng
Là cây gì? Đáp án: Cây tre
炦 生 岲 義 拱 蜫
柗 圡 剝 扨 畨 條 円 嘆
律 朩 局 撡 彫 殘
生 訨 沒 僂 昆 頑 芮匇
Mặt xinh chữ nghĩa cũng nhiều
Chịu người bóc lột lắm điều thở than
Suốt năm cuộc sống điều tàn
Theo một lũ con ngoan nối dòng
Là cái gì? Đáp án: Quyển lịch
牐 戶 時 別 堟 頭
牐 悞 沒 諁 撡 畱 埞 奆
堞 橋 唐 寴 洓 錆
唕 岄 拫 勑 結 情 墵 胞
Nghe họ thì biết nhọn đầu
Tên giống một vảy ở sau nương sình
Nhịp cầu đường ray sắt thanh
Nhờ em gắn bó kết tình với nhau
Là cái gì? Đáp án: Đinh ốc
夛 之 固 彣 侼 頭
蜫 罁 麻 拯 岃 丟 特 儍
Cây gì có đến hai đầu
Nhiều chân mà chẳng đi đâu được nào
Là cây gì? Đáp án: Cây cầu
98
儙 朋 婣 儛 吏 朋 婣
扟 侟 時 蔭 娎 歮 冷 濥
Trên bằng da, dưới bằng da
Đút vào thì ấm, lấy ra lạnh lùng
Là cái gì? Đáp án: Đôi giày da, đôi bao tay da
固 罁 麻 拯 固 壦
固 斏 拯 旕 丐 処 怱 圅
Có chân mà chẳng có tay
Có lưng, chẳng bụng cái hay lạ đời
Là cái gì? Đáp án: Cái quần
固 強 麻 拯 固 真罁
固 侼 岞 姫 粗 朋 礖 忂
Có càng mà chẳng có chân
Có hai con mắt to bằng ốc bươu
Là cái gì? Đáp án: Cái kính (cái gương)
本 初 於 坦 生 歮
麻 哀 供 噲 碎 卥 岞 官
渥 峼 役 搩 冟 酸
揻 睰 副 墨 世 間 乊 蜫
Vốn xưa ở đất sinh ra
Mà ai cũng gọi tôi là con quan
Dốc lòng việc nước lo toan
Đầy vơi phó mặc thế gian ít nhiều
Là cái gì? Đáp án: Cái ấm
身 岄 瑟 羴 凭 傍
勅 腬 翓 杵 唐 徨 別 包
獕 岄 客 拯 噉 侟
主 衛 念 儎 岄 嘲 迍 桰
Thân em sắt thép vững vàng
Giữ gìn cửa ngõ đàng hoàng biết bao
Thấy em khách chẳng giám vào
Chủ về niềm nở em chào đón ngay
Là cái gì? Đáp án: Cái ổ khóa
身 朋 梇 燶
丐 凩 鉷 吹
旕 時 籾 権
物 英 種 共
99
Thân bằng gióng tre
Cái miệng tròn xoe
Bụng thì lỏng bỏng
Vật anh chỏng gọng
Là cái gì? Đáp án: Cái điếu cày
禞 黃 吏 忬 袄 黃
岃 歮 外 唐 哀 拱 悶 昏
Mình vàng lại mặc áo vàng
Đi ra ngoài đàng ai cũng muốn hôn
Đáp án: Quả thị
學 行 牱 洄 垰 頭
吻 還 突 特 別 之 丟
皮 外 歮 羕 坤 頑 畨
卒 局 坤 頑 只 步 鏓
Học hành đến hói cả cái đầu
Vẫn hoàn dốt đặc biết chi đâu
Bề ngoài ra dáng khôn ngoan lắm
Rốt cục khôn ngoan chỉ bộ râu
Là cây gì? Đáp án: Cây bút viết chữ nho (cây bút lông)
峂 峂 撐 撐
轊 喖 苔 禞
歀 匇 情 感
Bé bé xinh xinh
Răng mọc đầy mình
Nối dòng tình cảm
Là con gì? Đáp án: Con tem
暈 斏 璄 瀂 堚 俼
丁 寧 侼 凩 沒 利 双 双
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Là cái gì? Đáp án: Con diều sáo
別 碎 卥 丐 夷 空
媭 璏 律 斘 半 蓬 卥 碎
Biết tôi là cái gì không
Quanh năm suốt tháng bán bòng là tôi
Đáp án: Quả bóng bàn
100
聞 其 聲 不 見 其 形
大 人 開 口 小 人 驚
Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình
Đại nhân khai khẩu, tiểu nhân kinh
Là ai? Đáp án: Ông kẹ, con ma, ông ngáo ộp
剾 身 朱 世 間 憹
庄 傷 時 籒 吏 宼 不 忠
Đem thân cho thế gian ngồi
Chẳng thương thì chớ lại cười bất trung?
Là cái gì? Đáp án: Cái phản
英 墵 碎 本 共 悞
仍 為 恪 剱 朱 戼 賒 皡
碎 朱 果 嘦 赭 殅
群 英 砋 點 朱 圤 襔 添
Anh với tôi vốn cùng tên
Nhưng vì khác họ cho nên xa vời
Tôi cho quả chín đỏ tươi
Còn anh tô điểm cho người đẹp thêm?
Là gì? Đáp án: Quả vải và vải mặc
侼 壦 掩 擦 焈 茹
婮 肝 空 固 丐 婣 僟 凬
Hai tay ôm sát cột nhà
Ruột gan không có, cái da bầy nhầy?
Là cái gì? Đáp án: Cái võng
夛 夷 買 喖 時 高
寅 寅 吏 硏 據 牢 邏 奇
Cây gì mới mọc thì cao
Dần dần lại thấp, cớ sao lạ kỳ?
Là cây gì? Đáp án: Cây nến, cây hương
身 岄 嫎 比 細 絲
壦 罁 空 固 戼 岃 朋 頭
Thân em bé tỉ tí ti
Tay chân không có nên đi bằng đầu?
Là cây gì? Đáp án: Cây kim
皮 朋 果 勭 吿 劫 垰 廊
Vừa bằng quả mướp, ăn cướp cả làng?
Là con gì? Đáp án: Con chuột
101
英 堃 忬 袄 赭
俺 岺 忬 袄 鈎
欺 俺 堃 如 英
俺 拱 忬 袄 赭
Anh lớn: mặc áo đỏ
Em nhỏ: mặc áo xanh
Khi em lớn như anh
Em cũng mặc áo đỏ
Là quả gì? Đáp án: Quả ớt
蔑 丐 扼 腅 炧 客 憹
Một cái ách, mà trăm khách ngồi?
Là gì? Đáp án: Buồng chuối
悞 俺 空 少 拯 乘
剰 峼 黃 兘 底 皮 峼 英
Tên em không thiếu chẳng thừa
Tấm lòng vàng ngọt để vừa lòng anh?
Là quả gì? Đáp án: Quả đu đủ
固 梗 腅 空 別 鏅
典 欺 鏅 特 吿 眉 拱 吱
Có cánh mà không biết bay
Đến khi bay được ăn mày cũng chê
Là gì? Đáp án: Cánh hoa
蔑 璏 固 厰 侼 斘
蔑 斘 固 倈 厱 挧
撰 蔑 挧 夋 夛 空 钖
Một năm có mười hai tháng
Một tháng có ba mươi ngày
Chọn một ngày trồng cây không rễ
Là cây gì? Đáp án: Cây nêu
岞 之 吿 腅 空 坾
岞 之 坾 腅 空 吿
Con chi ăn mà không uống
Con chi uống mà không ăn
Là con gì? Đáp án: Con tằm và con đỉa
侼 儯 恪 剱 共 悞
岞 時 儛 搩 丐 儙 渉 茹
102
Hai đứa khác họ cùng tên
Con thì dưới nước, cái trên mái nhà
Là gì? Đáp án: Cá mè và cái mè (rui mè) trên mái nhà
欺 岃 墢 垰 茹 岃
欺 駆 崕 翓 慈 悲 腅 聮
Khi đi mang cả nhà đi
Khi về đóng cửa từ bi mà nằm
Là con gì? Đáp án: Con ốc
儙 拉 瓦 儛 固 花
蔑 尚 垆 授 歮 夝 尚 崕 媫 獹
Trên lợp ngói, dưới có hoa
Một thằng thò ra, bốn thằng đung đưa chạy
Là con gì? Đáp án: Con rùa
丐夷 蹈 舖 儛 春
岃 頭 儛 坦 轥 罁 瑨 俼
Cái gì dạo phố dưới xuân
Đi đầu xuống đất, chọc chân lên trời
Là cái gì? Đáp án: Cái đinh giày
夛 夷冬 幆 夏 殅
花乄 剹 觵 哛 俼 鍸 饒
氼 気 涓 態 鐲 侟
及 桰 質 蟩 戨 愁 凁 歮
Cây gì đông héo, hè tươi
Hoa làm chong chóng giữa trời đuổi nhau
Mối mọt quen thói đục vào
Gặp ngay chất đắng, buồn rầu nhả ra
Là con gì? Đáp án: Cây xoan
亷 之平 坦 攤 歮
插 侟 爐 帞 遌 倈 夝 挧
欺 歮 趦 赭 熙 熙
禞 壪 椮 振 剾 搓 翓 茹
Hòn gì bằng đất nặn ra
Xếp vào lò lửa nung ba bốn ngày
Khi ra má đỏ hây hây
Mình vuông chăn chắn, đem xây cửa nhà?
Là cái gì? Đáp án: Hòn gạch
103
花 之 果 捲 貝 蔞
底 朱 勾 窽 闦 頭 戼 緣
Hoa gì quả quyện với trầu,
Để cho câu chuyện mở đầu nên duyên?
Là hoa gì? Đáp án: Hoa cau
果 之 吿 拯 特 蜫
仍 麻 擹 獕 包 饒 圡 穯
Quả gì ăn chẳng được nhiều,
Nhưng mà nhìn thấy, bao nhiêu người thèm?
Là quả gì? Đáp án: Quả chanh
身 浌 旘 亙 卥 嗟
有 手 無 足 妒 卥 丐 之
Thân dài, lưỡi cứng là ta
Hữu thủ vô túc, đố là cái chi?
Là cái gì? Đáp án: Cái cuốc
岞 之 頭 橸 蝊 蒖
吿 琘 浸 沫 吏 長 瑨 夛
Con chi đầu khỉ đuôi lươn
Ăn no tắm mát, lại trườn lên cây?
Là cái gì? Đáp án: Cái gáo bằng sọ dừa
耯 之 惣 高 雭
耯 之 空 歳 空 瑈 禞 塵
Chim chi sắc mỏ, cao mồng
Chim chi không cánh không lông mình trần
Là cái gì? Đáp án: Cái rìu
中 茹 固 堏 吿 恱 擜
Trong nhà có bà ăn cơm trắng?
Là cái gì? Đáp án: Bình vôi
夛 夷 空 蘿 空 觮
禞 黃 空 钖 於 媑 茹 嗟
Cây gì không lá, không chân
Mình vàng, không rễ, ở gần nhà ta?
Là cây gì? Đáp án: Cây rơm
平 字 錢
104
聮 迎 中 礆
Bằng trự tiền
Nằm nghiêng trong bụi
Là gì? Đáp án: Rau má
圭 岄 於 准 傉 囚
醘 撾 炦 搩 網 剈 硏 高
彣 挧 鎼 姫 歮 嘲
裦 爯 買 別 自 豪 卒 氊
Quê em ở chốn ao tù
Vượt qua mặt nước, võng dù thấp cao
Đến ngày mở mắt ra chào
Soi gương mới biết tự hào tốt tươi
Là cây gì? Đáp án: Cây sen
朋 岞 爬 聮 觚 哛 撧
Bằng con bò, nằm co giữa ruộng
Là cái gì? Đáp án: Cái mả
夛 边 東 固 芃 空 炨
夛 哛 塘 蓋 固 炨 空 花
夛 於 中 茹 固 花 空 果
Cây bên đông có bông không trái
Cây giữa đường cái, có trái không hoa
Cây ở trong nhà, có hoa không quả
Là cây gì? Đáp án: cây lau, cây đa, cây đèn
禞 覻 礚 撰
尙 鈍 如 磜
中 茹 憹 空
歮 咵 媣 暤 暤
Mình tròn trùn trụn
Răng nhọn như chông
Trong nhà ngồi không
Ra đồng nhảy chôm chổm
Là cái gì? Đáp án: Cái nơm
本 奴 時 於 峑 青
剾 衛 下 伴 結 成 沒 堆
韠 塘 丗 苉 圡 畱
衛 茹 時 邑 娎 胞 麻 聮
105
Vốn nó thì ở rừng xanh
Đem về hạ bạn kết thành một đôi
Ra đường kẻ trước người sau
Về nhà thì ấp lấy nhau mà nằm
Là cái gì? Đáp án: Đôi quang gánh
禞 如 果 茄 叱 碒
唐 瑇 時 固 唐 外 時 空
Mình như quả cà sứt tai
Đàng Trong thì có, Đàng Ngoài thì không
Là gì? Đáp án: Bánh trôi
丐 擡 麻 腫 侼 頭
边 些 時 固 边 艚 時 空
Cái trống mà thủng hai đầu
Bên ta thì có, bên Tàu thì không
Là cái gì? Đáp án: Cái váy
岞 夷
買 生 韠 時 卥 岞 徴
畱 化 韠 岞 徸
吏 化 成 岞 稤
稤 吏 化 成 驢
驢 貨 韠 妕
妕 變 成 岞 橸
Con gì
Mới sinh ra thì là con sên
Sau hóa ra con bướm
Lại hóa thành con công
Công lại thành lừa
Lừa hóa ra cáo
Cáo biến thành con khỉ?
Là con gì? Đáp áp: Con người ta
欺 初 岄 赭 紅 紅
岄 岃 応 洂 岄 補 圭 吒
挦 畱 迃 鶴 駆 緥
圭 洂 岄 補 圭 吒 吏 駆
Khi xưa em đỏ hồng hồng
Em đi lấy chồng, em bỏ quê cha
Ngày sau tuổi hạc về già
Quê chồng em bỏ, quê cha lại về
Là cái gì? Đáp án: Cái nồi
106
丐 夷 包 廡 泣 尼
空 味 空 色 麻 埃 拱 勤
Cái gì bao phủ khắp nơi
Không mùi không sắc mà ai cũng cần
Là gì? Đáp án: Không khí
夛 租 蘿 岺 廛 廛
嫩 吿 緥 半 娎 錢 麻 銷
Cây to lá nhỏ chiền chiền
Non ăn, già bán lấy tiền mà tiêu
Là cây gì? Đáp án: Cây tre
岞 夷 固 瑈 固 蝊
娋 緥 佳 俽 調 拱 墢 訨
Con gì có đuôi có lông
Trẻ già trai gái đều cùng mang theo
Là con gì? Đáp án: Con mắt
沒 梽 麻 児 侼 茹
妣 岄 空 固 婮 鑬 拱 空
Một chắc mà giữ hai nhà
Chị em không có, ruột rà cũng không
Là cái gì? Đáp án: Máng xối
頭 羅 瑟 蝊 羅 挿
空 固 奴 檜 空 成
Đầu là sắt, đuôi là gỗ
Không có nó, củi không thành
Là cái gì? Đáp án: Cái búa bổ củi
誟 僺 誟 蕽
空 固 斾 固 庒
耯 逗 於 儙 斏
嶾 岃 於 儛 旕
朚 益 朱 圡 些
塊 陳 如 蛹
Xương sườn, xương sống
Không có thịt, có da
Chim đậu ở trên lưng
Guốc đi ở dưới bụng
Giúp ích cho người ta
Khỏi trần truồng như nhộng
Là cái gì? Đáp án: Khung cửi
107
固 罁 麻 拯 別 岃
固 炦 仿 離 朱 丗 憹 儙
Có chân mà chẳng biết đi
Có mặt phẳng lì cho kẻ ngồi trên
Là cái gì? Đáp án: Cái ghế
炦 如 丐 炪 禞 如 丐 羐
丐 斏 兾 丐腮 梄 沱
欺 牌 賦 欺 吟 詩
欺 供 翁 奴 欺 攧 堏 箕
Mặt như cái thớt, mình như cái mai
Cái răng khập khiểng, cái tai thẳng đờ
Khi bài phú, khi ngâm thơ
Khi cúng ông nọ, khi thờ bà kia
Là cây gì? Đáp án: Cây đàn nguyệt
平 炨 槔
従 吔 岃 略
Bằng trái cau
Lau chau đi trước
Là gì? Đáp án: Ngón chân cái
夛 絤 縱 蘿 蘺隨
攑 東 飏 吏 攑夏 儎 歮
Cây lung tung, lá loe toe
Mùa đông úp lại, mùa hè nở ra
Là cây gì? Đáp án: Cây sen
蘿 青 梗 赭 花 黃
曷 顛 昖 擜 妒 乴 夛 之
Lá xanh, cành đỏ, hoa vàng
Hạt đen, rễ trắng; đố chàng cây chi?
Là cây gì? Đáp án: Cây rau sam
岞 夷 歳 蒙 蝊 浌
六 飛 六 逗 歳 時 調 揚
Con gì cánh mỏng, đuôi dài,
Lúc bay lúc đậu cánh thời đều giương?
Là con gì? Đáp án: Con chuồn chuồn
空 吿 惣 徏 徏
蔑 蹱 壜 歮 從 孕 矝
108
Không ăn mà mổ cuống cuồng
Mệt nhoài đứng chống, ra tuồng dửng dưng
Là cái gì? Đáp áp: Cái chày đạp giã gạo
夛 枯 麻 儎 特 花
杜 特 沒 果 欺 緥 稲 嫩
Cây khô mà nở được hoa
Đậu được một quả, khi già khi non
Là cái gì? Đáp án: Cái cân xách
悩 空 侊
倻 空 埅
摢 空 枯
揕 空 雼
Chặt không đứt
Bứt không lời
Phơi không khô
Chụm không đỏ
Là gì? Đáp án: Nước
爑 燺 劵 吏 侼 批
悩 分 夛 燶 勏 橋 沒 焈
Tám xóm nhóm lại hai phe,
Chặt phần cây tre, bắc cầu một cột
Là cái gì? Đáp án: Đôi quang và chiếc đòn gánh
夝 边 成 險 壘 高
固 沒 尚 禿 媣 侟 媣 歮
Bốn bên thành hiểm lũy cao,
Có một thằng trọc nhảy vào nhảy ra
Là cái gì? Đáp án: Cái thùng và cái gáo múc nước
侼 英 拱 種 拱 亊
英 惕 憹 諑 英 隊 拱 暭
逾 霜 蕌 顮 默 俼
自 初 本 伴 空 禣 茹 農
Hai anh cùng giống cùng nòi
Anh thích ngồi trốc, anh đòi cõng chơi
Gió sương, mưa nắng mặc trời
Từ xưa vốn bạn không rời nhà nông
Là cái gì? Đáp án: Cái nón và cái tơi
109
倈 堏 岃 悪 橋 喃
堏 岃 畱 卒 輪 尓 伶 瑨
堏 岃 苉 時 少 唅 儙
堏 岃 哛 時 少 唅 儛
止 堏 岃 檜 卥 堵 侼 唅
Ba bà đi chợ Cầu Nôm:
Bà đi sau rốt luôn mồn “Nhanh lên!”
Bà đi trước thì thiếu hàm trên
Bà đi giữa thì thiếu hàm dưới
Chỉ bà đi cuối là đủ hai hàm!
Là gì? Đáp án: Người đi bừa, con trâu và cái bừa
侼 罁 蹱 侼 罁 跪
丐 旕 曃 伊 噤 吶 岞 氱
Hai chân đứng, hai chân quỳ
Cái bụng chì ì; cấm nói con cóc
Là con gì? Đáp án: Con ếch
岃 鉩 轊 駆 鉩 轊
埃 寕丐耙
亯湶中 麻 渚董
Đi nhăn răng, về nhăn răng
Ai bảo cái bừa,
Xin thưa đúng mà chưa đúng!
Là cái gì? Đáp án: Cái cào cỏ
冲 媭 卥 搩 冥 蒙
自 然 於 哛 譍 瑨 蔑 亷
羕 刑 娒 倂 娒 筃
空 噲 筃 倂 妒 亷 之 低
Xung quanh là nước mênh mông
Tự nhiên ở giữa nhô lên một hòn
Dạng hình giống núi giống non
Không gọi non, núi, đố hòn gì đây?
Là gì? Đáp án: Hòn đảo
廏 边 廏 搩 沚 歮
荑 眆 拝 敡 曲 歌 樂 疦
噲 槣 噲 衦 嗔 停
妒 閣 伴 岄 娿 噲 夷
Đá bên đá, nước chảy ra
Rì rào róc rách khúc ca nhạc rừng
110
Gọi sông, gọi suối: xin đừng!
Đố các bạn, đố em cưng, gọi gì?
Là gì? Đáp án: Khe nước
爑 巢 觵 喼 侼 隫 壜
昆 姫 咾 憐 丐 頭 空 固
Tám sào chóng cạn, hai nạng chống
Con mắt láo liên, cái đầu không có!
Là con gì? Đáp án: Con cua, con ghẹ
爑 尚 民 運 局 廏 毜
侼 翁 社 墸 隫 玞 訨
Tám thằng dân vần cục đá tảng
Hai ông xã xách nạng chạy theo
Là con gì? Đáp án: Con cua, con ghẹ
怱 濥 卥 怱 濥 台 聮 噵 班 挧 底 怱 濥 歮
怱 濥 固 惣 題 歮 句 鞕 句 便 固 茄 瓦 青
怱 濥 固 幅 萌 萌句 鞕 句 便 固 英 俚 船
Lạ lùng là lạ lùng thay; nằm ngủ ban ngày để lạ lùng ra
Lạ lùng có mỏ đề ra; câu lơn, câu tiện có nhà ngói xanh
Lạ lùng có bức mành mành; câu lơn, câu tiện có anh lái thuyền
Là con gì? Đáp án: Con cua, con ghẹ
盧 盧 麻 蹱 谷 茹
係 哀 佦 旦 時 呱 哭 瑨
Lù lù mà đứng góc nhà
Hễ ai đụng đến thì òa khóc lên
Là cái gì? Đáp án: Cái cối xay lúa
翁 聮 儛 壡 呆 瑨
堏 聮 儙 愢 噓 噓
Ông nằm dưới trỏ ngóc lên
Là cái gì? Đáp án: Cái cối xay lúa
姑 箕 岞 丐 茹 哀
禞 租 哄 岺 魯 碒 鳥 沉
蹱 边 牐 曢 闗 闗
皮 蟍 皮 喝 孾 孾 蕌 嬑
Cô kia con cái nhà ai; mình to, họng nhỏ, lỗ tai đeo trằm
Đứng bên nghe tiếng ầm ầm; vừa múa vừa hát, rầm rầm mưa rơi
Là cái gì? Đáp án: Cái cối xay lúa
111
搩侟槣埖帞奵筃高
挒浌咻丄闧嗃
槣焵搩喼筃高帞殘
Nước vào sông Đáy, lửa cháy non cao
Đêm dài hiu hắt gió xao
Sông sâu nước cạn, non cao lửa tàn
Là cái gì? Đáp án: Cái đèn dầu
仝 僞 搩 黃
岞 氜 聮 卬 娎 巢 麻 轥 佊 呆 頭 瑨
Đồng bạc, nước vàng
Con rắn nằm ngang, lấy sào mà chọc, nó ngóc đầu lên
Là cái gì? Đáp án: Cái đèn dầu
罁 踏 沔 青 地
頭 隊 帽 平 天
禞 時 鍯 袄 瑪 仙
班 挧 堆 倈 堓 簈 聮 貞 叫 俼
Chân đạp miền thanh địa
Đầu đội mũ bình thiên
Mình thì bận áo mã tiên
Ban ngày đôi ba vợ, tối nằm riêng kêu trời
Là cái gì? Đáp án: Con gà trống
儙 頭 隊 厽 倊 頒
儛 時 酦 審 斉 黃 深 吹
神 冷 乑 噲 時 駆
憹 儙 鞽 玉 劍 期 畱 禙
Trên đầu đội sắc vua ban
Dưới thời yếm thắm, dây vàng xum xoe
Thần linh đã gọi thì về
Ngồi trên mân ngọc, gươm kề sau lưng
Là cái gì? Đáp án: Con gà trống
顮 帞 蕌 油 些 空 覧 伴
簈 帞 嘢 嘫 伴 吏 覧 些
Nắng lửa mưa dầu ta không bỏ bạn
Tối lửa tắt đèn bạn lại bỏ ta
Là cây gì? Đáp án: Cái nón
空 沛 槔 麻 用 底 撒
空 沛 瀃 共 底 解 醩
112
空 沛 贚 麻 用 底 鄧
空 沛 帽 共 底 隊 頭
Không phải giàu mà dùng để tát
Không phải quạt cũng để giải nồng
Không phải nong mà dùng để đựng
Không phải mũ cũng để đội đầu
Đáp án: Cái nón
罁 赭 禞 険
頭 隊 花 蓮
瑨 朝 上 帝
Chân đỏ mình đen
Đầu đội hoa sen
Lên chầu Thượng đế
Là cây gì? Đáp án: Cây hương
侼 圡 初 於 侼 筃
悲 炠 合 吏 如 岞 蔑 茹
丗 乄 誟 圡 乄 婣
法 冷 變 化 群 卥 蔑 罁
Hai người xưa ở hai non
Bây giờ họp lại như con một nhà
Kẻ làm xương, người làm da
Phép linh biến hóa còn là một chân
Là cây gì? Đáp án: Cây hương
皮平 圕 嫎 瑨 倈
劚 禙 昆 昆 玞 歮 外 咵
Vừa bằng thằng bé lên ba
Thắt lưng con cón chạy ra ngoài đồng
Là gì? Đáp án: Bó mạ
酦 娘 緓 袄 娘 崘
娘 戓 埃 娘 罉 的
Yếm nàng nịt, áo nàng gài
Nàng yêu ai, nàng quẹo đít?
Là con gì? Đáp án: Con ốc
固 夛 麻 拯 固 梗
固 侼 翁 懼 習 爭 侼 边
Có cây mà chẳng có cành
Có hai ông cụ dập dềnh hai bên
Là cây gì? Đáp án: Cây ngô
113
禞浌 蔑 懎 婣 擜 如 幈
隊 帽 紅 花 罁 岃 固 蔑
Mình dài một tấc, da trắng như ngà
Đội mũ hồng hoa, chân đi có một
Là cây gì? Đáp án: Cây giá đỗ đỏ
侼 姑 歮 浸 沒 匇
箿 袄 浸 陳 底 露 牟 庒
沒 姑 庒 擜 如 牙
沒 姑 吏 固 牟 庒 赭 紅
哛 杆 顮 夏 搝 膿
裙 嬑 卐 儛 露 朦 沞 時
拱 卥 侼 伴 女 兒
故 牢 吏 獕 嶳 荑 説 鈛
Hai cô ra tắm một dòng
Cởi áo tắm trần để lộ màu da
Một cô da trắng như ngà
Một cô lại có màu da đỏ hồng
Giữa cơn nắng hạ oi nồng
Quần rơi trễ xuống, lộ mông dậy thì
Cùng là hai bạn nữ nhi
Cớ sao lại thấy rậm rì râu ria?
Là hoa gì? Đáp án: Hoa sen và hoa súng
岞 橮 槚 濁 聮 哛 坦 漽
沒 唐 誟 耓 浌 侼 屶 誟 緿 桖
Con trâu chết rục, nằm giữa đất đai
Một đường xương sống dài, hai đống xương sườn nát
Là cái gì? Đáp án: Tàu dừa mục
身 形 匙 槚 乑 憻
麻 侼 昆 姫 部 説 駭 群
Thân hình thì chết đã lâu
Mà hai con mắt, bộ râu hãy còn
Là gì? Đáp án: Gốc tre khô
姫 夷 隔 鉜 侼 嵈 冘 歮 呈 廊 庄 別 傳 之
生 歮 丐 種 異 奇 斏 聮 唐 苉 旕 匙 悏 畱
Mắt gì cách gối hai gang, đem ra trình làng, chẳng biết chuyện chi
Sinh ra cái giống dị kì, lưng nằm đằng trước, bụng thì phía sau?
Là gì? Đáp án: Cẳng và mắt cá chân
114
114
岞 之 打 胜 翁 倊 打 輸 柴 寺
Con chi đánh thắng ông vua, đánh thua thầy chùa?
Là con gì? Đáp án: Con chấy
岞 打 母 母 栐 廊
牱 欺 廊 歮 岞 鏆 旕 母
Con đánh mẹ, mẹ van làng
Đến khi làng ra, con chui bụng mẹ!
Là cái gì? Đáp án: Cái dùi và cái mõ
忬 袄 青 隊 贠 青
岃 媭 沒 敭
忬 袄 擜 隊 贠 擜
Mặc áo xanh, đội nón xanh
Đi quanh một vòng
Mặc áo trắng, đội nón trắng
Là quả gì? Đáp án: Quả cau khi róc vỏ
115
PHỤ LỤC 4. NHỮNG BỘ ÐẦU HỒ XƯA
Ở Huế hiện còn lưu giữ ít nhất năm bộ đầu hồ cổ. Trong đó, bốn bộ là cổ
vật thuộc Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế; bộ còn lại là trân bảo của Ngọc Sơn
công chúa từ đường (công chúa con vua Ðồng Khánh).
Ðáng chú ý là sưu tập các bộ đầu hồ ở Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế,
bởi chúng rất đa dạng về chất liệu và hình dáng.
1. Bộ đầu hồ bằng đồng, tráng men pháp lam:
Ðây là một trong những bộ đầu hồ đã được R. Orband giới thiệu trong bài
viết in trên BAVH năm 1917. Bộ đầu hồ này trước đây được trưng bày trong điện
Hòa Khiêm (lăng Tự Ðức), nay đang được trưng bày ở Bảo tàng Cổ vật Cung
đình Huế.
Ảnh PL1: Bộ xăm hường bằng đồng tráng men pháp lam
Bộ đầu hồ này làm bằng đồng thau, gồm chiếc bình có eo, gắn với phần
đế qua các chi tiết trang trí làm bằng pháp lam. Chiều cao của bộ đầu hồ là 61cm,
riêng chiếc bình cao 40cm.
Chiếc bình tạo dáng như hình chiếc bầu đựng rượu. Miệng bình rộng
5cm, phía trên có gắn cái họng bằng ngọc thạch màu trắng cao 3cm. Vành ngoài
miệng bình là những dãi trang trí theo dạng hồi văn được gắn thêm vào, gồm một
hàng thủy tinh màu khảm vào 19 chiếc khuy đồng bao quanh vành miệng và 6
chiếc lá bằng pháp lam xuôi xuống cổ bình. Thân trên và thân dưới của bình đều
có gắn những sợi chỉ đồng uốn thành hình các bông hoa và đám mây có gắn thủy
116
tinh màu. Bên ngoài eo bình có gắn các chi tiết trang trí bằng pháp lam gồm hai
dãi hồi văn lá cúc và hai hình dơi ngậm tua bằng pháp lam.
Phần đế gồm hai vành đồng nối với nhau bởi bốn chi tiết bằng pháp lam
tạo dáng như những chiếc lá. Vành đế phía trên hình đới cầu, bên ngoài gắn thêm
một dãi khuy đồng nạm thủy tinh màu và các đồ án trang trí mây hóa cúc bằng
pháp lam. Vành đế phía dưới có hình vành khăn, mặt ngoài chia thành các ô hình
chữ nhật bởi các sợi chỉ đồng. Ðế có bốn chân bên dưới, được phủ men pháp lam
màu xanh nhưng đã bị bong men khá nhiều. Theo R. Orband, trong lòng đế có
chiếc trống, một vật không thể thiếu trong trò chơi đầu hồ. Chiếc trống nay đã mất.
Nhiều chi tiết trang trí bằng pháp lam trên thân hồ cũng đã bong men hoặc rơi mất
các hạt thủy tinh màu.
Ngoài bộ đầu hồ này, trong bài viết nói trên, R. Orband có giới thiệu một
bộ đầu hồ khác kèm theo hình vẽ, cũng làm bằng đồng thau, quanh thân có nạm
nhiều ngọc thạch và thủy tinh màu, theo các kiểu thức trang trí Arabian. Bộ đầu hồ
này không rõ nay lưu lạc phương nào.
2. Bộ đầu hồ bằng gỗ, cẩn xà cừ:
Ðây là bộ đầu hồ tiêu biểu nhất trong số những bộ đầu hồ còn lại ở Huế,
hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế.
Ảnh PL2: Bộ đầu hồ bằng gỗ cẩn xà cừ Ảnh PL3: Bộ xăm hường bằng gỗ
117
Ðầu hồ làm bằng gỗ, gồm nhiều bộ phận ghép lại. Phần chính là chiếc
bình dáng nậm rượu hai bầu, có eo ở giữa, cao 56cm. Cổ bình hình trụ, miệng loe.
Bầu trên và bầu dưới của chiếc bình là hai phần riêng biệt, liên kết với
nhau qua một khớp nối ở eo bình. Bên ngoài thành bình khảm xà cừ các đồ án
rồng, mây (phần trên) và bát tiên (phần dưới). Trên cổ chiếc bình chính có gắn hai
chiếc bình nhỏ, cao 14cm, hình dáng tương tự bình chính. Ðược biết hai chiếc
bình này được gắn vào để cho dành cho những tay chơi thượng thặng, có thể
ném thẻ lọt vào miệng các chiếc bình nhỏ này.
Phần đế phía dưới cao 24,5cm, được tạo dáng như những chiếc đôn vẫn
dùng để bày các chậu hoa cảnh trong các cung điện ở Huế. Mặt đế hình chiếc
đĩa, phía ngoài khảm dãi văn hoa thị bằng xà cừ. Ðế có bốn chân, kiểu chân quỳ,
gắn với một vành gỗ bên dưới. Mặt ngoài vai đế khảm xà cừ hình long, lân, quy,
phụng và bốn vật trong bộ bát bửu gồm: tù và, quạt ba tiêu, đàn tỳ bà và cuốn thư.
Bộ đầu hồ này được đặt trên một chân đế thứ hai, làm bằng loại gỗ khác
với bộ đầu hồ và không có các trang trí khảm xà cừ. Bên trong chân đế này có đặt
là chiếc trống bịt da một mặt.
Những nét chạm khảm trên bộ đầu hồ này rất tinh tế và trau chuốt, khiến
chiếc bình trở nên một tác phẩm nghệ thuật thực sự, xứng đáng là một trong
những cổ vật có giá trị trong Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế. Tuy nhiên, tình
trạng hiện tại của chiếc bình không còn hoàn hảo. Một số chi tiết đã gãy, vỡ do lần
đưa đi trưng bày tại Hà Nội cách nay hơn 20 năm.
3. Bộ đầu hồ bằng gỗ, không chạm trổ:
Lai lịch chiếc bộ đầu hồ này khá thú vị. Năm 1988, tại khách sạn Drouot,
Paris có cuộc bán đấu giá các cổ vật từ châu Á, trong đó có 282 cổ vật Việt Nam,
thuộc sưu tập của ông Cổ Trung Ngươn, một nhà sưu tập cổ vật ở Sài Gòn trước
đây. Nhận thấy đây là những cổ vật có xuất xứ từ triều đình Huế, Cựu hoàng Bảo
Ðại đã khởi kiện lên Tòa thượng thẩm Pháp để đòi lại cho Huế. Ðại sứ quán Việt
Nam tại Pháp cũng vào cuộc, ủng hộ Cựu hoàng Bảo Ðại, nhưng do luật lệ về cổ
vật ở mỗi nơi mỗi khác nên vụ tranh tụng không đi đến đâu. Tuy nhiên, chủ nhân
số cổ vật kia đã tặng lại cho Huế hai món. Ðó là chiếc bàn trà có khung bằng gỗ
sơn son thếp vàng nhưng mặt bàn làm bằng sứ trắng vẽ lam và bộ đầu hồ bằng
gỗ kiền kiền. Hai cổ vật này đã được chuyển trả lại cho Huế sau bao năm tháng
lưu lạc chốn trời Tây và hiện đang được trưng bày tại Đại Nội Huế.
Bộ đầu hồ có hình dáng giống bộ đầu hồ bằng gỗ cẩn xà cừ, nhưng có đôi
điểm khác biệt: miệng bình không loe, cổ bình ngắn hơn và không có hai chiếc
bình nhỏ gắn trên cổ bình lớn, cũng như không có các chi tiết trang trí bằng xà cừ.
Phần chính cũng là chiếc bình dáng nậm rượu cao 36cm, gồm 2 phần tách biệt,
kết nối với nhau ở eo bình. Phần đế bên dưới gồm hai phần, gắn với nhau thông
qua một khớp nối. Phần trên tựa chiếc đôn có bốn chân, phần dưới tựa chiếc dĩa
cao chân, bên trong có chứa một chiếc trống nhỏ. Tổng chiều cao phần đế là
25,5cm. Ngoài ra còn có một bộ gồm 6 mũi tên gỗ, dài 80cm. Tình trạng bộ đầu
hồ này khá tốt, chỉ có một đường nứt dọc thân dài khoảng 20cm, có lẽ do sự co
rút của gỗ, nhưng đã được làm kín bằng keo và bột gỗ.
4. Ðầu hồ bằng sứ:
Chiếc đầu hồ thứ tư làm bằng sứ, hiện trưng bày tại Đại Nội Huế. Ðó là
một cổ vật thuộc nhóm đồ sứ do triều Nguyễn ký kiểu tại Trung Hoa. Bộ đầu hồ
này chỉ có một chiếc bình không đáy, không có chân đế như những bộ đầu hồ
khác. Bình cũng có hình dáng nậm rượu hai bầu, cao 38cm. Miệng bình hơi loe,
118
lòng bình là một hình trụ rỗng thông từ miệng xuống đáy. Thành ngoài bình trang
trí đồ án lưỡng long hí thủy (hai rồng giỡn nước) bằng màu xanh cobalt dưới lớp
men phủ.
Ảnh PL4: Bộ xăm hường bằng sứ ký kiểu
Dưới đáy chiếc bình này có một khoanh tròn, đường kính khoảng 20cm,
không được tráng men, và có những đường gờ nhỏ. Dấu hiệu này cho biết chiếc
bình còn có thêm một bộ phận khác ở phía dưới, có thể là một cái đế, bên trong
gắn chiếc trống nhỏ, tương tự như những bộ đầu hồ khác ở Huế. Khảo sát xương
đất, chất men và màu, cũng như kỹ thuật trang trí trên chiếc bình này cho thấy nó
là đồ sứ được sản xuất tại Trung Hoa, nhưng motive trang trí trên thành bình lại
theo phong cách Huế, thể hiện ở các chi tiết như: đầu rồng, vây lưng rồng, đuôi
rồng, cách xếp vảy rồng, các đám mây và văn thủy ba. Ðiều này chứng tỏ đây là
một món đồ sứ ký kiểu và là đồ ngự dụng bởi con rồng được vẽ với 5 móng, một
dấu hiệu chỉ có trên đồ ngự dụng. Tình trạng chiếc bình này còn rất tốt.
5. Ðầu hồ bằng gỗ ở Ngọc Sơn công chúa từ đường:
Bộ đầu hồ này có từ thời Ðồng Khánh, nay là bảo vật của Ngọc Sơn công
chúa từ đường (ở số 29, Nguyễn Chí Thanh, Huế). Bộ đầu hồ làm bằng gỗ mun,
cao 60,7cm, riêng chiếc bình cao 40,7cm. Hình dáng bộ đầu hồ này tương tự bộ
đầu hồ bằng gỗ đang trưng bày ở Đại Nội Huế. Gia chủ vẫn còn giữ được 7 mũi
tên bằng gỗ, dài khoảng 78 - 80cm. Trong trận lụt năm 1999, mặt chiếc trống bị
thủng, sau đó đã được bịt lại như cũ. Tình trạng bộ đầu hồ này vẫn còn hoàn hảo.
Trò chơi đầu hồ đã thất truyền ở Huế khá lâu. Tuy nhiên, trong các
chương trình Đêm Hoàng Cung do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế tổ chức
tại Đại Nội Huế trong hai năm 2006 - 2007, trò chơi đầu hồ lại được tái sinh. Trung
tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã phục chế hai chiếc đầu hồ theo đúng nguyên
mẫu chiếc đầu hồ bằng sứ ký kiểu hiện đang trưng bày tại Đại Nội Huế và tổ chức
tái hiện trò chơi đầu hồ để du khách có dịp thử tài với trò chơi khéo léo và công
phu này.
119
PHỤ LỤC 5a. HAI BỘ XĂM HƯỜNG XƯA
Do sự hấp dẫn và tính tao nhã của trò đổ xăm hường nên người Huế rất
chuộng trò chơi này. Không kể các bộ xăm hường mới làm sau này, nhiều nơi ở
Huế còn lưu giữ được những bộ xăm hường cả trăm năm tuổi. Phụ lục này xin
giới thiệu hai trong số những bộ xăm hường quý hiếm ấy.
1. Bộ xăm hường của vua Tự Đức:
Có lẽ đây là bộ xăm hường xưa và độc đáo nhất còn sót lại ở Huế. Các thẻ
xăm được làm bằng ngà voi, còn chiếc hộp đựng thẻ được làm bằng gỗ mun với
các chi tiết trang trí được khảm bằng xà cừ và ngà voi.
Bộ xăm hường này hiện chỉ còn 56 thẻ (mất 7 thẻ), gồm: 30 thẻ Tú tài
(thiếu 2 thẻ); 12 thẻ Cử nhân (thiếu 4 thẻ); 7 thẻ Tiến sĩ (thiếu 1 thẻ); 4 thẻ Hội
nguyên; 1 thẻ Thám ba; 1 thẻ Bảng nhãn và 1 thẻ Trạng nguyên, trong đó 42 thẻ
còn tốt; 10 thẻ bị mòn vẹt và cong vênh do sử dụng lâu ngày và 4 thẻ bị khuyết
một phần do ngà voi bị mục nát.
Ảnh PL5: Bộ xăm hường bằng ngà của vua Tự Đức
Hình dáng các thẻ đều giống nhau: mỗi thẻ là một phiến ngà dày khoảng
0,15cm đến 0,25cm; phần dưới hình chữ nhật, phần đầu tạo hình bầu rượu 2 eo.
Tuy nhiên, kích thước, văn tự và màu sắc của các văn tự khắc trên mỗi loại thẻ thì
khác nhau:
+ Thẻ Tú tài dài 18,7cm, rộng 1,9cm; mặt trước khắc các chữ: 秀 才
(Tú tài) và 一 注 (nhất chú: 1 điểm); mặt sau khắc các chữ: 一 紅 得 (nhất
hường đắc: có nhất hường thì đoạt thẻ này). Các chữ khắc trên thẻ Tú tài
đều tô màu xanh dương.
120
+ Thẻ Cử nhân dài 19,7cm, rộng 2,2cm; mặt trước khắc các chữ: 舉
人 (Cử nhân) và 二 注 (nhị chú: 2 điểm); mặt sau khắc các chữ:
二 紅 得 (nhị hường đắc: có nhị hường thì đoạt thẻ này). Các chữ khắc trên
thẻ Cử nhân đều tô màu đỏ.
Ảnh PL6a: Chữ Hán khắc trên mặt trước bộ xăm hường của vua Tự Đức
Ảnh PL6b: Chữ Hán khắc trên mặt sau bộ xăm hường của vua Tự Đức
121
+ Thẻ Tiến sĩ dài 21,9cm, rộng 2,5cm; mặt trước khắc các chữ: 進 士
(Tiến sĩ) bằng mực xanh và 四 注 (tứ chú: 4 điểm) bằng mực đỏ; mặt sau
khắc các chữ: 四 序 得 (tứ tự đắc: có tứ tự thì đoạt thẻ này). Chữ 四 và
chữ 得 tô màu đỏ; chữ 序 tô màu xanh.
+ Thẻ Hội nguyên dài 22,2cm, rộng 2,5cm; mặt trước khắc các chữ:
會 元 (Hội nguyên) bằng mực đỏ và 八 注 (bát chú: 8 điểm) bằng mực
xanh; mặt sau khắc các chữ: 三 紅 得 (tam hường đắc: có tam hường thì
đoạt thẻ này) và 四 序 合 巧 得 (tứ tự hợp xảo đắc: có tứ tự cáp thì đoạt
thẻ này). Các chữ 三, 得 và 合, 得 tô màu xanh; các chữ 紅, 四 序 và 巧 tô
màu đỏ.
+ Thẻ Thám ba dài 24cm, rộng 2,8cm; mặt trước khắc các chữ: 探 葩
(Thám ba) và 十 六 注 (thập lục chú: 16 điểm); mặt sau, ở phía trên khắc
các chữ: 上 馬 得 下 馬 得 (thượng mã đắc, hạ mã đắc: có thượng mã
hay hạ mã thì đoạt thẻ này), phía dưới khắc các chữ: 分 雙 得 六 順 得
(phân song đắc, lục thuận đắc: có phân song hay có lục thuận thì đoạt thẻ
này). Các chữ Hán khắc trên cả hai mặt được tô bằng mực xanh và mực đỏ
xen kẻ nhau.
+ Thẻ Bảng nhãn dài 24cm, rộng 2,8cm; mặt trước khắc các chữ: 榜
眼 (Bảng nhãn) và 十 六 注 (thập lục chú: 16 điểm); mặt
sau, ở phía trên khắc các chữ: 上 馬 得 下 馬 得 (thượng mã đắc, hạ mã
đắc: có thượng mã hay hạ mã thì đoạt thẻ này), phía dưới khắc các chữ: 分
雙 得 六 順 得 (phân song đắc, lục thuận đắc: có phân song hay có lục
thuận thì đoạt thẻ này). Các chữ Hán khắc trên cả hai mặt được tô bằng
mựưc xanh và mực đỏ xen kẻ nhau.
+ Thẻ Trạng nguyên dài 26 cm, rộng 3,2 cm; mặt trước khắc các chữ:
狀 元 (Trạng nguyên) bằng mực đỏ và 三 十 二 注 (tam thập nhị
chú: 32 điểm) bằng mực xanh đỏ xen kẻ nhau; mặt sau khắc 26 chữ Hán,
phân làm 2 dòng, mỗi dòng 13 chữ: 四 紅得五 子 一 色 奪 四 紅 合 巧
奪 五 紅 奪三 魁 六 合 奪 盡籌 六 紅 收 全 局 (tứ hường đắc, ngũ tử
nhất sắc đoạt, tứ hường hợp xảo đoạt, ngũ hường đoạt tam khôi, lục hợp
đoạt tận trù, lục hường thu toàn cuộc: có tứ hường, ngũ tử, tứ hường cáp thì
đoạt thẻ này; có ngũ hường thì đoạt tam khôi (gồm cả thẻ này), có lục hợp
đoạt hết thẻ, có lục hường đoạt toàn bộ thẻ và thắng cuộc). Các chữ Hán
khắc trên mặt sau được tô bằng hai màu mực xanh đỏ xen kẻ nhau.
So với những bộ xăm hường khác hiện còn ở Huế, bộ xăm hường ở lăng
Tự Đức có nhiều điểm khác biệt thật độc đáo và thú vị:
+ Thứ nhất, các chữ Hán khắc trên những thẻ xăm, ngoài việc định
danh (Tú tài, Cử nhân, Trạng nguyên...) và định giá (nhất chú, nhị chú, tam
thập nhị chú...), còn cho biết cách thức đoạt từng loại thẻ như: nhất hường
đắc, tứ tự đắc, thượng mã đắc, hạ mã đắc..., đặc biệt, chiếc thẻ Trạng
nguyên đã liệt kê đến 6 trường hợp để đoạt được thẻ này.
122
+ Thứ hai, các chữ Hán khắc trên từng loại thẻ có màu sắc khác
nhau: có thẻ dùng toàn màu xanh như thẻ Tú tài; có thẻ dùng toàn màu đỏ
như thẻ Cử nhân; có thẻ dùng xen kẻ hai màu xanh đỏ nhưng trật tự dùng
màu trên mỗi loại thẻ không giống nhau, ví dụ thẻ Thám ba có chữ đầu tiên
tô màu xanh, nhưng thẻ Bảng nhãn thì chữ đầu tiên tô màu đỏ, trong khi thẻ
Trạng nguyên thì cả hai chữ đều tô màu đỏ.
+ Đặc biệt, thay vì dùng chữ 探 花 (Thám hoa) như những bộ xăm
hường khác, thì bộ xăm hường của vua Tự Đức khắc chữ 探 葩 (Thám
ba). Nguyên nhân việc này là do kỵ húy Tá Thiên Nhân Hoàng Hậu Hồ Thị
Hoa, vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị và là bà nội của vua Tự Đức,
nên mới đổi 花 thành 葩, trong khi các bộ xăm hường khác, kể cả bộ xăm
hường ở từ đường của công chúa Ngọc Sơn, con vua Đồng Khánh (sẽ đề
cập dưới đây), đều khắc hai chữ 探 花. Điều này cho thấy việc kỵ húy dưới
thời Tự Đức rất nghiêm nhặt và chứng tỏ đây là món xăm hường dành cho
vua và hoàng gia giải trí.
Ngoài ra, chiếc hộp đựng xăm cũng chứa đựng nhiều điều thú vị. Lòng
chiếc hộp chia làm 5 ngăn, để chứa 5 nhóm thẻ khác nhau: Tú tài, Cử nhân, Tiến
sĩ, Hội nguyên và Tam khôi (gồm 3 thẻ: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa).
Đặc biệt, trong lòng chiếc hộp lớn còn chứa một chiếc hộc nhỏ, nằm ở bên trái,
sát đáy chiếc hộp. Chiếc hộc này dùng đựng các hột súc sắc, có thể đẩy vào, mở
ra dễ dàng và được bố trí rất kín đáo và hài hòa với hình dáng của chiếc hộp
đựng thẻ xăm.
Có thể nói rằng bộ xăm hường này của là một vương bảo của triều Tự
Đức, một vưu vật còn lưu lại trên đất cố đô.
2. Bộ xăm hường ở Ngọc Sơn công chúa từ đường:
Công chúa Ngọc Sơn là con gái vua Đồng Khánh (1885 - 1889), chồng là
Nguyễn Hữu Tiễn, đại thần của triều Khải Định (1916 -1925). Tại phủ thờ của bà
(hiện ở số 29, đường Nguyễn Chí Thanh, Huế) còn lưu giữ một bộ xăm hường
bằng ngà voi, là di vật của phò mã Nguyễn Hữu Tiễn để lại. Bộ xăm hường này đã
bị mất 4 thẻ, gia chủ đã cho làm lại 4 thẻ khác bằng xương thú để thay thế cho
những thẻ đã mất.
123
Ảnh PL7: Bộ xăm hường của Ngọc Sơn công chúa từ đường
Những chiếc thẻ giống nhau về hình dáng nhưng khác nhau về kích thước.
Thẻ xăm tạo dáng như chiếc biển hiệu dùng trong đội nghi trượng phò vua, với
phần thân hình bầu dục, hai đầu tạo hình chiếc khánh, tiếp theo là phần cán chuốt
tròn, thon dần về cuối. Tất cả Hán tự trên thẻ đều được khắc chìm và tô màu đỏ.
Cụ thể như sau:
+ Thẻ Tú tài: mặt trước khắc 2 chữ: 秀 才 (Tú tài); mặt sau khắc 2
chữ: 一 分 (nhất phân: 1 phần).
+ Thẻ Cử nhân: mặt trước khắc 2 chữ: 舉 人 (Cử nhân); mặt sau
khắc 2 chữ: 二 分 (nhị phân: 2 phần).
+ Thẻ Tiến sĩ: mặt trước khắc 2 chữ: 進 士 (Tiến sĩ); mặt sau khắc 2
chữ 四 分 (tứ phân: 4 phần).
+ Thẻ Hội nguyên: mặt trước khắc 2 chữ: 會 元 (Hội nguyên); mặt
sau khắc 2 chữ 八 分 (bát phân: 8 phần).
+ Thẻ Thám hoa: mặt trước khắc 2 chữ: 探 花 (Thám hoa); mặt sau
khắc 3 chữ 十 六 分 (thập lục phân: 16 phần).
+ Thẻ Bảng nhãn: mặt trước khắc 2 chữ: 榜 眼 (Bảng nhãn); mặt
sau khắc 3 chữ 十 六 分 (thập lục phân: 16 phần).
+ Thẻ Trạng nguyên: mặt trước khắc 2 chữ: 狀 元 (Trạng nguyên);
mặt sau khắc 4 chữ 三 十 二 分 (tam thập nhị phân: 32 phần).
So với bộ xăm hường của vua Tự Đức, bộ xăm hường này có kích
thước khiêm tốn hơn, chữ Hán khắc trên các chiếc thẻ ít hơn, nghĩa các
chữ Hán thì đơn giản và chỉ tô màu đỏ. Đặc biệt, trong khi giá trị của các thẻ
xăm trong bộ xăm hường ở lăng Tự Đức được tính bằng 注 (chú: nghĩa là
điểm hay tiền), thì giá trị của các thẻ xăm trong bộ xăm hường ở Ngọc Sơn
công chúa từ đường chỉ được tính bằng 分 (phân: nghĩa là phần hay xu).
Phải chăng bộ xăm hường dành cho vua và hoàng gia chơi thì giá trị mỗi
thẻ xăm được định giá cao hơn so với giá trị của các thẻ xăm dành cho các
cuộc chơi của thần dân?
*
* *
Trên đây là hai trong số những bộ xăm hường cổ còn lưu lại trên đất thần
kinh. Đó là những cổ vật của một thời vàng son ở Huế; là những vật chứng sống
động về một trò chơi tao nhã mà người dân xứ cố đô ưa chuộng. Ngày nay, du
khách đến Huế có thể tìm mua các bộ xăm hường trong chợ Đông Ba hay trong
các cửa hàng mỹ nghệ. Thời thế đổi thay, những bộ xăm hường hiện đại thường
được làm bằng xương thú, kích thước, văn tự vẫn như xưa nhưng hình thức trang
trí thì sặc sỡ hơn, màu mè hơn và cái hồn xưa dường như không còn nữa.
124
Trò xưa còn đó, nhưng hồn xưa đã mất. Thế mới thấy càng thêm
trân quý những gì xưa cũ sót lại nơi miền đất Hương Bình, mà hai bộ xăm
hường kia là những minh chứng đầy thú vị.
PHỤ LỤC 5b: BẢNG TÍNH ĐIỂM TRÒ CHƠI XĂM HƯỜNG
Bảng A: BẢNG TÍNH ÐIỂM DỰA TRÊN MẶT TỨ
Tên gọi Mô tả Thẻ đoạt được Ðiểm số
Nhất
hường
Có 1 mặt
tứ
trong 6 mặt
Tú tài 1 điểm
Nhị hường Có 2 mặt
tứ
trong 6 mặt
Cử nhân 2 điểm
Tam
hường
Có 3 mặt
tứ
trong 6 mặt
Hội nguyên
(còn gọi là Hoàng giáp)
8 điểm
Tứ hường Có 4 mặt
tứ
trong 6 mặt
Trạng nguyên
(còn gọi là Trạng anh)
32 điểm(1)
Ngũ hường Có 5 mặt
tứ
trong 6 mặt
Ðoạt Tam khôi, gồm 3
thẻ: Trạng nguyên, Bảng
nhãn, Thám hoa (2 thẻ
Bảng nhãn và Thám hoa
còn gọi là Trạng em)
64 điểm (2)
(32+16+16) = 64
Lục phú
hường
Cả 6 mặt
đều là
mặt tứ
Ðoạt tất cả các thẻ dù các
thẻ này đã có người đoạt
trước rồi nhân gấp đôi
tổng số điểm
384 điểm
[32 + (2x16) +
(4x8) + (8x4) +
(16x2) + (32x1)] x
2 = 384
Bảng B: BẢNG TÍNH ÐIỂM DỰA TRÊN CÁC MẶT NGOÀI MẶT TỨ
Tên gọi Mô tả Thẻ đoạt được Ðiểm số
Tứ tự Có 4 mặt giống nhau
trong 6 mặt
Thẻ Tiến sĩ 4 điểm
Tứ tự
nhất hường
Có 4 mặt giống nhau
và có thêm 1 mặt tứ
Thẻ Tiến sĩ + 1 thẻ
Tú tài
5 điểm
(4+1)
Tứ tự
nhị hường
Có 4 mặt giống nhau
và có thêm 2 mặt tứ
Thẻ Tiến sĩ + 1 thẻ
Cử nhân
(hoặc 2 thẻ Tú tài)
6 điểm
(4+2) hoặc
(4+1+1)
Tứ
tự
hợp
Tứ
tự
cáp
xiên
Có 4 mặt giống nhau;
2 mặt còn lại có tổng
số điểm bằng 1 trong 4
mặt kia(3)
Thẻ Bảng nhãn
hay thẻ Thám hoa
16 điểm
125
xảo
(Tứ
tự
cáp)
Tứ
tự
cáp
chính
Có 4 mặt giống nhau;
2 mặt còn lại giống
nhau và có tổng số
điểm bằng 1 trong 4
mặt kia(4)
Thẻ Bảng nhãn
hay
thẻ Thám hoa
+ 1 thẻ Hội nguyên
24 điểm
Ngũ tử Có 5 mặt giống nhau Thẻ Trạng nguyên 32 điểm(5)
Lục hợp
(Lục phú)
Có 6 mặt giống nhau
Ðoạt toàn bộ
các thẻ
192 điểm
[32 + (2x16) +
(4x8) + (8x4) +
(16x2)
+(32x1)]
Phân song 6 mặt phân đôi, mỗi
bên có 3 mặt như
nhau
Thẻ Bảng nhãn
hoặc thẻ Thám
hoa
16 điểm
Phân song
tam hường
Như phân song,
nhưng 3 mặt còn lại
là 3 mặt tứ
Thẻ Bảng nhãn
hoặc thẻ Thám
hoa,
+ 1 thẻ Hội nguyên
24 điểm
(16 +8)
Thượng
Có 3 cặp:
tứ tứ, ngũ ngũ, lục
lục
Thẻ Bảng nhãn
hoặc thẻ Thám
hoa
16 điểm
Hạ mã Có 3 cặp: nhất nhất,
nhị nhị, tam tam
Thẻ Bảng nhãn
hoặc thẻ Thám
hoa
16 điểm
Lục thuận
(Suốt)
Có cả 6 mặt: nhất,
nhị, tam, tứ, ngũ, lục
Thẻ Bảng nhãn
hoặc thẻ Thám
hoa
16 điểm
Chú thích:
(1) Trường hợp này hơn nhau tùy thuộc 2 mặt còn lại. Nếu cộng 2 mặt còn lại được 4 điểm
gọi là tứ hường hợp xảo (hay tứ hường cáp), do chữ 合 (hợp, còn có âm khác là cáp), là đơn vị đo
trọng lượng, nên trong chữ Nôm, cáp có nghĩa là “vốc, nắm”.
Trong các trường hợp này, xếp hạng cao nhất khi 2 mặt còn lại là 2 mặt nhị, gọi là tứ hường
cáp chính; hạng tiếp theo là trường hợp 2 mặt còn lại gồm 1 mặt tam và 1 mặt nhất, gọi là tứ
hường cáp xiên.
Thứ bậc các hạng còn lại như sau: 4 mặt tứ + 2 mặt lục; 4 mặt tứ + 1 mặt lục + 1 mặt ngũ; 4
mặt tứ + 2 mặt ngũ; 4 mặt tứ + 1 mặt lục + 1 mặt tam; 4 mặt tứ + 1 mặt lục + 1 mặt nhị... (hạ điểm
dần dần). Trừ trường hợp tứ hường hợp xảo là hạng cao nhất, rất khó bị cướp trạng, các trường
hợp tứ hường khác, nếu người đổ được tứ hường sau nhưng có tổng điểm của 2 mặt còn lại lớn
hơn tổng điểm của người đổ được tứ hường trước đó, thì được cướp trạng của người đoạt trước.
Nếu người đổ được tứ hường sau, có tổng điểm 2 mặt còn lại nhỏ hơn tổng điểm của người đổ
được tứ hường trước đó, thì được đoạt các thẻ còn lại giữa cuộc chơi có tổng điểm tương đương
với điểm của thẻ trạng nguyên.
(2) Trường hợp này hơn nhau tùy mặt còn lại. Nếu là mặt nhất, thì gọi là ngũ hường đái ấn
(ngũ hường đội ấn màu đỏ, tức mặt nhất), xếp hạng cao nhất. Thứ bậc các hạng tiếp theo khi mặt
còn lại lần lượt là: lục, ngũ, tam và nhị.
(3) Tứ tự cáp xiên có 3 trường hợp sau: 4 mặt ngũ + 1 mặt tam + 1 mặt nhị (vì tam + nhị =
ngũ); 4 mặt tam + 1 mặt nhị + 1 mặt nhất (vì nhị + nhất = tam); 4 mặt nhất + 1 mặt lục + 1 mặt ngũ
(vì lục + ngũ = thập nhất => nhất).
126
(4) Tứ tự cáp chính có 3 trường hợp sau: 4 mặt lục + 2 mặt tam (vì 2 tam = lục); 4 mặt nhị + 2
mặt nhất (vì 2 nhất = nhị); 4 mặt nhị + 2 mặt lục (vì 2 lục = thập nhị => nhị).
(5) Thứ hạng của các trường hợp ngũ tử lần lượt là: 5 mặt giống nhau + 1 mặt nhất; 5 mặt
giống nhau + 1 mặt tứ; 5 mặt giống nhau + 1 mặt lục; 5 mặt giống nhau + 1 mặt ngũ; 5 mặt giống
nhau + 1 mặt tam và 5 mặt giống nhau + 1 mặt nhị. Trường hợp ngũ tử có 5 mặt giống nhau + 1
mặt nhất được gọi là ngũ tử đái ấn, là hạng cao nhất. Thẻ trạng nguyên đoạt được bởi ngũ tử đái
ấn chỉ bị cướp trạng khi người đổ sau đổ được ngũ hường, lục hợp hay lục phú hường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Văn An, Ô châu cận lục (Bản dịch của Trịnh Khắc Mạnh và Nguyễn Văn
Nguyên), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997.
2. Isabelle Lee, “Touhu: Three Millennia of the Chinese Arrow Vase and the
Game of Pitch-Pot”, Transactions of the Oriental Ceramic Society.
Volume 56. 1991-1992. The Oriental Ceramic Society in Association
with Azimuth Editions London, 1993.
3. Lê Nguyễn Lưu, “Nhân tố và đặc điểm của văn hóa Huế”, Huế đẹp Huế thơ,
Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1998.
4. Ngô Sĩ Liên, Ðại Việt sử ký toàn thư (Bản dịch của Viện Sử học), Q.7, Tập II,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967.
5. Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà vận văn, Á Châu xuất bản cục.
6. Nguyễn Thành Luông - Nguyễn Thị Thanh Bình, Văn hóa dân gian cổ truyền.
Những phong tục lý thú, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
7. Nguyễn Tuân, Vang bóng một thời, Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh,
1996.
8. Nhiều tác giả, Huế đẹp Huế thơ, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1998.
9. R. Orband, “Les Ðâu Hô du tombeau de Tu Ðuc”, BAVH, No. 2, 1917.
Thái Văn Kiểm, Cố đô Huế, Nha văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài
Gòn 1960.
10. Thơ văn Lý Trần, Tập I, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978.
11. Trần Quốc Vượng, “Bàn về hệ sinh thái nhân văn của múa rối nước Việt
Nam”, Văn hóa nghệ thuật, Số 2/2001.

No comments:

Post a Comment