Pages

Friday, October 28, 2016

TRUYỆN BÌNH NGUYÊN LỘC = PHAN VĂN KHẢI =

BÌNH NGUYÊN LỘC * SĂN CỌP ĐỒNG NAI

SĂN CỌP ĐỒNG NAI
Bình-nguyên Lộc
Trung tâm săn cọp ở miền Nam nước Việt là Ban Mê Thuột chớ không phải là ở vùng Đồng Nai. Nhưng người Pháp đã biến trung tâm Ban Mê Thuộc thành một kỹ nghệ lớn, dành thu  hút đô-la Mỹ, người mình không chen vào đó được nên xin không nói đến.
Vả lại cái kỹ nghệ nói trên chỉ có nhà tổ chức Caffort là được hưởng, còn kỹ nghệ ở Đồng Nai thì chính các thợ săn được hưởng nên mang tính cách khác Ban Mê Thuộc và đáng nói đến hơn. Hẳn bạn đọc sẽ hỏi thợ săn mà hưởng cái gì ? Ai thèm ăn thịt cọp ? Người Mỹ, người Anh săn cọp ở Ban Mê Thuột, trước năm 1945, là những tay triệu phú. Họ đến đó để tìm cảm giác mạnh, chỉ có thế thôi. Họ không thèm hưởng gì hết ngoài những cảm giác đứng tim đó. Vả lại, họ cũng chẳng biết cách hưởng thành quả của các cuộc săn bắn. Tuy nhiên tôi cũng sẽ dành cho Ban Mê Thuộc vài trang ở cuối bài.
*
*       *
Dưới thời Pháp thuộc, thợ săn cọp ở vùng đồng Nai có đến 95 phần trăm là người Pháp lai. Pháp thật không săm cọp. Còn lại là người mình và một gia đình Phi luật Tân có Pháp tịch mà gia đình tôi quen biết đã từ lâu đời. Đó là gia đình của ông Ma-rô-cô. Ông này là hậu duệ của một anh lính đỏ đen cùi bắp, người Phi Luật Tân. Thuở Pháp đánh Nam Kỳ, có nhờ sức của một số lính Phi Luật Tân do Tây Ban Nha cho mượn (thuở đó Phi Luật Tân là thuộc địa của Tây Ban Nha).
Chiếm xong miền Nam rồi thì Pháp cho bọn lính đánh thuê này về nước. Nhưng còn một số nhỏ xin ở lại và được Pháp chấp thuận. Họ ở lại, sinh sống bằng ba nghề. Đa số xin làm cảnh sát là lính mã tà, vì trong ngôn ngữ của ba nước Phi Luật Tân, Indonesia, và Malaysia cảnh sát được gọi mà matamata. Danh từ Mã Lai này, nguyên xưa kia có nghĩa là chiến sĩ, đồng với danh từ samourai của Nhật, với danh từ lính tráng của ta, với danh từ tia-hiên của Campuchia, với danh từ bặc-liêu của Phù Nam. Nghề thứ nhì của họ là đánh loại xe du lịch mà Pháp gọi là calèche, do hai ngựa kéo. Đó là xe du lịch sang trọng nhất ở Sài Gòn ngày xưa, thuở chưa có ô-tô. Nghề săn cọp thì có một gia đình độc nhất làm mà thôi, gia đình Ma-rô-cô.
Tại sao Tây lai lại làm nghề đó? Vì săn cọp phải sắm súng trận. Mà súng trận thì người mình không được sắm, trừ vài trường hợp ngoại lệ. Tây lai thuở đó toàn là con vô thừa nhận, chỉ học chương trình tiểu học của Pháp rồi thôi, chẳng xin được chỗ làm nào hết, trừ nghề cảnh sát. Mà nghề cảnh sát đâu có phải là nghề ung dung thong thả. Họ nằm không họ chơi, mỗi tháng hạ được một con cọp là đủ sống cả năm một cách phong lưu.
TÂY LAI KẾT BẠN VÀ VŨ TRANG
Người lai nào cũng khôn vặt cả, không riêng gì là Tây lai. Nhưng Tây lai có vẻ khôn vặt nhất trong trong các thứ người lai. Muốn săn cọp thì phải vào rừng sâu. Muốn vào rừng sâu không thể xuất phát từ Sàigòn mà tới nơi được. Vậy họ phải lập tiền đồn ở các chợ huyện. Phải là ở các chợ, chứ ở làng họ không thành công đâu. Nông dân không thích chơi với Tây lai. Tây lai cũng không thích chơi với nông dân.
Chỉ có bọn con trai ăn không ngồi rồi ở các chợ xa mới là ham bắt quàng làm họ với Tây lai. Họ tới một chợ nào đó, vào hiệu cà-phê cắc-chú từ sáng đến trưa là đã có bạn rồi, nhứt là nếu ở các chợ cũng có phòng cho thuê bi-da hoặc bàn ping-pong thì rất tốt. Ở Sài Gòn họ cũng chỉ ăn no rồi đi thọc bi-da với đánh ping-pong nên họ chơi khá giỏi, vào chợ quê thì họ là nhứt rồi vậy.
Tôi chỉ hạn chế địa bàn quan sát trong tỉnh tôi thôi, là tỉnh Biên Hòa, không nói đến ba tỉnh khác là Tây Ninh, Thủ Dầu Một và Bà Rịa. Vả lại, chỉ ở Biên Hòa mới có nhiều cọp.
Bốn tiền đồn xuất quân trong tỉnh nầy là: tiền đồn lớn nhứt là Tân Uyên, chợ huyện lớn nhứt trong tỉnh Long Thành, là chợ huyện lớn nhì trong tỉnh. Hai tiền đồn khác không phải là chợ huyện mà chỉ là chợ làng giàu, là tiền đồn thứ ba và thứ tư. Đó là chợ Cây Đào và chợ Tân Ba.
Khi một anh Tây lai nào đó đến tiền đồn thì tổ chức ăn uống nhậu nhẹt vài ba ngày cái đã, có khi chính anh ta đài thọ chi phí,  có khi bạn địa phương chung đậu tiền để đài thọ những cuộc vui đó. Nó gần có đủ cả tứ đổ tường. Ăn nhậu đã đời rồi mới tính chuyện ra quân.
Chỉ có một cây súng trận độc nhứt của anh Tây lai thôi. Trai làng mà có súng, loại súng bắn chim, cũng không được phép mang theo vì vô ích, lại có thể gây tai nạn. Anh thợ săn lại được võ trang bằng một món thứ nhì nữa là một cây đèn đặc biệt, vì phải săn ban đêm, và người mình gọi lối săn đó là “săn dọi đèn”.
Cây đèn này khá giống cây đèn xe đạp mà người thợ săn cột vào giữa trán của anh ta, chớ không phải đội trên đầu. Đèn được thắp bằng hơi của đá đèn. Đá đèn này đựng trong một bình nhỏ giống như là bình đựng nước của quân đội Việt Nam Cộng Hòà. Bình chia ra làm hai ngăn, ngăn trên chứa nước, ngăn dưới chứa đá. Nước nhểu từng giọt xuống đá, đá lên hơi, hơi được đưa lên đèn bằng một ống cao su nhỏ. Loại đèn này ánh sáng đi xa thua cả loại đèn pin lớn ba pin, nhưng vẫn vừa đủ để cho họ thấy cọp. Dùng đèn pin bất tiện hơn vì một tay phải cầm đèn, hóa ra thiếu mất một tay để mà bắn.
Đó là chưa kể một vài con dao trong đó có một loại dao đặc biệt, để làm gì ta sẽ thấy, một cái cuốc mà ta chưa vội biết công dụng, với lại xoong, chảo, rượu đế, mỡ, hành tây, muối.
Bạn của thợ săn đã thuê cho anh ta một chiếc xe bò rồi, và họ lên đường vào lối bốn giờ chiều, sau khi ăn cơm rất sớm.
Những người bạn này, thường thì không đi theo xe, vì vào rừng rồi thì cấm nói chuyện, cấm nô đùa, la lối, họ buồn, họ chẳng muốn đi theo làm gì. Tuy nhiên, thợ săn vẫn nài nỉ một người theo anh ta, và có thù lao cho người này.
Họ đi như thế suốt bảy tám tiếng đồng hồ trên đường mòn xuyên rừng và đến nơi là đã mười một giờ đêm rồi.
TRƯỜNG SĂN
Nơi đó là ở đâu ? Là ở một cái trảng, đôi khi do người chủ xe bò chỉ định, chớ không phải là thợ săn, vì các chủ xe bò chuyên đi rừng, thạo rừng hơn cả thợ săn nữa.
Cái trảng, tiếng Anh nói là savanna. Đó là danh từ mà miền Nam vay mượn của dân Phù Nam, chớ miền Bắc tuy cũng có cái trảng, nhứt là ở trung du, nhưng không có danh từ để trỏ nó, hoặc là có mà tôi không biết.
Nguồn gốc của cái trảng là đây: cổ dân ở địa phương đó làm hỏa canh. Họ đốt rừng trồng trọt. Trồng được ba năm, đất hết mầu mỡ, mà họ thì không biết bón phân nên họ bỏ đất, đi đốt rừng nơi khác. Đất bỏ hoang một năm là tranh mọc đầy lên đó; mà hễ tranh mọc rồi thì chẳng có cây gì mọc được nữa hết, vì rễ tranh rậm rì, chằng chịt, choán hết đất, rễ của các cây khác không tìm được thức ăn.
Tranh là món ăn thích khẩu của nai. Tối lại, nai từ rừng sâu đổ ra các trảng để ăn tranh. Trong khi đó thì nai lại là món ăn thích khẩu của cọp. Vậy muốn săn cọp, phải đến trảng. Cọp nai ở trảng, thì thợ săn rình cọp cũng ở trảng.
Nhưng không phải chỉ giản dị có thế đâu. Cọp rất thính hơi, và nó biết hơi nào là hơi voi, hơi gấu, hơi nai, và hơi người. Vậy thợ săn phải tìm cách ở dưới gió (sous le vent) so với vị trí của cọp. Thí dụ nai ăn cỏ ở hướng đông, cọp rình ngay ở hướng đông. Nếu gặp gió tây mà thợ săn cũng lại rình ở hướng tây là hỏng, vì gió tây sẽ đưa hơi của con người sang hướng đông, báo động cho cọp biết.
Người thợ săn không được phép là tay săn tập sự. Đèn của y chiếu vào mắt thú (thú rừng nào cũng ưa nhìn đèn). Mà mắt nai, không khác mắt cọp đáng kể, người thường không phân biệt được đâu. Nếu bắn phải một con nai, thì cọp dông mất hết vì tiếng súng xua đuổi chúng nó. Một con nai bán chẳng được bao nhiêu tiền.
Xin nói vắn tắt để quí vị độc giả đỡ ngáp. Thí dụ đêm đó anh thợ săn X hạ được một con cọp. Công việc đầu tiên của anh ta là đánh diêm lên để đốt râu cọp. Anh ta dốt, tin lời của bạn anh ta, vốn cũng dốt, nên mới làm cái công việc đó. Họ tin rằng khi ta xẻ một măng non, ta nhét một sợi râu cọp vào đó thì đến khi măng già, râu cọp sẽ hóa thành một thứ sâu lạ. Phân của sâu này là một loại thuốc độc mạnh nhứt thế giới, chỉ cần vài hạt bụi phân trong rượu là đủ giết chết ngay tức khắc một người to lớn. Thợ săn không nên cho râu cọp lọt vào tay ai hết, để tránh tội ác.
Xong đâu đó, thợ săn dùng con dao đặc biệt được nói đến khi nãy để lột da cọp. Phải có học mới lột được da trâu, da bò, da cọp. Vụng tay, làm rách da thì bán chẳng ai mua đâu. Bộ da cọp này, hôm sau sẽ được đưa về Sài Gòn bán cho một vài nhà chuyên môn, chuyên dồn chất độn vào da cọp để dựng lại một con cọp giống hệt cọp sống, bán cho nhà giàu họ mua để trang trí nhà cửa. Bán một con cọp như thế, trừ thù lao cho chuyên viên rồi, cũng còn tiền đủ sống phong lưu hai ba tháng theo đời sống Tây lai.
Nhưng thợ săn không ham lắm, vì bán món khác, giúp sống được một năm.
Thế nên công việc thứ nhì của họ là đào huyệt để chôn xác cọp. Họ vùi nong một nắm, nhưng không cỏ hoa như người khách viễn phương đã vùi Đạm Tiên đâu. Xác cọp bị chôn rất cạn, nhưng được phủ bằng những cành cây có gai, được đánh dấu nơi chôn rất cẩn thận. Ba tháng sau, họ trở lại đó đào đất lên là họ có được một bộ xương cọp nguyên vẹn. Xương cọp nguyên vẹn bán được tiền hơn là những bộ xương không đủ cả các loại xương. Người Tàu Chợ Lớn họ mua xương cọp với giá cao, chở về bán bên Tàu để Tàu chế ra hai thứ thuốc: cao hổ cốt và thuốc bột “hổ đầu”. Thuốc hay hay dở thì không biết, anh thợ săn cũng cóc cần biết, hễ người Tàu còn mua thì họ còn săn.
Có ai hỏi tại sao mới có ba tháng xa mà một cái xác sinh vật to lớn như thế đủ thì giờ để biến thành một bộ xương thật sạch, dùng được ngay, thì xin “giải đáp thắc mắc” như sau:
Trong rừng sâu có một loài sâu bọ, không biết tiếng Việt gọi ra sao: vì không nghe ai điểm danh loài sâu bọ này hết, còn tiếng Pháp gọi nó là con charogne. Pháp lại gọi con charogne là “sở vệ sinh của rừng rú”, vì chính chúng nó ăn sạch bách muôn vạn xác thú, xác chim trong rừng, giúp cho rừng khỏi hôi khỏi thúi.
Ấy đấy xác cọp bị cố ý chôn cạn,vùi nong một nắm, là nhằm mục đích giúp cho loài charogne dễ tìm ra xác. Và đó là mẹo của người mình họ cố vấn cho các tay thợ săn Tây lai, chớ các anh Tây lai chỉ học tiểu học thôi, chẳng có đọc sách Pháp bao giờ hết để mà biết con charogne.
Và cái cuốc được ám chỉ đến khi nãy, là để đào lỗ chôn xác cọp còn người bạn có hưởng thù lao là một tay khiêng xác cọp vứt vào lỗ vì anh Tây lai và anh đánh xe bò không chắc mình khiêng nổi những con cọp to. Ba người thì chắc ăn hơn.
Nãy giờ cố nói tất tất cả mọi việc để bạn đọc đỡ ngáp, chứ thật sự thì mọi việc xảy ra không giản dị như thế. Nếu quá dễ ăn, thì ai cũng làm thợ săn cọp hết,và các tay thợ săn đều thành triệu phú hết trơn, nhà băng nào đủ chỗ chứa bạc của họ !
Không dễ ăn vì thợ săn đâu có đủ tài để hễ bắn là trúng đích. Bắn hụt là sự thường xảy ra, và bắn đúng mà cọp không chết cũng rất thường xảy ra.
Nếu bắn hụt thì cọp dông mất, chẳng có gì đáng lo. Nhưng cọp bị thương thì rất dễ sợ. Bị thương quá nặng, chúng sẽ chạy trốn, mà ta thì không dám theo dấu,vậy là lỗ một viên đạn súng săn, lỗ tiền mua đá đèn, lỗ tiền thuê xe bò. Nhưng rủi ro cọp chỉ bị thương nhẹ thôi thì chắc chắn là chúng nó sẽ tấn công địch thủ. Thế nên thợ săn cọp, bọn đi theo thợ săn để chơi, và cả anh đánh xe bò đều phải thạo cách tránh né cọp chớ đừng hòng chống lại nó. Cọp rất mạnh, một mình nó, nó đủ sức kéo xác một con bò đi xa năm bảy cây số. Mà cũng đừng mong leo cây. Không đủ thì giờ để leo cây đâu. Họ chỉ còn một cách độc nhứt là phân tán mỏng, nhảy lui, rồi núp sau một cổ thụ. Cọp chỉ nhảy đến vồ ta, vồ hụt thì nó phải chuẩn bị cái nhảy thứ nhì trong khi đó ta đủ thời giờ để đổi chỗ, núp sang cây khác, vô hiệu hóa sự chuẩn bị của nó. Nhảy lui cũng phải chuẩn bị trước khi bắn, vì nếu là đứng trước một bụi cây lớn, một bụi cây nhỏ mà nhiều gai, ta cũng không thể nhảy lui được. Tất cả mọi người trong đám săn đều phải lo đường rút lui trước khi bắn.
Có ai dám theo dấu cọp bị thương chăng ? Có, mặc dù rất nguy hiểm. Người Thượng can đảm hơn ta về vụ này. Trong mười thợ săn ta, có thể chỉ có một hoặc hai người dám theo, còn Thượng thì anh nào cũng dám cả, mặc dầu các ảnh chỉ có nỏ trong tay.
GỠ VỐN
Nếu không được cọp, thợ săn sẽ về tay không chăng ? Không, họ bắn nai để gỡ vốn. Nai, khi chúng nghe tiếng súng, chúng cũng chạy. Nhưng chúng lại nghe cọp vừa rống cà-um, cà-um, vừa khua lá chạy như giông, nên chúng hiểu ra sự thật, an lòng trở lại nơi đó ngay hầu xơi cỗ.
Thợ săn cọp mà bắn nai thì bá phát bá trúng. Họ thường bắn hụt cọp vì có can đảm bao nhiêu, đến phút chót họ cũng có run tay tí tí, nên bắn trật. Bắn nai hiền lành, tay của họ rất vững. Hóa ra thường thì non hai tháng họ mới hạ được một con cọp còn thì chiến lợi phẩm của thợ săn cọp lại là thịt nai, họ sẽ chở về chợ huyện để bán cho các hàng thịt lợn, kiếm tiền còm đủ ăn nhậu thêm nữa.
Nhưng thật ra thì họ ăn nhậu trước, ngay tại chỗ, vì thế mà trên kia tôi mới ám chỉ đến vài món hơi kỳ khôi mà họ mang theo như soong, chảo, mỡ, hành tây, và các con dao thường không phải dao đặc biệt dùng lột da cọp.
Thịt nai bán ở các chợ dỡ hơn thịt bò, chỉ được cái là rất mềm mà thôi. Nhưng thịt nai ăn ngay sau khi nai chết đạn thì tuyệt diệu. Các tay thợ săn Tây lai này cũng biết làm món “nồi da xáo thịt” do người Thượng tên là dân Mạ dạy cho dân ta ở vùng Đồng Nai, và ta dạy lại Tây lai.
Lột một tấm da nai to chừng bằng bốn chiếc khăn mu-soa. Đóng bốn cây cọc ngắn xuống đất. Căng tấm da nai lên bốn ông táo gỗ đó. Lúc vừa được căng thì da nai thẳng tuột, nhưng hai phút sau da nai oằn xuống như lòng chảo. Bầm thịt nai với củ hành tây, chế mỡ vào chảo da, rồi bỏ thịt bầm vào đó. Nhúm lửa lên, dưới cái chảo da nai ấy. Rồi thì ngồi đó để thưởng thức mùi thơm của nó, e rằng chai rượu đế sẽ cạn trước khi thịt chín.
Một con nai bán được ít tiền hơn một con bò và nhiều tiền hơn một con lợn. Nhưng thợ săn vẫn làm giàu được trong việc săn nai, nếu gặp mùa. Mùa đó là mùa xuân, mà một số nai già rụng sừng và mọc sừng khác. Cái sừng non đó người Tàu gọi là lộc nhung, có nghĩa là sừng non của nai, tôi gọi tắt là nhung, trong những loại thuốc mang tên “sâm nhung bổ thận hoàn”. Sừng nai non bán cao giá lắm đấy nhé bà con ơi, vì dược khoa của Tàu nó quý lắm. Khoa học cũng đã nhìn nhận rằng lộc nhung rất bổ.
Cái món lợi sau đây, ít hơn, và người mình không nỡ tìm nhưng Tây lai thì đủ can đảm tìm: hạ những con nai cái đang có thai, mổ bụng nó ra lấy cái bào thai, đem về bán cũng khá tiền.
Người Việt miền Nam gọi cái bào thai bằng danh từ vay mượn của dân Phù Nam là danh từ hàn-nàm. Nhà giàu Việt Nam rất quý hàn-nàm nai. Họ ngâm nó vào rượu rồi uống rượu đó.  Đại bổ. Đại bổ. Bào thai rất bổ. Rượu hàn-nàm là rượu quý vô song.
Cái món lợi thứ ba, chỉ nhỏ thôi, và người mình cũng không nỡ tìm nhưng Tây lai cứ dám làm như thường: hạ những con nai mẹ đang nuôi con bé dại. Đôi vú nai căng sữa, thơm vô số kể, vừa thơm vừa dòn vừa bùi, chiên mỡ rồi thưởng thức thì có thể làm cạn queo ba bốn lít rượu đế.
SĂN CỌP GIỮA ĐƯỜNG
Đôi khi chưa tới trảng tranh, đã gặp cọp rồi. Ta chẳng cần rình mò gì hết, hễ đến gần cọp thì ta biết ngay. Mùi khét của cọp tỏa ra rất rộng. Bằng như mũi của ta quá kém thì bò nó sẽ báo động cho ta, vì bò thính hơi cọp hơn ta, hễ đánh hơi được cọp là nó sợ, nhất định không kéo xe đi tới nữa, đánh nó bao nhiêu nó cũng sẽ bất kể. Bằng như chính bò cũng mắc chứng nghẹt mũi như con người thì sẽ có một tình báo khác thông tin cho thợ săn biết rằng quanh họ, đang có cọp đi chơi đêm.
Có một loài chim mà lâm dân người mình gọi là chim từ quy. Nó chỉ là con chim đỗ quyên chứ chẳng có gì lạ. Người thợ dân miền Nam gọi đùa con chim từ quy là chim “xỉa răng cọp”. Nó đi theo cọp suốt ngày đêm, đợi khi cọp nằm nghỉ, há miệng ra để nó ăn thịt thúi ớ các kẻ răng cọp. Cọp rất khoái từ quy, vì thuê chuyên viên xỉa răng khỏi tốn tiền mà ! Hễ vào đâu mà nghe đỗ quyên kêu thê thảm là chắc chắn gặp ông ba mươi rồi.
Gặp ông ta, nhưng chưa thấy đâu. Mà cũng đừng thèm tìm mất công, bởi ông ta sẽ tự đến để nộp mình. Thú rừng bất kỳ con nào, cũng rất khoái ngắm đèn. Cọp cũng thế, nên ông ta sẽ tìm lại nơi có ánh sáng, tìm cách đứng ngay tia đèn để cho thợ săn dễ nhắm nhía. Rồi thì là “bùm”. Một là ông ngủ, hai là tôi bị xơi tái, nhưng tôi có trí khôn, còn ông thì không. Ông cứ thử thoát, có thể bỏ xương bỏ da lại cho tôi, còn tôi thì thường thoát được.
Chim từ quy không phải chỉ kiếm ăn theo cọp, mà kiếm ăn theo sấu nửa. Dưới nắng trưa, sấu thường trườn lên những bãi cát bờ sông vắng để phơi nắng, và cũng há miệng ra cho từ quy xỉa răng.
Các tay thợ săn sấu ở nguồn sông Đồng Nai (toàn thể là Tây thật, chớ không có Tây lai) rất sợ loài chim này, vì chúng thính hơi, nghe được hơi người là báo động cho sấu biết để sấu chúi xuống nước trốn.
CHẾT TRƯỚC KHI THẤY NAI, THẤY CỌP
Ở miền Nam nước Việt, số người mình sắm súng đông hơn hết là trong tỉnh Thủ Dầu Một. Súng mà họ sắm chỉ là loại súng Flanbert thôi, dùng để bắn chim và bắn ăn cướp. Đạn của loại súng này được gọi là cái bì. Bì được làm bằng giấy bồi khá cứng, to hơn một viên đạn súng săn một tí. Nhà sản xuất cho vào bì phân nửa là thuốc súng, phân nửa còn lại chứa đầy những viên chì nhỏ bằng hột tiêu. Người mình gọi đó là đạn chì, bắn thì đạn nó túa ra như là vãi chài, viên đạn này sai thì viên đạn khác nào đó cũng trúng được chim, đôi khi bắn một phát có thể làm rơi được vài con chim, rất tiện dụng.
Nhưng một số người có săn loại súng đó ở Thủ Dầu Một lại chơi trò rất lạ. Đây là phát huy sáng kiến theo lối “đầy tinh thần sáng tạo”.
Họ đổ hết đạn ra mà vứt đi, đổ cả hai bì súng, đoạn dồn hết thuốc súng vào chung một bì, đoạn chôn vào thuốc súng đó một cây đinh thép thật to, bán trên thị trường thì đinh này dài đúng một tấc bảy, nên họ phải chặt đôi cây đinh ra.
Hỏa lực của loại bì “cải tiến” ấy mạnh bằng đạn của súng trận, súng săn: Thế rồi họ dùng loại bì kỳ dị đó để đi săn cọp và săn nai, bắn cọp và bắn nai chết như chơi, y như là với súng trận.
Chỉ phiền là trong mười người chơi cái trò nguy hiểm đó, có đến bảy tám người bỏ mình. Nòng súng Flanbert vốn yếu, được chế tạo vừa đủ tương sức với sức mạnh không đáng kể của đạn chì. Khi ta dùng một liều lượng thuốc súng gấp đôi, thì nòng súng không chịu đựng nổi sức nổ mạnh. Vậy là nòng súng bể vỡ, ngay trước mũi của thợ săn, cách mặt họ có năm tấc tây thôi, không vỡ sọ cũng thủng mặt, đàng nào cũng chết.
Tuy nói thế chớ nòng súng không vỡ ngay ở phát súng đầu đâu, vì nếu thế, đâu có ai mà dám chơi cái trò dại dột đó. Nói là nòng súng thép yếu là yếu vậy thôi, chớ dầu sao nó cũng bằng thép. Nó chịu đựng được chỉ vài mươi phát súng nổ, tức là bắt đầu bắn đến lúc thọ nạn, thợ săn cũng có thể hạ được năm bảy con nai. Và không phải hễ súng bể vỡ là thợ săn chết, vì có khi nòng súng chỉ bay đi mất thôi, mà thợ săn không bị gì hết ráo, chỉ phải ôm bá súng gỗ về nhà, khoe với vợ là cọp đã nhai nát nòng súng mà anh đây thì nó nhai không nổi.
Nhờ tai nạn chậm xảy ra, nên bác thợ săn liều mạng rằng mình đủ thì giờ bỏ súng cũ kịp lúc, trước khi nòng súng bể, nên mới còn người chơi trái trù đó mãi cho đến năm 1945 mới thôi.
KỸ NGHỆ BAN MÊ THUỘT
Những tay săn cọp ờ Ban Mê Thuật, trước 1945 (sau 1945 thì chiến tranh trong nước ta đã giết chết kỹ nghệ đó) là triệu phú Huê Kỳ, Anh, Đức, Ý, v.v...
Người tổ chức là hãng Caffort ở Sài Gòn. Hãng này, bề ngoài chỉ là một căn nhà ở đường Catinat (sau này là đường Tự Do, đường Đồng Khởi). Hiệu buôn nhỏ này chỉ trưng bày vài cây súng lấy lệ thôi, nhưng đó là một tổ chức lớn, vốn rất to.
Một anh triệu phú Huê Kỳ nào đó, thường chỉ tới một mình, hoặc với một hay hai người bạn, có thể là nam, mà cũng có thể là nữ. Nhưng hãng phải có ngay cho họ vài chục cái lều vải, loại lều cắm trại thưng tuyệt đẹp, hạng sang nhứt thế giới.
Họ đổ tiền ra, muốn bao nhiêu họ cũng ô-kê hết, nhưng họ đòi hỏi rất nhiều. Phải chở máy phát điện lên Ban Mê Thuột, chớ họ đâu có ưa đèn dầu, và máy đó phải đủ mạnh để chế tạo nước đá. Vậy là phải chở thêm một máy bào rước đá nhỏ. Phải có cả một nhà bếp giữa rừng với đầy đủ các thứ cần thiết cho việc nấu bếp, với một anh đầu bếp người Tàu Hải Nam, nhóm Tàu này chuyên môn nấu ăn theo lối Pháp và nấu rất ngon. Rồi thì đủ thứ rượu Pháp, nào là Champagne Möet Chandon, nào là rượu loại Muscat, nào là rượu Cognac hiệu Martel, nào là các thứ nước suối, nước suối Perrier để pha với rượu mạnh, nước suối Vichy để giải khát, vài thứ nước suối khác cũng của Pháp để trị bệnh gan, bệnh thận, rồi thì bồi, những anh sai vặt, tùm lum ra, Sàigòn cũng chẳng sánh kịp.
Tốn nhứt là phải trả lương tháng cho hai tay thiện xạ người Pháp (có dạo một người Việt Nam được thủ vai trò đó). Các ông triệu phú vốn bắn dở, nếu để cọp vồ các ổng thì hãng Caffort sẽ tiêu tùng sự nghiệp. Vậy các ổng đi săn được hộ tống cẩn thận như tổng thống Huê Kỳ đi Taxas thăm cao bồi chuyên bắn súng đùng đùng.
Hai tay thiện xạ này chẳng những thiện xạ, lại phải là hai nhà tâm lý già rơ. Phải để cho các ông nhà giàu hạ con cọp, các ổng mới khoái, mới xỉa đô-la xanh ra, và các thiện xạ viên chỉ được phép bắn trong vài giây cuối cùng khi các ông Huê Kỳ bắn hụt. Từ cái giây mà các ông nhà giàu bắn hụt đến cái giây mà cọp vồ ông nhà giàu, chỉ có một giây mà thôi để cho hai tay thiện xạ đó “cứu nguy dân tộc”. Một giây thôi. Thật là khó. Nhưng phải làm cho được. Hai tay thiện xạ này ăn lương rất to, mà đôi khi cả tháng chỉ làm việc có một tuần lễ thôi.
Thỉnh thoảng họ lại tổ chức một lối săn rất ngoạn mục và săn giữa ban ngày. Một đàn voi mười con do người Thượng điều khiển. Khách hàng và bạn hữu của họ ngồi trong một bành voi, rồi mười con voi đó vây quanh một địa điểm mà nhân viên thám hiểm cho biết nơi đó một gia đình cọp đang ngủ.
Người Thượng vừa đánh phèng la vừa hò hét,vừa khép chặt vòng vây lần lần, cho đến khi mà vòng vây chỉ to bằng một biệt thự thì triệu phú ra tay. Lối săn này chẳng có gì nguy hiểm cả, nhưng lại tốn tiền hơn vì phải thuê mười con voi và ít lắm cũng hai mươi người Thượng.
“Săn cọp Đồng Nai”: Di cảo.
(Đăng trên Phụ Nữ diễn đàn,
Califomia, số 103, tháng 8, 1992)

Sunday, September 29, 2013

TS. TRẦN NHƠN * BÃO TỐ NỔI LÊN RỒI

Bão tố nổi lên rồi!


Một thời Đảng cuốn hút hồn tôi,
Đảng ấy dường như biến mất rồi!?
Dân chủ, tự do dìm xuống vực,
Độc tài toàn trị phất lên ngôi.
Con cừu, cháu thỏ tranh tài lộc,
Mặt ngựa, đầu trâu cướp thịt xôi.
Văn hiến bốn ngàn năm tuột dốc,
Lòng dân bão tố nổi lên rồi!
Không phải ngày xưa Đảng tuyệt vời,
Chẳng qua chưa bị lộ mà thôi.
Lừa công nông ngụy xưng giai cấp,
Gạt đảng phái giành trọn ghế ngôi.
Tín dụng niềm tin chết ngắc ngoải,
Ngân hàng đạo đức sống cầm hơi.
Bôn sê vích lầm đường lạc lối,
Đảng Lê nin chống lại loài người.
Nâng cấp “Lê nin” lên “Lê - Mao”,
Đảng Cộng sản liên tục đổi màu.
Đẩy nước nhà vào rọ Bốn Tột,
Xô nhân dân sập bẫy Ba Tàu.
Niềm tin bánh vẽ chưa tan mộng,
Chiến lược ma trơi đã gãy cầu.
Đảng độc trị đến thời mạt vận,
Hoàn lương cùng đồng chí, đồng bào!
Tháng 9/2013

ĐẶNG CHÍ HÙNG * PHAN VĂN KHẢI

Đặng Chí Hùng – Những sự thật cần phải biết – (Phần 23) – Phan Văn Khải – Từ bàn tay nhuốm máu đến bán nước

Đặng Chí Hùng (Danlambao) – Phan Văn Khải là một trong những tội đồ của dân tộc, trong suốt thời gian làm thủ tướng và cả trước đây đã có nhiều tội ác với nhân dân. Đem những tội ác đó ra trước ánh sáng cũng là một điều cần thiết cho công cuộc đem lại tự do dân chủ cho Việt Nam. Xin sơ qua để thấy lý lịch của Phan Văn Khải từ phần văn kiện và tài liệu của báo đảng (1):
I. Con người Phan Văn Khải:
Họ và tên: Phan Văn Khải 
Bí danh: Sáu Khải 
Ngày sinh: 25-12-1933 
Quê quán: Xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh 
Ngày tham cách mạng: 1947 
Ngày vào Đảng: 15-7-1959 
Ngày chính thức: 15-7-1960 
Trình độ học vấn: Chuyên môn: Đại học kinh tế quốc dân Liên Xô; Lý luận chính trị: Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc; Ngoại ngữ: Nga văn 

Tóm tắt quá trình công tác

Từ 1947 đến 1954: Tham gia Đội thiếu nhi xã, Ủy viên Ban Chấp hành thiếu nhi huyện Hóc Môn, Công tác văn thư Tỉnh đoàn thanh niên tỉnh Gia Định. 

Từ 10/1954: Tập kết ra Bắc. 

Từ 1955 đến 1965: tham gia công tác giảm tô, cải cách ruộng đất, học văn hóa ở trường bổ túc công nông Trung ương và học Đại học kinh tế quốc dân Matxcơva Liên Xô. 

Từ 6/1965 đến 1971: Phó phòng, Trưởng phòng của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. 

Từ 1972 đến 1975: Cán bộ nghiên cứu kinh tế miền Nam, 1973 vào chiến trường B2, 1974 ra Hà Nội làm Vụ phó Vụ Kế hoạch chi viện, Ủy ban Thống nhất. 

Từ 1976 đến 1980: Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch thành phố Hồ Chí Minh, Thành ủy viên, Ủy viên thường vụ Thành ủy, Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh 

Từ 1981 đến 1984: Phó Bí thư Thành ủy, Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Tại Đại hội V (3/1982) của Đảng được bầu làm Ủy viên dự khuyết và tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (1984) được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng. 

Từ 1985 đến 3/1989: Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Tại Đại hội VI (12/1986) được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương 

Từ 4/1989 đến 8/1991: Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. 

Từ 1991: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Phó Thủ tướng Chính phủ. Tại Đại hội VII (6/1991) và Đại hội VIII (6/1996) được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. 

Từ 9/1997 đến 7/2006: Được Quốc hội khóa X và khóa XI bầu làm Thủ tướng Chính phủ. Tại Đại hội IX (4/2001) của Đảng được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.” 
Đọc qua tiểu sử của Phan Văn Khải chúng ta thấy điều gì? Đó là một cán bộ cộng sản từ nhỏ đến lớn đều rất trung thành với chủ nghĩa cướp và bán. Chức vụ cao nhất mà Khải làm chính là thủ tướng nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.
Con trai Khải là Phan Tấn Hoàn, tự là Hoàn Ty, cũng là trùm Mafia ở Việt Nam. Hắn nhập cảng lậu nhiều tàu, chứa đầy xe ô tô cũ vào nước ta, rồi bán sang Trung Cộng. Hoàn Ty làm chủ khách sạn Hoàng Gia và Planet ở Sài Gòn và Hà Nội. Ăn chơi sa đọa, cờ bạc, buôn lậu, cầm đầu một băng đảng gồm con ông cháu cha. Năm 1995, vì tranh giành địa bàn buôn lậu, nên Hoàn Ty bắn chết Phạm Văn Hưng, là công an, con của Phạm Thế Duyệt. Nội vụ được cho chìm xuồng. Ngoài ra Khải nổi tiếng là người thích chửi tục “Đỗ Mười” ngay ở đầu câu nói.
Phan Văn Khải (giũa) vận dụng nghị quyết 36 của Võ Văn Kiệt chia rẽ 
đồng bào Việt Nam thông qua vụ chiêu dụ tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ (trái). 
II. Bán nước:
Ngày 25/12/200, Trần Đức Lương đến Bắc Kinh cùng Giang Trạch Dân ký Hiệp Ước cắt 11.362 km2 trên vịnh Bắc bộ cho Trung cộng, là hành động cắt biển bán cho Trung cộng để lấy 2.000.000.000 Usd, để về chia chác cho Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải… để đổi lấy những cái gật của Khải, Kiệt v.v…
Sau vụ bán nước cho Trung Cộng, theo lời ông Hoàng Minh Chính cho biết thì không ai biết được ai trong Bộ chính trị đã ký tên trong vụ bán nước này, Bộ chính trị cộng sản đã dấu nhẹm chuyện này và BÍ MẬT ĐÃ được BẬT MÍ và sau đây là những diễn biến về cuộc BÁN NƯỚC NHƯ SAU:
1) Lê Khả Phiêu bị Trung cộng gài Mỹ Nhân Kế lấy cô Trương Mỹ Vân (Cheng Mei Wang) lúc Lê Khả Phiêu sang thăm Trung Quốc năm 1988 và sinh được một bé gái. Phiêu không đem con về vì sợ tai tiếng đưa đến nhiều lần Trung Cộng gửi văn thư đòi lấn vùng biển vào tháng 1 năm 1999. Đồng thời đòi đưa ra ánh sáng vụ nầy nếu Phiêu không hợp tác. Và buộc Lê Khả Phiêu phải hạ bút ký bản hiến biển ngày 30 tháng 12 năm 1999.
2) Ngày 31 tháng 12 năm 1999 phái đoàn Trung Quốc cầm đầu do Tang Jiaxuan và tình báo Trung cộng sang Việt Nam, họ gặp kín Lê Khả Phiêu bàn thêm về vấn đề hiến đất.
3) Ngày 25 tháng 2 năm 2000, Lê Khả Phiêu phái Nguyễn Duy Niên sang Trung cộng và Nguyễn Duy Niên cho biết Lê Khả Phiêu đã đồng ý việc hiến thêm đất. Trung cộng nghe tin rất hoan hỉ mở tiệc chiêu đãi Nguyễn Duy Niên một cách nồng nhiệt với nhiều mỹ nữ ở nhà khách Diao-yu-tai ăn nhậu cùng Ngoại Trưởng Tang Jiaxuan.
4) Bộ Trưởng Trung cộng Tang Jiaxuan gửi thư kín nhắn tin muốn gặp Bộ Trưởng cộng sản VN tại Thailand khi Tang Jiaxuan viếng thăm nước này. Ngày 26 tháng 7 năm 2000. Nguyễn Duy Niên đáp chiếc Air Bus bay từ phi trường Nội Bài vào lúc 6 giờ 47 sáng sang Thailand gặp Bộ Trưởng Ngoại giao TC tại khách sạn Shangri-La Hotel Bangkok phía sau phòng Ballroom 2. Cuộc gặp rất ngắn ngủi. Tang giao cho Niên một chồng hồ sơ đòi cộng sản Việt Nam hiến thêm đất, biển trong hồ sơ ghi rõ TQ đòi luôn 50/50 lãnh hải vùng Vịnh Bắc Việt, đòi Việt Nam cắt 24, 000 sq Km vùng biển cho TQ. Ngày 28 tháng 7 bộ chính trị nhóm chóp bu họp kín.
5) Sau hai tháng họp kín và bàn bạc. Bộ chính trị cộng sản VN cử Phan Văn Khải qua gặp mặt Lý Bằng. Phan Văn Khải bay chuyến máy bay sớm nhất rời Việt Nam ngày 26 tháng 9 năm 2000 qua Bắc Kinh và được xe Limo chở từ phi trường Bắc Kinh về Quảng Trường Nhân Dân vào trưa hôm đó. Lý Bằng cho Khải biết là hai tay Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân đã gặp nhau 2 lần cho vụ hiến đất rồi.
Lý Bằng cho biết Nông Đức Mạnh phải được cử làm Tổng Bí Thư sau khi Lê Khả Phiêu xuống, nếu không thì sẽ bị Trung cộng “đòi nợ cũ”, Khải trước khi về vẫn khước từ vụ hiến vùng biển VN và nói với Lý Bằng là sẽ xem lại sự việc. Sau đó Lý Bằng bắt Khải ngồi chờ, nói là Chủ Tịch Giang Trạch Dân muốn gặp Khải tại Zhong-nai-hai và sau đó Khải được đưa đi gặp Giang Trạch Dân và cho Zhu Rongji hù dọa Khải nói: “Trung Quốc đã nắm trong tay Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, nếu không nghe lời TQ Khải sẽ bị tẩy chay và coi chừng bị “chích thuốc”. Khải cúi đầu và run sợ, sau đó đòi về. Trước khi Khải về, một lần nữa Giang Trạch Dân nhắn Khải gửi lời thăm Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh chứ không nhắc tới tên người khác trong Quốc Hội cộng sản VN. Khải không được khoản đãi như một vị quốc khách vì tính tình bướng bỉnh không nghe lời đàn anh…”. 
6) Vào ngày 24 tháng 12 năm 2000, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao cộng sản Lê Công Phụng được Trần Đức Lương âm thầm phái đến Trung Quốc gặp quan chức tình báo của Trung cộng là Hoàng Di – cánh tay phải của Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung cộng. Di nói tiếng Việt rất rành. Hai bên đã gặp nhau ở một địa điểm X gần biên giới Việt (tỉnh Móng Cái Việt Nam). Theo bản báo cáo cho Bộ chính trị cộng sản VN, Lê Công Phụng cho biết lúc đầu Hoàng Di vẫn khăng khăng đòi chia 50/50 với Việt Nam về vùng biển Vịnh Bắc Việt “Beibu Bay” đòi lấy luôn đảo Bạch Long Vĩ sau đó Phụng, được Bộ chính trị dặn trước là xin lại 6% của Vùng biển gần khu vực Bạch Long Vĩ vì đã được lâu đời là của Việt Nam. Kết quả cuộc đi đêm Việt Nam còn lại 56% Vịnh Bắc Việt và mất đi 16, 000 Km2 vùng vịnh cho Trung cộng.
7) Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Trần Đức Lương từ Hà Nội qua Bắc Kinh gặp Giang Trạch Dân và được đưa về Thành Bắc của Quảng Trường Nhân Dân, theo tài liệu lấy được của tình báo Trung cộng. Trần Đức Lương và Lê Khả Phiêu chính thức quyết định thông qua bản hiệp ước hiến đất bất chấp lời phản đối của Khải và nhiều người trong quốc hội. Bản hiến chương hiến đất cho Trung Quốc được chính Giang Trạch Dân và đảng cs Trung Cộng trả cho số tiền là 2 tỉ USD được chuyển cho các quan chức cộng sản chi nhau.
8) Ngày 26 tháng 12 năm 2000 vào lúc 2 giờ trưa, Lý Bằng được cận vệ đưa tới gặp Trần Đức Lương ở Quảng Trường Nhân Dân. Lý Bằng cho Lương biết là số tiền 2 tỉ dollar để mua 16, 000 km2 vùng vịnh Beibu của Việt Nam là hợp lý. Trần Đức Lương cám ơn Trung cộng về số tiền này… Sau cuộc gặp này thì Khải, Kiệt v.v… đã đồng ý với quyết định bán đất cho Trung cộng vì có phần chia chác trong số tiền này. Lý Bằng nhắc lại chuyện Trung cộng đã bán vũ khí và hỗ trợ cho cộng sản VN trong thời gian chiến tranh và số nợ trên Trung cộng dùng để trao đổi mua lại vùng đất Bắc Sapa của Việt Nam, Ải Nam Quan, Bản Dốc, Cao Bằng… Sau đó Lương được mời lên xe Limo và đưa về Zhong-nan-hai để gặp Zhu Rongji, Zhu Rongji không nói gì khác hơn là nhắc lại số tiền 2 tỉ USD sẽ được giao cho Việt Nam sau khi Lương trở về nước.
9) Ngày 26 tháng 2 năm 2001 Nguyễn Mạnh Cầm bay sang Trung Quốc để gặp Qian Qichen tại đảo Hải Nam. Nguyễn Mạnh Cầm cám ơn Trung Quốc đã mua vùng Vịnh Bắc bộ của Việt Nam (Beibu Bay) với giá 2 tỉ USD.
Ký kết bán nước của cộng sản
Điểm qua các mốc này cho thấy Khải cũng là một tên hèn khi không chịu phản đối khi qua Trung cộng. Đồng thời khi về nước và biết có tiền chia chác nên đã ngậm miệng ăn tiền. Nói cách khác cũng là bán nước. Nhưng để nhìn rõ những sự kiện này hơn xin mời bạn đọc chú ý những sự kiện sau đây liên quan đến Khải.
Thứ nhất, Khải còn là một thủ tướng hèn và bán nước khi không dám lên tiếng với Phó chủ tịch QH Trung Cộng là Cố Tú Liên khi sang Việt Nam, về vấn đề tàu chiến Trung Cộng xả súng giết hại 8 ngư dân Việt Nam, rồi còn vu cáo ngư dân Việt Nam là ăn cướp.
Tiếp theo đó đài BBC, phóng viên của AP ở Hà Nội đề nghị Bộ Ngoại Giao cộng sản khẳng định thông tin nói rằng, tàu Sea Bee bị tàu hải quân Trung Quốc đang tập trận bắn, làm 23 thủy thủ trên tàu mất tích. Nhưng phía cộng sản đã lặng im và cho rằng chỉ là một tai nạn thông thường. Chúng ta nên nhớ tàu Sea Bee được xem như tàu lớn, có trọng tải 6500 tấn, không thể dễ dàng chìm được nhanh chóng mà không có bất cứ một cuộc điện đàm kêu cứu nào, ngoài tín hiệu cấp cứu tự động. Điều này chứng minh cho việc Sea Bee đã bị trúng pháo hoặc ngư lôi của hải quân Trung Cộng, tuy nhiên, với vai trò thủ tướng thì Khải đã chỉ đạo cho vụ việc này rơi vào quên lãng.
Thông tin về vụ tàu Sea Bee xem tại bản tin của BBC (2).
Thậm chí khi gặp Cổ Tú Liên thì Khải vẫn còn nịnh bợ Trung cộng: “Ngày 13/1, trong buổi tiếp Phó Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc Cố Tú Liên, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội Trung Quốc sang Việt Nam tham dự APPF, thủ tướng cho rằng hai bên cần đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác, trên cơ sở phương châm 16 chữ và 4 tốt mà các nhà lãnh đạo cấp cao của hai nước đã đề ra…” (3)
Thứ hai, khi Ôn Gia Bảo đến Việt Nam, Khải vẫn xun xoe bợ đỡ được báo chí lề đảng loan tin:
“Ngày 7-10, tại Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Phan Văn Khải đã hội đàm với Thủ tướng Ôn Gia Bảo. Trong không khí hữu nghị, chân thành và cởi mở, hai bên đã điểm lại tình hình mọi mặt của quan hệ hai nước trong thời gian qua, nhất là từ sau chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Thủ tướng Phan Văn Khải tháng 5-2004; trao đổi về các biện pháp thực hiện có hiệu quả nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước nhằm đưa quan hệ hai nước tiếp tục phát triển theo phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt…. 

Thủ tướng Phan Văn Khải khẳng định Việt Nam hết sức coi trọng phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Trung Quốc, coi đây là chính sách nhất quán, cơ bản và lâu dài… 

Hai bên nhất trí cho rằng kể từ cuộc gặp tháng 5-2004 đến nay, quan hệ giữa hai Đảng, hai nước duy trì đà phát triển mạnh mẽ và ổn định. Hai bên đã đạt được nhiều nhận thức chung quan trọng, tạo điều kiện cho quan hệ hai nước có bước phát triển mới tích cực; nhấn mạnh duy trì truyền thống gặp gỡ cấp cao là nhân tố đặc biệt quan trọng đối với việc xây dựng và củng cố sự tin cậy, tạo cơ sở cho quan hệ hai Đảng, hai nước phát triển ổn định, lâu dài theo phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần bốn tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. 

Hai bên đánh giá cao ý nghĩa việc ký được các Hiệp định biên giới trên đất liền và phân định Vịnh Bắc Bộ, khẳng định cùng phối hợp và hợp tác chặt chẽ để thực hiện tốt các Hiệp định nói trên cũng như Biên bản cuộc gặp đặc biệt giữa Thứ trưởng Ngoại giao hai nước ngày 8-8-2004 và các thỏa thuận hữu quan khác nhằm xây dựng biên giới Việt – Trung thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, cùng phát triển. Hai bên khẳng định triệt để tuân thủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) giữa các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc…” (4)
Đây cũng là một trong những bằng chứng cho thấy sự bán nước và hèn kém của Phan Văn Khải trước giặc Tàu.
Chủ tịch Trung cộng Giang Trạch Dân và Phan Văn Khải trong thời gian 
Đoàn Đại biểu Việt Nam do TBT Đảng CSVN Đỗ Mười đang thăm 
Trung cộng ngày 20-10-1998 tại Điếu Ngư Đài (Bắc Kinh).
Trước đó, theo thông tin của đảng thì “Từ ngày 19 đến ngày 23-10-1998: Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải thăm chính thức Trung Quốc. Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ đã hội đàm với Thủ tướng Phan Văn Khải. Hai bên đã ký Hiệp ước tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự, Hiệp định mậu dịch biên giới và Điều ước lãnh sự giữa hai nước.” (5)
Thứ ba, nhóm Mạnh, Lương, An và Khải cũng từng bỏ qua ý kiến của ngay cả các vị cộng sản kỳ cựu trong việc ký hiệp định bán đất cho Trung cộng. Nhưng vì có tiền bỏ túi thì Khải cũng đồng ý cũng như các tên bán nước khác. Đây là bức thư của một người cộng sản kỳ cựu đến từ Hải Phòng để thấy bộ mặt bán nước của Khải (6):
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

Đề nghị Quốc Hội không thông qua hiệp định biên giới Việt Trung

Kính gửi:

- Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, 
- Chủ tịch Nước Trần Đức Lương, 
- Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, 
- Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, 

Tháng 2 năm 2001, trong bản góp ý với Dự thảo báo cáo chính trị của Đại hội IX, tôi đã có kiến nghị lên Đại hội Đảng, Chính phủ, Quốc hội không thông qua Hiệp định biên giới Việt Trung, vì đây là một Hiệp định mà phía Việt Nam nhượng bộ quá nhiều. Theo tôi, đó là một sai lầm lớn của Đảng và Chính phủ mà dân tộc ta chưa triều đại nào chịu nhượng bộ nhiều như thế. Cuối năm nay, Quốc hội sẽ họp, sau khi suy nghĩ và trao đổi với một số các vị lão thành cách mạng trong Câu lạc bộ Bạch Đằng, tôi trân trọng đề nghị ông Nguyễn Văn An – Chủ tịch Quốc hội mới được bầu – đưa vấn đề này ra trước Quốc hội, yêu cầu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao điều trần nói rõ nội dung số cây số vuông đã nhượng cho Trung Quốc so với Hiệp định Pháp – Thanh và nguyên nhân đi tới ký kết.

Suốt 4000 năm lịch sử kể cả thời Bắc thuộc cho đến hơn 1000 năm độc lập tự chủ, nhiều triều đại phong kiến lúc yếu cũng chưa bao giờ nhượng cho phong kiến Phương Bắc một tấc đất, một hòn đảo, cùng lắm chỉ cống nạp thiên triều ít ngà voi châu báu; lúc mạnh như thời Lý Nhân Tông đã đòi vua Tống phải hoàn trả ta 2 động, 8 huyện ở biên giới do bọn đầu mục thổ dân dâng cho nhà Tống. Vua Tống đã phải trả lại. Thế mà ngày nay, theo Hiệp định biên giới Việt Trung mới đây ta đã nhượng bộ cho Trung Quốc hàng trăm cây số vuông đất liền và hàng ngàn cây số vuông ở Vịnh Bắc Bộ (so với Hiệp định Pháp – Thanh đã ký cuối thế kỷ XIX).

Qua lời thông báo của một vị lãnh đạo của thành phố Hải Phòng tại CLB Bạch Đằng tháng 2/2001 thì Vịnh Bắc Bộ chia đôi ta được 53%, Trung Quốc 47%. Sao kỳ lạ thế? Vịnh Bắc Bộ (Golfe du Tonkin) là của Việt Nam cơ mà! Tôi không rõ sứ thần Trung Quốc đã khôn khéo thế nào, dùng lời ngon ngọt ra sao mà đã làm mềm lòng sứ thần Việt Nam, thò tay vào ký Hiệp định trước tháng 12/2000. Có điều kỳ lạ là Trung Quốc đề ra kế sách ký Hiệp định biên giới Việt – Trung và sát nhập Đài Loan vào Trung Quốc trước thiên niên kỷ mới. Ta là một nước độc lập có chủ quyền, có cơ sở pháp lý đầy đủ lại vui vẻ làm theo, còn Đài Loan là đất đai của Trung Quốc họ lại không tuân theo ý đồ đó. Có người giải thích rằng: ta không ký không được. Phải chăng ta sợ Trung Quốc mang quân sang đánh ta? Trung Quốc là nước lớn nhưng không phải dễ dàng uy hiếp được ta. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh trong 10 thế kỷ vừa qua, Phương Bắc đã 10 lần mang quân sang xâm lược nước ta, nhưng cả 10 lần phong kiến Phương Bắc đều thất bại thảm hại. Kể cả trận mới đây nhất, tháng 2/1979, cộng sản Trung Quốc đã mang quân đánh nước ta, định dạy cho Việt Nam một bài học, trái lại họ đã học được bài thất bại cay đắng. Thực ra lúc này Trung Quốc rất cần ổn định để phát triển kinh tế, họ chỉ dọa được những người nhát gan yếu bóng vía, chứ làm sao dọa được dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất. Nếu ta không ký mà họ đem quân đánh ta, cả thế giới sẽ ủng hộ ta và nhân dân ta triệu người như một đoàn kết sẽ đứng lên cầm vũ khí quét sạch quân thù. Nói thế thôi, chứ Trung Quốc không dại gì đem quân gây chiến với Việt Nam. Tiếc thay, cả người cho ý kiến lẫn người đi ký đã không nghiên cứu lịch sử Việt Nam. Họ quên mất rằng biết bao sứ thần Đại Việt qua nhiều triều đại đã làm cho phong kiến Phương Bắc phải kính nể, khâm phục. Thậm chí có sứ thần không chịu khuất phục đã bị phong kiến Phương Bắc chém đầu, gây một vết nhơ cho lịch sử đối ngoại của Bắc Triều, càng làm rạng danh đất nước Việt Nam.

Nghe nói trong hội đàm, Trung Quốc đã nêu lên: trước đây nhà Thanh yếu, Pháp mạnh nên mới có Hiệp định như vậy; tại sao đoàn ta không có ai biết nói: mạnh yếu trước kia chưa rõ, bây giờ Trung Quốc là nước lớn, Việt Nam là nước nhỏ, có phải vì thế mà Trung Quốc ép buộc Việt Nam phải nhân nhượng? Đã là anh em, là đồng chí “như môi với răng”, sao lại nỡ lấn đất chiếm đảo của Việt Nam? Lẽ ra: Nghĩa tình hữu nghị từng xây dựng Tôn trọng biên thùy nước mới an. Không phải tự nhiên ông Giang Trạch Dân gợi ý Đại hội Đảng ta nên tiếp tục để đồng chí Lê Khả Phiêu là Tổng Bí thư. Dân tộc ta có một nền văn hiến sáng ngời, trung dũng tuyệt vời. Đảng ta, dân tộc ta đã làm cuộc Cách mạng Tháng 8-1945 vĩ đại, sau đó đã đánh thắng 2 đế quốc hung bạo nhất của thời đại, mà lại chịu để cho Trung Quốc ép ký một hiệp định bất bình đẳng như vậy sao?

Tôi đề nghị ông Nguyễn Văn An với chức danh Chủ tịch Quốc hội thay mặt Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước – kiên quyết không thông qua Hiệp định biên giới Việt – Trung, cả trên đất liền và trên biển, đảm bảo quyền lợi cho Tổ quốc và danh dự cho dân tộc. Các ông biết rõ hơn ai hết: chỉ có một Hiệp định thương mại Việt – Mỹ ký đã hơn một năm nay, Hạ viện Mỹ đã thông qua, Thượng viện Mỹ cũng đã thông qua, thế mà hai viện còn phải ngồi chờ Tổng thống duyệt Hiệp định mới có hiệu lực. Hiệp định biên giới Việt – Trung còn quan trọng hơn nhiều, sao không đưa ra Quốc hội bàn mà đã vội ký kết? Bây giờ tuy có muộn nhưng Quốc hội nghe điều trần rồi kiên quyết không thông qua và báo cho Trung Quốc biết, thì sự không thông qua ấy vẫn có giá trị. Trong khi chờ đợi hai bên gặp lại, yêu cầu Trung Quốc cứ coi Hiệp định Pháp – Thanh còn nguyên giá trị. Đất này công sức của cha ông Khai phá ngàn năm giống Lạc Hồng Xương máu bao đời mới có được. Xin đừng để thẹn với non sông.

Nhân đây, tôi cũng đề nghị với Quốc hội và Chính phủ: từ nay về sau tất cả các Hiệp định quan trọng có liên quan đến lợi ích Tổ quốc đều phải theo nguyên tắc: được Quốc hội bàn và thông qua mới có giá trị. Ví dụ: Hiệp định chiến tranh và hòa bình, Hiệp định biên giới và trên biển đa phương và song phương, Hiệp định kinh tế quan trọng giữa hai Chính phủ v.v…

Tôi tin tưởng Quốc hội Chính phủ sẽ làm được việc này. Nhân dân Việt Nam sẵn sàng đoàn kết xung quanh Quốc hội, Chính phủ và Đảng để đòi Trung Quốc phải công nhận Hiệp định Pháp – Thanh đồng thời trả lại cho Việt Nam các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Xin gửi lời chào kính trọng.

Đỗ Việt Sơn, 78 tuổi đời, 54 tuổi đảng.
Hội viên CLB Bạch Đằng.
D-C: 26/14-125 Tô Hiệu Hải Phòng D-T: 031.739039”
Thứ tư, theo Phan Văn Khải kể lại việc đàm phán với Trung cộng: “Thác Bản Giốc mình không thể nào lấy hết… Bãi Tục Lãm họ có ý đồ lấn thật. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu và Cố vấn Đỗ Mười cũng phải đấu với Trung Quốc trên tình hữu hảo mới được như vậy. Tôi, ông Vũ Khoan và ông Lê Khả Phiêu đã đấu tranh rất căng thẳng nhưng đôi bên cũng phải có nhân nhượng, chẳng thà mình có một phân định sau này còn có cơ sở để đấu tranh”. Qua đây cho thấy chính Khải và Phiêu đã xác nhận hành động bán nước của mình. Tại sao lãnh thổ của Việt Nam lại phải nhân nhượng? Và việc để mất thác Bản Giốc và bãi Tục Lãm mà Khải kể chính là hành động bán nước không thể chối cãi.
Thứ năm, ngày 16-5-1984, sau mười tám ngày dùng một lực lượng lớn tấn công, Trung cộng đã chiếm và chốt giữ hai mươi chín điểm dọc biên giới Việt Nam, trong đó có điểm cao 1509. Hàng ngàn người lính Việt Nam đã hy sinh trong các đợt phản công lấy lại hai mươi cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên bị Trung cộng chiếm đóng từ năm 1984. Nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh Biên giới, đa số hy sinh trong giai đoạn 1984 – 1985, có người hy sinh năm 1988 khi tái chiếm điểm cao 1509. Giai đoạn 1984 – 1985, theo ông Nguyễn Thanh Loan, người trông coi nghĩa trang: “Cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau”. Theo Đại tá Phó chỉ huy trưởng Biên phòng Hà Giang Hoàng Đình Xuất: “Từ khi chiếm được điểm cao 1509, Trung Quốc cho xây dựng trên đỉnh một pháo đài quân sự. Ở phía bên kia, Trung Quốc xây được đường xe hơi lên tận đỉnh trong khi bên mình dốc, hiểm trở. Theo nguyên tắc mà hai bên thống nhất, đường biên giới đi qua đỉnh, cắt đôi pháo đài mà Trung Quốc xây dựng trên cao điểm này, nhưng khi hoạch định biên giới, phía Trung Quốc cho rằng, đây là một khu vực có ý nghĩa thiêng liêng nên họ xin được giữ lại toàn bộ pháo đài để làm du lịch. Đau xót là các nhà lãnh đạo của chúng ta đã đồng ý. Phần Việt Nam nhượng Trung Quốc ở đây tuy chỉ có 0, 77 hecta nhưng, 1509 là một vị trí chiến lược. Từ trên pháo đài ấy có thể nhìn thấy từng chiếc ô tô ở thị xã Hà Giang”.
Tuy không bình luận trực tiếp trường hợp điểm cao 1509, nhưng Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm giải thích: “Tôi nghĩ, các anh ấy cũng biết (ý ám chỉ Đỗ Mười, Khải và Phiêu), nhượng một tấc đất là có tội, nhưng với một nước lớn như Trung Quốc thì tranh chấp phải được giải quyết để có được một biên giới hòa bình. Trước đó không ngày nào là không có khiêu khích”. Qua đây cho thấy rõ ràng Cầm thừa nhận Khải, Phiêu… đã nhượng đất cho Trung cộng.
III. Bàn tay nhuốm máu:
Từ năm 1997, Phan Văn Khải nắm chức thủ tướng cộng sản thì ông ta chưa làm được gì cho quê hương chúng ta. Việt Nam vẫn chưa vẫn chưa có sinh hoạt chính trị tự do, vẫn chưa có tự do tôn giáo, vẫn chưa có tự do báo chí, và vẫn còn giữ chính sách hộ khẩu… Ngược lại quá khứ chúng ta sẽ thấy bàn tay của Khải nhuốm máu đồng bào từ khá lâu.
Thứ nhất, bạn đọc chú ý đến tiểu sử của Phan Văn Khải. Phan Văn Khải sinh ngày 25 tháng 12 năm 1933 tại Quận Củ Chi, ngoại ô Sài Gòn. Mới 14 tuổi Khải đã tham gia “Cách Mạng”, 22 tuổi thì gia nhập Phong Trào Cải Cách Ruộng Đất. Đôi bàn tay của Khải đã nhuốm máu của rất nhiều đồng bào vô tội trong cuộc đấu tố dã man nhất lịch sử Việt Nam. Mời bạn đọc coi lại “Những sự thật không thể chối bỏ – Phần 56 để thấy những con số kinh hoàng trong đó có Phan Văn Khải gây ra. Chính vì thánh tích ác ôn nhuốm máu đồng bào trong CCRĐ mà Khải được đi học Liên Xô. Đánh giá việc này một tài liệu của Nga khi Khải lên làm thủ tướng có viết “Trong cải cách ruộng đất và chấn chỉnh hàng ngũ sau khi cách mạng vô sản ở Việt Nam thành công thì ông (ám chỉ Khải) có công rất lớn mặc dù sau này cuộc cải cách bị đánh giá là đẫm máu”. (7)
Thứ hai, trong suốt thời kỳ nắm chức thủ tướng thì Phan Văn Khải cũng cho bắt giam các nhà đấu tranh trong nước như BS Phạm Hồng Sơn, LS Lê Chí Quang, Nguyễn Khắc Toàn, mục sư Nguyễn Hồng Quang, BS Nguyễn Đan Quế, GS Trần Khuê, Hòa thượng Thích Huyền Quang, Hòa thượng Thích Quảng Độ v.v… Như vậy việc Khải tàn ác và chống lại dân chủ là không thể chối cãi trong vai trò đứng đầu chính phủ của mình. Như vậy Khải, vi phạm vào Điều 19 của Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền mà cộng sản đã ký với Liên Hiệp Quốc.
Phan Văn Khải và đồng chí X
Thứ ba, bạn của tác giả Lê Nhân là anh Phan Thiệu Cơ, cháu đích tôn của cụ Phan Bội Châu kể rằng ông nội của anh là cụ Phan bị quy lên thành phần địa chủ, quan lại phong kiến nên nhà cửa của Phan Bội Châu ở Nam Đàn Nghệ An và sách vở di cảo của cụ bị đảng cộng sản phần thì tịch thu, phần thì đốt sạch. Cụ Phan một anh hùng dân tộc vĩ đại nhất thế kỷ XX đã bị Hồ Chí Minh bán đứng cho Pháp (Xem “Những sự thật không thể chối bỏ – Phần 8”). Khi cụ chết rồi vẫn bị đội cải cách ruộng đất sai làm hình nộm giống y người thật đem ra giữa chợ đấu tố, lấy cứt trát vào mặt hình nộm cụ Phan. Và tác giả Lê Nhân là người bạn học của Khải đã viết bức thư chửi tội ác và sự ngu dốt của Khải với đại ý: “Thủ tướng Phan Văn Khải cũng không phân biệt được đâu là chuyện chăn gối, đâu là chuyện quốc gia chính phủ trị dân, nên sỗ sàng đưa vấn đề con cu ra ví với dân.”
Nguyên văn của nó như sau: (8)
“Kính gửi Ông Phan Văn Khải, Thủ tướng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Thưa anh Khải

Lê Nhân viết lá thư ngỏ này gửi anh vì tôi chẳng sợ ai cười chê bảo cái thằng Lê Nhân cóc nhái, thứ cua cáy, rơm rạ xó bếp ở đâu chui ra, thấy người sang bắt quàng làm họ, thật chẳng còn ra làm sao! Một người dân ngu khu đen như Nhân tôi, đôi khi ngồi vắt tay lên trán, nhớ lời Bác Hồ dạy:- “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, mà bật cười khanh khách vì sự hài hước trong chế độ ta không biết đến đâu là giới hạn, tự nhiên thấy mình oai ngất trời:- hóa ra mình là ông chủ của chúng nó, ông chủ của cái đám đảng cộng sản, nhà nước và chính phủ cộng sản đang cầm quyền kia, mà sao mình cứ nơm nớp sợ đám đầy tớ bắt nạt, thậm chí sợ bọn đầy tớ đến bắt ông chủ nhốt vào tù cho mục xương luôn? Còn các anh, từ anh tổng bí thư, anh chủ tịch nước, anh thủ tướng chế độ hiện hành, thảy đều là nô bộc, là ô-sin cho Lê Nhân, ô sin của 80 triệu đồng bào ngoài đảng hihihi!

Với tinh thần ấy của Bác Hồ, Lê Nhân viết thư cho anh Khải với 3 tư cách:

- ông công dân viết thư cho nguyên thủ quốc gia
- ông chủ viết thư sai đầy tớ
- ông bạn cũ viết thư cho ông bạn cũ ngày xưa…

Thưa anh Phan Văn Khải, tôi cũng chẳng dám trách rằng anh đã quên cái thằng Lê Nhân cùng tuổi với anh, cùng học một lớp chính trị Mác-xít do thầy chúng ta là giáo sư tiến sĩ viện trưởng Viện Mác-Lênin Hoàng Minh Chính từng dạy dỗ chúng ta hết lòng, để rồi sau đó, tôi với nghề gõ đầu trẻ môn triết học Mác-xít, lại dạy các anh Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Phú Trọng (sẽ có thư ngỏ gửi hai anh học trò hàm thượng thư đương triều đang ngấp nghé thế tử này sau).

Người (tức GS.TS triết học Hoàng Minh Chính) mà cách đây ngót 50 năm trước, đã cứu anh Khải thoát khỏi vụ khai trừ đảng, nên anh thề sẽ suốt đời mang ơn ông Chính, người mà anh cho là có công ngang với ơn sinh thành của cha mẹ, thề trong đời sẽ tìm cơ hội để báo ân, đền đáp công ơn trời bể của GS.TS Hoàng Minh Chính đối với anh.

Bây giờ, là một nguyên thủ quốc gia, chắc anh Khải bận vô cùng, hơi đâu nhớ tới ân nghĩa cũ; anh quên là quên cả nước chứ cứ gì quên cái thằng Lê Nhân, quên cái ông thầy cũ Hoàng Minh Chính hiện đang bị lính của anh bốc cứt ném vào mặt hôm 1-12-2005 ngay giữa lòng thủ đô Hà Nội huy hoàng của đế chế cộng sản?

Tôi xin nhắc để anh nhớ, tôi là Lê Nhân, biệt hiệu trong lớp anh em gọi là ” Nhân ngôn luận” (có ý chửi tôi ăn nói nham hiểm, lời nói ác như vị thuốc độc nhân ngôn giết người). Còn anh Phan Văn Khải có biệt danh cả lớp đặt cho là “Khải đờ mờ” (vì anh có tật khi nói hay chêm tiếng đệm hai chữ viết tắt của tên ông Đỗ Mười: Đ.M. mà những anh em người gốc nông dân Nam Bộ tập kết thường mắc phải). Năm ấy, anh Khải được nhà trường cấp bằng khen vì thành tích rất lớn là bỏ được hai tiếng “đù má ” chêm vào trước bất cứ câu gì khi anh nói; nên hôm anh Sáu Thọ (Lê Đức Thọ) đến dự lễ khai mạc khóa chính trị Mác-Lê cao cấp do thầy Hoàng Minh Chính giảng, anh được vinh dự đảng ủy nhà trường phân công lên hô chào cờ. Có lẽ vì anh Phan Văn Khải xúc động quá, khi lần đầu được gặp anh Sáu Thọ, thần hồn nát thần tính, giữa không khí cực thịnh, cực nghiêm trang của tôn giáo Mác-Lê, trên có đảng kỳ, kèm chân dung 5 lãnh tụ vĩ đại: Mác, Lê Nin, Stalin ở giữa, hai bên là Bác Hồ và Bác Mao, dưới nữa là cờ đỏ sao vàng, dưới nữa là anh Sáu Thọ. Thế mà giữa ba quân ngất trời thiêng liêng ấy, anh Phan Văn Khải đứng cực nghiêm, hô chào cờ bằng giọng Củ Chi Nam Bộ, hệt như Trương Phi hét trước cầu Trường Bản; anh Khải hô (hét) cực vang, cực to, cực nhanh, rằng:

“Đù má nghiêm! Chào cờ, chào!”

Cả hàng quân ngót trăm người tí nữa ngã đùng ra đất, vội đưa tay bụm miệng, vừa bịt mồm vừa hát quốc ca, nên âm vang hùng tráng của bài “Tiến quân ca” nghe như tiếng ếch nhái ho, như thể chó vừa ăn vụng bột vừa hát (sủa), khiến có vài tên ngã lăn đùng ra như trúng gió vì sặc cười, phải khiêng đi cấp cứu ngay. Tuy vậy, buổi chào cờ vẫn hoàn tất một cách ngượng chín mặt, ai cũng ước đất nứt ra lỗ nẻ để chui tọt vào cho đỡ xấu hổ. Sau buổi chào cờ có một không hai ấy, anh Sáu Thọ vẫn bình tĩnh huấn thị chừng 5 phút, thay vì theo thông lệ, anh phải dạy dỗ cả tiếng đồng hồ; vị lãnh tụ này mặt vẫn tỉnh bơ, làm như không hề có chuyện cái thằng phá thối Phan Văn Khải vừa hô chào cờ bằng câu chửi thề đù má kinh thiên động địa; đây có lẽ là lần bất ngờ và bực mình nhất trong cuộc đời làm cách mạng vô cùng vẻ vang của anh Sáu.

Sau này, anh Phan Văn Khải tâm sự với Lê Nhân rằng: “Hô chào cờ mà vẫn chêm tiếng đù má vào theo thói quen, chắc tao sẽ phải tử hình mất!”. Nhưng GS.TS Hoàng Minh Chính đã chạy lên chạy xuống cứu anh Phan Văn Khải thoát khỏi tội đi tù vì xúc phạm đảng thì ít mà xúc phạm anh Sáu Thọ là linh hồn của đảng thì nhiều. Thầy Chính còn cứu anh thoát khỏi cái án khai trừ đảng. Nếu không có thầy Hoàng Minh Chính xả thân cứu giúp, liệu đến nay anh Khải có lên được đỉnh của quyền lực là chức Thủ tướng chính phủ hay không?

Thế mà, lạ lùng thay, thủ tướng Phan Văn Khải đã lấy oán báo ân, đã cùng với Bộ Chánh trị đảng sai lâu la, lưu manh đến đánh đập cụ Chính, mang cà chua, trứng thối cùng cứt trộn mắm tôm ném vào người cụ già 86 tuổi Hoàng Minh Chính và vợ con, nhà cửa của cụ Chính trưa ngày 1-12-2005, xúc phạm vô cùng tận người thầy ngày xưa mà anh cho là đã có công lớn cứu anh, ngang công ơn sinh thành ba má, thì hỏi còn trời đất gì nữa hay không?

Chuyện tày trời làm ơn cứu Phan Văn Khải ngày xưa thoát khỏi vụ án “đù má” chào cờ Lê Nhân vừa thuật lại trên, dù ai có cậy miệng thầy Hoàng Minh Chính, thầy cũng không nói ra đâu; vì nói ra, khoe ra lối ứng xử trả ơn thầy học cũ bằng cách sai thuộc hạ ném cứt vào mặt thầy mình kiểu này của anh Phan Văn Khải, thầy Chính sẽ cho là đại sỉ nhục; rằng anh dạy dỗ thế đếch nào mà học trò của anh khi làm đến chức Thủ tướng, nó lại thành ra cái thằng bất nhơn, đểu giả, tiểu nhân, đại phản nghịch như thế? Giờ đây, nhận mình có một anh học trò như anh Phan Văn Khải, thầy Hoàng Minh Chính thà chết còn hơn.

Thoắt mấy chục năm sau, Lê Nhân thấy anh Khải xuất hiện trên tivi: khởi đầu là phó chủ tịch, rồi chủ tịch TP.HCM, leo dần lên chức vụ phó thủ tướng, rồi thủ tướng chính phủ nhà nước cộng sản. Mỗi lần nhìn thấy anh trên màn hình, tôi có ý hơi lo lo: – lỡ mà khi anh đang huấn thị đồng bào, sơ ý, nổi hứng dân Củ Chi ăn tục nói phét lên, theo vô thức tuôn ào ào ra miệng cái tiếng đệm Đ.M., cứ như cái thuở chào cờ ngày xưa mà vô tư đù má đồng bào, đù má các đồng chí, đù má quốc dân, thì sẽ gây họa lớn, đồng bào chắc sẽ vỡ tim mà chết cỡ vài ba chục triệu vì cú sốc văn hóa quá sức bất ngờ này chăng?

Có lẽ, chính vì lường trước khả năng tình cảm vô bờ của ông thủ tướng chánh phủ đương nhiệm, một người nông dân thuần phác Nam Bộ quen chăn trâu, câu cá, đơm lờ, đánh giậm hơn là việc làm vương, làm tướng, mà khi anh qua Mỹ gặp tổng thống Mỹ W.Bush vừa qua, Bộ Chánh trị đảng sợ anh nổi hứng chào cờ, lại chả tuôn ra từ vô thức, tuôn từ trong gan ruột cái tiếng đệm bình dân thân thương quê kiểng kia; rằng: – đù má ngài W.Bush, rằng tôi thay mặt đù má đảng nhà nước chính phủ Việt Nam, đù má gởi lời thăm hỏi tới ngài và gia quyến, có mà Mỹ nó điên lên, chơi bom hạt nhân xuống lăng Bác vỡ cha cái “mặt trời chân lý”, tiêu mẹ nó cái “mặt trời trong lăng rất đỏ” thì lấy gì làm vật linh, làm tô-tem mà lễ bái, lừa đảo nhân dân? Cho nên, Bộ chánh trị đã soạn sẵn cho anh bài diễn văn đáp từ tổng thống W.Bush, gồm chỉ mấy từ đơn giản xã giao, chào hỏi, chúc mừng, cảm kích mà một trẻ chăn trâu cũng biết nói vo, không cần phải soạn trước như đảng sợ anh văng đù má bất tử mà soạn sẵn lời đáp từ ngài W.Bush cho anh.
Cả thế giới qua truyền hình, đã thấy ngài W.Bush oai phong, tươi tắn, đường bệ, sang trọng, lịch lãm, quý phái thơm như mít trước một ngài Phan Văn Khải dúm dó, mặt đâm lê, co ro, hèn kém, quê mùa, mặc cảm tự ti, ngồi tội nghiệp hai tay run quá nhét đại vào háng. Đến độ ngài W.Bush phải thò hết cỡ cánh tay phải sang tận đùi ngài Khải theo kiểu thò tay vào hang sâu bắt rắn, mới lôi được bàn tay của thủ tướng Việt Nam như con chim trốn tuyết ra mà bắt cái rụp, thương thay!

Cả thế giới đã nhìn thấy ngài Khải thò tay vào túi áo, lấy ra miếng giấy bé bằng cái lá đa, hai tay bê miếng giấy như bê hòn đá nặng, đưa sát lên mắt ấp a ấp úng đọc lời đáp từ tổng thống Mỹ, trông thê thảm và âm lịch không sao chịu được. Suốt chuyến đi thăm Mỹ, qua ống kính truyền hình, nhiếp ảnh, thủ tướng Việt Nam hiện lên chân dung toàn diện của đảng cộng sản là một kẻ nhà quê ra tỉnh, một gã ăn mày đi xin tiền, lúc thì văng: – “đù má đuổi nó ra ngay!” khi có hai vị ký giả một nam một nữ của người Việt di tản lọt vào nơi họp báo chất vấn và tố cáo tội ác cộng sản, lúc thì với bàn tay vuốt lên mu bàn chân mang giày của bức tượng ngài Havard, như có ý xin được đánh giày cho quý ngài từng lập ra trường đại học danh giá nhất thế giới tọa lạc ở Boston… khiến nhân dân cả nước ngượng chết đi được.

Chỉ nhìn vào chuyến đi Mỹ của anh, người ta có thể nhận ra chân dung văn hóa của đảng cộng sản Việt Nam là thứ văn hóa diệt trí thức, văn hóa bần cố nông con cái tố cha, vợ tố chồng, học trò trả ơn thầy bắt cách bốc cứt ném vào mặt thầy, thứ văn hóa lừa đảo, lấy việc lừa dân từ A đến Z làm sự nghiệp, làm cần câu cơm…

Anh Phan Văn Khải ơi, giờ đây, cả nước cứ nhìn vào thằng con trai của anh, thằng Hoàn Ty từng bắn chết con trai ông Phạm Thế Duyệt khi hai đứa giành gái khi cùng đánh bạc, mà nó vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, không ai dám động vào cái lông chân của nó, thì thiên hạ có thể biết người cha làm thủ tướng của hắn là quân tử hay tiểu nhân, bản chất là loại người nào. Khổng Tử xưa dạy người quân tử phải:- “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, lấy nhân, nghĩa, lễ, trí tín làm đầu. Phật dạy dân ta từ bi hỷ xả cả mấy ngàn năm. Đạo Công giáo dạy kính Chúa yêu người. Thế mà Bác Hồ của anh và các anh sau khi dùng bạo lực cướp được đất nước, bèn coi tam giáo đồng nguyên Phật Khổng Lão (cả Chúa sau này) là phản động, nên sai đập nát đình chùa miếu mạo, đập nát các nhà thờ Thiên Chúa giáo thời cải cách ruộng đất.

Bạn của Lê Nhân là anh Phan Thiệu Cơ, cháu đích tôn của cụ Phan Bội Châu kể rằng ông nội của anh là cụ Phan bị quy lên thành phần địa chủ, quan lại phong kiến nên nhà cửa của Phan Bội Châu ở Nam Đàn Nghệ An và sách vở di cảo của cụ bị đảng cộng sản phần thì tịch thu, phần thì đốt sạch. Cụ Phan một anh hùng dân tộc vĩ đại nhất thế kỷ XX chết rồi vẫn bị đội cải cách ruộng đất sai làm hình nộm giống y người thật đem ra giữa chợ đấu tố, lấy cứt trát vào mặt hình nộm cụ Phan. Chính vì chuyện này, giúp Lê Nhân tin vào việc ngày xưa ở Trung Quốc (thời Quốc Dân đảng), Hồ Chí Minh đã bán đứng Phan Bội Châu cho mật thám Pháp để lấy tiền, trong khi ngoài mặt, Hồ luôn coi cụ Phan như cha, làm ai cũng khen là ông Hồ hiếu đễ. Chao ôi, cái văn hóa lấy cứt ném vào, trát vào mặt cha chú, đã có từ độ Bác Hồ, chứ đâu phải chuyện anh Điềm và anh Khải mới sáng tạo ra lối hại cụ Hoàng Minh Chính bằng cách lấy cứt trộn mắm tôm ném vào mặt cụ như trưa ngày 1-12-2005 vừa qua đảng cộng sản đã làm?

Giết oan hàng vạn người trong cải cách ruộng đất, đẩy hàng triệu người vào chỗ chết suốt 30 năm nồi da xáo thịt, làm hơn mười lăm triệu người Việt Nam chết oan, ngoài Hồ Chí Minh vĩ đại ra, ai, những ai là người phải chịu trách nhiệm đây?………….

Viết đến đây, Lê Nhân chợt thấy rùng mình mà ghê thay luật nhân quả ở đời, làm ác thì sẽ bị quả báo, lưới trời lồng lộng, từ con tép đến Bác Hồ cũng không thể ăn gian, không thể thoát khỏi thiên la địa võng của luật vay trả đã từng ứng nghiệm vào cái xác không hồn của Bác Hồ đang bị đứa con đại bất hiếu là ĐCSVN hành hạ bằng trò lừa hiếu hỉ làm ngược hoàn toàn di chúc Bác! Xin các ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười và giàn thế tử Phan Diễn, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Phú Trọng… hãy nhìn gương nhỡn tiền của Hồ Chí Minh đang treo trước mắt các vị mà bơn bớt gian ác, mà nghĩ lại xem có nên đi cùng đường với dân tộc, với nhân dân, với trào lưu đa nguyên đa đảng là nhu cầu thời đại, kẻo các vị chết rồi xác lại có thể bị treo ngoài cửa thành cho dân đến xem, cho quạ diều đến mổ thì động mồ động mả di hại cả ngàn năn sau con cháu đấy!………

Xin quý vị xá cho cách nói tục tĩu của anh Khải, vì anh ít học (anh Khải và Lê Nhân đều ít học, lớp chống Pháp ta và lớp các anh đàn em như Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Nguyễn Văn An… đều là dân học bổ túc, học chuyên tu tại chức… nên dân gian mới bảo:- “dốt như chuyên tu, ngu như tại chức” toàn là dân học giả bằng thật!). Anh Khải chắc không biết rằng cái câu:- “Trên bảo dưới không nghe!” dùng để chỉ việc phòng the, chuyện bất lực của đàn ông, rằng rất muốn làm tình với con mẹ đĩ mà con cu bảo mãi vẫn cứ không nghe, vẫn chỉ sáu giờ, quyết không bao giờ lên được 9 giờ chứ đừng nói gì chuyện nhất dương chỉ 12 giờ. Vả lại, nhiều khi thủ tướng Phan Văn Khải cũng không phân biệt được đâu là chuyện chăn gối, đâu là chuyện quốc gia chính phủ trị dân, nên sỗ sàng đưa vấn đề con cu ra ví với dân, ví với thuộc cấp thì quả tình cũng không lấy gì làm lạ!

Thưa anh Phan Văn Khải, người xưa đã dạy: – “Thượng bất chính, hạ tắc loạn!”; kẻ cầm quyền trong chế độ cộng sản theo Bác Hồ luôn làm gương xấu, làm toàn việc gian ác, lừa đảo thì làm sao các vị BẢO mà DÂN nó thèm nghe! Chẳng qua, do quý vị ĐCSVN tàn ác quá, mấy chục năm làm dân nhược, quên mất bản tính phản ứng của con giun:- Xéo mãi cũng quằn!. Dân sợ quá, sống như con cá dưới ao tù thiếu dưỡng khí, lúc nào cũng trồi lên mặt nước cho công an hộ khẩu dễ kiểm kê mà ngáp ngáp cầm hơi!

Hà Nội 5-12-2005

Kính thư, 

Le Nhân”.
Qua bức thư chúng ta thấy điều gì? Đó là bức thư tố cáo bàn tay vấy máu của Khải với nhân dân trong CCRĐ. Ngoài ra là nêu lên vụ án và tội ác con trai Khải. Và đặc biệt nói đến việc Khải để đàn em đàn áp ông Hoàng Minh Chính- một người đấu tranh dân chủ ôn Hòa. Qua đây có thể thấy được bàn tay của Khải cũng không kém phần bạo tàn với nhân dân.
IV. Bất tài: 
Phan Văn Khải trong kỳ họp Trung Ương Đảng cộng sản Việt Nam từ 6-13/1/04 đã thú nhận trước cử tọa: “… VN cần 20 năm nữa mới theo theo kịp Thái Lan…”. Tuy nói như vậy nhưng cái mà Khải làm trong suốt thời kỳ của mình là gì? Đó chính là tham nhũng tràn lan không kém gì thời kỳ của đồng chí X hiện nay. Để chứng minh điều này chúng ta hãy để ý những tài liệu sau đây.
Thứ nhất, ngày 25-7-2001, thủ tướng Phan Văn Khải có quyết định phê duyệt “Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005″ (đề án 112). Tính đến ngày 30-12-2005, vốn đầu tư từ ngân sách trung ương cấp cho đề án là 685 tỉ đồng, trong đó Ban Đề án 112 đã chi hơn 277.97 tỉ đồng (hơn 18 triệu Mỹ kim, theo tỉ giá hối đoái vào thời gian đó.)
Theo báo Người Lao Động ngày 20/1/2009, sau 16 tháng điều tra vụ tham nhũng trong ban điều hành đề án “tin học hóa quản lý hành chính nhà nước”, cơ quan điều tra Bộ Công an cộng sản đã đề nghị truy tố 20 bị can, trong đó có 1 viên chức hàng thứ trưởng tên là Vũ Đình Thuần, nguyên phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ CSVN (thời kỳ Phan Văn Khải làm thủ tướng), trưởng ban điều hành đề án 112 (tin học hóa quản lý hành chính nhà nước 2001-2005), và Lương Cao Sơn, thư ký ban điều hành Đề án 112, cùng bị truy tố về 2 tội danh “tham ô tài sản” và “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.
Vũ Đình Thuần
Theo điều tra của công an cộng sản, Lương Cao Sơn với tư cách là thư ký “đề án 112″ đã “tư vấn” cho các doanh nghiệp đường đi nước bước và trình Vũ Đình Thuần ký duyệt các quyết định để kiếm tiền hoa hồng. Cụ thể, Lương Cao Sơn đã trực tiếp thiết kế tới 7 đường dây cho các vụ làm ăn này. Vụ đầu tiên là mua sắm nhu liệu bản quyền với Công ty Phần mềm ISA do Nguyễn Thúy Hà làm tổng giám đốc. Bỏ qua hết các thủ tục mời thầu theo quy định, ngày 11-10-2004, Sơn đề nghị Vũ Đình Thuần quyết định công nhận Công ty ISA trúng thầu với giá trị nhu liệu bản quyền của hãng Microsoft và IBM trị giá hơn 9.1 tỉ đồng (hơn 600, 000 Mỹ kim). Trong vụ này, Hà đã đưa cho Sơn 360 triệu đồng để chia cho Vũ Đình Thuần 200 triệu đồng, bà Phạm Thị Ngọc, kế toán trưởng Ban Đề án 112, 80 triệu đồng, còn lại là phần Sơn. Kết quả điều tra thật bất ngờ, nguồn gốc nhu liệu ISA giao cho ban “đề án 112 “lại chính là bà Hà mua của chồng mình là Nguyễn Mạnh Hùng, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn hệ thống thông tin, với giá chỉ có 5.8 tỉ đồng.
Báo Người Lao Động ghi nhận rằng cơ quan điều tra đã khám phá nhiều “mánh” làm ăn của Lương Cao Sơn với một ban giám đốc nhà xuất bản Tư pháp do Nguyễn Đức Giao làm giám đốc. Thông qua sự môi giới của Hoàng Đăng Bảo, thư ký của Vũ Đình Thuần, trong thời gian từ tháng 3-2004 đến tháng 6-2006, Nguyễn Đức Giao đã ký với Vũ Đình Thuần 28 hợp đồng in ấn giáo trình, tài liệu với giá trị hơn 3, 8 tỉ đồng. Do nhà xuất bản Tư pháp không có chức năng in, không có nhà in, để có giáo trình, tài liệu giao cho bên A, nên Nguyễn Đức Giao ký hợp đồng giao cho 7 công ty in khác để rút ra 667 triệu đồng tiền chênh lệch. Số tiền này Giao đã chuyển lại cho Hoàng Đăng Bảo 409 triệu đồng.
Trong số can phạm có Lương Cao Phong, giám đốc Trung tâm Thẩm định và Tư vấn thông tin thuộc Công ty Tin học xây dựng và là em ruột Lương Cao Sơn, đã môi giới cho Phạm Văn Hạc, giám đốc Công ty Tin học xây dựng, thực hiện tổng cộng 15 hợp đồng kinh tế và một giao dịch trực tiếp, tổng giá trị hơn 1.68 tỉ đồng. Trong đó có 7 hợp đồng đào tạo tin học trị giá 817 triệu đồng và 8 hợp đồng dịch vụ trị giá hơn 864 triệu đồng. Cơ quan điều tra làm rõ, bằng uy của anh trai, Lương Cao Phong nhận của Công ty Tin học xây dựng tới hơn 316 triệu đồng, trong đó tiền môi giới là 113 triệu đồng.
Cũng theo báo NLĐ, qua nhiều thủ đoạn khác nhau, Nguyễn Thị Phương Hoa đã rút được hơn 1 tỉ đồng. Sau khi chi lại cho Ban Đề án 112 hơn 717 triệu đồng, còn hơn 277, 8 triệu đồng, ngoài việc chia cho các phòng ban, bị can Trần Tấn Ngô và Nguyễn Thị Minh Thiệu, tổng giám đốc và phó tổng giám đốc công ty được chia 17 triệu đồng/người…
Theo báo chí cộng sản thì còn nhiều bị can cùng Vũ Đình Thuần trong vụ này đó là: Cùng bị khởi tố điều tra trong vụ việc liên quan đến nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Vũ Đình Thuần còn có 7 bị can khác bao gồm: ông Lương Cao Sơn, cán bộ Văn phòng Chính phủ, Thư ký Ban chỉ đạo điều hành Đề án 112; ông Hoàng Đăng Bảo, chuyên viên Vụ Hành chính của Văn phòng Chính phủ; ông Nguyễn Đức Giao, Giám đốc NXB Tư pháp (Bộ Tư pháp); ông Bùi Duy Hồng, Phó phòng Kế hoạch NXB Tư pháp; bà Nguyễn Thị Phương Hoa, Phó Tổng giám đốc; bà Nguyễn Thị Minh Thiệu, Phó Tổng giám đốc và bà Ngô Thị Nhâm, Phó phòng Kinh doanh Tổng công ty Phát hành sách.” (8)
Vai trò của Phan Văn Khải ở đây thế nào? Khải là Thủ tướng và trong thời gian Khải còn đương nhiệm đã là người ký duyệt dự án này. Đồng thời Khải đã để yên cho dự án cấp quốc gia này có thể ung dung tham nhũng ngay trước mũi Khải là điều không tưởng. Có chăng Khải vì tham nhũng và bất tài nên để cho đàn em mặc sức tham nhũng.
Bình luận về vấn đề này RFA có bài viết: “Vụ án Vũ Đình Thuần ảnh hưởng đến T.T. Phan Văn Khải?”. Bài viết là cuộc phỏng vấn L.s – T.s Cù Huy Hà Vũ có đoạn như sau: (9)
“Mặc Lâm: Đó là những người liên quan trực tiếp đến vụ án. Riêng những người không được nêu tên nhưng có liên quan gián tiếp như nguyên Thủ Tướng Phan Văn Khải là thủ trưởng của ông Thuần và cũng là người theo dõi dự án 112 thì vai trò của ông như thế nào, thưa Luật Sư?

TS Cù Huy Hà Vũ: Những người có trách nhiệm gián tiếp, chẳng hạn như nguyên Thủ Tướng Phan Văn Khải thì tôi cho rằng là ông Phan Văn Khải cũng phải chịu trách nhiệm.

Mặc Lâm: Thưa, Luật Sư vừa nói là ông Khải cũng phải chịu trách nhiệm, tuy nhiên thực tế thì từ xưa đến nay chưa có một lãnh đạo cao cấp nào chịu liên đới trách nhiệm về những việc làm sai trái của nhân viên thuộc cấp, như vậy thì lần này có sự đột phá mới mẻ và là một trường hợp cá biệt hay không?

TS Cù Huy Hà Vũ: Nhà nước Việt Nam từ lâu nay và ngay cả dưới thời ông Phan Văn Khải cũng kêu gọi và quy định là cơ quan nhà nước nào mà để xảy ra tham nhũng thì người đứng đầu phải chịu trách nhiệm. 

Vậy trong trường hợp này là vụ án tham nhũng xảy ra ngay tại Văn Phòng Chính Phủ, tức là dưới sự điều hành trực tiếp của ông Phan Văn Khải thì rõ ràng nguyên Thủ Tướng Phan Văn Khải phải chịu trách nhiệm về vụ án tham nhũng này. Không thể nói là không có trách nhiệm một chút gì! 

Nhưng cái chuyện tòa án Việt Nam cho tới bây giờ vẫn chưa có thông lệ là đối với thủ tướng hay là những nhân vật cao cấp cỡ Bộ Chính Trị có liên quan thì mời ra tòa với tư cách hoặc là nhân chứng, hoặc là có quyền lợi, hoặc là có nghĩa vụ liên quan, thì trong trường hợp này, theo tôi, Thủ Tướng Phan Văn Khải cần được tòa mời vớí tư cách hoặc là nhân chứng, hoặc là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bởi vì trong trường hợp này có liên quan tới trách nhiệm của Thủ Tướng Phan Văn Khải.”
Cũng liên quan đến vai trò của Phan Văn Khải, xin chú ý điểm này. Đầu tiên Khải ký quyết định cho Vũ Đình Thuần làm chủ nhiệm đề án 112 (9). Sau này trong bản kết luận điều tra sơ khởi ngày 10/9/2008 của công an cộng sản có đoạn tại mục 3/ khoản 4 như sau: “Cần xét đến trách nhiệm trong việc đề bạt cán bộ cũng như quản lý dự án 112 của nguyên thủ tướng Phan Văn Khải. Chuyển Viện KSNDTC xem xét trách nhiệm liên đới”. Nhưng cho đến khi bản kết luận điều tra ngày 20/1/2009 thì lại mất hẳn đoạn này.
Chỉ cần nói đến trách nhiệm của người đứng đầu chính phủ và việc mập mờ trong kết luận vụ án có thể thấy Phan Văn Khải có vai trò rất lớn trong vụ Vũ Đình Thuần tham nhũng. Việc quan chức cộng sản bao che cho nhau cũng là chuyện thường. Tuy nhiên qua đó có thể thấy được bộ mặt thật của Phan Văn Khải.
Sáu Khải đi thăm Lào Cai
Thứ hai, sau đây là bức thư của một cán bộ cộng sản kỳ cựu tố cáo sự bất tài và tham nhũng của thời kỳ Phan Văn Khải. Đó là minh chứng rõ nét cho một nhân vật vô dụng và có bàn tay nhúng chàm tham nhũng như Khải (10):
“KHỞI KIỆN ông Phan Văn Khải, đứng đầu Hành pháp hai nhiệm kỳ liên tục đến nay, 2006, ông phải nghỉ mà để lại một guồng máy cầm quyền vận hành bởi những “người công chức” thương dân thì ít mà hành dân thì nhiều.

Kính gởi: – Tòa án Lương Tri Tối cao.

Đồng kính gởi:

- Những ai quan tâm, xây dựng chế độ pháp quyền xã hội chủ nghĩa
- Các chiến sĩ trên Mặt trận Thông tin Đại chúng
- Tòa án Nhân dân Tối cao
- Viện kiểm sát Nhân dân tối cao
- Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa 11
- Bộ chính trị và Ban Bí thư Đảng CSVN khóa 10

Tôi tên Thiều Thị Tạo, SN 1950, CMND 020.162.003, cấp ngày 18/06/1997 tại Tp. HCM, đảng viên từ 1968, lúc 18 tuổi, là Đội Vũ trang Tuyên truyền F.100 Ban Binh vận Trung ương cục hoạt đông Khu Sài Gòn – Gia Định, sau GP 1975, công tác khoa học về tội ác chiến tranh rồi chuyên nghiên cứu di truyền học, rồi đa dạng sinh học, rồi cân bằng sinh thái, nghiên cứu viên 10/10, hưu trí từ tháng 8/2005, thường trú số 44, đường 11, Khu phố 4, phường An PHú, Quận 2, [số nhà cũ 513C, ấp An Bình, xã An Phú, huyện Thủ Đức] – Sài Gòn.

Liên lạc ĐT: 7444220 – Email: taomado@hcm.vnn.vn

Để góp phần phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích và quyền hợp pháp của công dân.

Căn cứ vào Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam.

Tôi khởi kiện ông Phạm Văn Khải, Thủ tướng nước CHXHCN Việt Nam nội dung:

Ông Phạm Văn Khải sắp nghỉ làm Thủ tướng, cho nên, buộc lòng tôi phải cấp tốc khởi kiện Thủ tướng Phan Văn Khải vì bộ máy cầm quyền của ông được vận hành bởi những “người công chức”, mà nếu, “vì Dân” thì khó làm việc được, thì bị vô hiệu hóa, khó bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân lao động, mà nhiều công chức vô cảm, vô tư (*), thiếu tầm, thu vén cá nhân thì lại dễ dàng kéo bè, kéo đảng, dễ dàng lên lương, lên chức, tham ô, hủ hóa, hại Dân, hại Nước.

Trong điều kiện “Tam quyền phân lập thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN”, bộ máy hành pháp của Thủ tướng là mạnh nhất vì nắm tiền, tiền do Dân làm ra, không phải tiền của Nhà Cầm quyền làm ra, tại sao Quý vị Cầm quyền tùy tiện xài tiền, tùy tiện mượn nợ trong nước, ngoài nước khỏi công khai cho Dân biết, Dân bàn, Dân kiểm tra? Ai trả nợ? Thủ tướng và gia đình có làm nghề nghiệp gì đóng góp cho kinh tế nước nhà không? cụ thể là làm được gì. Thủ tướng có kiểm kê tài sản nhà mình trước khi nhận nhiệm vụ và sắp tới, ông Phan Văn Khải hết làm thủ tướng, theo nguyên tắc dân chủ, có kiểm kê công khai trước toàn dân hay không? Tại Thủ tướng duy trì bọn công chứ tham ô từ khi đương chức đến khi về hưu, mỗi người được cấp 5 nhà, 7 đất? Xe lớn? Xe con? Cổ phần, tài sản công biến thành của tư nhân: Trải qua hai nhiệm kỳ làm Nguyên thủ Quốc gia, Thủ tướng Phan Văn Khải để lại gia tài khổng lồ cho xã hội Việt Nam, đó là hiện thực: Cướp ngày là quan. Có bao nhiêu phần trăm công chức của Thủ tướng là Quan cướp ngày? Và có bao nhiêu công chức đang lãnh lương Nhà nước mà tự do hủ hóa như cá độ, đá gà, đánh bạc, buôn lậu, hút chích, bồ nhí, điếm già, v.v… hưởng thụ gấp triệu triệu, tỷ tỷ tiền lương. Thủ tướng có biết đám Quan công chức đó xài tiền của Ai không? Nhà Cầm Quyền cần làm rõ công Ai nuôi Ai? Công chức phải ghi rõ chữ to và phát thanh liên tục ở nơi công sở cho Dân ngu cu đen phải giác ngộ Quyền lợi và Nghĩa vụ công dân. Đã thành thói quen cái gì dân làm được từ hột gạo, con cá đến bãi phân. Dân cứ phải đầu môi chót lưỡi câu thiều: “Nhờ ơn Đảng, nhờ ơn Chính phủ”. Nay đến thời tiền gia nhập WTO, Nhà cầm quyền còn phải chứng minh có ai rửa tiền cho ai không?. Một khi những khẩu hiệu mang tính hù doạ dân lành như: “Có dịch! Có vi-rút! Phải cấm nuôi con này, phải chuyễn nuôi con khác! Phải giết con này để cứu con kia! Phải chống dịch! Phải vắc-xin! Phải phun! Phải xịt! Phải khẩu trang! Phải v.v…” phát ra từ cấp cầm quyền, thì dân lành khốn đốn mất tiền, mất vốn, mất sinh kế, có khi mất cả mạng, còn giới tài phiệt kinh doanh vắc xin, thuốc men, thiết bị, con giống v.v… thì tha hồ hốt bạc. Vấn đề này tôi có đóng góp xây dựng Đại hội Đảng CSVN khóa 10 vì dư luận về ông Lê Thanh Hải, Chủ tịch Tp HCM là thiếu đức và thiếu cả tài, ngoài thiếu hiểu biết dịch, đại dịch, còn vướng vào Đất đai, lãnh vực phát sinh nhiều tham nhũng, còn cấu kết với bà Võ Thị Thắng, Tổng cục trưởng Du lịch VN, vay tiền nước ngoài, phá rừng ngập mặn Cần Giờ, mở rộng con đường Rừng Sác, từ 2 làn xe lên 6 làn xe, hình thành một xa lộ thênh thang, không biết phục vụ cho ai? giữa Khu Dự trữ Sinh quyển Cần Giờ, dân cư thưa thớt?! Khu Dự trữ Sinh quyển này được MAB và UNESCO công nhận lần đầu tiên ở Việt Nam từ năm 2000. Bất chấp dư luận chê trách Quản lý nhà nước ở Tp. HCM, ông chủ tịch Lê Thanh Hải được vào Bộ Chính trị. Thủ tướng Phan Văn Khải há chẳng có trách nhiệm gì trong việc đề bạt cán bộ cầm quyền cao cấp mà bị tố cáo, thưa kiện quá nhiều?

Cứ mỗi lần, có một vụ thưa kiện nát nước ở các cấp không xong, Thủ tướng lập Tổ Công tác Chính phủ để thanh tra, Tổ thanh tra quậy cặn cáo nổi lên, ai là người gạn đục khơi trong – không có – xử đập dập theo kiểu cứt trâu để lâu hóa bùn – Ai chịu? – Dân không bằng lòng thì Thủ tướng phải chịu trách nhiệm. Từ khi Đất đai (vấn đề cốt từ của cuộc Cách mạng Dân tộc Dân chủ) trở thành hàng hóa thì bộ máy cầm quyền của Thủ Tướng đã không làm gì được ngoài việc thao túng cho lớp cường hào ác bá mới áp bức, bóc lột nhân dân, đẩy nhân dân vào con đường cùng.

Không biết rồi sẽ xảy ra đổ máu và bạo loạn ngày nào!!?

Bởi Thủ tướng Phan Văn Khải sắp rời ghế Nguyên thủ Quốc gia mà không có trách nhiệm gì về lòng tin của Dân đối với Nhà cầm quyền do ĐCSVN lãnh đạo, đau đớn thay, đang bị lung lay tận gốc rễ, (mà Thủ tướng và bộ máy vẫn cứ điềm nhiên tọa thị, không chút xót xa cho bao máu xương, bao tuổi trẻ lớp lớp trải đường cho vị trí cầm quyền của Đảng], trên nguyên tắc: “công chức chỉ được làm những gì luật pháp cho phép còn dân thì được làm tất cả những gì luật pháp không cấm”, tôi phải khởi kiện ông Phan Văn Khải, Thủ tướng nước CHXH CNVN trước Tòa án Lương Tri Tối cao thông qua Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân ngày bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước từ Bến Nhà Rồng Quận 4, Sài Gòn.

Hôm nay, ngày 5 tháng 6 năm 2006, (ngày Tp làm lễ sự kiện bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước từ Bến Nhà Rồng) với tư cách công nhân của nước CHXH tôi xin gởi Đơn KHỞI KIỆN ông Phan Văn Khải, đứng đầu Hành pháp hai nhiệm kỳ liên tục đến nay, 2006, ông phải nghỉ mà để lại một guồng máy cầm quyền vận hành bởi những “ người công chức” thương dân thì ít mà hành dân thì nhiều. (Người dân cay đắng lắm thay!).

Rất mong được sự quan tâm giải quyết của quý vị nhận đơn. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Luật pháp về tính trung thực của lòng tôi về sự Khởi kiện và tôi sẵn sang cung cấp nhân chứng khi có yêu cầu.

Nguyên đơn

(Đã Ký)

Thiều Thị Tạo
513C (Số Mới 44 – đường 11)
Khu Phố 4 – Phường An Phú – Quận 2 – Sài Gòn
Tel: 84 – 08 – 7444220.
Thứ ba, nhắc đến sự bất tài của Phan Văn Khải còn phải nhắc vụ PMU 18. Đây là một trong số các vấn để nổi bật nhất trong thời kỳ Khải làm thủ tướng chính là vụ PMU-18, là một vụ bê bối liên quan đến tham nhũng trong Bộ Giao thông Vận tải đầu năm 2006. Vụ này đã gây xôn xao dư luận tại Việt Nam cũng như các nước và tổ chức cung cấp viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam, đã khiến Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Đào Đình Bình phải từ chức và Thứ trưởng Thường trực Nguyễn Việt Tiến bị bắt giam… vai trò của Khải trong vụ án này là không thể tránh khỏi vì khi làm thủ tướng thì ông ta đã ở đâu để cho bê bối ngay trong cơ quan bộ? Có lẽ chỉ có Khải là biết rõ nhất.
V. Kết luận:
Với bản chất xuất phát từ một kẻ dính máu nhân dân từ trong CCRĐ thì Phan Văn Khải đã đi trọn con đường quan lộ cộng sản của mình kèm với độc tài, tham nhũng, bán nước và bất tài. Chính vì vậy chúng ta cần phải xem xét tội trạng của Khải để sau này khi Việt Nam có độc lập và dân chủ thực sự sẽ xét hỏi đến những tên như Khải. Chúng ta không hề mong đợi sự trả thù đẫm máu như cộng sản. Nhưng công lý phải được thực thi nghiêm minh với những kẻ bán nước hại dân như Phan Văn Khải.
28/09/2013
http://danlambaovn.blogspot.com
___________________________________________
Chú thích:
(7) (Trích báo cáo về thủ tướng Phan Văn Khải của cơ quan an ninh đối ngoại Liên Bang Nga ngày 13/10/1997)

No comments:

Post a Comment