Pages

Monday, April 9, 2012

TỪ CÁNH ĐỒNG MÂY


Buổi nói chuyện củaChương trình Từ Cánh Đồng Mây
vớiLuật sư TRẦN LÂMLuật sư TRẦN THANH HIỆP




SỰ THAY ĐỔI ĐÃ ĐẾN GẦN
Chưa bao giờ như bây giờ, số người quan tâm đến hiện tình đất nướcngày một đông, lan toả đến mọi tầng lớp nhân dân.
Có thể tóm lược: hiện ta có thể chống đỡ được Trung Quốc để khỏi trở thành như Triều Tiên, Miến Điện? Có phải chúng ta đang khủng hoảng nhiều mặt, thể chế hiện hành có thể chấn chỉnh để trụ được hay phải thay đổi triệt để mới mong có sức tồn tại và vươn lên?
Mặc dù trong kỳ Đại hội vừa rồi mọi góp ý đều không được lắng nghe, mọi người vẫn kỳ vọng vào đại hội sắp tới. Thời thế thay đổi, liệu tiếng nói của dân có giá trị gì? Xin hãy chờ xem!

I. Trung Quốc và Việt Nam
a. Nỗi sợ Trung Quốc:
Dù chỉ tiếp cận sơ qua, ai cũng thấy Trung Quốc thật đáng ngưỡng mộ: người đông vô kể, đất rộng như vô tận, thiên nhiên hùng vĩ và kỳ thú, những công trình xây dựng cũ mới thì đều đồ sộ đến mức khó ngờ. Sách nhiều vô kể, nội dung hay đến mức để đời. Qua lịch sử, khi loài người còn mông muội, Trung Quốc đã có nhiều phát minh…
Mấy chục năm nay, như có chiếc đũa thần, Trung Quốc vụt lên giàu có, nhiều ngành khoa học đạt mức thế giới, quân sự bùng phát. Trung Quốc như đang thách thức, như đang tranh giành ngôi đầu bảng thế giới.

Cái sợ hãi hơn là sợ não trạng con người Trung Quốc. Xem trong chuyện cổ, nhiều nghìn năm trước đến giờ, biết bao nhiêu gương mặt gian ngoan, mưu lược. Phụ nữ lại còn ghê gớm hơn, ngay cuối thế kỷ 20 mà Giang Thanh còn mưu mô làm Vua bà nước Tàu…
Các nhà phân tích kết luận: khi nàoTrung Quốc mạnh là Trung Quốc bành trướng. Bây giờ Trung Quốc đang muốn xuống Phương Nam. Cái cửa cần mở là Việt Nam, mà Việt Nam lại là cái gai khó gỡ.

Một nhà ngoại giao kỳ cựu đã chua chát: “Trung Quốc thì gian ngoan, mưu lược, còn chúng ta thì dại dột, cả tin. Các người đi trước và bản thân tôi đã nhiều lần bị họ lừa”. Chúng ta choáng ngợp, rồi tự ti, rồi lo sợ và cuối cùng bị khuất phục. Còn có ai đó bị bẫy sập để trở thành tôi tớ, xét cũng là điều dễ hiểu.

Trong lịch sử, Trung Quốc đã từng thôn tính nhiều đất đai, nhiều dân tộc để có được tầm vóc như ngày nay. Trung Quốc đã đô hộ Việt Nam 4 lần và cũng bị Việt Nam nhiều lần đánh đuổi.
Ngay gần đây, các vị cầm đầu cũng cho Trung Quốc những đòn đau nhớ đời: diệt Pôn Pốt làm tan cái tiền đồn phương Nam của Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình phát điên lên gọi “Việt Nam là bọn côn đồ”, doạ và thực hiện “cho Việt Nam một bài học”. Những người tham dự cuộc chiến tranh biên giới xác nhận là về mặt quân sự Việt Nam ở thế thắng. Rồi Việt Nam đuổi người Hoa. Lẽ dĩ nhiên họ ra đi không thể mang theo nhà cửa, đất đai…

Ta đăng ký thềm lục địa có nghĩa là đòi xác lập chủ quyền ở Biển Đông. Ta mua tàu bay, tàu ngầm, ta quan hệ với các nước để có liên minh quân sự…Ta chờ đón những phản ứng mãnh liệt từ phía Trung Quốc nhưng cuối cùng cũng chỉ có vài pha “tàu lạ”, vài lần Trung Quốc bắt nạt ngư dân thế cô, giữa biển khơi.

Ta sợ vì ta yếu, vì ta không có lực lượng. Lực lượng của ta là lòng dân, sức dân. Ta lại đang đối xử với dân có thể nói là tàn tệ. Chính ta tiêu diệt sức sống của bản thân ta.
“Người ta mạnh vì anh quỳ gối” – có lẽ đúng. Trung Quốc không phải muốn làm gì thì làm. Hãy thức tỉnh, hãy can đảm, hãy chấp nhận mọi giải pháp, dù thế nào miễn là giữ vững được chủ quyền đất nước.

b. Về việc giao tiếp cụ thể với Trung Quốc:
Đây không phải là phân tích, đánh giá, kết luận, chỉ là những việc xảy ra gần đây, được liệt kê để bàn soạn, chiêm nghiệm:
1. Việc bô xít Tây Nguyên: không nghe nói gì đến việc khởi động, làm con đường sắt 300 km có độ chênh 70m, làm cảng, làm kho, làm bể chứa bùn đỏ. Nếu làm, không biết 5 hay 7 năm có xong không? Thế mà hôm nay đã làm nhà máy, cái trước chưa làm, cái sau đã làm.
Liệu người ta có mang những thứ cũ kỹ thải loại sang lắp đặt tại Việt Nam rồi sau đó sản xuất theo lối thô sơ, thành phẩm chuyển về bằng đường giao thông, còn môi trường thì không quan tâm. Thành một việc đã rồi và sẽ có bô xít “thổ phỉ” Tây Nguyên như than “thổ phỉ” Quảng Ninh! 2. 1000 năm Thăng Long Hà Nội và 2010, năm hữu nghị Việt Trung: Nếu ông Đào nói nhỏ với ông Mạnh “chuyện cha ông chúng ta xung đột đã có từ lâu, nay khơi ra làm gì, nó ảnh hưởng đến 16 chữ vàng. Chi bằng làm vừa vừa thôi. Chúng ta tập trung vào làm cái “Năm hữu nghị…” thế mới là thực sự củng cố mối tình của chúng ta. Làm to vào, thiếu tiền Trung Quốc tài trợ. Chả có cách nào để ông Mạnh không chấp hành.

Trong một năm ngắn ngủi, dân Hà Nội vừa nghe tiếng voi gầm ngựa hí, vừa nghe tiếng lanh canh chạm cốc.
Biết đâu đấy, đây còn là cái “cân tiểu ly” của ông Đào để xem câu đồn đại: “Người Trung Quốc ghét người Mỹ và người Nhật nhưng ghét nhất là người Việt Nam. Còn Việt Nam ghét nhất người Trung Quốc” đúng sai đến mức nào? 3. Mở rộng Hà Nội: Nhiều người nói, không biết gì, kể cả ông chủ tịch Hội quy hoạch có người nói không có căn cứ. Có người bạo miệng: Việt Nam bị người xúi dại.
Các lãnh tụ Cộng sản đều ít nhiều mắc bệnh cuồng vĩ: Liên Xô biến sa mạc thành vườn nho, táo; Việt Nam có đường dây 500 KV, có đường Hồ Chí Minh… và cái gì cũng thấy “nhất” Đông Nam Á. Ta không có đủ tiền, không có kỹ thuật; lúc ấy Trung Quốc xui làm gấp, cho vay tiền, chẳng lẽ mình từ chối! Thế rồi người Trung Quốc đưa phong cách Trung Hoa vào, rồi người ta vận dụng câu nói của Tôn Văn: “Ở đâu có dấu ấn văn hoá Trung Hoa là đất đai của Trung Quốc”. Ta mất hay còn?

Không hiểu sao Myanma cũng thân Trung Quốc thì thủ đô lại đi vào xóm núi. Việt Nam cũng thân Trung Quốc thì thủ đô lại mở rộng gấp 4 lần. Hay là người ta muốn Việt Nam thiếu hụt bối rối và hỗn loạn? 4. “Hãy gác tranh chấp, hãy cùng nhau hợp tác khai thác”: Khẩu hiệu thật hay. Tôi tin là Trung Quốc đã đọc truyện Trạng Quỳnh, sẽ áp dụng mưu Trạng Quỳnh đối với bà Chúa Liễu trong chuyện bà Chúa có ruộng, Trạng Quỳnh có công trồng tỉa…Ta lấy lực đâu mà cùng khai thác? Cử ai đến cùng quản lý thì chắc một tuần là họ sẽ trở thành người Trung Quốc.

Nghĩ đến con đường huyết mạch Biển Đông với tài nguyên phong phú cũng thấy lo, cũng thấy Trung Quốc quyết liệt là dễ hiểu. 5. Việc đặt quan hệ đối tác giữa các tỉnh của hai bên biên giới: Thật là tốt đẹp! Ta rất cần việc này vì ta còn sản xuất nhỏ lẻ, việc quan hệ giữa hai tỉnh sẽ giản dị hoá quan hệ giữa hai quốc gia. Có tỉnh họ còn mạnh không kém gì nước ta. Liệu Trung Quốc có âm mưu chia cắt, thâm nhập rồi thôn tính từng phần? Các tỉnh của chúng ta có sức mấy mà chống đỡ được! 6. Người ta quan tâm đến Đại hội sắp tới sôi nổi hơn nhiều so với Đại hội đã qua. Quan tâm đến nhân sự đại hội xem có ai thân Tàu, ai là người của Tàu… coi đó là cái thước đo đất nước còn mất đến đâu. c. Biết mình biết người:

Người xưa có câu: “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”. Người đời nay căn dặn: “Có những người sau khi gặp họ, bắt tay rồi phải xem lại tay ta có thiếu ngón nào không?”.
Việt Nam hiện nay làm việc gì cũng phải nghĩ đến Trung Quốc. Đó là một chỉ dẫn quan trọng. Đó là “biết người”. Có lẽ, mọi người Việt Nam cần đào sâu suy nghĩ: “Mình đứng cương vị gì, mình bảo vệ đất nước ra sao trước Trung Quốc?”. Còn nếu chấp nhận “nghèo thì hèn, mạnh thì được, yếu thì thua”, và hơn thế nữa “Cứu nhà hơn cứu nước! Cứu thân mình hơn cứu Chúa!”, thì coi như mất nước. Đó là “biết mình”. III. Hãy nhìn lại mình Ta luôn nói ta có nhiều thành tích. Nhưng nhiều năm qua ta vẫn bị xếp vào danh sách các nước nghèo nhất. Ta nên bình tĩnh xem lại chính mình. “Không nghe anh nói, hãy nhìn anh làm”.

Ta hãy có cái nhìn khái quát hiện tình trên một vài mặt: a. Tam nông:
Trong tam nông có quá nhiều bê bối, người ta cho rằng do ta giữ quá lâu đạo luật: “đất đai là của toàn dân, do nhà nước quản lý”.
Đất đai sản xuất không có sở hữu rõ ràng, không mua, không bán được, không gom góp để đủ sản xuất lớn được, buộc phải sản xuất manh mún, kỹ thuật thô sơ, năng suất thấp, không chống được thiên tai nên vẫn đói và chán nản. Lại cộng thêm sinh đẻ không kế hoạch, giáo dục quá kém, không có tay nghề, nhân mãn và thất nghiệp tràn lan. Di cư tự do, không có việc làm, tệ nạn xã hội và phạm pháp phát sinh không ngăn nổi.

Nhiều nơi đã tự phát phá vỡ thế bí này. Phong trào “dồn điền đổi thửa” đã bước đầu đưa sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn hơn, tập trung hoá. Nhiều người nông dân góp tiền mua chung máy móc nông nghiệp. Có huyện tổ chức cho các nhóm nông dân vay tiền để mua ô tô, để đưa sản phẩm ra thành phố bán. Đã hé lộ những “ông Kim Ngọc đời mới”. Họ sẽ vứt bỏ đạo luật nói trên, rồi họ tạo ra nền sản xuất mới.

Nhiều người băn khoăn: công nghiệp hoá nông nghiệp bao nhiêu nước đã làm, có gì bí ẩn đâu sao ta không làm?
Có người tạm bằng lòng với lời giải thích: Trung Quốc chưa làm thì ta chưa làm; nông dân đông lắm, nguồn gốc của mọi biến động mà lịch sử đã ghi, phải giữ con chủ bài ruộng đất, như cái “mũ kim cô” mới mong an toàn trước họ… Nông dân làm chủ ruộng đất, những người có kỹ thuật, có vốn sẽ áp sát, đẻ ra một liên minh mới, thế thì lãnh đạo sao được?

Tình trạng này chính là nguyên nhân trực tiếp làm xuất hiện đội quân dân oan mất đất mất nhà ngày càng đông đảo trên phạm vi cả nước. Nguy cơ đảng mất nông dân đã là nhãn tiền.
Một hệ quả không ngờ ập tới: đất đai do nhà nước quản lý, thế là các cấp chính quyền thao túng. Đầu tư nước ngoài, đô thị hoá buộc phải có đất để phát triển. Thế là đẻ ra: thu hồi, định giá, đền bù, giải toả… Tiền nong như nước, tham nhũng trước nhỏ, sau to đến nay như bệnh không chữa nổi. Cái dây trói nông dân trở thành cái dây thít cổ các quan tham, làm điêu đứng Đảng và Nhà nước.
Hãy trả ruộng đất cho nông dân, mở đầu việc công nghiệp hoá nông nghiệp. b. Không phát huy vai trò cá nhân, không dùng người tài, hội họp quá nhiều:

Tôi thuộc gia đình viên chức chế độ cũ, tôi lại có điều kiện tiếp xúc với bộ máy nhà nước vào các năm 1945, 1954, 1975 thế kỷ trước. Tất cả họ, ngành nào, cấp nào đều thành thạo nghiệp vụ, hiểu hết chức trách, cấp nào có bằng cấp học vị cấp ấy. Họ cũng có các thiếu sót như ta hiện nay nhưng dứt khoát là không có tình trạng: không làm được việc.

Tôi thấy qua các bước thăng trầm của đất nước: giành được độc lập, chiến tranh và xây dựng đất nước…bao giờ cũng gắn thành công hay thất bại vào một số người hay một người đứng đầu. Hiện nay ta mờ mịt: không biết việc này từ đâu đến, vì sao phải làm, luôn luôn ứng phó, luôn phải sửa sai và cũng không thiếu giấu giếm, đổ thừa.

Tôi tại thấy ở các nước, các nhà khoa học, các nhà bác học, các chuyên gia họ tập hợp theo ngành vào các tổ chức phi chính phủ. Họ theo dõi tình hình, họ tranh luận, họ đưa ra các kiến nghị, các biện pháp… Có tổ chức được nhà nước tài trợ. Ngoài ra các Viện hàn lâm, các viên nghiên cứu của các trường đại học cũng tham gia vào việc phản biện và đề xuất.

Không phải ta thiếu người để xây dựng ra bộ phận này nhưng chính là ta không biết làm, không chịu làm. Bộ phận lãnh đạo chính trị thì phe cánh, tranh chấp, không có người tài. Bộ phận khoa học kỹ thuật thì bị chèn ép. Người giỏi bị loại ra ngoài vòng, còn bị cấm đoán nên giữ miệng, kín tiếng. Còn bộ máy nhà nước thì nhiều bất cập, nhiều xấu xa, ai cũng biết.
Nguyên nhân tụt hậu đã rõ, bệnh đã định nhưng thuốc chưa có. Có lẽ phải bình tĩnh chấn chỉnh từ lãnh đạo, sao cho có người có tâm, có tầm để họ quy tụ các tài này, để họ chấn chỉnh lại bộ máy nhà nước.

Sao nhiều phòng họp thế? Sao người ta cứ thay đổi kiểu ghế, mỗi ngày thêm oai vệ. Hôm nay Quốc hội họp, thấy các tay ghế to quá, chiếm nhiều diện tích và phản cảm. Thế rồi hội họp liên miên, cổ cồn, cà vạt, trang trọng không biết có cái gì mới, hay là người ngồi đấy mà hồn lang thang nơi đâu?
Cũng cần xem lại câu: “Đảng bao giờ cũng đúng, tập thể bao giờ cũng sáng suốt”. Cho nên lấy việc hội họp làm chính để rồi chỉ ăn và đi họp, còn cái sáng suốt không biết tìm ở đâu!

Có lẽ ta phải thay đổi: đề cao vai trò cá nhân, con người phải được đào tạo lại, phải đánh giá khác đi, phải sử dụng khác đi… có nghĩa là tất cả phải thay đổi.
Ông cha ta nói: ‘Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Nguyễn Mạnh Tường nói: “Tập thể là cái vô nghĩa”. Bà Hồ Xuân Hương thì bốp chát hơn: “Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông. Nó bảo nhau rằng ấy ái uông”. Còn Xê khốp thì chế diễu: “Những cái đầu rỗng tuếch ngồi sau những bộ bàn ghế bằng gỗ bồ đào”. c. Xây dựng kinh tế các nhóm lợi ích:

Khi mở cửa, khi đón đầu tư nước ngoài, ai cũng nghĩ rằng: ta sẽ học, ta sẽ làm, ta sẽ có tất cả như các nước, ta tiến bộ, ta thừa sức theo kịp thiên hạ… Lúc đầu ta bàn nhiều đến cái thiếu sót, cái thua thiệt, coi đó là học phí với sự an ủi thầm kín. Đến nay, cũng đã nhiều năm: hãng Sony ra đi, ta không thấy nói gì đến ngành điện tử, ta có bao nhiêu hãng ô tô mà nay không thấy cái gì gọi là ô tô Việt Nam… Hoá ra xét tiến bộ đầu tư nước ngoài lấy số tiền đầu tư để đánh giá, còn nền công nghiệp của ta là một việc khác. Kết quả: mất đất, mất môi trường, sức lao động bị bán rẻ. Trong khi ấy, đồng ruộng cần máy móc nông nghiệp, phân bón; học sinh cần máy tính, người lớn cần điện thoại di động… thì tất cả của nước ngoài.
Những cái cũ ta có: gạo, café, cao su, bao nhiêu năm nay không giải quyết được ổn thoả việc thu mua, chế biến, tồn trữ cứ vẫn như xưa. Cái ta có ưu thế tuyệt đối thì cũng không ổn định.
Những cái có mới, không ít, có thể chia ra hai loại: loại làm ra vì mục đích chính trị, nhằm khoa trương, kèm theo câu “nhất Đông Nam Á” như đường Trường Sơn, đường dây 500KV, hay như điện nguyên tử đến nay chưa có số lượng nhân lực ban đầu… Có cái khác thì thấy ai có thì học theo như Hà Nội bên Sông Hồng và Hà Nội rộng gấp 4 lần…

Loại thứ hai là thiếu hiểu biết kỹ thuật, bỏ ngoài tai ý kiến của các nhà khoa học, tự cho “chính trị là thống soái”, rồi chống cả trời đất như việc quản lí đô thị: Thành Hồ và Hà Nội: nạn ngập lụt người ta cảnh báo bao nhiêu năm, đã thấm đòn ở thành phố Hồ Chí Minh, đến nay lại xảy ra ở khu Mỹ Đình, nơi đỉnh cao của kiến trúc đô thị Việt Nam. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà không đi từ nông nghiệp, không công nghiệp hoá nông nghiệp, quy hoạch đô thị thì “treo”, không có luật nhập cư, công nghiệp hoá, xuất khẩu lao động thì bỏ rơi đào tạo nghề… Các việc này người ta làm ở Châu Âu từ thời kỳ Napoléon. Cái “Đảng bao giờ cũng sáng suốt”, “Tập thể bao giờ cũng đúng” đi đâu mất rồi? Thế mà cứ bô bô “Năm này, năm kia ta sẽ hiện đại hoá, công nghiệp hoá!”

Còn một điều vô cùng nhức nhối: làm gì cũng nói sẽ vay vốn ODA. Cứ vay rồi ai trả? Kinh tế thị trường mà không có vốn. Số nợ này là bao nhiêu? Ai biết?
Nếu chỉ có như trên thì đi một lẽ, nó lại có cái lẽ thứ hai, như rắn thêm chân:
Khi chúng ta còn bao cấp thì Philippin, Indonexia đã đi vào phát triển kinh tế. Các nhóm gọi là “nhóm lợi ích” đã ra đời. Nó là mối liên kết của những người kinh doanh, sản xuất với các người nắm quyền, họ đồng loã quyết định mọi việc, từ đó rút ruột nhà nước, chiếm đoạt tài sản quốc gia… Có khi đó là gia đình các nguyên thủ quốc gia như: Tổng thống Mác-cốt, tổng thống Su-hác-tô phải ra toà và ngồi tù là thế.

Ở ta thì những người thân quen, con cháu người cầm quyền từ TW đến cấp tỉnh đều núp bóng cha anh để làm ăn. Dân chỉ rõ công ty này là của ai, Công ty kia là của ai. Rồi những người có quyền chức ủng hộ cái này, diệt cái kia vì hối lộ… nền sản xuất bị chết từ trong trứng.
Indonexia, Philippin, Việt Nam có chung một bệnh. Philippin trước đây còn mạnh hơn ta mà nay suy thoái. Dù có nền dân chủ sơ khai mà không vực được nền kinh tế lên được.
Chưa hết, hiện nay Trung Quốc thâm nhập vào nền kinh tế Việt Nam, thâm nhập bằng cả quyền lực chính trị. Nếu như họ lại có trong tay các nhóm lợi ích hay là các nhóm lợi ích hai bên kết hợp với nhau thì có lẽ nền kinh tế Việt Nam đi đứt.

Việc phân tách kinh tế Việt Nam với các mô thức, chỉ số, công thức xin dành cho các kinh tế gia, chưa chắc các kinh tế gia đã làm được vì lẽ tình hình bị che giấu.
Thiếu nhìn xa trông rộng, không có quy hoạch, thiếu kiến thức, thiếu óc phân tích, không có các biện pháp phù hợp là một phía. Phía khác là nạn tham nhũng tràn lan, cùng với ý thức có quyền hành thì cứ làm, rồi che dấu, xuyên tạc, có thể là nguyên nhân của các nguyên nhân.

d. Hoàn toàn thất bại trong lĩnh vực tư tưởng, văn hoá:
Tôi bị bất ngờ: cùng một lúc nhiều người mà

đảng coi là tinh hoa, là tiêu biểu cho nền tư tưởng, văn hoá xã hội chủ nghĩa, đều lên tiếng phỉ báng đảng. Có người đốt tác phẩm rồi nhịn ăn mà chết. Có người quên hết mình đã có những gì mà chỉ nhớ bài thơ, bài hát đầu đời khi chưa biết đảng. Có người sau 30.4 gặp lại bạn văn thời xưa đã khóc mà nói là mình đã đóng kịch bao năm… Tóm lại họ tự nhân mình là “văn nô”. Trần Đức Thảo thì ra đi trong đau khổ; Nguyễn Khắc Viện thì giữ khoảng cách đầy kiêu hãnh; còn Nguyễn Mạnh Tường thì lạnh lùng rời bỏ. Họ là người được thế giới ngưỡng mộ, nhân dân yêu mến.
Triết học, văn học, nghệ thuật, các khoa học khác để lại là tác phẩm. Tác phẩm gắn với con người. Thế là ta không còn tác phẩm, không còn con người. Thế là ta mất hết.
Rồi đây các hồi ký, các di cảo của nhiều người còn nói lên nhiều nữa: Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên…

Cụ Tô Hoài theo đảng, lúc Tây Bắc, lúc đồng bằng, ca ngợi đảng hết lời, đột nhiên cho ra Ba người khác. Nếu cụ còn loại này, xin cụ kịp thời cho ra mắt bạn đọc để đảng ghét cụ, cụ qua đời sẽ lờ cụ đi, mọi người sẽ đưa cụ đi an nghỉ nơi có côn trùng nỉ non, có hoa có lá, có trời xanh nước biếc và sẽ để bên cụ “Dế Mèn phiêu lưu ký”. Cụ chậm chạp, đảng vẫn mến mộ cụ. Cụ mất, sẽ đưa cụ vào Mai Dịch, rồi con cháu cụ xuất bản di cảo. Lúc ấy các vị nằm quanh cụ sẽ đánh đòn “hội chợ” cụ và mọi người sẽ cười cả đảng, cả cụ, một trận cười vỡ bụng.

Thời Pháp thuộc, 80 năm mất 20 năm bình định, gần 10 năm vì chiến tranh thế giới, dân ta chỉ có 20 triệu… Lao động tay chân, hỏi lấy gì mà người Pháp xây dựng nổi Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, đường xuyên Việt, đường sắt Bắc Nam vươn tới Vân Nam… Phố Tây Hà Nội thiết kế cho xe ngựa, nay ô tô như kiến, không tắc, không ngập. Nhà hát lớn, Cầu Du me, phủ Toàn quyền, các công viên, bảo tàng sau hơn 100 năm vẫn bền vững, vẫn đẹp… Đẹp mà lại hợp lý… Còn ta, cũng cao, cũng to, cũng rộng…

Còn hơn các cái cũ, nhưng không gây được ấn tượng nào. Vào trong, đi, đứng, làm việc gặp nhiều bất tiện. Đó là vì, đây là một ngành khoa học không phải có tiền là cứ xây, vừa xây xong thì ngập lụt… Một nghiên cứu nói rằng: từ xa xưa, từng lớp thống trị nào cũng xây dựng các công trình đồ sộ, coi như biểu tượng của chế độ. Ta có thể cũng ở vào tình thế này. Các tỉnh, huyện, các ngành nào của ta cũng có não trạng này.

Kết luận này có cơ sở ở chỗ, người ta coi hình thức hơn nội dung, coi nhà cửa, phòng họp, hội trường quan trọng hơn con người. Con người không cập nhật với nhiệm vụ, với trách nhiệm. “Quan trí” cần phải nâng cao là lời nói cửa miệng của người dân.

Gần đây rầm rộ lên cái gọi là cấm phản biện công khai, rồi quản chặt báo chí. Người ta kêu trời vì sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Vấn đề quá dài, chưa thể đề cập nhưng phải nhận là đạo đức, là một mặt đời sống tinh thần, nó nở hoa hay méo mó cùng một nguyên nhân, cùng một kết quả với văn học, nghệ thuật.

Nguyên nhân của sự sa sút quá đáng của mặt văn hoá, tư tưởng của ta có phải là kết quả của sự lãnh đạo của Đảng: mọi việc phải theo ý lãnh đạo, một hình thức toàn trị về tinh thần, tư tưởng? Nó thui chột mọi sáng tạo cá nhân. Trước đây còn lờ mờ, nhưng nay đã lộ rõ.

Trước đây, văn học, nghệ thuật có phong trào, có chủ soái, có đấu tranh, có ngành phê bình như thơ mới chủ soái là Phan Khôi, Tự lực văn đoàn với Khái Hưng, Nhất Linh, họ sáng tác, họ tranh luận, họ phê bình… Có phong trào rộng khắp trong nhân dân. Thật kỳ lạ! Đó mới là thời kỳ nở rộ về văn hoá, lại xuất hiện trong thời kỳ thuộc địa, dân lại 95% không biết chữ. Phải chăng văn học, nghệ thuật được tự do mới bay bổng? Cái gọi là “tính Đảng”, “lề phải”, “lề trái” trong văn học nghệ thuật, trong thông tấn báo chí là thuốc độc. Có khác gì người uống rượu khen rượu làm cho họ hưng phấn, họ mạnh lên.đ. Khủng hoảng lãnh đạo:

Lịch sử đã chứng minh, một đất nước vượt lên đều gắn liền với một cá nhân kiệt xuất. Napoleon khi đã là Hoàng đế, triệu tập chuyên gia để làm luật dân sự, sự hiểu biết của ông vê luật làm mọi người ngỡ ngàng. Ông giải thích: khi còn trẻ, là trung uý, đã bị phạt giam, trong phòng giam có sách, ông đọc thế rồi ông nhớ. Đạo luật “Sổ lao động” …là của Napoleon tồn tại đến giờ. Hồ Chí Minh, Lý Quang Diệu, Lý Thừa Vãn, Đặng Tiểu Bình, Tưởng Kinh Quốc đã minh định kết luận trên.

Với cái não trạng, cái lề lối làm việc của chúng ta hiện nay không thể chọn được người tài; ta lấy mục tiêu giữ vững chuyên chính, ai trung thành với ta thì ta chọn, chọn người thân cận, chọn người quanh ta…Người tài thì ở khắp nơi, họ đâu phục ta, quý ta, tin ta mà theo ta, rồi có theo ta lại nhiễm những thói xấu của ta, họ cũng thui chột. Cách của ta chỉ phù hợp với một chế độ đóng cửa, nghĩa là hàng chục năm mọi việc cứ năm sau như năm trước: không xuất cảnh, không Internet, không giao lưu, du học nước ngoài… mọi người câm nín. Giá đảng Cộng sản Việt Nam giữ như Triều Tiên, Cu Ba…ông Fidel nghỉ, ông Ra-un thay; Ông Kim Nhật Thành mất, Ông In làm, có phải nhẹ nhàng, ăn chắc không!

Có điều rõ ràng nhất, chưa thấy một ai trong số 15 người khổng lồ, tỏ ra có các điều kiện của một chính khách: thiếu nhìn xa, trông rộng, không phân tích được tình hình để có kế sách phù hợp, làm hỏng rồi chữa, nói mãi mà không làm được. Thực ra chưa ai chuẩn bị cho mình thành chính khách, chưa ai đi theo một chính khách đích thực để làm học trò…

Ông Ôbama nói dài, viết dài, xem kỹ lại là các chuyện thời thơ ấu, các điều răn dạy làm người. Ông đi khắp nơi để bàn về hoà bình, sao không còn thấy ông lớn tiếng dài hơi… Cương lĩnh của ông chỉ có 3 chữ: “Phải thay đổi!”. Ông đẩy mạnh hoà bình, dân chủ bằng diễn đàn toàn cầu, bằng lời góp ý với các nước. Có gì rầm rộ đâu! Ông biết rằng chỉ có hoà bình mới ngăn chặn Trung Quốc làm liều, chỉ có dân chủ, nhân quyền người dân Trung Quốc mới đổi thay số phận.

Ông không đến Việt Nam nhưng những việc ông làm là nỗi khát khao của Việt Nam: dân chủ và hoà bình. Dân chủ trong ôn hoà mới mong tránh được kiếp chư hầu. Ông Obama được giải thưởng Nobel là đúng. Vừa bước lên sân khấu nhưng giọng hát, lời ca đã đi ngay vào lòng người. Ông Ôbama chuẩn bị cuộc đời mình, cuộc đời của một chính khách xuất sắc, động thái đó hiển hiện ngay từ ngày đầu cầm quyền.Hôm nay, ai cũng nhận định là tình hình đất nước nhiều bê bối. Nhiều người cho rằng xuất phát từ sự lãnh đạo của Đảng mà cụ thể là từ Bộ chính trị.


Nói cho rõ hơn là từ sau WTO, nếu ta cởi mở về chính trị thì tình hình có thể khác đi, nhưng ta vẫn giữ nguyên nếp cũ. Ngày hôm nay ta ngẫm lại xem, ta vẫn như xưa. Vẫn một nền nếp hội họp, ban hành các quyết định rồi cái thì làm được, cái thì làm được một nửa, có cái nói mà không làm hoặc nói một đàng làm một nẻo… Vẫn dài dòng, thiếu sức sống, cũng ngày càng thêm nặng nề. Nặng nề đến mức tự Bộ chính trị phải kêu ầm lên là suy thoái, nói cả đến việc sẽ bị “tự diễn biến” từ trong nội bộ. Có người nói, nền nếp lãnh đạo của ta 60 năm rồi vẫn thế.

Tình hình chính trị như vậy là do sức sống của Bộ chính trị. Bộ chính trị không có một người gọi là chủ soái, nhóm này hôm nay thiểu số, mai lại đa số, nên có người nói một chính thể mà hai đường lối… mà lại không giữa chừng thay được như người ta, phải chờ đến Đại hội. Đến Đại hội vẫn nhùng nhằng như vậy. Thế là suy thoái dài dài, ta tụt hậu sau các nước cùng cảnh ngộ trước đây nhiều chục năm.

Nói riêng từng người, đến hôm nay không một ai gây được cảm tình từ trong nhân dân, ấy là chưa kể đến có người bị người đời dè bỉu. Kể cũng tội, nhiều người được cụ Mười, cụ Anh tôn lên, mà hai cụ nào có biết ai là người tài. Các cụ có cái chuẩn là kẻ nào bảo được là trung thành với chế độ, đó là chuẩn số 1. Ai làm cũng được, nên đã có chức, có quyền là tự tin ngay. Đầy tự tin mà kém cỏi thì đúng là: “giao quyền hành cho kẻ kém cỏi, khác nào giao súng cho thằng điên”. Choáng ngợp trước quyền hành, giữ quyền hành đến cùng, nhưng lại không làm được việc, lại không tự giác thừa nhận, do đó bưng bít, tránh né. Và cuối cùng là nội bộ mâu thuẫn, nội bộ đã loại trừ nhau…Đất nước gánh chịu tất cả.

Đó là một cơ chế xây dựng quyền lực lạc hậu, nó kìm hãm sự phát triển. Cơ chế này, lúc này lại phải đối mặt với hai thách thức, cùng một lúc ập đến: ta phải hoà nhập với thế giới phương tây để phát triển. Trung Quốc thâm nhập nước ta, mối đe doạ ta phải phụ thuộc họ đã quá rõ ràng. Bộ máy lãnh đạo tối cao của ta như đang bó tay, thế là ta vừa lạc hậu, vừa nô lệ như một sức nặng đè ta nghẹt thở. Bộ máy lãnh đạo tối cao lúc này như đang nghĩ quẩn, trong một tình thế quẫn.
Tôi không hề oán giận các vị. Vì lẽ con người bị hoàn cảnh chi phối, nhào nặn là lẽ thường. Tiếc rằng các vị không ai được bồi đắp để trở thành chính khách, có quyền lại không có một cơ chế ràng buộc, kiểm soát thì tất yếu xảy ra tình hình vừa là nạn nhân, vừa là tội nhân.

Có lẽ lúc này tìm cách để thay đổi, vớt vát lại. Cái gì cho bản thân, cái gì cho đất nước là con đường tốt nhất.
Gần đây việc dùng bạo lực tràn lan: bắt bớ, giam cầm, xét xử các nhà dân chủ, với các tội gán ghép; xô xát, đàn áp giáo dân, phật tử, tu sĩ; bịt miệng, mạt sát các trí thức, bắt bớ, xét xử các nhà báo… Có nghĩa là đánh tất cả. Không hiểu nhà nước, Đảng dựa vào ai để tồn tại? Hay là như người ta nói: khi sắp tan rã thường một chính quyền… tăng cường đàn áp?

Dựa vào công an để tồn tại? Không được, vì một khi trong Bộ chính trị đang có sự chia rẽ thì Công an nghe ai? Công an thi hành các mệnh lệnh đơn lẻ thì được, nhưng đại cục, lúc có biến động lớn thì không thể tin được. Nhân dân biểu tình, ngực đeo biển “Tôi là nhân dân”, tay họ cầm hoa… Liệu những người cầm súng có chúc mũi xuống đất như ta đã thấy khi bức tường Berlin bị rỡ bỏ không? Đó là cảm nhận của đông người.

Dựa vào Trung Quốc để tồn tại? Tôi chưa hiểu dựa như thế nào, không biết kịch bản Trung Quốc cứu sự đổ vỡ của Đảng và chính quyền Việt Nam ra sao. Tôi chỉ thấy con đường duy nhất: tồn tại trong thân phận tôi đòi cho Trung Quốc. Không thể nói là tồn tại mà phải nói là đã bán đứt linh hồn cho quỷ sứ.

Gần đây đã lộ rõ một đường lối của Phương Tây: cụm lại để kiềm chế Trung Quốc. Dù có nhiều điều không bằng lòng họ vẫn hồ hởi với Việt Nam, vì Việt Nam còn yếu, nhưng lại vì “ i giữ được Việt Nam, người ấy chiếm được thế giới!”. Có sai lầm không khi nói: Trung Quốc là một nước có nhiều cà rốt, một nước đã từng dạy Việt Nam về lễ nghi, về cách ứng xử nhưng sao lại dùng cách lấn át, lăng nhục, cướp bóc và tàn sát…

Nếu Trung Quốc thật khoẻ còn khá, nếu chỉ là bề ngoài khoẻ thì khả năng Trung Quốc nắm phần thua là điều không thể không xẩy ra.Trước mắt 15 người khổng lồ, cái bàn cờ độc lập và dân chủ đã bày rõ: đi với Trung Quốc thì mất nước, còn đảng, còn quyền nhưng lại là đầy tớ; đi với Phương Tây thì mất quyền nhưng còn nước, chỉ mất thân phận tôi đòi. Mà đi với Phương Tây thì phải dân chủ, dân chủ thì phải phát động quần chúng, giao quyền cho quần chúng. Một sự lựa chọn khó khăn cho người này, rõ ràng, dứt khoát cho người kia.


Có thuyết đu đưa giữa hai thế lực và hình như chưa đâu áp dụng - một thuyết đưa hai thằng thông minh vào cuộc có lợi cho thằng dốt! Thế thì chúng ta chọn ra 2 người đi, đưa ông Ôbama và ông Hồ Cẩm Đào vào cuộc để rồi cử một nhà ngoại giao Việt Nam đứng giữa để thu lợi cho Việt Nam. Thuyết đu đưa giữa 2 thế lực chỉ là cái thuật trong việc tranh chấp cụ thể, không thể đưa thành thuyết nọ, thuyết kia. Ông đại sứ Việt Nam ngồi vào HĐBA Liên Hợp Quốc tuyên bố xanh rờn: “Không phụ thuộc vào nước lớn”, trong khi Trung Quốc lấn át ta bằng đổ máu, bằng giành giật tài nguyên… Thật là cười ra nước mắt.

Đất nước lạc hậu kéo dài đến gần nửa thế kỷ, các việc ta làm đổ bể, mất mát nhiều hơn là được. Thế giới đang biến động mà ta chập chững, loay hoay. Con đường đi lên chỉ thấy khó khăn. Phải chăng ta bị ý thức hệ kìm hãm? Phải chăng chúng ta chỉ là người trưởng thành trong chiến tranh và bao cấp? Phải chăng hoàn cảnh quay lưng lại với chúng ta, hoàn cảnh đã vượt chúng ta, hoàn cảnh đã đào thải chúng ta?

e. Sự thay đổi đã đến gần:
Hay là dân chủ hoá đã đến gần. Hay đúng hơn: Dân chủ hoá là có thể. Xét trong phạm vi trong nước, nếu một lòng để Trung Quốc sai khiến thì coi như mất nước; mất một lúc cả độc lập, tự do, hạnh phúc. Có nghĩa là ta một lúc gạt bỏ lịch sử 4000 năm. Hậu quả là sẽ có biến động, bạo động, ly khai, nổi loạn ở trong nước… Đó là chắc chắn. Không cần biện luận. Đừng hòng có ai sống yên thân.
Xét trong phạm vi thế giới, cái hoạ Trung Quốc coi như cái hoạ toàn cầu, thiên hạ đã dứt khoát như thế. Có các động thái họ cụm lại, cụm để hạn chế Trung Quốc. Mà hạn chế Trung Quốc trước mắt phải giải quyết vấn đề Việt Nam. Ông Ôbama đi khắp nơi rao giảng hoà bình, cố gắng thu hẹp các lò lửa chiến tranh. Ông đang bàn thảo để khôi phục lại các căn cứ quân sự Mỹ tại Châu Á – Thái Bình Dương. Thế là vừa lên sân khấu, khúc ca đầu tiên đã cuốn hút lòng người. Giải Nobel của ông không phải là vội vã mà là đích đáng. Các nước Asean lôi kéo Trung Quốc vào bàn đàm phán để hai bên cùng có lợi, ai ngờ việc đầu tiên lại là vấn đề Biển Đông. Thế là lời ông Dương Danh Dy: “phải chống Trung Quốc nhưng Việt Nam đừng chống một mình”. Thế giới đã nghe theo. Lời ông đúng là: “Bụt chùa nhà không thiêng”.

Dân chủ hoá lúc này là có thể. Người Việt Nam không bao giờ chịu làm nô lệ. Người Tàu với Việt Nam hình như bao đời không ưa nhau. Dân chủ hoá, chỉ có các quan tham ở hai nước phản đối vì lo sợ mất tài sản, lo bị trả thù… Một khi lòng yêu nước trỗi dậy họ chấp nhận dân chủ hoá, thế là 100% dân Việt Nam một lòng giữ nước. Các nước trên thế giới: Âu, Mỹ, Asean sẽ hoan nghênh vì trút khỏi nỗi sợ Trung Quốc. Trung Quốc đang bối rối nội bộ, đang che chắn chống phản kháng của thế giới, làm gì có cuộc “động binh” nào chiếm Việt Nam. Cái chủ bài là khống chế được 15 người khổng lồ, nay họ ra đi, thế là hết phép. Truyền thông thế giới nói ít đến khó khăn của Trung Quốc là chưa thoả đáng.

Nói riêng 15 vị khổng lồ, đến ngày hôm nay khi họ đã đánh tất cả các từng lớp nhân dân, công việc thì bê bối, nội bộ chia rẽ đến phải bộc lộ để dân biết, cố gắng bày ra việc này việc nọ, nhưng còn ai tin, ai nghe? Chứng nào, tật nấy: cứ toàn trị, cứ cấm đoán… đến nỗi biểu tình chống hàng Trung Quốc cũng chờ lệnh…Tự nhiên trong cuộc thi thể thao trong nhà lại dám liệt Đài Loan thuộc Trung Quốc, ngang Hồng Kông, Ma Cao…Can đảm chấp nhận dân chủ hoá là con đường duy nhất. Có bàn cãi chăng chỉ là ở điểm: chuyển đổi như thế nào.

IV. Đảng tách ra làm hai – Một cuộc chỉnh đốn đảng đích thực

a. Hãy chấm dứt một cách hiểu sai lệch:

Cựu tổng thống Bin Clinton nói ở đại học Thanh Hoa: “Phản biện sinh ra chân lý”. Hai phe có những ý kiến khác nhau, đưa ra luận để tìm ra ý kiến đúng nhất, hai bên chấp nhận và cùng nhau hợp tác thực hiện, làm cho mọi việc tốt lên. Ở ta, nhiều người cho dân chủ là tranh luận để thắng thua… Dân chủ chỉ có đối lập mà không có đồng thuận, không có hợp tác và chung trách nhiệm, chữ đối kháng chữ đa nguyên coi như cấm kỵ ai nói tới điều này là phạm tội hình sự!

Đảng tách ra làm hai là làm theo đúng tiêu chí trên: chân lý, phản biện, đồng thuận, chia sẻ trách nhiệm, cùng hợp tác, cùng thực hiện chân lý, cùng phục vụ nhân dân. Bài học Thái Lan đã chỉ rõ: dân chủ là đấu tranh để tìm ra chân lý, cái phải đạt là đồng thuận, đồng thuận ở Thái Lan đến chậm chạp quá, khi đạt được phải trái, đúng sai, họ sẽ tiến lên. Bảo rằng họ đánh nhau có nghĩa là đa đảng không tốt. Đó là do không hiểu thế nào là dân chủ đa nguyên.
Đảng tách ra làm hai là Đảng vẫn còn, Đảng chấm dứt độc tài, độc đoán, độc quyền chân lý…Đảng sẽ là đảng của dân tộc, của nhân dân một cách đích thực. Đảng mạnh lên, đất nước phồn vinh, dân tộc có chỗ đứng xứng đáng trong cộng đồng quốc tế.

b. Chọn mô thức Đảng tách ra làm hai là một bó buộc:
Toàn trị thì tha hoá. Tha hoá thì suy yếu đi đến tan vỡ. Nói rằng “Đảng tự vỡ”, hôm nay không một ai phản bác nhưng tự vỡ như thế nào thì mọi người ngẩn ngơ.
Có cái gì như thầm lặng nói lên là Đảng ta tiếp tục cầm quyền là khiên cưỡng; không ai trong nhóm cầm quyền có những tố chất của một chính khách; toàn Đảng hiện nay lỏng lẻo đến mức chỉ còn là những người tham quyền. Bao nhiêu năm vẫn giữ đất nước trong vòng lạc hậu; nếu để tiếp tục cầm quyền thì nhất định nước ta sẽ bị nước ngoài thôn tính…Vì thế việc thay đổi như là một đòi hỏi sống còn.
Rà soát lại thì không còn hình thức chuyển đổi nào đã có tiền lệ trong lịch sử: không có phe đối lập để làm việc thay đổi; không có phe đối lập có thể dựa vào nước ngoài để gây ra một cuộc chuyển đổi, nếu có chỉ là một cuộc chuyển đổi để mà mất hết. Trong đội ngũ cầm quyền không có một người, một nhóm nào dám đứng lên để gạt bỏ đối phương để một mình lãnh đạo đất nước; lại không có thể có cuộc xâm lăng quân sự để có người anh hùng giải phóng dân tộc rồi làm vua, làm lãnh tụ…
Còn có những bó buộc khác:

đảng phải tập trung những người ưu tú của dân tộc. Hiện nay thành phần này và như gần hết nằm trong đảng nhưng bị lép vế với bao nhiêu nỗi niềm đắng cay. Đảng là đảng cầm quyền, những người có khả năng này là những người nằm trong đảng, một khi cờ đến tay họ thì gió có yếu, cờ vẫn bay. Chúng ta còn có bao nhiêu người “cộng sản tử tế”, người vào đảng để phục vụ nhân dân mà không hề băn khoăn cái gọi là ý thức hệ?
Nếu trong việc thực hiện, làm thật khéo léo, được mọi người ủng hộ, người muốn phản đối cũng thấy không có cái gì hơn đành tặc lưỡi chấp nhận, kẻ thù bên ngoài không có chỗ, không có cái lý để can thiệp, và cái yêu cầu nêu rất khiêm tốn, cần đạt được một điểm gốc chứ không đòi hỏi nhiều vì biết rằng dân chủ hoá là một quá trình, còn nhiều gian khổ… Có thể tóm lược các yêu cầu:
Có từ hai đảng, hai đảng kém, hơn hẳn một đảng xấu. Hai đảng thì có phản biện, có công khai, 4 năm một lần dân có thể thổi còi phạt góc, phạt 11m đến truất quyền thi đấu. Nhìn dần quen dần với vai trò làm chủ của mình, chính nhân dân hoàn thiện dần thể chế, có tham khảo những góp ý của các nhà chính trị, văn hoá để đi tới một nền dân chủ dần dần vững chắc.

Đảng viên là người lãnh đạo, đề ra quốc sách, ứng phó mọi cái… Thế thì phải thuộc về trí thức; mà trí thức ở nhiều lĩnh vực, với cái ý nghĩa trí thức là người giải quyết được mọi yêu cầu do cuộc sống của đất nước đặt ra. Vậy thì “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Một tỉnh có đảng bộ độ 50, 70 người, thành phố có 100 đến 200 người mà có tâm, có tầm, khoẻ bằng vạn đảng bộ có 4, 5 hàng con số… Có tâm, có tầm người ta sẽ làm, không gây hậu quả xấu, chỉ có kết quả tốt đẹp.

Việc chuyển đổi sẽ không gây biến động, không làm sáo trộn đất nước, êm ả mà chuyển đổi, chậm chạp và chắc chắn, bó buộc là không ai được để nước ngoài can thiệp, việc làm có tạo ra đồng thuận.
Không đặt ra việc tìm lý luận, đường lối, chủ thuyết. Đây chỉ là bước đi để hình thành tổ chức, cái việc này do tổ chức có chức năng làm. Lý thuyết về đảng và hội đã khá phổ biến trên thế giới rồi. Trước mắt phải có tổ chức, tổ chức… Thay đổi sao cho tương ứng với nhiệm vụ, với đặc điểm, đó là việc của từng đảng.

Hình thành tổ chức có thể hình dung: chính những người cộng sản thực hiện việc tách đảng, con người vẫn là cộng sản, không ai cướp quyền của đảng. Lẽ dĩ nhiên có một số người ngoài đảng xin gia nhập.

Phải coi việc tách đảng là một cuộc chỉnh đốn đảng cộng sản hiện đang cầm quyền.
Đảng viên của đảng đang cầm quyền sẽ chia ra: một số đi theo đảng mới vừa thành lập, một số vẫn ở trong đảng như hiện nay, một số sẽ ra khỏi đảng vì rất nhiều lý do. Các đảng mới sẽ tự hoạt động. Đảng đang cầm quyền nếu không tự tuyên bố giải thể mà vẫn tồn tại, vẫn hoạt động thì nên tổ chức việc kết nạp lại: những người nhiều tai tiếng, những người không thiết tha với đảng họ sẽ không đăng ký xin kết nạp lại, thế là bớt đi một phiền nhiễu cả kẻ đi lẫn người ở lại. Các đảng mới là cứ hoạt động theo một đạo luật mới, đều bình đẳng. Thế là thể chế đa đảng hình thành một cách êm ả.

Không quá coi trọng việc viết văn kiện, việc ra mắt. Cái chính là Quôc hội chấp nhận đại diện tham gia ứng cử Quốc hội lập hiến là mọi việc khai thông.
Giữ nguyên luật pháp hiện hành, luật mới ra đến đâu thì phủ định luật cũ đến đấy, chấp nhận có sự vênh giữa luật và thực tiễn, nhưng chỉ chấp nhận tồn tại thời gian tối thiểu.
Giữ nguyên bộ máy cũ và chấn chỉnh, sửa đổi dần dần, với một nguyên tắc: người cầm đầu phải là người giỏi nhất, người đứng ra chấn chỉnh ngành, chấn chỉnh từ trên xuống. Coi trọng vai trò người cầm đầu, giai đoạn đầu coi như họ tối hậu quyết định.

Giải quyết tham nhũng có ý kiến cần tiếp tục, có phản bác là giai đoạn vừa chuyển đổi, công việc bề bộn, nhân sự chưa ổn định không thể làm việc chống tham nhũng. Có ý khác là vẫn phải làm bằng mọi giá. Lại thêm có ý kiến chống tham nhũng sẽ rối loạn, sẽ không thiếu những đòi hỏi bức xúc, không riêng gì đối với chống tham nhũng và còn nhiều vấn đề của nhiều lĩnh vực khác. Có thể nên dành cho các đảng được thành lập mở hội nghị bàn tròn để giải quyết.

V. Lộ trình tách đảng và ban vận động thành lập đảng a. Thái độ của Bộ chính trị quyết định việc chuyển đổi:
Nếu bộ chính trị chưa cho rằng việc chuyển đổi là cần thiết và coi cuộc vận động là một hành vi phiến loạn rồi ra tay cấm đoán và đàn áp thì mọi việc cứ như hiện tình mà tiến bước, dành cho thời gian phân xử. Đó có thể là một sai lầm dẫn đến mất nước, khác gì là Lê Chiêu Thống? Nếu Bộ chính trị nhận thức được tình hình thế giới hiện nay các cường quốc đã quy về một mối. Trung Quốc gặp khó, không thể muốn làm gì Việt Nam thì làm. Nhân cơ hội này Việt Nam chuyển đổi thể chế thì Trung Quốc đành bó tay. Thế là ta thoát nạn và một thế lâu dài được mở ra. Trường hợp này chỉ cần Bộ chính trị mặc nhiên để cuộc chuyển đổi êm ả diễn ra và cao hơn nữa là mở hội nghị bàn tròn giữa

đảng và các tổ chức vừa hình thành bàn bạc. Việc chuyển đổi do quyết định đa phương phác ra. Khi chuyển đổi thể chế ở Ba Lan, Ba Lan đã phải họp 25 cuộc họp liên tịch, có nhiều cuộc kéo dài, thời gian đến nửa năm.
Ở Việt Nam đây là đóng cửa bàn chuyện nhà. Sau khi bàn soạn kéo dài, đưa ra tuyên bố giữ đảng và chính phủ với các đại biểu nhân dân về cuộc thay đổi thể chế.
Công việc trong nước không hề thay đổi. Từ trên mọi việc thay đổi dần dần. Có tuyên bố tin này đến nhân dân. Một số người sẽ không vui nhưng vẫn phải bằng lòng. Cuộc thay đổi trong tinh thần cả nước một lòng, gác lại quá khứ, toàn dân giữ nước, toàn dân một lòng xây dựng tương lai.

b. Tình hình hiện nay:

Trong tình hình chính trị đất nước hiện nay, cảm thấy là khó có người nào đó đứng ra hiệu triệu thành lập một đảng chính trị, càng khó hơn ai dám bí mật tập hợp một số người để lập đảng… Dù rằng bản thân người ấy đã là những đảng viên, những quan chức cỡ lớn, có tự tin là mình được nhiều người ái mộ, là mình làm một cuộc dấn thân vì nhân dân. Đây là hạn chế rất lớn. Làm sao để vượt qua? Có thể chấp nhận một bước đi quá độ, một bước thăm dò, một giải pháp để vượt rào có thể thu xếp như sau:
Một số người tự đứng ra vận động thành lập một đảng “đồng thuận”, có tính đa nguyên, tự xác định nhiệm vụ, lề lối như sau:
Thành phần là những đảng viên, cán bộ đã làm việc lâu năm trong tổ chức đảng và tổ chức Nhà nước. Tức là có sự am hiểu nhất định về việc và người. Số người này xác định các đối tượng có thể là nòng cốt cho đảng cần tổ chức để bàn soạn việc chung và riêng.

Ban vận động cần mời được đủ từ 30 đến 50 đối tượng thì coi như hoàn thành nhiệm vụ. Khi mời được người thứ 5, thứ 7 thì những người được mời dĩ nhiên trở thành thành viên Ban vận động.
Khi con số lên đến 30, 50 thì Ban vận động tự giải thể. Ban phụ trách lâm thời của Đảng được ra đời. Từ ấy, mọi việc là của Ban phụ trách lâm thời.

Ban vận động xét cho cùng là một tổ chức “ lobby chính trị”, một ban liên lạc, một ban thăm dò. Các thành phần trong Ban vận động sau khi hoàn thành nhiệm vụ, lấy thời điểm các ban phụ trách lâm thời các đảng làm nhiệm vụ thì tự giải thể. Các thành viên Ban vận động dù có khả năng cũng không được tham gia các ban bệ của đảng mới.

Việc Bộ chính trị không ngăn chặn, không cấm đoán, không khủng bố những người trong Ban vận động thì mặc nhiên có sự ra đời các đảng mới, thực chất là các đảng viên hiện nay tách ra coi như Bộ chính trị bật đèn xanh cho việc chuyển đổi thể chế.

c. Cái mô thức dân chủ hoá có thể bị dập tắt trong quá trình thực hiện vì không có sự đồng thuận của đa số trong Bộ chính trị: Ngược lại mô thức này thành công ở thời điểm luật Bầu cử Quốc hội được ban bố và các đảng cử đại biểu tham dự mà không bị cản trở. Cái chốt đã được vứt bỏ, chúng ta không cần bàn nhiều, có biết bao nhiêu tài năng được cởi trói, mọi việc có thể tiến hành rất nhanh ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Cái não trạng tự mình hù doạ mình sẽ được gột rửa.


VI. Vài dòng kết thúc Trung Quốc hình như đã đi quá đà: thế kỷ 19 là của Anh, thế kỷ 20 là của Mỹ, thế kỷ 21 là của Trung Quốc, nhiều người nói thế và các dấu hiệu đã có. “Trung Quốc là con hổ ngủ”, điều này khi tôi còn nhỏ đã được nghe. Có đến gần 100 năm rồi nhưng vội nói rằng có thể chiếm Việt Nam trong 31 ngày, có thể đánh chiếm Ấn Độ và diệt cả Mỹ… rồi đòi chia đôi biển Thái Bình Dương với Mỹ lấy Hawai làm mốc… Nói thật hay hù doạ. Tôi tin là đã sa đà vào thế đang lên thành ra ngoa ngôn. Các trí thức thế giới hãy nghiên cứu kỹ Trung Quốc để có sự thống nhất nhận định, chỉ đạo cho mọi suy nghĩ và hành động của nhân dân thế giới. Nhân dân Việt Nam có lẽ là người xếp hàng số 1 để có được tài liệu này. Người ta còn nghĩ rằng Trung Quốc đang đi vào con đường của Liên Xô.

Một tình thế mới đang hé lộ: các nước lớn đã thấy mối đe doạ của Trung Quốc, họ như đang cụm lại để ngăn chặn Trung Quốc, cả các nước Asean cũng đã đòi tham gia giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông… Khủng hoảng về tài chính cũng làm cho Trung Quốc bị tổn thương, chưa rõ mức độ, khác với trước đây là đa cực nay hình thành như có hai cực… Điều này là một cái may, là một vận hội chưa bao giờ có. Nếu thế giới ngăn chặn được Trung Quốc thì Trung Quốc không thể chèn ép quá mức Việt Nam. Lúc này là lúc Việt Nam nên có thái độ rõ ràng. Thế giới phải giữ Việt Nam. Trung Quốc phải chiếm được Việt Nam. Trung Quốc mạnh hay thế giới mạnh, thời điểm một mất một còn, dù chon lựa gì thì cũng phải theo Phương Tây, mất đảng còn nước.

Theo Phương Đông mất nước, đảng còn nhưng là cái xác không hồn, thế là mất cả đảng cả nước, rồi dẫn đến Hán hoá là mất cả dân tộc. Một sự lựa chon không cần phải bàn cãi. Lúc này là lúc dứt điểm. Còn đối với Trung Quốc vẫn giữ hoà hảo như xưa, không sợ quá mức, hãy xem Trung Quốc gần đây đã hạ giọng rồi… Ta cũng phải kiên trì 16 chữ vàng vì đã nói là “chữ” thì chữ bao giờ cũng đúng. Cái sai là giải thích sai, cái sai là lớn hơn, là thực hiện sai. Ta nên lấy 16 chữ vàng để buộc Trung Quốc phải thực thi. Ta phải giao quyền lực cho Quốc hội để làm chỗ dựa đối nhau với Trung Quốc và luôn nhớ rằng ta không biết tự vệ là thiếu sót của ta.



Lúc này hãy nghiêng hẳn về Phương Tây, lúc này chớp thời cơ để dân chủ hoá, Trung Quốc đang lúng túng, chưa thể “động binh” để diệt ta. Đánh lẻ, ăn chắc trong cái thế toàn cục đang chưa ổn định. Phải chăng là điều có thể?
Đất nước ta hôm nay như trong tình trạng nước sôi lửa bỏng: Trước Đại hội X, mong mỏi của nhân dân là mở rộng dân chủ cho dễ thở, có lực để phát triển và chống được tham nhũng. Trước Đại hội sắp tới, việc Trung Quốc thâm nhập vào Việt Nam quá rõ ràng. Mọi suy nghĩ chuyển thành làm sao giữ được độc lập. Tất cả tập trung hy vọng vào việc dân chủ hoá. Dân chủ hoá sẽ giải quyết được việc trước mắt là độc lập, nhưng cũng một lúc giải quyết tham nhũng và mở đường cho phát triển.Thế là trở lại khẩu hiệu: “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” của năm 1945. Dân chủ hoá! Hai chữ ngắn gọn mà ngọt ngào, lại là tất cả trong lúc này.

Luật Sư Trần Lâm
Tháng 11/2009



Nhìn Lại: Lý Ra, VN Phải Dân Chủ Từ 1945

Luật sư Trần Thanh Hiệp

Có thể cải tổ luật pháp để tiến tới dân chủ từng bước hay không? Đó là một quan tâm của Luật Sư Trần Thanh Hiệp, người từ Pháp đang tới thăm nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, thảo luận với nhiều nhà hoạt động và thúc đẩy cho nỗ lực dân chủ hóa tại quê nhà. Trong khi ghé thăm tòa soạn Việt Báo hôm Thứ Ba 9-10-2007, vị chuyên gia luật pháp kỳ cựu trên 80 tuổi này đã tâm sự về các mối quan tâm của ông, và chia sẻ các ưu tư từ khía cạnh một nhà hoạt động về luật pháp nhiều thập niên. Ngồi giữa thủ đô tị nạn Hoa Kỳ, Luật sư Trần Thanh Hiệp bày tỏ tin tưởng rằng đất nước mình trước sau gì cũng sẽ dân chủ, tuy bây giờ còn nằm dưới gọng kềm nhà nước độc tài cộng sản. Ong nói, dân chủ không còn là giấc mơ, mà đang là sức mạnh lịch sử cho cả dân tộc, và "Từ năm 1945, dân tộc chúng ta đã chọn con đường dân chủ.

Cựu Hoàng Bảo Đại đã hy sinh ngôi báu để toàn dân thiết lập dân chủ, nhưng những người Cộng Sản đã phản bội trắng trợn để áp đặt độc tài toàn trị. Bây giờ, dân tộc Việt Nam đã có một khoảng không gian tự do: đó chính là khối 3 triệu người Việt hải ngoại. Cho nên, nhiệm vụ người Việt hải ngoại là phải tiếp trợ các nhà dân chủ quốc nội để xóa bỏ độc tài và xây dựng dân chủ." Vào Thứ Sáu tuần này, luật sư Trần Thanh Hiệp sẽ rời Quận Cam, để thăm San Jose và rồi sẽ tới Oregon trên chuyến đi góp sức với vận động dân chủ. Mới mấy ngày trước, luật sư Trần Thanh Hiệp đã nói chuyện trên đài Á Châu Tự Do RFA, và trên làn sóng phát về quốc nội chung lời hội luận với một luật sư lão thành từ Hà Nội bàn về vấn đề dân chủ và tư pháp VN.

Cuộc hội luận, do phóng viên Trà Mi điều hợp, trên làn sóng này có 3 phần, tuy đề tài chuyên môn nhưng đã thu hút nhiều quan tâm từ thính giả trong và ngoài nước. Bản tường trình nhan đề "Hội luận trong ngoài nước về hiện tình ngành tư pháp Việt Nam" thực hiện với Trà Mi, phóng viên đài RFA, đã nêu bật được hiện tình luật pháp VN, các trở ngại dân chủ từ quốc nội - và có một số điểm quan trọng trích đoạn như sau. Những tồn tại trong hệ thống pháp luật Việt Nam lâu nay vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi lẫn bức xúc cho dư luận trong và ngoài nước. Để tìm hiểu thêm về thực tại của nền pháp lý Việt Nam và hướng tới những thay đổi kỳ vọng trong tương lai, Ban Việt Ngữ chúng tôi có cuộc trao đổi với hai vị luật sư trong và ngoài nước.

Đó là luật sư Trần Lâm, từ Hải Phòng, nguyên Chánh án Tòa Án Nhân dân Tối cao và cũng là một trong số rất ít những luật sư đang tham gia bào chữa các vụ án chính trị trong nước. Và luật sư Trần Thanh Hiệp, từ Pháp, cựu luật sư các toà Thựơng thẩm ở Sài Gòn cũng như tại Paris, hiện là Chủ tịch Trung tâm Việt Nam về nhân quyền, tác giả của nhiều bài nghiên cứu về chủ thuyết Hiến trị, nhà nước pháp quyền-pháp trị. Cả hai vị luật sư này năm nay đã ngoài 80 tuổi và là những chuyên gia kỳ cựu, nhiều năm kinh nghiệm trong ngành toà án….

- Luật sư Trần Lâm: Đối với Việt Nam thì mình đừng suy nghĩ tình hình cũng như là ở các nước kia, bởi vì pháp trị tức là mọi người phải theo quy định của pháp luật, chứ còn ở Việt Nam thì nó còn là nhân trị, tức là ý của người cầm quyền đấy, họ muốn làm gì là họ làm. Đấy, cái khổ của ta như thế đấy. Thế thì mang nó ra mà so sánh với các nước thì thấy là không thể chấp nhận được. Về chuyện tạm giam thì có vi phạm nhiều, nhưng theo tôi thì chưa phải là vấn đề đáng quan tâm vì còn nhiều cái nguy hiểm hơn cái tạm giam. "Nhân trị" đúng hơn là "pháp trị"?

- Trà Mi: Thưa ông, ông vừa nói là ở Việt Nam phải dùng từ "nhân trị" đúng hơn là "pháp trị"? - Luật sư Trần Lâm: Đấy là nhân trị. Ở nước ta đấy là nhân trị, chưa thể là pháp trị. Bởi vì ở nước ta hiện nay việc xử án, như cái vụ đất ở Đồ Sơn - đó là tội trọng rồi thế mà người ta mang ra xử tội rất nhẹ với án treo thôi, thế rồi dư luận bức xúc quá người ta mang ra xử lại bây giờ là 7 năm tù. Đấy cô xem, từ án treo, thấp nhất đấy, rồi trở thành 7 năm tù, cô thấy sự chênh lệch có ghê gớm không! Cái chuyện tạm giam ấy mà tôi xin mạnh dạn nói với cô đấy là một việc thấp nhất của chúng ta. - Trà Mi: Xin mời Luật sư Trần Thanh Hiệp góp ý thêm ạ.


- Luật sư Trần Thanh Hiệp: Nghe Luật sư Trần Lâm nói về cái thực trạng pháp luật ở Việt Nam thì điều đó ngoài sự tưởng tượng của tôi. Tôi xin đi sát vào câu hỏi, thứ nhất là cái nghị định 31-CP đã bãi bỏ chưa? Hay là chỉ bãi bỏ về mặt hình thức. Điểm thứ hai là từ căn bản nền pháp luật đó là pháp luật nào?

- Trà Mi: Dạ, xin mời Luật sư Trần Lâm. - Luật sư Trần Lâm: Nghị định 31-CP thì bãi bỏ rồi, nhưng mà nội dung của 31-CP thì đựơc chuyển sang một luật hành chính mới hơi tương tự như cái 31-CP. Nhưng hôm nay tôi không có tài liệu để đọc cho Bác biết. Thực ra đáng lẽ chúng tôi phải hàng ngày cập nhật chuyện đó, nhưng mà nói thật với Bác là ở nước ta ấy mà cái chuyện đó người ta làm cũng thường thường thôi.

- Luật sư Trần Thanh Hiệp: Xin Luật sư Trần Lâm cho biết cái luật hành chánh đó đưa ra những quy phạm để áp dụng nội dung của nghị định đã bị bãi bỏ, thế thì khoảng cách của các ngành là như thế nào? Luật hành chánh với luật hình sự ra làm sao?
- Luật sư Trần Lâm: Thực ra cái 31-CP người ta đưa vào luật hành chính, nhưng ở nước ngoài hay ở trong dân ngưòi ta cho đấy là một cái luật bỏ tù người ta mà không có xét xử. Bây giờ bỏ cái đó rồi lại đưa vào trong luật hành chánh có nhẹ hơn, thì xin lỗi Bác cái đó đáng nhẽ ra chúng tôi phải đọc kỹ rồi xem được thực hiện như thế nào, việc đó tôi chưa làm được. Hiện nay có những người bị bắt mà không biết bị bắt theo hành chính hay theo hình sự mà không thấy bị khởi tố, không thấy làm các thủ tục, thì đấy có tình trạng như vậy. Người ta cũng đang thắc mắc là những người bị bắt như thế thì phải cho rõ ràng, bị bắt vì tội gì, hành chính thì thế nào và hình sự thì thế nào. Có những chuyện như thế, đó là sự thật.
Chúng tôi không che giấu cho ai cả. Đó là thực tế ở trong nước. Tôi muốn nói với bà con ở nước ngoài để thông cảm. Tôi thừa nhận là có các việc ấy. (…) - Trà Mi: Chúng tôi xin được đặt ra câu hỏi là những luật sư, những người đóng vai trò là một lực lượng tiêu biểu để bảo vệ người dân thì vai trò đó của họ như thế nào trong việc giúp giữ được cán cân công lý hoặc là xây dựng một xã hội ổn định về chính trị?

- Luật sư Trần Thanh Hiệp: Vâng, về điểm này, tôi xin phép luật sư Trần Lâm để tôi nói ngay điều này. Muốn cho luật sư -như Trà Mi nói- có một vai trò nào trong trật tự chính trị - xã hội ở Việt Nam thì trứơc tiên phải quy chiếu vào cái gọi là "luật luật sư" hiện thời của Việt Nam. Người luật sư phải là kết tinh của quyền bào chữa.

Và luật luật sư hiện thời ở Việt Nam, theo tôi, đã không cho người luật sư làm tốt nhất, đúng như là các tiêu chuẩn ở các nước dân chủ tự do, tức là tượng trưng cho quyền bào chữa. Họ là chuyên gia về luật pháp cung cấp một số dịch vụ pháp lý ở trong khuôn khổ pháp lý của chế độ thôi. Theo sự theo dõi của tôi, ngay trong những việc Luật sư Trần Lâm đã biện hộ cho các bị can thì tôi thấy là không làm được bởi vì LS Trần Lâm cũng như các luật sư khác bị gò bó vào trong cái luật luật sư hiện thời ở Việt Nam.

- Luật sư Trần Lâm: Thưa Bác, tình hình luật sư ở Việt Nam thì như thế này ạ. Cách đây độ một hai năm có nhiều đạo luật mới về luật sư cũng mở rộng thẩm quyền, mở rộng phạm vi. Đó là nói trên giấy tờ thì tốt, nhưng vai trò của luật sư Việt Nam hiện nay so với nước ngoài thì nó thấp lắm. Nó thấp là vì người dân chưa biết dùng luật sư, người ta chưa hiểu luật sư thế nào cả. Trình độ dân chủ, trình độ văn hoá của người dân thấp cho nên việc dùng luật sư cũng bị hạn chế. Bản thân đội ngũ luật sư nói thực là cũng yếu vì học hành cũng không đến nơi đến chốn. Rồi công việc trong nước cũng không có để mà giỏi.

Luật sư hiện nay rất ít người nuôi sống được mình. Đến quá nửa số luật sư làm việc cho vui thôi. Còn đối với nhà nước thì nhà nước cũng có tôn trọng trên giấy tờ, nhưng trên thực tế thì lại thiếu tôn trọng. Cho nên vai trò người luật sư cũng không có đủ khả năng để làm công việc dân trao cho mình và luật pháp giao cho mình. Họ không đủ năng lực để làm việc đó. Mà chính người cầm quyền thì lại cũng không ủng hộ bộ máy nhà nước, vẫn quan liêu và vẫn thích làm theo ý mình. Mình có quyền thì làm theo ý mình. Hiện nay thì tình trạng là như thế. Còn bây giờ chúng tôi làm gì? Ngay bây giờ giới luật sư trên toàn quốc đêu muốn có luật sư đoàn để từ luật sư đoàn ấy có một vị thế, rồi có sự học tập lẫn nhau, nó có một tổ chức. Nhưng luật sư đoàn hiện nay không có. Ngay một nước tự xưng là pháp quyền mà lại không có luật sư đoàn.

Lụât sư chỉ được theo từng tỉnh mà thôi. Theo từng tỉnh đó cụ ạ. Chưa có luật sư đoàn toàn quốc. - Trà Mi: Dạ thưa, trong những vấn đề Luật sư Trần Lâm vừa trình bày có 3 điểm là do dân trí còn thấp, không hiểu rõ vai trò và chức năng của luật sư.

Nhưng thưa luật sư, thậm chí trong trường hợp những vụ án mà nghi can lại rất rành pháp luật, ví dụ trường hợp luật sư Đài, luật sư Công Nhân, thế thì không lẽ những người đó cũng không hiểu về vai trò của luật sư để kiếm cho mình một luật sư bênh vực mình thích đáng, mà hậu quả của họ bây giờ như chúng ta đã thấy là cũng có luật sư đứng ra bào chữa mà hiệu quả thì không đến đâu. Vậy có phải là do chính người bị nạn không hiểu rõ vai trò của luật sư hay vì một lý do nào khác khiến cho họ không được bảo vệ một cách chính đáng?

- Luật sư Trần Lâm: Dân không hiểu vai trò của luật sư, không biết sử dụng luật sư, và thêm nữa là dân cũng nghèo, không có tiền để thuê luật sư. Có nhiều cái hạn chế lắm. - Trà Mi: Như ông là người đã từng can thiệp vào trường hợp của luật sư Công Nhân đó, thưa ông? - Luật sư Trần Lâm: Hiện nay tôi là luật sư bào chữa cho các vị ấy.

- Trà Mi: Dạ thưa ông, trong những trường hợp này mà nói là vì dân trí thấp, không biết sử dụng luật sư, v.v. thì không biết có thích hợp với trường hợp này hay không?

- Luật sư Trần Lâm: Chỉ mấy người như Công Nhân và Đài thôi. Mà thực ra như mấy cái vụ xử án sơ thẩm đó ngưòi ta chả cho Đài cũng chả cho Công Nhân biện hộ tranh luận mà chỉ xử ào ào cho xong thôi. Ngay đấy là hai luật sư ra toà và vừa rồi 6-7 luật sư ra toà, nhưng tóm lại người ta cũng chỉ xử ào ào cho xong thôi chứ họ cũng chẳng được bảo vệ gì. Tôi nói như trên là nói chung người dân thôi, chứ các bị cáo như hai luật sư Đài và Công Nhân thì từ xưa tới nay hiếm có đó cô ạ.

- Trà Mi: Ý tôi muốn nêu ra ở đây là thậm chí như cả trường hợp ngưòi ta rất hiểu biết về pháp luật cũng chưa chắc là sẽ được bảo vệ bằng luật pháp, bằng công lý, phải không, thưa ông? - Luật sư Trần Lâm: Nói rằng "người dân được luật pháp bảo vệ, được dư luận quần chúng bảo vệ" thì những chuyện đó là nói chung thôi.

- Trà Mi: Thưa, hồi nãy ông có nói ở Việt Nam thực trạng này vẫn còn tồn tại bấy lâu nay, đó là trên giấy tờ về mặt nguyên tắc là có đủ các quy định nhưng về mặt thực tế lại không được thực thi. - Luật sư Trần Lâm: Vâng, tức là không làm như thế (như trên giấy tờ).

- Trà Mi: Vậy theo ý ông thì các luật sư nên có thái độ như thế nào hoặc cần phải làm gì tích cực hơn, cụ thể hơn để phát huy chức năng của mình, ngoài việc trông chờ những sự thay đổi từ phía nhà nước. - Luật sư Trần Lâm: Bây giờ chúng ta cũng phải chờ cái tổ chức nó được củng cố như thế nào đã. Nếu có luật sư đoàn thì sẽ có hội họp, sẽ có kiến nghị này nọ. Chứ còn nếu như hiện trạng thì nó vẫn lẻ tẻ thôi.

- Trà Mi: Vậy Luật sư Trần Thanh Hiệp có đề nghị nào không? - Luật sư Trần Thanh Hiệp: Tôi thấy luật sư ở Việt Nam hiện thời bây giờ làm một cái giấy khai sanh chỉ cho họ hành nghề trong phạm vi khuôn khổ của cái giấy khai sanh đó mà thôi. Bây giờ đòi hỏi các luật sư đang hành nghề đó (thủ tục giấy tờ, lời Luật sư Trần Lâm bổ túc) những hành động đặc biệt. Thứ nhất, nếu chỉ dựa vào khuôn khổ cứng nhắc của luật hiện hành thì không thể nói được điều gì ngoài những điều chính quyền cho phép nói.

Còn nếu muốn vượt ra ngoài, theo tôi, có hai con đường. Một con đường là ngay trong những vụ xét xử phải làm thế nào tìm hết tất cả mọi kẽ hở của luật pháp, những sự bất toàn của luật pháp hiện hành để mà bênh vực, thể hiện cái quyền được tự do bào chữa cho những bị cáo, bảo đảm cho họ được hưởng những sự xét xử công bằng. Làm như thế thì người luật sư sẽ phải chịu những hậu quả của công việc của mình, tức là theo truyên thống của nghê nghiệp luật sư trên thế giới thì rất nhiều người đã làm công việc đó. Tôi không hiểu các đồng nghiệp của tôi ở trong nước có sẵn sàng làm công việc đó hay không.

Ngoài ra còn có con đường khác mà theo kinh nghiệm của chúng tôi trong truyền thống của Luật Sư Đoàn Pháp, thì luật sư là những ngòi bút viết để cổ vũ, bênh vực cho tự do. Nhưng ở Việt Nam, trong khuôn khổ hiện thời không có quyền tự do ngôn luận, không có quyền tự do phát biểu, và báo chí cũng bị bao vây đến nỗi hơn 600 tờ báo trở thành các công cụ của một đường lối cai trị nhất định, thì những luật sư có thiện chí như Luật sư Trần Lâm liệu có làm được công việc đó hay không.

Tôi thấy rất là khó khăn và phải trả giá, vậy liệu những người trong cuộc có sẵn sàng trả giá đó để cho lý tưởng gọi là quyền bào chữa tự do của người luật sư có được thực hiện hay không. Người luật sư phải tự mình lựa chọn lấy và tự mình dám hành sử, chư còn nếu chính quyền cứ giữ nguyên cái khuôn khổ thì tôi thấy rằng khó lòng mà cải thiện cho được.

- Luật sư Trần Lâm: Tôi đồng ý với Bác là kể ra hãy còn gian nan và kéo dài thật đấy. Nhưng mà tình trạng dân chủ của luật sư thì còn có điều này mà Bác chưa biết. Đó là ông thẩm phán cũng không được độc lập cơ mà. Ông thẩm phán cũng không có dân chủ cơ mà. Tôi đã cãi cho một vụ mà trong đó người học trò của tôi ngồi ở ghế thẩm phán, còn tôi ở vai luật sư.

Khi ra giải lao tôi, tôi nói giữa cá nhân với nhau rằng "Sao cậu lại làm như thế?" thì anh ta đáp "Bác được tự do chứ tôi có được tự do đâu!" Anh ta bảo với tôi như thế thì Bác bảo phải làm sao nào? Thẩm phán nói với ông thầy của nó đồng thời là luật sư rằng "Luật sư các ông còn được nói lung tung chứ tôi không được tự do", bởi vì ở Việt Nam có cái gọi là "án bỏ túi" cơ mà Bác. Tức là người ta quyết định là vụ này xử thì nên xử như thế nào. Còn phiên toà chỉ là để diễn cơ mà. Đấy, Bác phải biết sự thật toà án nó như thế đấy mà Bác bảo phải thê nọ thế kia .(…) oOo Đàn áp không phải là Công lý



LS Trần Thanh Hiệp:
Việt Long, phóng viên RFA, 2010-01-19
Ngày 20 và 21 tháng 1 năm 2010, chính quyền VN sẽ xét xử nhiều nhà tranh đấu vì nhân quyền như LS Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa… Luật sư Trần Thanh Hiệp đưa ra nhận định trước các phiên tòa.
Tòa án nhân Hà Nội vừa mới xử lại và giữ nguyên bản án sơ thẩm phạt 4 năm tù giam, kỹ sư Phạm Văn Trội, 3 năm tù giam đối với nhà văn Trần Đức Thạch và nhà giáo Vũ Hùng về tội tuyên truyền chống Nhà nước.
Ngày 20-01-2010 tòa án nhân dân cấp sơ thẩm thành phố Sài Gòn sẽ xử vụ các nhận vật trí thức trong đó có Luật sư Lê Công Định, kỹ sư Nguyễn Tiến Trung bị truy tố về tội âm mưu lật đổ chính quyền. Và ngày 21-01-2010 tòa án nhân dân Hải Phòng cũng mở phiên xử phúc thẩm để xử lại vụ 6 nhân vật khác về tội tuyên truyền chống Nhà nước, trong đó nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa bị coi là chủ mưu, được yêu cầu cho biết nhận xét của ông về những phiên xử hàng loạt nói trên.

Luật sư Trần Thanh Hiệp, chủ tịch Trung Tâm Việt Nam về Nhân Quyền, trụ sở đặt tại Paris, nói rằng ông rất quan tâm trước bước leo thang đàn áp rất đáng quan ngại hiện nay của bộ máy cầm quyền Hà Nội. Sau đây xin mời quý vị theo dõi cuộc trao đổi giữa Việt Long của đài Á Châu Tự Do và Luật sư Hiệp. Leo thang đàn áp Cơ quan điều tra khởi đầu đã làm tình làm tội để ép buộc các bị can nhận tội trước báo chí là đã phạm vào điều 88 Bô luật hình sự.

Nhưng phút chót các cơ quan này lại đổi tội danh. LS Trần Thanh Hiệp. Việt Long: Trong những phiên xử tại Việt Nam như vừa được trình bày, có lẽ công luận đang chờ theo dõi diễn tiến vụ xử 4 nhân vật được quốc tế biết đến nhiều, mà hồ sơ tội trạng đã được thiết lập chiếu điều 79 Bộ luật hình sự xử lý tội âm mưu lật đổ chính quyền.

Cảm tưởng của luật sư ra sao về các mặt nhân quyền, công lý ở Việt Nam trước những phiên xử dồn dập như vậy? LS Trần Thanh Hiệp: Quang cảnh náo nhiệt trong sinh hoạt tư pháp vừa được nêu lên đó mang nhiều ý nghĩa vừa đã rất rõ vừa lại chưa rõ. Theo tôi, có một điều đã rất rõ đó là tình trạng căng thẳng này trong xã hội bắt nguồn từ sự chống đối đường lối cai trị của nhà cầm quyền ngày càng gia tăng và càng tỏ ra không còn là việc nhỏ nữa, không thể bỏ qua hay giải quyết bằng biện pháp hành chánh được mà phải nhờ đến tòa án.

Nếu luật pháp mà tốt nghĩa là thuận lòng người và tòa án là trọng tài vô tư thì mức độ căng thẳng sẽ sút giảm vì công lý được thực hiện. Nhưng việc tòa phúc thẩm Hà Nội trong vụ Phạm Văn Trội-Trần Đức Thạch vẫn giữ nguyên những mức hình phạt của tòa dưới mặc dù các đương sự đã kháng cáo cho thấy là công lý vẫn chưa xuất hiện. Tất nhiên còn phải đợi thêm kết quả của hai vụ sắp xử thì mới rút ra được những kết luận đầy đủ.

Vậy trong khi chờ đợi thì tôi có thể nói rằng công lý vẫn ở đằng trước và cho đến phiên xử vừa qua của tòa phúc thẩm Hà Nội thì cuộc đàn áp đối lập ở Việt Nam vẫn tiếp tục qua những bước leo thang mới. Nguyễn Tiến Trung. Photo courtesy nguyentientrungblog . Việt Long: Tòa trên chỉ y án tòa dưới thì luật sư cũng cho là leo thang sao? LS Trần Thanh Hiệp: Tuy tôi đã thận trọng để nói rằng có những bước leo thang đàn áp mới nhưng thật ra cũng đã có leo thang trong vụ án Phạm Văn Trội-Trần Đức Thạch.

Tòa phúc thẩm không leo lên một bậc mới nhưng đã đứng ở bậc cũ mà tòa dưới đã leo, tức là tòa này đã bướcthêm một bước leo thang đàn áp đối với những người dân hoạt động dân chủ ôn hòa. Tôi sẽ xin bàn sau nếu có cơ hội, về vụ án Nguyễn Xuân Nghĩa sắp xử trong những ngày tới. Nhưng trong vụ Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Trần Hùynh Duy Thức tuy chưa xử nhưng đã có leo thang đàn áp rồi. Cơ quan điều tra khởi đầu đã làm tình làm tội để ép buộc các bị can nhận tội trước báo chí là đã phạm vào điều 88 Bô luật hình sự.

Nhưng phút chót các cơ quan này lại đổi tội danh từ nhẹ là tội tuyên truyền chống Nhà nước sang tội nặng hơn là âm mưu lật đổ chính quyền mà hình phạt tối đa là tử hình.

Đổi mà không giải thích được, như mọi người đã thấy trong phiên xử ông Trần Anh Kim, vì sao đã phải đổi tội như thế. Vậy thì chỉ còn là vì muốn leo thang mượn điều 79 này để hù dọa mà khủng bố dân. Ngoài ra lại còn bao vây bao chí cấm không cho những cơ quan truyền thông đại chúng được sử dụng các dụng cụ truyền thanh, truyền hình để theo dõi và tường thuật phiên xử. Rõ ràng la một bước leo thang để hòng lên tới đỉnh cao thời toàn trị Xit TaLin, Mao Trạch Đông v.v… Âm mưu lật đổ chính quyền?

Việt Long: Liệu Nhà nước Việt Nam có thể nói rằng vì điều 79 liên quan tới một tội phạm rất nghiêm trọng nên cần phải xử kín không?


Trên nguyên tắc thì tòa án có quyền lấy quyết định xử kín, nhưng một khi đã cho công chúng tham dự thì tình trạng nửa kín nửa hở là điều không biện minh được. LS Trần Thanh Hiệp. LS Trần Thanh Hiệp: Trên nguyên tắc thì tòa án có quyền lấy quyết định xử kín, nhưng một khi đã cho công chúng tham dự thì tình trạng nửa kín nửa hở là điều không biện minh được. Nhưng leo thang không phải chỉ vì cách xử nửa kín nửa hở này mà là vì ngay chính điều 79 Bộ luật hình sự. Tôi cần đi sâu một chút về luật học để nói cho rõ về điều khoản này.

Việt Long: Mời luật sư nêu ý kiến. LS Trần Thanh Hiệp: Đúng là ở trong các bộ luật hình sự của hầu hết quốc gia trên thế giới đều có ghi tội danh âm mưu lật đổ chính quyền. Nhưng để xét xử thông qua tội danh ấy thì phải căn cứ vào nội dung của nó chứ không thể chỉ dựa vào danh xưng mà thôi. Và ở trong nội dung này phải định nghĩa thế nào là “âm mưu”, là “lật đổ”, là “chính quyền”. Chứ không phải bất cứ một hành vi nào hoặc là ý nghĩ, quan điểm hoặc là tinh cảm không ưa hay ngay cả muốn thay đổi chính quyền tại chức cũng có thể bị ghép vao tội âm mưu lật đổ chính quyền được.


Luật sư Trần Thanh Hiệp.
Nói chung các bộ luật ấy đều xác định rằng chỉ là âm mưu lật đổ chính quyền những hành vi nào mang tính bạo lực trực tiếp xâm phạm đến lãnh thổ, an ninh đối nội, đối ngoại, đến sự tồn vong của chính thể, của chế độ thì mới có thể coi là âm mưu lật đổ chính quyền. Bộ luật hình sự đương hành ở Việt Nam trái lại nơi điều 79 cực kỳ mơ hồ về cách định nghĩa tội danh lật đổ chính quyền. Vì chỉ thấy nói rằng: ”Người nào hoạt động hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thì bị phạt như sau….”, tuyệt nhiên không xác định thế nào là lật đổ chẳng lẽ một đề nghị bằng lời phát biểu hay bằng bài viêt thay đổi để chế độ xấu trở thành tốt cũng bị coi là lật đổ chính quyền hay sao? Việt Long: Dù coi đó là một điều khoản mơ hồ chăng nữa thì luật sư căn cứ vào đâu để khẳng định rằng tự bản thân sự mơ hồ đó là một bước leo thang?

LS Trần Thanh Hiệp: Bộ luật hình sự năm 2000 hiện đang áp dụng dưới chế độ đương hành ở Việt Nam là một kiến trúc hính luật thoát thai từ bộ luật hình sự năm 1995 là con đẻ của chế độ chuyên chính vô sản toàn trị được thiết lập năm 1980.

Trong khung cảnh chính trị đó thì người ta hiểu được vì sao không một ai nếu không phải là Đảng Cộn sản Việt Nam có quyền thay đổi chế độ và loại tôi phạm lật đổ mơ hồ kiểu điều 79 có cơ sở ý thức hệ để biện minh. Nhưng cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, cả hệ thống độc tài toàn trị cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô cũ sụp đổ, Đảng cộng sản cầm quyền ở Việt Nam năm 1992 và 2001 đã phải sửa đổi hiến pháp để đổi mới, từ bỏ chuyên chê để di vào dân chủ và hội nhập vào cộng dồng thế giới.

Điều 3 của Hiến pháp, văn bản sửa đổi và bổ sung năm 2001 đã ghi rằng “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc…” Điều 3 này từ tinh thần đến văn tự đã long trọng và công khai dưới hình thức thành văn công nhận cho bất cứ một người dân nào với tư cách là một thành tố của người chủ tập thể đất nước cũng có quyền tự do suy nghĩ, đề xuất đường lối thực hiện một xã hội văn minh, dân chủ. Luật sư Lê Công Định trên cơ sở những kiến thức hiện đại về luật học cũng như về chính trị học của ông nếu có đưa ra những đề xuất sửa đổi hiến pháp hay soạn thảo mộ hiến pháp mới hoàn bị hơn thì ông chỉ hành sử mộ “quyền chính trị” hợp pháp vì đã được đạo luật tối cao của quốc gia công nhân.


Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa.
Thanh niên Nguyễn Tiến Trung gia nhập một chính đảng Đảng Dân Chủ có thành tích tham gia tử những ngày đầu của cuộc cách mạng dân chủ năm 1945 để cổ võ cho sự phát huy của sinh hoạt dân chủ cho phù hợp với xu thế của thời đại không thể coi là lật đổ chính quyền được nhất là chính quyền ấy đã cam kết và bảo đảm thực thi dân chủ. Như vậy, bình thường ra nhà cầm quyền Hà Nội không có cơ sở pháp lý xác đáng và vững chắc để truy tố dưới tội danh lật đổ chính quyền những nhà tranh đấu dân chủ ôn hòa và tiến bộ như Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy Thức.

Nhưng nếu cứ truy tố bừa bãi rồi bỏ tù họ, như đã xảy ra trong vụ xử Trần Anh Kim thì rõ ràng là một vụ leo thang đàn áp chứ không phải là một vụ xét xử công bằng để thực hiện công lý Việt Long: Vậy theo luật sư, thế nào là xét xử công bằng để thực hiện công lý?

LS Trần Thanh Hiệp: Theo tôi, phải chấm dứt ngay chính sách đàn áp có hệ thống và quy mô mà nhà cầm quyền Hà Nội đang muốn đi tới cùng. Để giữ cho xã hội có trật tự và ổn định, phải áp dụng nghiêm chỉnh pháp luật. Muốn vậy phải sửa đổi càng sớm càng tốt hệ thống pháp luậ công cụ đàn áp để thay thế bằng một hệ thống pháp tôn trọng và bảo vệ nhân quyền. Tôi tin rằng nếu chọn hướng đi mới này nhà cầm quyền Hà Nội sẽ nhận được sự trợ lực rộng lớn ở khắp mọi nơi trên thế giới. Việt Long: Xin cảm ơn luật sư Trần Thanh Hiệp và xin được nhắc lại, rằng ý kiến của luật sư Hiệp không nhất thiết phản ánh quan điểm của đài Á Châu Tự Do.

No comments:

Post a Comment