Vốn
là bạn thân của em chị, lâu lâu tôi được theo bạn đến nhà ăn chực và
ngắm chị. Nhiều lần bị bắt gặp ngắm trộm, không bị mắng chỉ bị ký đầu
khi tôi đổ thừa - “tại chị đẹp quá!”. Vừa chợt đó đã bốn mươi năm hững
hờ trôi xuôi.
Dân,
bạn tôi, theo lệnh đôn quân tham dự cuộc chiến vào cuối năm 1968 và năm
1974 nằm xuống bên bờ đê đọng nước ở một địa danh có cái tên thật hiền
hoà, Cái Răng, Phụng Hiệp, thuộc vùng bốn. Sau đám tang của Dân, tôi
không còn có dịp gặp lại chị. Và dòng sống nổi trôi với những nhọc nhằn
và đầy bất trắc chụp đến những tháng ngày sau đó. Tôi đoán chừng, lại
một lần nữa chị cùng gia đình rời bỏ thiên đường được hứa hẹn. Tôi mong
tất cả được yên bình.
Đến
năm 1995 được nói chuyện với chị, sau những lời thăm, tôi không quên hỏi
chị có còn đẹp như xưa không? Và được trả lời trong tiếng cười đùa
khẻ - "Chị vẫn vậy em". Ở một khoảng xa hơn 5000 cây số nhưng tôi vẫn
dung tưởng được nụ cười thật đẹp trong thời hương sắc nhất của chị.
Mãi
đến năm 2006, tôi mới được thăm chị tại tư gia vào một buổi tối. Đứng
trên lan can của ngôi nhà trên triền đồi cạnh hồ, ngắm vầng trăng non
lung linh ánh lên từ mặt nước của hồ Sammamish, Seattle, WA, tôi nhủ
thầm, khung cảnh đượm thiên thai nầy đã góp phần không nhỏ trong việc
tạo nguồn thi hứng để chị hiến tặng cho cuộc đời những vần thơ thật đẹp.
Tận mặt, quả đúng như lời chị nói, dù đùa, từ hơn mười năm trước - "Chị vẫn vậy em!"
Mới
đây, nhằm giúp cho Trang Nhà của chúng ta, Thầy Nguyễn Văn Vũ đã liên
lạc với các bạn thi văn của Thầy và gởi cho một số truyện, thơ của những
văn thi sĩ đã thành danh. Đọc một trong hai tên tác giả - Trần Mộng Tú,
tôi nhận ra bà chị thi sĩ xinh đẹp của tôi. Tôi gọi chị để tỏ lòng biết
ơn thì được chị cho phép đăng thêm một số thơ và truyện với lời nhắn -
Gởi biếu em và bạn bè thân hữu của em.
Hội,
Trang Nhà xin ghi nhận trong sự biết ơn cho sự giúp đỡ tận tình của
Thầy Nguyễn Văn Vũ, Nhà thơ Trần Mộng Tú và Thầy Tạ Quang Khôi.
Xin trang trọng giới thiệu với độc giả của Trang Nhà một truyện ngắn về cuộc đời của chính chị. (Trang Nhà)
Bình Thủy 1969
(Trích trong Mưa Sài Gòn Mưa Seattle (Tạp Văn-2006) NXB-Văn Mới)
Buổi tối của một ngày đầu
tháng 8 năm 1969, khi tôi đang ngồi xem những tấm ảnh màu đám cưới gửi
từ Mỹ về, xắp xếp để làm một cuốn album, thì nghe tiếng chuông cửa. Tôi
ra mở cửa, hết sức ngạc nhiên khi thấy Carl và anh Huân là hai người ở
Sở trước mặt. Anh Huân làm phòng tối, phụ trách về rửa phim, in hình và
Carl vừa là phóng viên vừa là nhiếp ảnh viên. Cả hai người này chẳng bao
giờ đến nhà tôi vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi
làm. Tôi lúc đó làm thư ký cho hãng Thông Tấn The Associated Press, công
việc của tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hãng: Từ phát lương
cho nhân viên, giữ sổ chi thu, mua bán hình ảnh, thư ký cho ông chánh
văn phòng, đi nghe họp báo bỏ túi, v.v. Những việc này không bao giờ
phải làm cuối tuần, cũng như không bao giờ làm ca đêm.
Cả
hai người bước vào buồng khách, cả hai nhìn tôi, rồi cả hai nhìn nhau,
không ai muốn là mình nói trước. Tôi linh tính có điều không tốt, nhưng
không hiểu chuyện gì. Cuối cùng Carl nói:
"Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung, chồng của cô đã tử trận."
Tôi đứng ngẩn người, nhìn lại cả hai, không nói được tiếng nào, Carl nói tiếp:
"Suốt
từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang), xác định
tin rõ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị của đại học xá
Trần Quý Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi."
Tôi ngồi xuống hai gót chân mình, không nghe được gì tiếp, ngoài tiếng xôn xao của cha, mẹ và gia đình.
Chúng
tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận 30 tháng
7, năm 1969. Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh tốt nghiệp Đại
Học Sư Phạm, ban Pháp Văn và đã đi dạy được 1 năm, anh bị gọi trong
chương trình Tổng Động Viên. Khi nhận giấy báo phải nhập ngũ, anh đến
xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, vì sợ sau này sẽ khó khăn khi ở quân
đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968. Lúc làm đám hỏi chú rể
tương lai không có mặt (đang đóng ở chi-khu Trà Bồng) chỉ có mẹ chồng
mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân, nhưng thời chiến mà, làm sao
được.
Sau
đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung được biệt
phái về dạy học lại, (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức được về vào
tháng 10/1969) rồi sẽ ra ở riêng.
* * *
Chiếc máy bay vận tải Mỹ đáp xuống phi trường Bình Thủy, Cần Thơ.
Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang ngồi cạnh chiếc quan tài.
"Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, vì đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ không về đến Sàigòn."
Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra khỏi máy bay để giữa lòng phi đạo. Anh chồng tôi dặn:
"Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được giúp đỡ."
Buổi
trưa tháng Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói chang trên
sân bay, cái sân bay rộng lớn chổng chơ một chiếc áo quan có phủ xộc
xệch lá quốc kỳ, mấy giọt nến đóng thành mảng khô cứng trắng đục trên
màu vàng của lá cờ, một vài chiếc lá quăn queo sót lại của vòng hoa
chiều qua còn dính ở đó.
Tôi
tự thấy mình bé nhỏ, mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt, áo nhầu
nát, tóc bơ phờ, mặt ngơ ngác đứng nhìn chung quanh mình. Cái sân bay
trông sao mông mênh thế mà cái áo quan thì bé tí, tôi đứng bên cạnh
trông lại càng bé hơn. Sân bay không một bóng người, vài ba chiếc máy
bay quân sự đậu rải rác bên cạnh những phuy dầu chưa kịp xếp vào kho.
Hình như đã có mùi hôi bốc ra từ áo quan, tôi đứng lui ra một tí nữa,
xoa tay lên ngực, thấy mình nghẹt thở, ngực nặng và đau buốt, đau thấu
xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.
Hai
ngày, một đêm ở Kiên Giang đã làm tôi đuối sức. Tôi có làm gì đâu. Tôi
chỉ không ăn, không ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc trong người
tôi không còn nước. Bà mẹ chồng một bên, ông anh chồng một bên, họ đổ
sữa ông Thọ cho tôi. Bà mẹ chồng tôi thật giỏi, bà có kinh nghiệm với
chiến tranh, kinh nghiệm với chết chóc, nên đi đón xác con mà bà còn nhớ
đem theo hộp sữa ông Thọ cho cô con dâu tiểu thư, cô con dâu còn mới
như vuông lụa chưa thêu.
"Con uống đi. Con mà gục xuống đây nữa thì mẹ biết nói làm sao với cha mẹ con."
Tôi
không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác xếp chất
lớp trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó phủ chụp từ
đỉnh đầu xuống hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua những xác lính bên
ngoài để vào bên trong chỗ người ta để xác sĩ quan. Tôi đã phải bước
qua từng cái túi có bọc thây người ở trong, có cái thòi hai bàn chân còn
nguyên đôi giầy sau ra một đầu, có cái thì lòi ra ở đầu kia một đỉnh
tóc bết đất, có cái thò nguyên một khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con
ruồi đậu trên đôi mắt chưa khép kín hẳn. Tôi đi theo bàn tay dắt của
người anh chồng, xúc động và kinh hoàng đã làm tôi không còn cảm giác
nữa. Không biết tôi có dẫm phải ai không. Tôi cố gắng không dẫm lên
những người đàn ông nằm đây. Vào được đến bên trong thì tôi có nhìn thấy
gì đâu. Tôi chỉ nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo
"Đúng là Cung rồi."
Tôi
thấy hình như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc thềm, gió
ở sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra, nhìn xuống.
Tôi thấy một giòng nước đục chẩy lờ đờ bên dưới. Thì ra nhà xác của bệnh
viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông. Tôi không dám nhìn vào những
người đàn bà đang đi lật từng cái poncho quấn thây người để tìm chồng,
tìm con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi còn may mắn hơn họ.
Người
ta đem xác Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bày đứng
cạnh áo quan cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi ông đọc thì
tôi đứng nhìn mấy cây nến chẩy, nhìn vòng hoa đã bắt đầu héo, có cả
chén cơm đã khô và quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên bay xuống, tàn
nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn xong, hấp tấp ra
về. Chắc ông hơi thất vọng vì không thấy tôi khóc để có dịp nói lời an
ủi. Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy sang thăm hỏi, mấy đứa
nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy con chó gầy trơ xương,
trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng ỏng ra ngoài, mũi thò lò
cũng chẳng chùi. Chúng tròn mắt nhìn mấy người Sài Gòn, mặt mũi có vẻ
khang khác với nhưng người trong trại lính nầy. Có người cũng từ xa đến
chưa tìm ra xác chồng, xác con đến hỏi han bà mẹ chồng tôi với con mắt
nặng trĩu và gương mặt thất thần.
Tôi
đứng đó lơ mơ nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi người kể
một cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim về, chị em
tôi vẫn thường tranh nhau nói như thế. Hình như họ nói về trận đánh ngay
ở xã Vĩnh Thanh Vân. Xã này, tôi không biết ở đâu nhưng chắc là rất
gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi, và vẫn còn đánh nên xác không kéo ra
hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ thế nào cũng gặp, họ bảo nhau.
"Không thấy người thì thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!"
Người
anh chồng thì thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu, chắc là đi
tìm cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người đi nhận xác
chỉ có 3 người trong gia đình này ít khóc nhất.
Bà
mẹ chồng tôi thì vừa mếu máo vừa lo xin nước sôi pha sữa cho con dâu
uống. Con bé này vốn đã gầy, hai hôm rồi nó chẳng ăn, chẳng nói gì làm
bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ lính đang khóc
ngoài kia thì bà lại đỡ lo. Không biết còn kẹt ở đây đến bao giờ? Bằng
vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan Mỹ cho bà quá
giang máy bay quân sự về Sàigòn, rồi bà sẽ thuê máy bay dân sự xuống đây
đón mấy đứa con.
Bà
giỏi lắm. Mấy chục năm trước, còn trẻ măng mà bà đã một mình thuê đò ở
Nam Định đi tìm chồng. Chồng bà đang đêm được Việt Minh đập cửa mời đi,
rồi cả tháng không thấy về. Ông được mời vì lúc đó ông có một ngôi
trường nhỏ dạy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đò, đi bộ cả bao nhiêu
cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin tức chồng. Họ bảo
về đi, bắn chết rồi. Bà lại thuê đò về, tính ngày đi của chồng dùng làm
ngày giỗ vì bà không biết ông bị xử bắn vào hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ
nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn nhất chưa quá 10 tuổi tìm đường
ra Hà Nội. Đi làm, nuôi con ăn học. Rồi lại dắt con di cư vào Nam. Ai
làm được gì thì bà cũng làm được như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước
mắt thì vốn chóng khô vì nó không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả ít
một. Chảy suốt một đời. Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, còn trẻ
lắm, lại chưa có con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên
cạnh. So với bà cô còn may mắn chán.
Mà
đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà xin lên
được máy bay về trước các con một hôm thì cũng bị thả xuống phi trường
Bình Thủy đêm hôm đó, máy bay không về đến Sài Gòn. Một cơn mưa tháng
Tám bất chợt ập xuống làm bà ướt sũng, thất thểu tìm một nhà thờ vào xin
ngủ qua đêm, bà không cần khóc nữa, trời đất khóc hộ bà rồi. Sáng hôm
sau bà đi xe đò về Sàigòn. Trong khi đó thì các con của bà: Con sống,
con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm qua, nhưng không phải buổi
tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy nắng.
Cuối cùng thì cũng đưa được quan tài về Sài Gòn. Khi xuống đến phi trường Tân Sơn Nhất thì cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có cần quay một cảnh phim cho chiến tranh thì hay quá. Cái quan tài cũng không cần phải trang trí cho ra vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ phủ trên nó nhầu nát, xộc xệch, cô đơn, đã đủ vẻ tang thương.
Hai
nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang hay diễn
xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra từng mảnh
như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay phim lên,
quay họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.
Sau
nầy tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà mình tỉnh khô như vậy,
sao mình không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường?
Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.
Một
chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh viện
Grall. Đã bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà còn xin được
miếng đất chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho tiện, chứ
lên tận Nghĩa Trang Quân Đội thì làm sao bà có thể đi thăm thường xuyên
được.
Họ
cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nhìn chỗ mình đã sống, đã lớn lên
một lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không được chết ở
nhà thì phải ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế! Tôi thấy những
người lân cận và một vài người họ hàng đã đứng chờ sẵn trước cửa nhà. Họ
nhìn tôi, nhìn quan tài như xem phim chiếu chậm, họ quen quá rồi cái
cảnh nầy những năm gần đây. Tôi còn trẻ quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng
quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội cho bà mẹ anh ta.
Họ
nghĩ cũng chẳng sai mấy. Khi tôi bị đẩy ra khỏi nước, gia đình chồng
cũng bỏ đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung cũng chẳng khác gì những
người còn sống, cũng bị đuổi nhà, bị chiếm đoạt tài sản. Người anh họ ở
lại tìm cho anh một nơi cư ngụ mới trong nhà thờ Tân Định.
Tôi
trôi mãi rồi cũng phải dạt vào một chỗ. Bảy năm sau tôi lấy chồng, sanh
con, tôi sống bình thường như tất cả mọi người đàn bà khác trên một đất
nước không có chiến tranh. Tôi cũng vui, cũng buồn với những thăng trầm
của đời sống.
Ở
đời sống hàng ngày, tôi quên dần cái bất hạnh của tôi mấy mươi năm về
trước. Nhưng tôi nhớ rất rõ ràng là cái bất hạnh đó nó có hiện diện
trong kiếp người của mình. Thỉnh thoảng Cung vẫn về trong giấc mơ, dù
suốt ngày hôm trước tôi không hề nghĩ đến. Cung về như còn sống hay về
như đã chết thì khi tỉnh dậy, nước mắt tôi vẫn lặng lẽ trào ra trên gối.
Tôi cố gắng không làm giao động người nằm bên cạnh đang ngon giấc. Buổi
sáng, thức dậy, tôi thay áo gối, rồi lại thản nhiên bước vào đời sống
trước mặt: Giặt giũ cho chồng, cơm bánh cho con.
Thời gian cứ thản nhiên trôi, buồn và vui đầy ắp hai tay. Ngày trắng tóc rồi cũng đến.
* * *
Lần
đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi tìm Cung ở
nhà thờ Tân Định. Tôi đi len lỏi giữa những dẫy kệ, đọc từng cái tên, đi
đến vần "T" là họ của Cung. Tôi nhìn thấy một cái hộc nhỏ, không có
hình chỉ có ghi Họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run
rẩy chạm những ngón tay mình lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu
áo quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng nấc
đưa lên thanh quản, vỡ òa ra, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc. Nước
mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những ngày đi đón
xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch ngầm của suối bật
lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống giữa lối đi của hai
hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.
Chung
quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm mình vào nước mắt, vào bất hạnh, vào nỗi
cô độc của mình. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi vẫn thản
nhiên, im lìm nhìn như trước khi tôi đến.
TRẦN MỘNG TÚ Sau đây đôi hàng về tiểu sử của chị:
Sang Mỹ tháng Tư năm 1975 (Thư Ký cho Hãng Thông Tấn The Associated Press ở Sàigon 1968-1975).
Hiện sống ở Seattle, Washington với gia đình.
Thường xuyên cộng tác với các tạp chí văn học ở Mỹ và các nước khác.
Viết
truyện nhi đồng cho báo Los Angeles Times từ năm 2000, có thơ Anh Ngữ
trong sách giáo khoa Mỹ cho chương trình trung học (American Literature-
Glencoe-1999)
Đoạt giải về bình luận (Commentary) của The New California Media (NCM) "Ethnic Pulitzers" năm 2003.
Chủ Bút cho Nguyệt San Phụ Nữ Gia Đình Người Việt ở California (Oct.2002 -Oct.2005)
Đã xuất bản:
Thơ Trần Mộng Tú (Tập Thơ-1990) NXB-Người-Việt.
Câu Chuyện Của Lá Phong (Tập Truyện Ngắn-1994) NXB-Người-Việt
Để Em Làm Gió (Tập Thơ-1996) NXB-Thế-Kỷ
Cô Rơm và Những Truyện Ngắn Khác (Tập Truyện Ngắn-1999) NXB-Văn Nghệ
Ngọn Nến Muộn Màng ( Tập Thơ-2005) NXB-Thư-Hương
Mưa Sài Gòn Mưa Seattle (Tạp Văn-2006) NXB-Văn Mới
Sắp xuất bản:
Thơ Tuyển Trần Mộng Tú
|
Các bài cũ của Sơn Trung Thư Trang - http://vanhoavn.blogspot.com
Pages
▼
No comments:
Post a Comment