Pages

Monday, October 31, 2016

NGUYỄN MINH CẦN 8 CỘNG SẢN = ĐỜN CA TÀI TỬ

NGUYỄN MINH CẦN * ĐẢNG CỘNG SẢN I

 
 Ngày 8-12-2013, dân Ukraina giật sập tượng Lenin

Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . (1)
Nguyễn Minh Cần

Giới Thiệu Về Tác Giả


Ông Nguyễn Minh Cần sinh năm 1928 tại Huế. Ông tham gia kháng chiến trước tháng 8 năm 1945 khi còn là học sinh ở Huế. Năm 1946, ông là đảng viên Đảng Cộng Sản Đông Dương, và hoạt động ở Thừa Thiên với chức vụ Ủy Viên Thường Vụ Tỉnh Ủy Thừa Thiên.

Sau đó, ông hoạt động bí mật tại Hà Nội từ năm 1951. Từ tháng 10 năm 1954 đến 1962 ông làm Ủy viên thường vụ Thành ủy Hà Nội, Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, chủ nhiệm báo Thủ đô Hà Nô.i. Năm 1962 ông được đảng Lao động Việt Nam (nay là đảng CSViệt Nam) cử đi học trường Ðảng Cao cấp tại Liên Xô.

Trong thời gian này, phe Lê Duẫn và Lê Ðức Thọ, lúc đó ngả theo đường lối chống Liên Xô của đảng CS Trung Quốc, đã mở một chiến dịch truy bức quy mô nhằm thanh toán những người mà họ cho là có tư tưởng theo chủ nghĩa xét lại của Liên Xô. Nhiều đảng viên và ngay cả những trí thức không dính dáng gì đến đảng Lao động Việt Nam cũng bị hãm hại một cách đê tiê.n. Trước tình hình đó, ông Nguyễn Minh Cần và một số đảng viên cao cấp khác của đảng Lao động Việt Nam đã quyết định xin tỵ nạn chính trị tại Liên Xô. Mặc dù Liên Xô đã từ chối lời yêu cầu của Việt Nam và không giao trả ông cho Việt Nam nhưng đã bắt ông không được phép hoạt động chính trị nữa và phải đổi cả tên họ (thành tên Nga) để bảo toàn an ninh. Vợ và các con của ông ở Việt Nam bỗng nhiên trở thành nạn nhân của chính sách trả thù hèn hạ của tập đoàn thống trị CS Việt Nam.
Từ năm 1989 ông Nguyễn Minh Cần đã tham gia tích cực vào "Phong trào nước Nga Dân chủ", một phong trào vận động dân chủ lớn tại Nga. Cùng với người vợ Nga, ông Nguyễn Minh Cần đã tham gia vào chiến dịch bảo vệ Tòa Nhà trắng của Phong trào và phá vỡ cuộc đảo chánh của phe nhóm CS tại Nga vào tháng 8 năm 1991. Ông Nguyện Minh Cần hiện đã về hưu. Phần lớn thời giờ ông dành để nghiên cứu Phật học và viết các bài nghiên cứu chính trị. Ông hiện là một nhân sĩ và là một cây bút quen thuộc và được quí mến ở Mỹ và Âu Châu. Quyển sách "Công lý đòi hỏi" (nhà xuất bản Văn Nghệ, California, 1998) là tập hợp những bài viết của ông từ 1992đến 1998.
Tác phẩm thứ hai sắp được xuất bản tác giả Nguyễn Minh cần là quyển sách "Ðảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế". Ðiểm đặc biệt là quyển sách được viết dựa trên những nhận thức mới, nhờ tác giả được vào tham khảo tại Kho Lưu trữ của Quốc tế Cộng sản tại Moskva, nay là Trung tâm Lưu trữ Văn kiện Lịch sử Hiện đại (RSKHIDNI). 
 Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . 
Ðảng cộng sản Việt Nam (ÐCSVN) qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế (PTCSQT) là một đề tài khá rô.ng. Việc nghiên cứu kỹ đề tài này có thể giúp ta hiểu được nhiều vấn đề thuộc về quá khứ không xa, cũng như hiện tại và tương lai của đất nước. Ðể có thể có cái nhìn bao quát giúp cho việc nghiên cứu được sâu, người viết xin trình bày theo trình tự sau đây:


Ðôi điều về đảng cộng sản (ÐCS) và PTCSQT,
Ðôi điều về ÐCSVN,
Những thời kỳ biến động lớn nhất trong lịch sử PTCSQT,
ÐCSVN qua những biến động đó.


Những vấn đề này liên quan chặt chẽ với nhau. Có hiểu được thực chất của ÐCS nói chung và PTCSQT thì dễ dàng nắm bắt được những đặc điểm chính của ÐCSVN, và khi biết rõ những đặc điểm đó rồi thì dễ dàng hiểu được thái độ của ÐCSVN trước những biến động lớn trong PTCSQT, và nhất là hiểu được thái độ của ÐCSVN trong tình hình hiện nay trước xu thế chung của thời đại, đồng thời có thể dự đoán phần nào sự chuyển biến tình hình đất nước trong tương laị
Ðây là một bài có tính chất nghiên cứu, nên người viết chủ yếu dựa trên sự kiện thực tế và trình bày thẳng thắn, không thêm bớt, không thiên vị để bảo đảm tính khách quan.
Nhận thức rằng những điều trình bày dưới đây mới chỉ là nét phác họa chưa đầy đủ, sức của người viết thì có hạn, mà đề tài lại lớn cần có sự nghiên cứu sâu hơn và kỹ hơn của nhiều người, nên mong mỏi và hoan nghênh các nhà nghiên cứu cùng các bạn đọc góp sức, góp ý để vấn đề được sáng tỏ thêm. Người viết sẵn sàng đón nhận với lòng biết ơn mọi ý kiến phê bình xây dư.ng.
I. ĐÔI ĐIỀU VỀ ÐCS VÀ PTCSQT
Trước hết, cần biết qua quan điểm của các lãnh tụ cộng sản Marx, Engels, Lenin, Stalin và Mao Trạch Ðông về ÐCS, cũng như thực tiễn xây dựng đảng của họ, để dễ hiểu về ÐCSVN, vì xưa nay những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam đều coi quan điểm lý luận của các lãnh tụ đó là "kim chỉ nam cho hành động" của họ, còn các Ðảng cộng sản Liên Xô (ÐCSLX), Trung Quốc (ÐCSTQ) là khuôn mẫu để họ rập theo xây dựng ÐCSVN.
A. Quan điểm của Marx-Engels về ÐCS
Khi nghiên cứu xã hội tư bản, Karl Marx và Fredrich Engels cho rằng cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Âu Mỹ đã sinh ra giai cấp vô sản, lực lượng xã hội chủ yếu tạo ra mọi của cải vật chất của xã hội tư bản chủ nghĩa. Trong quá trình sản xuất, giai cấp vô sản tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, và giai cấp tư bản ăn bám đã chiếm đoạt thứ giá trị thặng dư này để trở nên giàu có.
 Toàn bộ quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho giai cấp vô sản, nhất là vô sản công nghiệp, trở thành giai cấp tiên tiến nhất, có tổ chức nhất, cách mạng triệt để nhất, nó là giai cấp lãnh đạo cách mạng vô sản, nó sẽ là kẻ đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản và xây dựng nên xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Muốn làm được nhiệm vụ lịch sử đó, theo Marx và Engels, thì "phải tổ chức những người vô sản thành giai cấp (ý nói phải tổ chức đảng của vô sản - NMC), lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền" (xem: "Tuyên ngôn của Ðảng cộng sản". NXB Sự Thật, Hà Nội, 1983, tr.66).
Trong bài này, chúng tôi không muốn bàn nhiều đến sai lầm trong luận điểm của Marx và Engels về vai trò của giai cấp vô sản trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, cũng như vai trò lãnh đạo của giai cấp đó trong xã hội, vì đề tài đó thuộc một vấn đề khác rộng hơn. Nhưng vì luận điểm đó là cơ sở đặt nền móng cho toàn bộ học thuyết của hai ông, trong đó có lý luận về đảng của giai cấp vô sản, nên buộc lòng cũng phải nói qua. 
 Luận điểm trên của Marx và Engels về vai trò của giai cấp vô sản là dựa trên sự phân tích xã hội tư bản được trình bày một cách thiên lệch trong bộ "Tư bản" của Marx. Vì tác giả của nó muốn đề cao vai trò của giai cấp vô sản, nên khi trình bày về kinh tế tư bản chủ nghĩa đã cố tình chỉ nhấn mạnh đến đến vai trò lao động, chủ yếu bằng chân tay, của giai cấp vô sản trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nói chung, cũng như trong sự cấu thành giá trị và giá trị thặng dư nói riêng, mà coi nhẹ hoặc không đếm xỉa đến thứ lao động quan trọng nhất, quyết định nhất là lao động bằng trí tuệ của tầng lớp trí thức, nhất là trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, tức là lớp người tạo nên nền sản xuất với kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, và của tầng lớp quản lý, tức là lớp người điều khiển, vận hành toàn bộ nền sản xuất phức tạp đó, trong việc này có cả phần đóng góp của giai cấp tư bản. Do phương pháp luận không khách quan đó, nên Marx đã rút ra những kết luận sai lầm. 
Thực tiễn thế giới ngay giữa thế kỷ 20 đã hoàn toàn bác bỏ những kết luận của Marx về vai trò của giai cấp vô sản trong xã hội, bác bỏ những điều khẳng định về những tính chất "tiên tiến nhất, có tổ chức nhất, cách mạng triệt để nhất" của giai cấp này. Còn đến cuối thế kỷ 20, khi nền kinh tế toàn cầu hóa, cuộc cách mạng tin học tiến mạnh, kinh tế tri thức nở rộ thì chẳng còn mấy ai tin vào những kết luận đó nữa. Thế mà, Marx và Engels dựa trên những kết luận sai lầm đó, đã đưa ra trong "Tuyên ngôn của Ðảng cộng sản" (năm 1848) quan niệm về đảng của những người cộng sản và nhiệm vụ xây dựng xã hội cộng sản của giai cấp vô sản.



Công bằng mà nói, trong các tác phẩm của mình, hai ông thường nhấn mạnh: cách mạng vô sản chỉ có thể tiến hành ở các nước công nghiệp phát triển, nghĩa là những nước thực sự có giai cấp vô sản, và ÐCS phải thực sự là "đảng của giai cấp vô sản" mang tính chất vô sản. Sở dĩ phải nhấn mạnh như thế vì hai ông phòng trước: nếu không có điều kiện căn bản đó, ÐCS sẽ là đảng của lớp nghèo không phải vô sản, "lớp đáy" của xã hội, mà Marx gọi là "lumpen-proletariat" (vô sản áo rách, vô sản lưu manh), sẽ mang nặng tính chất của các tầng lớp đó và vì thế sẽ làm sai mục tiêu của cách mạng vô sản. 
Về sau, Lenin và phe cánh của ông ta tự cho mình phát triển chủ nghĩa Marx thì lại coi nhẹ điều này, ôngï cho rằng cách mạng vô sản có thể diễn ra ở các nước công nghiệp kém phát triển, nơi đang là khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản. Thậm chí Lenin và phe cánh còn cho rằng những nước chưa qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản cũng có thể làm cách mạng vô sản miễn là họ nhận được sự giúp đỡ của một nước mà ÐCS nắm chuyên chính vô sản.


Nếu nghiên cứu kỹ thì có thể dễ dàng nhận thấy một số quan điểm căn bản về ÐCS của Marx và Engels ghi trong "Tuyên ngôn của Ðảng cộng sản" khác với quan niệm và thực hành của Lenin và những lãnh tụ cộng sản khác trong thế kỷ 20. Có những điều hai ông đã viết ra rất ít được những người theo chủ nghĩa Lenin sau này nhắc tới hoặc đem ra bình luâ.n. Vì thế, xin dẫn ra ở đây vài đoạn đáng chú ý trong "Tuyên ngôn của Ðảng cộng sản":


"... về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước..." (Sđd, tr.66)...
"Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác" (Sđd, tr.65)...
"Họ không đặt ra những nguyên tắc phe phái nhằm khuôn phong trào công nhân theo những nguyên tắc ấỵ
Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác trên hai điểm: một là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc mà chung cho toàn thể giai cấp vô sản; hai là, trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào" (Sđd, tr.65).


Qua những điều đó thấy rõ rằng, khi đặt cho đảng của giai cấp vô sản nhiệm vụ làm cách mạng vô sản đánh đổ chế độ tư bản chủ nghĩa bằng bạo lực, rồi dùng chuyên chính vô sản để tiêu diệt giai cấp tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Marx và Engels quan niệm ÐCS là một tổ chức xã hội, chứ không phải là một hội kín của những kẻ âm mưu. 
Cứ nhìn các đảng vô sản dưới thời hai ông, chẳng hạn, công đảng, đảng xã hội chủ nghĩa, đảng xã hô.iđân chủ... thì thấy rõ điều này. Marx và Engels quan niệm một nền chính trị, trong đó giai cấp vô sản có nhiều đảng, chứ không phải một ÐCS duy nhất. Dĩ nhiên, không thể coi đây đã là nền chính trị đa nguyên, đa đảng theo quan niệm dân chủ hiện thời, vì hai ông chỉ nói đến "các đảng công nhân khác" mà thôi.
 Hai ông không quan niệm ÐCS là một tổ chức cao nhất đứng trên các đảng vô sản khác, có độc quyền lãnh đạo hay độc tôn thống trị các đảng và các tổ chức vô sản khác, như Lenin, Stalin và Mao Trạch Ðông về sau đã chủ trương. Ðiều đáng chú ý nữa là Marx và Engels luôn luôn đề cao chủ nghĩa quốc tế, hai ông nhấn mạnh trong bất cứ trường hợp nào ÐCS không được lấy quyền lợi dân tộc làm gốc mà phải lấy chủ nghĩa quốc tế làm căn bản. Ðiều này thì càng về sau, các ÐCS hoặc chỉ nói mà không làm, hoặc chỉ lợi dụng chiêu bài chủ nghĩa quốc tế vô sản để che đậy cho quyền lợi tập đoàn của ho..


Về mặt thực hành quan điểm của hai ông về đảng, Marx và Engels đã lập ra hồi năm 1864 "Liên minh công nhân quốc tế" (sau này được mệnh danh là Ðệ Nhất Quốc tế), với số phân bộ không nhiều, phần lớn ở châu Âu. Trước đó, Marx và Engels cũng lập ra "Liên đoàn những người cộng sản", nhưng trên thực tế cả tổ chức này cũng không có hoạt động gì nổi bật, ngoài việc ra "Tuyên ngôn của Ðảng cộng sản". Do cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng trong nội bộ "Liên minh công nhân quốc tế", tổ chức này dần dần tan rã, và năm 1876 tuyên bố tự giải tán. 
Ðến năm 1889, cuộc đại hội các đảng xã hội chủ nghĩa (ở Việt Nam thường gọi là đảng xã hội) của nhiều nước châu Âu, của Mỹ và Argentina đã thành lập "Liên minh quốc tế của các đảng xã hội chủ nghĩa" (về sau được mệnh danh là Ðệ Nhị Quốc tế). Sau khi Engels mất (1895), Ðệ Nhị Quốc tế bị Lenin công kích thậm tệ, lên án tổ chức quốc tế này là theo đường lối "xét lại", cải lương, cơ hội chủ nghĩa, thỏa hiệp giai cấp, tay sai của tư sản và phản bội cách ma.ng. Lenin tuyên bố là trung tâm cách mạng thế giới đã chuyển sang nước Nga và chỉ có ÐCS "bolshevik" Nga mới thật là cách mạng triệt để.

Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . (2)
( Nguyễn Minh Cần )

B. Quan điểm và thực hành của Lenin về ÐCS

Lenin tự cho mình là người kế nghiệp chân chính những di sản lý luận của Marx và Engels, còn Karl Kautsky là renégat (các dịch giả Hà Nội chuyển ngữ là: kẻ phản bội), dù về mặt pháp lý Kautsky được di chúc là người thừa kế chính thức các di cảo của Marx và Engels. Trên thực tế rất nhiều vấn đề Lenin đã làm khác, nếu không muốn nói là xuyên tạc, những tư tưởng của Marx và Engels. Làm như thế, Lenin và phe cánh của ông cho rằng họ đã phát triển chủ nghĩa Marx. 
Chẳng hạn, về lý luận, Lenin cho rằng cách mạng vô sản có thể giành được thắng lợi ở cái khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản, khâu đó là nước Nga - một nước mà chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp, chứ không nhất thiết phải nổ đồng loạt ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã phát triển, như Marx và Engels đã dự kiến, mà muốn thế thì phải có một "đảng kiểu mới" khác hẳn với các đảng vô sản đã có trong các Quốc tế dưới thời Marx và Engels. Quan điểm của Lenin về "đảng kiểu mới", dĩ nhiên, khác hẳn quan điểm của Marx và Engels.
Khi phân tích quan điểm này của Lenin, chúng tôi không viện dẫn những câu "nhật tụng" "tung hỏa mù" mà giới lý luận xô-viết thường hay trưng ra (như ÐCS là đội quân tiên tiến nhất, giác ngộ nhất của giai cấp vô sản, ÐCS là đội quân có tổ chức nhất của giai cấp vô sản, v.v... và v.v...) để che đậy quan điểm thật của Lenin về ÐCS, mà chúng tôi dựa vào sách "Làm gì?" do Lenin viết và xuất bản năm 1902 ở Stutgart. 
Trong tác phẩm đó, Lenin nói rõ nhất về quan điểm của ông và kế hoạch xây dựng ÐCS "kiểu mới" của những người cách mạng chuyên nghiê.p. Ông cho rằng ở nước Nga tuy chủ nghĩa tư bản chưa phát triển cao nhưng vẫn có thể làm cách mạng vô sản thắng lợi được, miễn là những người cộng sản xây dựng được ÐCS "kiểu mới" thật bí mật biết dùng bạo lực để cướp chính quyền, nói một cách khác xây dựng được một hội kín của những kẻ âm mưu. Ngay hồi đầu thế kỷ 20, Lenin đã nói: "Hãy cho tôi một đảng những người cách mạng chuyên nghiệp thì tôi lật ngược cả nước Nga" (còn sau cuộc đảo chính tháng 10.1917, ông mơ ước lật ngược cả thế giới nữa!). 
Ông cho rằng người muzhich (nông dân) Nga vốn có truyền thống khuất phục, nếu ÐCS cướp được chính quyền rồi thì cả xã hội đều sẽ khuất phục theo và bằng bạo lực của chuyên chính vô sản, ÐCS sẽ xây dựng được chế độ cộng sản. Ðể chuẩn bị cướp chính quyền, Lenin đặc biệt chú ý lập ra các nhóm khủng bố võ trang gồm cả những phần tử tội phạm để làm nhiệm vụ "tước đoạt" (ăn cướp), ám sát, v.v... Chỉ huy các nhóm khủng bố này là ba người (gọi là "troika") rất bí mật trong trung ương Ðảng bolshevik, trong "troika" đó có Lenin và Krasin. 
Nên nhớ rằng, hồi đó, Ðảng bolshevik là một bộ phận của Ðảng công nhân xã hội - dân chủ Nga, mà Ðảng công nhân xã hội - dân chủ Nga thì cực lực lên án và cấm tuyệt hành động khủng bố, cho nên Lenin và phe cánh phải giữ bí mật tuyệt đối nhóm "troika" và việc ông ta chỉ huy nhóm khủng bố (xem: Edvard Razinsky. "Stalin". Moskva 1997, tiếng Nga, tr.54, 64-69). Thực tế đã chứng tỏ rằng với cái "đảng-hội kín-âm mưu" đó, Lenin và những người bolsheviks Nga có được trong tay một công cụ (instrument) hữu hiệu đã làm đảo chính cướp chính quyền và thiết lập chuyên chính vô sản hồi tháng 10.1917. 
Ngày nay, giới sử học Nga cũng đã khẳng định sự biến tháng 10.1917 là một cuộc đảo chính lật đổ chính quyền dân chủ chứ không phải là một cuộc cách mạng, như những người bolsheviks thường nói. Và chính Lenin trong mấy năm đầu sau tháng 10.1917 cũng gọi đó là "đảo chính" (tiếng Nga là "perevorot", các dịch giả Hà Nội cố ý chuyển ngữ bằng một từ rất lờ mờ là "chính biến" - NMC).

Ðể xây dựng ÐCS với thực chất hội kín của những kẻ âm mưu như vậy, Lenin đặc biệt nhấn mạnh vai trò "những người cách mạng chuyên nghiệp". Ông viết: "... tổ chức của những người cách mạng phải bao gồm trước tiên và chủ yếu những người mà nghề nghiệp của họ là hoạt động cách mạng ..." (xem: Lenin V.I. "Toàn tập", t.6, tiếng Nga, tr.112). Sự thật chứng tỏ rằng "những người cách mạng chuyên nghiệp" Nga trước tháng 10.1917, phần lớn là những kẻ vô nghề nghiệp, không lao động, hoặc có nghề nghiệp mà không làm việc gì, ngoài "việc làm" cách mạng; cũng có một số đã có quá khứ tội pha.m. 
 Ngay cách làm tài chính cho tổ chức của những người chuyên nghiệp này cũng thấy rõ tính chất hội kín của những kẻ âm mưu: dựa vào hoạt động khủng bố để cướp đoạt làm tiền cho đảng (họ gọi bằng từ ngữ của Marx là tước đoạt). Lenin lý giải thật giản đơn cái quan điểm về "những người cách mạng chuyên nghiệp". Ông viết: "bắt được mười thằng khôn khó hơn bắt một trăm thằng ngốc", và ông nhấn mạnh: "phải hiểu rằng - như tôi đã nhiều lần vạch rõ - chỉ có những người cách mạng chuyên nghiệp (chữ in đậm của Lenin - NMC) mà thôi" (Sđd, tr.124). Nhưng cả "những thằng khôn" lẫn "những thằng ngốc" đó phải đứng vào trong "một tổ chức bí mật hết sức nghiêm ngặt", và tổ chức này phải do "một ủy ban gồm những người cách mạng chuyên nghiệp" (Sđd, tr.122, 125) điều khiển. 
Rõ ràng là theo quan điểm của Lenin, ÐCS thực ra là một hội kín của những kẻ âm mưu, chứ không phải là một chính đảng với tính cách là tổ chức xã hội của giai cấp vô sản. Bản thân Lenin cũng không giấu giếm điều đó, khi ông nói: "thật vô cùng ngây thơ khi sợ bị buộc tội chúng ta, là những người xã hô.iđân chủ, lại muốn thành lập một tổ chức âm mưu" (Sđd, tr.136) . 
Ông cho rằng tổ chức đó cần có "một mạng lưới những agents" (từ này trong tiếng Nga có nhiều nghĩa, chúng tôi muốn giữ nguyên dạng từ này, vì nó lột tả thực chất cách đặt vấn đề của Lenin), nhưng - theo ông - "nếu ai đó không thích "cái từ khủng khiếp" này thì có thể thay bằng từ "những nhân viên", có khả năng bảo đảm "sác xuất lớn nhất của thắng lợi trong trường hợp nổi dậy" (Sđd, tr.178). 
Cũng vì tính chất hội kín của những kẻ âm mưu, nên Lenin luôn luôn đưa lên hàng đầu đòi hỏi "đảng kiểu mới" phải là một tổ chức "tập trung nhất","bí mật nhất" và phải "có kỷ luật sắt" cực kỳ nghiêm ngă.t. Nền tảng để xây dựng "đảng kiểu mới" với tính cách "công cụ" ngoan ngoãn của một lãnh tụ hoặc một nhóm lãnh tụ là nguyên tắc tập trung dân chủ.
 Chính nguyên tắc này bảo đảm sự phục tùng tuyệt đối của đại đa số đảng viên đối với một nhóm nhỏ những người lãnh đạo, hay nói theo cách của Lenin "một ủy ban gồm những người cách mạng chuyên nghiệp", và ủy ban ban này - đến lượt nó - phải phục tùng tuyệt đối một hay vài lãnh tụ (chẳng hạn, nhóm ba người gọi là "troika" đã nói trên). Nhóm nhỏ lãnh đạo ÐCS này khi cướp được chính quyền rồi trở thành tập đoàn thống trị nhà nước và xã hộị

Lenin còn đưa ra luận điểm về "sự độc quyền lãnh đạo (hégémonie) của giai cấp vô sản, tức là của ÐCS". Xin chú ý rằng: trong các cụm từ "sự độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản" hay "chuyên chính của giai cấp vô sản", cái vế "của giai cấp vô sản" chỉ là một cách nói đẹp để dụ hoặc người lao động, còn nghĩa thực của nó là của một hoặc vài lãnh tụ, tức là một nhúm nhỏ "những người cách mạng chuyên nghiệp", nói cách khác là một tập đoàn thống trị cộng sản. Ðối với Lenin, cả giai cấp vô sản, hay nói rộng hơn toàn dân tộc, toàn nước Nga chỉ có thể có một đảng duy nhất, đó là ÐCS của những người bolsheviks, đứa con đẻ quan trọng nhất của "chủ nghĩa Lenin", hình mẫu cho các ÐCS trên thế giớị

Ðấy, quan niệm về ÐCS của Lenin là như thế, và chính quan niệm đó là một trong những cơ sở để xây dựng lên chế độ cực quyền toàn trị khi ÐCS đã cướp được chính quyền. Sau cuộc đảo chính tháng 10.1917, ÐCS trở thành một yếu tố chính của nhà nước mới xuất hiê.n. Những người bolsheviks, thông qua ÐCS, nắm quyền thống trị độc tôn chuyên chế vô hạn đã tiêu diệt hết các đảng và các tổ chức đối lập, tiêu diệt "các giai cấp thù địch" - cụ thể là giai cấp các chủ ruộng đất, giai cấp các nhà công nghiệp, thương nghiệp, giai cấp những người nông dân năng nổ nhất, đắc lực nhất trong nền sản xuất nông nghiệp (tiếng Nga gọi là kulak)ø , giai cấp các nhà trí thức, tiêu diệt hết mọi mầm mống dân chủ trong xã hô.i. 
Quyền chuyên chế vô hạn đó đã được thiết lập ở Nga hồi tháng 10.1917 là do trình độ văn hóa chính trị thấp kém của dân chúng, đặc biệt là của người muzhich ở nông thôn, và truyền thống dân chủ quá non yếu của xã hội Nga. 
Bằng bạo lực đẵm máu, những người cộng sản-bolshevichs duy trì được quyền đó đã hơn bảy thập niên ở nước Nga cho đến khi ÐCS bị hạ bệ hồi tháng 8.1991. Trong suốt thời gian đó, ÐCS đã biến mình trở thành trung tâm liên kết và hình thành một giai cấp thống trị mới, giai cấp quan liêu đặc quyền đặc lợi gọi là "nomenklatura".
Một điểm quan trọng cần vạch rõ nữa là: sau ngày ÐCS cướp được chính quyền ở Nga, xuất hiện ngay một sự cộng sinh (symbiose) giữa đảng và nhà nước, dựa trên sự kết hợp trước hết giữa đảng và cơ quan công an mật vụ (lúc đầu gọi là Vecheka - ủy ban đặc biệt toàn Nga, hay Cheka - ủy ban đặc biệt). Ðiều đó thể hiện rõ trong nhiều "chỉ thị" của Lenin. 
Xin dẫn một đoạn trong thư Lenin gửi cho Yakov Ganetsky: "hãy thiết lập mối quan hệ khắng khít nhất giữa các tổ chức đảng với các Cheka... bắt buộc tất cả các đảng viên có chức vụ phải báo cho các Cheka tất cả những tin tức đến họ bằng con đường riêng tư hay chính thức và có ích cho cuộc đấu tranh chống phản cách mạng và gián điê.p. Không chỉ hạn chế trong việc đó mà thôi, họ còn phải giúp đỡ một cách hữu hiệu các Cheka, tham gia việc xét xử... dự các cuộc hỏi cung, v.v..." (xem: sách "Lenin và Vecheka", 1975, tr. 281).
 Chính Lenin đã từng viết: "một người cộng sản tốt đồng thời phải là một chekist (công an mật vụ) tốt" (Sđd, tr.363). ÐCS cầm quyền thực tế trở thành một đảng-nhà nước. ÐCS giống như con bạch tuộc vươn dài các vòi của nó bám chặt vào mọi cơ cấu của bộ máy nhà nước, xoắn quyện nhau, gắn chặt thành một bộ máy đảng-nhà nước của giai cấp thống trị mới, giai cấp quan liêu (nomenklatura) đông hàng nhiều triệu ngườiø. 
Bộ máy này rất to lớn và cồng kềnh đè nặng lên quảng đại dân chúng, trước nhất là các giai cấp mà đảng coi là thành phần cơ bản của xã hội (công nhân và nông dân lao động), cũng như lên quần chúng đảng viên. Bằng bạo lực chuyên chế đẵm máu, bộ máy này nghiền nát chẳng những mọi phản kháng, mọi ý đồ đối lập, mà còn đè bẹp, triệt tiêu cả mọi tư tưởng độc lập, mọi ý hướng dân chủ, mọi tư tưởng khác biệt trong đảng và ngoài xã hộị
Vô hình trung trong cả đất nước rộng lớn bao la chiếm đến một phần sáu địa cầu đã hình thành nên một kim tự tháp xã hội mà kẻ đứng trên đỉnh tháp là "lãnh tụ tối cao" của đảng với quyền lực cá nhân không hạn chế được tôn vinh là "lãnh tụ của giai cấp vô sản toàn thế giới" (Lenin) hoặc "người cha của các dân tộc" (Stalin), thực chất là một Nga hoàng đỏ, một tên độc tài đỏ.
 Trong kim tự tháp lớn lại có nhiều kim tự tháp nhỏ, trên đỉnh mỗi kim tự tháp nhỏ là một bí thư đảng bộ cộng sản địa phương, tức là một "lãnh tụ con", một lãnh chúa phong kiến đỏ. Còn ở đáy kim tự tháp là quảng đại dân chúng, bao gồm chủ yếu là những thành phần gọi là cơ bản của đảng - công nông binh, đảng viên thường. Trong số này một số không ít được giai cấp quan liêu tuyển chọn làm cán bộ để dần dần bổ sung vào giai cấp quan liêu cầm quyền, hoặc làm tay sai cho giai cấp đó.
Ðấy, từ quan niệm của Lenin về ÐCS đã tạo nên chế độ cực quyền toàn trị như thế. Ðó là hình mẫu chung cho tất cả các nước gọi là "xã hội chủ nghĩa".
Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . (3)
( Nguyễn Minh Cần )

C. Dựng lên một ÐCS thế giới

Sau khi cướp được chính quyền bằng một cuộc đảo chính khá dễ dàng (1917), Lenin càng say sưa với những kết luận của mình, đã nêu ra trong sách „Chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản“ (viết năm 1916) mà những kẻ tán dương Lenin gọi là „phát kiến vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới“. Những kết luận đó là: „chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn chủ nghĩa tư bản giãy chết“...“là giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa tư bản“... „là đêm trước của cách mạng vô sản thế giới“. Ðể kịp đón cái „đêm trước của cách mạng vô sản thế giới“, để làm „cách mạng vô sản thế giới“ và thiết lập „chuyên chính vô sản thế giới“, Lenin và đảng bolshevik thực tế bắt tay chuẩn bị thành lập một „đảng-hội kín-âm mưu“ thế giới, tức là một „ÐCS thế giới“, bao gồm nhiều ÐCS theo hình mẫu „ÐCS bolshevik Nga“ ở các nước trên thế giới. Ðây chính là thực chất của cái gọi là PTCSQT.

Về việc thành lập „ÐCS thế giới“ ấy, nhà sử học D. Volkogonov (viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm khoa học, tiến sĩ triết học, tiến sĩ sử học, trung tướng của quân đội xô-viết, vốn là một đảng viên cộng sản chính thống về sau đã tỉnh thức và trở thành nhà dân chủ triệt để) đã kể lại như sau: để chuẩn bị thành lập tổ chức quốc tế đó, Lenin và đảng bolshevik phái những agents của công an mật vụ Nga (Vecheka) đến một số đảng xã hội chủ nghĩa để phân hóa, chia rẽ, lôi kéo, tuyển mộ tay chân, cung cấp tài chính, v.v... nhằm tạo ra „phe tả“ làm „hạt nhân“ đầu tiên của tổ chức „Quốc tế“ mới (xem: D.Volkogonov. „Lenin.
Chân dung chính trị“. Hai tâ.p. 1994, t. 1. Trong sách này, ở tr. 272-273, 289-290. Volkogonov đưa ra nhiều tài liệu cụ thể về vai trò của công an mật vụ Nga trong việc thành lập và hoạt động của Quốc tế cộng sản, những tài liệu này dẫn từ kho lưu trữ của QTCS, nay là RSKHIDNI - Trung tâm lưu trữ văn kiện lịch sử hiện đại). 
Hồi năm 1918, ngoài ÐCS bolshevik Nga, ở châu Âu chỉ có một ÐCS Ðức nữa mà thôi, còn các nơi khác mới chỉ đang thời kỳ „thai nghén“ „phe tả“ trong các đảng xã hội chủ nghĩa. Theo lệnh của Lenin, Bộ trưởng ngoại giao Chicherin ra lời kêu gọi trên đài phát thanh gửi tới tất cả những người cộng sản châu Âu và châu Á mời họ đến Moskva tham dự hội nghị. Không có tiếng vang đáp lại, vì chẳng ai để ý đến lời kêu gọi đó cả. 
Cuối cùng, chỉ phủ dụ được một số tù binh nước ngoài đang ở Nga tham gia cuộc họp, cộng thêm Eberlain từ Ðức đến với một vài người ngẫu nhiên nào đấy nữa. Gần một tuần lễ, cái nhúm người đó, chưa đầy ba chục mống, giống như một bọn âm mưu, bàn cãi nhau: nên lấy danh xưng cho cuộc họp như thế nào? 
Thế là nhúm người đó quyết định: cuộc họp là „hội nghị cộng sản quốc tế để thành lập Ðệ Tam Quốc tế“. Tuyên ngôn ký tên 17 (!?) cái gọi là „đoàn đại biểu“, phần lớn là những kẻ vô danh tiểu tốt, và những người ngẫu nhiên nào đấy. Còn „Ðại bách khoa toàn thư xô-viết“ thì phịa thêm là đại hội thành lập Quốc tế cộng sản (QTCS - Komintern) hồi tháng 3.1919 tại Moskva „có mặt đại biểu của các ÐCS và các nhóm xã hội chủ nghĩa tả phái của 30 (!?) nước“!
 Lenin đặt nhiệm vụ chủ yếu cho QTCS là „đấu tranh giành chuyên chính vô sản thế giới“. Tại „đại hội“ đó, mọi vấn đề đưa ra đều do Lenin và bộ chính trị (BCT) ÐCS bolshevik Nga quyết định trước cả. Lenin đã tự tay viết ra „21 điều kiện gia nhập QTCS“ nhằm chọn lọc các đảng cho vào Quốc tế mới. Thâm ý của ông là muốn tạo cho QTCS một hình thức tổ chức chặt chẽ mà ông và ÐCS của ông có thể nắm chắc được ngay từ đầu. 
Do đó, những người lãnh đạo chủ chốt QTCS từ trước đến sau phần lớn đều là cán bộ của ÐCS bolshevik Nga hoặc là những tay chân trung thành với họ. Chủ tịch đầu tiên của Ban chấp hành QTCS (từ năm 1919) là Zinoviev, ủy viên BCT của ÐCS Nga, đến năm 1926 Zinoviev bị Stalin phế truất, và về sau bị hành quyết. 
Còn từ năm 1926 đến năm 1929, chủ tịch kế nhiệm là Bukharin, cũng là ủy viên BCT của ÐCS Nga, đến năm 1929 Bukharin cũng bị Stalin phế truất, và về sau cũng bị hành quyết. Nguyên tắc tổ chức của QTCS là tập trung dân chủ. Như vậy, mỗi ÐCS là một phân bộ (section) của QTCS, phải phục tùng nghiêm ngặt theo hệ thống dọc đến cấp cao nhất là Ban chấp hành QTCS, mà ban này thật ra chỉ là cái dù che đậy sự lũng đoạn của tập đoàn thống trị ÐCS Nga trong QTCS. Hơn nữa, tổ chức quốc tế này bị phụ thuộc hoàn toàn về mặt tài chính, cán bộ... vào TƯ ÐCS bolshevik Nga làm cho nó trở thành một công cụ hoàn toàn ngoan ngoãn để thực hiện những ý đồ của ho..

D.Volkogonov viết: „Ban lãnh đạo bolshevik tin tưởng một cách cuồng tín rằng chỉ cần đốt lên ngọn đuốc cách mạng thế giới ở Nga thì tòa nhà cũ kỹ rệu rã của nền văn minh nhân loại giống như túp lều gỗ mục nát sẽ nhanh chóng bắt lửa và cháy bùng lên. Khi đọc diễn văn nhân dịp kỷ niệm năm thứ nhất thành lập Ðệ Tam Quốc tế tại phiên họp long trọng của Xô-viết Moskva ngày 6.3.1920, Lenin đã tuyên bố: „phải đoan chắc (chữ in nghiêng của D.V.) rằng thắng lợi của cách mạng cộng sản là không thể nào tránh khỏi“.
 Lãnh tụ những người bolsheviks kết thúc bài diễn văn của ông ta bằng những lời sau đây trong tiếng vỗ tay hoan hô nhiệt liệt: „... thắng lợi của QTCS trên toàn thế giới, và trong một thời hạn không xa lắm - thắng lợi đó đã được bảo đảm“ (xem: Lenin V.I. Toàn tập, t. 40, tiếng Nga, tr. 209, 211). Phải có một tầm mắt cận thị và vô trách nhiệm đến kỳ lạ mới có thể tung ra những lời tuyên bố kêu vang mà rỗng tuếch đến thế“ (xem: D.Volkogonov. „Lenin. Chân dung chính trị“. Hai tâ.p. 1994, t. 2, tr. 271).

Ðể gây đám cháy „cách mạng“ ở các nước, Lenin và những người bolsheviks đã tung tiền của, vàng bạc cho các đảng tay chân ở các nước, đồng thời phái những nhóm „agents“ (hoạt động viên) của mình đem vũ khí, tài liệu tuyên truyền đến các nước đang có sự sục sôi trong dân chúng (Hungarie, Ðức, Italia, Ba Tư (Persia), ẤÂn Ðộ, Trung Quốc...), rồi tổ chức các nhóm khủng bố để khích động phong trào, hòng lật đổ các chế độ hiện tồn và thiết lập chuyên chính vô sản, hay nói theo từ ngữ thời thượng của họ hồi đó là „xô-viết hóa các nước“. 
Họ đặc biệt chú ý hai nước láng giềng Hungarie và Ðức đang có biến đô.ng. Và đến tháng 3.1919, nước Cộng hòa xô-viết Hungarie ra đời do lãnh tụ cộng sản Bela Kun đứng đầu. Lenin và những người bolsheviks Nga hân hoan cực độ. Lenin gửi điện nhân danh đại hội 8 ÐCS bolshevik Nga chào mừng với những câu như sau: „
Ðại hội đảng chúng tôi tin tưởng rằng chẳng bao lâu nữa chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng lợi trên toàn thế giới. Giai cấp công nhân Nga sẽ dốc toàn lực vội vã giúp đỡ các bạn... Nước cộng hòa cộng sản quốc tế muôn năm!“ . Ông còn gửi điện mật cho Bela Kun: „Hãy cứng rắn. Nếu trong số bọn xã hội chủ nghĩa hay bọn tiểu tư sản, mới theo các đồng chí ngày hôm qua, mà tỏ ra giao động đối với chuyên chính vô sản thì hãy đàn áp ngay không thương tiếc. Bị xử bắn - đó là số phận đúng luật của tên hèn nhát trong chiến tranh“. (Sđd, tr. 276, 278)
Chưa đầy một tháng sau ở Bavaria (Ðức), một chính phủ do người cộng sản Evgheni Levine đứng đầu lên nắm quyền. Chính phủ này gấp rút tiến hành những nhiệm vụ cấp bách của chuyên chính vô sản: quốc hữu hóa các ngân hàng, thành lập Hồng quân, quy định ngày làm việc 8 tiếng, võ trang giai cấp vô sản, cô lập giai cấp tư sản. 
Lenin cũng vội vàng gửi điện ngay với một loạt chỉ thị như sau: „... đã võ trang công nhân chưa, đã tước võ khí của giai cấp tư sản chưa, đã tăng gấp đôi, gấp ba tiền công cho bần nông và lao công chưa, đã tịch thu toàn bộ giấy in và tất cả các nhà in chưa... đã dồn nhà ở của giai cấp tư sản ở Munich để cho công nhân dọn đến ở các nhà giàu chưa... đã bắt con tin của giai cấp tư sản chưa... đã động viên toàn thể công nhân để phòng thủ và để tuyên truyền tư tưởng cho các vùng nông thôn lân cận chưả“ (Sđd, tr. 277). 
Lenin gửi những phái viên của ông mang theo chỉ thị và những va li vàng đến ngay những nơi đang „xô-viết hóa“ đó. Ông tin tưởng là cách mạng đã bắt đầu ở châu Âu, và cho rằng ngọn lửa cách mạng đang bùng cháy ở Ðức. Ông đã bí mật chuẩn bị một đội quân do Toukhachevsky chỉ huy để thấm nhập vào Ðức, nhưng quân chưa kịp vào thì cuộc biến động ở Bavaria đã bị dẹp yên.
 Ðiều mong ước về cách mạng bùng lên ở Ðức đã được Trotsky bộc tuệch nói ra: „... nước Ðức xô-viết thống nhất với nước Nga xô-viết thì ngay lập tức sẽ mạnh hơn tất cả các nước tư bản gộp lại!“. Trong óc của các lãnh tụ cộng sản Nga hiện lên giấc mơ rõ nét về một „Liên bang xô-viết Âu châu“, rồi một „Liên bang cộng sản Thế giới“ mà họ sẽ làm chủ. 
Chính tay Lenin đã ghi vào lời mở đầu của „Hiến pháp Liên Xô“ (được công bố năm 1924) câu sau: „Nhà nước mới xô-viết là... một bước quyết định mới trên con đường thống nhất những người lao động tất cả các nước vào Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết Thế giới“. Xin nhắc lại một lần nữa: thực chất của PTCSQT là thế đó!


Thế nhưng, cả ở Hungarie lẫn ở Bavaria, chính quyền xô-viết đã sụp đổ, và châu Aâu, châu Mỹ - nơi thực tế có giai cấp vô sản - thì yên ổn, các lãnh tụ Moskva bèn hướng về phương Ðông: Ấn Ðộ , Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên... Nhưng sau sự kiện Hungarie và Bavaria thì „cuộc cách mạng thế giới“ mà Lenin đã tiên đoán „rất thiên tài“ cứ tàn lụi dần. 
May thay cho nhân loại, cái mộng tưởng của Lenin và những người bolsheviks Nga đốt lên đám cháy cách mạng thế giới, thành lập „Liên bang xô-viết Âu châu“, „Liên bang cộng sản Thế giới“ chỉ là ảo mộng còn nằm lại trên những bài báo, những chỉ thị của họ mà thời gian đã phủ lên một lớp bụi dày. Trong lúc đó, đã xảy ra chuyện oái ăm của lịch sử: „Liên hiệp Âu châu“ với đủ mọi cơ cấu, kể cả nghị viện, tòa án, đồng Euro... đang hoạt động hữu hiệu mà lại không do những người cộng sản bolsheviks Nga lập ra và không có chuyên chính của giai cấp vô sản!


D. Stalin đối với ÐCS và QTCS

Ở đây, người viết sẽ chỉ nói một vài sự kiện cụ thể làm nổi bật thái độ và hành động của kẻ độc tài với ÐCS và QTCS, mà không nhắc đến những quan điểm thường được tán tụng trên sách báo chính thức của ÐCSLX (vì thật ra Stalin chỉ lặp lại những điều Lenin nói).

Ðối với ÐCS:

Khi Lenin còn sống, Stalin đã thấy rất rõ toàn bộ tính chất lợi hại của bộ máy đảng-nhà nước xô-viết với tính cách một công cụ sắc bén, ngoan ngoãn trong tay một nhúm người để thống trị đất nước và xã hô.i. Cho nên khát vọng mãnh liệt nhất của ông là nắm bằng được bộ máy ấy để thu tóm được toàn bộ quyền lực tối thượng trong nước và xã hô.i. Trên thực tế, Stalin không đưa ra một quan điểm "lý luận" nào khác những điều ông đã thừa kế của Lenin về ÐCS và về chế độ cực quyền xô-viết mà Lenin đã đặt cơ sở, còn ông thì "hoàn thiện" chúng đến cao độ khi trị vì trên một đế quốc rộng lớn nhất thế giớị

Ðể nói về quan điểm "lý luận" riêng của Stalin về ÐCS, người ta thường nhắc tới lời tuyên bố sau đây của ông: "ÐCS cũng là một loại như giáo đoàn những chevaliers de lordre des Porte-Glaive" (xem: "Stalin Toàn tập", t.5, tiếng Nga, tr.71, các bản dịch ra tiếng Việt đều ghi là "đoàn kỵ sĩ mang kiếm", không rõ nghĩa lắm, nên xin phép dùng nguyên tiếng Pháp với vài lời giới thiê.u. - NMC). Xin nói qua vài nét lịch sử. 
Giáo đoàn này gồm những hiệp sĩ Ðức được thành lập năm 1202 để xâm chiếm vùng Ðông Baltic và sau đó tiến công vào lãnh thổ Nga. Tên như thế là do phù hiệu của họ trên mũ giáp là một thanh kiếm và thánh giá. Ðến năm 1236, giáo đoàn bị đánh bại nặng nề và năm 1237 tàn quân nhập vào một giáo đoàn khác. Vì thế sự ví von này của Stalin lộ rõ ý đồ "quân sự hóa đảng" để thực hiện âm mưu bành trướng. Ðiều này thể hiện rõ nét nhất từ những năm 30 dưới thời Stalin - đảng cộng sản đã là một "tổ chức quân sự hóa" đến cao độ và hoàn toàn mất hết những dấu vết dân chủ ít ỏi còn sót lại trước đây. 
Tại hội nghị trung ương đảng hồi tháng 2.1937, tức là trong thời kỳ đại khủng bố ác liệt nhất, Stalin tuyên bố: "Trong đảng ta, có 3-4 ngàn người lãnh đạo cao cấp, có thể nói đó là hàng tướng lĩnh của đảng. Sau đó, là 30-40 ngàn người lãnh đạo trung cấp, đó là hàng sĩ quan của đảng. Rồi đến khoảng 100-150 ngàn cán bộ chỉ huy cấp dưới. Có thể nói đó là những hạ sĩ quan của đảng" (xem: RSKHIDNI. F.17. Op.12. D.612. Vyp. III. L.35). Cố nhiên, tổng tư lệnh tối cao "đạo quân" đó là Stalin.

Một lời tuyên bố khác của Stalin nữa cũng rất đáng được chú ý vì nó lộ rõ tư tưởng thật của kẻ độc tài: "ÐCS là công cụ của chuyên chính vô sản" (xem: Stalin I. "Những vấn đề của chủ nghĩa Lenin", M.1945, tiếng Nga, tr. 71). Công cụ như thế nào, sau này lịch sử đã chứng tỏ. Và quan điểm của Stalin về "chuyên chính vô sản" như thế nào thì xin bạn đọc hãy suy xét qua câu nói sau đây của ông ta mà Boris Bazhanov, cựu thư ký riêng của Stalin (từ 9.8.1923 đến 1.1.1928), đã kể lại trong hồi ký: ngày 17.6.1924, tức là sau đại hội 12, Stalin đọc báo cáo ở lớp huấn luyện các bí thư huyện ủy, ông ta đã nói thẳng rằng: "hiện nay chuyên chính vô sản về thực chất được thay thế bởi chuyên chính của đảng" (xem: "Hồi ký của cựu thư ký của Stalin", xuất bản ở Pháp 1980, ở Nga 1992, tr. 129). Nếu nói trắng ra thì chuyên chính của đảng có nghĩa là chuyên chính của một người: Stalin. Vì thế, ông ta phải chiến đấu để giành quyền chuyên chính đó.

Sau đây, chỉ xin nói đến mấy việc:

a. Giành cho bằng được vị thế chính thống để "nối ngôi" và nắm lấy ÐCS.

Ðọc tiểu sử Stalin, ta thường gặp những nhóm từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần -"Stalin là người bạn chiến đấu gần gũi nhất của Lenin", "người học trò kiệt xuất của Lenin", "người kế tục sự nghiệp của Lenin", hoặc thường được nghe kể nhiều về "tình bạn vĩ đại giữa hai lãnh tụ" trước cuộc đảo chính tháng 10.1917. Những điều đó là sự xuyên tạc lịch sử có dụng ý.
"Tình bạn vĩ đại" như thế nào? Sự thật là trước tháng 10.1917, đối với Lenin thì Dzhugashvili-Stalin chỉ là một người nào đấy trong đám "những người cách mạng chuyên nghiệp" mà thôi. Tháng 12.1905, Stalin đi họp hội nghị đảng ở Tammerfors và ở đấy có Lenin đến dự ho.p. Trước tháng 10.1917, cũng có vài lần Stalin được đi dự đại hội đảng và có gặp Lenin, nhưng Lenin cũng chẳng để ý. Thế mà sau này (1931), Stalin lại "phịa" là: "Bao giờ cũng vậy, mỗi lần tôi đi ra nước ngoài để gặp Lenin - hồi năm 1906, 1907, 1912, 1913..." (xem: Stalin I.V. "Tác phẩm", t.13, tr.121). Hồi năm 1915, Lenin cũng chỉù nhớ mang máng ai đó có bí danh là "Koba" ở trong nhóm khủng bố của đảng bolshevik vùng Caucase. 
Ông nhớ vì có một việc "động trời" hồi năm 1907 ở thành phố Tiflis (sau này là Tbilisi), Koba (tức là Dzhugashvili-Stalin) đã tham gia cùng Kamo một vụ ăn cướp tiền lớn (những người bolsheviks gọi những cuộc ăn cướp này là "tước đoạt" - dựa theo khẩu hiệu của Marx "tước đoạt kẻ đi tước đoạt") đến 350 ngàn rúp để "làm tài chính" cho đảng bolshevik.
 Hồi đó, những người bolsheviks ở Gruzia (còn gọi là Georgia) nhiều lần đã làm việc "tước đoạt" như thế, nhưng vụ năm 1907 là lớn nhất. Ðể hiểu rõ hơn sự thật về "tình bạn vĩ đại" giữa Lenin và Stalin, xin trích dẫn một bức thư của Lenin gửi Zinoviev hồi năm 1915 đăng trong tập 49 bộ Lenin Toàn tập, trong thư Lenin hỏi Zinoviev: "Anh có nhớ họ của Koba không?".
 Zinoviev viết thư trả lời là không biết. Lúc đó Lenin mới viết thư cho Karspinsky để hỏi về điều đó: "Tôi thiết tha yêu cầu anh tìm hiểu (có thể hỏi qua Stepko hay Mikha và v.v...) họ của "Koba" (Iosip Dz... ?? Chúng tôi quên mất)..." (xem: Lenin V.I. "Toàn tập", t. 49, tiếng Nga, tr. 101 và 161). Tài liệu lịch sử đó cho thấy "tình bạn vĩ đại giữa hai lãnh tụ" ûtrước tháng 10.1917 chỉ là huyền thoại, dù rằng giữa hai người sau đó thỉnh thoảng cũng có trao đổi thư từ với nhaụ

Cả sau khi những người bolsheviks đã cướp được chính quyền, "tình bạn vĩ đại" đó giữa hai "lãnh tụ" cũng không có. Ðây là một sự việc nữa mà ban lãnh đạo cộng sản Liên Xô cứ giấu kín mãi cho đến ngày khai mạc đại hội 20 (1956). 
Khi Lenin bị ốm nặng, Stalin cho tay chân theo dõi sát "người thầy vĩ đại" của mình, thậm chí đưa cả vợ là Nadezhda Allilueva đến làm thư ký riêng cho Lenin. Biết Lenin hồi đó đang viết "cái gì đấy" có lẽ là không có lợi cho mình, Stalin lấy cớ Lenin ốm nặng, đưa ra BCT thông qua nghị quyết hạn chế việc thông báo tình hình chính trị cho Lenin, hạn chế việc ghi chép giúp Lenin những điều do ông đọc ra... Có một lần, ngày 21.12.1922, Lenin muốn viết thư cho Trotsky, ông mới nhờ vợ là Krupskaya ghi bức thư ngắn do ông đo.c. Bà vợ đã cẩn thận xin phép bác sĩ của Lenin rồi mới làm việc này. 
Ðến khi Stalin biết được, Stalin đã mắng Krupskaya một trận cực kỳ thô bỉ, lại còn dọa trừng trị bằng kỷ luật đảng. Ngày 23.12.1922, Krupskaya viết thư cho Kamenev và Zinoviev - theo lời bà - "là những người bạn gần gũi nhất của Ilich" (tức là Lenin - NMC) để cầu cứu sự bảo vệ. Hai tháng rưỡi sau, Lenin biết được chuyện này, ngày 5.3.1923, ông đã viết thư cho Stalin một bức thư với lời lẽ như sau: "...
 Tôi không thể dễ dàng quên được việc đó, và chẳng cần nói gì thì đồng chí cũng phải hiểu là những gì chống lại vợ tôi, tôi cũng coi như chống lại tôi. Vì thế, tôi yêu cầu đồng chí cân nhắc xem đồng chí có sẵn sàng rút lui những lời đã nói và xin lỗi vợ tôi hay là muốn đoạn tuyệt mọi quan hệ giữa chúng ta" (xem: Lenin V.I. "Toàn tập", t. 54, tiếng Nga, tr. 330).


Không phải là "bạn" của Lenin, cũng không phải là một trong những lãnh tụ nổi bật nhất của đảng bolshevik, thế thì tại sao "quyền trượng" lại "lọt" vào tay Stalin sau khi Lenin qua đời? Ðây là một vấn đề lịch sử với nhiều tình tiết. Nhưng trong phạm vi bài này chỉ xin đề cập tới những vấn đề liên quan đến phương diện tổ chức của ÐCS mà thôị
Hồi còn sống, Lenin không có chức vụ gì khác trong đảng, ngoài chức vụ ủy viên BCT, còn về mặt chính quyền ông là chủ tịch Hội đồng dân ủy. Nhưng ông là cha đẻ của ÐCS bolshevik, nên về mặt tinh thần ông có vị trí cao nhất trong đảng và ông cứ mặc nhiên sử dụng cái vị thế đó. Lãnh tụ đứng thứ hai sau Lenin hồi đó là Trotsky. Kamenev và Zinoviev cũng là những lãnh tụ được Lenin đánh giá cao, Kamenev là ủy viên BCT, phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng dân ủy, Zinoviev là ủy viên BCT, chủ tịch Ban chấp hành (BCH) QTCS. Còn Stalin, vào cuối đời Lenin, đã được bầu làm tổng bí thư TƯ đảng vào ngày 3.4.1922. 
Nhưng hồi đó chức vụ tổng bí thư chỉ có chức năng tổng hợp các vấn đề để đưa ra BCT giải quyết và điều khiển bộ máy hành chính, văn phòng của TƯ. Lenin cần một người tổ chức công việc của bộ máy TƯ đảng. Vì quan niệm chức năng của tổng bí thư như thế, nên chính Kamenev và Zinoviev đã nhường cho Stalin chức vụ đó. Nhưng khi Stalin đã là tổng bí thư trung ương đảng rồi thì ít lâu sau, Lenin lại thấy rất lo ngại, ông muốn đại hội 13 đưa Stalin ra khỏi chức vụ tổng bí thư, thay bằng một người khác. Dù đang bị ốm nặng, hồi tháng 12.1922, đã Lenin đọc cho thư ký viết một bức thư gửi đại hội đảng và yêu cầu chỉ được bóc ra sau khi ông chết, vì thế sau này người ta gọi nó là "di chúc chính trị của Lenin". 
Trong thư có đoạn viết: "Stalin là người thô lỗ quá đáng, và nhược điểm này - hoàn toàn có thể chịu đựng được giữa chúng ta với nhau và trong quan hệ giữa những người cộng sản - nhưng không thể chấp nhận được trong cương vị tổng bí thư đảng. Vì thế, tôi đề nghị các đồng chí hãy suy nghĩ để chuyển Stalin ra khỏi trọng trách ấy. Hãy cử vào vị trí của Stalin một đồng chí khác, có tính nết tốt hơn Stalin: kiên nhẫn hơn, trung thựïc hơn, lịch sự hơn và chu đáo hơn đối với các đồng chí, tính khí ít thất thường hơn, v.v..." (xem: Lenin V.I. "Toàn tập", t. 45, tiếng Nga, tr. 346).


Khi Lenin qua đời, chức vụ tổng bí thư đã ở trong tay Stalin, nên việc đầu tiên ông ta phải làm là làm sao giành được vị thế "chính thống" để được "nối ngôi". Muốn thế phải gạt cho được nhân vật thứ hai sau Lenin ra khỏi việc tổ chức và tiến hành tang lễ của Lenin. May cho Stalin là khi Lenin chết, Trotsky đang còn bận công tác ở miền Nam nước Nga. Stalin ra lệnh điện cho Trotsky báo sai ngày cử hành tang lễ cốt để Trotsky về Moskva sau khi tang lễ đã xong. Stalin quyết định làm những nghi lễ vô cùng trọng thể và ông giành được việc đọc diễn văn trong tang lễ để xác nhận trước toàn đảng, toàn dân sự thừa kế chính thức ngôi vị của Lenin. 
Trong việc kế vị này, Stalin tỏ rõ là người hiểu biết trình độ văn hóa thấp kém và tâm lý sùng bái lãnh tụ của đảng viên và dân chúng Nga. Trong bài diễn văn trước thi hài Lenin, Stalin lặp đi lặp lại đếùn bảy lời thề theo một lối rất "tôn giáo" gây xúc động cho nhiều người (chắc nhiều người còn nhớ, năm 1969, Lê Duẩn cũng bắt chước Stalin đọc năm lời thề với văn phong y hệt như vậy trước quan tài Hồ Chí Minh), nên trước mắt dân chúng và toàn đảng, ai cũng mặc nhiên thấy ngay chính Stalin là người có tư cách "chính thống" duy nhất để nhận lãnh "quyền trượng" và "ngai vàng" trên đất nước Nga. Ðến khi Trotsky trở lại Moskva thì mọi việc đều đã an bài đâu vào đấy rồi: Stalin đã thâu tóm toàn bộ quyền lực trong tay mình.
Cố nhiên, Stalin còn phải đối phó với bức thư của Lenin gửi đại hội 13 của đảng. Trước đây, Lenin đã phòng trước sự theo dõi của Stalin, nhưng ông không ngờ là người nữ thư ký L.Fiotieva của ông lại là tay chân của Stalin. Lenin đã dặn dò bà ấy và Krupskaya phải tuyệt đối giữ bí mật bức thư, chỉ bóc nó và đưa ra khi đại hội đảng khai ma.c. Nhưng Fiotieva đã kịp báo ngay cho Stalin về nội dung bức thư. Thế là với sự "lèo lái" khéo léo của Stalin, hội nghị TƯ đảng dưới sự chủ tọa của ông, họp ngày 22.5.1924 đã quyết định không đưa "thư gửi đại hội" ra thảo luận ở đại hội 13 nữa. Trước đó, Stalin còn "đóng kịch" vờ vĩnh xin từ chức tổng bí thư đề mọi người nài kéo ông ta ở lạị



Khi đã nắm toàn bộ quyền lực rồi, Stalin tìm mọi cách làm cho dư luận trong và ngoài đảng đều coi ông là người bạn chiến đấu gần gũi nhất của Lenin từ những năm đầu tiên xây dựng đảng và là người duy nhất hợp pháp để kế tục sự nghiệp của Lenin, đồng thời tìm mọi cách thanh trừng các địch thủ của ông, thậm chí tiêu diệt họ cả về thể xác và đưa tay chân của mình vào cơ quan lãnh đạo tối cao của đảng.


b. Biến ÐCS thành công cụ hoàn toàn ngoan ngoãn trong tay Stalin


Có một số người cộng sản nghĩ rằng giá như sau khi Lenin qua đời, quyền bính lọt vào tay người khác thì chế độ xô-viết đã không phải là chế độ chuyên chế cực quyền đảng trị khủng khiếp như vừa qua, và lịch sử nước Nga đã không ghi tên kẻ độc tài đẵm máu StalinĐzhugashvili. Không phải thế! Với một ÐCS dựa trên một ý thức hệ như thế, tổ chức theo những nguyên tắc như thế, với mục tiêu và phương pháp hành động như thế thì không thể nào không đẻ ra chế độ độc tài toàn trị, không thể nào không đẻ ra những tên độc tài đẵm máu. Nếu không có một StalinĐzhugashvili thì sẽ có một "stalin" khác, có thể không khát máu bằng StalinĐzhugashvili, nhưng vẫn là một kẻ độc tài chính cống. Vả lại, cũng cần nói thẳng rằng chính Lenin cũng là một kẻ độc tài độc ác đầu tiên đã đặt nền móng cho chế độ cực quyền toàn trị cộng sản để Stalin thừa kế.
Sau khi chính thức kế thừa ngôi vị của Lenin, việc đầu tiên Stalin làm là nắm chắc ngay bộ máy đảng và bộ máy công an mật vụ (hồi đó vẫn gọi là Vecheka, về sau mới đổi tên nhiều lần). Rồi Stalin dựa vào bộ máy công an mật vụ đó để vu khống, bao vây, đàn áp, triệt hạ dần các cán bộ cốt cán của ÐCS dưới thời Lenin, đồng thời là những địch thủ của ông trong đảng. 
Stalin dùng chiến thuật liên kết với một số người để cô lập và đánh đổ từng đối tượng, rồi đưa tay chân mình vào thay thế chỗ trống, sau đó quay lại hạ uy thế những người vừa mới liên kết, rồi đánh đổ họ, cứ như thế đến khi bộ máy đảng-nhà nước thật sự trở thành "công cụ" riêng của ông. Ðối với các địch thủ, Stalin không chỉ đánh đổ họ về mặt chính trị, mà thường tìm cách tiêu diệt cả về thể xác để trừ hậu ho.a. Trong thời kỳ đầu, TƯ đảng, cũng như đại hội đảng họp tương đối đều đặn vì Stalin cần dựa vào danh nghĩa đảng, dùng sức mạnh toàn đảng để triệt hạ địch thủ của mình.


Hỏa lực đại pháo trước tiên tập trung vào nhân vật đứng thứ hai sau Lenin, tức là Trotsky, "đại công thần" đã từng gánh vác những việc nặng nề nhất để dựng lên chế độ xô-viết.Trotsky từng làm bộ trưởng ngoại giao, bộ trưởng quốc phòng và hải quân, chủ tịch Hội đồng quân sự cách mạng, người thành lập Hồng quân. Mấy kỳ đại hội liền kể từ đại hội 13 (5.1924), 14 (12.1925), 15 (12.1927) Stalin đều nhằm triệt hạ Trotsky - đến năm 1926 Trotsky đã bị khai trừ khỏi đảng, năm 1928 - bị trục xuất khỏi Liên Xô. Ðể đánh Trotsky, Stalin lúc đầu liên kết với Kamenev và Zinoviev, hai ủy viên BCT. Khi Trotsky đã bị đánh bại về chính trị rồi, thì ngay trong năm 1926, đến lượt Zinoviev, lúc bấy giờ là ủy viên BCT, chủ tịch đầu tiên của BCH QTCS: Zinoviev bị ghép chung vào khối với Trotsky để đánh tại đại hội 15 (1927). 
Triệt hạ xong Zinoviev, Stalin lại quay ra đánh Kamenev. Ðến năm 1926, ba ủy viên BCT dưới thời Lenin, là Trotsky, Kamenev và Zinoviev, đã vĩnh viễn rời khỏi võ đài chính trị. Cũng năm đó Dzherzhinsky qua đời. Còn lạïi Bukharin, người được Lenin gọi là "con cưng của đảng". Khi vị thế của Stalin vững vàng rồi thì đến lượt Bukharin, ủy viên BCT, chủ tịch BCH QTCS (thay thế Zinoviev từ năm 1926) bị đánh.
 Về sau cả ba "đại công thần" nữa là Kamenev, Zinoviev và Bukharin đều bị hành quyết trong cuộc đại khủng bố, còn Trotsky thì Stalin phái tay sai ám sát tại Mexico hồi năm 1940. Stalin đưa vây cánh của mình hết lớp này đến lớp khác vào các cơ quan lãnh đạo của bộ máy đảng-nhà nước. Cứ thế, những cán bộ bolsheviks của đảng Lenin, những "đại công thần" đã dựng lên bộ máy đảng-nhà nước và chế độ cực quyền xô-viết chưa hoàn toàn chịu khuất phục hoặc không chiếm được lòng tin của vị chúa tể mới, thì cứ lần lượt hết lớp này đến lớp khác đều bị triệt hạ. Cố nhiên, có phản ứng chống la.i. 
Nhưng vì nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng-nhà nước loại trừ mọi tính chất dân chủ, nên bất cứ sự phản ứng nào của những người trung thực cũng đều bị vu khống, bị quy kết vào những tội danh "chết người" và bị đàn áp khủng bố vô cùng ác liê.t. Bộ máy công an mật vụ được "bật đèn xanh" để vu khống, tra tấn, đánh lừa, dựng lên những hồ sơ giả mạo, rồi bày ra những vụ án khủng khiếp trong "cuộc đại khủng bố" hồi những năm 1937-1938 và hành quyết nhiều ủy viên BCT, nhiều cán bộ đảng viên là "đại công thần" của chế độ xô-viết.

Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế . (5)
( Nguyễn Minh Cần )

Cần nói thêm về sự kiện này, vì nó là nguyên cớ cho trận đại khủng bố nói trên. Tại đại hội 17 của đảng (tháng 1-2.1934), một số cán bộ kỳ cựu của đảng Lenin đã cố làm một hành động, mà nhiều nhà sử học coi như là trận đánh quyết định chống Stalin và phe cánh: một nhóm đại biểu trong đại hội, do B.Sheboldaev và I.Vareikis thay mặt, đã đề nghị S.Kirov ra ứng cử vào chức vụ bí thư TƯ đảng, họ đề nghị bỏ chức vụ tổng bí thư và chuyển Stalin vào chức vụ chủ tịch Hội đồng dân ủy. Theo lời của A.Mikoyan kể lại tại đại hội 20 (1956), Kirov đã thẳng thắn báo trước chuyện đó cho Stalin, mặc dù vậy Stalin càng thêm nghi ngờ Kirov. 
Tại đại hội 17, Stalin và phe cánh đã dùng OGPU (tên của cơ quan công an mật vụ thời đó - NMC) để theo dõi đại hội đảng. Ðến khi bầu các cơ quan lãnh đạo thì Stalin là người bị phiếu chống nhiều nhất. Cũng theo lời Mikoyan, khi kiểm phiếu thấy thế, chủ tịch ban kiểm phiếu là Zatonsky lo lắng, đến báo cáo ngay với Kaganovich, ủy viên BCT là tay chân của Stalin. Kaganovich cương quyết ra lệnh chỉ được ghi ba phiếu chống Stalin mà thôi. 
Theo lời của Mikoyan và Shatunovskaya, một phần số phiếu đã bị Kaganovich lấy mất, không còn trong hồ sơ đại hội nữa. Sau đại hội 20, ủy ban điều tra của BCT báo cáo là trong hồ sơ đại hội thiếu mất 166 phiếu, như vậy chứng tỏ là có kẻ muốn phi tang việc gian lận phiếu bầu. Một số đại biểu hồi đó còn sống sót khai rằng đại hội đã dành sự tín nhiệm cao nhất cho Kirov. Rõ ràng đây là sự gian lận trắng trợn nhất trong lịch sử các ÐCS, chứng tỏ tên độc tài đã coi ý chí của đại hội - cơ quan cao nhất của đảng - chẳng ra cái gì cả!
Một vấn đề cấp bách đặt ra cho kẻ độc tài - muốn nắm giữ quyền lực thì phải trừ ngay kẻ cạnh tranh. Ngày 1.12.1934, Kirov bị ám sát ở Leningrad. Kẻ sát nhân trực tiếp bắn vào Kirov là Leonid Nikolaev bị bắt và xử tử. Vợ, anh em, bạn bè của y cũng bị giết sa.ch. Kẻ thủ mưu vụ này thì... không ai biết được! Vụ này mãi mãi vẫn còn là một "mảng tối" của lịch sử. Tuy nhiên, điều rõ ràng là Stalin đã lợi dụng ngay vụ ám sát này để dựng lên một loạt "vụ án" chính trị, đem xử công khai hàng loạt ủy viên BCT, ủy viên TƯ và cán bộ cao cấp dưới thời Lenin, dựa trên những hồ sơ và bằng chứng giả ma.o.
  Stalin cho phép tra tấn để lấy khẩu cung, lập hồ sơ, rồi tự mình phê duyệt án tử hình đối với các ủy viên BCT, như Zinoviev, Kamenev, Radek, Piatakov, Bukharin, Rykov, Tomsky (ông này đã tự tử trước), v.v..., hai chủ tịch và nhiều ủy viên BCH QTCS, nhiều "đại công thần" của chế độ xô-viết, nhiều tướng lĩnh (ba nguyên soái là Toukhachevsky, Blucher, Egorov, nhiều đại tướng, như Alknis, Bielov, Kachirin, Kork, Ouborevitch, Eideman, Feldman, Primakov, Putna, v.v... nhiều đô đốc hải quân, như Orlov, Viktorov, Sivkov, v.v...) và nhiều cán bộ cấp cao khác của đảng-nhà nước và quân đô.i. Họ đều bị ghép tội "phản cách mạng", thậm chí "gián điệp", "tay sai của nước ngoài". 
Hàng triệu cán bộ, đảng viên, những nhà trí thức, nhân sĩ, nhiều sĩ quan cao cấp, các quân nhân, những người bình thường đã bị bắt bớ, bắn giết hoặc bị quẳng vào các trại tập trung giăng khắp Liên bang xô-viết, gọi là GULAG. Ðấy, Stalin đã trả thù việc đại hội 17 định phế truất ông ta như vậy đó.

Trong bản báo cáo bí mật tại đại hội 20, Khrutshev đã cho biết: "Cuộc điều tra cho thấy: 98 người trong số 139 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết do đại hội 17 bầu ra, tức là 70%, đã bị bắt và bị xử bắn (phần lớn vào những năm 1937-38)"... và: "Không những các ủy viên TƯ, mà đa số đại biểu dự đại hội 17 của đảng cũng chịu chung số phâ.n. 
Trong số 1961 đại biểu chính thức và dự bị thì 1108 người bị bắt và ghép tội phản cách mạng, tức là hơn một nửa số đại biểu đại hội (tính chính xác là 56,5% - NMC). Sự kiện này tự nó vạch rõ tính chất kỳ quái và ngược đời của những lời buộc tội "phản cách mạng" gán cho đa số đại biểu đại hội". Khrutshev đã cho biết là 80% đại biểu đại hội 17 đã vào đảng trong thời kỳ bí mật, trước tháng 10 năm 1917, đã tham gia nội chiến, nghĩa là trước năm 1921, còn về nguồn gốc xã hội thì 60% là công nhân, lao đô.ng. Trên thực tế, Stalin đã tiêu diệt ÐCS của Lenin và dựng lên ÐCS của mình.

Sau cuộc "đại khủng bố" 1937-1938, ÐCS đã hoàn toàn trở thành một công cụ ngoan ngoãn trong tay của Stalin. Từ đó, chúng ta càng thấy rõ thái độ trịch thượng, coi thường của kẻ độc tài đối với ÐCS. Nếu trước đây, Stalin thấy cần thiết họp đại hội, họp TƯ đảng hay BCT tương đối đều kỳ chẳng qua chỉ để dựa thế vào cái "cơ chế dân chủ trong nội bộ đảng" nhằm đè bẹp và tiêu diệt những địch thủ của mình, còn bây giờ cái gọi là "sinh hoạt dân chủ" của ÐCS không còn cần thiết cho ông ta nữa: ông đã là chủ của ÐCS rồi. Ðây là một ví dụ rất dễ thấy.
 Khoảng cách giữa đại hội 14 và 15 là 2 năm (1925-1927), giữa đại hội 15 và 16 là 3 năm (1927-!930), giữa đại hội 16 và 17 là 4 năm (1930-1934), giữa đại hội 17 và 18 là 5 năm (1934-1939), giữa đại hội 18 và 19, đại hội cuối đời của Stalin, là 13 năm (1939-1952). Và hội nghị TƯ đảng thì rất ít họp, đặc biệt từ hội nghị TƯ tháng 2.1947 bàn về nông nghiệp mãi đến 5 năm sau, tháng 8.1952 mới có hội nghị TƯ tiếp theo để bàn về đại hội 19 của đảng (xem: D.Volkogonnov. "Stalin", t.2, tr. 614). Còn BCT thì hầu như không khi nào họp đủ thành phần. 
Những quyết nghị của BCT được thực hiện chủ yếu bằng cách lấy chữ ký các ủy viên dưới văn bản dự thảo do Stalin sai người chuẩn bị sẵn. "Dân chủ" kiểu này thì ai mà dám không "tán thành" ý kiến của "lãnh tụ"!

Ðấy, ÐCS theo quan niệm của Marx cuối cùng đã biến hóa (metamorphose) thành "công cụ", "kẻ đầu sai" trong tay tên độc tài thực tế đã ngồi chồm hổm trên đầu ÐCS. Còn chế độ cộng sản mà Marx và Engels mô tả và Lenin khẳng định là "một triệu lần dân chủ hơn các chế độ dân chủ tư sản" thì hóa ra là một chế độ độc tài chuyên chế nhất trong lịch sử mang nặng tàn dư phong kiến, chế độ nông nô, thậm chí chế độ chiếm hữu nô lệ! 
Người viết không nói ngoa tí nào. Xin các bạn cứ nghĩ xem, việc ướp xác lãnh tụ để tôn thờ, có phải là thứ văn hóa pharaon thời cổ đại không? Việc bắt hàng 5 triệu người, có năm lên đến 7 triệu (ở đây, người viết dẫn số liệu "thận trọng nhất" của các sử gia Nga, còn các nhà nghiên cứu nước ngoài thì cho số liệu cao hơn, thấp nhất là 8 triệu, cao nhất là 15 triệu, còn theo báo cáo của chính phủ Anh tại Hội đồng Kinh tế và Xã hội của LHQ ngày 15.8.1950 thì 10 triệu - xem: M.Geller và A.Nekrich. "Lịch sử nước Ngă1917-1995)", t.2, tr.54) nhốt vào các trại tập trung để khai thác triệt để lao động không công của những tù nhân này, có phải là hình thức bóc lột của chế độ chiếm hữu nô lệ không? Việc tổ chức các tòa án chính trị hồi những năm 30, có phải là áp dụng mẫu mực của các tòa án giáo hội (inquisition) thời Trung cổ không? 
Việc Stalin không cho nông dân được có giấy thông hành (tiếng Nga là passport) để buộc chân nông dân, không cho rời khỏi nông thôn có phải là chế độ nông nô không? Cái kiểu tôn ty trật tự trong ÐCS và chế độ xô-viết với những đặc quyền đặc lợi quái gỡ nhất, có phải là tàn dư của văn hóa phong kiến hay không?

Hồi đầu thế kỷ 20, Plekhanov đã từng cảnh báo những người cách mạng Nga rằng trong điều kiện nước Nga còn lạc hậu, nền công nghiệp chưa phát triển cao, giai cấp vô sản công nghiệp chưa trưởng thành mà đòi làm cách mạng vô sản thì nhất định không tránh khỏi đưa đến một chế độ độc tài không hạn chế. Lời cảnh báo linh nghiệm biết bao đã bị Lenin và những người bolsheviks gạt bỏ!

Ðối với QTCS và PTCSQT:

Càng ngày Stalin càng thấy rõ "tiên đoán thiên tài" của Lenin về cách mạng vô sản thế giới sắp bùng nổ là chuyện vớ vẩn, viễn vông. 
Nhưng ông ta cũng còn cần mạng lưới tay sai ở các nước, cho nên vẫn gắng gượng duy trì QTCS trong chừng mực cần thiết cho đường lối chính trị của ông. Vì thế, tiền, vàng, châu báu đổ ra để cấp cho tổ chức này tuy vẫn tiếp tục như trước, nhưng khối lượng ngày càng giảm bớt.
 Hơn nữa, Stalin e ngại tổ chức này có thể là "hang ổ" cho những lực lượng đối lập chống lại ông, vì hai chủ tịch BCH QTCS là Zinoviev (1919-1926) và Bukharin (1926-1929) và nhiều cán bộ QTCS đã bị ông hành quyết, nên ông cũng muốn sớm kết liễu tổ chức này. Không phải Stalin không còn ý định chinh phục thế giới nữa, nhưng ông tính làm việc đó bằng cách khác, thông qua cơ quan công an mật vụ, mạng lưới gián điệp, cùng với sự liên hệ trực tiếp với các nhóm khủng bố, các ÐCS đã hình thành trên các nước và được Liên Xô nuôi dưỡng, đào luyê.n. 
Chính Dimitrov, chủ tịch cuối cùng của BCH QTCS cũng cảm thấy thái độ lạnh nhạt của Stalin đối với tổ chức mà ôngï đang phụ trách, nên cũng "tự nguyện" đề nghị giảm bớt "chức năng" của QTCS đi. Ðến năm 1943, Stalin vin cớ cần làm yên lòng các nước đồng minh để mở rộng mặt trận chống phát xít, đã tự ý tuyên bố giải tán QTCS mà chẳng thấy cần phải tuân theo "nghi thức dân chủ" của một tổ chức quốc tế "độc lập". 
Còn Dimitrov, chủ tịch BCH QTCS, thì được chuyển sang làm trưởng ban đầu tiên của Ban quốc tế của TƯ ÐCSLX (xem: "Sự tan rã. Nó đã chín muồi như thế nào trong "hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới", tác giả V. Medvedev, nguyên ủy viên BCT, bí thư TƯ ÐCSLX thời Gorbachev, M.1994, tr.19). Trong cung cách Stalin giải tán QTCS, ta thấy rõ toàn bộ tính chất bù nhìn, bung xung, đầu sai của tổ chức nàỵ

Ðến năm 1947, Stalin thấy cần có một tổ chức quốc tế để phối hợp lực lượng cộng sản thế giới dưới sự chỉ huy của ÐCSLX, hơn nữa ông ta muốn các ÐCS cầm quyền, nhất là ở Ðông Âu, đều thống nhất (unification) chế độ của mình theo một mẫu mực chung, nên mùa thu năm ấy một tổ chức bao gồm 9 ÐCS Âu châu (Liên Xô, Nam Tư, Bulgaria, Rumanie, Hungaria, Ba Lan, Tiệp Khắc, Pháp và Ý) gọi là "Cục thông tin quốc tế" (Kominform) đã được lập ra. Có thể nói, Kominform có tham vọng trong chừng mực nào đó kế tục sự nghiệp của QTCS (Komintern).

Cái mẫu mực chung mà Stalin muốn phổ biến cho các nước dưới quyền cai trị của các ÐCS cố nhiên là mô hình xô-viết. Nhưng Tito và một số lãnh tụ ÐCS ở Ðông Âu ngay từ đầu đã cảm thấy không thể rập khuôn theo mô hình chế độ xô-viết đươ.c. Gomulka hồi đó đã nói đến "con đường Ba Lan" tiến tới chủ nghĩa xã hội; những người cộng sản Bulgaria cũng nói khéo nước họ là "cộng hòa nhân dân" chứ không phải là "cộng hòa xô-viết"; nhà hoạt động Hungarie Rivai nói: ở Hungarie mà tính chuyện thành lập nông trang tập thể (kolkhoz), tức là "việc làm của bọn khiêu khích và phá hoại"... 
Một điều nên nhắc lại là sau thế chiến thứ hai, uy tín của Tito và ÐCS Nam Tư (tên chính thức là Liên minh những người cộng sản Nam Tư)ø rất lớn, chỉ đứng sau Stalin và ÐCSLX mà thôi. Vì ÐCSNT dưới sự lãnh đạo của Tito đã kiên cường "đơn thương độc mã" chiến đấu chống quân phát xít Ðức-Ý và tự mình giải phóng đất nước. 
Cho nên lúc đầu trong Kominform ảnh hưởng của ÐCSNT khá lớn. Ðiều đó, cố nhiên, không làm Stalin thích thú. Hơn nữa, Stalin muốn ép Nam Tư rập khuôn theo mẫu mực xô-viết của mình và gặp phải sự chống đối của Nam Tư. Ðó là nguồn gốc sâu xa của những xung đột giữa Stalin và Tito, giữa hai ÐCS và hai nước Liên Xô và Nam Tư. Tháng 6.1948, dưới sự đạo diễn của Stalin, Kominform đã họp ở Bucarest gồm đại biểu 8 ÐCS (Nam Tư không đến họp) để buộc tội những người lãnh đạo ÐCSNT là theo "chủ nghĩa dân tộc" và khai trừ ÐCSNT ra khỏi Kominform. 
Về sau Stalin còn mở một chiến dịch lớn bôi nhọ "bè lũ xét lại Nam Tư đứng đầu là Tito", thậm chí vu khống Tito là "gián điệp", "tay sai của đế quốc". Hầu hết các ÐCS trên thế giới đã hùa theo Stalin và Kominform để chống Tito và cô lập Nam Tư. Thế nhưng, Nam Tư vẫn tồn tại, còn Kominform, một tổ chức bị bại liệt bẩm sinh, không có sức sống, nên lần hồi đã lặng lẽ chết không kèn không trống (xem: "Lịch sử Liên Xô" của sử gia người Ý nổi tiếng Giuseppe Boffa, t.2, bản tiếng Nga, tr. 361-363).

Dù QTCS không còn nữa mà Kominform thì èo uột, nhưng Stalin vẫn dựa vào uy lực cá nhân của mình cũng như sức mạnh quân sự của Liên Xô để điều khiển các ÐCS "đàn em" và cố sức mở rộng phạm vi ảnh hưởng của đế quốc cộng sản. "Bàn tay Moskva" đã can thiệp vào việc nội bộ và nhen nhóm các cuộc nội chiến ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, v.v... đã dựng lên cái gọi là "chế độ dân chủ mới" với những chính phủ bù nhìn ở Ðông Âu, Bắc Triều Tiên, đã giúp chủ nghĩa cộng sản bành trướng ở Trung Quốc, Việt Nam, v.v...

Cũng nên nhắc đến mưu đồ của Stalin và Mao Trạch Ðông gây ra chiến tranh Triều Tiên hồi năm 1950 với mưu đồ thôn tính Nam Triều tiên đã gieo rắc biết bao tang tóc, xương máu cho người dân. Ðó là chưa nói đến việc Stalin hồi đầu thập niên 50 đã có một kế hoạch chuẩn bị tấn công "giải phóng" châu Âu mà nhà sử học Tiệp Khắc Karel Kaplan đã phát giác trong sách "Dans les Archives du Comité Central. Trente ans de secret du Bloc soviétique" (tr.165-167). Cuối những năm 40, Stalin nhận định tình hình thế giới và đi đến kết luận: nửa đầu thập niên 50 sẽ là thời điểm thuận lợi nhất để giáng một đòn quyết định vào châu Âu tư bản chủ nghĩa và thiết lập ở đấy chế độ xã hội chủ nghĩa. Ðể thực hiện âm mưu này, cần phải kiềm chế được Hoa Kỳ, và Liên Xô ra sức chạy đua võ trang trong lĩnh vực nguyên tử, đến năm 1949 Liên Xô đã có được bom nguyên tử. 
Theo tài liệu bí mật lưu trữ ở ÐCS Tiệp Khắc mà Kaplan công bố thì hồi tháng 1.1951, Stalin, Molotov đã họp bí mật với lãnh tụ và chỉ huy quân sự cao cấp những nước cùng phe ở Ðông Âu bàn về việc chuẩn bị trong vòng 3-4 năm thực hiện kế hoạch tấn công "giải phóng" châu Âu (xem: M.Geller và A.Nekrich. "Lịch sử nước Nga (1917-1995)", t.2, tr.67, 68). 
Về điều phát giác của Kaplan thì kẻ viết bài này không đủ điều kiện để xác minh, nhưng cũng xin nói rõ là: căn cứ theo tài liệu lịch sử thì đúng là hồi tháng 1.1951, đã một cuộc hội nghị quan trọng có mặt các tổng tham mưu trưởng và bộ trưởng quốc phòng các nước "dân chủ nhân dân" Âu châu mà Stalin đã tự thân tham dự để kiểm điểm tình trạng sẵn sàng chuẩn bị của lực lượng võ trang các nước này, và tại hội nghị đó Stalin đã khẳng định là chỉ có thể có được một thời kỳ "tạm nghỉ" 3-4 năm mà thôi để chuẩn bị cho trận chiến đấu mới, vì ông cho rằng cuộc chiến tranh Triều Tiên mới chỉ là cuộc thử sức đầu tiên của hai địch thủ. 
Trước khi kết thúc hội nghị, người ta đã ký một hiệp định bí mật, theo đó khi xảy ra chiến tranh, các đồng minh của Liên Xô có trách nhiệm phải chuyển giao quân đội của mình dưới quyền chỉ huy trực tiếp của bộ chỉ huy xô-viết.
 Ðồng thời, người ta cũng đã duyệt lại một cách căn bản các kế hoạch kinh tế của các nước "dân chủ nhân dân" nhằm tăng cường phát triển hơn nữa công nghiệp nặng và công nghiệp quân sự (chính việc này đã gây ra sự mất cân đối trầm trọng sau này trong nền kinh tế của các nước này, nhất là đối với nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng). Công việc đang khai triển thì đến tháng 3.1953, Stalin chết, nếu không thì những kế hoạch phiêu lưu của kẻ độc tài sẽ còn gây thêm biết bao núi xương và sông máu nữa cho nhân loại để thực hiện mục tiêu cuối cùng của PTCSQT.

E. "Cống hiến" của Mao Trạch Ðông vào việc xây dựng ÐCS

Sau những trận tranh quyền quyết liệt trong nội bộ ban lãnh đạo, cuối cùng Mao Trạch Ðông đã giành được quyền lực trong ÐCS hồi năm 1935. Việc đầu tiên họ Mao nghĩ đến là làm sao nắm chắc được "công cụ đảng" trong tay mình. Sống trong hoàn cảnh một nước Á châu không có chút truyền thống dân chủ nào mà mang nặng văn hóa phong kiến, Khổng giáo, Mao và phe cánh hiểu được sự cần thiết phải khai thác triệt để đầu óc sùng bái và tuân phục của thần dân đối với "thiên tử", cho nên đã đặc biệt coi trọng việc "tẩy não" và "nhồi sọ" trong đảng, quân đội và trong dân chúng. Ðiều đó họ gọi là "công tác tư tưởng", với mục tiêu làm cho mỗi đảng viên cộng sản, cũng như mỗi thần dân trong chế độ "xã hội chủ nghĩa" mất hết cá tính, mất hết năng lực và thói quen tư duy độc lập, làm cho toàn ÐCS, toàn dân Trung Quốc sùng bái, thần thánh hóa đến độ cuồng tín để biến trên 600 triệu người sẽ trở thành một "công cụ" dễ bảo, một cái "đinh ốc bé tí" trong tay họ Mao và ÐCS. Ðể đạt được cái mục tiêu đó, Mao và phe cánh đưa ra một phương pháp gọi là "chỉnh phong". 
Qua quá trình "chỉnh phong", đảng (và cả công an mật vụ) nắm được "tư tưởng" của đảng viên, đoàn viên, cán bộ, quân nhân... để tiến hành "đấu tranh tư tưởng" và "cải tạo tư tưởng" cho những người bất đồng chính kiến. Thông thường những cuộc chỉnh phong đều kèm theo những cuộc đấu đá, xỉ vả, lăng nhục, đày ải cán bộ, trí thức về nông thôn để "lao động cải tạo" hay thậm chí bắt bớ, tù đày cán bộ, trí thức trong các "trại lao cải", một kiểu GULAG made in China. Chỉnh phong là "cống hiến" độc đáo nhất của họ Mao vào "kho tàng chủ nghĩa Marx-Lenin" mà nhiều ÐCS châu Âu, châu Mỹ không thể nào hiểu nổi và học nổi!
Họ Mao còn có một "sáng kiến" nữa là khi cầnđấu tranh giành và giữ quyền lực, ông ta không ngần ngại huyđộng quần chúng cuồng tín chống lại ÐCS: khi phátđộng làm "đại cách mạng văn hóa" ôngđã cho "hồng vệ binh" "tạo phản" nã súng bắn vàođảng mà ông ta gọi là "bộ tham mưu xét lại, hữu khuynh". Về thực chất cũng như hậu quả, cuộc "đại cách mạng văn hóa" của Mao không khác mấy cuộc "đại khủng bố" 1937-1938 của Stalin.

Wednesday, December 11, 2013

BBC * ĐÀN CA TÀI TỬ

Đờn ca tài tử trở thành di sản nhân loại

Cập nhật: 11:26 GMT - thứ bảy, 7 tháng 12, 2013

'Tứ tuyệt' trong đờn ca tài tử: Đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn bầu
Đờn ca tài tử Nam Bộ của Việt Nam vừa được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) chính thức công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Quyết định trên được đưa ra tại phiên họp ngày 5/12 của Ủy ban Liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 8 của UNESCO diễn ra ở Baku, Azerbaijan, từ ngày 2/12-7/12, Thông tấn xã Việt Nam đưa tin.
Đại diện của UNESCO được các báo Việt Nam dẫn lời sau lễ vinh danh nói tổ chức này "hy vọng Việt Nam sẽ có các biện pháp bảo vệ nhằm hỗ trợ cộng đồng trong việc trao truyền và phương pháp giảng dạy truyền miệng cũng như trong chương trình giáo dục chính thức".
Đờn ca tài tử của Việt Nam là một trong số 14 nét văn hóa từ các nước trên thế giới vừa được UNESCO bổ sung vào danh sách di sản phi vật thể của nhân loại.
Hồ sơ đờn ca tài tử Nam Bộ đã được phía Việt Nam tổng hợp hồi tháng 8 năm 2010 và sau đó trình lên UNESCO vào tháng 5 năm 2011.
Năm ngoái, đờn ca tài tử cũng được Bộ Văn hóa Việt Nam đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia.

Đờn ca tài tử có tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 19

Di sản thứ 8

Xuất nguồn từ miền Nam Việt Nam từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, loại hình nghệ thuật này là di sản phi vật thể thứ 8 của Việt Nam được UNESCO vinh danh.
Những loại nhạc cụ thường sử dụng trong đờn ca tài tử thường bao gồm đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn bầu, hay còn gọi là tử tuyệt.
Bảy di sản khác của Việt Nam cũng đã được công nhận:
  • Nhã nhạc cung đình Huế - 2003
  • Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên - 2005
  • Dân ca quan họ Bắc Giang và Bắc Ninh - 2009
  • Ca trù - 2009
  • Lễ hội Thánh Gióng - 2010
  • Hát xoan - 2011
  • Lễ hội Hùng Vương - 2012
Bên cạnh đó, Việt Nam hiện cũng có bảy di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới:
  • Vịnh Hạ Long- 1994
  • Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng - 2003
  • Quần thể di tích Cố đô Huế - 1993
  • Phố Cổ Hội An - 1999
  • Thánh địa Mỹ Sơn - 1999
  • Khu di tích Hoành thành Thăng Long - 2010
  • Thành nhà Hồ - 2011

Tuesday, December 10, 2013

THE ECONOMIST* TẬP CẬN BÌNH



Tập làm giông
Tháng 12 6, 2013

The Economist
Phan Trinh dịch

Giới thiệu của người dịch

Tập Cận Bình nhanh hơn nhiều, vượt khỏi dự đoán của báo chí thế giới. Vào ngày 15/11/2013, chỉ ba ngày sau khi Hội nghị Trung ương 3 Khóa 18 của Đảng Cộng sản Trung Quốc bế mạc, nghị quyết 22.000 chữ đã được phổ biến, kèm với diễn văn của Tập. Kiến nghị này do một ban gồm 60 chuyên gia soạn thảo và Tập là người cầm đầu.

Một loạt những cải cách, được The Economist gọi là chấn động, đã được nói tới: Kinh tế thị trường là chủ đạo, quyền sở hữu đất đai của nông dân, bãi bỏ trại lạo động cải tạo, nới lỏng chính sách một con,… đặc biệt là cho phép các tổ chức xã hội (phi chính phủ) hoạt động, và dự định cải cách tư pháp cho độc lập với hành pháp.

Trông người lại nghĩ đến ta:
Tập làm giông, Tập không, ta có.
Tập làm gió, Tập có, ta không!
Tập có gì? Chủ động, phát động, vận động, chấn động!
Ta có gì? Thụ động, bị động, phản động, bất động!

Dưới đây bản dịch hai bài về cải cách của Tập, đăng trên The Economist số ra ngày 23/11/2013. Bài thứ nhất có tựa “Let quite a few flowers bloom” (nhiều hoa đua nở), bài thứ hai “The Xi manifesto” (tuyên ngôn Tập Cận Bình). Tựa phía trên là của người dịch.



1.
Nhiều hoa đua nở

Hai đề xuất ẩn trong văn kiện Đảng có thể thay đổi chính quyền Trung Quốc.
Thế là các ông bà nghị đã nghị xong, và mọi sự đã rõ. Sau nhiều tháng đoán già đoán non và sau bản Thông báo cuối hội nghị phổ biến vào tuần trước [ngày 12/11], bản nghị quyết cuối cùng, dài 22.000 chữ của Hội nghị 3 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã được công bố hôm 15/11. Trong lĩnh vực kinh tế, nghị quyết cho thấy Đảng còn muốn cải cách mạnh dạn hơn cả những gì bản Thông báo tóm tắt gợi ra. Lãnh tụ Đảng, ông Tập Cận Bình, muốn đẩy mạnh hơn những cải cách đã phải giậm chân tại chỗ suốt một thập niên qua. Như nguyên văn nghị quyết nói rõ: “Chúng ta hãy để cho lao động, tri thức, công nghệ, quản trị và tư bản phát huy hết tiềm lực của nó, hãy để cho mọi nguồn gốc của thịnh vượng được mặc sức nở rộ và hãy để cho mọi người được hưởng một cách công bằng thành quả của phát triển.” Quả là hay.

Dĩ nhiên, không có gì chắc chắn ông Tập có thể làm được tất cả những gì ông muốn, nhưng đã rõ là ông thắng trận này, tính cho đến nay. Về mặt kinh tế, ông cho thấy mình là hậu duệ của Đặng Tiểu Bình, nhà cải cách lớn của Trung Quốc, và hoàn toàn không phải là một gã Mao-ít hũ nút như một số người lo ngại trước đây. Các thế lực bảo thủ tìm cách bịt miệng những tiếng nói cải cách đã bị khóa họng, ít nhất là cho đến lúc này.

Nhưng, điều thú vị của nghị quyết không chỉ nằm trong những cải cách kinh tế, vốn đã được đoán trước. Chấn động hơn là một số những cải cách trong lĩnh vực xã hội mà nghị quyết công bố, ví như việc nới lỏng chính sách mỗi gia đình chỉ có một con. Những cặp vợ chồng mà vợ hoặc chồng đã là con một sẽ được phép có hai con, và chính sách này sẽ còn được nới lỏng hơn nữa. Một bước tiến khác được ủng hộ mạnh mẽ đó là các trại lao động cải tạo – hiện giam giữ 190.000 người, gồm cả các tù nhân chính trị và nhà hoạt động tôn giáo – sẽ được bãi bỏ.

Nhưng có thể nói, những tiết lộ quan trọng nhất của nghị quyết lại nằm rất sâu và chôn rất kín trong văn kiện, chẳng được mấy ai đưa tin hay giựt tít. Riêng có hai động thái cho thấy Đảng rất nhạy bén với bức xúc của xã hội Trung Quốc hiện nay và với những đòi hỏi được tự do hơn, đồng thời đòi hỏi chế độ phải chịu trách nhiệm, phải được kiểm soát nhiều hơn.

Trong 30 năm qua, Trung Quốc đã chuyển hóa từ một xã hội toàn trị sang một xã hội mà trong đó người dân có thể đi làm ở chỗ mình muốn, kết hôn với người mình chọn, đi lại nơi mình thích (dĩ nhiên vẫn còn những vướng mắc hạn chế quyền đi lại của người từ nông thôn và những vùng có sắc dân thiểu số). Trong 10 năm qua, sự xâm nhập của internet đã đi từ tối thiểu đến gần như cực đại. Những cơ chế an sinh xã hội truyền thống bị phá vỡ mà chưa gì thay thế thỏa đáng. Người dân bình thường bỗng có thêm quyền định đoạt nhờ có tiền, nhờ tham gia công luận thông qua các trang blog cá nhân, và nhờ họ đã hóa vai trở thành người tiêu thụ và người chủ những tài sản mình có.

Xã hội “PHI” chính phủ

Xã hội đã trở nên quá phức tạp, vượt khỏi khả năng kiểm soát của các cơ cấu xã hội truyền thống. Vì vậy, nhà cầm quyền đã quyết định cho phép sự phát triển của điều họ gọi là “các tổ chức xã hội”. Trên thực tế, đây chính là những tổ chức phi chính phủ (NGO). Đảng vốn rất không ưa bất cứ điều gì “phi” chính phủ và từ lâu xem các tổ chức phi chính phủ như những con ngựa thành Troy, nơi ẩn chứa những tư tưởng chính trị phương Tây và sự phá hoại, nhưng nhà cầm quyền ngày càng hiểu rằng các tổ chức xã hội kia có thể giúp giải quyết một số những vấn nạn – như chăm lo cho người bệnh, người cao tuổi, người nghèo. Sự phát triển của xã hội dân sự không chỉ quan trọng vì chức năng thực tế của nó, mà còn vì đó là cầu nối đến tương lai, gắn kết những cải cách kinh tế hôm nay với bất cứ những cải cách chính trị tương lai nào có thể có.

Cũng quan trọng không kém là vấn đề cải cách tư pháp. Các ông thẩm phán tham nhũng trắng trợn tại Trung Quốc bị dân chúng rất oán ghét. Nghị quyết của Đảng nhắc tới ý tưởng “hệ thống quyền hành tư pháp được tách rời một cách phù hợp với khu vực hành pháp”, nghĩa là bộ máy tư pháp ở địa phương sẽ không do chính quyền địa phương trả tiền hay kiểm soát nữa. Mặc dù một số nhà quan sát không tin điều này sẽ xảy ra, nhưng nếu nó xảy ra thật thì rất có thể đó sẽ là khởi đầu của một hệ thống kiểm soát và đối trọng tạo cân bằng làm cho quan chức nhà nước phải chịu trách nhiệm nhiều hơn.

Nội chuyện hai động thái này được nhắc tới trong văn kiện đại hội mà thôi đã là rất khích lệ rồi; nhưng ngược lại, việc chúng được chôn kín đến gần như không thể nhận ra trước con mắt người trần không chuyên cũng cho thấy Đảng đang đi hai hàng và vừa đi vừa run trên con đường tiến đến tự do hóa. Nhưng Đảng phải dấn tới thôi. Kế hoạch cải cách kinh tế của Đảng sẽ mang lại không chỉ thịnh vượng, mà sẽ tạo thêm những áp lực buộc thay đổi chính trị nhiều hơn. Nếu Đảng không đáp ứng, ắt sẽ có bùng nổ. Nếu ông Tập lâm vào cảnh chùn chân run gối, ông nên nhớ lại lời khuyên hào sảng này trong văn kiện đại hội: “Dám gặm cả xương cứng, dám lội nước chảy xiết, dám bẻ gẫy gông cùm ý thức hệ với quyết tâm kiên định.”

2.

Tuyên Ngôn Tập Cận Bình
Chủ tịch Trung Quốc tiết lộ những kế hoạch cải cách chấn động nhất trong hai thập niên qua, vừa táo bạo bất thường, vừa thận trọng như thường.


 
Kể từ thời Mao Trạch Đông lên nắm quyền năm 1949, chưa có lãnh tụ Trung Quốc nào lại nhanh nhẩu công bố kế hoạch chi tiết cho hàng loạt những cải cách như thế. Ngay cả Đặng Tiểu Bình, sau khi nắm quyền năm 1978, cũng chậm rãi trong việc công bố kế hoạch của mình. Chủ tịch nước Tập Cận Bình, trong văn kiện dài 22.000 từ được phổ biến vào ngày 15/11 vừa qua, đã cam kết thực thi những cải cách triệt để. Cải cách bao gồm từ việc nới lỏng chính sách một con, bãi bỏ các trại lao động cải tạo, đến việc bãi bỏ kiểm soát lãi suất. Nhưng cũng phải nói rằng chưa từng có lãnh tụ nào gặp nhiều thử thách như ông.

Mặc dù đã vượt qua Nhật Bản vào năm 2010 để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc vẫn chưa thấu hiểu được nhu cầu nắm bắt thông tin của thế giới bên ngoài với các chính sách của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc loan báo đã thông qua Nghị quyết vào ngày 12/11 sau cuộc mật nghị với trên 370 thành viên Ủy ban Trung ương Đảng. Nhưng họ đã muốn, như thường lệ, giấu kín nội dung Nghị quyết trong một tuần để triển khai trước cho nội bộ đảng viên. Nhưng cuối cùng thì họ đã nhượng bộ, chỉ sau ba ngày; có lẽ vì bị áp lực do sự đồn đoán (trên cả báo chí nhà nước Trung Quốc) rằng Hội nghị đã không xứng tầm là một cột mốc lớn cho công cuộc cải cách. Đảng cũng làm một việc bất thường khác là phổ biến một diễn văn của ông Tập Cận Bình, trong đó ông cho biết ông đã đích thân chỉ đạo nhóm soạn Nghị quyết gồm 60 thành viên. Báo đài nhà nước nói ông là lãnh tụ Đảng đầu tiên kể từ năm 2000 giữ vai trò này. Rõ ràng, trên thực tế, báo đài nhà nước ám chỉ rằng Nghị quyết kia chính là tuyên ngôn của ông Tập Cận Bình.

So với văn phong nhợt nhạt phát ngán thường thấy trong các văn kiện Đảng, Nghị quyết này phải nói là chấn động. Nghị quyết để một đoạn dài nói thêm về điểm đầu tiên trong Thông báo rút gọn đưa ra vào ngày 12/11 rằng các lực lượng thị trường sẽ giữ vai trò “chủ đạo” trong việc định đoạt mô hình kinh tế (đây là một bứt phá về khái niệm mà trước đây cứ bị Đảng tránh né, mặc dù đã áp dụng chủ nghĩa tư bản từ lâu). Nghị quyết kêu gọi “tăng tốc” các bước thúc đẩy để thị trường có thể quyết định lãi suất. Có thể để tạo tiền đề cho việc này, 
Nghị quyết cũng nói một hệ thống bảo hiểm sẽ được thực hiện để bảo vệ người gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng: quan chức nhà nước lo ngại rằng các ngân hàng nhỏ sẽ gặp khó khăn nếu lãi suất tiền tiết kiệm được thả nổi. Việc kiểm soát lãi vay cũng đã được bãi bỏ vào tháng 7 vừa qua. Có dự báo rằng hệ thống bảo hiểm này sẽ hình thành trong những tháng sắp tới. Nghị quyết cũng kêu gọi Trung Quốc tạo điều kiện để biến đồng Nhân dân tệ trở thành chuyển đổi được, đây là một điểm hóc búa, được hứa hẹn nhưng không được thực hiện trong suốt hai thập niên qua.


Nghị quyết cũng lặp lại cam kết của Đảng là sẽ để cho thị trường quyết định giá cả các tài nguyên then chốt như nước, dầu hỏa, khí đốt, điện và giao thông vận tải. Nhưng lần này, Nghị quyết dùng từ ngữ mạnh miệng hơn. Nghị quyết viết “Thị trường phải được quyền quyết định giá cả của bất cứ thứ gì mà thị trường có thể định đoạt được, và chính quyền không được can thiệp không chính đáng.” Trong diễn văn của mình, ông Tập định nghĩa vai trò của chính quyền bằng ngôn ngữ nghe rất quen thuộc với lập trường trung lập ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Ông nói đến những điều như: duy trì ổn định kinh tế, cung cấp dịch vụ công ích, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quy trình hoạt động của thị trường và chỉ can thiệp khi thị trường thất bại.

Tuy nhiên, ngôn ngữ đậm tính thị trường của Ủy ban Trung ương lại chệch choạc khi bàn đến vấn đề gây tranh cãi sôi nổi nhất, đó là vai trò của các doanh nghiệp nhà nước. Tuy vậy, phe cải cách – vốn lo ngại bởi sự khẳng định quen thuộc trong Thông báo cuối hội nghị rằng các doanh nghiệp nhà nước sẽ là “thành phần chính” của nền kinh tế – cũng được Nghị quyết cho một số hy vọng. Nghị quyết cho biết đến năm 2020, các doanh nghiệp nhà nước sẽ phải giao cho chính quyền 30% lợi nhuận của họ bằng hình thức cổ phần (tăng lên từ 15% hay ít hơn hiện nay). 
Như nhiều nhà cải cách đã đòi hỏi từ lâu, một số tài sản của họ sẽ được giao lại cho quỹ an sinh xã hội của chính quyền trung ương. Và khu vực kinh tế tư nhân sẽ được cho nhiều cơ hội hơn để đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước và kinh doanh trong các lĩnh vực hiện do doanh nghiệp nhà nước thao túng, kể cả ngân hàng. Tuy nhiên, nghị quyết không đòi hỏi các doanh nghiệp nhà nước phải rút khỏi những lĩnh vực không then chốt như khách sạn và bất động sản. Nghị quyết cũng lặp lại từ ngữ của bản Thông báo tóm lược khi kêu gọi đẩy mạnh khả năng “kiểm soát và ảnh hưởng” của các doanh nghiệp nhà nước.


Cải cách nông thôn

Ở một lĩnh vực cải cách quan trọng khác – quyền sở hữu đất đai nông nghiệp và nhà ở nông thôn – Nghị quyết cho thấy những dấu hiệu rõ ràng hơn. Cuối thập niên 1990, thị trường bất động sản bắt đầu xuất hiện ở các đô thị Trung Quốc, nhưng không diễn ra ở nông thôn, nơi quyền sở hữu đất đai được quy định rất mơ hồ. Năm năm trước, Đảng yêu cầu thị trường bất động sản ở đô thị và nông thôn phải hòa chung thành một, nhưng chưa có tiến bộ đáng kể. Hiến pháp vẫn khẳng định đất đai nông nghiệp là “sở hữu toàn dân”, một khái niệm lưu cữu từ thời Mao, và luật pháp vẫn cấm việc bán đất đai cho người ngoài nông thôn và cấm cầm cố bất động sản nông thôn. Tuy nhiên, Nghị quyết với kế hoạch mới nói rằng nông dân cần được cho phép cầm cố nhà cửa. Một vài địa phương đã cho thử nghiệm việc này. Dù Nghị quyết tiếp tục kêu gọi thận trọng, nhưng những thử nghiệm theo hướng này sẽ còn lan rộng nhanh chóng (và luật lệ có lẽ cũng sẽ thay đổi) khi giờ đây Đảng đã bật đèn xanh.


Báo đài nhà nước đã ca tụng những bước vừa kể bằng ngôn ngữ dạt dào cảm xúc, cứ như là Trung Quốc vừa nhận được một phần mềm nâng cấp, kế hoạch cải cách đã được đặt tên là “cải cách phiên bản 2.0”. Một số bài báo gọi đó là những “cột mốc lịch sử” trên lộ trình đạt đến “giấc mơ Trung Hoa”, cụm từ được ông Tập dùng và trở thành phổ biến trên khắp các biển quảng cáo ngoài trời trong cả nước. Trong diễn văn của mình, ông Tập báo trước là hành trình sẽ không dễ dàng gì. Nhưng ông cũng trích lời Đặng Tiểu Bình nói năm 1992 rằng nếu không có cải cách sâu rộng thì đất nước sẽ đi vào “ngõ cụt”. Rõ ràng, ông Tập muốn so sánh mình với ông Đặng, và có vẻ ông đã thu tóm được quyền lực để tạo cho mình một thế lực tương tự như ông Đặng.


Giống như Đặng Tiểu Bình, và thực ra cũng giống như tất cả các lãnh tụ Trung Quốc kể từ thời Mao, ông Tập có vẻ vẫn kiên định duy trì quyền lực độc tôn của Đảng. Như dự đoán, kế hoạch của ông nói rất ít về cải cách chính trị. Nghị quyết nói về cải cách tư pháp nhưng không cho biết chi tiết, mà cũng nhắc đến nhu cầu cho phép nhiều không gian hơn cho các “tổ chức xã hội” – tên Đảng gọi các tổ chức phi chính phủ – trong khi vẫn kêu gọi tăng cường sự “quản lý” của chính quyền với những tổ chức này.


Nghị quyết cũng cho thấy một số nhượng bộ trong hai lĩnh vực về nhân quyền. Một là lời cam kết sẽ xóa bỏ các trại “lao động cải tạo” mà Liên Hiệp Quốc ước tính, vào năm 2009, có tới 190.000 người bị giam giữ không qua xét xử với các thời hạn lên đến bốn năm. Các trại cải tạo này thường được dùng để cách ly các nhà bất đồng chính trị và tôn giáo. Ngay báo đài nhà nước cũng từng đăng tải các lời kêu gọi xóa bỏ các trại này và một số quan chức trong nhiều tháng qua cũng từng cho thấy tín hiệu là sự thay đổi sẽ xảy ra. Tuy nhiên, Nghị quyết lại không nhắc đến việc cấm các hình thức giam giữ không viện dẫn pháp luật khác, vốn xảy ra thường xuyên.


Một thay đổi đáng kể khác là quyết định nới lỏng chính sách một con, cho phép các cặp vợ chồng được có hai con nếu vợ hoặc chồng là con một. Trong những năm qua, các cặp vợ chồng đều là con một đã được phép có hai con. Các gia đình nông thôn cũng thường có hai con nếu con đầu lòng là con gái. Tuy vậy, chính sách mới này có lẽ sẽ không mang lại một sự bùng nổ dân số. Nhiều cặp vợ chồng thị dân nói họ vẫn thích có một con hơn, vì chi phí nhà cửa, y tế và học hành ngày càng đắt đỏ. Nghị quyết cũng không đưa ra lời hứa chấm dứt việc chính quyền kiểm soát việc sinh đẻ, hoặc giảm bớt tiền phạt, đôi khi cao đến cắt cổ, đối với những ai vi phạm luật kế hoạch hóa gia đình.


Ông Tập Cận Bình sẽ phải đối đầu với những chống đối lớn. Nghị quyết kêu gọi thay đổi nhanh chóng chính sách hộ khẩu, vốn không cho nông dân lên thành phố sinh sống được hưởng các khoản an sinh xã hội ở đô thị, và nhiều trường hợp không được quyền mua xe hơi hay mua nhà. Chính quyền địa phương cũng sẽ chống đối khoản này, trừ khi họ nhận được nhiều hỗ trợ tài chính để chi cho trường học, bệnh viện cà các dịch vụ khác. Thị dân trung lưu cũng ngại ngùng không muốn chia sẻ tài nguyên cho giáo dục và chăm sóc y tế cho những người nhập cư. Các doanh nghiệp nhà nước, những công chức bướng bỉnh và những nhà kẻ giáo điều trong hàng ngũ Đảng cũng sẽ chống lại những cải cách thị trường có khả năng đe dọa quyền lợi của họ. Ông Chương Lập Phàm (Zhang Lifan) một nhà phân tích ở Bắc Kinh nói rằng những cải cách của ông Tập có thể dễ thành công hơn nếu đưa ra mười năm trước đây, trước khi những quyền lợi riêng tư được đổ bê tông và cố thủ.


Tuy vậy, quyền lực của ông Tập vẫn có thể giúp ông thực thi được các dự định của mình. Ông đã cho thấy ông đang xác lập quyền kiểm soát trực tiếp hệ thống an ninh trong nước, bằng cách lập ra một “ủy hội an ninh quốc gia” (người tiền nhiệm, ông Hồ Cẩm Đào lại nhường vai trò này cho đồng nghiệp). Ông Tập cũng cho hình thành một “nhóm lãnh đạo nhỏ” để lèo lái công cuộc cải cách, có lẽ cũng sẽ dưới quyền chỉ huy trực tiếp của ông. Nắm chặt hệ thống an ninh sẽ là điều có lợi cho ông: Nghị quyết, trong lời kêu gọi kiểm soát internet, cho thấy giới lãnh đạo lo ngại sâu sắc về những bất ổn xã hội và về quyền lực của hoạt động bất đồng trên mạng. Ông Tập Cận Bình có lẽ phải ghen với ông Đặng Tiểu Bình, vì ông Đặng đã tiến hành cải cách vào một thời đỡ rối ren hơn nhiều.

Bản tiếng Việt © 2013 Phan Trinh

No comments:

Post a Comment