Pages

Thursday, October 27, 2016

VIỆT CỘNG -TRUNG CỘNG - TRẦN ĐỨC THẢO

METAMORPH * ĐỈNH CAO TRÍ TUỆ

MỘT BÀI PHÂN TÍCH từ một cây bút Hà Nội về đám “Đỉnh cao trí tuệ của loài người!” (*)MetamorphHà Nội
 
“Vẫn là hoang tưởng rằng Mỹ là bọn thèm Biển Đông hơn chúng ta thèm Biển Đông. Từ lâu chúng ta yên chí rằng chỉ cần búng tay một cái, Mỹ sẵn sàng lao vào lửa đạn bảo vệ chúng ta trong khi đó chúng ta vẫn sa sả chửi rủa Mỹ. Chúng ta yên chí rằng Mỹ là cỗ máy chiến tranh luôn sẵn sàng chờ lịnh ta để khai hỏa. Làm như cái “lịnh ta” là một ơn huệ hay một vinh dự chúng ta ban cho Mỹ vậy.” -Tác giả: Metamorph
 
Từ mặc cảm tự ti rất dễ dàng đưa tới mặc cảm tự tôn rồi tiến đến hoang tưởng.
Tất cả xuất phát từ chỗ:  Không có gì để tự tin.
 
Bộ Ngoại Giao VN tung ra một chiến dịch ngoại giao để lôi kéo các quốc gia lân cận cùng nhau liên minh chống hiểm họa bành trướng Bắc Kinh, mặc dầu suốt cuộc chiến chống Mỹ, chúng ta không tiếc lời mạt sát khối Liên Phòng Đông Nam Á là sản phẩm của chính sách gây hấn và can thiệp của đế quốc Mỹ
 
Ôn cố:   Cái hoang tưởng của chúng ta
 
Mỗi khi gặp chuyện gì khó khăn, chúng ta thường mang cái quá khứ oanh liệt ra để tự ru ngủ, mong cái men chiến thắng của cha ông thành liều thuốc an thần trấn áp đi cái bất định, cái nan giải hiện tại. Chúng ta từ khước một đặc điểm sinh tồn cốt yếu: Học từ thất bại quá khứ để xác định bước đi hiện tại sao cho dẫn đến thành công tương lai.
 
Chúng ta nhắc đến cái chiến thắng giặc Hán, Pháp, Mỹ mỗi ngày.  Nhưng chúng ta tuyệt nhiên không hề nhắc đến cái nạn đói 1975-1990 do sai lầm của chúng ta, một nạn đói có thể tránh được nếu chúng ta đừng quá say mê với chiến thắng – và vì say mê với chiến thắng, chúng ta coi thường cái nguy cơ tụt hậu, nghèo đói, bị cô lập.
 
Năm 1978 trước khi xua đại quân tiến chiếm Nam Vang.
 
Tháng 6-1978, khi Việt Nam bắt đầu oanh tạc Cambodia, Phan Hiền sang Mã Lai tuyên bố ủng hộ một Đông Nam Á hòa bình và trung lập. Sau đó,  vào tháng 9, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng sang Mã Lai đặt vòng hoa tưởng niệm các chiến sĩ Mã đã hy sinh vì chống … Mã Cộng. Thêm vào đó, ông còn xin lỗi các lãnh đạo Mã Lai vì trót lỡ viện trợ vũ khí cho phiến quân Mã Cộng vì “hiểu sai tình hình” (flawed understanding of the situation). Sang Băng Cốc, Thái Lan, thủ tướng Phạm Văn Đồng cam kết không yểm trợ bọn Thái Cộng CPT (Communist Party of Thailand) vốn bị hiến pháp Thái Lan đặt ngoài vòng pháp luật.
 
Lãnh đạo Việt Nam chỉ muốn ký kết một hiệp ước hữu nghị và hợp tác với các quốc gia Đông Nam Á để chuẩn bị cho một hàng cừ, hay bờ đê, ngăn chận cơn lũ bành trướng Bắc Kinh. Đồng thời cách nửa vòng trái đất, ở Nữu Ước, bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng thúc đẩy nỗ lực bình thường hóa ngoại giao với Mỹ. Lần này, chúng ta không đặt điều kiện bồi thường 3 tỉ mà Nixon đã hứa ở hiệp định Paris 1972 (Nguồn: Brother Enemy của Nayan Chanda).

Như chúng ta đã biết, tất cả đều vô ích. liên minh Đông Nam Á –  từ lâu bị ám ảnh một Việt Nam hung hãn, quyết làm một mũi nhọn xung kích của thế lực Cộng Sản –  đều lịch sự từ chối “lòng tốt” của chúng ta.  Và Mỹ, sau khi tiếp Đặng Tiểu Bình, cũng lịch sự gác lại chuyện bình thường hóa ngoại giao với Việt Nam và không hứa ngày đàm phán lại vấn đề đó.
 
Quan trọng hơn, chúng ta chựng lại trong khi các quốc gia láng giềng tiến bộ vượt bực về khoa học, kỹ thuật, giáo dục, xã hội, kinh tế…  Chúng ta quay về thời xe hơi chạy than, xe bò, ăn bo bo, mặc quần áo vá, dùng phân xanh như thời Trung Cổ. Chúng ta dường như cấm kỵ không hề nhắc đến cái thất bại có thể tránh được đó,  chỉ vì hội chứng say sưa với chiến thắng.  “Thắng đế quốc Mỹ ta có thể thắng được mọi thứ khác”.

Chúng ta hoang tưởng rằng cả thế giới đều ngưỡng mộ chúng ta, và cả thế giới cần chúng ta hơn là chúng ta cần họ. Với Mỹ, họ là kẻ thua, họ phải “bồi thường” mới hòng được chúng ta chìa tay cho mà bắt.
 
Với Đông Nam Á, một Việt Nam với hơn 8 quân đoàn sát bên nách,  VN đáng gờm hơn là cái hiểm họa bành trướng từ Bắc Kinh xa vời vợi.  Nếu chúng ta hồi tưởng lại, việc tiếp tế cho phiến quân Mã Cộng, Thái Cộng trước đây đã khiến cho VN không thể khôi phục được lòng tin của các quốc gia Đông Nam Á bằng một vài cử chỉ ngoại giao thân thiện.
 
Xét cho cùng, ta vẫn có thể chiến thắng Mỹ mà không cần phải thù nghịch với các quốc gia Đông Nam Á vì họ thủy chung không tiếp tay với Mỹ trong cuộc chiến, ngoại trừ Thái Lan (cho mướn căn cứ Utapao) và Hàn Quốc (Hàn Quốc gửi quân tham chiến nhưng Hàn Quốc không thuộc Đông Nam Á).

Ta học được điều gì nếu chúng ta thực sự muốn học? Không nên có nhiều kẻ thù không cần thiết,  và tuyệt đối không hoang tưởng ta quan trọng tới mức họ cần ta hơn ta cần họ.
 
Tri tân: Lại hoang tưởng Mỹ cần Biển Đông hơn ta cần Biển Đông
 
Đệ nhị Thế Chiến có một nguyên nhân kinh tế và sâu xa hơn, một nhu cầu thời đại. Đó là có vài cường quốc muốn xóa mọi trật tự thế giới để mong có phần của mình trong bối cảnh mới. Cách mạng khoa học kỹ thuật trên nền tảng Newton đã phát sinh động cơ nổ kéo các toa xe lửa, xe hơi, tàu bè và máy bay.

Từ đấy các quốc gia tiên tiến tìm kiếm, bòn rút các thuộc địa nhằm đáp ứng nhu cầu nhiên liệu, nguyên liệu cho kỹ thuật.  Đức, Ý, Nhật là những cường quốc chậm chân không có thuộc địa để phát triển và tận dụng khoa học kỹ thuật mới. Lấy đâu ra cao su làm vỏ xe hơi?  Xăng dầu?  Sắt thép?   So với các cường quốc như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… thì Đức, Ý, Nhật mạnh hơn nhưng không có tương lai vì không có nguyên liệu lấy từ các thuộc địa. Họ muốn xóa bỏ mọi trật tự cũ hòng mong thế giới chia cho mình cái phần mình đáng được hưởng.

Đức tiến chiếm Âu Châu. Không chịu kém, Nhật tiến chiếm Á châu và thế chiến bùng nổ để khởi đầu cho một trật tự mới mà trong đó, các cường quốc nào cảm thấy mình chịu thiệt, phải chiến đấu giành bằng được cái phần mà họ cho rằng mình đáng được hưởng.

Trung Quốc chẳng học được điều gì cả. Họ cần con đường chuyên chở nhiên liệu từ Trung Đông mà họ cho rằng với vị thế của họ hiện nay, họ đáng được hưởng. Tham vọng của họ xuyên suốt từ Bắc Kinh vòng qua eo Malacca, băng qua Ấn Độ vào Trung Đông chứ không chỉ ngừng lại sau khi chiếm trọn biển Việt Nam.  Không may cho ta, Việt Nam là đích đầu tiên trong cuồng vọng chiếm lĩnh cái hải trình năng lượng đó.
 
Trung Quốc sai ở chỗ nó không tự lượng sức. Thời đệ nhị Thế Chiến, hải quân hoàng gia Nhật có 20 hàng không mẫu hạm (http://en.wikipedia.org/wiki/Imperial_Japanese_Navy_of_World_War_II) mà vẫn thảm bại trước hạm đội 7 Mỹ.

Ngày nay, Trung Quốc mua được một tàu phế thải, vá víu sửa chữa cho giống một mẫu hạm rồi tập tành chinh phục thế giới. Không cần là một chuyên gia quân sự, ai cũng có thể nhận thấy Trung Quốc phải cần ít nhất 20 mẫu hạm để có thể uy hiếp Nhật, 20 nữa để có thể uy hiếp xa đến Ấn, và không biết bao nhiêu nữa mới có thể uy hiếp Nga hay Mỹ.

Năm xưa Sô Viết sa lầy ở Afghanistan và Cambodia (tiếng rằng Việt Nam sa lầy nhưng chỉ tổn thất nhân mạng, thực ra Sô Viết sa lầy vì phải chi viện đạn, xăng, khí cụ cho Việt Nam) 10 năm sa lầy khiến Sô Viết không dẫy mà chết.   Nay Trung Quốc thì để làm chủ hành lang năng lượng, với bao nhiêu mẫu hạm và nguy cơ đối đầu với một siêu cường có thể sản suất ra một số lượng mẫu hạm không thể ước tính nổi là Mỹ, bao lâu thì Trung Quốc không dãy mà chết? Nhà giàu (Mỹ) đứt tay bằng ăn mày đổ ruột. Ở vị thế siêu cường số 2, Trung Quốc không muốn thi gan một mất một còn với ai, mà chỉ muốn áp đảo những kẻ không thể tự bảo vệ. Vâng.  Nếu tôi là thằng nhà giàu số 2 tôi sẽ cố giữ vị thế đó, còn hơn làm thằng nghèo sặc máu hạng bét nếu thua trận. Tốt nhất chỉ nên bắt nạt thằng không thể tự vệ.

Không may Việt Nam ta là thằng không thể tự vệ. Đúng hơn chúng ta là thằng tự xua đuổi đồng minh nên không thể tự vệ. Mới đây,  một đại tá Việt Nam – ông Trần Đăng Thanh (Phó giáo sư tiến sĩ Học viện Chính Trị, Bộ Quốc phòng –  đã nói: “Nước Mỹ chẳng bao giờ tốt với chúng ta, chỉ có Trung Quốc tốt với chúng ta.”

Câu này thật là tai hại. Các tay yêu nước kiểu loa phường thường đòi “bằng chứng đâu?”, “sai chỗ nào?” mỗi khi chúng ta vấp phải những sai lầm chí tử. Thậm chí có bác còn chống chế: “Ứng khẩu nói không thể chính xác như đã soạn trước rồi đọc” khi thấy ông đại tá nói sai be bét. Như chúng ta biết, một giáo viên cấp cơ sở cũng ứng khẩu chứ có ai giảng bài mà đọc từ giấy đâu mà chẳng bao giờ sai. Cái này rõ ràng trình độ ông đại tá có vấn đề. Thì tiện đây, tôi xin phân tích cái tai hại của ông đại tá.

Vẫn là hoang tưởng rằng Mỹ là bọn thèm Biển Đông hơn chúng ta thèm Biển Đông. Từ lâu chúng ta yên chí rằng chỉ cần búng tay một cái, Mỹ sẵn sàng lao vào lửa đạn bảo vệ chúng ta trong khi đó chúng ta vẫn sa sả chửi rủa Mỹ. Chúng ta yên chí rằng Mỹ là cỗ máy chiến tranh luôn sẵn sàng chờ lịnh ta để khai hỏa. Làm như cái “lịnh ta” là một ơn huệ hay một vinh dự chúng ta ban cho Mỹ vậy.

Tệ hơn nữa, chúng ta chẳng bao giờ thèm tìm hiểu xem tại sao ta có được mỗi năm 100 tỉ tiền đầu tư FDI để phát triển kinh tế. Ta cũng không mảy may lo ngại từ nay cái FDI đó sẽ chuyển hướng sang Miến Điện, nơi thỉnh thoảng không có những trò bẽ mặt như công an ta quăng nhà ngoại giao Mỹ lên xe cây, ta làm ngơ khi Tổng thống Mỹ xin ân xá cho một vài người phạm tội rất nhẹ;  và mới đây, qua miệng một đại tá thuộc bộ Quốc Phòng nói thẳng Mỹ luôn luôn có tâm địa xấu với Việt Nam.
 
Vâng điều này vẫn có thể là chủ trương của chính phủ,  vì nỗi sợ canh cánh những cuộc cách mạng Hoa Hồng khắp nơi.  Nhưng nói toạc ra, điều này nó chặn đứng ngay tức khắc bao nhiêu nguồn trợ giúp đang xúc tiến và sẽ thựïc hiện giữa 2 nước. Hãy giả thử một mai Trung Quốc nuốt gọn Biển Đông, Mỹ phải làm sao khi “người ta” đã nói thẳng “mày không bao giờ tử tế”?

Một kẻ có chút liêm sỉ sẽ không xăn tay áo giúp đỡ ta một khi ta từng mắng mỏ và từ chối mọi hảo tâm của nó. Hãy đặt mình vào não trạng một người bị cự tuyệt để suy luận phản ứng của họ trong tình huống khẩn thiết nhất. Năm 1975 Mỹ bỏ Nam Việt Nam được thì Mỹ bỏ Biển Đông năm 2012 được.  Đối với Mỹ, 1 nước Cộng Sản kéo dài từ Yên Kinh tới Côn Minh hay kéo dài tới Cà Mau (trường hợp Trung Quốc nuốt gọn Việt Nam) cũng vẫn là 1 nước Cộng Sản, chẳng qua là 1 nước Cộng sản dài hơn 1 chút xíu.
 
Nói khác đi, một Việt Nam do Tập Cận Bình lãnh đạo cũng chẳng khác gì một Việt Nam do Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo. Mỹ chỉ quan tâm nếu Việt Nam lột xác thay đổi như kiểu Miến Điện thôi. Ngoài ra Cộng Sản nào cũng rứa. Điều đáng lẽ chỉ nên giấu kín trong bụng nay đã lỡ nói toạc ra rồi thì Mỹ không còn lý do gì lưu luyến nữa cả. Từ nay khỏi phải nói về nhân quyền nữa để khỏi bị cái sượng sùng của tình cảnh nước đổ đầu vịt, hay về tham nhũng để khỏi phải kinh doanh ở một nơi vô luật lệ, về dân chủ để khỏi bị lên án là phá hoại, ác ý.
 
Việt Nam và Phi Luật Tân cách nhau một chuỗi đảo là Hoàng Sa và Trường Sa. Có 2 con đường hàng hải đi qua Biển Đông là Tây Trường Sa và Đông Trường Sa. Nếu Việt Nam tỏ ý không cần Biển Đông bằng Mỹ cần Biển Đông thì từ nay Mỹ sẽ bỏ Biển Đông như đã bỏ Nam Việt Nam năm 1975.
 
Lịch sử cho thấy mất Sài Gòn không kéo theo mất Mã Lai, Thái Lan, Singapore như chủ thuyết Domino tiên đoán thì mất tây Biển Đông cũng không có nghĩa mất con đường hàng hải phía bên kia Trường Sa phía Phi Luật Tân. Mỹ chỉ cần bảo vệ Mã Lai, Phi Luật Tân, Nhật và các đồng minh khác, những đồng minh chưa bao giờ phát biểu: “Mỹ luôn là kẻ có tâm địa xấu”, dù trong thâm tâm cũng có các quốc gia Đông Nam Á nghĩ như vậy.
 
Trong lịch sử cận đại và hiện đại, dân tộc chúng ta hứng chịu nhiều cái sai lầm của lãnh đạo;  nhưng mặc cảm tự ti hóa trang thành tự tôn làm chúng ta không lãnh hội được gì cả.
 
Một chủng loài sẽ đi về đâu khi không thể sửa sai? Một thửa ruộng sẽ cho nhiều lúa hơn nếu chúng ta biết và muốn triệt cỏ năn. Củ năn cũng ngon ra phết. Phải ăn năn đã thì không sợ thiếu lúa.
 
Metamorph
Hà Nội
 
(*) Đầu đề được thêm mấy chữ bởi tòa soạn để lột tả đủ nội dung hơn
(Fw: tam <
hocongtam@gmail.com>, 8/17, 9.07AM)

TS. PHAN VĂN SONG * VIỆT CỘNG ĐU GIÂY



Việt Nam và Trò đi giây giữa hai bờ Thái bình Dương.Vừa muốn được cả kem sữa, vừa muốn được cả bà chủ bán sữa !
(Vouloir avoir et la Crème, et la Crèmière !)hay
Muốn được cả Voi lẫn cả Tiên.

TS Phan Văn Song


TRẢ VỀ QUÁ KHỨ
Cái anh chàng Việt Cộng cũng lạ ! Suốt cả mùa Hè vừa qua chạy suốt, chạy đôn, chạy đáo, giữa hai bờ Thái bình Dương, lăng xăng khi qua Tàu, lúc qua Mỹ, khi mời Tây đến thăm, khi đi thăm láng giềng xứ Thái. Tất cả được che đậy dưới hai chữ Ngoại Giao. Ngoại Giao đâu phải chỉ có đi chơi xong rồi ra về tuyên bố chung chung. Ngoại Giao phải có gì cụ thể chứ ! Trong gia đình, khi ông chủ gia đình, ông bố, ông chồng xuất ngoại đi chơi, đi công tác khi về nhà cũng phải có tý quà mọn cho vợ, cho con, cho thân bằng quyến thuộc. Nói tóm lại, ít ra bà con thiên hạ trong gia đình cũng nhận được tý hơi hám của cuộc du hành của ông chủ nhà.


Đằng nầy, các xếp lớn càng đi, thì ở nhà, kinh tế càng khó khăn, xăng lên giá, vật giá leo thang, lạm phát phi mã. Tháng bảy qua khi ông xếp chủ nhà, Tư Sang bắt buộc phải đi Mỹ, đúng vậy, Tư Sang bị bắt buộc phải đi Mỹ. Vì, sau hôm «đi sứ Bắc Kinh » về, quá tủi nhục, và trong nỗi ươn hèn, Tư Sang đành quyết định phải đi Mỹ. Quyết định trong cái lật đật, quyết định việc đi vào giờ chót - sau gởi giấy « xin » được mời - Ấy cũng do cái chuyến đi thất bại qua « chầu » các ông anh Tàu phù, bị hai tên Chệt đầu sỏ Lý-Tập (Ly Kequiang và Xi Jinping) chơi ép sao đó – mà khi về ấm ức, ấp a - ấp úng, kẹt với « 16 chữ vàng », nghẹn với « 4 tốt », nói ra không được, nuốt vào chẳng xong. Nên lật đật đi Mỹ, đi Mỹ là cầu viện Bác Sam râu xồm mũi lỏ, là nhờ anh Mỹ giúp đở treo màn, chưng hình « hù dọa » hai anh Ba để lấy lại tý thể diện « cuốc ja ». « Mầy coi chừng, mầy chơi ép tao quá, thì tao chơi với thằng Mỹ ! ».

Đấy là nghề của chàng, vừa đánh vừa đàm. Hồi xưa, thời những ông tổ Cộng sản Lénine, Staline đã dạy như vậy rồi. Lénine bao lần ký thỏa hiệp với các đồng minh thuở ban đầu cùng nhau làm cách mạng lật đổ chế độ Nga hoàng - stariste, từ các đồng chí cộng sản menchevik đến các đồng chí đệ tứ của Leon Trosky, tất cả đều bị Lénine và nhóm bolchevik của ông lật lọng giết hại để làm bá chủ Liên Bang Sô Viết. Staline, cũng vậy, không ngần ngại ký thỏa hiệp với kẻ thù Hitler, ký thỏa hiệp với kẻ thù Nhựt bổn, thỏa hiệp chưa ráo mực, thì đã trở mình đánh. Hồ Chí Minh miệng nói chống Thực dân, nhưng vẫn thỏa hiệp với Thực dân Pháp, khi Pháp trở lại, ký kết Hiệp định Độc lập trong Liên hiệp Pháp, vừa câu giờ chờ tiếp viện của Komintern-Cộng sản quốc tế, vừa để có thì giờ triệt hạ các đối thủ quốc gia Việt Nam để độc quyền yêu nước, độc tài lãnh đạo đánh Tây.
 
 
ăm xưa Hồ Chí Minh dám chơi trò « đi Pháp thương thuyết», để ở nhà, đệ tử Võ Nguyên Giáp thủ tiêu những nhà ái quốc phe quốc gia cả tin, thực thà, đến lúc gần chết vẫn tin nhóm Cộng sản và phong trào Việt Minh cũng là những phần tử yêu nước và cùng mình liên minh chống Pháp. Hai lần ký Hiệp Ước ngưng chiến, Hiệp định Genève 1954, Hiệp định Paris 1973, hai lần Việt Cộng Bắc Việt xé rào, xé Hiệp định, đem quân tràn vào miền Nam Việt Nam.

Những năm tháng qua, ngay từ những ngày đầu các tay đầu sỏ chế độ Cộng sản Hà nội bày đặt bắt đầu đi Mỹ, ngay từ thời trước Tư Sang hay hôm nay Tư Sang cũng vậy, mỗi lần các tay đầu sỏ xuất ngoại đi Mỹ, dù đi ngoại giao hay đi xin tiền, là ở nhà Công An được lịnh đàn áp, bắt người. Làm như đi Mỹ là cái bắt buộc, là có tội, là trật đường rầy. nên hể mỗi lần đi Mỹ là mỗi lần sửa sai, là ở nhà phải cứng rắn, phải Công An trị, đàn áp bắt người. Thật là : « Fais ce que je te dis et ne fais pas ce que je fais ! » - Hãy làm những gì tao bảo chớ làm teo tao !


Tư Sang hôm nay cũng vậy, cũng chơi trò « đi du Mỹ », đàn em ở nhà bèn ra lệnh cho những đệ tử Công An đàn áp những người yêu nước, thực thà chót dại cả tin, bao nhiêu năm theo Bác và Đảng với cái nhãn hiệu Xã hội Chủ nghĩa và Độc lập quốc gia giả hiệu của Việt Nam và dân tộc Việt.





Trở lại cuộc đi của Tư Sang. Tư Sang du Mỹ trong thế bị động, nên phải ngậm đắng nuốt cay, ngậm bồ hòn làm ngọt, chấp nhận được Mỹ tiếp đón loại hạng hai, loại « au rabais - đại hạ giá » nói theo kiểu tây. Mỹ còn xỏ lá, kỳ nầy, khi ra về Tư Sang còn được tiển ra cửa tiền của Toà Nhà Trắng (các phái đoàn Việt Cộng trước thường « được » đi cửa hậu để tránh biểu tình chống đối của « người Việt phản động - sic » !) và Tư Sang được thưởng thức dàn chào của « Việt Kiều khúc ruột ngàn dặm, giàu tiền lắm của ở không đi biểu tình chống Cộng » ! - Thật cũng đáng đời, cũng vì Tư Sang vì thấy phe ta vừa sang vừa giàu, nên tuyên bố vung vít, dám vơ cả vào làm họ, cám ơn ông Tổng thống Obama của Đảng dân chủ phản chiến đã cưu mang chăm sóc người tỵ nạn (Cộng sản chống Cộng) ! Và cũng có lẽ nhờ nói như vậy nên Tonton Obama mới tưởng thiệt, cho đi cửa tiền, để hắn ta thưởng thức « đồng bào khúc ruột ngàn dặm « woánh » Cộng, đả đảo Cộng, với rừng cờ vàng chống Cộng « nhiệt tình » đả đảo như thế nào !. Và cũng vì thèm được Mỹ cho tí bơ – beurre, butter, tặng tí sữa, và cũng vì nhận định « sai một cách cường điệu » rằng Mỹ vì quyền lợi trên Thái bình Dương sẽ không bỏ Việt Nam, vì Việt Nam có một địa lý chiến lược. Nên Tư Sang khi đi qua Mỹ, nhưng lòng vẫn sợ phật lòng Tàu, nên ra lệnh trong nước sửa soạn ra Nghị định 72, kiểm soát Mạng Thông tin – cho phù hợp, nhịp nhàng với chánh sách kiểm soát mạng Thông tin internet của Tàu.





Tư Sang khi ở Mỹ thì phải nói xuôi, thí dụ rằng cám ơn Mỹ đã cưu mang người Việt (tỵ nạn Cộng sản), thí dụ rằng đường lưỡi bò của Tàu không có cơ sở. Thì ở nhà, bổn phận tay Thứ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Thanh Sơn phải chữa lữa bằng cách nói ngược, chưởi ngay người Việt Hải ngoại được Mỹ trả tiền đi biểu tình. Tay mặt ra đòn, tay trái phải đở, nhịp nhàng. Mỹ vừa đặt chuyện Nhơn quyền, Việt Cộng phải ra ngay Nghị định 72. Và sau đó vài ngày, sai môt tay Tướng xin đàm phán mua vũ khí sát thương. Việt Nam mua vũ khí sát thương làm gì ? Nói chuyện mua khí giới là để chứng tỏ rằng Việt Nam sẽ không nhượng bộ Tàu, nếu Việt Nam có vũ khí sát thương. Nhưng vì Mỹ sai khi đặt vấn đề Nhơn quyền nên Việt Nam không có vũ khí sát thương, không đối đầu được với Tàu. Vì vậy, nếu Việt Nam có theo Tàu là lỗi Mỹ !





Tại sao Việt Nam Cộng sản múa may quay cuồng vậy ? Việt Nam theo Mỹ chống Tàu, để chứng minh cái gì ? chứng minh cho ai ? Việt Cộng biết trước là Mỹ không bao giờ giao trừng cho ác hết. Mỹ đã bị rồi, Mỹ một thời đã nuôi Bin Laden, bị Bin Laden phản là một kinh ngiệm đau thương (ngày 11 tháng 9 năm 2001), cũng vì vậy mà ngày nay Mỹ không tiếp viện quấn nổi dậy Syrie. Việt Nam biết vậy nên khi xin tiền Mỹ, khi Mỹ « tố » thách Nhơn quyền, Việt Nam không bao giờ « bắt cái tố » của Mỹ cả. Vì Việt Nam biết rằng Tàu không bao giờ đánh Việt Nam cả, vì Việt Nam đã là đất Tàu rồi.





Việt Nam tưởng Mỹ muốn Việt Nam vào PTT ( Hiệp tác Xuyên Thái bình Dương), Việt Nam lầm to ! Đối với Mỹ, có Việt Nam hay không cũng chả sao. Cứ nhìn cách xử sự giữa Mỹ với Phi Luật Tân, Singapore và so sánh với Việt Nam thì ta rõ vấn đề ! Chỉ có người Việt Hải ngoại mơ Việt Nam vào PTT nầy thôi, với hy vọng những tay Việt Cộng sau khi được vào những cơ quan quốc tế, làm ăn kiểu quốc tế đàng hoàng, sẽ biến thành người đàng hoàng. Sau khi vào làng chơi quốc tế sẽ biến thành người tử tế, làm ăn có khuôn có phép, ăn uống đàng hoàng, không còn húp xùm xụp nữa, không khạc nhổ bậy bạ nữa, không đi đường gặp hoa thi hái, gặp trái thì bẻ nữa… không săng quần, cổi giầy xuống biển lượm sò nữa, không đái bậy bên đường, không bỏ chơn lên ghế nữa… Đã 38 năm rồi, từ ngày 30 tháng tư năm 75, đã vào miền Nam Việt Nam, đã vào Sài gòn, góp mặt với văn minh từ lâu rồi. Đã 38 năm rồi, Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa đã là thành viên bao nhiêu cơ quan quốc tế, từ Liên Hiệp Quốc UNO đến Hiệp Hội Thương Mại Thế giới WTO, … bao nhiêu Tòa Đại sứ, bao nhiêu Lãnh sự trên thế giới, bao nhiêu du học sanh, thế mà thỉnh thoảng vẫn có những tai tiếng loại bà lớn Việt Nam nầy ăn cắp ở siêu thị, ông quan to kia đái bậy ngoài đường…Thỉnh thoảng ở Paris, bạn bè người viết và cả người viết cũng gặp vài người đồng hương ăn mặc bảnh bao toàn là hàng hiệu thứ đắc tiền, đồng hồ sang, điện thoại bảnh, vào tiệm phở ở quận 13 húp xùm xụp, nhai rào rào tự nhiên như người …Hà Lội vậy !..


Cái khổ của văn hóa Việt Cộng là vậy, lý luận từ lỗ rún ra, tự cho là “đỉnh cao trí tuệ”, tự cho ta là nhứt ! Việt Nam là trung tâm vũ trụ. Việt Nam có một địa lý chiến lược. Tàu cũng thích, Mỹ cũng ham. Vậy thì ta làm eo, ta sẽ thương thuyết du giây giữa mọi người và sẽ hưởng tất cả những quyền lợi. Hồi xưa, các đàn anh chánh trị gia Việt Nam Cộng Hòa, phe ta cũng lý luận như vậy : Mỹ sẽ không bao giờ bỏ ta cả, vì ta là chiến lược. Bỏ Việt Nam, Mỹ sẽ mất tất cả Đông Nam Á. Năm 1975, Mỹ bỏ Việt Nam Cộng Hòa, chả chết thằng Tây nào. Nam Dương, Mã lai, Thái Lan, Singapore bình yên như vại.
 
 Đó là chỉ nói đến các quốc gia láng giềng trên lý thuyết domino của Truman thôi. Trái lại nhờ chiến tranh ở miền Nam Việt Nam mà các quốc gia ấy phát triển suốt những năm từ 65 đến 75! Chỉ tội nghiệp ba quốc gia cựu Đông dương thôi. Ngày nay tuy đời sống hằng ngày có hơn lúc xưa ti tí, 38 năm rồi bắt buộc phải hơn thôi, nhưng vẫn chưa lên hàng quốc gia phát triển. Phát triển quốc gia Việt Nam giống như phát triển đường phố Hà nội hay Sài gòn, nhà cao, cửa đẹp, nhưng không có cống thoát nước nên mùa mưa đến là lụt lội. Cũng như cô gái đẹp thoa son đánh phấn, mặc hàng hiệu, nhưng mù chữ. Cũng như anh đại gia Việt Nam, ăn mặc bảnh bao, hàng hiệu, từ cái điện thoại đến cái máy ảnh, trong túi đầy xu, nhưng vào nhà hàng ăn uống thô lỗ…vẫn cổi giầy khi ngồi ở tiệm ăn.

Chuyến Mỹ du của Tư Sang là bức họa của cả một sự kém cỏi ấy : qua Mỹ tìm đồng minh, hy vọng mong nối lại “một tình cũ nghĩa xưa”. Đem bức thư Hồ Chí Minh viết cho Tổng Thống Truman ra làm điển hình, nói nỗi lòng Hồ Chí Minh « tỏ tình » với Harry Truman Tổng Thống Mỹ. Tặng cho Obama bức thư ấy là để nói rõ rằng Hồ Chí Minh lúc xưa đã “yêu Mỹ” chứ đâu có “chống Mỹ”. Vì Mỹ phụ Hồ, nên Hồ mới chống Mỹ. Như vậy lỗi tại Mỹ. Truman đã bỏ cơ hội rồi, Obama đừng để mất nữa. Thật nực cười, làm sao mà gọi là “nối lại cuộc tình được”. Một bức thư tỏ tình, gởi người. Người không trả lời. Đáng lý là giấu đi ! Mắc cở lắm ! Nay lại đem ra khoe, còn gọi là Tình Cũ Nghĩa Xưa. Thật là mối Tình ngỡ. Mình ngỡ nó Đôi Tây ? Ai ngờ nó Đôi Xì ! Hết tiền là phải !

Nhưng hởi ôi, lòng dạ bất nhứt, thật là nói láo như Vẹm ! Khi ngoại giao thì cử chỉ thì nói « bạn bè - hữu nghị, tình thương », nhưng khi người Mỹ nói đến nhơn quyền cho đồng bào mình, thì la ơi ới ! Mỹ có đòi Việt Nam phải tôn trọng nhơn quyền cho ai đâu ? Mỹ chỉ đòi Việt Nam hãy tôn trọng nhơn quyền cho dân Việt Nam, cho dân chúng Việt Nam của mình, Mỹ đề nghị Nhà nước Việt Nam cầm quyền cho đồng bào Việt Nam mình sống trong dân chủ, công bằng và hưởng những quyền của một người công dân Việt Nam mình thôi !. Có thế thôi !

Và để trả lời đề nghị cụ thể đầy nhơn ái của Mỹ ấy, Tư Sang và Chánh Phủ cùng Đảng do Tư Sang làm sếp trả lời thế nào ? Tư Sang và Đảng Cộng sản của Tư Sang đầy hãnh diện sai lầm và lòng tự cao tự đại và cũng để chứng minh rằng Việt Nam Cộng sản ta không sợ Mỹ, Tư Sang vừa về đến nhà là ra lệnh Sáu Dũng ký Nghị định 72 ra để dằn mặt Mỹ và cho Mỹ biết rằng ta ngon ! Và ngon hơn nữa, sai Nguyễn Thanh Sơn tuyên bố rằng những người biểu tình ỡ Mỹ mà Tư Sang gặp đều do Mỹ trả tiền. Và dỉ nhiên vẫn tiếp tục đàn áp dân chúng và các nhà dân chủ VN. Ta không sợ thằng Tây nào !

Vừa đi Mỹ tìm đồng minh để cân bằng sức ép Tàu, vừa đi Mỹ để xin Mỹ bán vũ khí sát thương để chống Tàu. Vừa phải chưởi người Mỹ gốc Việt, vừa phải ra Nghị định 72, nhưng cũng vừa mong Mỹ cho vào PTT…. thật là một trò đi giây ngoạn mục !

Đúng là vừa muốn xin được Voi, vừa muốn đòi Tiên. Nói theo Tây vouloir avoir et de la Crème et la Crèmière. Vừa muốn được ăn Kem Sữa mà còn muốn hốt cả bà chủ !

Còn lâu ! Hãy chờ Tết Kongo !

Hồi Nhơn Sơn, 15 tháng 8, 2013
Phan Văn Song
(Fw: Patrick Willay , CNV, 8/16/2013, 4.23PM)

TS. PHẠM TRẦN * LIÊN KẾT VIỆT NGA

Liên kết quân sự Việt-Nga có ngăn được Trung cộng?
Pha.m Tra^`n
Đăng bởi lúc 6:46 Sáng 16/08/13
Lien ket quan su Viet Nga - Hinh 1
VRNs (16.08.2013) – Washington DC, USA – Khi thấy Trung Cộng đã "giở chứng" nói một đường làm một nẻo thì Việt Nam quay ra "hợp tác sâu rộng" quân sự với Nga, nhưng ai sẽ cứu Việt Nam khi bị Bắc Kinh "dạy cho một bài học nữa" ?
Đó là câu hỏi đang lảng vảng trong đầu nhiều tầng lớp người dân ở Việt Nam, sau chuyến đi Nga thành công nhiều mặt của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh, từ ngày 07 đến 10/08 (2013).
Trong thời gian làm việc vời người đồng nhiệm,Đại tướng Sergei Shoigu, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Liên bang Nga, ông Thanh xác nhận : "Những nhu cầu phía Việt Nam đề xuất cơ bản phía Bạn đều đáp ứng, trong đó Bạn đồng ý đào tạo cán bộ cho Việt Nam ở tất cả các cấp, các lĩnh vực, các quân binh chủng và một số lĩnh vực khác.
Tiếp theo là hợp tác về lĩnh vực kỹ thuật quân sự, hai bên đã bàn các biện pháp tiếp tục triển khai thực hiện các thỏa thuận hợp tác đã đạt được. Phía Bạn thống nhất một số điểm: trước hết là những hợp đồng mua vũ khí, trang bị kỹ thuật, phía Bạn bảo đảm chất lượng tốt, giá cả hợp lí và có ưu đãi đối với Việt Nam.
Thứ ba là vấn đề hậu mãi như sửa chữa, bảo dưỡng, cung cấp vật tư, phụ tùng, đảm bảo tuổi thọ của trang bị…
Thứ tư, là Bạn thống nhất với phía ta là có thể bàn hướng hai bên có thể liên doanh thiết lập các cơ sở sửa chữa, bảo dưỡng." (Phỏng vấn của VOV, Voice of Vietnam –Đài Phát thanh Quốc gia Việt Nam, 10-08-2013)
Đây là thỏa hiệp hợp tác Quốc phòng được coi là hòan thiện nhất giữa hai nước Việt-Nga kể từ khi Liên bang Sô Viết tan rã năm 1991. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ phải chi trả cho Nga bao nhiêu Tỷ dollars để canh tân hoá quân đội và mua vũ khí là điều bí mật giữa hai bên.
Điều chắc chắn là một phần phí tổn này sẽ được tính vào số lượng dầu khí của liên doanh Vietsopetro và các dự án mới ở Việt Nam của tập đoàn dầu khí Gazprom, theo thỏa hiệp đã đạt được trong chuyến thăm Hà Nội tháng 11/2012 của Thủ tướng Nga, Dmitri Medvedev.
Hợp đồng tìm kiếm dầu ở Biển Đông của các Công ty Nga đã bị Trung Cộng lên án xâm phạm chủ quyền biển của họ vì Bắc Kinh tự cho mình quyền làm chủ 85% diện tích, hay khoảng 2.6 triệu trong tổng số 3.5 triệu cây số vuông, trong hình Lưỡi Bò (hay còn gọi là Đường 9 Đoạn) mà họ đã tự vẽ rồi nạp cho Liên Hiệp Quốc tháng 5/2009.
Tuy nhiên phía Việt Nam cho rằng, khu vực tìm kiếm dầu chung Nga-Việt hòan tòan nằm trong "vùng đặc quyền kinh tế" 200 hải lý (mỗi hải lý dài 1,852 mét) của Việt Nam.
Việt Nam cũng đã đồng ý để Nga xây dựng nhà máy diện hạt nhân Ninh Thuận 1, mặc dù có lo ngại từ phía nhiều chuyên gia địa chất Việt Nam về những chỉ dấu động đất do cấu tạo của địa cầu ở vùng này.
Nhưng theo báo chí Việt Nam thì ông Dmitri Medvedev đã trấn an Nga "chủ trương dựa vào những tiêu chuẩn thống nhất về chất lượng và những đòi hỏi nghiêm túc về an toàn khi xây dựng đối với nhà máy điện hạt nhân đầu tiên này ở Việt Nam."

VN MUA VŨ KHÍ NGA
Về chuyến thăm Nga, tướng Phùng Quanh Thanh nói thêm rằng : "Bạn đã trao đổi nhiều tình hình, hai bên đều thống nhất về mặt quan điểm, đánh giá; thống nhất về tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của việc hợp tác ngày càng sâu rộng hơn, vì lợi ích của nhân dân hai nước và đóng góp vào hòa bình, ổn định trong khu vực; quan hệ song phương không nhằm vào nước thứ ba."
Cam kết "không nhằm vào nước thứ ba" trong hợp tác quốc phòng với nước khác được coi như một thông điệp ngọai giao của Việt Nam trong những năm gần đây nhằm trấn an các nước láng giềng, nhưng chủ ý là nói với Trung Cộng rằng Việt Nam không "chạy đua võ trang" và không "chuẩn bị gây chiến" trong khu vực.
Chính sách Quốc phòng của Việt Nam được Thứ trưởng Quốc phòng, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh xác nhận là "3 không" gồm : "không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào; không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia."
Nhưng có ai tin như thế không, nếu quay trở về thời kỳ trước 1975 với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam Cộng Hòa của quân đội Cộng sản miền Bắc ?
Khi ấy đảng CSVN đã dựa vào viện trợ và súng đạn của Trung Cộng và Liên bang Sô Viết để làm điều được gọi là "nghĩa vụ Quốc tế" đem quân xâm lăng miền Nam Việt Nam nên đất nước mới băng họai và nghèo đói, lạc hậu như ngày nay.

TẦU NGẦM KILO VÀ VŨ KHÍ CHỐNG AI?
Bây giờ, trước đe dọa bị "ăn sống nuốt tươi" bởi nước láng giềng được gọi là "vừa là đồng chí, vừa là anh em" Trung Cộng, Việt Nam đã phải bỏ khỏang 3 tỷ dollars để mua 6 tầu ngầm lọai Kilo có trang bị vũ khí mới tối tân hơn các tầu Kilo Nga bán cho Trung Cộng trước đây để bảo vệ lãnh hải.
Việt Nam cũng đã chi hàng tỷ dollars để mua 23 máy bay chiến đấu tối tân Sukhoi Su-30 MK2 của Nga và dự trù mua thêm 24 chiếc nữa. Ngòai ra Nga cũng đã bán cho Việt Nam ít nhất 6 tàu tuần tra cao tốc có khả năng truy tầm tầu ngầm lớp Svetlyak và 2 tàu khu trục Gepard. Các tầu mới này đều trang bị hỏa tiễn tối tân.
Theo tin của Bộ Quốc phòng Việt Nam thì Hà Nội còn mua thêm súng trường bắn chính xác nhất TAR-21 của Do Thái và hỏa tiễn Yakhont chống chiến hạm của Nga và dàn radar Vostok-E của Belarus để canh giữ bờ biển.
Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng đã thành lập Lữ đoàn tàu ngầm 189 tại Cam Ranh có nhiệm vụ chính bảo vệ bờ biển dài hơn 3,000 cây số bằng lọai tầu ngầm Kilo.
Theo tin các mạng báo quân sự Nga được báo chí Việt Nam đăng tải thì lọai Kilo có chiều dài 73,8 mét, đường kính thân tàu là 9,9 mét trọng lượng rẽ nước: 2.350 tấn. Mức lặn sâu tối đa: 300 mét, tốc độ khi nổi: 22 cây số /giờ, khi lặn: 40 cây số/giờ. Tầm hoạt động khi có ống thông hơi: 12.000 cây số, khi lặn: 640 cây số. Thủy thủ đoàn gồm 57 người. Thời gian hoạt động liên tục trên biển là 45 ngày.
Hệ thống vũ khí: sáu ống phóng ngư lôi 533 mm nằm ở phía mũi tàu, hoặc 24 trái thủy lôi. Độ chính xác cao. Trong hai phút có thể thực hiện loạt bắn đầu, năm phút kế tiếp là loạt bắn thứ hai. Tên lửa chống tàu chiến ZM-54e và Zm-54E đầu đạn chứa 450 kg thuốc nổ, sức công phá cực lớn, có tầm bắn 220 km, bốn tên lửa loại PZRK "Strela -3", tầm bắn tối đa là 6 km để tiêu diệt máy bay đối phương.

NGA VÀO TẦU RA ?
Trong các cuộc viếng thăm lẫn nhau trước đây, theo báo chí Việt Nam, Bộ trưởng Quốc phòng Liên bang Nga Đại tướng Sergei Shoigu nói nước Nga coi Việt Nam là "đối tác chiến lược, là người bạn cũ thân thiết và đáng tin cậy".
Tướng Shoigu cho rằng trong "bối cảnh quân sự – chính trị trên thế giới cũng như tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang có xu thế bùng phát" thì "hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực quân sự và kỹ thuật – quân sự càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng" (VNNET, 13/08/2013)
Việt Nam và Nga đã nâng cấp "hợp tác chiến lược" lên "hợp tác chiến lược tòan diện" từ thỏa hiệp ký tại Mạc Tư Khoa (Moscow) giữa Chủ tịch nước CSVN Trương Tấn Sang và Tổng thống Nga Vladimir Putin hồi tháng 5/2012.
Sự thay đổi này đồng thời cũng đưa hợp tác quốc phòng với Nga lên mức đối tác chiến lược hàng đầu của Việt Nam.
Vì vậy tướng Phùng Quang Thanh mới nói: "Việt Nam và Liên bang Nga, hai bên đã xác định xây dựng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Quan hệ này có mấy điểm như thế này: Chúng ta cùng có lợi ích, muốn duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương và đóng góp chung cho thế giới. Thứ hai là nó phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước. Về mặt quan điểm nói chung, Việt Nam và Liên bang Nga thường thống nhất, đồng quan điểm đánh giá về tình hình thế giới, tình hình khu vực và đóng góp chung cho việc duy trì hòa bình và ổn định." (Theo VOV,10/08/2013).
Phát biểu của tướng Thanh không những chỉ phản ảnh sự "nhất trí đồng thuận" giữa Việt Nam và Nga về tình hình khu vực mà còn bao gồm những "điểm nóng" ở Biển Đông do Trung Cộng gây ra cho Việt Nam và các nước có tranh chấp chủ quyền biển đảo với Bắc Kinh.
Nói về việc chọn Nga để "hợp tác quân sự tòan diện", Bộ trưởng Phùng Quang Thanh được VOV thuật lại: "Liên Xô trước đây và Liên bang Nga ngày nay là cường quốc về quân sự, có bề dày truyền thống về lịch sử quân sự; kiến thức về quân sự, khả năng nghiên cứu, huấn luyện, đào tạo về quân sự cho cán bộ cũng rất tốt. Về mặt kỹ thuật quân sự, Liên bang Nga cũng là một trong những cường quốc sản xuất vũ khí, trang bị có trình độ công nghệ cao và chúng ta cũng đã sử dụng quen thuộc. Khối lượng vũ khí trước đây do Liên Xô viện trợ cho Việt Nam, quân đội chúng ta do quản lí, bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa, kéo dài tuổi thọ rất tốt."
Nhưng nếu Nga đã dành ưu đãi "bán vũ khí với giá hợp lý" cho Việt Nam thì phiá Việt Nam cũng đã có những tương nhượng thỏa mãn cho nhu cầu của Nga tại hải cảng chiến lược Cam Ranh như :
- Để Nga thiết lập một cơ sở bảo trì và huấn luyện cho đội Tầu ngầm của Việt Nam.
- Sẽ đơn giản hóa một số thủ tục cho tàu hải quân của LB Nga khi ghé thăm hoặc làm dịch vụ hậu cần kỹ thuật ở các cảng Việt Nam sẽ được nhanh chóng, thuận tiện.
- Thành lập công ty hợp doanh Việt-Nga để sửa chữa, đóng tàu ở khu vực phi quân sự của cảng Cam Ranh. Tướng Phùng Quanh Thanh nói với báo chí hồi tháng 3/2013 rằng cơ sở này sẽ sửa chữa tàu, tiếp dầu, tiếp nước, tiếp lương thực thực phẩm, đón thủy thủ để vào bờ, tham quan nghỉ ngơi sau chuyến đi đường dài trên biển.
Ông Thanh cũng cho biết : "Tổng công ty Tân Cảng thuộc Quân chủng Hải quân Việt Nam được giao chủ trì, có tham gia liên doanh với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Công ty Vietsopetro sẽ tham gia góp vốn. Nhưng ta làm chủ, chi phối, ta điều hành, quản lý. Chủ quyền là của Việt Nam.
Cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu thuyền, các dàn khoan, các dịch vụ của dầu khí này phục vụ dịch vụ cho các tàu của bất kỳ một nước nào, trong đó có LB Nga."
- Việt Nam cũng đã đồng ý để cho Nga bỏ vốn 100% xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng ở Cam Ranh trong năm 2013 theo diện dự án đầu tư nước ngoài ngang hàng với Khách sạn 5 sao. Ông Thanh cho hay Nga dành cho Việt Nam quyền quản lý, điều hành. Phía Nga cũng sẽ gửi một số người tham gia cùng quản lý khi dự án hoàn thành đưa vào sử dụng.
Cho đến khi bài viết này được gửi đi (14/8/2013) thì chưa có phản ứng nào từ phiá Trung Cộng về hợp tác quân sự mới giữa Việt Nam và Nga. Nhưng trước đây, khi có tin Việt Nam mua tầu ngầm hiện đại Kilo của Nga thì một số nhà bình luận quân sự Trung Cộng đã tỏ ra quan ngại về an ninh ở Biển Đông.
Báo Giáo dục Việt Nam ngày 22/02/2013 viết rằng : "Một số bình luận viên quân sự Trung Quốc đã bày tỏ quan ngại trước triển vọng Việt Nam sở hữu các tàu ngầm mới. Trong số này có Thiếu tướng Doãn Trác, người phát biểu rằng tàu ngầm Việt Nam có thể "đe dọa" (từ được Doãn Trác dùng để suy diễn về sức mạnh hải quân VN) tuyến đường biển quan trọng đi qua eo biển Malacca và biển Biển Đông.
Trung Quốc nhập dầu thô và nhiều nguyên liệu khác từ châu Phi và Trung Đông thông qua những tuyến đường này.
Trung Quốc đặc biệt quan tâm đến hoạt động của các tàu ngầm nước ngoài ở Biển Đông, kể từ khi một căn cứ tàu ngầm mới của Trung Quốc được xây dựng gần thành phố Tam Á, đảo Hải Nam. Đây sẽ là nơi đóng quân của các tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc mang tên lửa Julang-2 /Sóng Lớn.
Nhà cầm quyền Trung Quốc cho rằng, hoạt động của các lực lượng hải quân nước ngoài trong khu vực là tiềm năng đe dọa lực lượng răn đe hạt nhân chiến lược của nước này.
Theo bình luận của Đài Tiếng nói nước Nga, Trung Quốc không thể thờ ơ với biểu hiện tăng cường không ngừng sức mạnh của Hải quân Việt Nam, ở vào thời điểm khi căng thẳng tranh chấp lãnh hải giữa hai nước vẫn còn tồn tại."
Tất nhiên Trung Cộng phải "la làng" để che khuất việc chiếm đóng biển đảo của Việt Nam ở Biển Đông, đặc biệt ở quần đảo Hòang Sa mà họ đã chiếm từ tay quân đội Việt Nam Cộng Hòa tháng 1/1974, và sau đó chiếm thêm 8 đảo đá ngầm từ tay quân CSVN năm 1988 thuộc quần đảo Trường Sa.
Hiện nay, nhiều đơn vị quân Trung Cộng đã thường trực đồn trú tại các "tiền đồn" ở Trường Sa trong khi Hạm đội Nam Hải đã mở rộng vòng đai kiểm soát an ninh trên Biển Đông từ đảo Hải Nam xuống tận biến giới Mã Lai, phía cực nam của Trường Sa.

LÍNH VÀ NGÂN SÁCH QUỐC PHÒNG
Nhưng khi Việt Nam tăng cường phòng thủ thì ngân sách Quốc phòng của Trung Cộng cũng tăng ít nhất 10% cho năm 2013 với khỏang 114 tỷ Dollars. Phía Việt Nam vẫn giữ mức tăng 27,000 tỷ đồng, chiếm 1,8% ngân sách quốc gia, hay khỏang 1 tỷ 300 triệu Dollars.
Về số quân, nếu Việt Nam có 450 nghìn quân thường trực thì Trung Cộng có 850,000 bộ binh, 235,000 hải quân và 398,000 không quân.
Nhưng Trung Cộng lại có một lực lượng tầu ngầm tối tân và nguy hiểm gấp 100 lần hơn Việt Nam.
Báo chí Việt Nam đưa tin : " Theo trang tin lemur59.ru, hạm đội tàu ngầm Trung Quốc có 5 chiếc tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo và 82 tàu ngầm điện – diesel. Số tàu ngầm này được chia làm 6 phi đội. Các tàu ngầm hạt nhân mang 12 tên lửa đạn đạo chiến lược, chiếm 1,1% số tên lửa này của Trung Quốc. Các tàu ngầm khác mang 146 tên lửa chống hạm (chiếm 9,9%), 1.1.82 ngư lôi (chiếm 82,4%) và 2.608 thủy lôi (31,5%)."
Như vậy, nếu chẳng may xẩy ra chiến tranh với Trung Cộng thì Việt Nam sẽ chống đỡ như thế nào và ai sẽ cứu Việt Nam ?
Hẳn Việt Nam chưa quên 2 Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 và từ 1984 đến 1989 đã làm cho trên 40,000 quân dân thiệt mạng và khỏang 5,000 cây số vuông lãnh thổ mất vào tay Trung Cộng ?
Vậy liệu cuộc phiêu lưu quân sự mới của Việt Nam với Nga có lấy lại được Hòang Sa và những phần biển đảo đã bị Trung Cộng chiếm ở Trường Sa và hàng ngàn mẫu đất đọc biển giới không hay chỉ làm cho đất nước nghèo mạt thêm và dân tộc phải đổ thêm máu cho tham vọng chính trị của một thiểu số cầm quyền độc tài ?
Đảng CSVN chưa biết nhận ra rằng họ sẽ phải chiến đấu một mình vì khác với năm 1979, nhân dân bây giờ không còn muốn có chút "liên hệ máu thịt" nào với đảng nữa.
Thất bại của Nghị quyết 4 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng" và Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 5 về "công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chống tham nhũng" là bằng chứng dân không còn tin vào khả năng lãnh đạo của đảng nữa.
Và ai cũng biết vũ khí là phương tiện cần thiết để bảo vệ chủ quyền và sự tòan vẹn lãnh thổ nhưng người dân chỉ sẵn sàng hy sinh xương máu cho một cuộc chiến có chính nghĩa và vì một nhà nước thật sự là của dân, do dân và vì dân.
Vì vậy nếu chỉ mua súng đạn, máy bay, tầu chiến và tầu ngầm để phô trương sức mạnh quân sự trong khi vẫn nhu nhược trước quân thù đã ngồi trên đất và trên biển đảo của Tổ quốc thì có ích gì không ?

Phạm Trần
(08/013)
(Fw: hung vu <vhungvu07@yahoo.com.au>, NVQG, 8/19/2013, 9.25AM)

DAVID THIÊN NGỌC * VIỆT CỘNG - TRUNG CỘNG


Hồi "mạt vận" của đất nước Việt Nam trước bành trướng Bắc Kinh

David Thiên Ngọc 
Qua buổi tiếp xúc cử tri Q1 Thành Hồ ngày 24/6/2013 vừa qua tôi bỗng nhớ lại những thời gian trước đây sau những sự kiện nổi trội, đình đám trên chính trường VN thì các vị chóp bu CSVN cũng đều có chuyến vi hành tiếp xúc cử tri.

Ta nhớ lại sau các kỳ gọi là hội nghị T.Ư 5, T.Ư 6 của đảng CSVN thì cả Tư Sang, Trọng Lú đều có những chuyến vi hành ra xã hội tiếp xúc nhân dân. Trong những lần đó cũng tại SG, ông Sang đều có những động thái và những phát biểu mà ta khó quên được bởi những hình ảnh, lời nói gây sự phản cảm trong nhân dân và phản lại thực tế trên việc làm của ông ta trong những thời gian sau.
Như trong lập trường và phương hướng xử lý trên Biển Đông mà cụ thể là đối với TC  chứ không là "tàu lạ, nước lạ" nào cả đã hành xử tàn bạo với ngư dân VN như công khai tịch thu tài sản, bắt giữ cả người lẫn tàu để đòi tiền chuộc không khác nào bọn hải tặc, công khai đâm thẳng vào tàu cá ngư dân VN làm tan nát chìm hẳn, có số thì hư hại nặng, ngư dân kẻ thì chết mất xác người thì nguy kịch... gần đây đã bắn trực tiếp vào tàu làm cháy cabin gây hư hỏng nặng, suýt chìm vào lòng biển. Trong những lúc đó thuyền trưởng và ngư dân VN đã đọc rõ chữ TC, số hiệu tàu cùng màu sắc lẫn cờ TC trên chiếc tàu xâm phạm mà chính phủ VC lại tỏ ra khiếp nhược, đê hèn mà gọi là "tàu lạ"? Trước tình hình rõ ràng và bức xúc của ngư dân VN và là tín hiệu xấu cho sự toàn vẹn lãnh thổ thì ông Sang trong một lần tiếp xúc với cử tri Thành Hồ  đã phát biểu rằng: "Vấn đề Biển Đông chúng ta không chỉ thể hiện bằng lời nói mà sẽ bằng hành động nữa!". Từ đó đến sau này và gần đây thì tình hình Biển Đông và ngư phủ VN như thế nào thì nhân dân VN và cả thế giới đều rõ. Đó là câu trả lời thiết thực, cụ thể cho lời phát biểu của ông Sang.
Sau hội nghị T.Ư 6 phe cánh Trọng, Sang thất bại trước ê-kíp 3 Ếch một cách ê chề nhục nhã... Lúc đọc diễn văn bế mạc hội nghị "Tổng Lú" nghẹn ngào nuốt lệ vào trong. Khi ra khỏi cửa động Ba Đình thì hình ảnh một anh "Tư Đù" trong tứ trụ trào đờm xụ mặt với vẻ thất thần thiểu não của kẻ đưa đám ma. Sau đó vài ngày "Tư Đù" lại xuất hiện vi hành về thành Hồ tiếp xúc cử tri. Tại nơi này ông hô hào bà con "diệt sâu, bắt ếch" trừ hại cho mùa màng của bà con mà không sợ "trù úm" gì cả, phải quyết tâm, can đảm lên để "không hổ thẹn với tiền nhân"! Kết quả là hàng loạt công dân, thanh niên, sinh viên yêu nước phải bị tra tay vào còng một cách hung hãn, ngang tàng bạo ngược bởi bọn khủng bố, bắt cóc, thảo khấu lục lâm CA Việt Cộng...
Bây giờ sau khi đi chầu thiên triều, với hình ảnh cúi đầu rạp người trước Đại Hán kể cả hàng quân dàn chào... hình ảnh này mang nỗi nhục rửa biết mấy kiếp cho sạch? Ấy vậy mà "Tư Đù" chẳng thấy được nỗi đau mà còn dấn sâu vào hành trình làm nô lệ. Gọi là bang giao, ngoại giao Quốc Tế là đem cả danh dự, tiền đồ của một đất nước, một dân tộc ra đánh đố, thi thố với biển rộng trời cao... vậy mà khi vừa bước chân xuống lãnh địa của tha nhân mà "Tư Đù" và bọn ăn hại bám đuôi đã ký một lúc 10 văn kiện mang tầm vóc Quốc Gia, Quốc Tế liên quan đến sự sống còn của dân tộc trong lúc chưa an vị và tẩy trần!
Thử hỏi với 10 văn kiện tầm cỡ Quốc Gia như vậy đâu phải một đôi dòng mà phải hàng trăm trang viết. Thời gian để đọc hết và suy ngẫm thiệt hơn trước khi ký cũng không phải là một hai giờ! Vậy mà vừa đến nơi ngày 19/6/2013 là ông Sang và bồi đoàn ký ngay, không cần xem, không cần suy nghĩ. Thượng mệnh của thiên triều đã ban ra, đã viết sẵn thì bề tôi không được có cái quyền "xem và xét lại" và qua ba ngày tuân mệnh, nhận "chiếu chỉ Thành Đô II" thành công tốt đẹp như trước đây đám tiền bối "Đồng chí... bán nước" cũng đã từng cúi đầu nhận mệnh và ký nhận "Chiếu chỉ Thành Đô I" mà không dám xem và không lường được hậu quả sau này cả nhân dân phải gánh lấy. Sau khi về đến Hà Nội thì Phạm văn Đồng mới thở than là "Mình Ngu, mình Dại..." thì sự cũng đã rồi. Ngày nay Tư Đù tiếp bước với "Chiếu chỉ Thành Đô II".
Sau sự kiện trên, ngày 24/6/2013 "Tư Đù" tiếp xúc cử tri Q1 Thành"Hồ". Nơi đây ông thông báo chuyến đi chầu Bắc Kinh kỳ này tập trung vào ba chủ đề lớn: "Quan hệ song phương-Hợp tác thương mại và vấn đề Biển Đông."
Nơi đây chúng ta thấy rõ sự khiếp nhược, co cụm thụt lùi trước bước tiến của quân bành trướng, thế mà ông Sang bao biện trong vấn đề để cho Tàu cộng khai thác dầu khí trên vịnh Bắc Bộ rằng: "Những gì có thể hợp tác được trên biển nhưng không phương hại đến nước khác, không phương hại đến chủ quyền thì có thể hợp tác." Ông lại nhấn mạnh rằng "Những thỏa thuận này không phương hại đến bất kỳ lợi ích của các Quốc Gia nào khác." Rõ ràng đây là lời nói và việc làm của "kẻ mù đi trong mưa". Chính sách bá quyền và bành trướng của Trung cộng hiện nay đối với VN là "Xâm thực tiệm tiến" như vết dầu loang... Từ hợp tác khai thác chung trên lãnh hải của mình rồi đến xâm lăng chỉ còn là thời gian một khi cái cây xâm lược đã mọc rễ ăn sâu vào đất nước, biển đảo của chúng ta. Ta phải nhớ lại mới năm ngoái đây TC đã tỏ ra ngang ngược công khai bá quyền lấn chiếm, mạo phần hết 80% trên Biển Đông làm ảnh hưởng, va chạm đến nhiều nước, chúng công khai mời thầu Quốc Tế 9 lô dầu khí trên Biển Đông trong đó có những lô thuộc chủ quyền của VN. Qua đó gây phẫn nộ cho các nước trong khu vực và Asean như Nhật Bản, Philippines, Bruney, Đài Loan, Malaysia... đưa đến hậu quả là Philippines kiện TQ ra tòa án Quốc Tế. Với những động thái này phần nào cũng làm chùn bước TC trên hành trình xâm lược.
Bây giờ đối với VN chúng giả dối tỏ tình "hòa hiếu" mặc dù sóng ngầm sôi sục để cho thế giới bên ngoài thay đổi cách nhìn về nội tình hai nước CS VN-TC hầu chúng củng cố "quyền lực mềm" (Soft Power) và bày ra cho bề tôi CS Hà Nội là "cùng nhau họp tác khai thác dầu khí trên vịnh Bắc Bộ" chứ không công nhiên chiếm đoạt... thật là xảo quyệt và ranh ma. Đâu rồi những bộ óc của “đỉnh cao trí tuệ CSVN!”?
Khai thác trên đất nước, lãnh hải của VN mà làm sao phương hại đến nước khác!? Nếu VN-TC ký kết một văn kiện nào mà phương hại đến quyền lợi và lãnh hải của một nước nào khác thì họ có bao giờ ngậm miệng và để yên? Đồng thời không phương hại đến chủ quyền đất nước của ta ư? vậy biên giới Việt-Trung, Vịnh Bắc Bộ, Hoàng-Trường Sa là gì? Những điều đó ông cho rằng là sự đã rồi sao? Tất cả những ý nghĩ trên của ông và cả tập đoàn CSVN thật là "ngáo ộp". Nhân dân Việt Nam có thể gọi các ông là " Những thằng Bờm thời đại" mới đúng.
Trở về với buổi tiếp xúc cử tri Q1 Thành Hồ.
Trong chuyến đi chầu Bắc Kinh vừa qua Ông Sang cùng bầy đoàn tập trung vào 3 chủ đề lớn như đã nêu trên. Tôi xin đi vào từng chủ đề một.
1- Trước hết tôi nói vấn đề "Quan hệ song phương"
Nói riêng về VN thì TC dễ dàng áp đặt hình thức quan hệ song phương trong mọi vấn đề có liên quan giữa hai nước. Do đó trong suốt buổi triều kiến ở Bắc Kinh, họ Tập luôn né tránh hình thức "Đa phương" vì lẽ TC xem VN như là một thuộc quốc, bề tôi và CS Ba Đình là một đám bồi thần... Như thế chẳng khác nào xóa bỏ đường biên giới cả trên đất liền và trên biển cùng hai chữ Việt Nam sau đuôi của các cụm từ nhà nước CHXHCNVN, đảng CSVN, hay là nhân dân VN... mà chỉ còn một Đại Hán bao trùm thiên hạ.
Đối với thế giới mà cụ thể là các nước có tranh chấp Biển Đông với TC thì phương thức song phương không bao giờ áp đặt được mà phải "đa phương" và Quốc Tế hóa. Philippines đã kiện TQ ra tòa án Quốc Tế về việc tranh chấp ở Biển Đông là gì?
2- Về hợp tác thương mại
Nói ở đây thật tủi hổ... cả đất nước VN từ hải đảo đến vùng trung, thượng du, từ phố thị đến nông thôn hẻo lánh không một ai từ trẻ sơ sinh đến cụ già... mỗi giờ trôi qua mà không dùng ít nhất một sản phẩm mang nhãn hiệu China? Trong bài "Chống ngoại xâm từ mọi hướng" trên Dân làm báo tôi đã viết rõ rồi. Hàng hóa TC tràn ngập thị trường VN mà đa phần là hàng lậu thuế (một nhát dao đâm vào nền KTVN) một phần chui lòn qua các cửa khẩu Việt-Trung với sự thông đồng, dẫn dắt của những con sâu cai quản nơi đây, còn lại là những con đường băng rừng, vượt suối với 1450 km đường biên giới bằng đội ngũ cửu vạn hùng hậu chưa từng có ở một nơi nào trên thế giới.
Những sản phẩm này có nhiều thứ là những mặt hàng cấm lưu hành sử dụng tại TQ vì độc hại. Một số được sản xuất từ nguyên vật liệu phế phẩm, là những loại rác độc hại nguy hiểm không biết đổ vào đâu mà nó biến thành chính phẩm ở VN và mang về một khoản ngoại tệ đáng kể cho cố quốc. Hàng ngũ trí tuệ CSVN quả là quá cao siêu nên không thấy được điểm này hay cố tình ngoảnh mặt vì sợ oai hùm?. Do đó nền sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp VN đều đã chết, một số đang chết lâm sàng, một số đang chới với bên bờ vực phá sản. Đơn giản! một sản phẩm của TC khi vào thị trường VN giá còn rẻ hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại khi nó còn nằm trong nhà kho của nhà máy, xí nghiệp VN mà chưa xuất xưởng với nguyên nhân từ lậu thuế, nguyên liệu sản xuất độc hại... mà tôi đã nêu trên.
Thế thì ông Sang và bầu đoàn ăn hại... ký kết hợp tác thương mại ở lĩnh vực nào? Một nền kinh tế của một nước sẽ ra sao một khi mỗi năm "cán cân thương mại" luôn chếch hẳn về phía thâm hụt (nhập siêu)?. Năm 2012 nền thương mại của VN đối với TC thì VN thâm hụt 16,4 tỉ usd (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 41,2 tỉ trong đó xuất khẩu 12,4 tỉ và nhập khẩu 28,8 tỉ từ TC như vậy nhập siêu 16,4 tỉ usd) một con số thật ảm đạm và bi quan. So với năm trước thì càng về sau con số nhập siêu càng tăng. Đây là bức tranh u tối trong lĩnh vực thương mại VN góp phần không nhỏ làm sụp đổ ngôi nhà KTVN mục nát đã đến hồi không còn trùng tu được nữa. Thế mà tập đoàn CSVN lại đang "tái cơ cấu" thật là bọn "điếc không sợ súng"!
3- Vấn đề Biển Đông
Đây là nỗi đau không dứt đối với nhân dân VN một khi mỗi ngày diện tích biển đảo một teo dần. Tàu bè ngư phủ VN lần lượt bị TC làm cho hư hại, nát tan chìm vào biển cả, ngư phủ kẻ chết mất xác người thương vong... thế mà tập đoàn CSVN ăn nằm trên xương máu của nhân dân mà không có một hành động (chỉ có lời nói ở đầu môi chót lưỡi) cụ thể nào để cứu vớt ngư dân hoặc cải thiện  cuộc mưu sinh đầy gian lao nguy hiểm của đội ngũ ngày đêm bám biển góp một phần không nhỏ trong công cuộc bảo vệ biên cương? Trong những lúc này thì đội ngũ cảnh sát biển, đội tuần duyên, ngư chính hoặc hải quân lại trốn tiệt ở nơi nào? nín khe không có một hơi thở chứ đừng nói chi can thiệp,  để cho ngư dân mặc sức mà sống chết với lũ hải tặc xâm lăng! Trong lúc những trang thiết bị tàu bè vũ khí cùng tiền lương, bổng lộc của đội ngũ này được lấy ra từ đồng tiền thuế còm cõi của nhân dân trong đó có máu và nước mắt của chính những ngư dân đói khổ này.
Ông Sang lại khiếp nhược trước quan thầy mà xin "đối xử nhân đạo với ngư dân" chứ không dám công khai phản đối? rồi bày ra lập đường dây nóng để làm gì? một khi những sự việc gây ra trên biển cho ngư dân VN chỉ là của "tàu lạ", "nước lạ" thì có quan hệ gì đến bọn đuôi sam mà gọi mà kêu chúng? Tỉ như con của hàng xóm bắt nạt đánh đập con tôi. Tôi gọi báo cho cha mẹ chúng nó và được câu trả lời là con của "người lạ", "xứ lạ" chứ không phải con tôi! Hết biết! Thôi đành đưa con về cứu chữa hoặc chôn nếu nó đã chết thế thôi!
Nói lại vấn đề chủ quyền của VN trên Biển Đông ông Sang nói rằng: "Chúng ta nhắc lại với phía TQ lập trường của VN và phía TQ cũng nhắc lại lập trường của họ". Lập trường của họ như tướng Thích xâm Lăng (Kiến Quốc) khẳng định ở hội nghị Shangri-La Singapore rằng: "Lập trường của chúng tôi đối với các biển đông Trung Hoa và nam Trung Hoa là thuộc chủ quyền của TQ. Đó là lập trường rõ ràng. Do đó các tàu chiến của TQ và các hoạt động tuần tra của chúng tôi là hoàn toàn hợp pháp và không có gì phải tranh cãi!"
Trong lúc ông Sang đối diện với cử tri Thành Hồ thì nhóm quân sư của ông cố tình ngăn nhặn mọi sự cáo buộc cho rằng ông Sang và tập đoàn CSVN nhu nhược, nhượng bộ trước Bắc Kinh trong vấn đề Biển Đông.
Như vậy thì sự xâm lược, còn mất tồn vong của đất nước VN bởi Trung cộng thì từ năm 1958 đến nay nhân dân VN và cả thế giới đã rõ và bây giờ qua hai "chiếu chỉ Thành Đô I &II" trong đó các văn kiện mà ông Sang và đám bồi thần vừa ký đã thể hiện là một câu trả lời xác thực mà không cần phải phân tích thêm gì! Tình thế chính trị Việt Nam đã đến hồi "Mạt Vận".
David Thiên Ngọc

Monday, September 9, 2013

HOÀNG NGỌC KHUÊ * NỖI HỐI HẬN LÚC HOÀNG HÔN



 
Trần Đức Thảo


Mời đọc:
         Cuốn sách NỖI HỐI HẬN LÚC HOÀNG HÔN do tác giả Tri Vũ - Hoàng Ngọc Khuê xuất bản tháng 10.2012 tại Pháp. Nội dung viết về ông Trần đức Thảo, sinh năm 1917, giáo sư thạc sĩ dạy môn triết trong ngành đại học tại Paris, một nhà nghiên cứu uyên thâm về tư tưởng Marx, từng tranh luận với đại triết gia Jean-Paul Sartre.
Sách cũng ghi lại những kinh nghiệm và nhận xét của ông trong 40 năm sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Trích dẫn một câu:
      ....  Trần đúc Thảo đã có nhận xét về một thời lịch sử bị làm hỏng, làm bẩn, mà người ta khéo léo gọi đó là một thời đầy những mảng tối. Hy vọng rồi đây, sẽ tới một thời trong sáng, sạch sẽ, liêm khiết, một thời dũng cảm, để làm công việc giải tà, don rác cho lịch sử, chứ không phải để cố duy trì những cái « duy nhất đúng ». Bởi những cái « duy nhất đúng » ấy đã làm ô danh cả lãnh tụ lẫn cả cách mạng..
     DNguyen
Mời đọc thêm, tham-khảo VÀI tài liệu bằng tiếng Pháp tại đây: 
Click Here
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
SÁCH "NỖI HỐI HẬN LÚC HOÀNG HÔN"  
                                                                                        
           Sách do tác giả Tri Vũ - Hoàng Ngọc Khuê xuất bản tháng 10.2012 tại Pháp. Nội dung viết về ông Trần đức Thảo, sinh năm 1917, giáo sư thạc sĩ dạy môn triết trong ngành đại học tại Paris, một nhà nghiên cứu uyên thâm về tư tưởng Marx, từng tranh luận với đại triết gia Jean-Paul Sartre. Sách cũng ghi lại những kinh nghiệm và nhận xét của ông trong 40 năm sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Năm 1952, Giáo sư Thảo, được sự hỗ trợ của đảng cộng sản Pháp, trở về nước với hoài bảo phục vụ cách mạng. Ông đi theo ngõ đường sắt xuyên Á, qua đất Trung Hoa, để đến chiến khu Việt Bắc. Sự việc đầu tiên làm ông suy nghĩ, khi cán bộ ở biên giới buộc ông làm tờ khai lý lịch, với yêu cầu lên án ông bà, cha mẹ có liên hệ với phong kiến và thực dân. Ông bác bỏ ý kiến này, để tôn trong sự thật. Vụ này được báo cáo về trung ương. Ông đã vài lần gặp ông Hồ, thấy chủ tịch tỏ thái độ xa cách. Dù nhiệt thành yêu nước, nhưng vì ông chủ trương một cuộc cách mạng đi đến dân chủ và trọng đạo lý, giải phóng con người, nên bị liệt vào thành phần « có vấn đề ». Do đó, ông không đươc giao nhiệm vụ gì cả, có lúc đi dạy hoc, một thời  đươc giao việc chăn bò ở Ba Vì, rồi lâm cảnh khó khăn do thất nghiệp, vợ ly dị đi lấy chồng khác (bác sĩ Nguyễn khắc Viện).


 
Năm 1954, sau hiệp định Genève, ông trở về Hà nội, trải qua những ngày sống trong cảnh xã hội mới quá thê thảm. Hà thành ngày trước văn minh, thanh lịch nay không còn, kể cả tiếng nói, nhường chỗ cho dân từ các nơi khác đến, quê mùa, tục tằn, thô lỗ. Ông được tham gia một chuyến đi về huyện Chiêm Hóa, để vận động các bần cố nông đấu tố địa chủ, đã chứng kiến vụ những dân làng bị đánh đập dã man, rồi đem ra xử bắn, trước sư hiện diện của cố vấn Trung quốc (chiến dịch cải cách ruộng đất do các cán bộ Tàu chì huy).
Trần Đức Thảo

Ông Thảo bị xúc động mạnh, đòi các cố vấn này giải thích về căn bản pháp lý của tỷ số giết người  ấn định 5%. Các cố vấn này bèn lập phiên tòa, định đưa Gs.Thảo ra xét, rồi xử bắn về tội phản cách mạng. Sau cùng, chuyện được hoãn lại
Năm 1987, Gs.Thảo được phép vô Sài gòn, nhìn thấy một thành phố khác xa Hà Nội, không đói rách như đã nghe, găp nhiều cựu kháng chiến Miền Nam, nghe tâm sự của những người nay bị gạt ra bên lề, và được họ quý trọng.

Ông viết cuốn sách ngắn tựa đề « Con người và chủ nghĩa lý luận không có con người », được tái bản. Hà Nội ra lệnh tịch thu, nhưng sách đã bán sạch. Nhiều người khuyên ông nên đi Pháp, để bảo toàn mạng sống. Năm 1991, ông trở qua Pháp, vui mừng gặp lại các bạn hữu, đồng thời bị tòa đại sứ VN ở Paris theo dõi,



 gây khó khăn, hăm dọa, ngăn chặn không cho ông diễn thuyết ờ Nhà Việt Nam. Ông cho biết, ông Hồ không mấy quan tâm về lý thuyết của Marx, chỉ làm theo Lénine, Staline, và nhất là Mao. Gs. Thảo đánh giá lại học thuyết của Marx, với kết luận : Marx đã sai lầm.
Vào lúc xế chiều của cuộc đời, Gs.Thảo tỏ ý hối hận, trong bao năm qua đã giữ thái độ im lặng, tức đồng lõa với những kẻ gây tội ác. Ông dự tính ra cuốn sách, chưa thực hiện thì đột ngột từ trần năm 1993, sau một cơn đau bụng dữ dội, điều khó hiểu. Hũ tro của ông đươc gởi về Hà Nội, nhưng không được ai nhận. Cuối cùng, bà vợ cũ đứng ra lo việc mai táng. Chính quyền Hà Nội đã truy tặng ông huân chương Độc Lập và Giải Thưởng Hồ chí Minh !
 Trích đoạn phần G.s Thảo trình bày về một số vấn đề :
 
Định kiến với triết học sách vở.
Những trí thức yêu nước từ xa, cứ vô tư ca ngợi vinh quang, cứ khơi khơi rao giảng hận thù nên khép lại, cái gì của quá khứ thì trả lại cho quá khứ, để cùng nhau xây dựng tương lai, với tinh thần hòa giải, hòa hợp dân tộc. Họ mỉa mai chê bai, chẳng lẽ cứ chống cộng đến chiều ?

Những lời lẽ hô hào lãng mạn đẹp đẽ và vô tư ấy đã được phát ngôn quá dễ dàng, chỉ vì người nói câu ấy đã không thấy, không hiểu thấu được những cái tuy thuộc về quá khứ, nhưng nó đang vẫn còn tác yêu tác quái trong hiện tại. Làm sao có thể hòa giải, hòa hợp giữa bầy cừu và bầy sói. Giữa kẻ bị trị với kẻ thống trị ? Giữa những kẻ vẫn hờm nhau như kẻ thù ? Do đó, công cuộc tranh đấu tìm đòi tự do dân chủ cho quê hương không thể ngừng lai. Bởi công cuộc tranh đấu chống lại bạo luật của rừng rú không phải là nghĩa vụ của riêng quá khứ.
Không được trải nghiệm tới từng hơi thở từng thớ thịt của thân xác, những nỗi đau đớn của dân tộc, thì khó mà thấy, mà hiểu dù mỗi hoàn cảnh con người đau khổ. Cuộc tranh đấu của Mahatma Gandhi và cách tranh đấu của chủ tịch Hồ chí Minh dĩ nhiên là khác nhau, rất khác nhau. Khác nhau ở cách cảm thấy nỗi đau hay cách suy tư về nỗi đau, mà khác cả về hệ quả tốn ít hay nhiều xương máu, về mức độ tha hóa, băng hoại lương tri con người qua những tranh đấu ấy… »
Tiếp cận thực tại tàn nhẫn.
 Sự bế tắc của cách mạng là do ý thức giải phóng con người bằng đấu tranh giai cấp để xóa bỏ giai cấp. Đây là một mô hình cách mạng không tưởng, không nền tảng duy vật sử quan. Không tưởng vì cả tin vào sự đam mê cuồng tín, cả tin vào khả năng giải phóng bằng bạo lực của hận thù. Sự bế tắc ấy là do ý thức, do thái độ cảnh giác, do chính sách thù hận mù quáng của quyền lực chuyên chính. Sự chuyên chính ấy đã đóng kín mọi chân trời, đã không ngừng đẩy những con người chân thật, không chấp nhận dối trá, sang phía thù địch.


Giá trị một ý thức hệ không thể so sánh với mạng sống của con người, nhất là với con người bị oan ức, con người trù dập, bị bóc lột, hoàn toàn bất lực, vô phương tự vệ. Một ý thức hệ, dù thế nào thì nó chỉ có giá trị của một dụng cụ. Một dụng cụ làm sao có thể so sánh với giá trị của một mạng sống ? vì vậy, không thể hy sinh con người cho bất cứ một ý thức hệ nào. Trước nỗi đau của con người tuyệt vọng vì ý thức hệ, thì chính cái ý thức hệ ấy cũng cần phải được rà xét lại, để cải đổi hoặc đào thải. Chính những sai lầm cơ bản về tư duy đã đưa tới những hành động gây đau khổ cho con người.
 Tư duy theo quy luật phủ định của phủ định là phương pháp gạn lọc những kinh nghiệm, những hành động trong sự vận động của cách mạng trong thời gian. Việc vừa làm xong, vừa thực hiện được thì không nên coi nó như đã vĩnh viễn hoàn hảo. Phải coi việc đó, cách làm đó là còn có thể cải thiện. bằng cách chỉ giữ lại những gì tốt, và loại bỏ ngay những gì coi là xấu.

Nhờ sự cải thiện thường xuyên ấy, tức là từng bước phủ định phần xấu mà ta vừa làm, để ta có một cái gì mới tốt hơn cái đã đạt. Như vậy là ta luôn luôn phải phủ định một phần những gì đã làm để đạt tới cái mới ngày càng tốt hơn, ngày càng sáng sủa, ít xấu hơn. Quy luật phủ định của phủ định đòi hỏi sự vận hành cách mạng không được ngưng lại ở một chính sách, hoặc ở một tổ chức, một cơ chế vĩnh viễn nào cả. Không có cái gì cứ đứng yên một chỗ, bất biến, cố định trong thời gian. Điều này thật quan trọng đối với từng cá nhân, nhưng nó càng quan trọng đối với một chính sách của đảng, của nhà nước.
Những hành động do thù hận không thể nào đưa tới thành công. Tại vì thù hận là tố chất tâm lý bệnh hoạn rất truyền nhiễm, rất độc hại. Nó đưa tới trình trạng mù quáng trong nhận định, nó dẹp bỏ lương tri, nó mở đường hành động cho mọi thủ đoạn gian xảo và tội ác, nó tạo ra nguyên tắc cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nguồn gốc của thù hận trong xã hội ta ngày nay là do tình trạng đất nước ta đã một thời bị chìm đắm trong bầu không khí cuồng tín, vì lãnh thổ bị chia cắt thành hai chế độ với hai lá cờ, với lời thề quyết tiêu diệt nhau để thống nhất lãnh thổ.
Cảnh giác với hiện tại sống động.
Do khái niệm về mặt tâm lý và xã hội, danh dự là một thuộc tính được ban tặng cho con người từ bên ngoài, nghĩa là một giá trị do người đời khen tặng, chứ bản thân không thể trực tiếp đi tìm mà lấy được. Danh dự chỉ đến với những con người sống đức hạnh, có lương tri, biết hoàn thành trọn vẹn công việc của mình, dù đấy là một công việc khiêm tốn. Như thế thì mọi người đều có thể có danh dự, chứ danh dự không phải là riêng của những kẻ có chức , có quyền trong xã hội. Nhưng do ngộ nhận mà danh dự đã bị coi là một khả năng kích thích con người có hành động đẹp đẽ , vĩ đại, theo xu hướng khoa trương, phù phiếm bề ngoài, để tao ra danh dự cho mình. Bởi khi đó danh dự đã bị đồng hóa với danh vọng.

Thông thường, danh vọng có khả năng kích thích tâm lý, có thể làm cho con người u mê đến mức sa đọa, y như là một thứ thuốc phiện. Người ta đam mê chạy theo danh vọng, để rồi tự biến thành kẻ khoe khoang, kiêu ngạo, hoang tưởng. Tranh đua nhau trên con đường dang vọng thường làm cho mình thành ích kỷ, thấp hèn. Danh vọng đã đẻ ra một cấp trên kiêu ngạo, một cấp dưới nịnh nọt. Nó có thể cải trang một người bình thường thành kẻ tự đắc, một nhà chính trị thành một lãnh tụ độc tài, đam mê quyền lực, điên cuồng khao khát danh vọng, quan liêu cửa quyền đến mức hành động, nói năng như cha mẹ dân, rồi muốn được tôn vinh làm cha dân tộc.
Về mặt tâm lý xã hội, danh dự cũng như hạnh phúc, không thể tìm kiếm, không thể mua chuộc nó một cách trực tiếp, bằng quyền lực hay tiền bạc, như người ta vẫn đi tìm kiếm danh vọng. Danh dự chỉ tới một cách gián tiếp từ bên ngoài, với những ai biết sống một cách xứng đáng, có lương tri, sống ngay thẳng, trong sạch

. Danh dự do đó quả thật là một nền tảng của đạo đức. Không thiếu gì xã hội, trong đó con người ngông cuồng khao khát danh vọng, một xã hội chỉ trọng vọng bề ngoài, chỉ trưng khoe thành thích gỉa tạo một cách bệnh hoạn. Một thí dụ điển hình về mặt tiêu cực của danh vọng là thói háo danh với bằng cấp. Bằng cấp chỉ là một hình thức chứng thực khả năng. Danh dự của một người có học có trí thức là biết sống không ồn ào, không khoa trương, biết chứng tỏ trình độ bằng kết quả của việc làm. Khi danh dự bị nhầm lẫn với danh vọng, thì nó đã đưa tới sự gian lận trong thi cử, mua bán bằng cấp chạy chọt chức tước.
Những thành tích mưu cầu vinh quang, đầy danh vọng của kẻ có quyền lực, mà có người đã được hậu thế ca ngợi, có khi còn được tôn thờ như thánh. Những thành tích mưu cầu vinh quang danh vọng một cách đam mê, cố mưu tìm chiến thắng kiểu Pyrhus, cố tạo ra những công trình vĩ đại như Kim Tự Tháp, như Vạn Lý Trường Thành…và nhầm lẫn đấy là những thành tích của danh dự. Thực ra, những công trình vĩ đại ấy  không thể là biểu hiệu cho danh dự và đạo đức, đạo lý. Vì chiến thắng như thế là phung phí xương máu quân lính, vĩ đại như thế phung phí mồ hôi, nước mắt của dân chúng. Chúng không mang tính đạo đức và nhân bản. Vì vậy, nhiều nhà lãnh đạo quyền lực lớn trong lịch sử chẳng thể trở thành nhà đạo đức, càng không thể là thánh nhân.
Vẫn chưa được giải phóng.
Vì cách mạng không chú ý tới vấn đề nhân bản, nên rất nguy hại cho sự xây dựng con người. Guồng máy tuyên truyền nêu ra những tấm gương để giáo dục tuổi trẻ. Đây thật sự là đã có nhầm lẫn giữa mưu trí và trí tuệ. Những tấm gương mưu mẹo, lừa gạt, trí trá để phá đich, diệt địch là quỉ kế, là thủ đoạn, chứ không phải là trí tuệ. Một hành động của trí tuệ là một việc làm có tính chính nghĩa, chính đạo, trong sáng. Mưu trí tin tưởng vào con đường  thủ đoạn, tiêu diệt, của chiến tranh. Thế nên nó đề cao những thành tích ám sát, đặt mìn, gài bom…, đó là mưu mẹo, là thủ đoạn quỉ quyệt, gian ác, chứ nó không phải là trí tuệ.
Trí tuệ là biết cách thay ác bằng thiện, biến thù thành bạn, không làm những điều dối trá, độc ác, phù phiếm, mà cố gắng làm những điều trong sạch, hài hòa, bền vững. Trí tuệ tin tưởng vào con đường tiến lên của nhân cách, của đạo lý nên nó tin vào các giải pháp hòa bình. Nhầm lẫn về mặt này , nên giáo dục cách mạng đã vô ý thức thiên về xu hướng tạo dựng một mẫu người thủ đoạn, láu cá, lưu manh chỉ đắc dụng trong chiến tranh. Chứ không phải một mẫu người ngay thẳng, chân thật của trí tuệ để xây dựng những giá trị bền vững. Trong xã hội đầy những con người mưu trí, thủ đoạn thì xã hội ấy không còn lương tri, không còn biết luân thường, đạo đức và lý tưởng gì nữa.
Phản biện là hướng nghiên cứu mới..
Phải nhìn nhận, những gì xuất hiện trong hiện tại đều có gốc rễ từ quá khứ, y như những lớp đất đá lần lượt, qua thời gian, kết tụ thành từng địa tầng, lớp nọ đè lên lớp kia. Cây cỏ mọc trên mặt đất ấy, nhưng chính gốc rễ của nó đã hấp thụ những yếu tố, từ các tầng lớp bên dưới, để tạo ra tất cả những gì hiển hiện trên mặt đất này, ở trong hiện tại này. Tất cả đều do chất liệu của một quá trình kết tụ, tích lũy từ dĩ vãng : hiện tại là một di sản sống động, là gánh nặng đang tác động do quá khứ để lại. Cái gì hiện hữu hôm qua thì hôm nay nó vẫn còn tác động. Cái gì hiện hữu hôm nay, thì rồi nó vẫn tác động ở tương lai, gần hay xa.

Không có cái gì đã tác động tốt hay tác hại hôm qua mà sẽ mất hẳn đi trong hôm nay, không có cái gì đang tác động tốt hay xấu hôm nay mà sẽ hoàn toàn mất đi trong tương lai. Cứ như trong hóa học, không có gì đã có mà rồi sẽ mất đi hoàn toàn. Nó sẽ xuất hiện dưới một dạng khác, thể khác, chứ không biến đi mà không để lại dấu vết.
Không có cái gì không hề có hôm nay mà sẽ có trong tương lai : cổ xúy đấu tranh bằng hận thù, bạo lực hôm nay, rồi thì nó sẽ đẻ ra hận thù và bạo lực trong tương lai. Và chính quy luật này cho biết, muốn xây dựng những điều công bằng, chân thật tốt đẹp của thế giới đại đồng trong tương lai, thì phải bắt đầu thực hiện những bước công bằng, chân thật tốt đẹp ấy, ngay từ hiện tại bây giờ. Phải xử lý, thanh toán cho hết những di sản thù hận của quá khứ đang hiện diện trong thực tại, để nó không còn tác động trong tương lai. Khung cảnh lý luận như thế là căn cứ trên một hiện tại sống động, nghĩa là nó phải thanh toán, nó phải gột rửa mọi xấu xa, để rồi nó còn tiếp tục sống động trong tương lai, như là cái gốc tốt đẹp, tử tế của tương lai.
Không có thứ lý luận biện chứng nào có thể chứng minh rằng một xã hội đầy đen tối, đầy dối trá, độc ác, quỉ quyệt, đầy hận thù, tranh chấp, đầy chia rẻ và tham nhũng của hôm nay sẽ đẻ ra một thế giới đại đồng chân thật, đoàn kết, thương yêu, tốt đẹp trong tương lai !
Mà có thật là những con người vô sản đang phấn đấu để vẫn còn là người vô sản trong tương lai ? Hay nó đang phấn đấu để trở lại con người hữu sản ? Phấn đấu để có một cái gì cho mình, hay để rồi không có gì cả cho riêng mình ? Có những nhận định khắc khe cho rằng một số không ít đảng viên, chỉ vì muốn lo toan, củng cố các điều kiện sinh hoạt cho gia đình mà bị quy chụp cho tội cách mạng biến chất, chỉ biết lo riêng tư. Đấy là một lối nhìn sai lệch. Vì đấy là một thứ lý luận theo lô-gich hình thức của phái siêu hình, không nhận ra sự thật trong cái thực tế rất tự nhiên trong vận hành cách mạng của con người. Lối nhìn ấy thật sự không phải là biện chứng. Thực ra là họ vẫn lẩn quẩn trong một số lý luận siêu hình mà không biết. 
Thân phận những con rối.
Cái phần sự nghiệp xây dựng mô hình thế giới đại đồng của Marx đã làm hòng học thuyết. Nếu trong phần phê phán chủ nghĩa tư bản, Marx đã sử dụng những sự kiện đã xảy ra trong lịch sử đương đại, trong xã hội đương thời, để đả xã hội tư bản. Cách phê phán này có tính biện chứng duy vật sử quan không thể bắt bẻ.

 Nhưng bước qua phần lý luận để xây dựng xã hội mới bằng cách nêu mô hình thế giới đại đồng mà mọi người mơ ước, thì Marx bắt đầu lúng túng trong biện chứng. Vì cái mô hình thế giới đại đồng ấy là không có giai cấp, không có bóc lột. nó được coi là nền tảng của khái niệm, của ý thức đấu tranh giai cấp. Cái mô hình ấy, thật ra là chưa hề thấy, chưa hề có ở đâu đó trong lịch sử. Nó chỉ là một ảo tưởng, một mong ước sẽ có trong tương lai. Làm như vậy trong lý luận là Marx đã mang cái tương lai ảo ấy, đặt nó lên trước hiện tại để dùng nó như một kinh nghiệm đã có, đã thấy. Đấy là lối lý luận với một nền tảng siêu hình. Biện chứng đó không có chút gì là duy vật sử quan .
Từ khái niệm thế giới đại đồng tốt đẹp theo dự báo, do mong ước ấy, Marx đã biến nó thành ý thức cách mạng đấu tranh giai cấp, để hành động, để đạt tới thắng lợi, để xóa bỏ giai cấp bóc lột, để hoàn thành một xã hội không có giai cấp. Viễn ảnh quá đẹp ấy là một kinh nghiệm ảo, là một thứ thiên đường ảo chưa hề có trên trái đất. Ở trong mô hình ảo ấy, giới công nông đã được giải phóng, đã làm chủ được chính mình.

Từ kinh nghiệm ảo mơ ước ấy, Lénine khai triển một chủ nghĩa xã hội mới, bằng cách khơi dậy hận thù giai cấp để làm động lực đấu tranh của giai cấp vô sản, làm đòn bẩy để hoàn thành cách mạng, tạo ra sự đổi đời với một hệ thống giá trị mới của giai cấp công nông, với một đảng cầm quyền là đại diện cho giai cấp công nông. Vậy là cách mạng đạt tới một chế độ mới, một nhà nước mới theo một chủ nghĩa xã hội mới. Trong chế độ mới ấy, sẽ không còn cảnh người bóc lột người, công nông nào mà không mê !
Biến khái niệm, biến học thuyết đấu tranh giai cấp chống bóc lột thành ý thức cách mạng. Lấy hận thù làm nền tảng phát động một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên toàn cầu. Đấy là một phát minh ý thức hệ vô cùng sắc bén và tinh vi. Bởi nó có một sức bùng phát phi thường, nhờ đánh thức dậy trong con người bản năng bạo lực của thời còn là muông thú, khi khơi dậy tâm lý hận thù. Lý thuyết cách mạng lấy hận thù giai cấp làm động lực, lấy ý chí tiêu diệt giai cai cấp bóc lột làm vũ khí, chỉ nghe sơ qua lý thuyết ấy, bất cứ dân cùng khổ nào cũng tin như thế là đúng, như thế sẽ là thắng, sẽ là đại thắng.
Thế nhưng, cho tới nay, những ai đã từng sống cả cuộc đời trong sự vận hành cách mạng do Lénine phát động, do Staline triệt để khai thác, do Mao hò hét vận động, đều đã thấy rõ kết quả tồi tệ của một tổ chức mang danh đảng của giai cấp công nông, là một nhà nước chuyên chính vô sản cầm quyền. Đau đớn hơn hết là trong thực tại, con người lao động vẫn còn bị bóc lột. Trong xã hội mới ấy, thành phần công nông vẫn chỉ là thành phần thiệt thòi nhất. Kết qủa là trong thế giới đại đồng ấy, đã không hiển hiện một chế độ xã hội chủ nghĩa nào cả. Sau này, cuộc cách mạng long trời lở đất ấy đã lộ ra cái bản chất vừa ngu tín, vừa cuồng tín.
 Đặc biệt là ngay trong chế độ vô sản mới này, con người vô sản ở khắp nơi đều tỏ ra vẫn giữ nguyên bản năng hữu sản. Họ gậm nhấm, xâm chiếm của công, cướp đoạt tài sản của tập thể, của kẻ yếu, cướp đoạt đất đai của nông dân làm của riêng. Tư hữu kiểu cũ do làm ăn cần cù, do tích lũy lầu dài mà có được, nay đã bị xóa bỏ. Thay thế nó nay là tư hữu kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ ký của quyền lực, hoặc do móc ngoặc với quyền lực. Trong thực tế,  trước mắt, con người vô sản có quyền hành, luôn luôn phấn đấu để chiếm hữu một cách rất tự nhiên của cải của xã hội, để trở thành nhà tư sản mới.
Phải thẳng thắn ghi nhận rằng cho tới nay, chỉ có một cuộc cách mạng duy nhất đã thực hiện đúng một hình thức xã hội không giai cấp mà Marx mơ ước. Đó là chế độ vô sản, một xã hội không có tư hữu, không có tiền tệ để dùng làm dụng cụ bóc lột. Đó chính là cuộc cách mạng mà Pol Pot đã xây dựng tại Cambốt. Trong suốt những năm tồn tại của chế độ Pol Pot, các chế độ xã hội chủ nghĩa khác đã im lặng đồng tình, đồng ý, vì tin rằng trong chế độ  Pol Pot ấy thật sự chỉ có giai cấp vô sản.
Kẻ gợi ý, kẻ chuyển lửa của niềm tin đấu tranh giai cấp cho các nhà lãnh đạo, trong đó có Pol Pot, để đi vào con đường cuồng tín đến đẫm máu chính là Marx. Lời tiên tri sẽ xóa bỏ giai cấp của Marx đã mê hoặc nhiều thế hệ. Và họ lao mình vào tội ác. 
Thủ phạm gây ra đại bi kịch cho nhân loại, chính là Marx.
Nhà báo cộng sản người Úc Winfred Burchett giải thích về chính sách thực dụng rất nguy hiểm của Mỹ trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam. Theo Burchett thì Mỹ nhúng tay vào Miền Nam Việt Nam vì coi đó là một thị trường của khối tư bản, và tuyên bố quyết tâm bảo vệ Miền Nam Việt Nam, vì đấy là một « tiền đồn của thế giới tự do ». Điều này có nghĩa là Mỹ muốn giữ vùng ấy không để lọt vào trong bức màn sắt của khối cộng sản. Nhưng, Mỹ cũng dứt khoát không tính diệt cộng sản
BắcViệt để thống nhất Việt Nam bằng cách này hay cách khác. Bởi chiến tranh đối với Mỹ luôn luôn nằm trong chiến lược kinh tế thị trường toàn cầu. Cuộc chiến tranh bảo vệ thị trường Miền Nam Việt Nam đã bị sa lầy vì tốn kém và bị dư luận nhân dân Mỹ chán ghét. Thế nên các nhà chiến lược Mỹ đã đề ra một giải pháp khác. Vì không bảo vệ được thị trường Miền Nam Việt Nam bằng chiến tranh, thì phải quay qua giải pháp tìm thị trường thay thế bằng con đường hòa bình, cách này ít tốn kém mà bền vững hơn.
Bởi Mỹ trên nguyên tắc, không hề tính tiêu diệt chế độ cộng sản ở Miền Bắc Việt Nam, nên khi thấy cuộc tổng tiến công nổi dậy hồi Tết Mậu Thân, 1968, đã làm cho « địch » kiệt sức, thì đó là lúc tốt nhất để đưa « địch » ngồi vào bàn hội nghị. Cũng như khi thấy cuộc oanh tạc Miền Bắc hồi 1972 đã đủ cho Hà Nội thấm đòn, thì Mỹ liền ngưng ném bom, rồi đưa ra những điều kiện cụ thể để Hà Nội chịu ký kết chấm dứt chiến tranh, để Mỹ rút chân ra khỏi Miền Nam Việt Nam. Tất cả là dùng lá bài hòa bình thay thế cho lá bài chiến tranh. Cũng để tỏ rõ chính sách của Mỹ như thế, nên hạm đội 7 rất hùng hậu của Mỹ, lúc đó có mặt đông đảo ở ngoài khơi Việt Nam.

Vậy mà lực lượng hùng hậu ấy đã đứng ngoài nhìn hải quân Trung Quốc đánh chiếm đảo Hoàng Sa của Miền Nam hồi 1974. Sự án binh bất động này có nghĩa là Mỹ không coi Miền Nam Việt Nam là tiền đồn nữa. Ngay từ khi đổ bộ vào Miền Nam Việt Nam, Mỹ đã chỉ đánh cầm chừng để giữ đất, để cầu hòa chứ không có ý đẩy chiến tranh đến tận cùng ra Miền Bắc, để tiêu diệt chế độ cộng sản ở Miền Bắc. Dù là đã oanh tạc Miền Bắc, nhưng chiến lược của Mỹ là chỉ chờ lúc địch kiệt quệ để áp dụng lá bài hòa bình, nhằm đánh « địch » bằng kinh tế hậu chiến.

Và quả thật ván bài này đã làm cho Hà Nội hoàn toàn kiệt quệ về kinh tế. Để rồi tới lúc Hà Nội đã chiến thắng, nhưng laị phải chập nhận mọi điều kiện để Mỹ bỏ cấm vận. Rồi sau đó thì Hà Nội đã trải thảm đỏ long trọng đón rước lãnh đạo Mỹ trở lại, tức là từ đó, chính thức mở cửa cho vốn tư bản tràn vào tư do tung hoành trên nước Việt Nam thống nhất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Một chế độ như thế thật là lý tưởng cho sự khai thác lâu dài của tư bản Mỹ, có lợi hơn hẳn dưới thời chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam. Bây giờ thì kết cuộc đã rõ rệt của ván bài « ai thắng ai » trong cuộc đấu trí ấy.
Công cuộc phát triển cách mạng vô sản, với giấc mơ xây dựng thế giới đại đồng, như vậy là đã hoàn toàn tan vỡ, sau khi đã hy sinh tính mạng của hàng bao nhiêu vạn chiến sĩ cộng sản. Bây giờ thì không còn chống Mỹ cứu nước nữa. Giờ đây là phải thoát ra khỏi chế độ bao cấp, tự túc tự cường, phải bám theo Mỹ để cứu nước. Cà một nền kinh tế toàn cầu dưới sự áp đặt của Mỹ, nay tự do như thác đổ tràn vào một xứ sở bị bị kiệt quệ đến xương tủy vì chiến tranh và cách mạng.
Giờ đây, cả nước đều phấn khởi hồ hởi vì được « hòa nhập ». Cửa đã mở rộng để cho vốn kinh tế thị trường tư bản tràn vào. Giờ đây, quê hương ta đang cuồng nhiệt lao vào đà phát triển sổi thì theo ý hướng của đồng USD, của những thế lực siêu đẳng về phương pháp bóc lột tinh vi. Các nước quanh ta, cùng khởi sự tranh đấu giành độc lập sau thế chiến thứ hai cùng với ta, nhưng do họ không có « lãnh đạo thần thánh », nên họ không phải hy sinh như ta, không phải đổ ra nhiều xương máu như ta. Và họ đã giành được độc lập và ấm no trước ta cả nửa thế kỷ. Như vậy cái công lao, cái tài lãnh đạo thần thánh ấy, sự thật chúng là công hay tội ?
Giờ đây, đảng phải ngả hẳn sang kinh tế thị trường của khối tư bản. Chính sách ấy thật ra mang tố chất phản cách mạng xã hội. Làm như vậy chỉ cốt để chế độ và đảng tồn tại. Đảng phải nói vớt vát rằng đó là « nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa », tức là vẫn còn lôi ông Marx ra làm bình phong. Tôn thờ ý thức hệ mác-xít là duy trì tư duy sai lầm từ cái gốc tổ tông của cách mạng. Nói kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nói dối, là dùng cái bình xã hội chủ nghĩa, nhưng rượu ở bên trong nay là rượu của tư bản. Nói vậy là vẫn mang bóng ma của phần biện chứng không tưởng, siêu hình của Marx ra để bảo vệ.
Sự thực ở ta, nay không phải đang áp dụng « kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa », mà thực tế đang thi hành thứ « xã hội chủ nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường ». Nghĩa là ngày nay đảng vẫn duy trì hình thức cai trị của chế độ chuyên chính, nhưng đi theo một thứ chủ nghĩa tư bản mới, với lý luận của xã hội chủ nghĩa. Thứ chủ nghĩa tư bản mới dã man này ở Mỹ không có. Vì ở đó dân có quyền của dân, dân được phép phê phán, thay đổi cai trị bằng lá phiếu.

Còn ở nước ta, thực sự là nay đang theo một thứ chủ nghĩa tư bản rất mới so với trước đây, nghĩa là cái gì cũng bị coi là hàng hóa, cái gì cũng có thể rao bán ; từ lý thuyết, nghĩa vụ, con người, từ trẻ thơ tới thanh niên, phụ nữ, có thể bán cả tài nguyên, đất đai, lãnh thổ, sức lao động ra nước ngoài để thu đô-la về. Độc hại của sự định hướng theo kinh tế thị trường là đã coi các nghĩa vụ cao quý nhất như giáo dục để phát triển con người, như y tế để cứu chữa con người, thì nay những nghĩa vụ đó cũng đều là hàng hóa, cũng phải chịu luật hạch toán kinh tế, cũng phải tính lời, tính lỗ. Phát triển xã hội theo định hướng kinh tế thị trường như hiện nay là sự thống trị của tư bản man rợ, là một sự phá hoại tinh thần về mọi mặt, từ lương tri tới lý tưởng, từ trật tự kỷ cương tới truyền thống văn minh, văn hóa của tổ tiên.
Tại các nước dân chủ như ngay tại Mỹ, chính sách kinh tế thị trường luôn luôn bị quyền tự do dân chủ kiểm chế, bị tự do báo chí canh trừng, nên nó không thể tự do tung hoành phá phách được, vì ở đó có sức phản bác của người dân. Vì dân có quyền dùng lá phiếu của mình để lật đổ một chính phủ không tôn trọng và bảo vệ dân. Ở nước ta cho tới nay, lá phiếu chỉ là trò đùa dân chủ của đảng, để tô đẹp bề ngoài cho chế độ. Thực tế là chế độ ta đã không bảo vệ dân, vì thực chất của lá phiếu ở ta không có quyền lực gì cả. nó chẳng thể đào thải được một chính quyền tham nhũng thối nát đang bị dân chúng oán ghét, nguyền rũa.
Về mặt triết học, kẻ từ khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, thì tất cả những gì xảy ra trên thế giới  sau ngày 30 tháng tư 1975, đều đã làm chứng cho một sự thật đã bừng sáng. Vì hòa bình ở Việt Nam là một mốc thời gian, đánh dấu giai đoạn mà sự thật đã chứng minh rằng không hề có một chủ nghĩa vô sản nào, một chính quyền vô sản nào đã hình thành trong một nước xã hội chủ nghĩa nào cả. Vì thế mà cái gọi là Đệ Tam Quốc Tế nay đã sụp đổ hoàn toàn, từ căn bản tư tưởng, từ bên trong xương tủy của nó. Cái gọi là tinh thần, là nghĩa vụ quốc tế vô sản, là Đệ Tam Quốc Tế ấy chỉ là cái vỏ bề ngoài, là một tấm màn che mắt, là một con số không.

 Đệ Tam Quốc Tế chỉ là công thức giúp nước Nga giữ lại toàn thể di sản đế quốc do các Sa hoàng để lại. Toàn thể khối Liên Xô tại Đông Âu đã sụp đổ từ bên trong vì sự trống rỗng tư tưởng giải phóng của nó. Cuộc cách mạng vô sản của Pol Pot đã bị bộ đội cộng sản Việt nam dẹp tan, cuộc chiến tranh ngắn ngày do đảng cộng sản  Trung Quốc phát động chống chế độ cộng sản ở Việt Nam năm 1979, tất cả các cuộc chiến tranh ấy chỉ là hành động của thực dân đế quốc bành trướng kiểu mới. Về mặt kinh tế, sự đứng dậy ngoạn mục của Trung Quốc, của Việt Nam, cũng là do thành phần tư sản, tư bản đỏ đã bùng lên cấu kết với tư bản man rợ nước ngoài, rất lấn át, rất tàn nhẫn, rất vô luật lệ, để tung hoành. Vì thế nó đã phát triển rất nhanh, rất ngoạn mục, nhưng cũng vô cùng tai hại.


Giải mã lãnh tụ
Cụ Hồ là một nhân vật vô cùng phức tạp, vô cùng thông minh, rất mưu trí, một con người sắt đá đến mức vô cảm, vô tình, sẵn sàng chụp bắt mọi cơ hội để thành đạt. Một ý chí thành đạt không gì lay chuyển. Đấy là một Tào Tháo muôn mặt của muôn đời, một con người không có tình bạn, không có tình yêu gia đình, tình yêu con cái, một bộ óc nung đúc cuồng vọng, với một ưu tư duy nhất là phải leo lên tột đỉnh quyền lực để đạt tới mục đích của mình. Vì thế, ông ấy không chấp nhận một ai trong đám chung quanh là ngang mình. Không hiểu gì về lãnh tụ là điều nguy hiểm. Những ai từng coi thường Người, từng tỏ ra ngang hàng với Người , thì sau đều đã vĩnh viễn bị loại trừ ra khỏi tầm mắt của Người. Không ít kẻ đã mất mạng, mất cả xác.
Vì vậy, cần phải biết giải mã lãnh tụ. Phải hiểu rằng ông cụ có tâm thức mình là bên trên tất cả, là một bậc kỳ lão gia trưởng luôn luôn tỏa sáng bởi một thứ hào quang thần thoại. Và, đám quần thần chung quanh ông cụ không tha thứ cho một ai dám tỏ mình ngang hàng với. Người . Từ những tay trí thức nổi tiếng tâm huyết như Nguyễn an Ninh, Phan văn Hùm…, cho tới kẻ được đào tạo chính quy như Trần văn Giàu, và biết bao nhiêu trí thức có uy tín khác nữa, đều là những nạn nhân của thái độ ngang hàng như thế. Tất cả đều bị loại bỏ một cách tàn nhẫn và vĩnh viễn. Người ta kể lại rằng, Tạ thu Thâu đã chết mất xác vì câu nói : « Ngoài bắc có cụ, trong nam có…tôi ».
Ông cụ có quyết tâm không gì lay chuyển là được tận tay dẫn dắt dân tộc đi tới thế giới đại đồng. Dù khó khăn mấy, hao tốn mấy thì cũng phải hoàn thành cho bằng được. Vì thế nên ông cụ quyết tâm nắm bắt mọi cơ hội để đạt tới đỉnh cao, để củng cố quyền lực, bằng mọi giá, bất chấp những chuẩn mực của lương tri, của đạo lý, cứ như theo sách vở của Machiavel. Vì thề, ông cụ thấy con đường chuyên chính vô sản của xã hội chủ nghĩa là đúng nhất, tốt nhất.

Các nhà nghiên cứu nước ngoài đã không chú ý nhiều tới « cuồng vọng lãnh tụ » ấy, khi họ tìm hiểu ông cụ. Họ thấy phong cách lãnh đạo của ông cụ như thế là do bản năng tự nhiên. Bởi các nhà nghiên cứu ấy mang sẵn trong đầu những định kiến chính trị cổ điển, qua cái nhìn bị chói lòa bởi những huyền thoại của bộ máy tuyên truyền. Các nhà nghiên cứu ấy đã vô tình sử dụng quá nhiều tư liệu là sản phẩm chính thống của đảng. Họ đã không hiểu những hành động cực đoan của cuồng vọng.
Phải biết rằng huyền thoại và vóc dáng lãnh tụ của bác Hồ là tác phẩm của một công trình nghệ thuật hóa trang cao độ, một công trình điểm tô, giàn dựng, để công kênh ông cụ lên thành một nhà lãnh đạo uy nghi, kiệt xuất, như là bậc thần, bậc thánh, để dân chúng một lòng tin tưởng mà sùng bái. Ông cụ được tôn vinh làm bác, làm cha dân tộc. Họ dạy cho dân tiêu chuẩn lý tưởng : cái gì có giá trị thì cũng phải là của bác Hồ, của cụ Hồ. Nào là « cháu ngoan bác Hồ », « cây vú sữa bác Hồ », « nhà sàn bác Hồ », cho tới « anh bộ đội cụ Hồ ». Từ đó đã biến thể ra thành cái nếp suy nghĩ rằng cái gì hay, cái gì tốt, cái gì có giá trị, thì cái đó phải là của bác, của đảng.
Tại sao một đảng cách mạng, lấy việc giải phóng con người làm mục đích tối hậu, mà lại muốn biến tất cả thành sở hữu của lãnh tụ, của đảng cầm quyền ? Đấy không phải là tâm thức của con người đã được giải phóng, mà là tâm thức của con người đã bị mất tự do, vì phải nguyện làm nô bộc cho một vị chúa tể, cho một nhóm quyền lực. Đấy là do tình trạng đã quá sùng bái. Đấy là căn bệnh của chủ nghĩa ngu tín, chủ nghĩa cuồng tín. Phải giải mã những cuồng vọng bí ẩn, những sức ép giáo điều của ý thức hệ thì mới thoát ra khỏi tình trạng ngu tín và cuồng tín ấy.
Có một điều rất đáng tiếc là các nhà sử học khi tìm hiểu về cụ Hồ đã bỏ qua một thứ tư liệu rất chính gốc, rất bộc lộ, rất chân thực, do chính đương sự là tác giả. Đó là ý nghĩa của những biệt hiệu hay những tên giả mà chính cụ Hồ đã tự đặt cho mình, qua từng giai đoạn mưu tìm đường hoạt động, lúc thiếu thời, khao khát tìm cách tiến thân, tìm đường hoạt động chính trị. Có những cái tên theo tiếng nước ngoài khá ngộ nghĩnh. Nhưng, đáng chú ý là từ khi tự đổi tên là Tất Thành (1911), với khát vọng khiêm tốn là sẽ thành đạt, rồi cho tới sau này thì bỏ hẳn họ Nguyễn, để thay đổi, lấy lại họ gốc là họ Hồ, và chọn cái tên cực kỳ kiêu sa, coi mình là bậc Chí Minh (1945). Nói chung, với cả trăm tên giả thường là rất tiêu biểu tâm thức như thế, đã phản ảnh một cách chân thực những bước chuyển biến trong đấu óc của « ông cụ ». Mỗi lần thay tên, đổi họ là một bước có ý nghiã trong hành trình vươn lên, đi tới để trở thành lãnh tụ.

 Đấy là quá trình diễn biến của sự hình thành một cuồng vọng. Phải phân tách cặn kẽ từng cái biệt danh ấy như là một dấu hiệu tâm lý chính trị, từ lúc chỉ mong có cơ hội thành đạt, cho tới lúc quyết tâm, bằng mọi giá, mọi cách, để đạt tới tột đỉnh của quyền lực như là một ông vua (Vương), là một người yêu nước chân chính (Ái Quốc), là một lãnh tụ thông minh bậc nhất trong thiên hạ (Chí Minh). Thật ra, trong xã hội phong kiến, những danh hiệu ấy chỉ có thể do người đời phong tặng cho những nhân vật lịch sử được người đời sau công nhận là xuất sắc, xứng đáng mang những danh hiệu ấy. Nhưng, đây lại do chính đương sự ngay trong hiện tại đầy vấp váp, đã tự mình tặng cho mình..

Một nhà túc nho, một người trí thức có đầu óc tình táo, có liêm sỉ, một bộ não minh triết thì không bao giờ dám tự ý xưng mình như thế. Thật khó giải thích, một kẻ tự coi mình như là « ông vua », là bậc « quân tử » siêu phàm , mà lại có hoài bảo làm môt nhà cách mạng, một chiến sĩ vô sản, cộng sản. Sự công khai tự tôn vinh mình lên một cách quá trớn như thế cũng không phải là thái độ của một bậc chí nhân, chí thánh. Đấy chỉ là những biểu hiệu của một thứ sở cuồng lộ liễu, lỗ mãng, một thứ bệnh tâm thần đam mê đến mất thăng bằng về mặt lý trí, liêm sỉ, đạo lý. Khi tự xưng tụng mình một cách thượng đỉnh, tối cao như thế thì chỉ có thể là vì đã quá khao khát danh vọng.
Ngoài ra, còn có thể tìm hiểu nội tâm, chí hướng của nhân vật lịch sử này qua một công trình phân tích mang tính phân tâm học của từng chữ, từng câu mang nặng một khát vọng, trong hai tập sách tuyên truyền « Những mẫu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ chủ tịch » và « Vừa đi vừa kể chuyện » để thấy rõ từng bước chuyển biến tâm lý, từ lúc chỉ mong được nhận vào trường thuộc địa của « mẫu quốc Pháp » với hy vọng được ra làm quan, cho tới lúc quyết tâm trở thành một lãnh tụ cách mạng.

Nhờ những phát tiết lỗ mãng của cuồng vọng như thế, mà  ông cụ đã tạo ra một thời chính trị vô cùng phức tạp, điên đảo. Một thời mà mọi người đều thấy rằng phải đạp lên lương tri, đạo lý để « cướp quyền », để thành công, để chiến thắng. Thời ấy là thời làm chính trị thì phải biết « mặc áo cà-sa », phải biết đột nhập vào hàng ngũ đối phương, nghĩa là phải biết đánh lừa mọi người.  Những lời kể chuyện ấy đều là những thú nhận của một tâm thức, tuy là độc đáo, nhưng không mấy cao cả. Đấy chỉ là bí quyết hành động, trong một đại bi hài kịch của lịch sử.

Thành ra qua những cái tên mang mặc cảm tự sùng bái mình như thế, chúng ta có thể hiểu lãnh tụ có đầu óc, có tâm trí, có đạo lý như thế nào. Napoléon, Hitler cũng đều đã là những lãnh tụ có tâm thức tự cao tự đại, nhưng không gian trá đến mức quá tệ hư thế. Bởi họ còn thua bác Hồ ở chỗ không biết tự ngồi viết sách để tự đề cao chính mình. Thật tình, một người hết lòng vì nước vì dân, một chính danh quân tử, một trí thức lương thiện, thì không thể tự khoe mình, tự viết sách để ca tụng mình một cách ngông cuồng lộ liễu như vậy. Lịch sử đã mang dấu ấn của một tham vọng, một mưu trí tột đỉnh tự tôn.
Thực tế mà nói, ông cụ biết rằng trình độ tư tưởng, lý luận cách mạng, thì mình không làm sao so được với những Trần Phú, Lê hồng Phong, Hà huy Tập, Nguyễn văn Cừ, là những người được đào tạo chính quy, ngay cả với Trường Chinh cũng vậy. Thế nên phải tìm cách chế ngự các đối thủ ấy. Phải cố nêu gương, phong cách sống cao thượng, thanh đạm của một chân nhân để tỏ ra mình là nhà cách mạng chân chính. Vì một lẽ giản dị là đời sống và hành tung đa dạng, đa phương, muôn mặt, muôn vẻ rất ly kỳ, đầy bí mật của cụ Hồ, lúc xuất quỷ, lúc nhập thần, như thế nên không ai sánh được. Guồng máy tuyên truyền cách mạng dạy dân phải sống và làm việc theo gương bác Hồ.

 Nhưng, làm sao một người bình thường có thể sống với tung tích không rõ rệt, gốc gác đầy bí ẩn, với nhiều tên, họ lung tung, với đường lối hành động muôn mặt như bác Hồ được. Phải có cái đầu cực kỳ mưu trí mới có khả năng dựng nên những huyền thoại của cuộc đời đầy phiêu bạt, nay đây, mai đó, với cả trăm cái tên giả khác nhau, làm nhiều nghề vinh nhục khác nhau. Hành trình gập ghềnh, khúc khuỷu của bác Hồ thì khó ai có thể đi theo.


Từ một chú bé học chữ nho ở trong làng, từ một cậu học trò nghèo sống vất vả ở Huế, từ một ông thầy giáo quèn ở Phan thiết, từ một anh bồi hầu hạ quan tây trên tàu thủy, từ một anh thợ chụp ảnh dạo ở Paris, từ một kẻ mượn danh một nhóm aí quốc « An nam » viết báo, viết kiến nghị gởi hội nghị quốc tế, từ một đảng viên đảng xã hội Pháp, nay bỗng xuất hiện ở Nga, mai lại là một cán bộ ở bên Tàu, nay bị Đệ Tam Quốc Tế loại trừ vì có đầu óc « quốc gia chủ nghĩa hẹp hòi », mai lại thấy chạy về ẩn náu ở Trung quốc, ở Xiêm, rồi sau lại thấy xuất hiện trở lại ở Liên Xô, nhưng chỉ được chầu rìa bên lề đại hội kỳ 5 của Đệ Tam Quốc Tế, chứ không được làm thành viên của đoàn đại biểu chính thức của phong trào cộng sản Đông Dương.

 Rồi sau lại thấy bác xuất hiện với bộ áo cà sa ở Xiêm, rồi trong quân phục giải phóng quân Trung Quốc khi được nhận vào làm việc trong « bát lộ quân » của đảng cộng sản Trung Quốc, có lúc thì sống như một dân Hán tộc ở Liễu Châu, ở Quế Lâm, Thượng Hải, Trùng Khánh, Côn Minh. Sau biết bao nhiêu truân chuyên, rồi bỗng bác nổi bật như một nhà chính trị, một lãnh tụ cách mạng. Một con người đa năng, muôn mặt, muôn ý hướng phức tạp như thế, ai mà làm theo, noi theo tấm gương ấy được.
Từ kinh nghiệm cực kỳ cơ hội đó, cực kỳ muôn mặt đó, người dân rút ra bài học rằng, muốn sống, muốn thành công như bác Hồ thì phải biết sống muôn mặt, vừa đạo đức vừa thủ đoạn, để thành đạt. Đấy là lối đạo đức cách mạng thực tiễn, xu hướng ấy nay vẫn còn rất phổ biến và rất phát triển trong chế độ xã hội chủ nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường.
Chính trị cũng như khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, tất cả đều là những phương cách phục vụ con người. Nhưng, khi nói tới tội ác của chính trị, của khoa học, của tôn giáo thì đều do con người, tại con người đã sử dụng chúng. Triết học cũng vậy, triết học phải luôn luôn đi theo con đường chân thật của  trí tuệ, con đường tôn trọng đạo lý, tôn trọng chân lý.

Nhưng, khi triết học ngả theo con đường của quyền lực, thì nó không còn là triết học nữa, mà trở thành một thứ tà thuyết, một vũ khí của ma quỉ. Bởi thế, khi một bộ môn tư tưởng mang mầu sắc chính trị thì sẽ vô cùng tai hại vì người chủ trì bộ môn ấy. Mầu sắc chính trị sẽ dẫn đi loanh quanh vào những ngõ ngách dối trá và sai lầm. Triết học là đi tìm phương pháp suy tư đi tới sự thật, là để dẫn dắt con người đi tới những giá trị bền vững của cuộc sống, tức để con người bớt đau khổ, để đi tới hạnh phúc. Bài học lớn của triết học là giàn xếp bằng lý luận trí tuệ mọi mâu thuẫn, mọi xung đột, bằng tình thương giữa người và người, người với thiên nhiên, người với vũ trụ bao la.

 Nhưng cho tới nay, con người vẫn chưa mấy lắng nghe, chưa mấy ai hiểu thấu bài học lớn ấy. Vì thế mà kẻ làm chính trị thường sai lầm khi bất chấp sự thật, khi không tôn trọng con người, không tôn trọng thiên nhiên, vũ trụ. Trong lịch sử đầy rẫy những con người vì cuồng vọng lãnh đạo, nên đã làm hỏng chính trị, đã tàn phá con người. Bi hài kịch ở chỗ con người luôn luôn ưa thích đến cuồng nhiệt để được làm con rối trong trò chơi phá phách xã hội, phá phách thiên nhiên và phá phách cả chính mình.
Trích đoạn phần kết của sách :
                                                      
Điều đang tiếc, đáng buồn mà ít ai biết được rằng, chính con người Trần đức Thảo, một thời từng chân thành tự nhận mình là người mác-xít ấy , lúc cuối đời đã giác ngộ, đã can đảm nhìn nhận thái độ a dua hèn hạ, đã thú nhận sai lầm của mình, để bác bỏ, phủ nhận những gì đã viết trong cái thời sai lầm vì cuồng tín ấy. Và từ đó, nêu ra nhận thức mới, để đánh gía laị tư tưởng, sự nghiệp, với vấn đề công tội của Marx.
Dù thế nào, thì việc đánh giá cuộc đời và sự nghiệp Trần đức Thảo sẽ là một công việc khó khăn. Bởi việc trả lại công lý cho Trần đức Thảo cần tới lòng dũng cảm, cần có tinh thần lương thiện trí thức, cần tới trí tuệ. Bởi con người ấy đã sống, đã nghiên cứu, đã trải nghiệm trong bối cảnh đầy nhiễu loạn tư tưởng, đầy diễn biến đau đớn vô cùng sôi động, vô cùng phức tạp, trong cái thời lương tri lu mờ, vì chiến tranh, vì cách mạng, tức là cái thời gian đầy những thủ đoạn chính trị, những mưu kế gian xảo, vừa ngu tín vừa cuồng tín.
Không ít người cho cuộc đời ấy là một thất bại, vì đã không biết thỏa hiệp với quyền lực đương thời, không biết thích nghi dù chỉ là trong một giai đoạn tạm thời, để «đi với Bụt thì mặc áo cà-sa, đi với ma thì mặc áo giấy ». Nhưng, cũng chính nhờ vậy mà nay những gì nhà triệt học để lại đều thuộc về một sự nghiệp khả tín, chân thật. Không rõ sự thất bại trong chính trị của nhà triết học, cuối cùng có được coi là một thành tựu có ích cho triết học ? Dù thế nào thì cuộc đời ấy cũng là sự trải nghiệm tuy đau đớn nhưng quý hiếm trong hiện thực khai triển cách mạng, chứ không phải trong sách vở. Đây là một bài học về sự vận động của thời gian, do con người, cho con người và cho xã hội, trong lịch sử cận đại.
Có người khẳng định Trần đức Thảo đã thất bại vì cái tội ngông cuồng muốn làm một việc không thể làm, là trở về quê hương cùng cụ Hồ xây dựng một mô hình cách mạng mới mẻ mà loài người mơ ước. Và ông đã chết vì tội thứ nhì là lúc cuối đời ông cố chứng minh cái gốc của mọi sai lầm và tội ác do cụ tổ Marx, trong khi cung đình vẫn sùng bái, vẫn quả quyết bảo lưu rằng Marx « đúng », « duy nhất đúng ». Nhưng, cả hai tội vừa kể đều không thể coi là tội, bởi mơ ước và hành động sám hối chuộc tội đều là quyền cơ bản cao quý của con người trí thức chân chính.
Trần đúc Thảo đã có nhận xét về một thời lịch sử bị làm hỏng, làm bẩn, mà người ta khéo léo gọi đó là một thời đầy những mảng tối. Hy vọng rồi đây, sẽ tới một thời trong sáng, sạch sẽ, liêm khiết, một thời dũng cảm, để làm công việc giải tà, don rác cho lịch sử, chứ không phải để cố duy trì những cái « duy nhất đúng ». Bởi những cái « duy nhất đúng » ấy đã làm ô danh cả lãnh tụ lẫn cả cách mạng..
Đấy là một con người tàn tạ trong gian nan, hối hận. Đấy là một cuộc đời bi thảm, mang đầy thương tích thối tha của hận thù và bạo lực. Nhưng bộ óc ấy vẫn trong sáng, không oán thù ai, mà chỉ hối hận về sai lầm, về sự im lặng của chính mình, mang tội đồng lõa với sai lầm trong một thời gian quá dài. Đấy là công tội của một kẻ tôn thờ chân lý. Không ít người cho đấy là nỗi đau, một thật bại của nhà triết học, khi đã dại khờ lao mình vào đống rác của lịch sử với giấc mộng cuối cùng, là từ đó sẽ mang công sức và trí tuệ của mình ra để làm sạch lịch sử, làm sạch cách mạng.

No comments:

Post a Comment