Pages

Tuesday, September 11, 2012

NGUYỄN HOÀNG BẢO VIỆT * NIỀM TIN

Nguyên Hoàng Bảo Việt 

 Niềm Tin của chúng ta

Đôi lời của Liên Hội Nhân Quyền Việt Nam ở Thụy Sĩ :

Ngày 8 tháng Giêng 1985… Nhớ lại Ước Mơ củ a Anh em , Ước Mơ của những người Việt Nam yêu Nước đã ngã xuống chỉ có vài năm trước khi tan rã Khối Liên Sô và Đông Âu, thành trì phe xã hội chủ nghĩa của Cộng sản Việt Nam.

Bất hạnh thay cho Dân tộc Việt Nam ! Hơn một phần tư thế kỷ sau, nhóm lãnh tụ của chế độ độc tài áp bức rập mẫu Staline và pho tượng Lénine - Đồng trụ Giao Chỉ vẫn ngự trị tại Hà Nội, thủ đô CHXHCNVN. Không chỉ có thế hệ miề n Nam tranh đấu cho Dân Tộc và Nhân Quyền như nhà thơ Vũ Đình Thụy, mà còn những lớp người trẻ miền Bắc đã dũng cảm cổ xúy và yêu sách Tự Do Dân Chủ , Công Bằng Xã Hội và đề cao Tình Nghĩa Đồng Bào như Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, kế tiếp Lê Chí Quang , v.v. Tất cả những người yêu Nước đối kháng độc tài áp bức đó đang bị giam nhốt bất công và đày đọa cực kỳ vô nhân đạo. Nhưng ‘khủng bố đỏ’ chẳng làm nao núng Niềm Tin củ a Anh em và những người thân cùng bạn hữu của họ. Dù Ước Mơ củ a nhi ều Người đã vĩnh viễn ra đi chưa đơm bông kết trái.

Hôm nay, Ngày 8 Tháng Giêng 2006, thắp Nén Hương Lòng Tưởng Nhớ Hồn Thiêng Núi Sông, xin được giới thiệu cùng quý vị, quý bạn và quý diễn đàn bài thơ của Nguyên Hoàng Bảo Việt :

Niềm Tin của chúng ta *

Sáng nay dậy sớm
Được tin Anh em
Vừa ngã xuống
Trên quê hương
Yêu quý hơn đời mình
Đứng sát lại
Bạn bè năm châu
Chung một niềm đau
Đồng bào trong ngoài nước
Không đủ lời phẫn uất
Đọc lên tên từng người.



Sài Gòn của chúng ta
Nặng chĩu những vầng mây tang
Dưới vòm trời Yên Bái
Nửa thế kỷ sắt máu trôi qua
Từ Thực dân đến Cộng sản
Bè đảng bạo quyền Hà Nội
Đem nòng súng Liên Sô
Thay cho máy chém
Ám sát hành hình
Công khai man rợ
Tôn thờ Staline
Quên hết tình nghĩa đồng bào.
Nhắm bắn Anh em
Việt cộng nhắm bắn
Trái tim linh hồn
Miề n Nam
Việt Nam bất khuất
Giặc bao giờ hiểu được vì sao
Khủng bố chẳng làm nao núng
Niềm Tin của chúng ta
Ở ngày mai
Ở tương lai đất nước.



Hai bên bờ Tiền Giang Hậu Giang
Bà Mẹ quê ầu ơ tiếng võng
Nấu nung tinh thần Đồ Chiểu
Cờ bay giữa tấm lòng
Bay cao như sáo diều
Anh em yêu nước
Anh em quốc gia
Anh em cộng hòa
Sống sót và vượt thoát
Những trại tù tập trung
Tiếp sức khai mở đường
Cho Đông Tiến Tây Tiến.
Anh bỏ Paris trở về
Vì 'Việt Nam Tự Do' không thể mất
Chia tay Tokyo từ biệt Darwin
Kẻ vượt biển người leo núi
Đầu đội mây cao nguyên
Mưa thác lũ vùng ba biên giới
Chị lên Tây Ninh
Rời Bình Dương ngược đèo Bảo Lộc
Tìm hướng đi giữa những chòm sao
Nhờ bà con đùm bọc
Di chuyển xuống miền Sa Đéc Long Xuyên
Nước chảy xiết lúc trăng tàn
Kết bè chuối trôi xuôi qua Vàm Cống
Chú bé chăn trâu ơi!
Bám đất làm giao liên
Cho anh em được gặp gỡ
Giữa rừng U Minh
Trong bưng Đồng Tháp
Ngày đêm cùng nếm mật nằm gai
Khơi dậy tiếp ngọn lửa hồng Nhựt Tảo
Noi gương hào khí liệt sĩ Kiên Giang.



Chúng ta không chiến đấu lẻ loi
Ở chung một trận tuyến
Anh em Việt Miên Lào
Cùng uống nước Cửu Long
Lập quốc trên những bãi phù sa
Nhìn đời qua tâm Phật
Cớ sao bị thảm sát
Bị cưỡng bức nô lệ cúi đầu
Có Bi có Trí có thêm Dũng
Đứng dậy kề vai kết Nghĩa lớn
Nhân lên vô hạn tiềm lực sinh tồn.
Chúng ta còn A Phú Hãn
Ở đầu sóng ngọn gió
Trên đất nước bất hạnh này
Thế chiến đã bùng nổ
Kìa những đau thương
Như moi gan xé ruột
Kìa những tổn thất
Như tay rụng chân rời
Chúng ta còn Đông Âu
Ba Lan Hung Tiệp Lỗ
Chịu đựng mãi được sao
Cảnh lầm than niềm tủi nhục
Kiếp người nào khác ngựa trâu
Sẽ tước lấy búa liềm
Hạ cây cờ đảng
Búa để đập nát bức màn sắt
Liềm để cắt đứt xích xiềng
Cây cờ đảng đẽo thành cán bút
Dây thép gai mài giũa làm ngòi
Lá cờ đảng tẩy ra màu giấy trắng
Mai sau con em cắp sách đến trường
Học lại Tình tự Quê hương Lịch sử
Chúng ta còn bằng hữu
Đông đảo như muôn trùng sao
Ý thức lấy đà nâng cao hy vọng
Gom góp từng tia sáng
Chấp nối từng cánh tay
Nhen nhúm từng hơi thở
Đội đá đi vá trời
Kháng chiến biết gian khổ
Hy sinh trong âm thầm.



Một ngày một tháng năm nào
Sẽ đến phải đến
Từ Trường Sơn ngó ra biển Đông
Ngân Hà còn lấp lánh
Hồn thiêng núi sông
Mãi mãi thao thức
Giọng ai vừa ngâm nga
Bài thơ Nguyễn Du
Như xâu chuỗi ngọc
Bàn tay ai nâng niu
Dưới làn mưa bụi sương
Đang nhún nhảy
Trên từng lá cỏ
Trên từng sợi tóc
Trên từng mi mắt
Anh em Phục Quốc
Nằm im gởi trái tim
Theo nhịp trống đồng giữa lòng đất
Lời hịch xưa xa vọng về
Báo hiệu mùa Xuân
Rồng bay ngang thành Cổ Loa
Từ chóp đỉnh ngọn trời xanh Tiền Sử
Bát ngát Thái Bình Dương
Dòng suối Lạc Việt
Không ngừng đổ xuống
Cuốn trôi cuốn phăng đi
Những tượng đồng bạo chúa
Những lăng tẩm hung thần
Cả guồng máy áp bức
Cả tập đoàn phi nhân...



Trần Văn Bá
Lê Quốc Quân
Hồ Thái Bạch
Và anh em đồng đội
Vô danh
Vừa tuẫn tiết
'Việt Nam Muôn Năm'
Những tiếng hô sau chót
Dù máu tươi thuốc súng đã quánh khô
Ngực cháy bỏng lửa đạn
Vẫn còn âm vang
Át hẳn tiếng tru của bầy lang sói
Tiếng vỗ tay ngụy hòa phản bội.



Ước mơ của Anh em
Đẩy lùi tội ác
Soi thấu đêm đen
Đang phủ trùm thiên đường chết
Quê hương tù ngục lưu đày
Biết bao oán thù chờ cởi bỏ
Biết bao vết thương sâu chưa khâu vá
Ước mơ của Anh em
Nhổ bật rễ bất công
Vun bón mầm Nhân Ái
Tâm sự không còn dây leo sợ hãi
Cây Hòa bình thơm nức trái Tự do.



Cho Bình minh của chúng ta
Hân hoan xòe cánh
Cho bầy bồ câu trắng
Đến đậu bờ vai đàn trẻ thơ
Khoan thai gõ nhịp
Cho đôi chim sơn ca
Thôi rụt rè cất tiếng hót
Cho những búp sen thanh khiết
Vươn lên từ đầm lầy
Giữa ngút ngàn điệp trùng bông lúa
Nở rộ thành những gương mặt Người.

Nguyên Hoàng Bảo Việt (8.1.1985)

******************************


* Trích từ " Ba Mươi Năm , Niềm Đau Còn Đó" Thi Ca Lưu Vong (1975-2005) , Tuyển Tập Thơ (34 tác giả)
do nhà Văn Võ Đức Trung biên soạn và Nhóm chủ trương Văn Hóa Pháp Việt xuất bản tháng 1 năm 2006
(France Vietnam Culture, 1 Allée des Peupliers 59320 Hallennes Lez Haubourdin France - vojl72@aol.com) -
Lời vào sách : Giáo sư Võ Thu Tịnh - Tranh bià "Quê Hương Ngàn Trùng" : Họa sĩ Vĩnh Đỗ (Trúc
Phụ bản : Họa sĩ Hiếu Đệ & Trần Minh Tâm - Trình bày : Anh Vũ .

PHAM TIN AN NINH * TRÊN CHIẾN TRƯỜNG XƯA - (33 năm sau ngày gãy súng)


TRÊN CHIẾN TRƯỜNG XƯA - (33 năm sau ngày gãy súng)

phạmtínanninh

Hơn ba mươi năm sau, cùng với bốn anh em trong đơn vị xưa, chúng tôi trở lại Kontum tìm thăm nơi an nghỉ của những đồng đội cũ. Trong những năm 72 và 73, đơn vị chúng tôi đã có hơn hai trăm anh em vĩnh viễn nằm lại nơi này để giữ vững miền địa đầu, cửa ngõ quan trọng nhất vào Tây Nguyên, nơi có bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn nằm không xa phía dưới - thành phố Pleiku.


Dừng chân dưới chân núi ChuPao, nhớ tới những trận đánh khó khăn ác liệt với những toán địch quân bị xích chân trong những hầm núi đá, cố bám trụ những cái "chốt", nhằm cắt đứt QL 14, con đường huyết mạch nối liền Kontum với Pleiku, và hình dung tới từng khuôn mặt của những anh em đã không bao giờ còn trở lại, một số đã gởi xác thân lại cho rừng núi nơi này, tôi xót xa khi nghĩ là mình còn mắc nợ họ. Món nợ máu xương không bao giờ trả được.



Ngày ấy chiến trường ác liệt, có nhiều người lính phải hy sinh ngay khi vừa mới bổ sung cho đơn vị, mà ban quân số chưa kịp nhận hồ sơ lý lịch. Đa số rất trẻ, độc thân, và gia đình ở tận những miền xa, nên mồ mả không có ai chăm sóc. Hơn ba mươi năm rồi, qua bao nhiêu thăng trầm biến đổi, có lẽ hầu hết các nghĩa trang trong thành phố đã bị giải tỏa từ lâu, và nếu có được cải táng ở một nơi nào đó, chắc trên mộ bia không còn ghi đơn vị cũ. Chúng tôi đến đây như để tìm lại chút kỷ niệm và mong được vơi đi chút nào lòng trắc ẩn, chứ chuyện tìm lại được mồ mả của anh em – hy vọng rất mong manh.


Cả thành phố Kontum bây giờ đã đổi khác. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được các địa danh ngày trước. Những B12, B15, Thành DakPha, Đồi Sao Mai, Bệnh Viện Dã Chiến. Nơi có những bản doanh, căn cứ từng mang tên những người anh, người bạn anh hùng của tôi đã nằm xuống để bảo vệ Kontum: Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm…Chúng tôi tìm đến một số nhà quen lúc truớc. Tất cả không còn. Những người chúng tôi gặp đa số mới vào từ miền Bắc. Người Kontum xưa giờ chắc cũng đã tứ tán bốn phương trời. Tội nghiêp cho người dân Kontum bất hạnh. Bao nhiêu năm tháng hứng chịu chiến tranh, có lúc thành phố bị mỗi ngày hàng ngàn quả đạn pháo, vậy mà họ vẫn ở lại, vẫn cùng với những người lính chúng tôi giữ vững thành phố này trong suốt những thời kỳ ác liệt nhất. Nhưng rồi cuối cùng, giữa tháng 3/75, Kontum bị bỏ rơi tức tưởi khi không còn bóng dáng quân thù. Những người lính ở đây được lệnh tử thủ, ngăn chặn miền địa đầu tam biên cho Pleiku di tản. Tôi từng được nghe người Kontum kể lại chuyện những người lính hào hùng, tự sát vào giờ thứ 25, khi Kontum bị lọt vào tay giặc. Nghĩ tới đó, lòng tôi thấy nghẹn ngào, nước mắt cứ trào ra.



Đúng như chúng tôi dự đoán, tất cả mọi nghĩa trang trong thành phố, nơi bạn bè tôi được chôn cất, không còn nữa, người ta đã giải tỏa để xây lên một số cơ sở công quyền và những khu giải trí.



Chúng tôi tìm đến Tòa Giám Mục, cũng là nơi mà đơn vị chúng tôi đã phải đổ khá nhiều máu xương để tái chiếm trong Mùa Hè Đỏ Lửa. Một vị linh mục đứng tuổi, tiếp chúng tôi niềm nở. Ông cho biết là, mồ mả trong các nghĩa trang lúc xưa đã được cải táng và chuyển đến địa điểm mới, nằm trên cây số 9, đường lên Tân Cảnh. Tuy nhiên chỉ có những ngôi mộ có thân nhân nhận lãnh và tự cải táng thì mới có mộ bia, còn những ngôi mộ khác thì không biết ra sao. Ngài còn tốt bụng, sẵn sàng hướng dẫn chúng tôi đến đó. Cây số 9, gần căn cứ Non Nước, nơi ngày xưa đơn vị tôi đã bao lần cùng với các chiến sĩ thiết giáp hào hùng của Chi Đoàn 1/8 KB đẩy lui những đợt tấn công biển người của địch, giữ vững cửa ngõ vào thành phố Kontum.




Mất gần hai tiếng đồng hồ, đi khắp nghĩa trang, chúng tôi vẫn không tìm ra bia mộ nào có cái tên quen. Nhiều ngôi mộ không có bia. Đưa vị linh mục trở lại Tòa Giám Mục, cám ơn và chia tay ngài. Đã hơn 12 giờ trưa, chúng tôi tìm một nơi nào đó để ăn cơm. Nhớ tới quán ăn Bạch Đằng và Thiên Nam Phúc ngày xưa, nơi có mấy cô chủ quán dễ thương, mà đám lính tráng chúng tôi thường ghé lại đây ăn uống sau những tháng ngày dài hành quân trong núi, một anh bạn hỏi thăm đường đến đó. Nhưng quán bây giờ đã đóng cửa và những người xưa cũng đã trôi dạt về những nơi nào đó. Bọn tôi rủ nhau ra bờ sông Dakbla, dọc theo con đường về làngTân Hương, nơi lúc xưa có mấy cái quán nhỏ để những ngày tương đối bình yên, bọn tôi ra ngồi uống cà phê, ngắm dòng sông chảy ngược, tạo huyền thoại một thời này, mà nhớ tới vợ con hay người tình đang ở đâu đó, để rồi sau lúc chia tay chẳng biết ngày mai ai còn ai mất. Dọc theo bờ sông bây giờ là những hotel, nhà hàng, nhà trọ và biệt thự của các ông quan lớn. Cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra được một cái quán ăn bình dân, nhưng khá sạch sẽ, nằm dưới tàng của một cây trứng cá.


- Buổi trưa nên vắng khách. Bà chủ vui vẻ vừa đón chúng tôi vừa giải thích.
Chúng tôi chọn một cái bàn nhỏ gần bờ sông. Xa xa phía bên kia là làng Phương Hòa thật dễ thương ẩn mình dưới những vườn cây. Nhìn mấy bờ đê bên bìa làng, tôi nhớ tới cái chết của người phi công anh hùng Phạm văn Thặng. Tôi đã chứng kiến phi vụ thật can trường này. Anh là trưởng phi tuần gồm hai chiến đấu cơ AD-6 , đánh bom vào một mục tiêu có nhiều ổ súng phòng không của địch. Anh lao phi cơ xuống thật thấp bắn chính xác, tiêu hủy mục tiêu, tạo một đám cháy và nhiều tiếng nổ phụ, rồi bay lên từ trong đám lửa ấy. Đang trên đường bay về, anh phát hiện có nhiều đạn phòng không bắn lên từ một khu vực khác. Anh quay trở lại, lao phi cơ xuống trút hết những quả bom còn lại, rồi bay vút lên không trung. Đúng lúc ấy, máy bay anh bị trúng đạn. Cánh bên phải phát hỏa. Anh phi tuần phó bay kèm theo, bảo vệ và hối thúc anh nhảy dù ra. Bộ binh chúng tôi cũng sẵn sàng tiếp cứu.



Nhưng anh từ chối, bảo là nếu anh nhảy dù ra, phi cơ sẽ rớt xuống khu dân cư trong thành phố. Anh cố gắng bay qua bên kia bờ sông, đáp khẩn cấp (crash) xuống khu ruộng trống phía dưới. Anh điều khiển thật tài tình, nhưng vì phi cơ đã hư hỏng, không còn theo ý muốn, đâm vào một bờ đê và phát nổ. Anh Phạm văn Thặng đã anh dũng hy sinh. Điều cảm động hơn, khi người đại diện của Sư Đoàn đến nhà anh để chia buồn cùng gia đình và đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, đã kể lại cảnh nghèo nàn của gia đình anh, một trung tá phi công của QLVNCH.
- Mấy ông anh từ xa tới. Chắc tính làm ăn gì chứ cái thành phố này thì có cái gì mà tham quan. Phải không?
Câu hỏi của chị chủ quán làm tôi giật mình. Mấy anh em khác im lặng, nhìn tôi như thầm nhắc cho tôi cái nhiệm vụ trả lời.
- Không, bọn tôi tìm thăm người quen, nhưng không gặp.
- Ở khu vực nào, có nhớ địa chỉ không ? Tôi sẽ tìm giúp các anh. Tôi là dân ở đây mà.
Tôi mỉm cười :
- Cám ơn chị. Ở trong nghĩa trang thành phố, nhưng đã bị dọn đi nơi khác rồi, biết đâu mà tìm.
Chị chủ quán khựng lại chưa kịp để thức ăn xuống bàn, nhìn tôi ngạc nhiên :
- Sao lại phải ở trong nghĩa trang ?
- Vì họ đã chết rồi. Chết từ năm 1972 lận. Tôi buồn bã trả lời .
- Vậy chắc các anh đây là lính Cộng hòa mình ? thuộc đơn vị nào ?
Nghe mấy chữ "lính Cộng hòa mình" tự dưng tôi cảm thấy gần gũi với người đàn bà xa lạ này. Tôi thân thiện :
- Anh em bọn tôi thuộc sư đoàn 23, trung đoàn 44 chị ạ.
- À, vậy có anh nào ở đại đội trinh sát ?
- Không, bọn tôi ở trung đoàn và tiểu đoàn . Một người trong chúng tôi trả lời.
Sau một khắc yên lặng, chị lên tiếng:
- Em có mấy người bạn ở trinh sát. Lúc trước cũng nằm trong nghĩa trang thành phố, nhưng khi có lệnh giải tỏa, em đã chuyển các anh ấy lên cây số 9 rồi. Chị chủ quán tỏ ra thân thiện và thay đổi cách xưng hô.



Chúng tôi vừa bất ngờ vùa xúc động. Sau khi dọn bàn xong, mang nước trà ra mời chúng tôi, chị kéo ghế ngồi xuống rồi tâm sự.
Thì ra chị là bạn gái của anh Bình, trung sĩ Bình, ở đại đội trinh sát của đại úy Minh, sau này là đại úy Mạnh. Anh tử trận hồi mùa hè 1972. Ngày đó chị còn đang đi học, nhưng chiến tranh ác liệt quá, trường phải tạm đóng cửa. Chị ở nhà phụ bán cà phê cùng với người chị ruột. Bà chị này quen khá thân với Mạnh. Khi ấy Mạnh còn là trung úy đại đội phó. Anh Bình thường theo Mạnh tới đây, rồi dần dà quen nhau. Từ khi Bình chết, chị thường đến thắp hương và chăm sóc mộ phần Bình và những đồng đội của anh nằm trong nghĩa trang thành phố.


Năm 1978, nhà cầm quyền Cộng sản ra lệnh giải tỏa nghĩa trang, chị chạy khắp nơi kêu gọi bà con cùng góp tiền góp sức với chị, nhưng cũng chỉ kịp cải táng hơn 20 ngôi mộ của những anh em trinh sát về địa điểm mới. Hầu hết mồ mả của những anh em chiến sĩ còn lại, đã bị san bằng. Chúng tôi cảm động. Không ngờ trong thời buổi nhá nhem tình nghĩa, có lắm kẻ sớm vong ơn, phản suy phù thịnh, vẫn còn có nhiều người Kontum nặng tình với lính.



Theo yêu cầu của bọn tôi, chị cùng chúng tôi đi thăm mộ anh Bình và các anh em trinh sát. Hơn hai mươi ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, nằm bên nhau ở khu phía đông nghĩa trang. Điều đặc biệt trên các tấm bia, trước mỗi cái tên đều có kẻ hai chữ TS. Chúng tôi thắp hương cho từng ngôi mộ xong, quay lại thì thấy chị đang ngồi sụt sùi trước mộ anh Bình. Khi thấy bọn tôi, chị lau nước mắt đứng dậy và nói một mình:
- Thật tội nghiệp, anh ấy hy sinh khi tìm cách chui qua hàng rào để bắn hạ chiếc xe tăng của VC vừa đột nhập vào chiếm bệnh viện




Tôi nhớ lại trận chiến ác liệt này. Khi VC mở đợt tấn công thứ nhì vào thành phố Kontum nhằm rửa hận lần thảm bại ở tuyến tây bắc: Hơn một trung đoàn bộ và nguyên một tiểu đoàn xe tăng của sư đoàn 320 bị chúng tôi xóa sổ. Lần này chúng dùng mấy chiếc M113 đã cướp được của Sư Đoàn 22 BB từ khi Tân Cảnh thất thủ, dẫn đầu môt đơn vị gồm những chiến xa T 54 + T59 có bộ binh yểm trợ, nhằm lừa phi cơ quan sát của ta, xâm nhập vào bệnh viện dã chiến, nằm cạnh thành DakPha, cách vòng đai phi trường chừng 800 mét, với thủ đoạn lợi dụng vào những thường dân và binh lính bị thương nằm trong bệnh viện, để uy hiếp lực lượng của ta. Tiểu Đoàn 4/44 do Thiếu Tá Võ Anh Tài chỉ huy đã đánh một trận chiến vô cùng gay go ác liệt với một lực lượng địch đông gấp ba lần, dùng chiến xa T 54 làm nổ lực chính.


Xe tăng địch nép theo những vách nhà bệnh viện. Muốn diệt chúng phải tiếp cận để có thể dùng những khẩu M 72 hiệu quả, anh Tài cùng toán quân báo đã dẫn đầu đơn vị, tìm cách chui qua hàng rào bệnh viện, và anh đã hy sinh bởi bị chính mìn của ta phát nổ. Người anh cả của Tiểu Đoàn, một sĩ quan xuất thân từ khóa 16 VBĐL lừng danh, đã nằm xuống dọn đường cho đơn vị mình cứu nguy bệnh viện, nơi có đồng bào và cả đồng đội của anh bị địch quân dùng làm bàn đạp trong ý đồ bất nhân của chúng. Đại Đội Trinh Sát đang bảo vệ Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn được điều động tiếp ứng, đột nhập đánh vào sườn địch. Trinh Sát 44, một đại đội với bao chiến công hiển hách từ thời đại úy Trần Công Lâm, Phan công Minh và sau này là Đoàn quang Mạnh, đã đánh một trận thật tuyệt vời, bắn cháy nhiều chiến xa địch, đuổi đám tàn quân Cộng sản chạy thoát thân ra khỏi bệnh viện và giữ vững một lần nữa vòng đai thành phố. Đại đội Trinh sát này dưới sự chỉ huy tài ba và gan dạ của trung úy Phan Công Minh, đã từng đánh một trận thần tốc, chỉ bằng lựu đạn và cận chiến, giải cứu cho một Tiểu Đoàn BĐQ /BP bị vây trên đỉnh núi ChuPao.



Minh bị thương nhưng vẫn tiếp tục điều quân, vừa phá vòng vây cứu nguy cho đơn vị bạn, vừa diệt những cái chốt cuối cùng, khai thông QL 14, để lực lượng chiến xa của Lữ Đoàn II KB lên tăng cường cho mặt trận và hộ tống đoàn xe tiếp tế, lần đầu đến Kontum kể từ khi cuộc chiến khởi đầu. Tướng Trần văn Hai, nguyên Chỉ huy trưởng BĐQ, lúc ấy là TLP/ QĐII đã cùng đại tá TMT/QĐ Lê Khắc Lý, đến QYV Pleiku ôm lấy người đại đội trưởng trẻ tuổi tài ba gan dạ Phan Công Minh ngay khi vừa mới được tản thương về, và gắn lon đại úy cùng anh dũng bội tinh với nhành dương liểu cho Minh tại đây.



Lúc ấy Minh vừa tròn 25 tuổi.
- Đại úy Mạnh bây giờ ở đâu, các anh có gặp anh ấy không ?
Câu hỏi của chị đã cắt mất dòng hồi tưởng của tôi. Tôi lên tiếng trả lời chị :
- Anh Mạnh đã chết trong tù cải tạo từ năm 1978 chị ạ.
Im lặng một lúc, tôi lại nghe tiếng chị khóc .
- Chị Hà em, bạn gái của anh Mạnh lúc xưa cũng bị chết năm 75 khi VC vào chiếm Kontum. Mộ chị nằm ở ngay phía trước đây.



Vừa nói, chị vừa dẫn chúng tôi đến đó. Nhìn bức ảnh trên mộ bia tôi mang máng nhớ lại người con gái tên Hà ở một quán cà phê nhỏ nằm trong vườn cây sau nhà, hơn ba mươi năm về truớc.
Nghĩa địa mới này nằm không xa làng Trung Nghĩa. Tôi rủ chị cùng với chúng tôi ghé lại lại thăm làng và khu nhà thờ. Nơi mà ngày xưa ông cha chánh xứ đã cùng chúng tôi chiến đấu bảo vệ những giáo dân ngoan đạo . Nghe nói ngài đã bị tra tấn đến chết trong trại tù cải tạo.



Ra khỏi nghĩa trang, nhìn về phía bắc, rừng núi ngày xưa, dù không tránh được dấu vết của đạn bom, nhưng vẫn còn xanh tốt, giờ sao lại xơ xác điêu tàn. Tôi hỏi chị bạn gái anh Bình, nghe tiếng chị thở dài :
- Tham nhũng bây giờ còn tàn phá nhiều hơn cả chiến tranh ngày trước .
Tôi nhớ lại những vụ án ở đây, có liên quan đến nhiều ông lớn. Mới đây bà Thao Y Bình, Bí Thư Tỉnh Đoàn Kontum đã ăn cướp đến gần 140 tỷ đồng của dân nghèo, và ông Trần văn Thiên, chủ tịch huyện Dak Glei đã thông đồng bán bao nhiêu gỗ quí.
Trên đường vào làng Trung Nghĩa, tôi hồi tưởng tới trận chiến trên tuyến Tây Bắc Kontum. Nơi đơn vị tôi đã thắng một trận thật lẫy lừng, làm tiêu hao cả sư đoàn 320 mà địch quân thường hãnh diện là Sư Đoàn Thép, mở đầu cho bao nhiêu chiến thắng sau đó để Kontum, Tây Nguyên không lọt vào tay giặc.




Đúng vào sáng 30 tết năm 1972, khi chuẩn bị buổi tiệc tất niên cho các đơn vị tại hậu cứ Sông Mao sau một năm đối mặt với chiến trường, Trung Đoàn 44 chúng tôi nhận khẩu lệnh của Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh QĐ II, di chuyển khẩn cấp lên An Khê để thay thế vị trí Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ vừa rút quân về nước. Vừa đến An Khê vào chiều mồng một tết, chúng tôi đã cùng với Thiết Đoàn 3 KB tham chiến, giải tỏa áp lực địch đang bao vây một số căn cứ phòng thủ của các đơn vị thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn dọc theo đèo An Khê nằm trên QL 19. Tình hình tương đối yên tĩnh, các căn cứ Đại Hàn được giải tỏa, QL 19 đã khai thông, chúng tôi vừa đảm trách giữ an ninh cho QL19 từ Pleiku đến Bình Khê, vừa thiết lâp lại các căn cứ pháo binh, phòng thủ. An Khê là một địa danh làm người ta nhớ tới hai đoạn đèo Mang Yang và An Khê cùng những khúc quanh "tử thần", mà ngày xưa cả một tiểu đoàn thiện chiến của đội quân viễn chinh Pháp bị lọt vào ổ phục kích, để gần như phải xóa sổ.



Ngày 24/4/72, Tân Cảnh thất thủ khi BTL Tiền Phương của SĐ22 bị tràn ngập. Đại tá Lê Đức Đạt, vị tư lệnh không được sự ủng hộ của tay phù thủy John Paul Vann, cố vấn Mỹ QĐII&QK2, đã từ chối lời mời lên máy bay của người cố vấn SĐ khi phòng tuyến bị chọc thủng bởi nhiều chiến xa T 54 của địch. Ông ở lại chiến đấu và vùi thây nơi chiến địa. Căn cứ Tân Cảnh thất thủ, quận Dakto mất, một BTL/Sư Đoàn bị rơi vào tay giặc mà không hề có bất cứ sự yểm trợ nào của lực lượng đồng minh, cùng cái chết của vị tư lệnh liêm sỉ, khí phách hào hùng thời ấy đã là một trang chiến sử nói lên cái bi phẫn của QLVNCH, báo trước sự bỏ rơi của người bạn đồng minh Mỹ, đã từng cam kết bảo vệ miền Nam, tiền đồn của Thế Giới Tự Do.



Căn cứ địa đầu thất thủ, kéo theo sự xáo trộn của một Sư Đoàn bao nhiêu năm trấn thủ tam biên, tạo thuận lợi để địch quân tràn xuống uy hiếp Kontum.
Trung Đoàn 44 nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum. Lúc này thành phố Kontum đang bất ổn, VC đã có mặt một số nơi trong thành phố và pháo kích thường xuyên vào phi trường, một vài phi cơ bị trúng đạn phải nằm ụ tại chỗ. Chúng tôi được lần lượt không vận vào ban đêm bằng C 130. Khi sắp vào không phận, máy bay tắt hết đèn. Phi cơ không đáp mà chỉ bay rà qua phi đạo để chúng tôi nhảy xuống từ cửa phía sau.




Tiểu Đoàn 1 và 2/44 đựơc chở thẳng tới phòng tuyến tây bắc, thay thế cho một liên đoàn BĐQ vừa bị tiêu hao quân số. Hai vị tiểu đoàn trưởng lại là hai người bạn cùng tốt ngiệp khóa 19 VBĐL thao lược, can trường: Đại úy Đặng Trung Đức và Nguyễn Xuân Phán. Ngay sau khi nhận khu vực trách nhiệm, từ vị tiểu đoàn trưởng đến binh sĩ cùng nhau lập phòng tuyến chiến đấu, đặc biệt là đào những hầm hố chống chiến xa phía trước.



Vào khoảng 5 giờ sáng, ánh trăng hạ tuần còn mờ ảo dưới màn sương, các toán tiền đồn phát hiện có nhiều chiến xa địch đang tiến về hướng nam. Các đơn vị được lệnh xuống giao thông hào, và dỡ bỏ tất cả các lều poncho để tránh sự phát hiện của địch. Trên hệ thống vô tuyến, tất cả báo cáo đã sẵn sàng. Địch quân tập trung đánh vào phòng tuyến TĐ 2 của Đại úy Nguyễn Xuân Phán. Chúng không ngờ có một đơn vị thiện chiến mới toanh vừa mới có mặt trên chiến trường này, nên sau một loạt tiền pháo, chúng xua những chiếc T54 dàn hàng ngang, lực lượng bộ binh ồ ạt theo sau. Mặc dù đây là lần đầu tiên trực chiến với xe tăng địch nhưng không hề nao núng, mặc cho những xích sắt tha hồ rú gào đe dọa, Đại úy Phán bình tĩnh vừa gọi pháo binh tác xạ ngăn chặn, phân tán và tiêu diệt bộ binh địch, vừa ra lệnh cho đơn vị chỉ khai hỏa khi những chiếc T 54 tới gần trước mặt, trong tầm bắn chính xác hữu hiệu của những khẩu M 72, loại vũ khí chống tăng duy nhất mà đơn vị được cấp, và một số B40, B41 của địch thu dược từ chiến trường An Khê. Đó là một quyết định táo bạo và sáng suốt.



Chiếc T54 đầu tiên bị bắn hạ do chính anh Tiểu Đoàn Phó, đại úy Nguyễn văn Hướng. Ngay sau đó, hàng loạt xe tăng địch bị bắn cháy. Cả một tiểu đoàn ồ ạt hô xung phong. Cộng quân bị đánh bất ngờ, khiếp sợ, quay đầu chạy. Một chiếc T54 ủi thẳng vào hầm BCH/TĐ, bị ta bắt sống cả xe lẫn địch, trong đó có tên đại đội trưởng. Tiểu Đoàn 1/44 của Đại úy Đức trở thành lực lượng ngăn chặn hữu hiệu, đánh bất ngờ bên hông địch, đám tàn quân chỉ còn kịp buông súng đầu hàng. Chiến thắng ấy tất nhiên là công trạng của tất cả mọi người, nhưng sẽ là thiếu sót lớn lao, nếu không nhắc tới thiếu tá Ngô văn Xuân, vị trung đoàn phó tốt nghiệp khóa 17 VBĐL hiền lành mà tài năng đảm lược.


Lúc nào tiếng nói thật bình tĩnh, trấn an, dặn dò, đốc thúc của Bá Hòa (danh hiệu của anh) cũng vang trên hệ thống vô tuyến làm nức lòng chiến sĩ. Ngay sáng hôm ấy, khi khói lửa chưa an, Thiếu Tướng Nguyễn văn Toàn vừa nhận chức vụ Tư lệnh QĐII thay thế Tướng Ngô Dzu, bay lên thị sát mặt trận. Ông vẫn đội bê rê đen, đứng trên xe M113 và đi bộ ngay trên phòng tuyến, bắt tay từng anh em binh sĩ, vui mừng với chiến tích đầu tiên của ông và gắn lon thăng cấp cho vị trung đoàn trưởng. Người ta đã nói nhiều về cá nhân ông, nhưng ít ai biết được ông là một dũng tướng ngoài chiến trường.
Chiến công hiển hách này đã mở đầu cho hằng loạt chiến thắng khác của tất cả những đơn vị tham chiến để bảo vệ Kontum và giữ vững vùng địa đầu Tây Nguyên trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.



Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu lên thăm Kontum, mừng chiến thắng. Khi trực thăng ông đáp xuống căn cứ B 12, bản doanh của BTL/SĐ23BB, đạn pháo của VC thi nhau rót xuống, nhưng vị Tổng Tư lệnh đã xua tay từ chối nhận chiếc áo giáp từ vị đại tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn. Ít nhất ông cũng đã chứng tỏ được cái uy dũng của một người xuất thân từ lính. Nhân dịp này Tổng Thống đã gắn lon Tướng cho đại tá Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư Đoàn. Các anh Tiểu Đoàn Trưởng đều được vinh thăng một cấp. Riêng vị trung đoàn phó thầm lặng Ngô văn Xuân được thăng cấp bằng một quyết định riêng sau đó. Anh được điều về làm Trưởng Phòng 3 Sư Đoàn và sau này là một trong những vị trung đoàn trưởng thao lược của QLVNCH.



Trung Nghĩa bây giờ chẳng còn môt chút gì dấu tích chiến tranh, nhưng nhìn ở đâu tôi cũng thấy bóng dáng anh em đồng đội cũ, những người bạn trẻ tuổi can trường của chúng tôi ngày trước. Đặng Trung Đức đã hy sinh vào mùa hè 1973 khi vừa được trực thăng vận xuống phía bắc căn cứ Non Nước. Tên anh được đặt cho bản doanh BTL/SĐ. Vợ con anh đã sang Pháp, nhưng chị Đức đã mất từ năm 1982, hai đứa con nhỏ phải nhờ ông bà ngoại nuôi nấng. Bà mẹ già góa bụa, mà Đức là con một, cũng đau buồn mà đi theo Đức chưa đầy một năm sau ngày Đúc hy sinh. Trần Công Lâm, người bạn cùng khóa thân thiết nhất của tôi - người sĩ quan chưa hề biết mùi chiến bại, đi hành quân mà chưa gặp địch là không chịu quay về -, trước khi nắm Tiểu Đoàn 3/44, đã từng là một đại đội trưởng Trinh Sát lừng danh với bao chiến công hiển hách, vang dội khắp Quân Đoàn, cũng đã nằm xuống cuối năm 1973 trên đỉnh Ngok Wang đèo heo gió hú.


Nguyễn xuân Phán sau những năm tháng tù đày, hiện lưu lạc ở một thị trấn nhỏ thuộc tiểu bang Washington bên Mỹ và vẫn hăng say trong các tổ chức xã hội, cộng đồng. Thỉnh thoảng anh xuống San Jose gặp gỡ bù khú với anh em, vẫn cạn ly một trăm phần trăm, dễ thương, vui vẻ như ngày nào. Anh bảo chỉ có những lúc vui với anh em và say mèm mới có thể quên được nỗi đau. Phan Công Minh thì đang sống âm thầm ở một thành phố biển ngoại ô New York. Hơn 10 năm đi cày 2, 3 "job", để đủ lo cho các con ăn học, thời gian còn lại chỉ đủ để uống rượu tiêu sầu. Bây giờ tương đối rảnh rang, truyền nghề đánh giặc lại cho thằng con trai lớn vừa tình nguyện vào Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, đang hành quân trên chiến trường Irak. Riêng anh Ngô văn Xuân, mòn mỏi, bệnh hoạn sau hơn 13 năm tù.



Nhưng dường như những vết thương chiến trường, tù ngục còn trên thân xác không làm cho anh đau đớn bằng vết thương trong lòng. Nỗi đau của một người đã hiến đời cho binh nghiệp mà giữa đường phải đành vất cung bẻ kiếm. Bây giờ anh sống lặng lẽ ở một nơi gần thành phố San Jose, làm thơ Hoa Tâm, nghiên cứu về Thiền và Phật học. Còn lại, những đồng đội khác, hoặc đang sống lê lết khốn cùng ở đâu đó bên quê nhà với thương tích trên người, hoặc lưu lạc muôn phương, một số đã hy sinh, xác thân nằm ở một nơi nào đó, giữa núi rừng Kontum này, hay hoang lạnh trong các nghĩa trang, đã dời đi hoặc bị san bằng, nhưng có lẽ hồn thiêng vẫn còn phảng phất đâu đây. Tôi đốt hết bó nhang còn lại chia cho anh em. Chị bạn gái của anh Bình cũng xin được chia phần. Chúng tôi đứng nghiêm khấn vái bốn phương trời. Cầu nguyện hồn thiêng của những đồng đội cũ được sớm siêu thoát trên chốn vĩnh hằng, và xin tất cả tha lỗi cho chúng tôi, những người còn sống nhưng đã không trả được – dù chỉ một phần nhỏ nào - món nợ máu xương cho họ.




Suốt đêm hôm ấy không ngủ được, chúng tôi nằm kể lại bao nhiêu chuyện vui buồn trên chiến trường xưa, nhắc lại từng tên, từng khuôn mặt bạn bè. Chúng tôi cũng tranh luận thật nhiều về cuộc chiến đã qua và những cái chết của đồng đội mà thấy lòng nặng trĩu những đau buồn với bao điều tức tưởi.



Sáng hôm sau, chị chủ quán, bạn gái anh Bình, mời chúng tôi ăn sáng rồi tiễn chúng tôi ra đầu cầu Dakbla. Chị đứng yên lặng không nói một lời gì. Nhìn những giọt nước mắt chảy dài trên má chị, trong lòng chúng tôi có lẽ ai nấy cũng đang giữ riêng một nỗi ngậm ngùi. Nhìn dòng sông Dakbla chảy ngược qua cầu, tôi có cảm giác như lòng mình cũng đang chảy ngược về những nơi nào đó, những chiến trường xưa, mà mãi mãi vẫn còn in bóng dáng hào hùng của bao nhiêu bè bạn, anh em - những người đồng đội cũ. Tất cả đã từng có một thời sống rất đáng sống.

phạmtínanninh


=

NGUYỄN DUY AN * Ba Cựu Chiến Binh 'homeless' và phim 'Inside The Vietnam War'

Nguyễn Duy An

Nguyễn Duy An là người Á châu đầu tiên đảm nhiệm chức vụ Senior Vice President National Geographic, tổ chức văn hoá khoa học lớn nhất thế giới.. Bài viết của ông mang theo một thông tin đặc biệt: Truyền hình National Geographic chiếu phim 'Inside the Vietnam War' nhân kỷ niệm 40 năm trận chiến Mậu Thân.



Tôi rất ngạc nhiên khi bà thư ký dẫn vị sĩ quan an ninh của sở vào văn phòng với nét mặt hoảng hốt và rụt rè lên tiếng:
- Duy à... Có chuyện rồi! Đại uý Morrow cần gặp riêng Duy.
Bà ta vội vã quay lưng, với tay đóng cửa và bước nhanh ra ngoài. Tôi vừa bắt tay đại uý Morrow vừa hỏi:
- Mời đại uý ngồi. Anh tìm tôi có việc gì quan trọng?
- Xin lỗi anh Duy nhé. Ở dưới nhà có 3 người 'homeless' cứ nằng nặc đòi gặp anh cho bằng được. Nhân viên an ninh đã giữ họ lại và báo cáo cho tôi tìm gặp ông để thảo luận. Những người này có vẻ không đàng hoàng... nhưng có một người tên Norman khai rằng anh là bạn của hắn ta.
- Ồ... Đó là anh chàng thỉnh thoảng vẫn thổi kèn Saxophone kiếm tiền ở trạm xe điện ngầm Farragut West đó mà. Anh ta đàng hoàng lắm. Không sao đâu. Để tôi xuống gặp họ.
- Anh chờ chút. Chúng tôi muốn sắp xếp để canh chừng vì hai anh chàng kia trông có vẻ 'ngầu' lắm. Mấy tay này cứ luôn miệng chửi thề và 'càm ràm' với giọng điệu rất hung hăng về cuộc chiến Việt Nam. Tôi đoán chắc họ thuộc nhóm cựu chiến binh Việt Nam mắc bệnh tâm thần... Anh tính sao?
- Tôi nghĩ không cần thiết lắm đâu. Tôi biết tôi không thể dẫn họ lên văn phòng, nhưng có thể mời họ vào 'cafeteria' uống ly nước, chắc không sao chứ?
- Cũng được, nhưng cẩn thận vẫn hơn. Để tôi bảo nhân viên để ý trông chừng trong lúc anh gặp họ ở 'cafeteria'. Anh không ngại chứ?
- Cám ơn các anh, nhưng đừng lộ liễu quá, họ tủi thân.
Trong lúc theo với đại uý Morrow xuống nhà gặp 'khách', tôi nghĩ về kỷ niệm quen biết Norman từ gần 10 năm trước.



Hồi đó, tôi mới về làm cho National Geographic, vì chưa quen đường sá ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn nên thường đi làm bằng xe 'Metro'. Một buổi sáng Thứ Sáu, tôi đi trễ hơn bình thường vì phải ghé qua trường học để ký một số giấy tờ cho các con trước ngày tựu trường. Vừa ra khỏi xe điện ngầm ở trạm Farragut West, tôi nghe vọng lại tiếng kèn Saxophone rất điêu luyện đang 'rên rỉ' bài Hạ Trắng:

Gọi nắng... trên vai em gầy đường xa áo bay
Nắng qua mắt buồn, lòng hoa bướm say
Lối em đi về... trời không có mây
Đường đi suốt mùa nắng lên thắp đầy...



Lên khỏi cầu thang ở trạm xe điện, tôi sững sờ khi trông thấy một một người Mỹ 'homeless' đang 'ngất ngưởng' thả hồn vào một cõi xa xăm vô định, miệt mài thổi Saxophone. Bài hát vừa dứt, đám đông vây quanh vừa vỗ tay tán thưởng, vừa bỏ một vài đồng bạc lẻ vào cái mũ vải bên cạnh... Tôi tiến đến gần hơn, móc ví lấy tờ giấy bạc $10 bỏ vào mũ biếu anh ta, một người Mỹ có lẽ là cựu chiến binh Việt Nam vì anh ta đang mặc chiếc áo khoác quân nhân, với bảng tên Norman Walker trên túi áo và bên cạnh còn treo lủng lẳng một số huy chương. Tôi chưa kịp bỏ tiền vào mũ, anh ta đã hỏi bằng tiếng Việt:
- Mày Việt Nam hả? Biết bài hát vừa rồi không?
- Đương nhiên rồi. Ông thổi kèn rất hay và có hồn. Ông nói tiếng Việt cũng giỏi.
- Đại khái thôi. Kêu mày tao được rồi. Tao đã từng đấm đá gần 8 năm trời trên quê hương của mày, nhưng khi trở về bị quê hương tao ruồng bỏ. Nản bỏ mẹ. Tao nhớ Việt Nam nên tập thổi nhạc Trịnh, thỉnh thoảng ra đây biểu diễn kiếm thêm ít đồng mua cơm mua cháo sống qua ngày với đám bạn không nhà không cửa trở về từ cuộc chiến.
- Ông...
- Lại ông nữa. Mày tao cho thân tình. Không phải người Việt tụi mày vẫn nói thế sao?
- Tôi không quen gọi người lạ như thế. Hay gọi nhau là 'anh tôi' được không?
- Tuỳ mày. Tiếng Việt tụi mày rắc rối lắm. Mày có cần phải đi làm chưa? Tao phải tiếp tục thổi thêm vài tiếng nữa mới đủ sở hụi. Tao nghỉ lúc 11 giờ, mày có thể tới nói chuyện. Nếu bận thì thôi. Thứ Sáu nào tao cũng làm ăn tại đây. Nếu không chê, mày có thể trở lại.
- Tôi sẽ trở lại trước 11 giờ. Văn phòng tôi làm việc cũng chỉ cách đây một quãng đường ngắn.
- Mày không sợ hả?
- Sợ gì?
- Tụi tao là loại người bị ruồng bỏ và khinh chê.
- Không có đâu. Tôi sẽ trở lại.
- Đi đi. Hẹn gặp lại.
Tôi đã trở lại gặp Norman và mời anh ta cùng ăn trưa hôm đó. Anh ta rất cảm động, và chúng tôi trở thành 'bạn' từ dạo đó.




Tôi thắc mắc tự hỏi không hiểu tại sao hôm nay Norman không gọi điện thoại cho tôi mà lại dẫn theo hai người bạn tới văn phòng tìm tôi, gây xáo trộn cho thêm rắc rối. Tôi chỉ sợ Norman và bạn của anh ta sẽ buồn và mất cảm tình với National Geographic cũng như cá nhân tôi vì bị những nhân viên an ninh của sở 'hạch hỏi'. Đã từ lâu lắm rồi, tôi cảm nhận được nội tâm đơn thuần và tính tình chân thật của những cựu chiến binh không nhà không cửa lang thang khắp đường phố thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Có những người đã từ bỏ tất cả để sống kiếp lang thang tại vùng thủ đô để thỉnh thoảng có dịp ghé thăm và tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh trong cuộc chiến được khắc tên trên bức tường cẩm thạch mầu đen ở đài tưởng niệm Binh Sĩ Hoa Kỳ Trong Cuộc Chiến Việt Nam (Vietnam Veterans Memorial). Những cựu chiến binh râu ria xồm xoàm, quần áo rách nát và bẩn thỉu, thân thể xâm đầy những bức hình ngổ ngáo hay những dòng chữ ngang tàng để che dấu một nội tâm lúc nào cũng khắc khoải trong đau thương tủi nhục và nhức nhối từng đêm vì những ám ảnh từ cuộc chiến Việt Nam. Tôi cảm thương với hoàn cảnh của họ và trân quý những hy sinh họ đã dành cho Quê Hương Yêu Dấu Việt Nam của chúng ta.
Vừa gặp mặt, Norman siết chặt tay tôi cười lớn, rồi lên giọng:
- Gặp mày còn khó hơn gặp sĩ quan cao cấp ngoài mặt trận nữa. Hôm nay nói tiếng Anh nhé. Bạn tao không biết tiếng Việt và tao cũng không muốn đám 'cớm dổm' ở đây nghi ngờ, gây thêm phiền phức cho thằng bạn người Việt rất thân của tao.
Norman đổi giọng, nói tiếng Anh:
- Đây là thằng Duy rất thân của tao. Nó là người Việt tỵ nạn nhưng đang làm lớn ở đây. Chắc nó giúp được tụi mình. Còn đây là Bernie và Bob, hai thằng bạn thân 'homeless' của tao.
Norman vẫn không buông tay nên tôi đành bắt tay trái với Bernie và Bob, rồi lên tiếng mời:
- Mời các bạn xuống 'cafeteria' uống nước và nói chuyện.
- Có tiện không? Hay tụi tao chờ mày ở ngoài kia, lúc nào rảnh ra nói chuyện.
- Không sao đâu. Tuy nhiên, Norman đừng đòi cà phê sữa đá, ở đây không có đâu.
Norman cười ha hả trả lời bằng tiếng Việt:
- Biết rồi! Khổ lắm, nói mãi! Đúng không?
- Rất đúng. Nghe giống hệt 'một ông già Bắc kỳ' thứ thiệt.



Chúng tôi vui vẻ bước vào gọi cà phê, cùng tiến về một bàn trống phía trong cùng trước bao nhiêu con mắt kinh ngạc của những người đang có mặt trong 'cafeteria' sáng hôm đó. Vừa ngồi xuống bàn, Norman vội vàng lên tiếng:- Để khỏi mất thì giờ của mày, tao vào đề ngay nhé. Hôm qua Bernie đọc thấy ở đâu đó nói tuần này National Geographic sẽ có 'preview' cuộn phim 'Inside the Vietnam War' trước khi trình chiếu vào dịp kỷ niệm 40 năm biến cố Tết Mậu Thân. Đúng không?
- Đúng rồi. Chúng tôi sẽ bắt đầu chiếu trên đài National Geographic từ ngày 18 tháng 2 này.
- Đài của tụi mày chỉ có trên 'Cable' và 'Direct-TV'. Dân 'homeless' tụi tao làm sao xem được. Tao biết họ vẫn mời mày 2 vé 'preview' mỗi khi có phim mới. Mày kiếm thêm vé cho 3 đứa tao đi xem với. Được không?
- Chắc được. Mấy lần trước tôi đưa vé cho bạn nhưng có bao giờ xuất hiện đâu!
- Lần này khác... vì họ nói về tụi tao và những bạn bè từng đấm đá trên Quê Hương của mày.




Để giữ sĩ diện cho tôi, cả 3 người 'bạn' cựu chiến binh đều ăn mặc quần áo tươm tất, đầu tóc chải gọn gàng đứng chờ ngoài hành lang 'Explorer Hall' cả giờ đồng hồ trước khi tôi xuống dẫn vào xem phim trong hội trường chính của National Geographic. Sau khi cầm trong tay 4 tấm vé 'preview', tôi đã liên lạc nhờ mấy người trong nhóm 'Audio & Video' của sở sắp xếp để chúng tôi ngồi trong góc cuối của hội trường, tránh xa những vị 'tai to mặt lớn' trong sở cũng như những vị khách từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Cựu Chiến Binh, Quốc Hội, và viên chức Chính Phủ Mỹ.
Sau những lời giới thiệu, những bài diễn văn theo thủ tuc, cuộn phim bắt đầu chiếu. Mấy người bạn cựu chiến binh Mỹ của tôi chăm chú lắng nghe, mắt người nào cũng long lanh ngấn lệ, cùng siết chặt tay nhau để nén lại những cảm xúc đang cuồn cuộn trào dâng trong tim của mỗi người.



Thỉnh thoảng tôi nghe thoang thoảng đâu đó một vài tiếng sụt sùi nho nhỏ vang lên khắp hội trường. Ba người bạn của tôi vẫn 'án binh bất động' dõi mắt dăm chiêu theo từng tấm hình, từng tiếng súng, từng bước đi, từng câu nói, từng tiếng khóc... trên màn ảnh. Tới đoạn phim chiếu lại cảnh những cựu chiến binh trở về từ Việt Nam bị 'dân Mỹ' và có lúc cả gia đình và bạn bè miệt thị, Bob bật tiếng khóc thật lớn, rồi Bernie, rồi Norman và một vài người chung quanh cùng khóc theo!
Ai đó đã ra lệnh tạm ngưng. Đèn hội trường bật sáng. Tôi vội vã xin lỗi những người chung quanh rồi vội vàng 'kéo' ba người bạn cựu chiến binh ra khỏi hội trường. Cả ba vừa đi vừa khóc, lững thững lê gót 'khật khưỡng' bước theo tôi như ba cái xác không hồn!



Mấy ngày sau, tôi nhận được một cú điện thoại từ nhóm thực hiện cuộn phim tài liệu 'Inside the VietNam War' nhờ tôi sắp xếp một cuộc gặp gỡ với 3 người bạn cựu chiến binh 'homeless' đã cùng tôi đi xem 'preview' hôm đó, và cũng nhờ họ mời thêm những bạn bè khác vì Bộ Quốc Phòng và Bộ Cựu Chiến Binh cùng một vài viên chức trong chính phủ muốn gặp gỡ và giúp đỡ họ.
Có lẽ đã tới lúc người Mỹ nhận thức được 'món nợ phải trả' cho sự hy sinh của những cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam.
Lòng tôi chợt nhói lên một niềm đau khi nghĩ tới số phận của những cựu quân nhân và công chức của Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Ai còn? Ai mất?

NGUYỄN DUY-AN

Phan Lạc Tiếp * Một Làn-Gió Tinh-Khôi

Một Làn-Gió Tinh-Khôi.

Phan Lạc Tiếp

Cuộc di tản bi thương ngày nào, đối với đại đa số chúng ta, những người trong cuộc, không thiếu những người vẫn coi như mới, đêm ngủ vẫn kéo theo những hình ảnh hãi hùng, kinh khiếp, tiếp nối bằng những kỷ niệm của những ngày bỡ ngỡ trên đất tạm dung. Trong những ngày vừa hoang mang lẫn mừng rỡ nhưng cũng tràn đầy lo âu và buồn bã này, câu hỏi của đa số người di tản chúng ta trước khi đưa chân rời khỏi trại tỵ nạn, rời xa những đồng bào, bè bạn thân quen là : làm sao chúng ta liên lạc, tìm lại được nhau đây.


Sống làm sao đây trong cái “bể mênh mông” là nước Mỹ rộng lớn này ? Hình ảnh tiễn đưa nhau bên cổng trại là những bàn tay nắm những bàn tay giữa kẻ đi người còn ở lại, có những mảnh giấy nhỏ viết vội vàng “đây là số điện thoại của người bảo trợ của tôi…”. Xe chuyển bánh, mảnh giấy nhỏ ghi 10 con số, đôi khi nhoè nhoẹt vì những hàng nước mắt.



Trong nỗi băn khoăn này, điển hình là trại tỵ nạn Pendleton, hàng ngày ở cafeteria, nơi gần ngã ba đặt tượng bàn tay khổng lồ xoè ra đỡ, ôm ấp người tỵ nạn, nhóm anh em nhà báo, nhà văn họp mặt. Nơi đây cũng được coi như đài “Radio Catina Di Tản”, phát xuất những tin tức, những tin đồn liên hệ đến mọi vấn đề của cuộc sống mới trên đất tạm dung. Đáng chú ý nhất là nhà báo Nguyễn hoàng Đoan. Anh thăm hỏi mọi người, anh xin những số điện thoại, địa chỉ của những người sắp rời trại. Và cũng chính nơi đây, một số bè bạn trong làng văn, làng báo bàn bạc “phải có một tờ báo để liên lạc với nhau chứ”.


Trong số những người này, cuối cùng được ra trại và định cư tại thành phố gần trại tỵ nạn nhất là San Diego, có vợ chồng Nguyễn hoàng Đoan-Khánh Ly, Luật sư Phạm kim Vinh. Tờ Hồn Việt , như một nỗi khắc khoải của người Việt phải đau khổ rời bỏ quê nhà, nhưng lòng không ngớt thương về đất cũ, được ra đời ở đây. Toà soạn đặt trong một nhà in trong một khu vực nhỏ, lúc ấy được coi như nằm ở ngoại ô thành phố, khu Mission Gorge, của thành phố San Diego. Tờ báo được đón nhận thất nồng nàn. Chỉ một thời gian sau, khi tờ báo đã có tiếng vang, đã được đồng bào khắp nơi biết đến, một số quần hùng từ các nơi tụ về góp mặt, trong đó có nhà văn Lê tất Điều, hoạ sĩ Văn Mộch, và nhiều bằng hữu bốn phương gửi bài về hỗ trợ. Đó là tờ báo tư nhân đầu tiên của người tỵ nạn, ở cực Nam và cực Tây của nước Mỹ này. Được mời gọi, trong những ngày này, tôi cũng có đóng góp một vài bài như một hành động thân hữu có mặt tại địa phương. Nay sau hơn 30 năm tờ Hồn Việt vẫn tồn tại do Ngọc hoài Phương làm chủ nhiệm, chủ bút phát hành rộng rãi trong cộng đồng người Việt trong thế giới tự do.



Trong khi đó, nơi được coi là đối đầu với vùng Nam Cali, có tờ Đất Mới ở thành phố Seattle, do anh Vũ đức Vinh, tức nhà văn Huy Quang, nguyên Tổng Giám Đốc Nha Vô Tuyến Truyền Thanh của VNCH đứng ra thành lập, được sự tài trợ chính thức của chính quyền địa phương nhằm mục đích thông tin và hướng dẫn người Việt tỵ nạn sớm hoà nhập vào xã hội Hoa Kỳ. Lúc ấy vào cuối năm 1975, gia đình tôi đang chân ướt chân ráo rời bỏ San Diego, đến định cư tại thành phố biển hồ, Salt Lake City, do một số bạn bè kéo gọi. Sau nhiều tháng dài cổ nhận những lá thư từ chối của các hãng xưởng ở Cali, nay có công việc tuy không hay ho gì, nhưng có lẽ nhờ chịu khó và có chút khéo tay, tôi đang làm việc cho một hãng đóng tàu nhỏ, loại tàu đi câu cá, chỉ trong 3 tháng đã được tăng lương 3 lần. Giũa khi ấy thí anh Huy Quang gọi tới : “ Lên đây đi ông. Làm báo có lương, nhà cửa xin cũng dễ”, nhưng tôi không dám thả mồi bắt bóng, nhất là bà xã tôi cũng có việc làm trong một nhà may sang trọng trong thành phố này.



Hơn thế nữa, bạn bè cùng khoá khá thân ở đây cũng đông, hàng ngày đi lại cũng rất ấm cúng. Nghe anh Huy Quang nói thế, thích lắm, nhưng tôi đành : “ Xin cám ơn anh Huy Quang thôi”. Bù lại, tôi viết cho tờ Đất Mới loạt bài về chuyến di tản của tôi trên con táu Thị Nại, HQ 502, với trên 5000 người rời Sài Gòn giữa đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Khi ông Dương văn Minh ra lệnh cho “anh em quân đội ở đâu ở đó, chờ bàn giao cho Quân Đội Giải Phóng” thì con tàu Thị Nại chết máy, chật ứ những người tỵ nạn còn nằm cửa sông Soai Rạp. Con tàu ra được ngoài biển nhập vào đoàn tàu di tản là cả một câu chuyện dài, thiên nan, vạn nan.



Nhờ đó hàng tháng tôi đều nhận được mỗi kỳ 2 số báo Đất Mới. Tờ báo lúc này có anh Thanh Nam làm tổng thư ký. Những người viết chủ lực ngoài anh Huy Quang là chủ bút, có chị Tuý Hồng, chị Trần lai Hồng, Nguyễn thanh Trang, anh Nguyễn văn Giang, và sau này có thêm anh Mai Thảo nữa. Thỉnh thoảng thấy có bài của nhà văn, hoạ sĩ Võ Đình và thơ của anh Nhất Tuấn. Dù những bài viết phải bỏ dấu bằng tay, nhưng trang báo vẫn rất sạch và mỹ thuật. Chẳng những thế, mọi tin tức, dù xuất xứ tù đâu, đều được toà soạn viết lại, tránh những ngôn từ trái tai gai mắt phát xuất từ Việt Nam. Cũng trên tờ báo này, lần đầu tiên có bài viết từ trại tỵ nạn ký tên Tưởng năng Tiến.

oOo

Ngoài những bài viết, những tin tức liên hệ đến cuộc sống của người tỵ nạn, tờ báo có hai mục hầu như khác hẳn nhau, mang tên cùng một người viết, đó là mục Trong Lòng Điện Tử, và Hành Trình Về Phương Đông, ký tên Nguyên Phong. Lúc ấy, cách đây gần 30 năm, điện tử là một lãnh vực còn rất mới mẻ, còn trong vòng khai phá, tìm tòi, dự đoán, xa lạ. Giữa lúc ấy thì Nguyên Phong đã trình bày những hiểu biết sâu sắc với những thông tin trong lòng điện tử. Vói tôi, tôi mù tịt, chẳnh hiểu gì, nhưng những người bạn của em tôi đang ngày đêm học hỏi về điện tử thì hết lời khen ngợi những bài viết này. Đó là một lãnh vực mới của những người trẻ, của những ngày trước mặt. Một lãnh vực hầu như chỉ tìm thấy vừng đông rạng rỡ phát xuất từ thế giới tây phương.



Trong khi đó, cũng vẫn cùng một người viết, Nguyên Phong, với loạt bài dịch thật lạ lùng, tràn ngập sự huyền bí trước một phái đoàn khoa học lỗi lạc phát xuất từ những trường đại học danh tiếng tây phương, đi tìm những điều bí ẩn của đông phương ở những năm cuối thế kỷ thứ 19. Lúc đó nước Nga chưa bị Cộng Sản cướp chính quyền. Nước Tàu cón là miếng mồi ngon để các quốc gia tây phương sâu xé. Nói chi đến nước Viêt Nam chúng ta, nơi mới bị người Pháp đặt nền thống trị. Đó là cuốn Journey To The East của Baird Spaling, nhà xuất bản Adyar, in từ năm 1924 tại Ấn Độ, Nguyên Phong đã dịch lại nhan đề là Hành Trình Về Phương Đông, đăng từng kỳ trên nguyệt san Đất Mới. Tôi đã say mê theo dõi loạt bài này. Bây giờ hãy cùng nhau đọc lại vài đoạn trong cuộc đối thoại lạ lùng giữa vị đạo sư Ân Độ với phái đoàn khoa học tây phương dưới đây:



“ Trái đất quay quanh trục của nó với vận tốc 1600 cây số một giờ ở giữa đường xích đạo. Nếu quay chậm 10 lần thì ngày sẽ dài gấp 10 lần và dĩ nhiên sức nóng của mặt trời cũng gia tăng gấp 10 lần. Thế thì cây cối, sinh vật đều bị thiêu sống hết còn gì. Nếu cái gì chống được sức nóng thì cũng chết vì lạnh vì đêm cũng dài gấp 10 lần và sức lạnh cũng tăng lên 10 lần kia mà. Ai đã làm cho trái đất quay trong một điều kiện tốt đẹp như thế ?

“ Mặt trời nóng khoảng 5500 độ bách phân. Quả địa cầu ở đúng một vị trí tốt đẹp không xa quá và cũng không gần quá. Vừa vặn đủ để đón nhận sức nóng của mặt trời.”

“Trục của quả đất nghiêng theo một tà độ là 23 độ. Nếu trái đất đứng thẳng, không nghiêng bên nào thì sẽ không có thời tiết bốn mùa. Nước sẽ bốc hơi hết về hai cực và đông thành băng giá cả”.

“Babu yên lặng nhìn mọi người. Không ai có thể ngờ nhà chiêm tinh Ấn Độ lại có thể sang sảng chứng minh một cách khoa học và hùng biện trước một cử toạ toàn những khoa học gia nổi tiếng nhất của Âu Châu”

“Babu quay sang nhìn giáo sư Allen, một nhà sinh vật học của trường Havard :“ Nếu toán học có vẻ trìu tượng quá hãy thử quan sát thiên nhiên dưới cái nhìn của nhà Sinh Vật Học xem sao : “ Sự sống không có sức nặng hay bề đo mà mạnh mẽ làm sao ? Bạn hãy nhìn một rễ cây non nớt, mềm yếu, vậy mà nó có thể soi nứt một tảng đá cứng rắn. Sự sống chinh phục không khí, đất, nước. Nó thống trị mọi nguyên tố, nó bắt buộc vật chất tan giã rồi lại kết hơp thành các hình thể mới”

“ Chắc chắn trong 25 năm cuối của thế kỷ này sẽ có nhiều thay đổi và có những cố gắng giúp cho sụ tiến bộ của nhân loại, giai đoạn này rất quan trọng.”

“Các ông là người Âu, tôi xin dẫn chứng bằng lịch sủ Âu Châu cho dễ hiểu. Các ông có thể coi nó là sự trùng hợp ngẫu nhiên cũng được : Năm 1275, Roger Bacon phát động phong trào phục hưng văn hoá rồi suốt 100 năm sau toàn thể Âu Châu đều thay đổi. Năm 1375, Christian Rosenkreuz phổ biến nền văn hoá này khắp từng lớp dân chúng, đưa Âu Châu thoát khỏi nền tảng hắc ám của thời kỳ Trung Cổ. Năm 1275 và 1375 chả là 25 năm chót của thế kỷ 13 và 14 hay sao?” Và “ Việc phát sinh ra máy in, ấn loát vào năm 1473 và các cao trào nghiên cứu khoa học vào năm 1578, sự dùng Anh ngữ thay vì Latin để phổ biến kiến thức khoa học của Francis Bacon. Hai việc này xẩy ra vào 25 năm cuối của thế kỷ 15 và 16. Việc đòi san bằng giai cấp, dẹp chế đô Bảo Hoàng vào năm 1675 và cuộc cách mạng Pháp 1789 đều là những biến cố xẩy ra trong vòng 25 năm cuối của thế kỷ 17 và 18”.



“ Năm 1875 đánh dấu một bước tiến quan trọng, đó là sự phát triển khoa học văn minh cơ giới cùng thuyết “Tiến Hoá” của Darwin và phong trào Thiên Chúa giáo tự do. Từ đây bắt đầu một cuộc tranh chấp giữa tinh thần và vật chất. Có hai mãnh lực rất mạnh phát xuất từ hai đầu tinh tú đối cực gây nên phong trào Duy Tâm và Duy Vật. Thế kỷ 20 bắt đầu với sự phát trỉển cực thịnh của thuyết Duy Vật. Con người sẽ bị thúc đẩy vào các sự kiện vật chất, họ sẽ gặp những thử thách mà nhu cầu bao tử, khoái cảm xác thân tranh đấu với nhu cầu tâm linh một cách mãnh liệt. Duy Tâm sẽ phát triển mạnh mẽ và phổ biến sâu rộng để thúc đẩy sự tiến hoá tâm linh. Cuối thế kỷ 20 phong trào Duy Vật sẽ xụp đổ, hiện tượng nghiên cứu các giáo lý bí truyến sẽ bắt đầu.”



oOo



Tôi nghĩ rằng khi đọc đến những hàng chữ trên, quý vị độc giả không khỏi bàng hoàng, tự hỏi : Thật sao? Cuốn sách trên đã viết như thế sao ? Đúng thế. Nguyên Phong đã dịch như thế, ( Hành Trình Về Phương Động từ các trang 47 đến trang 62,) mà chúng tôi lược thuật lại đúng như thế. Và trở lại với thời điểm cuối thập niên 70, với đa số người tỵ nạn chúng ta thì con số 75 hay năm 1975 còn quá sâu đậm, nặng nề. Năm 75 đã đánh dấu một biến cố lịch sử đau thương không phải chỉ dành cho Việt Nam Cộng Hoà mà còn là một biến cố đau đớn cho Hoa Kỳ và cả Thế Giới Tự Do nữa. Ngày mà khối Cộng Sản tưng bừng reo vui khi lá cở đỏ của chúng tung bay trên toàn lành thổ Việt Nam. Với sự cai trị tàn độc của Cộng Sản, những mảnh đất nào đã lọt vào tay họ không có mảy may hy vọng thoát ra. Con số 75 đã làm tôi đau đớn, kinh hoàng. Dù chẳng muốn, cá nhân tôi cũng như hầu hết những người trong cùng lứa tuổi đã bị cuốn hút vào cuộc chiến tàn khốc này với kết cục thật vô cùng ê chề.



Vậy mà thời điểm ấy đã được tiên tri, được ghi lại như thế cả trăm năm. Nhưng cũng vẫn lời tiên tri ấy nói rằng :“cuối thế kỷ 20 phong trào Duy Vật sẽ xụp đổ”. Thật chăng? Làm gì mà tin được. Cộng Sản như một con bạch tuộc, những cái vòi chằng chịt của chúng bủa ra đến đâu, chúng hút chặt cứng ở đó, không thể thoát ra. Từ 1975, thời gian rơi rụng mỏng dần, 25 năm còn lại của thế kỷ này, mong gì con bạch tuộc kia nhả bớt những miếng mồi mà chúng đã hút chặt, bám vào. Càng nghĩ càng thêm vô vọng. Vậy mà đầu thập niên 90, như một huyền thoại, thành trì đầu não cộng sản Nga Sô và những nước vệ tinh của cộng sản ở Động Âu tan rã. Tan giã trong hoà bình và thật là mau chóng. Bức tường Bá Linh được san bằng.



Người Đông và Tây Bá Linh sau bao năm chia lìa đã ôm nhau đầm đìa những giọt lệ mừng vui. Dù đất nước Việt chúng ta chưa thoát khỏi gông cùm cộng sản, nhưng quả thật chúng ta có quyền mừng vui, và tràn đày hy vọng và càng thấy những điều Nguyên Phong dịch trong cuốn Hành Trình về Phương Đông đúng là những lời tiên tri, càng lúc càng có những biến cố làm sáng tỏ những lời tiên tri đó . Do đó tôi mong mỏi, ao ước, tìm gặp Nguyên Phong. Người ấy ở đâu, sao anh lại tìm được cuốn sách này, dịch và phổ biến được những lời linh ứng lạ lùng kia. Làm sao tìm được người đó? Tất nhiên tôi có hỏi anh Vũ đức Vinh, báo Đất Mới, anh chỉ cười cười và nói : “Đương sự vẫn ở đây. Môt người rất trẻ, nhưng khiêm tốn, hầu như không muốn gặp ai. Có thể đến một lúc nào đó đủ duyên thì ông sẽ gặp được anh ta.” Nghe thế, tôi biết không thể làm gì hơn, nhưng trong sâu thẳm của lòng tôi, tôi vẫn mong mỏi được gặp gỡ người này

oOo.



Như chúng ta đã biết, thảm nạn thuyền nhân đã xẩy ra sau khi miền Nam sụp đổ, và trong sự ngẫu nhiên tình cờ một nạn nhân của thảm trạng này là nhà văn Nhật Tiến, một người bạn học cũ của tôi từ thời trung học. Từ những lá thư viết từ trại tỵ nạn Thái Lan mà chúng tôi nhận được đã là nguyên nhân thành lập Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển, do GS Nguyễn hữu Xương, một người bạn khác của chúng tôi làm chủ tịch. Từ việc kêu cứu lúc đầu, sau đã chuyển thành các công tác đem tàu đi Vớt Người Biển Đông. Cùng với những tổ chức quốc tế, một công tác đầy nhân đạo, cụ thể nên đã được cộng đồng người Việt chúng ta khắp nơi nhiệt tình hỗ trợ. Để quảng bá công tác này, cá nhân chúng tôi thường thay mặt GS Nguyễn hữu Xương đi đến nhiều nơi để trình bày, giải đáp về hoạt động của Uỷ Ban.



Tất nhiên với những giao tình sẵn có, tờ Đất Mới của anh Vũ đức Vinh đã nồng nhiệt cổ võ, và chúng tôi đã có một cuộc gặp gỡ bằng hữu tại Seattle, do thi sĩ Vũ quanh Hân đứng ra tổ chức, trong ngôi chùa của thầy Thích minh Chiếu trụ trì. Thầy Thích minh Chiếu, gốc nhà binh, xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, cùng khoá với anh Phạm Hậu. Do đó, anh Phạm Hậu, một người bạn khác của chúng tôi, một thời cũng đã làm Giám Đốc Nha Vô Tuyến Truyền Thanh, rất sốt sắng làm đầu cầu, dàn xếp, đưa đón và cùng các anh em trong tờ Đất Mới tích cực hỗ trợ cho cuộc gặp gỡ này. Trong buổi nói chuyện này tại chùa, người đến dự không đông lắm, chỉ là một số bằng hữu, những người có liên hệ xa gần với tờ Đất Mới và ban trị sự của chùa mà thôi. Khi tôi chấm dứt phần thuyết trình cùng lúc trên màn ảnh TV, hình ảnh chiếc ghe tỵ nạn chìm dần xuống lòng biển mênh mông thì thầy Thích minh Chiếu đứng lên ôm lấy tôi và nhạt nhoà nước mắt. Thầy nghẹn ngào nói : “ Quý hoá quá. Dù xây chín đợt phù đồ. . .” Và thầy sai một thầy tiểu đưa cho tôi một ly nước và tiếp tục nói : “Đây là một ly sâm, xin tặng ông, ông uống đi cho lấy sức. Xin các ông chân cứng đá mềm, hãy gắng công, gắng sức để công tác Vớt Người Biển Đông thêm kết quả”. Có một số vị góp tiền cho, nhưng quan trọng nhất là có một vị cao niên sau chót đứng lên và nói : “ Công việc của quý vị đẹp đẽ quá, cần thiết và đúng lúc quá. Quý vị cần gì nơi chúng tôi, chúng tôi xin hết sức”.


Vì những vấn đề liên hệ đã được nói chi tiết trong bài thuyềt trình, nên tôi bỗng nhớ đến tờ Đất Mới, tờ báo xuất bản ở nơi này, nhớ đến Nguyên Phong, nên tôi nói dù rất thật lòng nhưng lại có chút đùa vui “Đến đây chúng tôi chỉ muốn gặp được người dịch loạt bài Hành Trình Về Phương Đông, anh Nguyên Phong mà thôi”. Vị cao niên này bỗng cười vui :“ Dễ quá. Nguyên Phong là con trai lớn của chúng tôi. Hiện Nguyên Phong đang làm việc ở Los Angeles, khá gần ông. . .” Tôi mừng rỡ khôn cùng.



Khi trở lại San Diego, chỉ mấy ngày sau là cuối tuần, anh chị Nguyên Phong và cả 2 cháu, con anh chị đã từ Los đến thăm gia đình chúng tôi. Để đón anh, chúng tôi nấu một nồi phở vì ngoài những cái ngon, cái tiện do phở mang lại mà Nguyễn Tuân và Vũ Bằng đã hết lời ca ngợi, phở còn có một đặc tính mới được ghi nhận sau biến cố 1975 nơi hải ngoại là “món ăn đợi khách”. Nồi phở để đó trên bếp, khách vì bất cứ lý do gì như kẹt xe không đến đúng giờ như dự liệu, không sao. Khách đến lúc nào ăn cũng vẫn ngon.



Như một người em trong gia đình, anh chị Nguyên Phong rất xuề xoà và vui vẻ ngay từ phút đầu bước chân vào nhà. Vừa ăn vừa trò chuyện, và tôi bỗng phát hiện ra anh chị Nguyên Phong và cả hai cháu chỉ ăn bánh phở mà bỏ lại thịt trong bát. Thấy thế tôi hỏi, anh Nguyên Phong cho hay :“ Thường thì gia đình em ăn chay, nhưng khi đi đâu thì tuỳ hoàn cảnh, không câu nệ. Gặp gì ăn nấy.” Thấy thế, chúng tôi mang mấy đĩa xôi trên bàn thờ xuống, một bầu không khí trên bàn ăn tưng bừng đổi khác.


Chúng tôi cười vui tiếp tục trò chuyện và chúng tôi biết rằng anh Nguyên Phong, tên thật là Vũ văn Du, sinh năm 1950, là con trưởng trong một gia đình đông con. Thân phụ nguyên là một vị không xa lạ trong y giới, cụ là một dược sĩ, đồng thời còn là một người có tâm, có tài và đã đóng góp rất cụ thể với Đại Học Vạn Hạnh. Các em anh, dù kẹt lại việt Nam một thời gian, nhưng cũng đã sang được Hoa Kỳ và hoàn tất văn bằng về y khoa. Nhân được biết và liên hệ đến công tác Vớt Người Biển Đông, anh Nguyên Phong cho hay : “ Hàng năm ít nhất một lần, anh em trong gia đình em họp mặt. Thay vì mua quà tặng nhau, em bảo, không cần, hãy dùng số tiền này gửi về Uỷ Ban Báo Nguy Giúp Người Vượt Biển.” Do đó suốt mấy năm sinh hoạt, Uỷ Ban đều nhận được những chi phiếu trên dưới 4 con số từ gia đình họ Vũ này. Và cũng hàng năm, tôi phải thảo một lá thư riêng cho Giáo Sư Nguyễn hữu Xương, chủ tịch Uỷ Ban ký để trân trọng gửi đến gia đình họ Vũ.



Trở lại với cuốn Hành Trình Về Phương Đông, tôi không quên nhắc đến những điều trùng hợp, tiên tri trong cuốn sách. Tôi có hỏi anh “ Nguyên nhân nào đã khiến chú tìm ra tập sàch này để dịch ra và phổ biến như thế ?” Ngấn ngại khá lâu, anh Nguyên Phong cho biết : “ Như anh chị biết, em là một người khoa học. Trong thời gian trung học, phải nói là em rất coi nhẹ triết lý Đông phương. Như những người lớn lên trong một quốc gia chậm tiến, em ngưỡng mộ nền học thuật Tây phương, không chỉ ở lãnh vực khoa học, mà em rất khao khát tìm hiểu những triết gia Âu Châu. Nhưng khi đã đi sâu vào sự tìm hiểu em thấy nền tríết học Tây phương không giải đáp hết những nan đề của con người, của khoa học, nhất là trước sự khủng hoảng xung đột giữa Duy Tâm và Duy Vật hiện nay. Từ đó em quay về tìm hiểu những triết thuyết của Đông phương.



Nói ra dài lắm, nhưng em thấy mọi việc, như Đức Phật nói : Mọi sự phát xuất từ tâm. Đặc biệt sau khi em vừa trình xong luận án Tiến Sĩ thì cũng là lúc Miền Nam của chúng ta thất thủ. Trong khi đó thì thầy mẹ em, các em của em đều kẹt lại. Lòng em rối như tơ vò. Biết chẳng thể làm gì được lúc này, những ngày cuối tuần và những ngày nghỉ lễ, em lên núi, với một chút thức ăn nhẹ, em ngồi thiền. Có khi cả tuần lễ chỉ uống nước lạnh xuông. Với một tâm hồn thư thản, và một thân hình nhẹ tênh, em nhiều lúc như thấy được thật rõ những ý nghĩ, những hoàn cảnh của những người thân yêu và em yên tâm chờ đợi. Chờ đợi một sự nhiệm màu tốt đẹp sẽ đến. Tất nhiên trong thời gian ấy em đến thư viện rất thường. Một hôm em đi qua khu sách về tôn giáo, em thấy một cuốn sách nhỏ rơi ở lối đi, em nhặt lên, để lên giá sách, nhưng cũng không nhìn xem đó là cuốn sách gì. Đi một vòng quay lại, lại thấy cuốn sách kia rơi trên lối đi.



Em lại nhặt lên và có liếc qua tên cuốn sách trước khi xếp nó vào giá. Sau cả một buổi trong thư viện, khi mọi người đã vãn, ra về, em đi qua khu sách cũ, lại thấy cuốn sách kia nằm giữa lối đi. Em nhặt lên. Cuốn sách mỏng, nhan đề Journey To The East của Baird Spalding, do nhà xuất bàn Adyar in năm 1924 tại Ấn Độ. Cuốn sách cũ quá, nhưng bỗng nhiên em không muốn buông ra, em mượn cuốn sách này đem về đọc chơi. Nhưng lạ thay, suốt đêm ấy cuốn sách đã chinh phục em, em đọc một mạch, rồi lại đọc lại. Những điều nói trong cuốn sách như vẽ ra cho em một vùng trời vừa huyền bí, vừa trong sáng, lại vừa như khơi dậy từ sâu thẳm của em niềm tự hào của nền triết học Đông Phương. Chính lúc ấy em gặp các anh Thanh Nam và Vũ đức Vinh với ý định ra tờ Đất Mới. Các anh ấy mời em phụ trách mục giải đáp khoa học. Em nhận lời ngay với loạt bài Trong Lòng Điện Tử. Cùng lúc em dịch cuốn The Journey To The East- Hành Trình Về Phương Đông. Em đưa cho anh Thanh Nam xem, anh Thanh Nam thích quá, bảo em dịch tiếp đi. Thế là trên tờ Đất Mới em có hai mục như đối chọi nhau, nhưng cùng ký tên Nguyên Phong, Một Làn Gió Mới. . .”



Sau chuyến gặp gỡ này chúng tôi liên lạc với nhau luôn và tờ Đất Mới đã không còn ngân khoản để xuất bản nữa, nhưng ám ảnh của loạt bài kia vẫn in sâu đậm trong lòng tôi. Tôi nói với anh Nguyên Phong : “ Phải góp lại và in ra đi, bỏ mất phí lắm”. Anh Nguyên Phong ngần ngại mãi, sau cùng tôi đề nghị gửi loạt bài này lên cho người bạn tôi, anh Lê Đình Điểu, báo Người Việt “ xem có thể thì in ra cho vui”. Báo Người Việt nhận được, nhưng để rất lâu, cả năm sau mới in ra. Kỳ in đầu tiên là năm 1987. Ai cũng biết rằng sách in ra ở hải ngoại ít khi được tái bản lần thứ hai. Vậy mà trong lặng lẽ, độc giả bốn phương đả đón nhận cuốn sách này thật là nồng nhiệt. Cho đến năm 1993, cuốn sách này đã được in ra đến lần thứ sáu. Và bên cạnh cuốn sách này, có những cuốn sách khác lần lượt xuất hiện do Nguyên Phong dịch hoặc phóng tác, mang nội dung, cảnh trí của những vùng núi non thâm sâu, huyền bí, theo bước chân của những người đi về Phương Động, đặc biệt là Tây Tạng, để tìm thầy, học đạo.

Cuốn Hoa Sen Trên Tuyết, phỏng dịch từ cuốn The Mani Stones của Alan Havey, một BS Y Khoa tốt nghiệp từ Đại Học Michigan. Hoa Trôi Trên Sóng Nước, dịch từ cuốn Journey In Search Of The Way của Satomi Myodo, người Nhật Bản. Huyền Thuật Và Đạo Sĩ Tây Tạng, phóng tác từ cuốn sách Pháp văn, nhan đề Mystiques Et Magiciens Du Thibet của bà Alexandra David Beel. Bên Rặng Tuyết Sơn, phóng tác từ cuốn sách của Swami Amar Jyoti, người Ấn Độ. Ngọc Sáng Trong Hoa Sen, phóng tác từ cuốn The Wheel Of Life của John Blofeld, người Anh. Và những cuốn sách khác nữa của Nguyên Phong, mang cảnh trí và nét huyền bí của Đông phương lần lược xuất hiện đều đặn.



Chỉ với những đầu sách nói trên thôi, trên 2000 trang sách, do những người Anh, người Pháp, người Nhật, người Mỹ và người Ấn, nói về những kinh nghiệm của họ khi tiếp xúc với Đông Phương, với Phật Giáo. Không biết có phải đây là một chứng minh mà trong cuốn Hành Trình Về Phương Đông đã nói, như trên chúng tôi đã dẫn :“ Cuối thế kỷ 20 phong trào Duy Vật sẽ xụp đổ, hiện tượng nghiên cứu các giáo lý bí truyền sẽ bắt đầu”. Nhưng trong phần phụ lục của cuốn Ngọc Sáng Trong Hoa Sen, nơi trang 356, tác giả John Blofeld đã viết : “ Lành thay, lành thay, giáo pháp của đấng Thế Tôn đã được vun trồng một cách tốt đẹp tại phương Tây”. Và một cách cụ thể hãy nhìn vào cộng đồng người Việt ở Nam Cali, chúng ta có hàng trăm ngôi chùa, khó có ai có thì giờ đi thăm cho hết trong một kỳ nghỉ hàng năm, vài tuần. Có những ngôi chùa nhỏ bé, khiêm tốn được tạm dựng trong một căn nhà. Có những ngôi chùa xây cất uy nghi, với đầy đủ tượng Phật, tháp chuông, vườn cảnh không kém gì những cảnh chùa có tiếng tăm ở quê nhà. Và hơn thế nữa, có những Trung Tâm Tu Học chiếm cứ cả một cánh rừng mênh mông mấy trăm mẫu đất. Bướcvào đây như xa lánh hẳn xã hội tây phương, như một góc Việt Nam riêng biệt.



Đồi núi chập chùng, tiếng chuông ngân toả giữa tiếng tụng kinh, giảng kinh bằng tiếng Việt cũng như tiếng Anh. Có những khoá tu học với hàng ngàn người tham dự, với lệ phí khá cao, mà đa số là những người bản xứ, người Mỹ. Trong đó không thiếu những người nổi tiếng, có danh vị trong xã hội, những tài tử điện ảnh. Ba mươi năm trước đây, ai dám nghĩ cả mấy chục ngàn người, ngồi kín cả một sân vận động, bỗng cùng cúi rạp mình xuống, (năm vóc sát đất, tứ chi và đầu sát đất), thật yên lặng trong nhiều phút để đón một ông già Á Đông, áo vàng hở vai, lù khù đi đội dép mỏng, vừa đi vừa cúi đầu đảnh lễ bốn phương. Đó là một nghi lễ cực kỳ cung kính của tôn giáo Tây Tạng dành cho Đức Lạt Ma khi ngài xuất hiện.

oOo

Song song với những hoạt động của những tu sĩ đi hoằng hoá giáo pháp của Đấng Thế Tôn, những cuốn sách của Nguyên Phong, tên tuổi của tác giả trong lặng lẽ đã được rất đông người biết đến và ái mộ. Ái mộ không chỉ như một tác giả uyên thâm, mà còn hàm chứa hình bóng của một nhà tu hành, một vị đạo sư. Các sách của Nguyên Phong còn được nhiều người đọc vào băng, thu vào dĩa, hoà vào nhạc và phổ biến rất trân trọng và rộng rãi. Một trong những “trung tâm” này là chị Đăng Lan tại Úc. Trong dip gặp chị đến San Diego, chị có tặng chúng tôi mấy cuốn băng đọc sách của anh Nguyên Phong, nhưng chị nói “ Em muốn được gặp ông Nguyên Phong để xin phép mà không biết ông ấy ở đâu”.



Chúng tôi có chuyển ý nguyện này tới anh Nguyên Phong, nhưng anh Nguyên Phong chỉ cười và nói : “ Không cần anh ạ. Chỉ là cái duyên, mỗi người trong chúng ta, tuỳ theo hoàn cảnh mà chuyển tải lời dạy của Đáng Như Lai thôi.”. Nguyên Phong không quan tâm đến danh, đến lợi. Ngay cả tác quyền những cuốn sách của anh in ra anh cũng không nghĩ đến. Mỗi khi có sách mới, nhà xuất bản tuỳ khả năng, họ gửi biếu tác giả một số sách. Những cuốn sách ấy tác giả lại gửi biếu bạn bè, trong đó có gia đình tôi. Thường thì chúng tôi nhận được một thùng sách khoảng mươi cuốn, trong đó mấy cuốn có chữ ký tặng, số còn lại thì tôi cũng tuỳ nghi, biếu bè bạn thân quen, hay đem lên chùa đẻ ai thích thi thỉnh về đọc. Một năm trung bình anh Nguyên Phong có 2 cuốn sách được in, rất đều hoà như thế.


Được hỏi , anh nguyên Phong cho hay, hàng ngày, sau giờ đi làm về, anh ngồi vào máy, viết và dịch. Chưa xong nhà xuất bản đã gọi, đã nhắc, đã vẽ bìa cho cuốn sách rồi. Cứ thế, những cuốn sách của Nguyên Phong in thật đẹp bay đi bốn phương trời. Những lời dạy của Đấng Như Lai qua những trang sách của Nguyên Phong đã thấm đượm tới những ai, làm nhẹ được những nhọc nhằn, phiền muộn của thế nhân tới mức độ nào, không ai lường được. Những hàng chữ ấy, với tôi, tôi coi như những giòng suối mát, êm ả chảy đi, thấm đượm, nuôi sống bao nhiêu cây trái của cuõc đời này. Con suối không cần ai biết mà vẫn cứ miệt mài tuôn chảy.



oOo





Mối giao tình giữa chúng tôi mỗi lúc mỗi thêm sâu đậm. Trong niềm khát ngưỡng tìm hiểu những lời dạy của Đấng Như Lai, anh Nguyên Phong có sách mới, hay những tài liệu mới, anh không bao giờ quên gửi cho gia đình chúng tôi và cả các em của chúng tôi nữa. Đáng chú ý nhất là Thông Điệp của Những Người Anh, trích từ bài Elder Brothers Warning của Alan Ereira, nguyên Phong đã dịch ra Việt ngữ và giới thiệu như sau:

“ Tháng 10 năm 1993, đài BBC tại Luân Đôn và đài PBS Hoa kỳ đã cho phát hình một tài liệu đặc biệt ghi lại nếp sống của một bộ lạc thiểu số tại Nam Mỹ. Cuốn phim này đã gây chấn động dư luận thế giới và hiện là một đề tài được bàn cãi rất nhiểu trong giới khảo cổ, môi sinh và nhân chủng học. Lần đầu tiên được trình chiếu trong kỳ đại hội tôn giáo hoàn cầu tại Chicago, nó đã gây xúc động lớn cho toàn thể cử toạ. Cuốn phim ấy đã cho chúng ta thấy bên cạnh thế giới được gọi là văn minh là thế giới của chúng ta, trên trái đất này còn có một nền văn minh khác của người Kogi sống trên giãy núi Sierra ở nam Mỹ. Họ sống biệt lập với thế giới của chúng ta, rất đơn giản nhưng thật hoà bình và hạnh phúc, đặc biệt họ chỉ ăn chay, không sát sinh. Tuy sống cách biệt nhưng họ vẫn có khả năng theo dõi và quan tâm đến chúng ta, đặc biệt là quan tâm đến sự an nguy của quả đất này do những hành động vô ý thức của chúng ta tiếp tục gây ra. Bởi thế, đã đến lúc họ phải lên tiếng cảnh cáo chúng ta trước khi quá muộn. Họ nói :“ Nhân loại sắp bước vào một thảm hoạ rất lớn mà từ trước tới nay chưa hề sẩy ra (…).



Chúng ta đều là con cùng một mẹ nhưng tiếc là các em đả không chú ý đến điều này (…). Mẹ của chúng ta là ai ? Chính là trái đất này, lòng mẹ chính là biển cả và trái tim của mẹ là những dãy núi cao cả có mặt khắp nơi. Này các em, đốt rừng, phá núi, đổ đồ ô uế xuống biển chính là chà đạp lên thân thể của mẹ đó. Mẹ là nguồn sống chung và con người không thể sống mà không có mẹ, nếu trái đất bị huỷ hoại thì chúng ta sẽ sống ở đâu ?”(…)Làm sao các em có thể tự hào rằng mình đã văn minh khi nhân loại và mọi sinh vật mỗi ngày mỗi đau khổ nhiều hơn xưa ? Làm sao có thể nói rằng nhân loại đã tiến bộ khi con người càng ngày càng thù hận, chỉ thích gây chiến tranh khắp nơi ?”.



Cuốn băng hình và bài thuyết trình của ký giả Allan Ereina là kết quả của phái đoàn ký giả của đài BBC tại Luân Đôn và PBS tại Hoa Kỳ, sau 3 ngày được phép sinh hoạt với người Kogi. Phái đoàn này rời rặng núi Sierra vào tháng hai năm 1993, và người Kogi đã ân cần nhắc nhở :“ Xin các ông hãy mang thông điệp này gửi ra cho thế giới bên ngoài để nhân loại biết rằng tình trạng đã nguy kịch lắm rồi. Nếu họ không chịu thức tỉnh thì đợi đến bao giờ đây ?”.



Theo đúng lời yêu cầu, Allan Ereira đã mang cuốn phim “Elder Brother s Warning” trong đại hội tôn giáo họp tại Chicago vào tháng 9 năm 1993. Cuốn phim này cũng được trình chiếu trên các băng tần của đài truyền hình BBC tại Anh và PBS tại Hoa Kỳ. Và anh Nguyên Phong đã gửi cho tôi bài viết của ký giả Allan Ereira cùng với cuốn phim tài liệu này. Càng xem, càng đọc bài viết về những lời nhắc nhở của người Kogi, tôi càng thấy rằng những điều người Kogi biết rất chính xác về những lợi dụng quá đáng của loài người, làm ô nhiễm môi sinh, làm huỷ hoại môi trường sống không chỉ đối với loài người, mà với cả muông thú, cỏ cây. Nếu những điều này đã đúng thì :“ loài người sắp bước vào một thảm hoạ rất lớn từ trước đến nay chưa hề xẩy ra” chắc cũng sẽ đúng. Vậy thảm hoạ đó là gì, khi nào sẽ diễn ra ?




Đó là nỗi ám ảnh không rời trong lòng tôi. Rồi biến có 911 ào đến là kết quả của những hận thù giữa con người với nhau. Rồi sóng thần Sunami từ biển đổ vào bờ biển Thái Lan và Ấn Độ, cuốn đi nhà cửa và hàng trăm ngàn người, giữa lúc họ đang an hưởng sự phong phú của thiên nhiên, của cuộc sống. Rồi bão tố và cuồng phong Katrina ập vào bờ biển nước Mỹ, gây nên cảnh lụt lội rộng lớn cuốn đi bao nhiêu nhà cửa, ruông vườn, tàu bè, xe cộ. Tai biến đổ lên nước Mỹ, vùng đất tượng trưng cho sự giàu mạnh và văn minh nhất của nhân loại, như một cảnh báo cụ thể, một sự trừng phạt trước sự hung hăng, kiêu mạn về “văn minh” của con người.

Phải chăng đó là những thảm hoạ mà “ Những Người Anh” đã cảnh báo. Như thế đủ chưa, hết chưa hay hãy còn có những tai hoạ nào sẽ diễn ra trong tương lai? Hãy nhìn những đoàn xe nối đuôi nhau bất tận trên xa lộ, mỗi xe ít nhất là 5 chỗ ngồi, thường chỉ có 1 người trong xe. Vì muốn có tự do tuyệt đối, tiện nghi tối đa, con người đã phung phí tài nguyên của quả đất như thế nào? Những tờ báo hàng ngày hàng trăm trang, với rất nhiều bài viết về những lãnh vực khác nhau, thường chỉ được người đọc xem qua loáng thoáng ở những phần mình ưa thích. Các mục khác, hầu như cả tờ báo còn nguyên vẹn, được liệng vào thùng rác. Để có những trang báo ấy, bao nhiêu cánh rừng đã bị khai quang. Và ai cũng biết, rừng cây không chỉ cho chúng ta gỗ, lá, mà chính rừng cây là nơi sản xuất dưỡng khí làm tươi mát, nuôi sống cho cuộc đời này. Rừng là lá phổi của muôn loài trên hành tinh này. Mới chỉ thoáng nghĩ như thế, chúng ta càng kinh hoàng trước những lời nhắc nhở kia. Sự suy nghĩ đó càng sâu, tôi càng thấy giữa anh Nguyên Phong và chúng tôi như có chung một mối lo đượm nhiều sự huyền diệu, lạ kỳ.



Từ đó, nhân hôm anh Nguyên Phong xuống thăm chúng tôi, một số bạn bè trong nhóm tu học, cùng đến. Chúng tôi nài nỉ anh Nguyên Phong cho chúng tôi một cuộc đàm thoại. Anh ngần ngại mãi mới khiêm tốn nhận lời. Vấn đề trên lại được mang ra thảo luận. Người nghe không chỉ có những người lớn tuổi như chúng tôi, mà còn có cả thành phần trẻ, những người được sinh ra, lớn lên và trưởng thành ở Mỹ này. Anh nói bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Vì “vấn đề bao quát quá, xin được thu hẹp trong phạm vi thực phẩm mà chúng ta dùng hàng ngày”. Sau nhiều thí dụ rất cụ thể, anh kết luận rằng : “ Xã hội Mỹ làm gì cũng muốn đốt giai đoạn, làm thật nhanh để mau có lợi. Trong việc chăn nuôi, để mau có kết quả, người Mỹ đã trộn nhiều hoá chất vào thực phẩm gia súc, nhất là trong kỹ nghệ nuôi bò.



Sau đó khi chúng ta ăn thịt những gia súc ấy, đương nhiên chúng ta cũng tiếp nhận những ảnh hưởng của những hoá chất kia. Những con trẻ dùng thực phẩm này, cũng lớn nhanh hơn bình thường. Thân xác các em phát triển sớm, nhưng trí tuệ thì không phát triển kịp, do đó đưa đến những sáo trộn nếp sống, sáo trộn xã hội…”. Nghe anh nói đến đây, tôi nghĩ đến một danh từ thường được sử dụng trong xã hội này : terrible teenager và những chuyện phiền hà, bi thảm, những cuộc thảm sát tại các trường học do trẻ nhỏ gây ra; những “bà mẹ-trẻ con” bất đắc dĩ khi mới vừa xong tiểu học . . .



Cũng trong dịp này, nhà văn Nguyên Phong cũng kể một câu chuyện của một người mê nhậu nhẹt như sau :“…anh ta rất khoái nhậu món lươn um. Như thường lệ, trước khi làm sạch nhớt, anh ta bỏ con lươn vào một chậu nước sôi, rồi dùng cái que nhỏ dìm con lươn xuống nước. Con lươn cố vùng vẫy để cái bụng trồi lên khỏi mặt nước nóng. Dìm nhiều lần như thế, nhưng cái bụng con lươn vẫn cứ trồi lên. Sau vớt con lươn ra, mổ bụng nó ra mới hay là con lươn đang có mang. Có lẽ nó đã cố gắng trồi cái bụng lên để con nó trong bụng khỏi chết chăng ?” Sau câu nói này, anh Nguyên Phong đã ngồi im, mọi người nghe cũng ngồi im, nhưng rất nhiều người đã đầm đìa những lệ. Trong giây phút ngập tràn xúc động này, anh Nguyên Phong đã nói : “ Mọi sinh vật đều tham sống, sợ chết, chúng cũng có tình thương, tình mẫu tử chứa chan.



Con bò trước khi bị đẩy vào lò sát sinh cũng đã cố ghì bước lại và hai hàng nước mắt chảy. Những giờ phút đó, nỗi oán hận ngập tràn. Nỗi oán hận đó tiêu tán đi đâu ? Nỗi oán hờn đó thấm vào từng tế bào của thân thể nó. Khi chúng ta ăn những miếng thịt mang nỗi oán hận này, nỗi oán hận nhiều hay ít đã tạo nên những độc tố chống lại cơ thể chúng ta. Phải chăng đó là nguyên nhân gây nên những chứng bệnh hiểm nghèo mỗi lúc mỗi lạ trong cuộc sống của xã hội chúng ta ? Tuy chưa có một cuộc nghiên cứu khoa học nào chúng minh đầy đủ điều này, nhưng cứ lấy cá nhân mình mà suy xét, tôi tin rằng mình dùng sự khôn lanh, tàn bạo để ăn thịt những đông vật khác là một sự không công bằng. Oán oán chập chùng, muôn loài bị con người tàn sát, chắc không để chúng ta yên đâu. Đức Phật, một vị toàn giác, cũng đã khuyên chúng ta nên ăn chay. Trong tinh thần ấy, cá nhân tôi, gia đình tôi, cũng như đại gia đình của chúng tôi từ song thân tôi, anh em tôi, hầu như tất cả đều ăn chay. Chúng tôi ăn chay từ ngày còn bé.”



Nghe thế, những người lớn, những người có tuổi, từng lên chùa, tìm đọc hinh Phật thì đồng ý rất dễ dàng. Nhưng có một vài thanh niên đặt câu hỏi :“ Tôi thấy chú nói như thế thật hay. Nhưng có lẽ chú làm được, các bác làm được. Chúng cháu còn trẻ, học hành và chơi thể thao, cần rất nhiểu nhiệt lượng, sợ ăn chay không đủ chất bổ, khó theo được cách ăn uống này.” Anh Nguyên Phong tươi cười đáp : “Đừng lo. Nhiều người cũng đã lo như thế. Hãy lấy cá nhân tôi để chứng minh. Tôi làm việc cho Boeing ít nhất 10 tiếng một ngày. Cuối tuần nhiều khi phải cùng ông giám đốc công ty đi thăm viéng các nơi. Tối về nhà tôi đọc và dịch sách, hoặc soạn bài giảng hay xem xét các bài vở cho các sinh viên làm luận án với tôi. Đặc biệt, không ngày nào tôi không phải nghiên cứu và học thêm. Những dữ kiện mới lạ tràn ngập. Không học, đứng yên là bị đào thải ngay, còn mong gì chỉ huy được ai nữa. Thường tôi không bao giờ ngủ trước 12 giờ. 6 giò sáng tôi đã dậy, ôn tập các bài võ.”




Anh Nguyên Phong chỉ nói đơn giản thế thôi, nhưng trên thực tế, anh là một trong số rất ít nhân vật quan trọng, đã có những đóng góp cụ thể và to lớn vào sự canh tân và phát triển của hãng Boeing, hãng đóng máy bay lớn nhất hoàn cầu này. Trong bản tin nội bộ của công ty, ISSUES, phát hành thàng 1 năm 1996, có đặc biệt vinh danh 2 người như sau : “ Two people, one the architech of the Boeing s Intranet and the other an expert in the field of software process improvement, have named Associate Technical Fellows of the Boeing Company for 1997.” Bài báo do Paul Swortz viết, nói rõ hơn về những phát minh quan trọng của khoa học gia Nguyên Phong như sau : “ Vu joined Boeing in 1987 working as a senior computing analyst on CATIA systems supporting the development of the 777. He now works in sofware Engineering Research and Technology, leading companywide sofware improment process and consulting in sofware engineering disciplines.(…) He was lead engineer on the Tomahawk cruise missile navigation system and was technical manager of avionic systems for the F-15 fighter and AH-64 Apache helicorpter.

During his time at Boeing, Vu has gained a reputation as one of the world s expert on the Capability Maturity Model, a tool used to mesure the effectiness of sofware processs. He also coauthor of the company s Advanced Quality System, which helps Boeing identify, select and estblish relationships with suppliers and the standard used by BCG for subcontractor management.

Vu lives with wife and two children. He also works with the terminally and is a fourth-degree black belt in karate”.

Một người thành đạt như thế, hữu hiệu như thế, và lành mạnh như thế, thường thì, dù cố gắng, không khỏi có những sự tự tin, tự mãn và kiêu hãnh, nhưng ở anh Nguyên Phong thì không, hoàn toàn không. Bởi hàng ngày anh đều nghiêm khắc và trân trọng làm lễ sám hối. Anh nói : “Và một điều nữa tôi không bao giờ quên trước khi đi ngủ là để tâm rất thanh tịnh làm lễ sám hối.. Sám hối những sai lầm dù vô tình hay cố ý mà ta đã gây ra trong ngày. Lễ với tâm thanh tịnh còn là để giải trừ lòng kiêu mạn của chính ta. Nếu ta xét trong ngày chúng ta đã không có lỗi gì, thì lễ sám hối để tiêu trừ những lỗi lầm từ ngàn vạn kiếp của chúng ta từ vô thuỷ đến nay. Trong mịt mù của tiền kiếp, biết bao lỗi lầm chúng ta đã gây ra.



Chính sự kiêu mạn là nguyên nhân của những hiểu lầm, oán ghét, hận thù, tạo ra những tranh chấp trong cuộc sống. Chiến tranh cũng từ đó mà phát sinh. Nỗi thống khổ của loài người phải chăng cũng từ lòng kiêu mạn mà bành trướng ?” Nói rồi, sau một phút lặng yên, không có ai có ý kiến gì thêm nữa, anh Nguyên Phong nghiêm trang thỉnh ba tiếng chuông. Tiếng chuông trong veo ngân toả. Anh Nguyên Phong chấp tay, cúi đầu sát đất, xá tất cả mọi người, khiến ai nấy đều cung kính xá lại, tạo cho sự kết thúc buổi sinh hoạt một vẻ trang trọng, khiêm cung, tương kính và thương yêu bao trùm tất cả mọi người và cảnh vật xung quanh. Ai nấy bỗng như vừa tìm thấy một hạnh tu thật đẹp đẽ, giản đơn và cũng thật là bình đẳng, phù hợp với nếp sống hiện tại, mà vẫn không hề đi ngược lại những lời giáo huấn của Đấng Như Lai.

oOo

Hơn 20 năm quen biết một người. Đọc trên dưới 2000 trang sách của người ấy dịch, phóng tác và viết ra, chính cá nhân tôi đã học được từ người ấy nhiều lắm, từ những kiến thức hiện đại cũng như cách ứng xử trong cuộc sống, khiến tôi không thể không viết về người ấy. Đành rằng sau cuộc đổi đời chua chát năm 1975, quanh ta biết bao nhiêu những điều trái tai gai mắt làm cho chúng ta chán ngán, buồn lòng; nhưng trong lặng lẽ, chúng ta cũng đã chúng kiến biết bao nhiêu nghĩa cử đẹp đẽ, bao nhiêu nỗ lực bền bỉ và âm thầm từ những gia đình, từ những cá nhân cố gắng làm nên. Nói về cái xấu thì đã có nhiều người viết, bây giờ có ai nói thêm tưởng cũng chẳng ích chi. Riêng tôi, tôi muốn nói về cái hay, cái đẹp, như những viên ngọc quý trong cộng đồng chúng ta, tuy lặng lẽ nhưng đáng trân quý biết là bao nhiêu.




Dù biết rằng viết như thế là phạm vào một lỗi lầm, làm sứt mẻ một phần nào tính khiêm cung của những người ấy, nhất là của tác giả Nguyên Phong. Nguyên Phong, một luồng-gió tinh-khôi lành mạnh đã và đang thổi vào nếp sinh hoạt của chúng ta nơi hải ngoại và lặng lẽ thẩm thấu đến mọi phương trời, làm mới những suy nghĩ cho những ai tìm đọc được sách của anh, thấy được lời chỉ dạy của Đấng Như Lai. Bài viết này như khêu lên một ngọn đèn tuy nhỏ bé nhưng hy vọng lần lượt sẽ có những ngọn hải đăng sáng rỡ hơn được thắp lên làm tan đi bóng tối hận thù, độc ác và lừa dối, cũng như bớt đi những hệ luỵ thấp hèn từ bao lâu nay đã bao phủ lên dân tộc và cộng đồng chúng ta. Bao lâu còn có những luồng gió lành mạnh ấy thổi lên, còn có nhiều người đón nhận, còn những kẻ “khêu đèn, tiếp lửa” thì tôi vững tin rằng dân tộc chúng ta chắc chắn sẽ hồi sinh. Trong tinh thần ấy, tôi cũng xin cúi đầu đảnh lễ bốn phương trời, mười phương đất, xin tất cả chư vị độc giả cũng như bằng hữu xa gần, đại xá cho những vụng về, thiếu sót khi tôi viết bài này. Cũng mong anh Nguyên Phong xin đừng phiền trách.



---------------------------------------------------------------------------------Biography.

John Vu is senior principal scientist at Boeing s Sofware Enginering Reseach anh Technoloy. He has more than 20 years of experience as software enginering and project manager; he is currently the lead on software process improvement in Boeing.

Ngoài công việc chính tại Boeing, ông vẫn tiếp tục nghiên cứu và là khoa học gia ( Senior Scientist) tại đại học Carnergie Mellon University và Seattle University. Ông còn đi giạy tại một số đại học quốc tế khác tại Trung Hoa, Nam Hàn, Nhật Bản, Ấn Độ về lãnh vực Softwave Engenieer.

Ông cũng vừa cho xuất bản cuốn sách giáo khoa Software Engineer bằng Hoa ngữ, ( do nhữnng một số học trò của ông soạn, dịch từ những bài giảng của ông.). Cuốn sách này là tài liệu giáo khoa chính của rất nhiều đại học Trung Hoa hiện nay.



Phan lạc Tiếp.

16 tháng 5- 15 tháng 8, năm 2006.



===

THANH THANH * KỸ-SƯ NGUYỄN VĂN BẢY VÀ KÝ-GIẢ NGUYỄN AN DÂN

KỸ-SƯ NGUYỄN VĂN BẢY VÀ KÝ-GIẢ NGUYỄN AN DÂN

THANH THANH



NGUYỄN An Dân là chủ-nhiệm kiêm chủ-bút đặc-san “Ðông Phương”, xuất-bản tại Ðà-Nẵng, đã phát-hành đến tập III, mệnh-danh là Tiếng Nói của “Ðông-Phương Văn-Ðoàn”. Tổ-chức này cũng do y cầm đầu.
Với đặc-san trên, Dân đã công-khai mạt-sát Việt-Nam Cộng-Hòa, đề-cao cộng-sản Việt-Nam, gay-gắt hơn cả các đài phát-thanh Hà-Nội và Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam.
VÌ không thấy ngành Thông-Tin của ta có biện-pháp gì, tôi bèn tìm cách bịt miệng cán-bộ tuyên-truyền của Việt-Cộng này.

DÂN có một số thân-nhân trực-hệ trong ban lãnh-đạo Liên-Khu-Ủy và Tỉnh-Ủy Việt-Cộng địa-phương, thường-xuyên vào rừng, có mặt tại các địa-điểm tặc-phỉ tập-trung dân-chúng tuyên-truyền & cưỡng-thu vật+tài, đồng-thời tham-gia “Lực-Lượng Hòa-Hợp Hòa-Giải Dân-Tộc” của nhóm đối-lập Vũ Văn Mẫu, và hay lui tới các Chùa.
Dân chơi rất thân với kỹ-sư Nguyễn Văn Bảy, Hiệu-Trưởng Trường trung-học Kỹ-Thuật Cao Thắng, là người cũng dùng danh-nghĩa “Thành-Phần Thứ Ba” để chống Việt-Nam Cộng-Hòa. Chính Bảy che-chở cho Dân trong nhiều trường-hợp Dân bị Cảnh-Sát chận xét dọc đường, suýt lộ tài-liệu Việt-Cộng mà y mang theo.

TÔI không tiện cho Ðặc-Cảnh bắt Nguyễn An Dân về mặt chính-trị, vì nếu làm thế thì sẽ lộ ra các phần-tử khác mà trong số đó có những điệp-viên cũng như mục-tiêu xâm-nhập của chúng tôi.
Tôi giao cho Bộ Chỉ-Huy Cảnh-Lực Thị-Xã Ðà-Nẵng giải-quyết về mặt pháp-lý, vì Dân ra báo mà không khai trình với Bộ Nội-Vụ để xin phái-lai.
Dân bị bắt giam tại Trung-Tâm Cải-Huấn Ðà-Nẵng, ở Chợ-Cồn. Ðó là một cách chận đứng cái loa dấy loạn của y, đồng-thời bảo-vệ các lưới phản-gián của ngành Ðặc-Cảnh chúng tôi.
*
NGÀY 25-8-1978, tôi bị chúng đưa từ Trung-Tâm Lao+Cải “An-Ðiềm” về Trại Tạm-Giam “Kho Ðạn” (“Chợ Cồn”) Ðà-Nẵng.
Việt-Cộng nhốt tôi vào một buồng riêng gần cuối Khu B, bít kín mọi cửa, canh gác cẩn-mật. Mỗi ngày nhiều lần chúng dẫn tôi đi khai cung, về vài trong những điệp-viên tôi đã gài vào nội-bộ của chúng mà mãi đến nay chúng mới bắt đầu nghi-ngờ. Tôi thấy các buồng kế tôi cũng bị bít kín, không nghe tiếng ồn nhiều người như những ngày đầu sau cơn quốc-biến 1975; và bên trong khung lỗ rộng chừng một bàn tay cắt thủng ở góc tấm tôn đóng chắn cửa sổ mỗi buồng, tôi thấy thấp-thoáng có một hoặc hai cặp mắt tò-mò nhìn ra.
Sau đó ít hôm, Việt-Cộng đưa vào giam chung với tôi hai nhà-sư trẻ; đó là Trần Văn Cúc và Hoàng Mộng Xuân. Họ đã đội lốt nhà-sư để đi tuyên-truyền, móc-nối, liên-lạc tiếp-xúc, hoạt-động chống Cộng từ nội-thành ra ngoại-ô. Bị bắt, bị đánh dã-man, họ chỉ khai là đi tìm đường dây vượt biên để xin đi theo.

Hai anh Cúc & Xuân đã cho tôi biết rõ hơn về một số biến-cố chính-trị đã xảy ra trong nước nói chung, và tại Quảng-Nam/Ðà-Nẵng nói riêng, sau ngày cộng-sản cưỡng-chiếm Miền Nam. Nổi bật nhất tại Tỉnh này là vụ kỹ-sư Nguyễn Văn Bảy, nguyên Hiệu-Trưởng Trường Trung-Học Kỹ-Thuật “Cao Thắng”, người đã lập nên “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng”, tổ-chức mật-khu trong rừng, chiêu-mộ chiến-sĩ, và đã tấn-công vũ-trang vào một số cơ-quan & đơn-vị Việt-Cộng quanh vùng để mở rộng phạm-vi kiểm-soát; nhưng nay đã bị Việt-Cộng huy-động toàn-lực bộ-đội hành-quân đè bẹp, phá hủy căn-cứ, và bắt đem về biệt-giam cũng tại Trại này, cùng với hằng trăm chiến-hữu cũng bị bắt tại chiến-khu, hoặc bị truy bắt về sau.
*
NGÀY 25-12-1978, tôi bị chuyển đến trại giam Hội-An. Tại đây, chúng giam tôi chung với khoảng năm/sáu chục người, thuộc nhiều thành-phần khác nhau: hình-sự, vượt biên, phản-động hiện-hành, và “kinh-tế”.
Tuy nhiên, có một thực-tế mà Việt-Cộng không ngờ: đại-đa-số cán-bộ và bộ-đội bị bắt đều đã không được cơ-quan hay đơn-vị của mình chước-miễn - đã bị cách-chức, tước lột quân-hàm, khai-trừ khỏi Ðảng, và bị tì-vết lý-lịch - nên họ không còn tha-thiết gì đến công-tác của ngành Công-An, chưa kể một số đã ra công-khai chống lại Ðảng và Nhà-Nước. Nhờ thế, tôi đã nghe được khá nhiều tin-tức ngoài đời.
NGÀY xưa, Tỉnh Quảng-Nam có một lần đến năm danh-nhân được triều-đình Nhà Nguyễn phong là “Ngũ Phụng Tề Phi”. Trong chiến-tranh Việt-Nam, Tỉnh này cũng có rất nhiều phần-tử hoạt-động đắc-lực cho Việt-Cộng nên được Ðảng và Nhà-Nước khen là “Quảng Nam Ði Ðầu Diệt Mỹ”. Nhưng các tổ-chức quần-chúng và cá-nhân có tinh-thần Quốc-Gia thì chống Cộng quyết-liệt vô-cùng.

Ngay sau khi Việt-Cộng bắt giam các công-chức và quân-nhân của chế-độ cũ, đại-đức Từ Toại và giáo-sư Phạm Văn Bình đã cùng các bạn trương biểu-ngữ, dán bích-chương, và rải truyền-đơn, tổ-chức một cuộc biểu-tình tuần-hành có đông đồng-bào tham-dự, qua các đại-lộ trong Thành-Phố Ðà-Nẵng. Có nhiều vụ ném lựu-đạn vào Công-An, bộ-đội; nhiều vụ chống-cự bằng vũ-lực vì bị tịch-thu tài-sản qua các chiến-dịch “đánh tư-sản mại-bản”, “cải-tạo công+thương-nghiệp”, “bài-trừ văn-hóa-phẩm nô-dịch và đồi-trụy”. Ðồng-bào ào ào kéo nhau đi vượt biên, vượt biển, giống như tại các nơi khác trên khắp Miền Nam. Người ta đồn miệng với nhau là trung-tướng Ngô Quang Trưởng đã đem Phục-Quốc-Quân về đánh vào biên-giới; phe ta kiểm-soát lưu-thông qua các đèo+núi trên Quốc-Lộ số 1 và nhiều vùng ngoại-ô; trực-thăng Hoa-Kỳ đến bốc một số nhân-vật trọng-yếu; tàu đổ-bộ của Ðệ-Thất Hạm-Ðội nhiều lần vào bờ tấn-công các Ðồn Biên-Phòng; dân đánh cá thỉnh-thoảng có gặp tàu ngầm của Mỹ còn lảng-vảng ngoài khơi. Truyền-đơn chống-Cộng nhiều nhất là của “Ðảng Hắc-Long” (Vùng I), “Ðảng Thanh-Long” (Vùng II), “Ðảng Bảo-Long” (Vùng III và Vùng IV).

Ðúng ba năm sau ngày Ðà-Nẵng thất-thủ, ba tiếng nổ long trời lở đất từ sân-bay Ðà-Nẵng phát ra, làm rung chuyển cả thành-phố và các vùng phụ-cận, tạo nên một biển lửa kinh-hoàng, gây thiệt-hại nặng-nề cho các cơ-sở hoạt-động không-phòng, máy-bay, và cả nhân-mạng của đơn-vị Không-Quân Việt-Cộng đồn-trú tại sân-bay chiến-lược lớn nhất Miền Trung này, khiến người dân địa-phương nhớ lại ba tiếng nổ lớn cũng tại phi-trường này một tháng trước ngày Vùng I rơi vào tay Cộng-quân. Lần ấy, cơ-sở nội-tuyến Việt-Cộng đã phá-hoại ba hầm bom+đạn của ta mà vị-trí thiết-lập thì dù kiên-cố bao nhiêu người ngoài cũng có thể biết được; và sau đó thì Cơ-Quan E6 của tôi đã tìm ra thủ-phạm, là hai hạ-sĩ-quan Không-Quân, mà Ngành Ðặc-Cảnh đã nghi-ngờ từ lâu. Lần này, sau khi đối-phương chiếm được sân-bay tối-tân của ta, các chuyên-gia tài-giỏi nhất của Liên-Xô đã dùng tất cả những phương-tiện và khả-năng khoa-học kỹ-thuật tiên-tiến nhất của thế-giới cộng-sản để rà tìm xem thử Việt-Nam Cộng-Hòa có chôn giấu hoặc gài bẫy bom+mìn, máy-móc gì dưới đất và xung quanh sân-bay hay không, mà không tìm thấy, và đã cải-tổ mọi cơ-cấu phòng-bị cho thật an-toàn; thế mà, ba hầm bí-mật bom lân-tinh, nằm yên ngay trong sân-bay được chúng bảo-vệ nghiêm-ngặt ấy suốt ba năm nay, đã bất-thần phát nổ, như tiếng sấm lệnh khẳng-định hùng-hồn sự trường-tồn của Chính-Nghĩa Tất-Thắng và thúc-giục toàn-dân đứng lên.

Chính trong tình-hình sôi bỏng ấy, nhiều tổ-chức chống-Cộng đã thành-hình; nhiều cá-nhân chống-Cộng đã đơn-phương ra tay; và không ít anh-hùng ái-quốc đã hy-sinh.

“Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng” là tổ-chức lớn mạnh hơn hết, có tầm hoạt-động bí-mật lấn ra thấu Huế và vào tận các Tỉnh phía Nam, có chiến-khu công-khai làm căn-cứ-địa xuất-phát các chiến-dịch giải-phóng lĩnh-thổ, giải-thoát đồng-bào.

Ấy thế mà...
*
NGÀY 20-4-1982, Việt-Cộng đưa tôi từ Trại “Thanh-Liệt”, Hà-Nội - sau khi điều-tra về các điệp-vụ mà tôi đã tổ-chức tại hai nước cộng-sản Ba-Lan và Hung-Gia-Lợi - về lại Tỉnh Quảng-Nam, và giam tại Trại “Hội-An”.
Tại đây, tôi được biết là kỹ-sư Nguyễn Văn Bảy, cùng với năm chiến-hữu khác, trong Ban Lĩnh-Ðạo “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng”, đã bị kết án tử-hình trong một “phiên tòa điển-hình”, và liền sau đó đã bị hành-quyết, tại Ðà-Nẵng.
Trong số những người bị kết án tử-hình trong vụ này, có tiến-sĩ Nguyễn Nhuận, nguyên giáo-sư tại Viện Ðại-Học Huế, cũng thuộc một tổ-chức chống Cộng khác ở Tỉnh Thừa-Thiên. Hằng chục người khác bị kết án tù chung-thân hoặc hai mươi năm; số bị tù ngắn hạn hơn thì rất nhiều.
*
NGÀY 20-4-1985, tôi bị đưa từ Trại “Hòa-Sơn” - một trại rộng lớn mới được dựng lên trên lĩnh-thổ Huyện Hòa-Vang của Tỉnh Quảng-Nam, gần Thành-Phố Ðà-Nẵng - về lại Trại Lao+Cải “Tiên-Lãnh I”.
Cùng đi chung với tôi, có một tù-nhân chống nạng khập-khiễng được dìu từ Khu khác ra, bế nâng lên xe.
Chúng tôi ngồi sát bên nhau trên ghế sau, hai tên Công-An ngồi kèm hai bên. Tên Công-An Trưởng Toán ra lệnh cho chúng tôi và dặn hai gã kia kiểm-soát để chúng tôi không được nói chuyện hoặc ra dấu-hiệu gì với nhau.

LÚC đến địa-phận Huyện Tiên-Phước, xe bị lún bánh ở một đoạn đường đất đỏ ngập nước. Cả Trưởng-Toán lẫn hai tên Bảo-Vệ đều xuống lội lầy đẩy xe, trong lúc lái-xe tăng ga rú máy, mà xe vẫn không lên được. Tên Trưởng-Toán bèn ra lệnh cho tôi xuống xe trước, rồi quay lại bế đỡ người bạn tù đồng-hành của tôi xuống xe, đến đợi ở một mô đất cao bên vệ đường. Vì đường ngập sình, vả lại anh-ta cũng nhẹ, nên tôi bế thẳng anh-ta đến đặt ngồi trên mô ấy, rồi tôi cũng ngồi xuống theo, để cho hai tên Bảo-Vệ trói chúng tôi lại với nhau kẻo sợ chúng tôi chạy trốn.
Trong lúc toán Công-An ấy xúm lo đưa xe lên khỏi vũng lầy, người bạn-tù của tôi cúi mặt xuống đất, giả-vờ quan-sát cái chân bị đau, hỏi tôi: “Có phải anh là Lê Xuân Nhuận không?” Tôi cũng nghiêng đầu, làm bộ đang nhìn ngó vào chỗ khác, trả lời: “Vâng. Nhưng lâu ngày quá, tôi chưa nhận được ra anh là ai.” Anh-ta tự giới-thiệu: “Tôi là Nguyễn An Dân.”
Ngạc-nhiên, tôi quay mặt lại nhìn vào đôi mắt anh-ta. Anh-ta nói tiếp: “Tôi nhìn thấy anh bị chúng dẫn đi hỏi cung, hằng ngày đi qua trước buồng của tôi, trong năm 1978; hồi đó chúng ta cùng ở Khu B, Trại Chợ-Cồn. Tôi hỏi các anh ở các buồng bên mới biết tên anh. Trước năm 1975, anh đã...”



Anh-ta nghẹn-ngào không nói được thêm. Tôi thấy rõ hai dòng lệ ứa ra từ đôi mắt đen to tròn của anh-ta.

ÐẾN Trại “Tiên-Lãnh I”, ngẫu-nhiên Nguyễn An Dân và tôi bị giam chung với nhau trong một buồng nhỏ thuộc dãy cách-ly. Nhờ thế, tôi đã biết được mối quan-hệ sau này giữa Nguyễn Văn Bảy và Nguyễn An Dân.

NGUYỄN An Dân quả thật là một cán-bộ Việt-Cộng nằm vùng, cán-bộ chứ không phải chỉ là cơ-sở thường. Thân-nhân lôi cuốn, các phần-tử cộng-sản quan-trọng khác động-viên và chỉ-đạo. Ðối-phương giao cho Dân công-tác vận-động trí-thức, thanh-niên, sinh-viên, học-sinh, và bất-cứ thành-phần nào khác có thể được, từ Tỉnh Quảng-Nam & Thị-Xã Ðà-Nẵng ra đến các địa-phương xung quanh, kể cả và nhất là Thủ-Ðô Sài-Gòn của Việt-Nam Cộng-Hòa. Dân đã vào các mật-khu của Việt-Cộng, nhiều nơi, nhiều lần, nên am-thạo địa-hình địa-vật của vùng rừng núi Tỉnh Quảng-Nam, nơi trú đóng của Ðảng-Ủy Liên-Khu V, Quân-Ủy Quân-Khu V, cũng như Tỉnh-Ủy Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng của Cộng-Sản Việt-Nam.

Ở vùng Quốc-Gia, Dân tổ-chức văn-đoàn “Ðông-Phương” như một đảng chính-trị, có hệ-thống liên-lạc chỉ-đạo tại các Tỉnh và Thành+Thị lớn trong đó có Sài-Gòn và Huế, là những nơi có các Tổng-Hội Sinh-Viên đang bị một thiểu-số thuộc thành-phần thân-Cộng giật dây. Anh-ta thường-xuyên đi tiếp-xúc với các chi-nhánh Văn-Ðoàn địa-phương mà địa-chỉ đã được công-bố trên đặc-san nói trên. Anh-ta còn len-lỏi vào làm thư-ký kế-toán xuất+nhập kho cho nghiệp-đoàn các nhà thầu gạo Ðà-Nẵng và Miền Trung bên cạnh Tổng-Cục Tiếp-Tế thuộc Bộ Kinh-Tế, vào Sài-Gòn nhận chở gạo ra phân-phối cho các Tỉnh Miền Trung, nên có lý-do hợp-pháp để có mặt và nhân đó hoạt-động cho cộng-sản tại các nơi nói trên.

NGUYỄN An Dân chưa học hết bậc trung-học. Hành-trang văn-hóa của anh-ta chỉ là một mớ lý-thuyết Mác+Lê, đặc-biệt là cuốn “Từ-Ðiển Triết-Học” của Liên-Xô được dịch in bằng chữ Việt. Phần đông sinh-viên Việt-Nam Cộng-Hòa, nhất là sinh-viên Văn-Khoa, vốn học triết-học một cách khái-quát và tài-tử, đã bị anh-ta hớp hồn. Bên ngoài, khi đề-cập đến sinh-viên, nhiều người chỉ nghĩ đến Huỳnh Tấn Mẫm, xem Mẫm là phần-tử cộng-sản lãnh-đạo sinh-viên, kể cả sau quốc-nạn 30-4-1975; nhưng trên thực-tế thủ-lãnh chính là Nguyễn An Dân.

(Một cán-bộ thuộc Tỉnh-Ủy cộng-sản Quảng-Nam Ðà-Nẵng và thường-trú ở ngoài này mà cầm nắm mọi sinh-hoạt của sinh-viên ở Sài-Gòn: điều đó không phải là ngoại-lệ duy-nhất.
Một trong nhiều cán-bộ Công-An Việt-Cộng thuộc Ðảng-Ủy Liên-Khu V và Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng mà tôi đã có tìm cách móc-nối trước đây, là Trần Ðăng Sơn33 : sau ngày Sài-Gòn thất-thủ, Sơn là trung-tá, Phó Trưởng Ty Công-An Việt-Cộng Tỉnh Quảng-Nam Ðà-Nẵng, mà cũng vào hoạt-động tại Sài-Gòn với đầy-đủ quyền-hành đối với dân-chúng sở-tại cứ y như trên lãnh-thổ của Tỉnh mình.
Bên ta cũng thế, dưới thời Ðệ-Nhất Cộng-Hoà, đã có “Ðoàn Công-Tác Ðặc-Biệt Miền Trung” xuất-phát từ Huế mà hoạt-động bao gồm cả Sài-Gòn lẫn vùng xung quanh.
Sở-dĩ VC thì từ Ðà-Nẵng vào, chứ không phải từ Huế vào như bên ta, là vì Huế/Thừa-Thiên thuộc Liên-Khu Tư, tức thuộc “Phiá Bắc”, còn Ðà-Nẵng/Quảng-Nam thuộc Liên-Khu V thì là đơn-vị địa-đầu của “Phía Nam” mà Trung-Ương Ðảng dùng làm bàn đạp tiến vào Miền Nam).
______
33 Xem Mục “Hai Cựu Thiếu-Tá Công-An VC” trong sách này.

Sau ngày 30-4-1975, Việt-Cộng chỉ để lại một mình Huỳnh Tấn Mẫm làm vật trang-trí với tư-cách đại-diện sinh-viên đồng-chủ-tọa trong chủ-tọa-đoàn các buổi lễ công-cộng của chúng, còn thì lùa hết sinh-viên của chế-độ cũ vào rừng hoang, dưới danh-nghĩa “Thanh Niên Xung Phong”.
Tất cả nam+nữ sinh-viên đều bị đoàn-ngũ-hóa, sung vào các Ðoàn, Liên-Ðoàn, giã-từ học-đường, gia-đình, thành-phố Sài-Gòn, đi khai-hoang lập-trại trong rừng, bắt đầu sống cuộc đời công-nhân lưu-đày vô-hạn-kỳ. Ðó là chính-sách của Ðảng. Và Nguyễn An Dân là Chỉ-Huy-Trưởng Tổng-Liên-Ðoàn các đơn-vị cựu tinh-hoa tuổi trẻ ấy của Miền Nam.
*
QUA năm 1977, Việt-Cộng chuẩn-bị tấn-công Cam-Pu-Chia. Chúng đẩy mạnh công-tác bắt thanh-niên thi-hành nghĩa-vụ quân-sự, tăng-cường các sư-đoàn, và dự-định quân-sự-hóa tổ-chức “Thanh Niên Xung Phong”. Chúng viện cớ đề-bạt Nguyễn An Dân ra Hà-Nội học lớp đào-tạo cán-bộ Khoa-Học Kỹ-Thuật cao-cấp để đưa một sĩ-quan bộ-đội đến thay-thế Dân tại Bộ Chỉ-Huy Tổng-Liên-Ðoàn ở Sài-Gòn.
Bất-mãn, Dân bỏ học, về Quảng-Nam Ðà-Nẵng nhận một chức-vụ trong guồng máy Nhà-Nước địa-phương.
Và anh-ta đã gặp lại Nguyễn Văn Bảy tại đây.

CHỈ một thời-gian ngắn sau ngày cộng-sản cướp chính-quyền, nhà trí-thức Nguyễn Văn Bảy, trước kia đứng núi này trông núi nọ, nay đã thấy rõ thực-chất của chế-độ chuyên-chính vô-sản rồi. Bảy bí-mật liên-kết với các thân-hữu cũ - những giáo-sư đại-học có sẵn uy-tín với giới sinh-viên, những nhà hoạt-động chính-trị có nhiều cơ-sở đảng-phái dưới quyền, những nhà tu-hành được giới tín-đồ tin yêu, ở Ðà-Nẵng, Huế, Quảng-Nam, và nhiều Tỉnh khác - tổ-chức một lực-lượng vũ-trang quy-mô, chủ-xướng khởi-nghĩa toàn-dân.

Trong lúc đó, nhà-văn nhà-báo Nguyễn An Dân, vốn tin-tưởng vào một chủ-nghĩa lý-tưởng mà lý-thuyết đầy hấp-dẫn, nay đã va chạm với thực-tế phũ-phàng, qua những quyết-định tàn-nhẫn của bộ máy Nhà-Nước vận-dụng đúng chính-sách của Ðảng đối với từng tầng-lớp nhân-dân trong đó có số đông là bà-con của anh-ta, và qua những nỗi-niềm đau-xót của giới cựu sinh-viên Miền Nam mà anh-ta cảm-nhận được, trong những canh khuya cởi-mở tâm-tình, sau những ngày và đêm dài khắc-khổ sinh-hoạt chung. Món ăn Quốc-Gia, đượm mùi “tư-bản chủ-nghĩa” và “cá-nhân chủ-nghĩa”, đã nuôi lớn con người anh-ta, với một tâm-hồn lãng-mạn và tự-do.

Ðến nay thì Nguyễn An Dân đã dứt khoát chọn con đường đối-nghịch. Anh-ta tâm-sự với Nguyễn Văn Bảy; và đôi bạn cũ bây giờ đóng lại vai trò xưa, nhưng trên chiến-tuyến khác, và cả hai đều quyết-liệt trên một bình-diện rộng lớn hơn và trong một hoàn-cảnh khắc-nghiệt hơn. Với tư-cách là một đảng-viên trung-kiên, có thành-tích quá-khứ nằm vùng hoạt-động đắc-lực và đã từng bị đối-phương cầm tù tại địa-phương, bản-thân lại có nhiều thân-nhân giữ chức-vụ lớn ở cấp cao, Dân đã bao-che cho Bảy và đồng-bạn, giống như trước kia Bảy đã che-chở cho Dân.

Nguyễn An Dân đã lôi cuốn được hằng trăm thanh-niên, Dân-Quân, Tự-Vệ, bộ-đội, và cả Công-An Việt-Cộng, theo về với “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng” của Nguyễn Văn Bảy, mà tổng-số đảng-viên đã lên đến vài nghìn. Các thành-viên gốc Việt-Cộng ấy đã đem theo nhiều loại vũ-khí mà họ lấy được trước và trong khi thoát-ly, đủ để trang-bị cho hầu hết các cá-nhân và đơn-vị chiến-đấu của Bảy. Ðiều quan-trọng nhất là Dân đã hướng-dẫn cho Bảy cùng Ban Tham-Mưu chiếm đóng và sử-dụng một căn-cứ lớn cùng năm căn-cứ phụ trong vùng mật-khu cũ của Việt-Cộng, mà địch đã bỏ trống để đưa nhau về Thành sau ngày chúng chiếm được vùng Quốc-Gia.
Hoạt-động của “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng” sau Tháng Tư năm 1975 cũng tương-tự như hoạt-động của Việt-Cộng trước kia: từ mật-khu bung ra, lan rộng, khiến địch bị bận tay ở vùng chúng chiếm, chỉ chống trả ở vùng ven chứ không tấn-công nổi vào vùng sâu.

MỘT hôm có một số dân, trong đó có vài sĩ-quan bộ-đội Việt-Cộng, vào rừng tìm củi, lạc vào vùng căn-cứ chính của Bảy mà không hay, và đã tranh-thủ thì-giờ ngủ lại tại chỗ qua đêm để có thể tiếp-tục công việc sớm vào sáng hôm sau. Sáng sau, khi đi sâu thêm vào trong, nhóm người này bị phát-hiện, nhưng được thành-viên của Ðảng ấy thi-hành chính-sách nhân-đạo dẫn đường cho ra khỏi rừng.
Việc đó tới tai Việt-Cộng; chúng bèn tổ-chức cho cán-bộ của chúng giả làm thường-dân đi kiếm củi, mật ong, quế, len-lỏi vào gần để quan-sát, tìm hiểu thực-lực, các đường giao-liên, và hệ-thống bố-phòng của tổ-chức đối-nghịch này.
Cuối cùng, Việt-Cộng đã huy-động một lực-lượng quân-sự lớn, có sự tăng-viện của Bộ Quốc-Phòng và các quân+binh-chủng cấp Quân-Khu: đường núi thì có xe tăng, xe thiết-giáp xung-kích; đường sông thì có xuồng-máy đổ bộ; có cả đại-pháo và máy-bay yểm-hộ. Ðịch đồng loạt tấn-công vào căn-cứ chính và hai căn-cứ phụ ở gần đó của kháng-chiến-quân. Rủi thay, toàn-thể các cấp lĩnh-đạo và cán-sự cao-cấp của phe khởi-nghĩa đều đang dự họp tại căn-cứ đầu-não của mình, nên rốt cuộc đã sa vào tay giặc, cùng với các nam+nữ chiến-hữu sống sót và không di-tản kịp-thời. Ba căn-cứ kháng-chiến còn lại sau đó cũng bị địch tràn ngập.
*
NGÀY cuối-cùng của “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng” cũng là ngày bùng nổ cuộc tranh-chấp công-trạng và quyền-lực đã ngấm-ngầm từ lâu giữa các cấp lãnh-đạo Việt-Cộng Tỉnh Quảng-Nam/Ðà-Nẵng.

Ðảng-Ủy Liên-Khu V và Quân-Ủy Quân-Khu V ẩn-trú trên lãnh-thổ của Tỉnh này. Sự an-toàn của các mật-khu này cũng như thành-tích quấy-rối an-ninh vùng Quốc-Gia lâu nay phần lớn là do công của Công-An. Người đứng đầu ngành Công-An Việt-Cộng từ đầu cho đến sau 1975 ở đây là Hoàng Văn Lai. Cầm nắm được tình-hình mọi mặt liên-quan đến “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng” của Nguyễn Văn Bảy để đi đến quyết-định tấn-công triệt-tiêu kẻ thù như trên, cũng là do công của Công-An, của Hoàng Văn Lai.

Nhưng vào buổi sáng ngày Việt-Cộng mở cuộc tấn-công mật-khu của Bảy, đại-tá Ðoàn Khuê, Chỉ-Huy-Trưởng Tỉnh-Ðội Quảng-Nam Ðà-Nẵng, cũng là Tư-Lệnh cuộc hành-quân, đã dựa vào lực-lượng quân-sự hùng-hậu của mình mà xuất-phát, không thèm đếm xỉa đến Hoàng Văn Lai. Lai sợ bị Khuê giành mất công đầu, nên ra lệnh cho lái-xe lái vượt lên trước, để nắm vai trò dẫn đường. Khi xe của Lai đang vượt lên thì Khuê ra lệnh cho xe của mình ép qua, lấn xe của Lai lật nhào.

Lai chết tức-thời.

HOÀNG Văn Lai, một cán-bộ cao-cấp, trung-kiên, và có nhiều công-trạng lớn đối với Ðảng và Nhà-Nước, chết rồi mà vẫn chưa yên.
Ðảng họp, phân-tích sự-việc theo lời tường-thuật của Khuê, kết-luận là Lai quá nặng đầu-óc cá-nhân chủ-nghĩa, vi-phạm quy-luật hành-quân, suýt nữa phá hỏng kế-hoạch chung của tập-thể, nên đã quyết-định trừng-phạt... cái xác, và cả cái hồn (?) của Lai.
Xác Lai tuy cũng được chôn trong một nghĩa-trang, nhưng nằm ở một vị-trí sát cạnh cổng vào, ý nói hồn Lai sẽ không nghỉ-ngơi mà phải tiếp-tục làm lính Công-An gác cổng cho nghĩa-trang này.
*
NGUYỄN An Dân có góp ý với Nguyễn Văn Bảy và Nguyễn Nhuận trong việc soạn-thảo Cương-Lĩnh Chính-Trị cho “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng”. Tiến-sĩ Nguyễn Nhuận cũng ở trong một tổ-chức chính-trị chống-Cộng khác tại Huế; và tổ-chức ấy về sau cũng bị Việt-Cộng phá vỡ, các nhà lĩnh-đạo ngoài đó cũng bị tuyên án tử-hình.
Nhuận bị hành-quyết chung với nhóm Bảy trong này, vì địch tìm thấy nhiều đoạn thủ-bút của Nhuận trong bản thảo Chính-Cương của “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng” và một bức ảnh chụp chung cảnh một buổi họp bên trong mật-khu kháng-chiến của Tỉnh Quảng-Nam, cho thấy cùng ngồi trên bàn chủ-tọa với Bảy là Nhuận và Dân. Tất cả sáu người trong chủ-tọa-đoàn đều bị kết án tử-hình.
Nhưng chỉ có năm nạn-nhân đã bị hành-quyết tại pháp-trường; còn Nguyễn An Dân thì không.

DÂN được thân-nhân, toàn là cán-bộ lãnh-đạo nhiều ngành cấp cao, xin giùm, nên được giảm án xuống tù chung-thân, rồi giảm thêm nữa xuống còn tù hai mươi năm. Tôi hỏi anh-ta: “Anh có cảm-tưởng gì khi thoát án tử-hình?” Dân nhìn tôi để dò ý rồi mới trả lời: “Tôi hiểu là có dư-luận nghi tôi được họ gài vào để hại anh Bảy. Nhưng, anh hãy nhìn vào cái chân tôi đây nè!” Dân cởi quần dài, vì anh-ta thường-xuyên mặc quần dài, để tôi nhìn thấy cái chân bên phải của anh-ta bị teo cơ, rút gân, và co ngắn lại như một cành cây sấy khô. Anh-ta chỉ vào một cái sẹo lớn, nói tiếp: “Tôi bị cùm chân suốt mấy năm trời trong buồng biệt-giam. Lúc đầu, đôi chân sưng húp, rồi một cái nhọt bị tấy; tôi khóc, tôi la suốt mấy ngày đêm mà họ chẳng thèm đoái-hoài. Chịu không nổi nữa, tôi phải tự mình móc thịt giải-phẫu. Mất máu, kiệt sức; một chân trở lại bình-thường, một chân teo rút như thế này đây. Nhưng tôi vẫn cứ bị cùm hai chân mãi cho đến ngày anh Bảy và các chính-hữu vĩnh-viễn ra đi...”
*
ÐẦU năm 1985, Việt-Cộng đề ra công-tác tổng-kết thành-tích mười năm bạo-hành ở Miền Nam này. Nguyễn An Dân được đưa về Ðà-Nẵng, để tập, rồi đưa lên vùng căn-cứ cũ của “Việt-Nam Dân-Tộc Cách-Mạng Ðảng” để đóng một đoạn dành cho vai-trò cũ của anh-ta trong một cuốn phim diễn lại cuộc tấn-công của Việt-Cộng phá vỡ chiến-khu của Nguyễn Văn Bảy nói trên. Công-An đã thuê một nữ-võ-sư đóng vai một nữ-đại-úy Công-An, sau khi xung-phong quật ngã một số nhân-vật kháng-chiến, dùng một thế võ hiểm-độc tước súng và bắt sống được Nguyễn An Dân. Vì chân bị què nên Dân chỉ đứng dựa vào sau một thân cây, diễn cảnh chĩa súng bắn ra đối-phương, rồi vừa chồm tới là bị tước súng, còng tay. Nhưng đoạn phim ấy là quan-trọng nhất, vì Dân là nhân-vật chủ-chốt duy-nhất còn sống-sót được sau biến-cố lịch-sử ấy tại vùng đất này. Khi đã đóng xong vai mình trong phim, anh-ta được đưa đến Trại “Tiên-Lãnh I” trên cùng chuyến xe với tôi.

VÀO ngày 30-4-1985, Việt-Cộng đem chiếu cuốn phim thành-tích mười năm của chúng cho mọi tù-nhân tại các Trung-Tâm Lao+Cải và Trại Tạm-Giam đều xem.

CŨNG như lệ thường, tôi xốc nách Dân, dìu xuống mấy bậc thềm đá từ buồng cách-ly ra sân, sắp hàng đếm số, rồi cùng tiến vào hội-trường. Hằng ngày, anh-ta vui-vẻ cười chào mọi người gặp trên đường đi; nhưng tối nay thì anh-ta cúi đầu lặng-lẽ bước đi như một tử-tội đang bị dẫn ra pháp-trường.

Tôi tôn-trọng niềm suy-tưởng của người bạn-tù. Trước đó, Nguyễn An Dân đã nói với tôi là người-ta muốn giết anh-ta thêm một lần nữa. Một cái chân què, kết-quả cụ-thể của một chính-sách vô-nhân đối với tù-nhân bị bệnh trong cảnh xích-xiềng, đã giết chết sự toàn-vẹn và sức mạnh thể-xác còn lại của anh-ta. Một bản án tử-hình, tuyên ra không phải là không do ý muốn kết-liễu cuộc đời của anh-ta. Một quyết-định giảm án, chỉ làm cho anh-ta, dù thụ-động, cảm thấy mình không xứng-đáng sống trước anh-linh của Nguyễn Văn Bảy và các anh-hùng khác đã hy-sinh, cũng như bao nhiêu chiến-hữu khác, vì có gia-đình, tài-sản, và sự-nghiệp, nên mất-mát và đau-đớn nhiều hơn anh-ta.

“Bây giờ lại còn bắt mình phơi mặt ra trước tập-thể, để xác-nhận với mọi người về nội-dung của một cuốn phim mà đạo-diễn đã cố ý dàn-dựng cho chế-độ đương-quyền lớn+mạnh và công+chính, trong lúc lực-lượng khởi-nghĩa mà mình là chứng-nhân tiêu-biểu thì nhỏ+yếu và tư+tà, tức là giết nốt những hình-ảnh kiêu-hùng mà đồng-bào trong niềm ngưỡng-mộ đã từng hình-dung ra. Nó là phần kỷ-niệm đẹp nhất đã ghi-khắc trong tâm-hồn mình, cho những ngày còn lại của cuộc đời mình...”

NGỒI giữa cả nghìn con-người, chính-trị-phạm lẫn thường-phạm, đang náo-nức xem phim, tôi cũng trầm-ngâm nghĩ-ngợi theo Dân. Bây giờ anh-ta mới thấy tiếc là đã không hề làm một bài thơ tình; bây giờ anh-ta mới thấy tình-cảm mà một cựu-nữ-sinh-viên Văn-Khoa Sài-Gòn nào đó đã dành cho anh-ta ngày xưa là quý-báu và cần-thiết vô-cùng.
Trước ngày mà Dân tưởng là phải ra pháp-trường, anh-ta đã được gặp mẹ; bà-cụ chỉ khóc: “Con đừng chết trước mẹ, con ơi!” Và mới ngày hôm qua, được gặp mẹ vào thăm+nuôi, Dân cũng chỉ khóc: “Mẹ đừng chết trước ngày con về, mẹ ơi!”

NHƯNG tôi bỗng thấy rộn lên trong lòng một niềm vui mênh-mang.
Khắp nước chắc-chắn có nhiều cán-bộ như Nguyễn An Dân, chưa mất lương-tri, một sớm một chiều trở về trong lòng Quốc+Dân.
Và cũng hiển-nhiên vẫn có vô-vàn công-dân như Nguyễn Văn Bảy, không vì bất-hòa trong nhà mà nỡ đành lòng chấp-nhận để cho giặc+cướp xông vào tàn-sát bà-con...

No comments:

Post a Comment