Pages

Thursday, October 13, 2016

TRUYỆN THƠ, CHÍNH LUẬN-DI CƯ

Wednesday, August 29, 2012

NHỮNG Ý TƯỞNG HAY

Nào những ai, nếu có ưu phiền,
để dành xem lại, cái phiền tiêu luôn.
.
----------v----------
  1. Già người, già tóc, già râu. Bộ phận chiến đấu còn lâu mới già
  2. Mình ngu nhiều kẻ ngu hơn, cho nên được gọi là khôn hơn người. Em xinh đâu phải nụ cười, em xinh là bởi nhiều người xấu hơn!
  3. Tái dê chấm với tương gừng, ăn xong rồi lại phừng phừng như dê
  4. Ở giữa 2 cái chân thật là 1 cái chân tình
  5. Yêu nhau cởi áo cho nhau. Ghét nhau trợn mắt: Áo đâu? Mặc vào!
  6. Phải bình tĩnh trước gái xinh và không giật mình trước gái xấu!
  7. Nhan sắc có hạn, mà lựu đạn thì có thừa
  8. Muốn ngủ ngon thì đừng lấy vợ. Muốn không nợ thì đừng có yêu. Muốn cao siêu thì đừng dại gái. Muốn thoải mái thì vào nhà tu
  9. Buổi sáng thức dậy. Thể dục thể thao. Da dẻ hồng hào. Hứng khởi tuôn trào. Lại vào ngủ tiếp
  10. Hội trường yên ắng ngủ say. Thuyết trình vừa dứt... vỗ tay ra về
  11. Ăn hột mít luộc có thể gây mất đoàn kết nội bộ và nghi ngờ lẫn nhau!
  12. Sống tình cảm mà không tiền cũng khổ. Yêu hết mình mà không được thì thôi
  13. Không có gì làm anh em ta xa cách. Chỉ ... hôi nách là xa cách anh em
  14. Con nhà gia giáo, huýt sáo theo liền
  15. Văn hay chữ tốt sao bằng thằng dốt lắm tiền
  16. Con là cái nợ, vợ là kẻ thù, thầy u là gián điệp
  17. Bò không ăn cỏ bò ngu. Trai không hú gái,trai ngu hơn bò!
  18. Nếu tiền không làm bạn hạnh phúc thì hãy đưa nó cho tôi
  19. Cell phone thuê bao mà bạn vừa gọi,nó nằm ngoài vùng phủ sóng. Thật ra nó đang nằm trong vòng tay kẻ khác đang phủ mền
  20. Thúy Kiều ôm chiếc Iphone. Gọi cho Kim Trọng khôn hồn tới ngay. Trọng lấy laptop xách tay. Mail cho bà tú tới ngay tóm hàng 
  21.  
  22. 6 năm trời không bia, không rượu, không thuốc lá, không đi chơi đêm không đàn bà. Và thế là......... tôi vào lớp 1
  23. Ngu còn tỏ ra mình phong phú
  24. Vì một người đi cố làm cả phố tắc đường
  25. Em đen nhưng tâm hồn em trong trắng, vì nhà em nghèo em dang nắng ...em đen
  26. Mai sau về với ông bà, ăn chuối cả nải ngắm gà khỏa thân
  27. Bia độc hơn rượu, bằng chứng trên thế giới chỉ có bia mộ chứ nào thấy rượu mộ ở đâu
  28. Mập không phải là cái tội. Mập là để thể hiện sự vượt trội về thể xác hơn người
  29. Những câu nói bất hủ, đọc sẽ không buồn ngủ
  30.  
  31.  

CLIP ĐỘC ĐÁO

Mời xem, Các Vũ Nữ Triều Tiên


KÝ MAI THANH HẢI

PHÊN DẬU CAO BẰNG

Posted on 16 Tháng Tám 2012.
Description: http://primeproxy23.info/browse.php?u=Oi8vMS5icC5ibG9nc3BvdC5jb20vLXZ1VENZT1EwbVIwL1VDdFUyTDQ1R1NJL0FBQUFBQUFBUUFRLzJXYkZfNzA1eXFRL3M0MDAvMTgzMTRfMTI1NDg4MDA2OS5qcGc%3D&b=29Mai Thanh Hải - Các thôn bản của xã Xuân Trường (huyện Bảo Lạc, Cao Bằng) nằm lọt thỏm trong biển mây. Mùa hè, ngày nào quang quẻ lắm, cũng chỉ có nắng từ 9 giờ sáng đến 4 giờ chiều và đêm ngủ vẫn phải đắp chăn bông.

Mùa đông, cả xã co quắp trong cái lạnh buốt, túa ra từ trùng trùng núi đá, ùn ùn gió mùa đông Bắc từ bên kia biên giới tràn sang.


Trung tá Nguyễn Hồng Vinh, Đồn trưởng Đồn Biên phòng  Xuân Trường (Đồn 147, Bộ đội Biên phòng Cao Bằng) kể lại câu chuyện khiến mình ám ảnh mãi: Rét quá, đồng bào kéo lên kêu: “Đồn ơi! Rét quá!”, khiến Ban Chỉ huy phải lệnh cho Quản lý xuất chăn bông dự trữ và vận động cán bộ chiến sĩ nhường lại vỏ chăn cho những gia đình thiếu chăn áo nhất…

Mình có thói quen từ rất lâu rồi, hồi mới làm báo là trước khi đi công tác đâu đó, phải tìm để biết mọi thông tin về nơi đến, từ lịch sử, vị trí địa lý, lịch sử, kinh tế… Tuy nhiên, khi “sớt gúc gồ”, mình thất vọng thực sự, bởi ngoài những thông tin cực kỳ đơn sơ của wikipedia tiếng Việt, Description: http://primeproxy23.info/browse.php?u=Oi8vMy5icC5ibG9nc3BvdC5jb20vLXdQcmhJR2ZMeGxBL1VDdGlDRl9qMmdJL0FBQUFBQUFBUUFnL1BlUFh6Y1BpNUlrL3M0MDAvSU1HXzAxMTYrJTI4RklMRW1pbmltaXplciUyOS5qcGc%3D&b=29tất cả là con số 0.
“Xuân Trường là một xã của huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Phía Bắc giáp xã Khánh Xuân và Trung Quốc; phía Đông giáp Trung Quốc… Xã có diện tích 84,92 km², dân số năm 1999 là 3.548 người, mật độ dân cư đạt 41,8 người/km² và được chia thành 19 xóm (Cao Bắc, Bản Chuồng, Cốc Kạch, Lũng Mật, Lũng Pù, Lũng Pèo, Lũng Rạc, Mù Chảng, Nà Đoỏng, Nà Chộc, Phìn Sảng, Phia Phoong, Thua Tổng, Thẳm Tôm, Thiêng Lầu, Sà Phìn, Phìn Sảng, Bản Thán, Tả Sáy). Trên địa bàn Xuân Trường có một số ngọn núi (như Bó Héc, Cô Péc, Đin Đeng, Lắm Côm, Lẫm Cũm, Phia Phoong, Pờ Cả Tản) và các lũng (Áng Lỏng, Phát, Quang, Tày Đủm, Tràm) cùng hồ Thâm Lẩm, các dòng suối Cốc Tả, Piêng Pán, Tả Nọi”…
Hài hơn là Wikipedia hồn nhiên: “Đồn Biên phòng Đồng Mu đóng trên địa bàn xã”.
Thông tin mông lung vậy, nhưng vẫn nhất quyết lên phên dậu Cao Bằng, qua tuyến đường Phú Thọ – Tuyên Quang – Hà Giang – Bắc Mê – Bảo Lâm – Bảo Lạc, theo sự chỉ bảo của các “thổ công, thổ địa”.
Description: http://primeproxy23.info/browse.php?u=Oi8vMy5icC5ibG9nc3BvdC5jb20vLUN5cnM3WEhZSTc4L1VDdGlaNjlhSU1JL0FBQUFBQUFBUUFvLzBRYjA2ZWItQ293L3M0MDAvSU1HXzAxMDcrJTI4RklMRW1pbmltaXplciUyOS5qcGc%3D&b=29
Lọ mọ từ 8 giờ sáng, giữa chiều mới lên tới Bảo Lạc và chạy thêm gần 10 km đến xã Khánh Xuân. Trung úy Lâm, Cán bộ Tỏ Công tác của Đồn 147 đang chốt tại đây, đón tụi mình, lo lắng: “Mưa cả tuần, hiện cả 3 tuyến đường (Quốc lộ 34 – Lũng Pán – Hồng An – Xuân Trường; thị trấn Bảo Lạc – Khánh Xuân – Xuân Trường; Hà Quảng – Thông Nông – Xuân Trường) đều sạt lở nghiêm trọng, phải đi bộ – tăng bo xe máy vài tiếng đồng hồ!”.
Tụi mình lục xe, kiểm tra lại đèn pin: “Thế mình đi, nhỉ?”. Trung úy Lâm rút điện thoại báo cáo và quay lại dứt khoát: “Đồn trưởng đề nghị Đoàn ở lại ngủ đêm tại Tổ Công tác, sáng mai mới đi được. Hiện có vài điểm cao ướt nước, sập xuống đường bất cứ lúc nào. Đêm tối có chuyện gì xảy ra, việc cứu hộ – cứu nạn rất khó khăn!”.
Ối Giời! Nói thế thì bố ai dám đi. Lục tục xách đồ, chia nhau nằm úp thìa trong phòng chật chội mà UBND xã Khánh Xuân, nhường cho Tổ Công tác.
Buổi sáng, sương mù õng ẹo gí vào mặt từng thằng, lôi dậy. Húp vội bát mì tôm ngâm nước sôi, thu dọn đồ gọn nhẹ nhất, đút trong ba lô và xắn quần, xỏ giầy vải – dép quai hậu, theo chân mấy anh em Tổ Công tác Biên phòng và Công an huyện, vào Xuân Trường.
Mình không kể nhiều về chặng đường đi bộ cả chục km, từ 7 giờ sáng đến 12 giờ trưa, men qua những triền núi, cánh rừng mà chỉ nói vài chi tiết:
Ban đầu, thấy những tảng đá long chân, chênh vênh trên đầu, ở đoạn sạt lở, cả bọn còn co cẳng chạy qua. Nhưng về sau, có cả quả núi nằm trên, cũng chả còn sức mà chạy;
Chặng đường đầu, gặp mưa còn lấy áo mưa ra mặc, về sau, chỉ lấy áo mưa bọc máy móc, không buồn che người, mặc cho hơi nóng trong người toát ra trong mưa lạnh, nhìn ai cũng mù mịt nhưng khói là khói;
Đứng dưới đường; nhìn lên 12 đoạn dốc chồng xếp nhau trên vách núi, phía tít trên là mờ ảo sương mây Khau Mè Pia “Cổng Trời”, muốn bật ngửa trở lại, mặc anh em Biên phòng đứng sau ủn đít: “Sắp tới rồi. Khắc đi khắc đến!” và mỗi đoạn dốc, lại bíu vào đá mà nghỉ, chân cứng nhắc không ngồi nổi;
Lên đến Đồn, cả bọn nằm vật, la liệt trước cổng khiến anh em ngồi đợi trong Hội trường, ùa ra tưởng… ngất xỉu…
Description: http://primeproxy23.info/browse.php?u=Oi8vMS5icC5ibG9nc3BvdC5jb20vLUI5Q3RpM2tJdVFrL1VDdklwRl9XaXRJL0FBQUFBQUFBUUJJL0FZdWhaRzg3amdjL3M0MDAvSU1HXzAxNjcrJTI4RklMRW1pbmltaXplciUyOS5qcGc%3D&b=29
Xuân Trường – Mình đã nghe và đã đến cái địa danh Xuân Trường của tỉnh Nam Định, san sát nhà cửa – chóp nhà thờ và sung túc, đầy đủ lúa gạo – cá muối – khói rơm thơm.
Nhưng ở Xuân Trường của tỉnh Cao Bằng này, chỉ toàn núi đá, sương mù, lưa thưa vách gầy nhà tranh, mệt ngoài bám vào triền núi đá, để sống.
Mà cũng phải bám vào đá, vào vách núi để mà sống, mà tồn tại chứ còn cách nào?..
Cả xã chỉ có duy nhất thung lũng Đồng Mu bằng phẳng trồng được ít lúa nước, mùa khô cạn như chảo rang, mùa mưa thấp thỏm mất mùa bởi lũ quét trên núi cao ộc về.
Thứ lương thực triền miên, chủ đạo bao năm qua, đến nhà nào cũng thấy rặt ngô là ngô (thay cơm) treo đầy gác bếp và bí xanh lổn nhổn góc nhà (thay thức ăn).
Thứ duy nhất bán được ra tiền là quả Mắc cọp mọc hoang dã trong vườn, trên núi với vị giòn giòn – chan chát, ăn xong rồi mới thấy vị ngọt đầu môi.
Description: http://primeproxy23.info/browse.php?u=Oi8vMS5icC5ibG9nc3BvdC5jb20vLXhLT2lsNEl2U2hRL1VDdkxtR05hWEFJL0FBQUFBQUFBUUJVL0VXUURHbHNjS3BBL3M0MDAvSU1HXzAxOTgrJTI4RklMRW1pbmltaXplciUyOS5qcGc%3D&b=29
Mà lạ!. Hình như Trời đất cũng thương người dân Xuân Trường khốn khó, nên cái thứ quả “trời cho” này thơm ngọt đến kỳ lạ, đến mức người ta “phong vượt cấp” thành… quả Lê với câu ca từ xa xưa “gái Đồng Khê, lê Xuân Trường”, dẫu rằng quả lê đó, nặng trịch trên vai người, luồn rừng – vượt núi gần chục km mới ra tới thị trấn và bán với giá rẻ mạt, để thương lái đưa về xuôi – sang bên kia biên giới làm vị thuốc tẩm bổ cho kẻ nhiều tiền…
Lẩn mẩn tìm hiểu, mới ớ ra: Đúng 1 năm trước, trung tâm xã mới có điện và cho đến nay, điện sáng vẫn là thứ xa xỉ với các thôn bản vùng cao khác. Đến nỗi mỗi dịp Lế Tết – cuối tuần, bà con trên núi ùn ùn đổ xuống cái vạt chợ nằm cạnh UBND xã, lơ thơ mấy hàng tạp hóa, để mua bán thì ít mà ngắm điện, xem xe máy chạy ẻn ẻn phần nhiều.
Hôm trước khi lên Xuân Trường, đồng nghiệp ở Báo Cao Bằng bảo tụi mình: “Nếu khó khăn quá thì sẽ xin… ngựa thồ của Đồn!”, khiến mình trề môi: “Thâm sơn cùng cốc như Biên phòng Lai Châu, còn xóa biên chế ngựa, nữa là…”. Thế nhưng lên đây, mới thấy là có những Description: http://primeproxy23.info/browse.php?u=Oi8vMy5icC5ibG9nc3BvdC5jb20vLTV6M21hb1laQ2R3L1VDdlVwRXJ0RkVJL0FBQUFBQUFBUUJvL0RHR0ZubEFtSk5rL3M0MDAvSU1HXzAxMzUrJTI4RklMRW1pbmltaXplciUyOS5qcGc%3D&b=29việc “không tin được, dù đó là sự thật”.
 
Buổi chiều ở Đồn, trời “giải lao” tạnh mưa, tự dưng nghe lộc cộc ngoài vách tường và tiếng hí rất đặc trưng… ngựa.
Ngó đầu ra, mấy cậu chiến sĩ Đội Vũ trang đang hì hục dắt ngựa lùa ngựa vào chuồng và cười: “Một số ngựa thồ vận tải còn gửi trong nhà dân đấy ạ!” khiến ý định: “Mơ màng phi ngựa kình kịch, trên đường tuần tra biên giới” của mình, đứt cái phịch.
Thiếu tá Minh, Chính trị viên phó của Đồn Xuân Trường kể: Những Tổ Công tác của Đồn nằm trên địa bàn núi cao, giáp cột mốc, xa dân, địa hình hiểm trở, toàn phải chặt cây – đan lá thành lán ở, suốt 4 mùa sương mù nhớp nháp, quần áo không bao giờ được khô. Mỗi lần tiếp tế lương thực – thực phẩm cho anh em, người đi chả nổi nên phải huy động… sức ngựa, mới xong.
Ngay sáng hôm sau, mình lại chứng kiến cảnh Tổ Công tác của BCH BĐBP Cao Bằng, trước khi lên Thôn bản xa, ai cũng cột theo 1 túi nhựa tròn vo. Hỏi ra mới biết: Phải mang sẵn gạo – thực phẩm, khi nào đói hoặc là tự nấu hoặc là tìm vào nhà dân nhờ nấu, bởi “đồng bào cũng chẳng có mà san sẻ cho mình!”…
Description: http://primeproxy23.info/browse.php?u=Oi8vNC5icC5ibG9nc3BvdC5jb20vLUZHY2ptZ0hRVkJVL1VDdldHRjIxcUpJL0FBQUFBQUFBUUJ3L20wSWZ3cWJ3UTJFL3M0MDAvUGljdHVyZSswMjYrJTI4RklMRW1pbmltaXplciUyOS5qcGc%3D&b=29
Khó khăn thế, vất vả thế nên chuyện đi học cái chữ của con trẻ vùng biên giới Xuân Trường, gian nan đến cùng cực.
Mình lên Xuân Trường đúng dịp tụi trẻ con vẫn đang nghỉ, chưa phải đi học hè – học thêm như con trẻ dưới xuôi.
Thế nhưng, lang thang các bản, vẫn thấy chúng nó vơ vẩn chơi đầu nhà, tha thẩn bế em, cắm mặt tẽ ngô, khệ nệ khuân củi…
Hỏi chuyện chuẩn bị năm học mới, đứa nào cũng im lặng quay đi. Khi về, tìm hiểu mới biết: Chúng nó không có khái niệm chuẩn bị. Vào năm học mới, tất tật sách vở – quần áo, đứa bé dùng lại của đứa lớn. Những đứa nào không có, đành chấp nhận… học chung.
Cô Hòa, Giáo viên Trường Tiểu học Xuân Trường kể: “Mùa đông, học sinh đến lớp phải mang theo củi, để đốt thành đống lửa xua đi cái Description: http://primeproxy23.info/browse.php?u=Oi8vMi5icC5ibG9nc3BvdC5jb20vLVlac3dxazRJNUdFL1VDdmN6ejZGZGtJL0FBQUFBQUFBUUNFL2FySGx6QUtoQm40L3M0MDAvUGljdHVyZSswMjcrJTI4RklMRW1pbmltaXplciUyOS5qcGc%3D&b=29rét, mới học được!”.
 
Còn Trung tá Nguyễn Hồng Vinh, Đồn trưởng Biên phòng Xuân Trường thì thở dài: “Cứ dịp này (trước năm học mới), cán bộ chiến sĩ đi phép – tranh thủ đều có thói quen thu gom, xin sách vở – quần áo cũ, mang lên cho bọn trẻ con, gọi là động viên chúng nó đến lớp!” và lắc đầu: “Năm học này, toàn xã có trên 500 học sinh, giúp thế nào cho đủ?”.
Ừ!. Biết giúp thế nào cho đủ, khi mà suốt dọc hơn 30 km đường biên giới Đồn phụ trách, cũng có từng ấy điểm trường chon von trên núi cao và gấp mấy chục lần từng ấy, những đứa trẻ – thế hệ tương lai bảo vệ biên cương, thiếu từ cái ăn, cái mặc, cái đọc, cái viết?. Lại nhớ đến cảnh gặp dọc đường Bảo Lạc: Cậu bé chắc học THCS, buộc tập vở mới sau xe đạp, qua chỗ xóc, mấy cuốn rơi xuống mặt đường lép nhép nước mưa. Cu cậu vứt xe ven đường, lấy vạt áo lau từng mép giấy dính bùn, gượng nhẹ…
Ừ!. Xuân Trường đâu có phải xa lạ gì đâu, mà cứ như bị cách biệt, quên lãng thế này?.
Lên đến mảnh đất địa đầu này, mình mới biết: Xuân Trường là bí danh của đồng chí Hoàng Văn Nhủng, Liệt sĩ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam hy sinh trong trận chiến đánh đồn Pháp ở Đồng Mu (Bảo Lạc) đêm mùng 4 rạng ngày 5/2/1945 của Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân và tên anh đã được đặt cho địa danh nơi ngã xuống: xã Xuân Trường.
Description: http://primeproxy23.info/browse.php?u=Oi8vMS5icC5ibG9nc3BvdC5jb20vLTdvUG1hWVVrb25rL1VDdmpXWFV0bWRJL0FBQUFBQUFBUUNZLy01VkZzcGlkc2prL3M0MDAvUGljdHVyZSswMDYrJTI4RklMRW1pbmltaXplciUyOS5qcGc%3D&b=29
Hoàng Văn Nhủng, quê ở bản Nà Nghiềng, xã Sóc Hà (Hà Quảng). Năm 1936, khi mới 18 tuổi, Hoàng Văn Nhủng tham gia hoạt động Cách mạng với bí danh Xuân Trường.
Giữa năm 1940, Xuân Trường được cử đi học quân sự tại Hoàng Phố, Liễu Châu, Trung Quốc. Đầu năm 1944 về nước và hoạt động chủ yếu ở vùng Lục Khu, Hà Quảng.
Tháng 12/1944, Xuân Trường là một trong những đội viên vũ trang xuất sắc của châu Hà Quảng được chọn vào Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân (VNTTGPQ). Sau trận đánh Phai Khắt, Nà Ngần (Nguyên Bình) thắng lợi,  Đội  hành quân lên đánh đồn Đồng Description: http://primeproxy23.info/browse.php?u=Oi8vMi5icC5ibG9nc3BvdC5jb20vLXd0NkVEbHZYeHZFL1VDdmpxN1ppbXZJL0FBQUFBQUFBUUNnL0ZUZTk1bU1GSzlJL3M0MDAvUGljdHVyZSswMTQrJTI4RklMRW1pbmltaXplciUyOS5qcGc%3D&b=29Mu – Pù Đôn (nằm ở  xóm Nà Đoỏng, xã Đồng Mu, Bảo Lạc, có nhiệm vụ kiểm soát đường từ Đồng Mu sang Sóc Hà, Hà Quảng và đường từ Pác Lũng, xã Huy Giáp sang Ba Bể, huyện Chợ Rã, tỉnh Bắc Kạn).
 
Đêm 4/2/1945, Đội VNTTGPQ dưới sự chỉ huy của các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hồng Sâm, Đàm Quang Trung đã thực hiện tấn công tiêu diệt địch và đồng chí Xuân Trường hy sinh ngay trong lúc xông vào nhà chỉ huy. Anh hy sinh tuổi đời còn rất trẻ, chưa có gia đình.
Ngày 19/8/1961, Liệt sĩ Hoàng Văn Nhủng được Thủ tướng Chính phủ cấp Bằng Tổ quốc ghi công, được công nhận là Liệt sĩ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Mình về Hà Nội, đã hỏi rất nhiều người: “Ai là Liệt sĩ đầu tiên của Quân đội ta? Hy sinh ở đâu?” và đều nhận được những câu trả lời trật lất hoặc lắc đầu không hiểu…
Không thể trách, bởi có ai nói, ai kể, ai nhắc lại cho mọi người biết đâu?.
Ngay nơi mà người chiến sĩ đầu tiên của Quân đội ta ngã xuống, bây giờ vẫn chỉ đơn độc 1 tấm đá trong khung vòm xi măng, dựng trên bờ thành xanh rì rêu phong, ghi những dòng đơn giản – ngắn gọn, nhắc tên, địa điểm, thời gian (mà nghe đồng bào kể lại: Hồi xưa Tướng Đàm Quang Trung về thăm lại chiến trường xưa, huy động dựng lên)… Quá nhỏ bé, sơ sài so với bao tượng đài, bia tưởng niệm đâu đâu!.
Cũng ngay gần nơi người chiến sĩ đầu tiên ngã xuống, một tấm bia ghi rành mạch “Danh sách các Liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chống giặc ngoại xâm” và trong số đội hình 42 người đã ngã xuống đó, tên tuổi của 3 chiến sĩ nằm lại trong những ngày đầu, tháng đầu đánh trả quân Trung Quốc xâm lược 2/1979, được tô đậm nét.
Description: http://primeproxy23.info/browse.php?u=Oi8vNC5icC5ibG9nc3BvdC5jb20vLVdhWmlFZmJ4ekRvL1VDdnU4UTBRa19JL0FBQUFBQUFBUUMwL29OcmJ3QjJ3UWpvL3M0MDAvSU1HXzAxNDQrJTI4RklMRW1pbmltaXplciUyOS5qcGc%3D&b=29
Và cũng ở nơi thịt xương các anh tan vào từng thớ đất, gốc cây, ngọn cỏ… – Bao năm qua, cả dải biên cương Xuân Trường được giữ gìn nguyên vẹn, qua cả chục năm đánh trả quân xâm lược, qua vài chục năm giằng co phân giới cắm mốc.
Sự toàn vẹn lãnh thổ ở vùng phên dậu Cao Bằng này, không “đao to búa lớn” như người dưới xuôi vẫn thường giảng giải, mà rất giản dị – gần gũi, từ việc giữ nguyên từng bờ đất, hòn sỏi, lũng suối cho đến vị ngọt của quả lê Xuân Trường, mùi thơm hạt gạo Đồng Mu và cả nỗi vất vả, truân chuyên, thiếu thốn trĩu trên vai anh lính Biên phòng, người già thôn bản, đứa lít nhít tới trường.
Mình rời Cao Bằng, cùng với đội hình hành quân của những lính trẻ Biên phòng 18-20 tuổi, băng rừng, men núi, gập người qua những vòng cung sạt lở, đứng chênh vênh định ào xuống vùi lấp.
Description: http://primeproxy23.info/browse.php?u=Oi8vMi5icC5ibG9nc3BvdC5jb20vLWNndncxZTRqdWgwL1VDdnhBTWdVTURJL0FBQUFBQUFBUUM4L0N5d1pEVHlNalc0L3M0MDAvUGljdHVyZSsxNTMrJTI4RklMRW1pbmltaXplciUyOS5qcGc%3D&b=29Trẻ trung lắm! Tươi tắn lắm! Tíu tít lắm!. Nhưng cũng trách nhiệm lắm, khi nhận nhiệm vụ ra ngoài thị trấn gùi muối, thồ xăng dầu cho vùng Xuân Trường bị cô lập, do đường sạt lở – tắc nghẽn bấy lâu…
 
Quãng đường xuống núi ngắn lại, có lẽ vì cảm thấy những vất vả của mình chả là gì so với những gì đã, đang hiện diện ở Xuân Trường.
Chia tay nhau, đám lính trẻ rối rít túm tay: “Nhớ lên với chúng em nhé!. Trên này cả năm, có khi chẳng có khách dưới xuôi lên thăm!” khiến mình mới chợt nhớ việc: Vào “gúc gồ” tìm kiếm, chỉ có đúng 3 thông tin về Đồn Biên phòng Xuân Trường (Đồn 147), của Báo Cao Bằng.
“Yên tâm! Mọi người dưới xuôi chắc chắn sẽ quay lại sớm với các em, với tụi lít nhít trẻ con biên ải Xuân Trường!”. – Hình như lời hứa của mình khiến lính trẻ vui lắm.
Chả thế mà khi đã vẫy đến mỏi tay, không nhìn thấy màu áo xanh Biên phòng nữa rồi, tiếng cười lính trẻ vẫn vẳng lại giòn tan, lăn dài trên triền núi, hòa cùng bát ngát lá xanh, trời xanh, nơi phên dậu Cao Bằng…
2 giờ sáng ngày 16/8/2012, tại quê An Lão (Hải Phòng)
12 Attached files| 660KB

KÝ HUỲNH NGỌC CHÊNH

 Bất An
Huỳnh Ngọc Chênh
Trước 75, ngay khi sống trong thời chiến, tôi vẫn luôn cảm thấy an lành. Những năm chiến tranh ác liệt ấy, gia đình tôi tách ra làm hai. Ba tôi xuống thành phố, còn mẹ tôi vẫn ở lại quê bám trụ. Tôi đi đi về về cả hai nơi. Đêm ngủ ở quê, thường xuyên nghe tiếng đại bác nổ ven rìa làng do lính Mỹ bắn cầm canh từ phi trường Đà Nẵng. 
Thỉnh thoảng cũng có vài quả đại bác bay lạc vào nhà dân gây ra cảnh tang thương chết chóc thế nhưng không hiểu vì sao tôi vẫn không cảm thấy bất an. Đêm ngủ ở Đà Nẵng thỉnh thoảng lại nghe hú còi báo động có pháo kích của Việt Cộng bắn về thành phố, nhiều người phải chạy vào nấp dưới hầm, riêng tôi vẫn nằm tỉnh queo trên giường, không chút lo sợ.
Bây giờ sống trong hòa bình, mà hòa bình đã gần 40 năm rồi sao trong lòng cứ thắc thỏm bất an. Do tuổi già ư? Không phải như vậy.
Làm sao mà yên ổn được khi bước ra đường phải lo sợ trước bao nhiêu điều hiểm nguy đang rình rập. kẹt xe, khói bụi ô nhiễm, tai nạn giao thông, đinh tặc, cướp giật, va quẹt xe đưa đến bị hành hung, cây đổ, dây điện đứt, sụp hố cống.... Một ngày ở thành phố lớn như Sài Gòn, xảy ra không biết bao nhiêu vụ tai nạn giao thông, bao nhiêu vụ cướp giật, hành hung, đâm chém...thấy tận mắt hoặc đọc báo, nghe đài mà oải cả người.
Hầu như mọi thứ thức ăn đều có nguy cơ chứa chất độc hại do dư lượng thuốc trừ sâu, dư lượng kháng sinh, do chất kích thích hoặc do làm ra gian dối. Không thể nào yên tâm với thức ăn ở các hàng quán. Cà phê hóa chất, phở ngâm formol, dầu ăn từ cống rãnh, chế biến thức ăn bên cạnh nhà vệ sinh... 
 Thực phẩm mua ở chợ về tự chế biến cũng hoàn toàn không yên tâm. Rau, giá, trái cây đầy rẫy chất kích thích cực độc (nhất là trái cây Trung cộng), cá thì bị ướp hàn the, thịt thì không kiểm định hoặc thịt bị dùng chất tăng trưởng độc hại. Bất an với món ăn ở hàng quán nhưng cũng không thể nào an tâm với bửa ăn tự nấu nướng ở nhà.
Tình trạng ô nhiểm thì kinh hồn. Đường xá thì khí thải và bụi bẩn bay mù mịt, cống rãnh và kênh rạch thì đen ngòm vì chất thải bẩn. Rồi ô nhiểm âm thanh mới kinh hồn.
Trong công việc mưu sinh, bất an khắp mọi nơi. Vật giá liên tục leo thang, quá nhiều công ty nợ nần phá sản, chiếm dụng vốn và lừa đảo khắp mọi nơi. Khuyến mãi lừa đảo, bán hàng đa cấp lừa đảo, thế chấp vay lừa đảo...Sụ bất an do suy thoái kinh tế làm người có vốn không dám bỏ tiền ra đâu tư, người làm công cứ thắc thỏm lo mất việc từng ngày.
Khi bị ngã bệnh, phải đến bệnh viện thì người dân hoàn toàn không yên tâm. Chỗ nằm thiếu, phương tiện y tế lạc hậu, tay nghề cũng như lương tâm thấp kém của y bác sĩ có thể làm cho bệnh nhân không những không được cứu chữa thích đáng mà còn gây ra tử vong vô lý nữa. Biết bao nhiêu cái chết oan khiên được nêu ra và không được nêu ra do sự tắc trách của bệnh viện.
Hành chính thì nhũng nhiễu, thường gây ra sự phiền hà cho dân để công chức ăn hối lộ thay vì tận tụy phục vụ dân. Có việc đến cơ quan công quyền như thuế vụ, hải quan, nhà đất, ủy ban các cấp, công an...người dân phải khúm núm quỵ lụy và lo lót thì sự việc mới trơn tru. Có lỗi bị tạm giữ trong đồn công an, người bị tạm giữ hoàn toàn không yên tâm. Chuyện bị chết trong đồn công an đã trở nên quá phổ biến.
Chuyện an ninh quốc phòng thì được nghe nói đã có đảng và nhà nước lo nhưng người dân hoàn toàn thấy bất an. Ngư dân ra khơi là bị Trung cộng đuổi bắt hoặc đâm chìm tàu. Tàu chiến, tàu hải giám, tàu cá của Trung Cộng hầu như đã chiếm lĩnh toàn bộ biển Đông. Trong đất liền thì chỗ nào, lãnh vực nào cũng có mặt người Tàu.
Cơ quan chức năng và ban bệ rất nhiều, người dân phải è lưng ra đóng thuế để nuôi một bộ máy nhà nước vô cùng cồng kềnh, nhưng bộ máy ấy hoàn toàn không làm cho người dân an tâm.Bất ngờ đau ốm không dễ dàng có xe cấp cứu đến, bị cướp bóc trấn lột không dễ gì gọi được công an. Thức ăn nhiểm bẩn hầu như không có cơ quan nào quan tâm....Người dân cảm thấy bị bơ vơ đơn độc giữa cuộc đời.
Một nhà nước yếu kém, bất lực và vô trách nhiệm như vậy mà sao vẫn tồn tại lâu vậy nhỉ? Đây có lẽ là nỗi bất an lớn nhất mà người dân phải mang nặng trong lòng.

Monday, August 27, 2012

BÀI THƠ ĐỘC ĐÁO


  
http://dungdaubac.files.wordpress.com/2012/08/culaocham_10.jpg
Bài thơ này có 8 cách đọc.
Có lẽ chỉ có tiếng Việt mới phong phú như thế !
1. Bài thơ gốc (bài 1):
Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời
Thú vui thơ rượu chén đầy vơi
Hoa cài giậu trúc cành xanh biếc
Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi
Qua lại khách chờ sông lặng sóng
Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người
Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng
Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười.


2. Ðọc ngược bài gốc từ dưới lên, ta được bài 2:
Cười mỉm mắt ai bóng thướt tha
Bổng trầm đàn hát tiếng ngân xa
Người đông bến đợi thuyền xuôi ngược
Sóng lặng sông chờ khách lại qua
Tươi thắm sắc xuân hương quyện lá
Biếc xanh cành trúc giậu cài hoa
Vơi đầy chén rượu thơ vui thú
Ngời sáng ánh xuân cảnh mến ta.
3. Bỏ hai chữ đầu mỗi câu trong bài gốc,
ta được bài (ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng):
Cảnh xuân ánh sáng ngời
Thơ rượu chén đầy vơi
Giậu trúc cành xanh biếc
Hương xuân sắc thắm tươi
Khách chờ sông lặng sóng
Thuyền đợi bến đông người
Tiếng hát đàn trầm bổng
Bóng ai mắt mỉm cười.
4. Bỏ hai chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược
từ dưới lên, ta được bài (ngũ ngôn bát cú, luật
bằng vần bằng):
Mắt ai bóng thướt tha
Ðàn hát tiếng ngân xa
Bến đợi thuyền xuôi ngược
Sông chờ khách lại qua
Sắc xuân hương quyện lá
Cành trúc giậu cài hoa
Chén rượu thơ vui thú
Ánh xuân cảnh mến ta.
5. Bỏ ba chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, ta được bài
(tám câu x bốn chữ ):
Ta mến cảnh xuân
Thú vui thơ rượu
Hoa cài giậu trúc
Lá quyện hương xuân
Qua lại khách chờ
Ngược xuôi thuyền đợi
Xa ngân tiếng hát
Tha thướt bóng ai.
6. Bỏ ba chữ đầu mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược từ
dưới lên, ta được bài (tám câu x bốn chữ):
Cười mỉm mắt ai
Bổng trầm đàn hát
Người đông bến đợi
Sóng lặng sông chờ
Tươi thắm sắc xuân
Biếc xanh cành trúc
Vơi đầy chén rượu
Ngời sáng ánh xuân.
7. Bỏ bốn chữ đầu mỗi câu trong bài gốc, ta được bài
(tám câu x ba chữ) :


Ánh sáng ngời
Chén đầy vơi
Cành xanh biếc
Sắc thắm tươi
Sông lặng sóng
Bến đông người
Ðàn trầm bổng
Mắt mỉm cười.
8. Bỏ bốn chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược
từ dưới lên, ta được bài (tám câu x ba chữ):

Bóng thướt tha
Tiếng ngân xa
Thuyền xuôi ngược
Khách lại qua
Hương quyện lá
Giậu cài hoa
Thơ vui thú
Cảnh mến ta

LỮ TUẤN * DI CƯ 1954-75

Từ Hà Nội đến Sài Gòn 1954 1975  

-   Lữ Tuấn.



  2201630150_aa91b2383f_o  

  


Tháng 6 năm 1954 đúng 50 năm về trước, là lúc mọi người trong vùng kiểm soát của chính phủ Quốc Gia ở Bắc Việt cực kỳ lo lắng và hoang mang sau khi cứ điểm Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7 tháng 5 năm 1954. Nhiều tin đồn trái ngược càng làm cho mọi người thêm sợ hãi. Khoảng 20 tháng 6, tại Nam Định và các tỉnh phụ cận, có tin đồn được lan truyền nhanh chóng nói rằng quân đội Pháp và quân đội Quốc Gia sẽ rút khỏi Nam Định và các tỉnh phía Nam Hà Nội. Từ hôm ấy, hàng loạt doanh trại được tháo gỡ vội vàng, xe vận tải quân sự chở vật liệu nặng bắt đầu theo nhau từ Bùi Chu, Ninh Bình, Thái Bình đổ về Nam Định cùng các xe cộ từ Nam Định nối nhau đi Hà Nội. Kho đạn Nam Định cho phá hàng loạt đạn súng cối và đạn pháo binh ở vùng đất hoang phía tây thành phố.



Bộ Tư Lệnh Pháp và chính quyền Bảo Đại không hề lên tiếng về tình hình tại Bắc Việt. Bộ Chỉ Huy Pháp tại Nam Định vẫn tiếp tục công việc chuẩn bị cuộc diễn binh hùng hậu vào ngày quốc khánh Pháp, 14 tháng 7 năm 1954 mà họ đã loan báo trước. Vào lúc này, đã có tin đồn ông Ngô Đình Diệm sẽ về nước làm thủ tướng. Những truyền đơn đầu tiên ký tên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia ủng hộ ông Diệm xuất hiện lác đác ở Nam Định.



Ba ngày cuối cùng phi cơ quân sự lên xuống liên tiếp. Khi đã chuyên chở gần hết vật dụng và người, trạm hàng không quân sự Nam Định bắt đầu cho mọi người tự do lên phi cơ C-47 còn trống nhiều chỗ để đi Hà Nội.


Nam Định bắt đầu hoảng hốt thực sự từ ngày 28 tháng 6 khi điện bị cắt. Thành phố tối mù. Nhiều người chen chúc mua vé xe hoặc thuê xe di tản về Hà Nội. Nam Định là nơi số doanh trại và binh lính dầy đặc nhất Việt Nam. Trước đó từ 9 giờ khuya là giờ giới nghiêm, thành phố vắng vẻ không một bóng người trên phố xá. Nay đột nhiên tất cả chìm trong không gian đen thui, nhưng lại cựa mình mạnh hơn trong bóng tối. Trên đường phố người ta đi lại đông đúc khác thường quá cả giờ giới nghiêm.

vn54_01


Đường phố Hà Nội, hình chụp vào tháng 7 năm 1954.

(HÌNH ẢNH: VNCTLS sưu tầm)


Gia đình tôi lúc ấy đang ở một căn cư xá công chức nơi mẹ tôi làm việc. Lúc 7 giờ sáng, một anh lính tống thư viên người Pháp vào sở đưa một giấy báo di chuyển, ghi đúng số người thuộc quyền sở này và gia đình nhân viên kể cả 4 gia đình ở cư xá. Tất cả mau lẹ tập trung đợi xe. Sau đó chừng 15 phút, một tiểu đội Bảo Chính Đoàn dẫn 4 xe vận tải trưng dụng của tư nhân đến nơi và cho biết đúng 8 giờ kém 15 mọi người phải có mặt đầy đủ trên xe.

Việc di tản có vẻ đã được chuẩn bị nhiều tuần lễ trước đó. Số người ngồi trên xe thoải mái rộng rãi vì không ai mang theo đồ đạc gì nhiều ngoài một vài chiếc valise và túi xách tay gọn nhẹ.



Lệnh di chuyển cho biết đoàn xe này phải qua trạm kiểm soát phía bắc hướng đi Phủ Lý-Hà Nội vào khoảng giờ nhất định mà tôi nhớ là sau 8 giờ và trước 8 giờ 10 phút. Lệnh này cũng cảnh cáo nếu xe nào đến sớm quá hay muộn quá theo giờ ấn định sẽ bị ủi ra khỏi mặt đường để tránh nhiễu loạn giao thông.


Hồi đó tôi còn là học trò. Vội vàng xếp quần áo, hình ảnh, giấy tờ cần thiết, cuống cuồng không biết phải mang theo gì và phải bỏ lại món nào. Lúc còn chừng 25 phút, tôi xin phép mẹ tôi chạy ra phố nói là để chào mấy thằng bạn. Cô ruột tôi , người nuôi nấng tôi từ nhỏ không chịu vì sợ tôi chậm trễ e sẽ kẹt lại. Nhưng mẹ tôi hiểu ý, mỉm cười can thiệp nói, “Chị cứ cho nó đi, nó không dám về muộn đâu.”

Mẹ tôi thừa biết tôi đi đâu. Tôi đạp xe với tốc độ không thua các tay đua vòng quanh Đông Dương, xẹt qua trước nhà cô bạn mà tôi thương vụng nhớ thầm từ năm 17 tuổi và chưa hề mở lời yêu đương.
Nàng đang ngồi chải tóc ở cửa sổ trên lầu. Không rõ nàng có nhìn thấy tôi hay không, nhưng tôi vội vàng đánh bạo thu hết can đảm hôn gió trên bàn tay phải ném về phía cửa sổ rồi lao xe như gió về nhà, trước giờ xe chạy khoảng 10 phút. Ở miền Bắc hồi ấy trai gái còn nhút nhát, phải can đảm lắm mới dám làm như thế vì tôi linh cảm chuyến đi này sẽ lâu lắm., có thể là cả đời. Sau này trong đời lính chưa bao giờ tôi phải vận dụng can đảm cao độ như vậy dù gặp nhiều tình thế rất khó khăn nguy hiểm.
Quân cảnh Pháp thi hành đúng giờ giấc như quy định. Tại trạm kiểm soát Cổng Hậu, từng đoàn xe gồm năm mười chiếc có lính hộ tống được cho khởi hành. Một vài xe đến muộn phải đậu một bên đường chờ giải quyết sau. Trên đường đi, tại mỗi cây cầu đều có một toán Công Binh đặt sẵn chất nổ. Một trung sĩ Công Binh Việt Nam cho biết họ phải phá nổ các cầu này khi đơn vị cuối cùng đi qua.
Buổi trưa đoàn xe chúng tôi đi đến Hà Nội. Gia đình tôi về ở nhà người thân. Đêm hôm ấy thị xã Phủ Lý bị một sư đoàn Việt Minh tấn công. Thành phố đã hư hại sẵn nay lại chịu tàn phá gần hết những gì còn lại.
Cuộc rút lui này tuy tiêu biểu cho việc Pháp thua trận nhưng lại là cuộc rút lui thành công. Dựa vào tài liệu của Pháp và thực tế quan sát thấy tại chỗ, cho thấy Đại Tá Vanuxem chỉ huy trưởng Phân Khu Nam đã điều động cuộc rút lui mau lẹ, có trật tự với tổn thất nhẹ không đáng kể. Đoàn quân rút lui vượt qua nút Phủ Lý trước khi bị địch đánh chận.
Kế hoạch tỉ mỉ do bộ tham mưu Pháp bí mật soạn thảo, trong đó chỉ có các sĩ quan từ đại úy mới được cho tham dự. Mọi việc đánh máy, chuyển nhận công điện, văn thư tài liệu đều do các cấp sĩ quan từ đại úy trở lên đích thân thi hành. Bí mật được giữ đến phút chót. Chỉ có một điều đáng tiếc là nhiều đội dân quân tự vệ ở nhiều làng mạc các tỉnh vùng này kể cả quanh những trung tâm chiến lược như Phát Diệm, Bùi Chu bị Pháp bỏ rơi. Nhiều dân quân chạy không kịp bị Việt Minh bắt và giết hại.
Hà Nội vốn yên tĩnh, lúc đó đang sống thanh bình không nghe tiếng súng. Những vũ trường, hàng quán sang trọng và độc đáo với những thắng cảnh nổi tiếng đầy bóng dáng người đẹp thướt tha. Cuộc di tản 4 tỉnh phía Nam làm cho đường phố Hà Nội đông người thêm nhưng vẫn không mất vẻ mỹ lệ của đất Thăng Long ngàn năm văn vật.
Lúc ấy hội nghị Geneve bắt đầu họp. Ai cũng thấy phe Cộng Sản đang nắm ưu thế. Những người có quan tâm đều lo ngại không biết sẽ đình chiến kiểu nào. Có thể là hai bên ngưng bắn xen kẽ mà sau này năm 1972-73 người ta gọi là “giải pháp da beo.” Cũng có thể là chia đôi đất nước thành hai miền Nam và Bắc. Người ta cũng bàn tán gay go về ranh giới đình chiến sẽ nằm ở vĩ tuyến nào? Vĩ tuyến 13, 16 hay 19?
Đầu tháng 7, ông Diệm ra Hà Nội. Một số đông đảo dân chúng chào đón ông, và nhiều người hy vọng vị nhân sĩ này sẽ cứu vãn tình hình. Sau đó ngày 7 tháng 7 năm 1954 ông Diệm chính thức nhậm chức thủ tướng. Ông thành lập Ủy Ban Bảo Vệ Bắc Việt. Các đoàn thể, đảng phái chống Cộng đều ủng hộ đường lối này. Nhiều sĩ quan, binh sĩ cũng sẵn sàng tham gia việc phòng thủ lãnh thổ phe quốc gia đang nắm giữ. Một số đông đảo đặt niềm hy vọng lớn lao vào sự trợ giúp của Hoa Kỳ thay thế người Pháp.
Nhóm chúng tôi là đảng viên Đại Việt và Quốc Dân Đảng đều hăng hái tham gia tuyên truyền vận động ủng hộ chủ trương giữ Bắc Việt. Đêm đêm, chúng tôi đi ném truyền đơn ở khu Hồ Tây, Cổ Ngư, Ngọc Sơn và nhiều nơi khác kể cả những nơi có lính Pháp lui tới. Hà Nội bắt đầu có không khí căng thẳng và phảng phất mùi chiến tranh.
Đường phố Hà Nội về khuya lần đầu tiên có những bóng dáng cảnh sát võ trang súng trận Mas-36 và quân phục tác chiến đi tuần tiễu. Nhưng các cơ sở dân sự cơ yếu và doanh trại quan trọng của Quân Đội Quốc Gia đều thấy có lính Maroc hoặc da đen canh gác, rõ ràng là Pháp đang phòng ngừa chính biến chống lại họ.
Ngày 14 tháng 7, quân đội Pháp tổ chức diễn binh ờ Bờ Hồ phía Tòa Thị Chính. Thông cáo và bích chương của Pháp vẽ hình nắm đấm được thấy khắp nơi. Pháp giải thích rằng rút 4 tỉnh phía Nam là bàn tay trước kia xòe ra nay nắm lại để đánh mạnh hơn. Tất nhiên ít ai tin vào luận điệu này.
Đám học sinh chúng tôi từ Nam Định chạy về nhiều đứa tình nguyện vào Khóa 5 Sĩ Quan Trừ Bị và lục tục lên đường khoảng trước ngày 15 tháng 7 năm 1954. Phần còn lại thường tìm gặp nhau trao đổi tin tức và bàn luận về tình hình đất nước.
Chiều 21 tháng 7 năm 1954 khi bọn tôi đang tụ họp thì có tin trên đài Con Nhạn (Hirondelle) của quân đội Pháp vang lên lời loan báo “Hiệp Định Đình Chiến đã được ký kết.” Tờ báo của quân đội Pháp cũng đăng câu ấy trên trang nhất bằng chữ lớn. Mọi người bàng hoàng dù biết trước thế nào việc này cũng sẽ đến. Báo này cho hay đất nước phân chia ở sông Bến Hải, Vĩ Tuyến 17.


Tân Thủ Tướng Pháp Mendès-France nhậm chức ngày 17/6/54, đã tuyên bố rằng ông ta sẽ từ chức nếu không đạt được thỏa hiệp trước ngày 20 tháng 7 năm 1954. Vì thế hiệp định Geneve về Đông Dương được ký lúc sáng sớm ngày 21 nhưng nhà cầm quyền Pháp đã cho đồng hồ ngưng chạy từ đêm trước để làm như lúc ấy vẫn còn là ngày 20. Tại Việt Nam thời điểm này là trưa ngày 21.


Hà Nội liền thay đổi rõ rệt. Niềm hy vọng giữ Bắc Việt lịm tắt dần và dân chúng nóng lòng về tin tức sẽ có cuộc di cư. Một số bài trên báo chí đang từ thái độ chống cộng quay dần sang ủng hộ Việt Minh. Người các tỉnh đổ về Hà Nội đông đảo. Cán bộ Việt Minh cấp thấp ra vào Hà Nội dễ dàng. Đồ chơi trẻ em bày bán trước dịp Trung Thu có những chiếc máy bay, xe thiết giáp, xe chở lính, tàu thủy được sơn cờ đỏ sao vàng. Các cơ quan an ninh chẳng ai thèm để ý.


Một số cán bộ Việt Minh quen biết gia đình tôi đến thăm và khuyên gia đình tôi nên ở lại nhưng mẹ tôi và tôi đã dứt khoát ra đi. Sau đó 4 tháng, chúng tôi gặp lại vài người trong số cán bộ này ở Sài Gòn. Chính họ cũng đã mau chóng nhận rõ thực chất của Cộng Sản và kịp thời ra đi trước khi cảng Hải Phòng đóng cửa tháng 3 năm 1955.


Những gia đình chuẩn bị di cư đem đồ đạc bày bán dọc bờ hồ Thiền Quang làm thành một thứ chợ trời. Một buổi sáng sớm khi những người đầu tiên đang lục tục khuân đồ đạc đến chợ thì thấy có một lá cờ đỏ sao vàng treo trên tàng cây cao chừng ba bốn mét. Một thanh niên nổi nóng trèo lên giật lá cờ ném xuống đất.


Một trung tá người Pháp đi bộ ngang qua hung hăng can thiệp, lớn tiếng đại ý nói đó là quốc kỳ của một nhà nước, không được xúc phạm. Ông ta không ngờ những người bán chợ trời đều không ưa lá cờ máu ấy. Thế là xô xát xẩy ra, kết quả viên trung tá bị trọng thương vì gạch đá gậy gộc cho đến lúc xe quân cảnh Pháp cấp cứu.

Tin tức về di cư được loan báo chính thức vào đầu tháng 8. Nhiều nhà giầu đã đi vào Nam bằng phương tiện riêng. Đại đa số còn lại đợi ghi danh di cư bằng phi cơ và tàu biển. Trong nhóm chúng tôi từ Nam Định lên, phần đi Khóa 5 Thủ Đức, số còn lại một phần tham gia đoàn cán bộ xã hội được gửi vào Nam để phụ trách các trại tiếp cư do Bộ Xã Hội thiết lập. Tôi ở trong số này. Buổi chiều ngày 11 tháng 8 năm 1954 bốn đứa bọn tôi đi bộ thăm tất cả các di tích và thắng cảnh quanh Hà Nội lần cuối.



vn54_02




Hình chụp vào tháng 9 năm 1954 với một số người Bắc di cư trên tàu USS Bayfield khi tàu vừa cặp bến Saigon. Sau Hiệp Định Geneve, tàu USS Bayfield là một trong những vận-chuyển hạm của Hải Quân Hoa Kỳ được giao phó nhiệm vụ chở người tị nạn từ Bắc vào Nam. (HÌNH ẢNH: Trung Tâm Quân Sử Hải Quân Hoa Kỳ).



Sáng sớm 12 tháng 8 khi qua cửa kiểm soát phi trường Gia Lâm, một trung úy Nhảy Dù người Pháp hỏi chuyện chúng tôi vì thấy 25 đứa trong đoàn cán bộ xã hội toàn là thanh niên còn trẻ. Sau khi nghe chúng tôi nói rõ lập trường và mục đích ra đi, ông ta nắm tay chúng tôi giọng xúc động nói rằng, “Nước Pháp đã liên tiếp sai lầm để các bạn chịu hậu quả đau đớn hôm nay.” Nói xong không ai ngờ viên trung úy trẻ dưới 30 này bật khóc, nước mắt chảy dài trên má.

Chúng tôi cũng cảm động tuy nhiên vẫn còn cầm được nước mắt. Nhưng khi phi cơ lượn một vòng lấy cao độ, tất cả đều ngó xuống. Giữa tấm thảm mây mưa xám xịt che kín bên dưới phi cơ có một khoảng trống vuông vắn hiện ra Hồ Gươm và 36 phố phường. Cảnh tượng tuy tầm thường nhưng lại gây xúc động mạnh, khiến đứa nào cũng rưng rưng nước mắt. Đây là lần chúng tôi vĩnh biệt Hà Nội. Vĩnh biệt miền Bắc.



Sau những giờ bay dài phi cơ đến Tân Sơn Nhất, cảnh những con rạch đỏ ngầu giữa hai hàng dừa xanh làm chúng tôi tươi vui hơn. Được đưa về nhận việc tại trại Bệnh Viện Bình Dân dưới quyền Bộ Xã Hội, ngày hôm sau chúng tôi được phân phối đi các trại tiếp cư khắp Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định. Đợt đầu tiên đồng bào di cư bằng cầu vận chuyển của chính phủ và các nước trợ giúp đã vào Sài Gòn từ đầu tháng 8 năm 1954.

Nhờ vào dịp hè, các trường học vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định được trưng dụng để đón nhận người di cư đến bằng phi cơ quân và dân sự, các quân vận hạm Mỹ như Marine Serpent và Marine Addler, các mẫu hạm Anh và Pháp. Trại tiếp cư lớn nhất vùng Sài Gòn là trại Phú Thọ Lều (sát trường đua Phú Thọ, gồm hàng trăm lều vải lớn mỗi lều chứa bốn năm gia đình do quân đội Mỹ dựng. Gọi là Phú Thọ Lều để phân biệt với trại Học Sinh Di Cư Phú Thọ ở gần kế đó. Trại Phú Thọ Lều chứa trên 10 ngàn người.

Trợ cấp tiền mặt một ngày cho mỗi người lớn 12 đồng, trẻ em 6 đồng, dư để ăn ba bữa tươm tất. Lúc ấy một bát phở hay một tô hủ tiếu giá 3 đồng, một bữa cơm ở quán ăn xã hội hai món canh và mặn giá 5 đồng. Chai bia 3 đồng kể cả nước đá, một gói thuốc lá Ruby 8 đồng. Lương giáo viên tiểu học khoảng hơn 4,000 đồng, lương trung sĩ 2,200 đồng, lương cán bộ ngang lương thấp là 1,500 đồng. Một căn nhà gỗ lợp tôn 4×20 mét ở mặt đường khoảng chợ Hòa Hưng giá chừng 30,000 đồng.



Đời sống trong các trại tiếp cư rất đa dạng. Sống chật chội chung đụng và ồn ào, làm nảy sinh nhiều vui buồn, đụng chạm, kết bạn, rã bạn, tạo ra những mối tình ái lăng nhăng xấu tốt đủ cỡ đủ kiểu. Những cảnh âu yếm giao tình nặng nhẹ bên bờ bụi gần trại trong đêm khuya vắng vẻ của trai gái, vợ chồng đủ lứa tuổi, là những nét sinh hoạt rất sống động có đủ vui, buồn, yêu, giận, phát khóc và nực cười.

Từ tháng 8 năm 1954, mỗi ngày có trung bình hàng ngàn người từ Hà Nội và Hải Phòng vào Sài Gòn bằng đường hàng không và nhiều ngàn người mỗi tuần bằng tàu chiến. Công việc định cư được tiến hành song song và khẩn thiết. Phủ Tổng Ủy Di Cư lúc ấy đã thay thế bộ Xã Hội trong nhiệm vụ chuyên biệt này.


Thời gian tạm cư kéo dài đến cuối năm 1954 và các trường học được trả lại cho học sinh. Trại Phú Thọ Lều giải tán. Người di cư theo nhau đi định cư khắp nơi, ở nhà tư hoặc ở các trại định cư khắp các tỉnh. Tính đến chuyến tàu sau cùng tháng 3 năm 1955 có khoảng 950,000 người từ bắc Vĩ Tuyến 17 di cư vào Nam.
Nếu tính theo giấy tờ, con số này có thể lên tới hơn 1 triệu vì có sự gian lận sổ sách của một số viên chức cán bộ lợi dụng thủ tục khai và lãnh tiền trợ cấp dễ dàng. Và không phải 90% người di cư là tín đồ Công Giáo như nhiều người nhận định. Số đồng bào Công Giáo di cư có lẽ chỉ chiếm khoảng 70% tổng số.


Một điểm đáng ghi nhận là đáng lẽ số người di cư còn cao hơn nữa nhưng vì vụ tướng Nguyễn Văn Hinh chống ông Diệm và những cuộc giao tranh giữa quân chính phủ và lực lượng Bình Xuyên đầu năm 1955 ở Sài Gòn nên nhiều người Bắc không dám vào Nam. Tin tức về vụ này làm một số rất nhiều người đã định ra đi nhưng vì e ngại loạn lạc mà đổi ý.



Nói chung, sự xuất hiện của ông Ngô Đình Diệm và thái độ can dự của người Mỹ đã gây được tin tưởng trong một số đông đảo người miền Bắc khiến họ yên tâm vào Nam. Đại đa số thành phần trí thức, chuyên viên cao cấp như kỹ sư, bác sĩ, chuyên viên trung cấp, thợ giỏi, đã rời bỏ đất Bắc khiến chính quyền ông Hồ Chí Minh gặp khó khăn lớn trong mục tiêu xây dựng một đội ngũ chuyên viên kỹ thuật mà họ cho là xương sống của nền kinh tế và khoa học kỹ thuật Xã Hội Chủ Nghĩa.




Cuộc di cư năm 1954 tạo ra những thay đổi sâu rộng trong lịch sử Việt Nam. Xin ghi lại một vài sự kiện nổi bật xảy ra và những nét đặc biệt của cuộc di cư sau Hiệp Định Geneve 1954 điển hình tại vùng thủ đô Sài Gòn.



Trước hết phải nhìn nhận cuộc di cư đã giúp hàn gắn những chia cách đáng buồn giữa hai miền trong nước. Tình trạng chia rẽ do hậu quả của những năm dài dưới chế độ thuộc địa Pháp đã tiêu tan mau chóng. Những dị biệt về phong tục, ngôn ngữ vì ngăn cách, lâu ngày được san bằng gần hết. Những ngăn cách và hiểu lầm còn lại không gây hậu quả nào nghiêm trọng. Về mặt chính trị và xã hội, sau nhiều biến chuyển và chiến tranh, cuộc di cư vĩ đại năm 1954 đã góp phần thay đổi bộ mặt bề ngoài cũng như nếp sống của dân chúng đến chỗ tốt đẹp, phong phú hơn.


Trước tháng 10 năm 1954, chính quyền địa phương còn gần y nguyên như thời Pháp Thuộc. Văn thư, giấy tờ, tên công sở, phố xá còn dùng tiếng Pháp. Từ khi chính phủ Ngô Đình Diệm nắm toàn quyền sau những âm mưu đảo chánh bất thành, luật lệ được thi hành nghiêm chỉnh. Nhiều cải cách hành chánh đã làm giảm hẳn nạn giấy tờ nhiêu khê. Văn thư, giấy tờ đều bắt đầu dùng tiếng Việt. Xin Tư Pháp Lý Lịch bây giờ chỉ mất một tuần thay vì đợi 3 tháng. Xin chứng nhận bản sao đợi lấy ngay hay sau vài giờ thay vì một tuần lễ. Các cuộc cải tổ mạnh mẽ được tiến hành có kết quả tốt nhờ phần nào ở sự ủng hộ tích cực của đồng bào di cư đối với chính phủ.


Cuộc đổi tiền Đông Dương thành tiền Việt Nam năm 1955 trong 3 ngày không giới hạn số lượng là một đòn bất ngờ vô hiệu hóa hàng tỷ bạc Đông Dương mà chính quyền Hồ Chí Minh thu gom được ở miền Bắc vì họ không kịp chuyển vào Nam để đổi lấy tiền miền Nam mới. Đợt đổi tiền này cũng chấm dứt luôn thói quen tiêu dùng coi nửa tờ giấy bạc 1 đồng như 5 cắc (hào). Khi cần xài hay trả lại 5 cắc, chỉ cần xé đôi tờ giấy bạc một đồng. Đành rằng tập tục này không áp dụng cho những giấy bạc mệnh giá trên một đồng.

Lúc ấy ảnh hưởng tuyên truyền của Cộng Sản rất mạnh ở nam phần ngay tại Sài Gòn. Nhiều người mở đài Hà Nội công khai mà không ai bắt bớ. Nhiều người miền Nam ít hiểu biết về thực tế Cộng Sản đã thật thà hỏi mấy đồng bào di cư mới gặp gỡ rằng “Ngoài Bắc đã độc lập rồi, mấy thầy cô dô đây làm chi?” Do đó đã xẩy ra một số đụng chạm nhỏ trong tháng đầu. Dần dần đồng bào miền Nam mới nhìn đồng bào di cư một cách có thiện cảm hơn.

 Trong bối cảnh ấy, lực lượng học sinh di cư đã dẫn đầu cuộc biểu tình vào dịp 20 tháng 7 năm 1955 đòi tống xuất các đoàn đại biểu của quân đội Cộng Sản từ Hà Nội trú đóng tại hai khách sạn Majestic và Galliéni (đường Trần Hưng Đạo). Khi bị khiêu khích, cuộc biểu tình biến thành bạo động, gây thiệt hại nặng cho hai khách sạn nhưng không có thương vong quan trọng. Những hành vi cương quyết của quần chúng khiến bọn thân Cộng Sản không còn nhởn nhơ tuyên truyền bán công khai như trước.
Người di cư tiếp xúc, trao đổi với dân chúng địa phương mau chóng tạo ra những hiểu biết và thông cảm. Về kinh tế thương mại, người Bắc vào Nam đã mở mang thương trường, ra các cửa hàng nhất là hàng ăn. Năm 1954 hầu hết cửa tiệm ăn do người Hoa kinh doanh, và họ dành độc quyền ngành lúa gạo cũng như các sạp thịt ở mọi chợ. Đời sống dễ dàng ở miền Nam khiến người Việt ít muốn cạnh tranh, ngay như ngành công chức cũng không hấp dẫn nhiều người. Bà con lao động xích lô kiếm đủ tiền tiêu trong ngày nhiều khi đẩy xe lên lề dưới bóng cây làm một giấc, khách gọi mấy cũng từ chối. Cách biệt giầu nghèo ở Nam Việt lúc ấy rất ít.
Các tầng lớp dân di cư cần cù chịu đựng tham gia thị trường lao động đã làm cho đời sống kinh tế miền Nam lên cao nhưng lại buộc mọi người phải làm ăn chăm chỉ hơn. Một số người địa phương không hài lòng vì nếp sống thong thả lè phè cũ đã mất đi không còn trở lại.


vn54_03 



Hình chụp tại Saigon vào tháng 10 năm 1954 trong một trại định cư với hàng trăm căn lều. Lúc đó, một trong những trại định cư lớn nhất ở Saigon là trại Phú Thọ Lều được thiết lập tại Quận 10 sát bên trường đưa Phú Thọ. Trại này có lúc đã chứa đến 10,000 người di cư. (HÌNH ẢNH: VNCTLS sưu tầm). 

Trang phục phụ nữ hai miền khác nhau, nổi rõ nhất là giới nữ sinh trung học tuổi đôi tám. Nữ sinh Hà Nội làm dáng sớm hơn, quần hẹp, áo dài nở vòng số một. 
Nữ sinh Sài Gòn vận quần trắng rộng, áo bà ba trắng nhiều hơn áo dài được may vòng số 1 tương đối phẳng phiu có lẽ vì đó là cách tỏ ra là con nhà nghiêm túc. Sau hơn một năm các cô hai miền tự nhiên hòa hợp cách ăn mặc, bọn thanh niên sinh viên học sinh chúng tôi không còn phân biệt được gốc gác các cô qua y phục nữa. Điều quan trọng và dễ thương hơn hết là những câu chuyện tình Bắc duyên Nam đã nhiều khi hóa giải rất nhiều cho những mâu thuẫn văn hóa chính trị.
Các trường phía Bắc di chuyển vào Sài Gòn giữ gần y nguyên ban giám hiệu và tổ chức riêng. Từ Hà Nội vào, Chu Văn An tiếp tục tại cơ sở cạnh Petrus Ký. Trưng Vương học chung cơ sở nhưng khác giờ với Gia Long… sau hai ba năm mới ra học ở các cơ sở riêng trước Thảo Cầm Viên. Mấy năm sau nữa thì học sinh gốc hai miền dần dần pha trộn.
Chuyện đáng nhớ là năm 1955 học sinh Bắc vào Nam và các bạn gốc miền Nam mở chiến dịch phá bỏ tên đường tiếng Pháp. Nhờ đó mà việc đặt tên đường mới, vốn là việc mất nhiều công sức, đã được Tòa Đô Chánh Sài Gòn thực hiện trong vòng khoảng một tháng.
Về mặt văn hóa và báo chí, các nhà văn, nhà thơ, nhà báo từ Bắc vào Nam đã hòa hợp với đồng nghiệp miền Nam tạo ra sinh khí mới, lối viết và văn phong, sắc thái trong sáng, có sức truyền đạt hơn. Sau một thời gian ngắn người đọc chỉ có thể nhận thấy một số khác biệt ít ỏi giữa bài vở sách báo do các tác giả gốc từ các miền khác nhau viết ra.
Đặc biệt là về tân nhạc, lớp nhạc sĩ và ca sĩ cũng như những người yêu nhạc từ miền Bắc vào Nam đã lôi cuốn được phong trào âm nhạc mới phát triển mạnh để tiến đến tới cao điểm nghệ thuật ca nhạc trong các thập niên sau. Và ngược lại số người Bắc di cư hâm mộ ca nhạc kịch cải lương cũng gia tăng nhiều.
Về mặt ăn chơi, sự thay đổi rõ rệt hơn. Sòng bạc Kim Chung, Đại Thế Giới, khu mại dâm Bình Khang bị đóng cửa đầu năm 1955. Giữa năm 1954 cả Sài Gòn hình như chỉ có 2 hay 3 tiệm phở Bắc. Chỉ sau vài tháng số tiệm phở tăng đến hàng chục. Các quán cà phê cũng lục tục ra đời cùng với các ngành buôn bán khác. Các xuất gọi là phụ diễn tân nhạc trước khi chiếu phim chính ra đời dần dần tiến đến những buổi trình diễn âm nhạc chuyên nghiệp gọi là “nhạc hội” giúp vào việc phổ biến âm nhạc sâu rộng hơn. Trước đó hoạt động âm nhạc chỉ được biết qua các chương trình ca nhạc và các cuộc thi hát, tuyển lựa ca sĩ của các đài phát thanh quốc gia, đài quân đội và đài Pháp Á cùng hai đài Huế và Hà Nội.
Ngôn ngữ hai miền sau cuộc di cư cũng thay đổi và pha trộn về từ ngữ tuy vẫn giữ những nét độc đáo của từng vùng mà không lai giọng. Điểm đáng lưu ý là sau nhiều năm gia đình gốc gác miền Bắc di cư có con cái đứa thì nói giọng địa phương (Nam hay Trung), đứa thì nói giọng Bắc, đứa thì nói cả hai ba giọng tùy theo môi trưởng xóm giềng và trường học. Nhưng không mấy ai nói lẫn lộn cùng một lúc các giọng khác nhau.


2200839095_edda0f9272_o1



Về mặt đời sống xã hội, người di cư dần dần và chậm chạp chịu ảnh hưởng bởi lối sống phóng khoáng, chân thật, thẳng thắn của dân miền Nam. Sau một thế hệ, tính nết người Bắc di cư khác hẳn tính nết của đồng hương của họ còn ở lại quê nhà. Đến sau 30 tháng 4 năm 1975 người ta càng thấy điều này rõ rệt hơn khi gặp đợt Bắc Kỳ mới vào Nam.
Trong đời sống tinh thần, có hai sự kiện đáng nhớ trong thời gian ấy. Một là trước ngày Việt Minh tiếp thu Hà Nội thì chùa Một Cột, di tích quý báu nhất của Việt Nam bị kẻ vô danh phá bằng chất nổ. Rất may chùa chỉ hư hại một góc. Nghe tin ấy chúng tôi đều hết sức buồn phiền. Hai là giữa lúc nhịp độ di cư đang lên cao thì Hoàng Dương, em nhạc sĩ Hoàng Trọng cho ra đời ca khúc Hướng Về Hà Nội với lời ca tha thiết “Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi… mái trường phượng vĩ dâng hoa, dáng chiều ủ bóng tiên nga… biết đâu ngày ấy anh về.” Ca khúc này khiến lứa tuổi 18, 19 chúng tôi cảm thấy rõ điều mà các văn thi nhạc sĩ gọi là “tan nát cõi lòng.”


2388937673_b0c203cf80_o2





Dĩ nhiên trong ngót một triệu người Bắc di cư có đủ mọi thành phần tốt xấu kể cả đầu trộm đuôi cướp, quan lại tham nhũng, trọc phú bất lương, tay sai thực dân và nội tuyến Cộng Sản. Nhưng so với số các phần tử tinh hoa của xã hội, số người yêu nước, chuyên viên giỏi các loại, các nhân sĩ, trí thức, chiến sĩ quốc gia chân chính, thì những phần tử xấu xa nói trên chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ bé.


Một số người cho rằng người miền Bắc di cư đã là chứng nhân lịch sử khiến đồng bào miền Nam hiểu rõ bản chất của chế độ Cộng Sản. Điều đó có thể đúng một phần nhỏ. Phần quan trọng hơn là chính vì thực tế những đường lối mà Cộng Sản thi hành tại miền Nam tại nông thôn từ khoảng năm 1961 trở đi. Từ đó họ đã thấy rằng chế độ Cộng Sản đi ngược lại quyền lợi và sự an hòa của nhân dân ta nhất là giai cấp nghèo khổ ở nông thôn.


2614259143_d7783c57d6_o



Tôi và các bạn cùng lứa tuổi di cư vào ở miền Nam gần 40 năm tính đến năm 1990 qua di trú sang Hoa Kỳ. Tuy sinh ra trên đất Bắc nhưng chỉ ở Bắc dưới 20 năm trong đó mới biết chuyện đời được dăm ba năm. Vì thế chúng tôi có hai miền quê quán. Quê quán thứ nhất ở miền Bắc còn ở trong tim nhiều hơn. Quê quán thứ hai ở miền Nam sau ngày di cư năm 1954 mới thực sự chứa đựng nhiều vui buồn, yêu thương, giận dỗi, vinh quang và tủi nhục vì trải qua quãng đường đời dài 40 năm với biết bao nhiêu là kỷ niệm.


Lữ Tuấn

No comments:

Post a Comment