Pages

Tuesday, November 29, 2016

BẢN ÁN BA SÀM - CÁ CHẾT - NHƯ PHONG


Thursday, October 6, 2016


CÁNH CÒ * BẢN ÁN BA SÀM

Tôi đã thấy từ một bản án


" Một lần nữa, tôi tuyên bố là tôi vô tội.
Tôi tự hào vì những gì mình đã làm từ 9 năm qua, 7 năm làm báo và 2 năm đi tù .
Tôi cảm ơn tấm lòng của mọi người, của những độc giả trong nước và quốc tế. Tôi thực sự bất ngờ với những bài báo, cuốn sách đã viết về tôi.
Tôi cảm kích với Minh Thuý vì sự chia sẻ và những gì mà cô ấy đã gánh chịu. Đề nghị Toà án giảm án và hãy trả tự do ngay cho cô ấy.
Tôi cũng cảm ơn các Luật sư của tôi.
Tất cả những gì đang diễn ra ngày hôm nay trên đất nước chúng ta đã chứng minh rằng, những việc tôi đã làm và những người đi trước đã làm là đúng đắn.
Tôi chấp nhận tất cả, kể cả cái chết cũng không làm tôi phải ân hận"
. . . . .
Tôi tin bà Minh Hà, vợ của người tù nổi tiếng Basam Nguyễn Hữu Vinh đã viết lại lời tuyên bố của chồng bà không sai một chữ nào, bởi Vinh đã ngẫm nghĩ nó hơn hai năm trong nhà giam còn bà Hà không thu nó bằng máy ghi âm mà thu nó bằng trái tim của một người vợ đập bởi sự thao thức của chồng mình.
Những thao thức của Basam không đến từ bản án rừng rú ngày 22 tháng 9 năm 2016 mà là tiếng chuông đêm vọng lên từ những rạn nứt của đất đai dưới chân người nông dân. Những tài nguyên quý giá của đất nước bị đào xới, ăn cắp lạnh lùng. Những bản án oan khuất của hàng ngàn người dân vô tội trên khắp đất nước giống như anh đang nhận lãnh. Những sâu dân mọt nước ngày một lộng hành hơn trên tấm lưng đen đúa của người nông dân, công nhân ngay cả công chức lương thiện. Những hạt gạo trắng tinh bị bọn đầu nậu sang nhượng rồi lấy hết phần lời trên từng gốc lúa được tưới bằng nước mắt. Những con người của thế kỷ 20 gục xuống trong các nhà máy hiện đại được bảo kê bởi cụm từ “nhân công giá rẻ” thời nay. Những bức tranh bẩn thỉu không giới hạn của hậu cung cộng sản, nơi mà rác và tiền nằm lẫn lộn trong các kho bạc cá nhân.
Và hơn hết tất cả, những bằng chứng mới nhất về hiểm họa Trung Quốc.
Basam Nguyễn Hữu Vinh là người không mệt mỏi cùng với đồng sự đưa những cái “những” ấy lên AnhBasam, Dân Quyền và Chép Sử Việt những trang Internet vượt ngưỡng người xem trong nhiều năm, đánh động cho người dân Việt đang mê ngủ hãy bừng tỉnh cơn say ngàn năm Bắc thuộc cũng như vực thẳm mất nước gần kề.
Anh bị tống giam vì đã dám thức tỉnh người dân, phạm trù mà cộng sản xem là tối kỵ. Với họ, chừng nào dân chúng còn u mê, quấn mình trong chiếc chăn ấm mang tên no say thì chừng đó chế độ sẽ tồn tại chung với cảm giác no say tự mãn của dân chúng.
No: bằng những thực phẩm giá rẻ đầy độc chất. Say: những huấn từ êm ái, những show diễn kích dục, những bài báo kích động lòng tự hào không có thật, những tấm gương giàu có đầy máu và lừa đảo, những bay bổng lâng lâng từ thứ rượu hảo hạng được pha chế bằng các chủ thuyết bốc mùi.
Basam Nguyễn Hữu Vinh là người chọn lựa, vận động, làm ấm, kích thích những bài viết soi rọi sự thật để người dân tỉnh thức. Đó là tội của anh. Và có lẽ cộng sản không bắt giữ anh lâu đến thế nếu anh đừng phạm cái tội lớn nhất trong thiên hạ: Phanh phui các thủ đoạn đen tối của Bắc kinh.
Basam Nguyễn Hữu Vinh đã chọn những bài viết bén ngọt đâm sâu vào sự thâm hiểm của Bắc kinh khiến không ít lần đại sứ Tàu tại Hà nội giận điên vì bất lực.
Anh biết trước việc mình làm sẽ dẫn đến ngày hôm nay, trước phiên tòa mang tên “cung hỉ” và chấp nhận nó như chấp nhận một kết quả không thể nào đảo khác khi tìm cho mình con đường khó khăn nhất để đi.
Hãy cố ngủ đi anh dù nhà giam có chật, có hôi hám nhưng đó là nơi duy nhất anh cảm nhận được máu của những người nằm trước anh, “những người đi trước” trong tuyên bố của anh ngày hôm qua. Họ là tiền nhân, cũng như anh sẽ xứng đáng là tiền nhân mở con đường hoan lạc cho dân tộc. Chúng tôi biết đường còn xa lắm, nhưng chúng tôi cũng biết rằng không có con đường nào bền vững được xây dựng trên vật liệu bán nước và ăn cắp niềm tin của dân chúng.
Con đường của anh ngược chiều với Nguyễn Phú Trọng bởi anh càng đi xa thì quan lộ của ông ta càng ngắn lại.
Chúc mừng anh, bởi điều thú vị là: cái quan lộ ấy càng thênh thang thì cái tên Basam Nguyễn Hữu Vinh lại càng sáng chói.

VIETTUSAIGON * ĐẤT NƯỚC TAN HOANG

Đầu ghềnh cuối bãi tan hoang…


Khái niệm đầu ghềnh cuối bãi mang đậm chất địa lý, trong đó, Việt Nam là một nước mà khái niệm này đậm đặc. Với địa hình phía Tây là núi, phía Đông là biển, trải dài từ Nam ra Bắc đều có những con sông chảy từ núi ra biển, sông suối đầu nguồn mang âm hưởng ghềnh thác chở theo núi non và phù sa đưa về cuối bãi, đưa về cửa biển. Đất nước như một bài thơ tự nhiên, sông núi quấn quýt, ôm lấy đồng bằng và cưu mang con người, cưu mang sự sống. Thế nhưng chỉ trong vòng chưa đầy nửa thế kỷ, công trình của triệu năm tạo hóa bỗng chốc tan hoang. Đầu ghềnh trở nên trơ trọi và cô độc, cuối bãi cũng thê lương bởi bàn tay tàn phá của con người. Cụ thể ở đây là con người Cộng sản.
Vì sao nói rằng đầu ghềnh cuối bãi trở nên tan hoang bởi bàn tay người Cộng sản? Bởi lẽ, chưa có thể chế chính trị, chế độ chính trị nào tàn phá đất nước Việt Nam trở nên tan hoang một cách mau chóng và đầy bạo lực như chế độ chính trị Cộng sản xã hội chủ nghĩa. Đất nước trải qua cả ngàn năm phong kiến và Bắc thuộc, người ta cũng khai thác biển, khai thác rừng để xây dựng, hưởng thụ và cống nạp cho phương Bắc nhưng rừng vẫn là rừng, biển vẫn là biển.
Ngay cả thời thuộc Pháp, rồi chiến tranh Nam Bắc kéo dài hơn hai mươi năm, vì lý do chiến tranh, vì phải phá bỏ một số cánh rừng để tránh tình trạng đối phương xây dựng căn cứ, làm ổ chiến tranh và gây hậu họa lâu dài, miền Nam và Mỹ đã rải hàng ngàn tấn thuốc khai hoang Dioxin xuống dãy Trường Sơn nhưng nghe ra những thùng chất độc màu da camn rơi vào Trường Sơn chẳng khác nào hạt muối bỏ biển. Rừng vẫn um tùm cây cối và chẳng mấy chốc đã ngun ngút xanh.
Thế nhưng, trong vòng chưa đầy nửa thế kỉ, mà chính xác hơn là trong vòng chưa đầy hai mươi năm, kể từ khi người Cộng sản biết xài đồ gỗ và gỗ là nguồn xuất khẩu hái ra tiền, rừng trở thành những đồi trọc. Cả một dãy Trường Sơn xanh miên man từ Nam ra Bắc chỉ còn lại những quả đồi trọc lưa thưa, cây đã không cánh mà bay, cả rễ cây, gốc cây cũng tự di chuyển vào nhà quan, tự biến mình thành những bộ bàn ghế gốc cây, rễ cây mà người ta gọi là “bàn ghế mỹ thuật”.
Rừng chết, biển cũng chẳng yên thân, từ một vùng biển với nguồn hải sản phong phú, dồi dào, chỉ trong vòng chưa đầy một năm, ngay từ tháng Giêng đến nay, biển miền Trung trở thành cái ao chứa độc của Formosa Hà Tĩnh và sắp tới đây là tôn Hoa Sen Cà Ná và còn nhiều dự án thép vẫn đang hăm he, chuẩn bị nuốt chửng môi trường xứ Việt.
Có người bảo rằng do lòng tham của con người, do ý thức con người kém nên đất nước mới trở nên như hiện tại. Tôi thì lại không nghĩ thế, tôi tin rằng người Việt Nam cũng giống như hàng tỉ người văn minh trên thế giới này và cũng chịu mọi tương tác giáo dục từ tấm bé cho đến ngày xuống mộ như hàng tỉ con người trên thế giới này.
Sở dĩ tôi nói như vậy vì trong thực tế, quá trình giáo dục và tiếp nhận giáo dục của con người không phải bắt đầu từ khi đi học mẫu giáo cho đến khi tốt nghiệp cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, rồi đi làm, nhận đồng lương là xem như khép lại. Mà trên thực tế, giáo dục là chính trị và chính trị là giáo dục.
Vì sao? Vì ngay từ tấm bé, lúc còn trong bào thai, thai nhi đã thụ đắc một nền giáo dục tưởng như vô thức trong bụng mẹ thông qua thức ăn của người mẹ, thông qua tương tác xã hội, gia đình và ngũ giác, từ âm thanh đến hình ảnh, va chạm, cảm giác, tâm trạng… của người mẹ. Để rồi khi ra đời, những bài hát ru, những làn điệu (có thể là dân ca, cổ điển, cũng có thể là hiện đại) của bà, của mẹ chính là những bài học đầu tiên của bé. Và quá trình giáo dục từ trong bụng cho đến khi ra đời của em bé lại chịu tác động chính trị rất mạnh. Một người mẹ sống trong một đất nước có nền chính trị coi trọng quyền con người, có dân chủ sẽ có tâm hồn cởi mở, có sự hãnh tiến và có niềm tin vào ngày mai, có miếng ăn sạch sẽ, an toàn và ngon, có thời gian để đi ngắm thiên nhiên, lĩnh hội cái bao la của đất trời… Tất cả những yếu tố này hun đúc tâm hồn từ trứng nước.
Ngược lại, một bà mẹ sống trong một chế độ chính trị mất tự do, quay cuồng trong cơm áo gạo tiền và tham vọng thì e rằng khó hứa hẹn một tâm hồn trẻ khoáng đạt và sâu sắc. Đó là chưa muốn nói đến khi ra đời, tuổi thơ đứa bé đã học được gì. Nói cho cùng, những bài học vỡ lòng của nền giáo dục Cộng sản xã hội chủ nghĩa bị khuôn chặt trong ba yếu tố: Bạo lực; Dối trá và; Tham lam. Càng ngày yếu tố bạo lực, dối trá và tham lam càng cô đặc trong giáo dục Việt Nam.
Từ câu chuyện chú Cuội không dưng thấy ba cọp con thì vác rìu chém chết sau đó thấy cọp mẹ về nhai lá cây đắp cho con và cọp con sống lại thì lén lút chờ bốn mẹ con nhà cọp bỏ đi liền bứng cây mang về nhà trồng. Trong câu chuyện chú Cuội đã hội tụ đủ yếu tố tàn bạo, cọp con cũng chẳng làm gì Cuội, vậy mà Cuội nỡ vung rìu chém chết. Thấy cọp mẹ về thì bỏ chạy, trèo lên ngọn cây, đây là tính hèn nhát, hiếp yếu mà sợ mạnh. Rồi lại bứng cây rừng mang về trồng khi biết đây là cây thuốc quí, điều này dạy cho con người tính tham lam, cứ thấy quí là bê về nhà, không cần biết phải quấy. Và đây cũng là khóa huấn luyện lâm tặc từ tấm bé cho học sinh Việt Nam. Đừng trách tại sao Việt Nam ngày càng nhiều lâm tặc và lâm tặc là chính những đảng viên, quan chức, họ là lâm tặc giỏi giang nhất. Bởi họ hiểu thế nào là “rừng vàng biển bạc” thông qua tập khí ăn cắp thiên nhiên mà họ được nhồi nhét, đào luyện từ tấm bé!
Và những bài học ca ngợi đảng Cộng sản, ca ngợi những tấm gương giết người, ám sát, khủng bố như Nguyễn Văn Trỗi, hay mách mách tàn tàn vung lựu đạn giữa chợ như Võ Thị Sáu, kể cả tấm gương điên rồ tự biến mình thành ngọn đuốc sống mà các tay bồi bút chế độ đã tự nhào nặn, tự biến thành nhân vật điển hình, lừa dối lịch sử suốt bao nhiêu năm nay đều dạy cho con người trở nên tàn ác, coi thường mạng sống bản thân và đạp lên sinh mệnh đồng loại.
Khi cái ác, sự dã man được cổ xúy, nhào nặn thành những biểu tượng lịch sử, tấm gương thế hệ, anh hùng dân tộc thì đương nhiên, cả dân tộc trở nên man rợ là lẽ tất yếu. Và ở đây, vấn đề thứ hai là con người được giáo dục cho đến khi sáu tấm ván quan tài khép lại. Sở dĩ nói như vậy bởi giáo dục là chính trị và chính trị là giáo dục lại có ý nghĩa đặc biệt trong giai đoạn con người thụ đắc giáo dục thông qua công việc, tương tác xã hội và tự khẳng định mình sau khi rời ghế nhà trường. Một con người khó có thể giữ được sự tử tế và liêm khiết khi người đó đang bị chính cái thể chế chính trị đè đầu cưỡi cổ, hàng ngày đang xâm thực họ trên mọi nghĩa. Mọi tương tác về chính trị, xã hội và công việc trong độ tuổi này chính là quá trình giáo dục và thụ đắc giáo dục của con người cho đến lúc chết.
Trong một đất nước thiếu tự do, dân chủ và đầy rẫy tội ác, bạo lực, tham nhũng, đè đầu cưỡi cổ thì bài học của bất kỳ cá nhân nào không thể là tự do, yêu thương và sáng tạo mà là bằng mọi giá phải đạp lên mọi thứ để tồn tại. Không ngoại trừ đạp lên sinh mệnh đồng loại, thậm chí cả sinh mệnh người thân!
Rừng chết, do con người đã quên mất giá trị tự nhiên, cũng như hình ảnh tự nhiên trong tâm hồn con người đã chết khô và ý thức thực dụng, lợi dụng tự nhiên để làm giàu, tùng xẻo tự nhiên đã thế chỗ. Biển chết do sự phóng khoáng và yêu tự nhiên của con người đã cạn, đã thành ao tù của lòng tham, sự ích kỉ và mưu toan thâu tóm cả biển trời vào bàn tay quyền lực.
Và đó là nguyên nhân của hàng triệu hệ quả đang hiện rõ nét từ Formosa Hà Tĩnh cho đến nhiệt điện Vĩnh Tân, thủy điện Sông Tranh, Sông Bung, đồng bằng sông Cửu Long ngập mặn và sắp tới đây sẽ là tôn Hoa Sen Cà Ná, cán thép Quảng Nam... Và sẽ còn hàng triệu ung nhột sắp vỡ, làm lộ rõ cơ thể Việt Nam đang hủy hoại một cách khủng khiếp!
Và đầu ghềnh cuối bãi không còn thơ như đã từng, mà đầu ghềnh là nơi xả độc, là mối đe dọa, cuối bãi là hố chứa độc, là ao chết chócc, và rồi đồng bằng tự xâu xé nhau như bầy thú thèm thịt đồng loại, và rồi mọi thứ dần tan hoang cho đến khi không còn cái cây, không còn ngọn cỏ, không còn con cá, không còn con chim, không còn màu xanh. Lúc này, liệu người Cộng sản có đủ tỉnh táo để nhận ra rằng tiền, vàng, thép không thể nào ăn được?! E rằng đây là câu hỏi mà câu trả lời lại tùy thuộc và hệ thống giáo dục mà họ đã và đang thụ đắc!

SỔ TAY TƯỞNG NĂNG TIẾN * LÀM CHÓ

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Làm Chó Cũng Khó

Ảnh của tuongnangtien

Nguyễn Đình Thi qua đời cũng đã khá lâu. Những câu thơ của ông trước lúc lìa trần, tuy thế, vẫn cứ còn vương vất “chút” mùi vị “đắng cay” trong lòng người đọc:
Anh chắt cuộc đời anh chắt mãi
Chút ngọt bùi chút đắng cay
Người tôi còn nhiều bùn tanh
Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ
Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc mình...

Thôi,xin tha cho mọi lỗi lầm
Quên cho những dối lừa khoác lác

Vâng, nghĩa tử là nghĩa tận. Ai mà không có những lỗi lầm và (đôi lần) dối lừa khoác lác: “Chúng ta là những nhà văn, nhưng là những hạt bụi lấp lánh ánh sáng của Đảng!”
Đảng vốn rất đa nghi và rất hẹp hòi nên chưa bao giờ đánh giá nhà văn/nhà thơ (nói riêng) và cả giới trí thức (nói chung) cao qúi thế đâu. Họ chỉ được xem như đám gia nô, hay tử tế (và khi cao hứng) lắm thì là đám con cháu trong nhài. Khối kẻ cũng chỉ mong được thế:
Nguyễn Thị Hồng Ngát, nhà thơ, nhà biên kịch, nguyên là lãnh đạo quản lý ngành điện ảnh VN, Giám đốc HondaFilm, tác giả tứ thơ Trái Mùa “Cây đổ lâu rồi, gió vẫn reo”, tác giả kịch bản phim truyện Canh Bạc…, trong 1 cuộc phỏng vấn của phóng viên Evan Williams đài truyền hình ABC bên Úc (lúc đó Hồng Ngát còn đương chức Cục phó Cục Điện ảnh VN), đã nêu bật một quan niệm chính quy về tương quan dân-đảng là: “Con cái không chê cha mẹ khó” (cho nên không được hỗn hào phản biện?!).

Ảnh: Dân Luận
Trương Ngọc Ninh, nhạc sĩ, tác giả Lời Ru Chia Đôi và Biển Khát, Phó Giám đốc sở VH-TT Hà Nội, vẫn thường xuyên lặp lại trong các hội nghị về văn hóa câu châm ngôn hải đăng của Bộ VH-TT (tiền thân của TT-TT): “Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo!

Ảnh: Dân Luận
Tôn Nữ Thị Ninh, nguyên Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền của VN tại Liên hiệp Châu Âu (EU), Phó Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Ba Đình, Ủy viên TƯ Hội Liên hiệp Phụ nữ VN, đã từng tuyên bố trong buổi họp báo tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia Hoa Kỳ hồi tháng 10 năm 2004, khi bị chất vấn về tình trạng vi phạm nhân quyền ở VN, rằng:  “Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi.(Đinh Tấn Lực. “Mối Tương Quan Mất Dậy” – Dân Luận 24/10/2009).
Bẩy năm sau, độc giả báo Tuổi Trẻ (số ra ngày 3 tháng 10 năm 2016)  lại có dịp xem qua về “mối tương quan mất dậy” trong việc việc xin (cho) đại học được tự chủ:
Mới đây, trong hội nghị về tự chủ ĐH, GS.TSKH Hoàng Xuân Sính - chủ tịch hội đồng quản trị của trường ĐH tư đầu tiên ở VN- đã dùng hình ảnh về quản trị gia đình thông qua câu chuyện mẹ - con để nói vế vấn đề này.
GS.TSKH Hoàng Xuân Sính nói ví von: con gái đến tuổi trưởng thành, người mẹ muốn dạy con biết quán xuyến việc nhà nên giao phần chi tiêu cơm nước cho con.
Mẹ cho con quyết định mọi thứ, chỉ có yêu cầu duy nhất: dinh dưỡng đảm bảo cho cả già lẫn trẻ. Cũng việc ấy, nhưng người mẹ khác đòi hỏi khắt khe, can thiệp vào việc của con, chắc chắn con trẻ sẽ khó khăn.
Mẹ muốn con quán xuyến thì phải chia sẻ kinh nghiệm, hạn chế áp đặt...
Dù đã có 14 trường ĐH được thí điểm hoạt động theo hướng tự chủ nhưng tự chủ ĐH vẫn còn xa vời vợi ở phía trước.

GS.TSKH Hoàng Xuân Sính - Ảnh: Việt Dũng
Ở một xứ sở mà nhà nước bao biện mọi chuyện, và lãnh đạo khắp nơi – kể cả chùa chiền, giáo đuờng, thánh thất, và cả những viện mồ côi hay viện phong cùi mà những viện đại học lại “xin được tự chủ” thì đây rõ ràng là một sự cầu xin có hơi ... quá đáng, nếu chưa muốn nói quá quắt!
Giới truyền thông, xem ra, có vẻ thực tiễn hơn nhiều. Không ai dám ước mơ đến những chuyện “còn xa vời vợi” như thế. Dù thỉnh thoảng vẫn bị đôi xử vô cùng thô bạo nhưng phần lớn những người làm báo quốc doanh vẫn bằng lòng và cam chịu với hoàn cảnh, cùng thân phận của mình –  theo như cách nói ví von (“Nghề Phóng Viên Là Phải Như Con Chó Ấy”) của nhà báo Như Phong:
Sau hơn 35 năm làm báo, tôi càng ngẫm, càng thấy sao mà chí lý thế.
Trở lại chuyện ví nhà báo với con chó, thì trước hết phải nói đến những phẩm chất cao quý của con chó.
Trong các loài vật, có lẽ không có loài nào gắn bó với con người hơn con chó.
Chó trung thành với chủ, gần như tuyệt đối.
Chó tôn thờ chủ, yêu chủ bằng một tình cảm trong sáng, vô tư không bao giờ có tính hai mặt.
Chó biết vui cùng chủ và cũng biết buồn cùng chủ.
Đã có biết bao nhiêu câu chuyện cảm động rơi nước mắt về những chú chó nhịn đói ngồi chết bên mộ chủ; những chú chó lăn xả vào hiểm nguy để cứu chủ; những chú chó sẵn sàng tấn công lại kẻ địch để bảo vệ chủ. Và những chú chó sẵn sàng chờ đợi chủ về ngày này qua tháng khác ở một sân ga, hay một bến tàu. Rồi chó giúp đỡ những người tàn tật trong cuộc sống thường ngày, kể cả chuyện đi chợ cho chủ, đưa chủ đi chơi…
Bất luận vào những hoàn cảnh nào, khi bị chủ mắng, thậm chí bị đánh đòn nó chỉ đau khổ cúp đuôi chui vào một xó, nhưng rồi chỉ ít phút sau nó lại ngoe nguẩy đuôi để đón chủ về.
Thế mới có câu “khuyển mã chi tình” và câu “con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo”.
Điều không may là “chủ” của Nguyễn Như Phong không những đã  “nghèo” mà còn “khó” nữa. Báo Người Việt, số ra ngày 3 tháng 10 năm 2016, vừa (ái ngại) loan tin:
Không chỉ giới truyền thông chính thống mà ngay cả công chúng cũng sửng sốt khi ông Nguyễn Như Phong, cựu đại tá công an, tổng biên tập PetroTimes, bị cách chức và tờ báo điện tử này bị đình bản trong ba tháng.
PetroTimes là báo điện tử của tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN). Còn ông Phong từng là đại tá công an, phó tổng biên tập tờ Công An Nhân Dân được PVN mời về làm tổng biên tập khi PVN có giấy phép xuất bản báo điện tử.
Tuy thuộc PVN, một tập đoàn nhà nước, song dưới sự điều hành của một cựu đại tá công an, PetroTimes đã tự lãnh nhận vai trò “xung kích trên mặt trận truyền thông,” cùng các tờ Nhân Dân (của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng CSVN), Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân “tả xung hữu đột” để bảo vệ chính quyền CSVN.
PetroTimes là tờ báo duy nhất tự hạch toán (tự thu chi, không ngửa tay nhận ngân sách để duy trì hoạt động như Nhân Dân Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân) nhưng luôn luôn tiên phong trong việc chỉ trích, bôi nhọ các cá nhân, các hoạt động đòi tự do, dân chủ và cũng vì vậy mà mức độ chỉ trích PetroTimes trên mạng xã hội còn lớn hơn những cơ quan truyền thông “ăn cơm chúa, múa tối ngày.”
Mức độ “trâng tráo, nhâng nháo” của PetroTimes được xem là lên tới đỉnh khi tháng 6 vừa qua, nhân “Ngày Báo Chí Cách Mạng Việt Nam,” PetroTimes giới thiệu bài “Nghề phóng viên là phải như con chó ấy” của ông Nguyễn Như Phong. Trong bài viết này, ông Phong khuyến cáo các đồng nghiệp bắt chước chó (trung thành, tôn thờ, yêu, vui buồn cùng chủ, bảo vệ chủ) vì “chó khôn nhờ chủ, nhà báo giỏi cũng nhờ chủ!”
Dẫu liên tục “đăng ký lập trường” theo kiểu như thế nhưng ngày 3 tháng 10 vừa qua, ông Phong vẫn bị cách chức, thu hồi thẻ nhà báo (một kiểu giấy phép hành nghề). PetroTimes thì bị tạm đình bản trong ba tháng.
Trong thông báo chính thức về sự kiện gây ngỡ ngàng ấy, Bộ Thông tin – Truyền thông của chính quyền Việt Nam cho biết lý do là vì PetroTimes có “sai phạm trong hoạt động báo chí” và cơ quan chủ quản đề nghị như vậy.
Vi nhân nan. Làm người quả khó, đã đành; làm chó (ở nước ta) xem ra cũng không dễ dàng chi!

NS.TUẤN KHANH * KHÁNH LY

Trái tim của Quyền lực Thứ Tư

Ảnh của tuankhanh


Trong nhiều ngày, tôi cố theo dõi xem báo chí sẽ viết gì về lần diễn đầu tiên của ca sĩ Khánh Ly ở Sài Gòn. Thế nhưng có một cái gì đó im lặng đến kỳ lạ sau ngày 18/9 đó – ngày mà ca sĩ Khánh Ly được phép hát ở ngay tại Sài Gòn, sau 41 năm đi xa khỏi quê hương của mình, và gần 5 năm đi loanh quanh nơi chốn cũ, ước rằng mình có thể cất lên tiếng hát nơi thành đô trong kỷ niệm.
Năm 2012, Khánh Ly từng nói với đài BBC rằng bà mơ được hát ở Việt Nam, ở Sài Gòn.
Thế nhưng thật lạ. Chỉ có một vài tờ báo điện tử xé rào viết về đêm diễn này, ít ỏi và nhạt nhẽo. Tôi cố công tìm hiểu, mới hay rằng ai đó trong Ban Tuyên giáo đã ra lệnh miệng, buộc các báo không được  nói, bình luận, mô tả… nói chung là không được viết gì có lợi cho ca sĩ Khánh Ly trong đêm diễn này .
Nhưng điều đáng ngạc nhiên, là gần hết giới báo chí Việt Nam cũng đã ngoan ngoãn tuân lệnh. Thói quen chấp nhận sự kiểm duyệt gần nửa thế kỷ - tính từ sau tháng 4-1975 - khiến cái gọi là quyền lực thứ tư của một quốc gia đã biến thành một đám học trò nhỏ, chỉ còn biết giương mắt vô thanh nhìn đời. Cũng ngay trong thời gian đó, báo giới Việt Nam rầm rộ ra vẻ phẫn nộ, viết về chuyện những người bán vé số bị phạt tiền vì lỡ bán vé số ngoại tỉnh. Thế nhưng họ không nhận ra, hay không dám nhận ra rằng, cấm nói về một buổi diễn được phép, cũng không khác gì cấm bán vé số hợp pháp trên quê hương mình.
Tôi tự hỏi, không biết bà Khánh Ly có biết chuyện này hay không. Và nếu biết, bà sẽ nghĩ gì? Năm 2015, khi được hỏi rằng nếu không được hát ở Sài Gòn, bà có buồn không – Khánh Ly từng cười, lắc đầu, nói rằng “khán giả ở mọi nơi, em à”. Quả đúng là con người ở đâu cũng vậy, văn hóa ở đâu cũng vậy. Nhưng với người cộng sản với sự thù ghét tự do thâm căn cố đế trong tim họ, thì không phải ở đâu cũng vậy.
Kiểm duyệt Khánh Ly chỉ là câu chuyện nhỏ của những điều ngang trái vẫn hiện ra trên đất nước này, tựa lời nguyền Bloody Mary trong gương – như lời nhắc rằng cuộc sống bình yên chỉ là ảo tưởng, bởi địa ngục là một điều có thật.
Ít có ai nhận ra rằng kiểm duyệt trong đời sống xã hội chủ nghĩa đã quen thuộc, đã trở thành như máu thịt. Mỗi một người làm báo đều có sẳn một mạch máu hình thắt cổ chai từ trái tim đến não. Khó mà đếm được có bao nhiêu người sống bằng nghề viết đã bật ra một ý tưởng thơ mộng hay tự do từ trái tim, nhưng đã tự bóp chết nó khi được dẫn lên đến não. Và rồi con chữ hay ý nghĩa viết ra đã bị cắt mất, tật nguyền và nhạt nhẽo như chính cuộc đời của họ.
Mới đây, trong chuyện ngư dân bị Formosa xả độc tố làm biển chết, bà Cục trưởng Cục Việc làm (Bộ LĐ-TB-XH) Nguyễn Thị Hải Vân nói rằng không có gì phải ầm ĩ, vì ngư dân mất biển, nhưng “đi làm phu khuân vác thì tức là đã có việc làm”. Tự kiểm duyệt hiện thực, chỉ chừa lại phần tật nguyền trong suy nghĩ của mình, cũng là một nỗi đau không bờ bến đang ăn sâu trong lòng dân tộc này. Giống như ban Tuyên giáo, người đàn bà này cố che mắt mình, cố che mắt cả những người nghe bà nói, và chứng minh rằng thiếu nhân cách thì không sao, cũng vẫn có thể làm người.
Có lần, khi còn được ngồi cùng với nhạc sĩ Thanh Sơn, ông than thở rằng một bài hát của ông bị kiểm duyệt ở Sở văn hóa thông tin thành phố, chữ “phu quân” trong vần điệu một người nữ hát về chồng mình, bị bắt phải thay bằng chữ khác. “Họ nói ‘phu quân’ có thể ám chỉ đến lính VNCH”, nhạc sĩ Thanh Sơn kể. Tôi không biết về sau thì ông có phải cam lòng thay chữ ấy hay không, nhưng lúc đó, tôi chỉ có thể nói với ông rằng khi những người cộng sản kiểm duyệt, giống như họ tự đọc lời nguyền Bloody Mary, tự mở cửa địa ngục và chỉ còn nhìn thấy thế gian này bằng sự tăm tối trong trái tim họ, chứ không bằng ánh mắt con người.
Nhạc sĩ Trần Quang Lộc có lần kể rằng ông có bài hát về mẹ. Người mẹ đó ngồi trước biển nhớ con, mong con về. Ấy vậy mà ông từng bị chất vấn rằng có phải viết bài hát ấy có ý dành cho những người đi vượt biên hay không.
Kiểm duyệt như một con quái vật. Sự chịu đựng và cố vặn vẹo mình để có thể sống được trong thế giới kiểm duyệt, đã nuôi lớn con quái vật ấy. Hãy nhìn cách mà báo chí mô tả những tên công an khát máu đánh chết người trong đồn tạm giam, thường được mô tả bằng từ ngữ rất dè dặt và thân tình như “bị coi là làm chết người”, “bị coi là đã ép cung”… thậm chí mới đây, khi có đủ hình ảnh, âm thanh và giờ hành động của tay công an Bùi Xuân Hải ở phường 6 quận 3 đánh đập một người phụ nữ bán hàng rong ở Hồ Con Rùa, báo chí vẫn thêu hoa dệt gấm bằng cách gọi y là “người mặc đồ giống công an”.
Chẳng lẽ tất cả những người cầm bút, tất cả những con người được học tiếng Việt, tiếng Anh và sắp tới và tiếng Hán… không ai nhận ra rằng con quái vật kiểm duyệt suy nghĩ và hành động trong xã hội này đã lớn đến mức nào? Khó mà đong đo được, nhưng có thể nhìn thấy rõ nhất là con quái vật đó ăn tươi nuốt sống nhân cách và linh hồn của không ít người, khiến khi họ thể hiện đã có thể thấy ngay đó là những người Việt xã hội chủ nghĩa hèn hạ và vô liêm sỉ.
Khi một tay công an mặc thường phục, không xuất trình thẻ ngành, hành động như một tên đầu gấu ngõ chợ tấn công các phóng viên ở huyện Đông Anh, điều thấy được là toàn bộ hệ thống quyền lực thứ tư ở Việt Nam đã như hú lên những tiếng kêu đau thương cho số phận của mình, chứ không giống như sự phản ứng của một nền báo chí có đủ ý chí lẽ thường . Ngay cả khi Công an quận Tây Hồ nói ngược nói xuôi, bẻ cong cả không gian và thời gian mà không cần bất kỳ một chứng minh vật lý nào, báo chí Việt Nam cũng chỉ yếu ớt phản ứng và dè chừng. Chấp nhận kiểm duyệt thái độ sống bình thường và quen sợ hãi trong bầu không khí kiểm duyệt, đã làm nhu nhược trí thức Việt Nam và báo chí Việt Nam một cách quặn đau.
Ngày 27 tháng 9/2016, có hơn 500 người dân đi nộp đơn đòi công lý từ thiệt hại bởi nhà máy Formosa – một câu chuyện của công lý và sự thật rất đỗi bình thường trên đất nước này nhưng trong nhiều ngày liền, sự kiện lịch sử đó vẫn là một khoảng trống bao la trên các trang báo. Bạn hãy tự hỏi xem, một vài phóng viên bị đánh mà giới báo chí còn đau yếu như vậy, thì làm sao cái gọi là quyền lực thứ tư của Việt Nam có đủ sức mạnh và lòng tự trọng để nói về 500 đồng bào mình đang khắc khoải với tương lai?
Những điều bình thường và đúng với Hiến pháp Việt Nam, mà con người Việt Nam hôm nay vẫn không dám gọi đúng tên, mô tả đúng việc thì mai sau, tinh thần và nguyên khí của dân tộc trong chế độ này sẽ tật nguyền đến mức nào? Bao nhiêu con chữ của câu hỏi này, xin được đánh từng ấy tiếng vào tiếng trống Đăng Vân để kêu oan cho số phận của dân tộc này vậy.
Ngày 5/3/1969, để đòi chính quyền miền Nam Việt Nam phải bãi bỏ chính sách với kiểm duyệt xuất bản, đã có hơn 100 nhà văn, dịch thuật, biên khảo, phê bình… cùng ký tên, trong đó có phần ghi rằng “kinh nghiệm từ nhà nước Cộng sản Tiệp Khắc đã cho thấy rằng sự cấm đoán, bưng bít, không bao giờ giải quyết được một vấn đề, mà chỉ làm cho vấn để ấy trầm trọng thêm đến một mức độ tai hại nhất…” Bản đồng ký tên này, có Sơn Nam, Du Tử Lê, Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sỹ, Bình Nguyên Lộc, Duyên Anh, Cung Tiến...  
Tôi đang tự hỏi – hay tự mình mơ - về một 100 nhà báo ăn lương nhà nước cùng ký tên để phản đối công an nói riêng, và chính quyền nói chung hành xử tàn bạo với nghề làm báo. Nhưng có lẽ đó chỉ là một giấc mơ để nhớ về quá khứ, nơi nhân dân bị xét là phải sống trong một chế độ đồi trụy và tay sai, nhưng chứng cứ cho thấy họ vẫn rất lành lặn về tinh thần và nhân cách. 
Mọi thứ không đơn giản như bạn thấy. Hãy nhìn lại cách kiểm duyệt Khánh Ly, cách cấm bán vé số ngoại tỉnh, cách thay đổi và mài giũa chữ nghĩa để phục vụ… và cả những cách mà chúng ta quen dần giả lơ, từ chối sự thật, quen tự cắt gọt mình để nằm vừa trong sự chiếc quan tài kiểm duyệt mỗi ngày. Hãy nghĩ, cho bạn và chính con cái của bạn.
Chắc rồi có lúc bạn sẽ nhận ra, tôi hy vọng vậy. Chúng ta hay truyền thông trên đất nước này, cũng giống như những người bán vé số sợ hãi, chỉ còn quẩn quanh với niềm hy vọng nhỏ nhoi ở nơi mình đang sống, chứ không dám chạm vào hay cầm giữ một niềm hy vọng nào xa hơn lằn ranh mà người ta đã vạch sẳn cho mình. Trái tim cùa quyền lực thứ Tư thoi thóp đập trong một thân thể cường tráng. Trái tim đau bệnh, mòn mỏi bởi những lằn ranh.

TIN VIỆT NAM

54 tổ chức quốc tế ký thư ngỏ yêu cầu VN sửa Luật Tôn giáo

RFA
2016-10-06

Chủ tịch quốc hội Việt Nam, bà Nguyễn Thị Kim Ngân.
Chủ tịch quốc hội Việt Nam, bà Nguyễn Thị Kim Ngân.
AFP photo
Hơn 50 tổ chức quốc tế về tôn giáo và xã hội dân sự tại Hoa Kỳ, Châu Âu, Châu Á và Việt Nam cùng ký tên vào Thư Ngỏ gửi chủ tịch quốc hội Việt Nam là bà Nguyễn Thị Kim Ngân đề nghị sửa đổi dự thảo Luật Tôn giáo và Tín ngưỡng.
Một trong hơn 50 tổ chức vừa nêu là Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm người Việt Nam hôm nay ra thông cáo báo chí nói rõ các tổ chức cùng tham gia ký tên nêu ra năm điểm mà họ cho là sai sót của dự thảo luật này. Những sai sót như thế vi phạm điều 18 trong Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị của Liên hiệp quốc mà Việt Nam đã tham gia ký kết.
Bên cạnh đó, nội dung của Thư Ngỏ còn chỉ rõ nếu dự thảo Luật Tôn giáo và Tín ngưỡng được Quốc hội Việt Nam thông qua, thì chính quyền Hà Nội sẽ có thêm quyền lực để xâm phạm vào mọi hình thái của đời sống tôn giáo. Và các tôn giáo hiện tại ở Việt Nam sẽ khó tiếp tục tồn tại.
Theo kế hoạch, dự thảo Luật Tôn giáo - Tín ngưỡng sẽ được Quốc hội Việt Nam thông qua trong kỳ họp từ ngày 20 tháng 10 sang đến ngày 18 tháng 11 tới đây.
http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/54-religiou-orga-n-csos-call-on-vn-national-assembly-revise-draft-law-reli-belief-10062016095437.html

Đại biểu Quốc hội lo lắng khoản nợ 15.000 tỷ xây dựng nông thôn

RFA
2016-10-05

Một phiên họp của Quốc hội Việt Nam trước đây, ảnh minh họa.
Một phiên họp của Quốc hội Việt Nam trước đây, ảnh minh họa.
AFP
Đại biểu Quốc hội Việt Nam lo lắng về khoản nợ đọng hơn 15.000 tỷ đồng trong chương trình xây dựng nông thôn mới vì không biết có thể tìm nguồn ở đâu để trả nợ và tiếp tục chương trình.
Báo cáo giám sát việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 đến 2015 cho thấy mặc dù chương trình xây dựng nông thôn mới đã thay đổi bộ mặt của nông thôn nhưng có đến 53 trên 63 tỉnh thành có nợ đọng với số tiền khoảng 15.277 tỷ đồng.
Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết ba khu vực có mức nợ đọng cao nhất là Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và miền núi phía Bắc. Một số tỉnh có nợ đọng lớn bao gồm Bắc Ninh, Thanh Hóa, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Nghệ An, Ninh  Bình… Huyện Phước Long tỉnh Bạc Liêu bị cho là mất khả năng thanh toán gây lo lắng cho người dân.
Phát biểu trong phiên họp thường vụ Quốc hội diễn ra vào hôm nay ở Hà Nội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đặt câu hỏi trong khi nợ đọng ở các địa phương chưa xử lý xong mà chương trình vẫn tiếp tục thì có nghĩa là sẽ tiếp tục có nợ và khoản nợ này phải xử lý ra sao? Lấy nguồn từ đâu, từ ngân sách hay tiếp tục đi vay? Một số đại biểu đề nghị cần phải giải quyết dứt điểm khoản nợ đọng trong năm 2017.
 http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/vn-parliament-questions-debt-of-vnd-15-trillion-in-developing-rural-areas-10052016120821.html

Cá Hồ Tây chết và các hồ Hà Nội ô nhiễm

Hòa Ái, RFA
2016-10-05

Theo báo chí VN, chính quyền thành phố Hà Nội đang huy động vớt hơn 200 tấn cá chết ở Hồ Tây để đưa đi chôn lấp.
Theo báo chí VN, chính quyền thành phố Hà Nội đang huy động vớt hơn 200 tấn cá chết ở Hồ Tây để đưa đi chôn lấp.
Courtesy of VNEconomy
Hiện tượng hàng loạt cá chết nổi trắng Hồ Tây trong những ngày vừa qua khiến cư dân thủ đô và những người quan tâm lo ngại tình trạng ô nhiễm ở các hồ thuộc phạm vi thành phố phải chăng đang ở mức báo động?

Cá chết hàng loạt bất thường ở Hồ Tây

Phó Tổng Giám đốc Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một thành viên Đầu tư Khai thác Hồ Tây, ông Phạm Văn Đông cho báo giới trong nước biết bắt đầu phát hiện nhiều loại tôm cá nổi trên mặt hồ sau cơn mưa lớn vào hôm 30 tháng 9 và đến chiều mùng 2 tháng 10 số lượng cá chết vớt được khoảng 4 tấn. Ông Đông nhấn mạnh rằng hiện tượng cá chết từng xảy ra ở Hồ Tây nhưng chưa bao giờ nhiều và bất thường như lần này.
Trước tình trạng cá Hồ Tây chết được cho là nghiêm trọng chưa từng có, chính quyền Hà Nội điều động lực lượng nhân viên lên đến cả ngàn người để thu gom cá chết và mang đi chôn lấp ở bãi rác Nam Sơn. Tính đến cuối ngày 3 tháng 10, Văn phòng Ủy ban Quốc gia tìm kiếm cứu nạn thông báo đã có 76 tấn cá chết được xử lý.
Hồ Tây lần này là lần đầu tiên em thấy cá chết nhiều như vậy. Không biết ngày mai họ thu dọn hết chưa, nhưng hiện tại ngày hôm nay em thấy nhiều lắm, bẩn và bốc mùi hôi thối.
-Một cư dân ở Hà Nội
Một cư dân ở Hà Nội, vào lúc 8 giờ 30 tối mùng 3 tháng 10, nói với Đài Á Châu Tự Do về những gì đang diễn ra ở khu vực Hồ Tây:
“Hồ Tây lần này là lần đầu tiên em thấy cá chết nhiều như vậy. Không biết ngày mai họ thu dọn hết chưa, nhưng hiện tại ngày hôm nay em thấy nhiều lắm, bẩn và bốc mùi hôi thối. Những người xung quanh khu vực đó phải tránh chỗ khác vì không chịu được mùi hôi thối đó.”
Tại phiên họp thường kỳ Chính phủ vào sáng mùng 4 tháng 10, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung báo cáo số lượng cá chết được thu gom và xử lý lên tới 200 tấn và đã đưa vào Hồ Tây 30 máy bơm sục khí tạo ô-xy cùng các chế phẩm cải tạo môi trường nước. Ông Chung cho biết thêm bắt đầu từ sáng mùng 4 tháng 10 mùi tanh nồng đã giảm, không còn thấy xác cá nổi trên mặt hồ và người dân trở lại sinh hoạt bình thường. Ông Chủ tịch Thành phố Hà Nội cũng cam kết với Chính phủ tiếp tục điều tra nguyên nhân để công khai cho dân chúng được rõ trong thời gian sớm nhất.

Nguyên nhân cá chết do đâu?

Nguyên nhân ban đầu của hiện tượng cá chết bất thường ở Hồ Tây được Chi cục Bảo vệ Môi trường thuộc Sở Tài nguyên Môi trường Thành phố Hà Nội xác định là do nồng độ ô-xy trên bề mặt nước của Hồ Tây thấp. Kết quả xét nghiệm nồng độ ô-xy trong ngày mùng 3 tháng 10 là bằng 0 và tỉ lệ amoni cao 24 lần so với mức quy định. Chị cục Bảo vệ Môi trường không loại trừ nguyên nhân thời tiết thay đổi đột ngột, mưa nắng thất thường cũng góp phần khiến cho cá Hồ Tây chết hàng loạt. Bí thư Quận ủy Tây Hồ, ông Nguyễn Văn Thắng cũng cho rằng hiện tượng thiếu ô-xy trong nước có thể do thời tiết chuyển mùa.
Trong khi đó, Tiến sĩ Khoa học Nguyễn Văn Khải lên tiếng với RFA không đồng tình tuyên bố của các cơ quan chức năng như vừa nêu:
“Tôi là người Hà Nội. Tôi sống ở Hà Nội từ năm 1955 và tôi đi khắp cả đất nước Việt Nam này cũng như rất nhiều nước trên thế giới. Trời mùa thu đẹp thế này, nhiệt độ từ 25 đến 33 độ C là cùng, nắng vàng, thỉnh thoảng có vài cơn mưa nhỏ mà bảo cá chết là do thời tiết thì đấy là sự không hiểu gì cuộc sống, ăn nói bậy bạ, trả lời công chúng như vậy có thể gọi là trả lời láo lếu. Đây chính là mùa cá phát triển nên nói như thế là phản khoa học, giống như là người ta bảo thủy triều đỏ làm chết cá ở khu vực có nhà máy thép Fomosa, nhưng thật ra không phải như vậy.”
Tiến sĩ Bùi Quang Tề, nguyên Trưởng Phòng Sinh học thực nghiệm Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy Sản I, đồng quan điểm với Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải rằng không thể đổ lỗi cho thiên nhiên vì nước hồ mùa thu rất ôn hòa nên cá ít khi chết hàng loạt, lại thêm Hồ Tây hàng ngàn năm hiếm khi xảy ra hiện tượng cá chết như trong mấy ngày qua. Tiến sĩ Bùi Quang Tề phân tích khu vực Hồ Tây hiện nay đông dân cư nên có thể nguồn nước thải sinh hoạt và công nghiệp, có chứa chất hữu cơ chưa được xử lý, xả trực tiếp vào hồ khiến cá chết hàng loạt vì các chất hữu cơ là nguyên nhân gây thiếu ô-xy trong nước cũng như phân hủy ra các chất độc hại.
Chuyện cá chết khắp hồ, khắp sông, khắp mọi nơi. Hiện tượng cá chết ở Hồ Tây chỉ là hiện tượng như một sọt rác nhỏ hất vào đống rác vô cùng lớn ở Việt Nam mà thôi.
-TS Nguyễn Văn Khải
Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do về phương pháp lấy mẫu nước ở Hồ Tây để xét nghiệm mà Chi cục Thủy sản, thuộc Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn thực hiện với dự kiến trong một tuần nữa sẽ có kết quả, một số nhà khoa học trong nước khẳng định mẫu nước xét nghiệm phải được lấy khi cá bắt đầu chết, chứ mẫu nước xét nghiệm được lấy lúc cá chết đầy dẫy rồi thì không thể nào chính xác được. Các nhà khoa học còn đề cập đến nguyên nhân cá chết có thể bị tác động bởi tình trạng hàng tấn bùn đen đang đổ xuống sông Hồng, mà nhân viên Phòng Cảnh sát Môi trường nói với báo giới là loại bùn đen này có thể gây nguy hại môi trường không thể lường được.

Các hồ ở Hà Nội bị ô nhiễm

Theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ tập trung giải quyết vụ việc cá chết bất thường ở Hồ Tây, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội vừa ban hành Công điện số 7 nhằm khẩn trương xác định nguyên nhân và khắc phục hiện trạng, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra quản lý các hồ nước trong thành phố. Tuy nhiên, đa số cư dân thủ đô mà Đài RFA tiếp xúc đều cho rằng các biện pháp chính quyền Hà Nội thực hiện chỉ giải quyết vấn đề tạm thời, giống như cách họ đã làm khi xảy ra hiện tượng cá chết hàng loạt ở Hồ Hoàn Cầu hồi đầu tháng 6 năm nay. Nhiều người trong số họ nói với chúng tôi rằng tình trạng các hồ bị ô nhiễm đã đến mức báo động như Tiến sĩ Nguyễn Văn Khải nhận định:“Chuyện cá chết là rất nhiều, cá chết khắp hồ, khắp sông, khắp mọi nơi. Hiện tượng cá chết ở Hồ Tây chỉ là hiện tượng như một sọt rác nhỏ hất vào đống rác vô cùng lớn ở Việt Nam mà thôi

Đảng viên nói gì về cuộc biểu tình của giáo dân Kỳ Anh

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2016-10-04

Sáng Chúa Nhật ngày 2/10/2016, đã có khoảng trên10.000 giáo dân của 7 giáo xứ trong Giáo hạt Kỳ Anh đã tập trung tại trước hai cổng vào nhà máy Formosa Hà Tĩnh - khu vực Vũng Áng Hà Tĩnh, để biểu thị thái độ phản kháng trước việc vô trách nhiệm của Formosa cũng như của các cấp chính quyền.
Sáng Chúa Nhật ngày 2/10/2016, đã có khoảng trên10.000 giáo dân của 7 giáo xứ trong Giáo hạt Kỳ Anh đã tập trung tại trước hai cổng vào nhà máy Formosa Hà Tĩnh - khu vực Vũng Áng Hà Tĩnh, để biểu thị thái độ phản kháng trước việc vô trách nhiệm của Formosa cũng như của các cấp chính quyền.
Citizen photo
Cuộc biểu tình của hơn 10.000 giáo dân Kỳ Anh tại Formosa Hà Tĩnh ngày 2/10/2016 có tiếng vang lớn, được dư luận quan tâm và đánh giá cao. Các đảng viên Đảng CSVN nói gì về việc nay?

Người dân đã hành động đúng

Sáng Chúa Nhật ngày 2/10/2016, đã có khoảng trên10.000 giáo dân của 7 giáo xứ trong Giáo hạt Kỳ Anh đã tập trung tại trước hai cổng vào nhà máy Formosa Hà Tĩnh - khu vực Vũng Áng Hà Tĩnh, để biểu thị thái độ phản kháng trước việc vô trách nhiệm của Formosa cũng như của các cấp chính quyền.
Các tin tức về về cuộc biểu tình này được lan truyền nhanh trên mạng xã hội và được nhiều người hết sức quan tâm và chia sẻ.
Từ Sài Gòn, Bác sĩ Đinh Đức Long, một người đã từ bỏ Đảng CSVN trước đây ít lâu thấy rằng, đây là một cuộc biểu tình được đánh giá là lớn nhất từ trước đến nay, xảy ra tại vùng đất nổi tiếng về truyền thống các cuộc cách mạng trong lịch sử Việt Nam. Ông nói với chúng tôi:
Tôi rất mừng và nghĩ rằng người dân đã hành động đúng vì họ đã nói thanh tiếng nói của chúng tôi, nhưng tiếc rằng mình không có mặt ở tại đó.
-BS Đinh Đức Long
“Tôi rất mừng và nghĩ rằng người dân đã hành động đúng vì họ đã nói thanh tiếng nói của chúng tôi, nhưng tiếc rằng mình không có mặt ở tại đó. Tôi cho rằng đó là tiếng chuông báo hiệu sự cáo chung của chế độ cộng sản, vì đất Nghệ An – Hà tĩnh là cái nôi của cách mạng, đã từng là nơi xuất phát của phong trào “Tiếng trống năm 1930” và chính họ là những người gây dựng nên chế độ này. Có lẽ rằng đất này cũng bắt đầu tiến trình thany đổi và khai tử chế độ này.”
Ông Nguyễn Khắc Mai nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên Cứu, Ban Dân vận Trung ương, hiện là giám đốc Trung tâm nghiên cứu Văn hoá Minh Triết nhận xét rằng, cuộc biểu tình của người dân Kỳ Anh ngày 2/10 vừa qua là một việc làm chính đáng và hết sức cần thiết. Theo ông, đây là biện pháp để buộc chính quyền phải tiến hành đối thoại với dân chúng để tìm ra một giải pháp thỏa đáng. Ông nói:
“Việc biểu tình của của người dân nói chung và bà con ở 4 tỉnh miền Trung chịu ảnh hưởng của việc Formosa thải chất độc làm cho biển độc, cá chết làm cuộc sống của họ khốn khổ, ảnh hưởng đến công ăn việc làm là quyền tự nhiên của họ, là quyền dân sự để cho xã hội cũng như nhà cầm quyền biết để cùng nhau xem xét để xử lý. Ở một thế giới văn minh thì đó là chuyện đương nhiên, bình thường của một Xã hội Dân sự.”
Đánh giá về khả năng tổ chức của cuộc biểu tình, BS. Đinh Đức Long nhận xét:
“Phải nói là sự tổ chức lãnh đạo rất tài giỏi của các Cha, họ là những người tổ chức thực hiện việc này. qua đó tôi nhận thấy rằng, rõ ràng đạo Công giáo đã đồng hành với lợi ích của dân tộc. Việc điều hành đảm bảo tình chất bất bạo động, không có gây rối, đập phá đã thể hiện tính tự giác. Đặc biệt cuộc biểu tình này là lần đầu tiên và chưa từng có trong lịch sử của chế độ này.”
14495399_10154676052399040_2162375083415116099_400.jpg
Cuộc biểu tình chống Formosa vào sáng Chủ Nhật 2 tháng 10 năm 2016 quy tụ hơn 10 ngàn người được người dân cả nước xem là một cuộc cách mạng của người dân Kỳ Anh Hà Tĩnh. Citizen photo.
Theo báo Hà Tĩnh, ngay 2/10/2016 cho rằng, cuộc biểu tình này là “Những hành động quá khích, vi phạm pháp luật này ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của Công ty Formosa trong lúc doanh nghiệp đang tiến hành khắc phục, hoàn thiện hệ thống xử lý môi trường theo đúng yêu cầu của Chính phủ, Bộ TN&MT, tỉnh Hà Tĩnh; làm xấu môi trường đầu tư tại Hà Tĩnh nói chung và Khu kinh tế Vũng Áng nói riêng.”
Ông Nguyễn Khắc Mai cho rằng, mấu chốt của vấn đề là sự bất đồng về quyền lợi giữa chính quyền và người dân, việc chính quyền đặt quyền lợi của Formosa lên trên quyền lợi của dân chúng đã khiến cho người dân hết sức bất bình. Theo ông, khi cuộc sống yên bình của người dân ở đây đã chịu hậu quả thảm khốc do Formosa gây ra, thì chính quyền thờ ơ và không giải quyết thỏa đáng cho họ. Ông khẳng định:
“Trong cái vụ Formosa thì chủ trương của Đảng khác với nguyện ước của dân, khác với nhu cầu của đất nước và xã hội, vì thế nó trái ngược với nhau. Cho nên họ không muốn giải quyết vấn đề này. Thực ra vấn đề cũng hết sức đơn giản, chẳng hạn anh Nguyễn Thiện Nhân xuốn bàn với dân, ngồi trao đổi với họ, thì họ cũng không làm. Chính vì thế người ta mới bức xúc, mâu thuẫn bị đẩy đến đỉnh điểm và buộc họ phải hành động.”

Tinh thần bất bạo động được đánh giá cao

Theo các thông tin trên mạng xã hội cho biết “Công an, quân đội ban đầu trấn áp quyết liệt người biểu tình, song khi thấy số lượng người tham gia quá đông, đã rời bỏ hàng ngũ tháo chạy. Nhiều quân nhân còn nhanh chóng cởi bỏ quân phục để tránh bị phát hiện, vì họ thừa hiểu trong mắt người dân bấy giờ họ đang bảo vệ cho Formosa - thủ phạm trực tiếp gây ra cảnh khốn cùng của dân chúng.”
Biểu tình để biểu lộ ý chí của mình và họ làm xong thì họ về trong trật tự thì cũng khó để đàn áp. Đặc biệt, đàn áp giáo dân và một tôn giáo đó là việc mà bất kể quốc gia nào cũng phải chú ý và rất dè dặt.
-LS Trần Quốc Thuận
LS. Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn Phòng Quốc hội đánh giá cao tinh thần bất bạo động, sự tổ chức chặt chẽ và tính tuân thủ kỷ luật của người biểu tình. Theo ông, đây chính là sự thành công và cũng là lý do đã khiến chính quyền không có phản ứng bằng bạo lực. Ông cho biết:
“Cuộc biểu tình này là bước tiếp theo của các cuộc biểu tình trước đây, sau việc 600 người nộp đơn kiện Forrmosa tại tòa án, thì đây cũng là việc thúc đẩy buộc Tòa phải giải quyết. Các giáo dân tổ chức rất chặt chẽ, trật tự, không cản trở giao thông, không xung đột… thì tôi nghĩ kiếm lý do để đàn áp thì cũng rất khó.”
LS. Trần Quốc Thuận cũng cho biết thêm lý do mà phía chính quyền sẽ không dám mạnh tay đối với các cuộc biểu tình tương tự trong thời gian tới. Ông nói:
“Biểu tình để biểu lộ ý chí của mình và họ làm xong thì họ về trong trật tự thì cũng khó để đàn áp. Đặc biệt, đàn áp giáo dân và một tôn giáo đó là việc mà bất kể quốc gia nào cũng phải chú ý và rất dè dặt. Chứ không phải lúc nào cũng đàn áp. Đàn áp người dân thường thì khác, nhưng động vào một tổ chức Tôn giáo thì đó là chuyện không đơn giản.”
Trong bài viết “Hãy đối thoại, chớ đàn áp dân”, GS-TS Mạc Văn Trang đã viết rằng, “Lúc đầu có xảy ra xô xát giữa công an và người dân, nhưng rất may, những người lãnh đạo cuộc biểu tình đã yêu cầu dân chúng không được manh động và lực lượng công an cũng rút lui. Qua những vụ việc trên, chứng tỏ dân chúng đã giác ngộ, biết đấu tranh ôn hòa, có tổ chức chặt chẽ… Điều đó hoàn toàn trái với luận điệu tuyên truyền: Dân ta dân trí thấp, tụ tập đông người sẽ sinh tâm lý bầy đàn, gây ra bạo loạn xã hội… Điều này càng cho thấy cấp thiết phải có Luật Biểu tình để người dân và chính quyền đều biết hành xử đúng luật.”

Người dân Kỳ Anh nói gì sau cuộc bao vây Formosa?

Xuân Nguyên, thông tín viên RFA
2016-10-04

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
Cuộc biểu tình chống Formosa tại Hà Tĩnh vào sáng Chủ Nhật 2 tháng 10 năm 2016 quy tụ hơn 10 ngàn người.
Cuộc biểu tình chống Formosa tại Hà Tĩnh vào sáng Chủ Nhật 2 tháng 10 năm 2016 quy tụ hơn 10 ngàn người.
Citizen photo
Hơn 10.000 người dân ở Thị xã Kỳ Anh hôm 2/10 đã bao vây công ty Fomosa để đòi môi trường sạch, đền bù thỏa đáng, không được xả thải chất độc xuống dòng sống Quyền và đóng cửa Fomosa. Những người dân trực tiếp tham gia nói gì về sự kiện này?
Sáng ngày 2/10/2016, toàn thể Giáo dân trong hạt Kỳ Anh đã đến cổng trước và cổng sau của công ty Formosa, để hướng ứng lời kêu gọi của các Linh mục trong Giáo hạt. Đã có hơn 10.000 người bao vây công ty Formosa để yêu cầu lãnh đạo của công ty này trực tiếp đối thoại với người dân.

Sự phẫn uất của người dân

Từ khi xảy ra thảm họa ô nhiễm môi trường biển đến nay, người dân ở Kỳ Anh nhận được rất ít sự hỗ trợ từ phía chính quyền, dù cho chính phủ Việt Nam đã nhận 11.500 tỷ từ Công ty Fomosa, điều này khiến cho người dân không hài lòng. Tuy nhiên, điều khiến cho người dân bực bội nhiều hơn là việc Bộ Tài nguyên và Môi trường và chính quyền thị xã Kỳ Anh đã cho phép công ty Fomosa xả thải chất độc ra sông Quyền trước khi đổ ra biển.
Một cô giáo ở Kỳ Anh, người trực tiếp tham gia cuộc biểu tình nói về cuộc biểu tình ngày hôm qua của hơn 10.000 người dân:
“Ngày 2/10/2016 là ngày giáo dân toàn Giáo hạt hưởng ứng lời kêu gọi của cha quản hạt Kỳ Anh, các cha trong giáo hạt để tuần hành biểu tình ôn hòa, đòi Formosa phải minh bạch cho dân, đền bù thiệt hại thỏa đáng. Yêu cầu Formosa dừng ngay việc xả thải ra sông Quyền.”
Giáo dân toàn Giáo hạt hưởng ứng lời kêu gọi của cha quản hạt Kỳ Anh, các cha trong giáo hạt để tuần hành biểu tình ôn hòa, đòi Formosa phải minh bạch cho dân, đền bù thiệt hại thỏa đáng.
-Một người biểu tình
Cô giáo còn cho biết, đã có đến hàng trăm cảnh sát, cơ động, quân đội, dân phòng bán vũ trang, các loại xe chuyên dụng được trang bị vũ khí đầy đủ đến để bảo vệ cho công ty Formosa, và cô giáo đặt dấu hỏi về cách hành xử của chính quyền địa phương đối với công ty Formosa, cô nói:
“Công ty Formosa là cái gì, mà phải hàng trăm cơ động, hàng trăm cảnh sát, hàng trăm giao thông vàng, chở bao nhiêu là máy, xe kéo, phòng cháy chữa cháy, xe thùng và trang bị trên đầu thùng bao nhiêu là máy, xe phòng cháy chữa cháy, có cả xe thùng được trang bị bao nhiêu súng ống? Người dân đã làm gì?”
Anh Phục, người tham gia cuộc biểu tình ngày hôm qua cho biết, giáo xứ Dũ Yên, Kỳ Anh nơi anh sống có con sông Quyền chạy qua, dòng sông này mang lại nhiều nguồn lợi cho người dân ở đây. Tuy nhiên, từ khi biết tin bộ trưởng bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà và chính quyền thị xã Kỳ Anh và tỉnh Hà Tĩnh đã quyết định cho Fomosa xả thải chất độc ra sông Quyền, nên anh và bà con đã tham gia biểu tình:
“Theo như cuộc họp báo ngày 12/09/2016 vừa rồi, họ họp báo và quyết định xả thải xuống sông Quyền trước khi chảy ra biển. Chúng tôi đang lên án vấn đề đó, chúng tôi sẽ sống chết không cho công ty Formosa xả thải ra sông Quyền, và chúng tôi sẽ bảo vệ dòng sông Quyền.”
Chị Phượng, một giáo dân ở xứ Quý Hòa, Kỳ Anh, chị nói về cảm nhận của bản thân khi tham gia cuộc biểu tình trong ngày hôm qua:

14572285_10154676150474040_2580003683019414504_622.jpg

Cuộc biểu tình chống Formosa vào sáng Chủ Nhật 2 tháng 10 năm 2016 quy tụ hơn 10 ngàn người được người dân cả nước xem là một cuộc cách mạng của người dân Kỳ Anh Hà Tĩnh. Citizen photo
Từ trước đến nay thì hôm qua là cuộc biểu tình có đông người nhất, ở trước cổng công ty Formosa, vì nó xả ra chất thải ra sông Quyền, nên người dân uất hận, họ vào Formosa để đối thoại với những người lãnh đạo trong đó, nhưng không có một người nào ra đối thoại hay gặp dân trực tiếp cả cả, mà chỉ thấy có cảnh sát, cơ động,… chắn thành hàng ngang để bảo vệ cổng thành Formosa.”
Chị Việt ở Xã Kỳ Hà, Kỳ Anh thấy rằng, trong ngày hôm qua, bà con tham gia biểu tình trong ôn hòa trật tự, không ảnh hưởng đến người khác. Sở dĩ có chuyện này là do có sự điều hành nghiêm ngặt của các linh mục và những người tổ chức cuộc biểu tình. Chị nhận định:
“Chị thấy người dân đi biểu tình rất ôn hòa. Ngay từ đầu đến cuối có thấy chuyện gì xảy ra đâu. Khi đến cổng, thì dân cũng có trèo lên cổng và phất cờ mà thôi, chứ cũng không làm gì ảnh hưởng đến nhà máy, đến công ty. Khi biểu tình xong, bà con đi về trong ôn hòa, bà con có giăng một số biểu ngữ, chứ không làm gì thiệt hại cả.”

Thông điệp

Cuộc biểu tình đã kết thúc, nhưng tinh thần và quyết tâm của bà con ở đây vẫn không hề suy giảm. Những người dân nơi đây khẳng định sẽ tiếp tục biểu tình cho đến khi Formosa rời khỏi Việt Nam mới thôi, như chia sẻ của chị Phượng:
“Sẽ đi biểu tình đến lúc nào đền bù thỏa đáng và đuổi được Formosa ra khỏi Việt Nam thì thôi. Không phải riêng bản thân em, mà tất cả mọi người dân chắc chắn muốn thế. Dù có tăng tiền đền bù đến cỡ nào đi nữa mà Formosa còn hiện diện ngày nào ở đất nước Việt Nam, thì chắc chắn nhân dân sẽ tiếp tục đấu tranh tới phút cuối, khi nào Formosa ra khỏi Việt Nam thì thôi.”
Phía chính quyền thì cứ bao bọc cho Formosa, thậm chí tỉnh cũng đã đồng ý cho Formosa xả thải ra sông Quyền. Nếu Formosa mà xả ra sông Quyền là dân chết, xả ra biển mà dân còn chết.
-Chị Việt
Chị Việt cho biết, sở dĩ người dân quyết tâm bảo vệ môi trường là vì biển đã bị nhiễm độc nặng nề, đến bây giờ chính quyền địa phương và Formosa vẫn chưa trả lại biển sạch cho dân. Mà nay chính quyền lại chấp nhận cho Formosa xả thải chất độc ra sông Quyền, điều này làm cho quyết tâm bảo vệ môi trường sống của bà con lại càng cao. Chị quả quyết:
“Lần sau dân trở lại cổng Formosa nữa thì sẽ khác. Dân ở đây không có một người nào sợ, một chút sợ cũng không có, vì họ luôn nghĩ chính quyền đã làm sai. Phía chính quyền thì cứ bao bọc cho Formosa, thậm chí tỉnh cũng đã đồng ý cho Formosa xả thải ra sông Quyền. Nếu Formosa mà xả ra sông Quyền là dân chết, xả ra biển mà dân còn chết, còn ảnh hưởng, giờ lại xả ra sông Quyền.”
Riêng cô giáo ở Kỳ Anh gửi thông điệp đến chính quyền thị xã Kỳ Anh và nhà nước Việt Nam rằng, hãy lắng nghe những than thở, thao thức của người dân trong vùng thảm họa, và hãy đứng về phía dân để đuổi Formosa về nước, trả lại môi trường sống trong sạch cho người dân. Cô nói:
“Qua đài phát thanh Á Châu Tự Do, tôi muốn gửi thông điệp:
Ngày hôm nay, chính quyền tỉnh và thị xã Kỳ Anh phải làm rõ ràng cho dân, không phải cứ ăn bớt tiền, gạo hỗ trợ, phải làm cho đầy đủ, nhà nước ở trên phát xuống cho rõ ràng, cho họ thấy, chứ không phải à ơ cho qua chuyện. Thứ hai là chính quyền Hà Tĩnh, thị xã Kỳ Anh phải làm sao để Formosa ngừng tất cả việc xả thải đường biển và sông Quyền. Nếu không ngừng thì chính quyền Hà Tĩnh sẽ nhận nhiều hậu quả. Cũng xin nhắn gửi cho chính phủ Việt Nam, hãy đứng ra làm cho dân, và đây mới chỉ bước đầu thôi, lần sau thì sẽ khác.”
Những người tham gia cuộc biểu tình trong ngày hôm qua mà chúng tôi có hội tiếp xúc đều cho biết, sẽ tiếp tục xuống đường trong ôn hòa để đấu tranh, không bao giờ chấp nhận chuyện Fomosa tiếp tục xả thải chất độc ở Kỳ Anh. Chỉ khi nào Formosa cuốn gói rời khỏi Việt Nam thì họ mới ngưng đấu tranh.

Monday, October 3, 2016


TRẦN HUY BICH * NHƯ PHONG






 
Monday, August 22, 2016

NHÀ BÁO NHƯ PHONG LÊ VĂN TIẾN
TRẦN HUY BICH



VÀI CHI TIẾT CÁ NHÂN

Nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến tên thật là Nguyễn Tân Tiến. Trên giấy tờ, nhân vật mang danh hiệu Lê Văn Tiến sinh ngày 1 tháng 2 năm 1923 tại Nam Định. Đây không phải là ngày sinh và nơi sinh thật của ông. Theo ông Nguyễn Ngọc Ấn, người em ít tuổi nhất trong gia đình, song thân các ông chưa sống ở Nam Định bao giờ: nhà báo Như Phong và tất cả các em sinh ra ở Hà Nội. Ông sinh cuối năm 1922, theo âm lịch là năm Nhâm Tuất.
Ông quê ở Từ Châu, gần thị xã Đồng Quan, tỉnh Hà Đông, nhưng gia đình lên sống ở Hà Nội từ những năm đầu của thập niên 1920, trước khi ông ra đời.





GIA ĐÌNH

Ông là con thứ tư trong một gia đình gồm 7 anh em trai. Ba người anh trước ông bị Cộng sản sát hại trong những năm sôi động 1945-1946:
1. Anh trưởng Nguyễn Công Chỉnh: chuyên viên hóa học, trí thức Công giáo, bị Cộng sản hạ sát khi họ tấn công vào nhà thờ Từ Châu năm 1945.
2. Anh thứ hai Nguyễn Huy Tuyết: cựu sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật, hoạt động trong phong trào Truyền bá Quốc ngữ. Ông là một trong những họa sĩ đầu tiên vẽ tranh Công giáo với sắc thái Việt Nam (Đức Mẹ Maria mặc áo tứ thân ...). Ông cũng là sáng lập viên và cây viết chủ lực của tờ báo Hồn Công giáo. Khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ cuối năm 1946, ông bị Cộng sản bắt giữ và thủ tiêu.

3. Anh thứ ba Nguyễn Quỳnh Giao: tham dự trường lục quân Yên Bái, bị Cộng sản phục kích và hạ sát trên đường di tản sang Trung Hoa cuối năm 1946.

4. Nguyễn Tân Tiến, tức nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến.

Sau khi sinh ra ông không bao lâu, thân mẫu ông qua đời. Ít năm sau, thân phụ ông tục huyền và ông có thêm ba người em khác mẹ:
1. Nguyễn Tấn Bình, sinh năm 1929, kém nhà báo Như Phong 7 tuổi, đã qua đời.
2. Nguyễn Tân An, sinh năm 1932.

3. Nguyễn Ngọc Ấn, sinh năm 1934.

NHỮNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TIÊN (1943-1954)

Bắt đầu dùng danh hiệu Lê Văn Tiến từ thời điểm nào. Trong không khí chính trị sôi động ở Việt Nam trong thập niên 1940, sự kiện một thanh niên quan tâm đến đất nước không xuất hiện dưới tên thật mà dùng một lý lịch khác là một chuyện khá thông thường, nhất là với trường hợp một người có ba anh ruột bị Cộng sản sát hại như trường hợp của ông. 







Danh hiệu “Tiến” đã đưa tới bút hiệu “Như Phong” do một câu trong binh thư: “Tiến như phong, chỉ như sơn” (tiến tới tựa như gió, dừng lại tựa như núi). Nhiều người quen biết ông đã nêu nhận xét: vừa năng động vừa thanh thoát, phóng khoáng, ông quả có đặc tính “như gió.” Nhưng với niềm tự tin mạnh mẽ và thái độ ung dung, tự tại, ông cũng có cốt cách “như núi” nữa.
Ông bắt đầu tham gia các hoạt động mang tính cách thông tin, văn hóa từ tháng 9 năm 1943 khi ông 21 tuổi, làm việc cho cơ sở xuất bản Đời Nay do Tự Lực Văn Đoàn thành lập. Sau đó:
-- Tháng 4 năm 1945: ông làm phóng viên cho tuần báo Ngày Nay (bộ mới) do Bác sĩ Nguyễn Tường Bách làm chủ nhiệm và nhà văn Khái Hưng làm chủ bút;
-- Tháng 6 năm 1945: ông làm phóng viên chính cho nhật báo Việt Nam Thời Báo do ông Nguyễn Trọng Trạc làm chủ nhiệm và nhà văn Khái Hưng làm chủ bút.
Theo nhiều người biết ông từ lâu, trong các nhân vật của Tự Lực Văn Đoàn, ông chịu ảnh hưởng của nhà văn Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long sâu đậm hơn cả. Ông từng được coi như một thư ký riêng, một người em tinh thần của nhà văn kiêm nhà lập thuyết này.
Tháng 12 năm 1945, ông bị nhà cầm quyền Việt Minh bắt, giam tại Nha Công an ở Hà Nội. Cùng bị bắt với ông có con trai nhà văn Hoàng Đạo là ông Nguyễn Tường Ánh, khi ấy mới 11 tuổi. Bị bắt sau nhưng bị giam cùng phòng với ông có ông Nguyễn Ngọc Linh, sau là Tổng Giám đốc Thông tin miền Nam Việt Nam, khi ấy mới được 15 tuổi. Những ngày bị giam chung này đã để lại nơi ông Nguyễn Ngọc Linh nhiều ấn tượng thật tốt đẹp về ông Như Phong (xin xem bài của ông Linh trong Tuyển tập này) .
Theo nhiều thân hữu biết ông từ lâu, chứng kiến những tàn sát, tương tranh giữa các đảng phái, nhất là giữa hai phe quốc gia – cộng sản trong những năm 1945-1946, ông quyết định sẽ không hoạt động chính trị, nhất là chính trị mang tính cách đảng phái. Ông chuyên tâm vào thông tin, báo chí để giúp người dân hiểu rõ hơn về đất nước và thế giới, nhằm mục đích nâng cao dân trí trong một thời đại nhiều biến cố đang xảy ra ở khắp nơi. Với tôn chỉ “thông tin phải trung thực,” ông chủ trương loan báo sự thật, và cho rằng việc nhìn thấy sự thật sẽ khiến mỗi cá nhân, đoàn thể ... cũng như cả quốc gia, xã hội có thể thay đổi để trở nên tốt đẹp hơn.
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh Việt Pháp (1947-1949), ông tản cư về Phát Diệm, giúp tổ chức tờ báo Tiếng Kêu của giáo khu Phát Diệm, do Linh mục Trần Độc Thư làm chủ nhiệm. Từ năm 1950, ông lên Hà nội, làm Trưởng ban Biên tập của Sở Thông tin Bắc Việt, do ông Nguyễn Trọng Trạc làm Giám đốc. Sau khi đất nước chia đôi năm 1954 ông vào Nam. Nhiệm vụ đầu tiên là Biên tập viên, làm việc cho Việt Nam Thông tấn xã ở Sàigòn.

SÀIGÒN, GIAI ĐOẠN 1954-1963

A. Nhật báo Tự Do


Tháng 11 năm 1954, cùng một số văn nghệ sĩ di cư tên tuổi, ông đứng tên khai sinh nhật báo Tự Do ở Sàigòn. Theo nhà văn Mặc Đỗ trong một cuộc phỏng vấn tại Austin, Texas tháng 10 năm 2012, sau khi di cư vào Nam, ông cùng một số bạn văn (các ông Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng …) đã muốn dựng nên một tờ nhật báo nhằm mục đích giúp chính quyền miền Nam xây dựng một xã hội tự do, dân chủ, không chấp nhận chủ thuyết cùng chế độ Cộng sản. Để xây dựng một xã hội dân chủ, các ông chủ trương “cộng tác, nhưng độc lập đối với chính quyền.” Để có phương tiện lập nên tờ báo, các ông nói chuyện với một người bạn ngoại quốc là Joseph Buttinger (quen biết từ Hà Nội, trước khi di cư), khi ông này đang ở Sàigòn trong tư cách Phó Giám đốc của cơ quan thiện nguyện IRC (International Rescue Committee), nhằm mục đích nghiên cứu việc yểm trợ cuộc định cư của gần một triệu người Việt lìa miền Bắc vào Nam lánh chế độ Cộng sản (Bản thân Joseph Buttinger cũng là một trí thức tị nạn khi nước Áo của ông bị Đức Quốc xã xâm lăng năm 1938. Tổ chức IRC mà ông góp công thành lập và phát triển đã giúp những người dân Âu châu trong những năm loạn lạc của Đệ Nhị thế chiến và ngay sau đó rất nhiều). 
Theo đề nghị của Joseph Buttinger, tổ chức IRC quyết định trợ giúp nhóm trí thức người Việt di cư (do các ông Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan làm đại diện) một ngân khoản bốn triệu đồng bạc Việt Nam, nhưng chỉ trao ngay một nửa năm 1954, để thành lập một nhật báo lấy tên là Tự Do, nhằm mục đích làm “tiếng nói của người Việt đi tìm tự do,” và cũng để làm phương tiện sinh sống cho một số trí thức, nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo … vào Nam lánh Cộng sản năm 1954. Với một ngân khoản lớn như thế, IRC không thể trao trực tiếp cho một nhóm tư nhân mà phải qua chính phủ Việt Nam. Theo nhà văn Mặc Đỗ trong buổi phỏng vấn ấy, số tiền hai triệu đồng được IRC trao cho chính phủ Nam Việt Nam (do Thủ tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo), và được đưa vào một trương mục riêng dành cho nhật báo Tự Do.
Trong giai đoạn đầu, mối liên lạc giữa IRC, chính phủ Việt Nam, và nhóm trí thức xây dựng tờ nhật báo Tự Do tiến triển một cách tốt đẹp. Nhà văn Mặc Đỗ lúc ấy làm Đổng lý Văn phòng Bộ Thông tin, rất tương đắc với vị Bộ trưởng, Bác sĩ Bùi Kiến Tín. Bác sĩ Tín rất được sự tín nhiệm của Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Kế hoạch thành lập báo Tự Do với ngân khoản đầu tiên từ IRC chuyển qua chính phủ Việt Nam tới nhóm khởi xướng được đồng thuận một cách nhanh chóng và dễ dàng. Giấy phép xuất bản báo Tự Do do Đổng lý Văn phòng Mặc Đỗ soạn thảo, được Bộ trưởng Bùi Kiến Tín ký một cách mau lẹ.
Vì đang là công chức của chính phủ, các ông Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng không tiện đứng tên làm Chủ nhiệm. Các vị tìm được một nhà văn độc lập vừa di cư tới Sàigòn: cây viết phóng sự Tam Lang Vũ Đình Chí. Tờ báo cần một Thư ký Tòa soạn và một Quản lý làm việc tại tòa báo toàn thời gian. Hai lựa chọn thích hợp nhất là các ông Như Phong trong chức vụ Thư ký Tòa soạn và Mặc Thu (Lưu Đức Sinh) trong chức vụ Quản lý (nhà báo Như Phong xin từ nhiệm tại Việt Nam Thông tấn xã để nhận nhiệm vụ mới này). Tờ báo cần sự cộng tác của một văn/thi sĩ được nhiều người biết tới và đang sáng tác mạnh. Các vị tìm được nhà thơ Đinh Hùng. Vì thế trên trang nhất, dưới tên báo Tự Do, không ghi danh hiệu của Chủ nhiệm, Chủ bút như các báo khác. Dưới hàng chữ “Tiếng nói của người Việt tự do” là danh hiệu năm người trong nhóm chủ trương: Tam Lang, Mặc Đỗ, Đinh Hùng, Như Phong, Mặc Thu.



Theo nhà văn Mặc Đỗ, hầu hết các bài xã luận của Tự Do trong giai đoạn đầu (mục “Lập trường”) đã do ông hay các ông Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng thay nhau viết (chỉ ký: Tự Do). Đôi khi nhà văn lão thành Tam Lang đóng góp một vài bài. Là một tờ báo nhằm mục đích phục vụ những người di cư từ miền Bắc, Tự Do có một mục đặc biệt, “Sinh hoạt của đồng bào tị nạn,” với những tin canh tác, định cư… Có mục “Tin Miền Bắc,” cung cấp tin từ thế giới Cộng sản, do nhà báo Như Phong phụ trách dưới bút hiệu Cô Thần. Để giúp dân di cư làm quen với miền đất mới, trên Tự Do có mục “Sàigòn muôn mặt” do nhà văn Tam Lang phụ trách, và mục “Sàigòn cũ và mới,” phóng sự điều tra, khảo cứu do nhà văn Văn Quang phụ trách.
 Nhà thơ Đinh Hùng giúp tờ báo phong phú và khởi sắc với mục thơ hài hước “Đàn ngang cung” (giai đoạn đầu) dưới bút hiệu Thần Đăng, và những truyện dài lịch sử “Người đao phủ thành Đại La,” “Kỳ nữ gò Ôn khâu” dưới bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang. Các nhà văn Đỗ Thúc Vịnh , TchyA Đái Đức Tuấn (dưới bút hiệu Mai Nguyệt), và Hiếu Chân (bút hiệu của Nguyễn Hoạt) phụ trách mục “Nói hay đừng,” được rất nhiều người theo dõi. Trên Tự Do những năm đầu còn có những truyện dài “Luyện máu” của Hi Di (bút hiệu của nhà văn Bùi Xuân Uyên), “Tình sơn nữ” của TchyA, “Vực thẳm” của Tạ Quang Khôi. Nhà văn, nhà giáo Tạ Quang Khôi làm việc cho nhật báo Tự Do trong giai đoạn đầu (1954-55). Trong một bài hồi ký phổ biến trên www.voatiengviet.com, ông cho biết Tự Do mua được một máy in riêng, chứng tỏ tờ báo được trợ giúp về phương diện tài chánh.
Sang giai đoạn sau, nhà thơ Đinh Hùng phải dành nhiều thời giờ cho các chương trình văn nghệ tại Đài phát thanh Sàigòn, người phụ trách “Đàn ngang cung” và thỉnh thoảng tiếp tay trong mục “Nói hay đừng” là nhà thơ Hà Thượng Nhân. Cây viết chính cho mục “Nói hay đừng” trong giai đoạn sau là nhà văn Hiếu Chân. Một độc giả mến chuộng Tự Do, gửi bài đóng góp cho “Đàn ngang cung” một cách khá thường xuyên là nhà giáo Bùi Văn Bảo (dưới bút hiệu Bảo Vân).
Tự Do có ảnh hưởng rất đáng kể trong sinh hoạt báo chí của miền Nam trong giai đoạn 1954-1963. Theo giáo sư Đoàn Viết Hoạt, ngay từ khi ông còn ở Trung học, cả gia đình ông đã là độc giả trung thành của nhật báo Tự Do. Nhà báo, nhà kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa nêu nhận xét: “Như Phong đã thổi vào làng báo miền Nam một không khí mới lạ ... Cùng với TchyA Đái Đức Tuấn, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hà Thượng Nhân Phạm Xuân Ninh, Đỗ Thúc Vịnh ..., Như Phong Lê Văn Tiến đã tạo ra một phong thái làm báo đầy trí tuệ và nhiệt tình.”
Tuy chung mục đích xây dựng một miền Nam ổn định và thịnh vượng để chuẩn bị đối phó với những đe dọa từ chế độ Cộng sản miền Bắc, mối liên hệ giữa nhóm chủ trương Tự Do với chính quyền càng ngày càng khó khăn, nhất là sau khi Bác sĩ Bùi Kiến Tín không còn là Bộ trưởng Thông Tin và nhà văn Mặc Đỗ không còn là Đổng lý Văn phòng của bộ ấy (năm 1955). Trong khi Tự Do muốn xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó những công dân có tinh thần trách nhiệm có quyền phê bình những sai trái của chính phủ nhằm mục đích giúp chính thể trở nên tốt đẹp hơn, thì chính quyền muốn giới hạn tự do của báo chí: các báo phải được kiểm duyệt chặt chẽ. Nhiều bài xã luận hoặc “Nói hay đừng,” “Đàn ngang cung,” cùng nhiều bức hí họa trên Tự Do đã khiến nhiều vị trong chính quyền, kể cả một nữ nhân vật trong đại gia đình của vị nguyên thủ quốc gia phật ý nặng nề. Nhiều sự kiện đưa ra làm chứng cớ để phê phán một số hành động lạm quyền (cả trong giới tu sĩ Công giáo) bị kiểm duyệt cắt bỏ.
Dự liệu trường hợp nhật báo Tự Do có thể bị thu hồi giấy phép, giữa năm 1955, nhóm chủ trương xin xuất bản thêm tuần báo Văn Nghệ Tự Do. Nhà văn Mặc Thu Lưu Đức Sinh đứng tên Chủ nhiệm và nhà văn Hiếu Chân Nguyễn Hoạt đứng tên Tổng Thư ký tòa soạn cho tờ tuần báo này (số đầu phát hành ngày 6 tháng 7 năm 1955). 
 
Báo phát hành song song được hơn 3 tháng thì một sự kiện xảy ra khiến cả Tự Do lẫn Văn Nghệ Tự Do đều bị tịch thu và rút giấy phép. Ba nhân vật quan trọng của nhóm (hai nhà văn Hiếu Chân, Mặc Thu và họa sĩ Phạm Tăng) bị bắt giam và truy tố ra tòa.
Nhân cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến của miền Nam Việt Nam năm 1956, cả nhật báo Tự Do lẫn tuần báo Văn Nghệ Tự Do đều đăng nhiều bài về trách nhiệm các đại diện dân cử, chẳng hạn bài “Đắc cử chưa chắc đã là Nghị” trên Văn Nghệ Tự Do số 11. Bài này, cùng một số bài nêu lên những thắc mắc của người dân trước những điểm thiếu công bằng và hợp lý trong giai đoạn tranh cử, cùng những điểm mờ ám trong một vài trường hợp đắc cử, khiến nhà cầm quyền trút tất cả thịnh nộ lên nhóm Tự Do.
2 giờ khuya ngày Thứ bảy, 28 tháng 4 năm 1956, Bộ Thông Tin dùng điện thoại ra lệnh cho nhà phát hành Thống Nhất đình chỉ phát hành tất cả các tờ Văn Nghệ Tự Do số 13, đã nạp bản và đem tới nhà phát hành trước đó. Ít hôm sau, ông Trần Văn Lắm, Chủ tịch Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng Hòa, ông Lê Khải Trạch, Đổng lý Văn phòng Bộ Thông Tin, và ông Tỉnh trưởng Gia định, với danh nghĩa Chủ tịch Tố Cộng toàn quốc, cùng đứng tên khởi tố nhóm Tự Do với hai tội danh trầm trọng:
1) Bình luận xuyên tạc, có lợi cho những hành động phản quốc gia,

2) Phá rối cuộc trị an.

Nhà văn Mặc Thu (trong cương vị Chủ nhiệm Văn Nghệ Tự Do), nhà văn Hiếu Chân (trong cương vị Tổng Thư ký) và họa sĩ Phạm Tăng bị bắt, giam ở khám Catinat (thuộc cơ quan An ninh Bộ Nội vụ), chờ ngày ra tòa. Nhà báo Như Phong là nhân vật duy nhất trong nhóm chủ chốt chưa bị bắt trong cơn bão tố này. Ông vừa lo theo dõi tin các thân hữu bị giam hầu tiếp tay với gia đình họ trong việc thăm nuôi, vừa vận động dư luận để chống lại những lời cáo buộc.


Hai nhà văn Hiếu Chân, Mặc Thu và họa sĩ Phạm Tăng

bị đưa từ khám Catinat ra Viện Giảo hình

để đo mặt, lấy dấu tay trước khi bị tống giam

(hình do nhà báo Như Phong chụp, họa sĩ Phạm Tăng cung cấp)

Sự kiện Tự Do, tờ báo được coi như tiếng nói của một số trí thức miền Bắc không chấp nhận chế độ Cộng sản nên đã di cư vào Nam để tiếp tay xây dựng một thể chế dân chủ, bị chính quyền ghép vào tội “có những hành động phản quốc gia” khiến dư luận chấn động. Trong số 667, ra ngày Chủ nhật 1 và Thứ hai 2 tháng 7 năm 1956, báo Dân Chủ của ông Vũ Ngọc Các đưa tin trên trang nhất với hàng tựa chạy suốt trang báo (xin xem phóng ảnh phía sau).

 

Không tán thành thái độ đàn áp một cách quá đáng của chính quyền, ba luật gia danh tiếng của miền Nam lúc ấy, các luật sư Vũ Văn Hiền, Vũ Văn Huyền và Đỗ Mạnh Quát cùng nhận lời bào chữa cho Tự Do không lấy lệ phí. Dựa vào nhiều khiếm khuyết trong thủ tục tố tụng cũng như một số mâu thuẫn trong bản cáo trạng, luật sư Vũ Văn Huyền xin cho các “can phạm” được “tại ngoại hậu cứu” (tạm trả tự do). Ông Chánh án Nguyễn Huy Đẩu, một trí thức và luật gia có uy tín, cũng dành nhiều thiện cảm cho Tự Do. Nhờ thế, sau phiên xử ngày 2 tháng 7 năm 1956, trước các tội danh “bình luận xuyên tạc” và “phản quốc gia,” Tự Do được trắng án. Các ông Mặc Thu, Hiếu Chân, Phạm Tăng không phải trở lại nhà giam. Tuy thế, dưới áp lực của chính quyền, nhóm Tự Do vẫn bị ghép vào tội “bình luận có hại tới việc trị an.” 
Theo họa sĩ Phạm Tăng, các nhà lãnh đạo miền Nam năm 1956 cũng biết rằng Tự Do được nhiều thiện cảm của dư luận, và ý thức được rằng nếu đóng cửa hẳn Tự Do, uy tín của chính phủ sẽ bị tổn hại. Bác sĩ Trần Kim Tuyến, Giám đốc sở Nghiên cứu Chính trị Phủ Tổng thống, đứng ra dàn xếp. Tuần báo Văn Nghệ Tự Do bị rút hẳn giấy phép nhưng nhật báo Tự Do được tái xuất bản với điều kiện phải để nhà giáo Phạm Việt Tuyền, một Tham vụ chuyên môn tại Phủ Tổng thống, có liên hệ thân với bác sĩ Tuyến, đứng tên Chủ nhiệm. Vai trò Quản lý cũng phải giao lại cho ông Kiều Văn Lân, lúc ấy là một sĩ quan an ninh tại sở Nghiên cứu Chính trị Phủ Tổng thống. Nhà báo Như Phong tiếp tục giữ vai trò Tổng Thư ký toà soạn.

Theo nhiều độc giả, sau khi tái xuất bản, Tự Do không còn được sinh động như trước. Tuy vậy, tờ báo vẫn rất được chú ý nhờ một số truyện dài đăng từng kỳ có giá trị: “Tỵ Bái” của Nguyễn Hoạt và “Khói sóng” của Lý Thắng (bút hiệu chỉ dành cho truyện này của nhà báo Như Phong). Tự Do cũng được nhiều người tìm đọc vì loạt bài phóng sự “Thăm dân cho biết sự tình” của ký giả miền Nam Vũ Bình. Theo nhà báo Vũ Văn Hoa, người làm việc cho Tự Do một thời gian đầu thập niên 1960, trong thời gian ông ở đó bên cạnh Chủ nhiệm Phạm Việt Tuyền và Tổng Thư ký Như Phong, tòa soạn còn bình luận gia Trần Việt Sơn và nhà văn Hiếu Chân (Nguyễn Hoạt) làm việc toàn thời gian. Học giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần ghé tòa báo buổi chiều để viết bài sau khi xong lớp dạy ở Đại học Văn khoa. Các nhà văn Đỗ Thúc Vịnh, Vi Huyền Đắc và nhà thơ Vũ Hoàng Chương thỉnh thoảng tới bàn chuyện về văn học, nghệ thuật. 
Theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, đầu năm 1959, bác sĩ Trần Kim Tuyến mời nhóm lãnh đạo Tự Do tới ăn cơm tại nhà riêng. Trước khi vào bữa ăn, Tổng Thư ký Như Phong hỏi vị đại diện chính quyền: “Chúng ta ủng hộ ông Ngô Đình Diệm vì nước Việt Nam hay vô điều kiện?” Sau khi được trả lời, “Vì nước Việt Nam,” nhà báo Như Phong nói ngay: “Như thế chúng tôi NÊN và CẦN công kích chính phủ để mong chính phủ ngày một khá hơn, phục vụ đất nước ngày một hiệu quả hơn.” Sau đó, nhiều lần trong bữa ăn, ông vạch ra những điểm mà ông cho rằng chính phủ sai lầm. Nhà thơ Hà Thượng Nhân cho biết: bác sĩ Tuyến “ngồi gật gù, trầm ngâm không nói.”
Cũng theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, “Linh hồn của Tự Do (trong giai đoạn hai) là Như Phong. Anh là người trẻ nhất, năng nổ nhất, làm việc có kế hoạch nhất.” Chính Tổng Thư ký Như Phong đã khám phá ra và đào luyện nên ký giả Vũ Bình. Nhà văn Bùi Bảo Trúc cũng cho biết ông bắt đầu sự nghiệp cầm bút từ những “Lá thư Tân Tây Lan” viết theo sự gợi ý và hướng dẫn của nhà báo Như Phong. “Và chính Như Phong đã đón bài của tôi gửi về, sửa chữa và cho đăng hàng tuần trong số Chủ nhật của báo Tự Do.” Gần 40 năm sau, tháng 12 năm 2001, nhà văn Bùi Bảo Trúc còn viết: “Mỗi ngày, mở máy computer ra để viết, bao giờ tôi cũng nhớ đến người bạn vong niên này.”

B. Các hoạt động khác

1. Cơ sở xuất bản Tự Do

Cuối năm 1958, nhà báo Như Phong cùng các thân hữu khai sinh thêm Cơ sở Xuất bản Tự Do. Không nhiều vốn và không nhằm mục đích thương mại, cơ sở Tự Do không xuất bản nhiều sách (gần 30 nhan sách trong hơn 4 năm hoạt động [1959-1963], hay trung bình 7 nhan sách mỗi năm). Tuy nhiên, những tác phẩm chọn in đều là những tác phẩm có giá trị, chẳng hạn Hoàng Lê nhất thống chí (của Ngô gia văn phái, nhưng trong bản do Tự Do xuất bản chỉ ghi danh hiệu Ngô Thời Chí), qua bản dịch của Ngô Tất Tố (1958), Phương Đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu qua bản dịch của Cử nhân Hán học Ngô Mạnh Nghinh (1960), Sàigòn năm xưa của Vương Hồng Sển (1960) ... Cơ sở Tự Do cũng tái bản ba tác phẩm quan trọng của nhà văn Hoàng Đạo: Mười điều tâm niệm (1958), Bùn lầy nước đọng (1959), Trước vành móng ngựa (1959). Tự Do cũng xuất bản nhằm mục đích giới thiệu nhiều tác phẩm giá trị của những nhà văn có tài nhưng vẫn còn được coi là “mới” cho tới lúc đó: Mưa đêm cuối năm của Võ Phiến (1958), Chị em Hải của Nguyễn Đình Toàn (1961), Thử lửa của Thảo Trường (1962)... Tự Do cũng giới thiệu hai tác phẩm quan trọng của một nhà văn trong nhóm: Dì Mơ (1959) và Mùa ảo ảnh (1962) của Đỗ Thúc Vịnh, và một bản dịch mới cho bộ Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, bản dịch của Nguyễn Hoạt (1959).


2. Văn Bút Việt Nam

Nhà báo Như Phong và các nhà văn, nhà báo trong nhóm điều hành nhật báo Tự Do đã đóng góp một cách tích cực và giữ những vai trò đáng kể trong việc thành lập nhóm Bút Việt, tiền thân của Văn Bút Việt Nam, một thành phần của Hội Văn Bút Quốc tế (P.E.N. International). Theo nhà văn Nhật Tiến, nguyên Phó Chủ tịch Trung tâm Văn Bút Việt Nam trong nhiều nhiệm kỳ trước 1975, trong cuốn Từ nhóm Bút Việt đến Trung tâm Văn Bút Việt Nam (Garden Grove, CA : Huyền Trân, 2016) , ngày 17-8-1957 tại Sàigòn, 19 văn nghệ sĩ, nhà báo, nhà biên khảo … đã họp và quyết định thành lập “Nhóm Bút Việt.” Trong số này, bốn vị thuộc thành phần cơ hữu của Tự Do: Chủ nhiệm Phạm Việt Tuyền, Tổng Thư ký Như Phong, nhà văn Hiếu Chân Nguyễn Hoạt và họa sĩ Phạm Tăng. Bốn vị nữa cộng tác mật thiết và thường xuyên với Tự Do: các nhà văn Mai Xuyên Đỗ Thúc Vịnh, TchyA Đái Đức Tuấn, kịch tác gia Vi Huyền Đắc và thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Địa chỉ đưa ra để xin giấy phép thành lập là địa chỉ báo Tự Do (25 đường Võ Tánh, Sàigòn).
 Trong danh sách “Ban Sáng Lập” với 16 vị được phổ biến sau khi Hội Văn Bút Việt Nam được chính thức thành lập, gồm 8 vị liên quan đến nhật báo Tự Do như đã nói trên. Nhà văn Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, một bạn thân của nhà báo Như Phong, là Tổng Thư ký Ban Chấp hành lâm thời (Chủ tịch là nhà văn Đỗ Đức Thu, hai Phó Chủ tịch là nhà biên khảo Vương Hồng Sển và kịch tác gia Vi Huyền Đắc). Trong 5 đại biểu của nhóm Bút Việt được mời tham dự Đại hội Văn Bút Quốc Tế lần thứ 29, họp tại Tokyo, Nhật Bản từ ngày 1 đến 9 tháng 9-1957 (Đỗ Đức Thu, Đái Đức Tuấn, Phạm Việt Tuyền, Hoàng Đình Lượng và Hiếu Chân Nguyễn Hoạt), hai vị là người của nhật báo Tự Do, một vị là cộng tác viên mật thiết. Trong phiên họp ngày 2 tháng 9 năm 1957 tại Tokyo, Đại hội Văn Bút Quốc Tế chính thức thu nhận nhóm Bút Việt của Việt Nam Cộng Hoà là một thành viên. Đây là lần đầu tiên văn giới Việt Nam góp mặt cùng văn hữu quốc tế.

3. Liên hệ với học giới và báo giới các nước

Song song với các hoạt động văn hóa, thông tin trong nước, nhà báo Như Phong còn duy trì mối liên lạc mật thiết với nhiều chuyên gia về Việt Nam của học giới và báo giới quốc tế. Ông có giao tình thân với học giả lỗi lạc Sir Patrick J. Honey của Anh quốc, tác giả uyên bác Robert Shaplen, và nhà báo xuất sắc Sol Sanders cùng của Hoa kỳ. Theo nhà biên khảo Trần Đông Phong, người có liên hệ thân với Bác sĩ Phan Huy Quát và ông Như Phong từ giữa thập niên 1960, rất nhiều chi tiết trong cuốn The Lost Revolution của Robert Shaplen (New York : Harper & Row, 1965) đã do ông Như Phong cung cấp. Ông cũng viết một số tài liệu biên khảo có giá trị bằng Anh ngữ, điển hình là một bài tường thuật và phân tích tình trạng trí thức, văn nghệ sĩ miền Bắc từ 1954 cho đến vụ Nhân văn, Giai phẩm cuối thập niên 1950 (“Intellectuals, writers and artists”). Bài này đã được đăng trên chuyên san nghiên cứu The China Quarterly năm 1962, và về sau in lại với đôi chút sửa chữa trong cuốn North Vietnam Today do học giả Patrick J. Honey làm chủ biên (New York : Praeger, 1962).
Mâu thuẫn giữa chính quyền và Tự Do nặng thêm trong biến cố Phật giáo mùa Hè năm 1963, nhất là sau khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu và văn hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam uống thuốc độc tự tử. Tháng 8 năm 1963 Tự Do bị đóng cửa và truy tố. Tổng Thư ký Như Phong bị bắt, tòa soạn bị niêm phong. Từ tháng 8 tới tháng 11 năm 1963, nhà báo Như Phong bị giam tại Nha An ninh Quân đội, rồi Phòng Nhì Biệt khu Thủ đô, sau cùng là Tổng nha Cảnh sát. Chỉ tới sáng ngày 2 tháng 11-1963, ông mới được trả tự do.

SÀIGÒN, GIAI ĐOẠN 1963-1975

1) Liên hệ với giới tướng lãnh và các chính khách
Sau cuộc đảo chánh 1 tháng 11-1963, nhà báo Như Phong được mời tham dự Hội Đồng Nhân Sĩ, một tập hợp gồm khoảng 60 nhân sĩ, trí thức, chính khách của miền Nam Việt Nam, được triệu tập để giúp ý kiến cho chính phủ. Trong các tranh chấp giữa các tướng lãnh với những đảo chánh, phản đảo chánh, chỉnh lý ... trong suốt năm 1964, uy tín ông tăng thêm. Do kiến thức vững chắc về những vấn đề liên quan tới Cộng sản Việt Nam cũng như do mối giao tiếp rộng rãi trong chính giới dân sự của ông, hầu hết các tướng lãnh tranh quyền đều muốn kéo ông đứng bên phía họ. 
Khi bác sĩ Phan Huy Quát được đề cử lập Nội các đầu năm 1965, với khả năng và tình thân sẵn có, ông có thể tham chánh dễ dàng. Tuy nhiên ông vẫn đứng ngoài, chỉ giúp ý kiến khi cần thiết. Ông Nguyễn Ngọc Linh cho biết ông được Thủ tướng Phan Huy Quát mời làm Giám đốc Việt Tấn xã do sự đề nghị của ông Như Phong. 
 Thủ tướng Phan Huy Quát không thể tiếp tục cộng tác với nhau và quyết định trao quyền lại cho quân đội tháng 6 năm 1965, tư thế của nhà báo Như Phong nổi rõ thêm. Theo ông Nguyễn Ngọc Linh và một số thân hữu khác, ông Như Phong vốn quen thân từ lâu với Luật sư Đinh Trịnh Chính và Đại tá Phạm Văn Liễu, hai người cùng theo học trường Lục quân Yên bái với người anh thứ ba của ông là ông Nguyễn Quỳnh Giao trước kia. Qua ông Chính và Đại tá Liễu, ông có thiện cảm với tướng Nguyễn Chánh Thi. Tuy nhiên, sau khi tướng Thi không dám nhận trọng trách lập chính phủ và tướng Nguyễn Cao Kỳ được quân đội giao cho nhiệm vụ ấy, ông sẵn sàng hỗ trợ tướng Kỳ.
Ông Nguyễn Ngọc Linh cho biết: sau khi được cử làm “Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương,” tướng Kỳ chưa có ý niệm rõ về việc lập chính phủ cũng như về chính sách, lại cũng chưa có ai làm cố vấn trong lãnh vực chính trị, nên đã tới nhà ông Đinh Trịnh Chính, nguyên Bộ trưởng Thông tin trong chính phủ Phan Huy Quát để gặp ông Chính và ông Như Phong, yêu cầu được giúp. Trong “Nội các chiến tranh” của tướng Kỳ, nhiều Bộ trưởng được mời do đề nghị của nhà báo Như Phong. Theo lời tường thuật của ông Linh, “Khi ông Kỳ muốn trong chính phủ có một số người miền Nam thì ông Tiến đưa danh tính của những người tuy không hề quen nhưng được biết là có khả năng. Sau đó gọi điện thoại và đưa xe đi đón, ai đến gặp ông Kỳ là người đó được mời làm Bộ trưởng.” Ông Linh cũng cho biết: theo nhiều nguồn tin, tướng Kỳ muốn ông Như Phong giữ nhiệm vụ “Phụ tá Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương,” tương đương với Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, nhưng ông Như Phong từ chối. Theo nhiều thân hữu khác, ông Như Phong đưa lý do “chỉ là nhà báo, không phải chính trị gia” để tránh việc tham chánh. Ông cũng cho biết ông “muốn được việc” chứ “không thích làm quan.” 
Nhà báo Sol Sanders cũng viết: ông Như Phong đã từ chối những đề nghị cầm đầu một bộ, thích ở trong hậu trường làm người cố vấn và phân tích (“he refused offers of a ministry, preferring to remain always in the background as an advisor, an analyst ...”). Nhà báo Đỗ Quý Toàn nêu nhận xét: “Ông chỉ góp ý kiến ... về một danh sách chính phủ với điều kiện chính ông không tham dự để bảo đảm việc đề cử của ông là cốt vì công ích, không phải vì tình riêng.” Tuy nhiên ông nhận lời, và đã thảo hộ các tướng lãnh bản “Hiến Ước Tạm Thời,” tức Hiến pháp tạm thời của miền Nam Việt Nam trong giai đoạn 1965-1967, phác họa cơ cấu tổ chức nhà nước với Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia và Ủy ban Hành pháp Trung ương). Giáo sư Tạ Văn Tài cho biết trong một lần cùng giáo sư Trần Như Tráng đến thăm ông Như Phong tại căn nhà đường Công Lý mùa hè năm 1965, các ông thấy vị “Tham vấn viên của Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia” đang cởi trần, vừa soạn thảo, vừa tự tay đánh máy bản “Hiến Ước Tạm Thời” này. Theo nhà thơ Hà Thượng Nhân, ông Như Phong cũng đã soạn hộ tướng Kỳ bài diễn văn trình diện Nội các, gồm 6 phần, đưa ra một chương trình 19 điểm.
Trong cuốn sách Buddha’s Child : My Fight to Save Vietnam (có thể tạm dịch: Con cầu tự : cuộc chiến đấu để bảo vệ Việt Nam của tôi -- New York : St. Martin Press, 2002), tướng Nguyễn Cao Kỳ viết rằng ông bổ nhiệm ông Như Phong làm Bộ trưởng Bộ Bình định (Pacification). Chi tiết này không chính xác. Theo tất cả các sử liệu, trong giai đoạn từ 19 tháng 6-1965 tới 9 tháng 11-1967, khi tướng Kỳ giữ nhiệm vụ “Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương” (Thủ tướng), miền Nam Việt Nam chỉ có hai nhân vật phụ trách Bộ Bình định và Xây dựng Nông thôn. Người thứ nhất là ông Nguyễn Tất Ứng. Sau khi ông Ứng tử nạn máy bay ngày 16 tháng 9-1965, người được cử lên thay là tướng Nguyễn Đức Thắng. Từ trước tới sau, ông Như Phong chỉ giúp ý tướng Kỳ trong việc lập Nội các, chứ không nhận cho mình bất cứ một chức vụ nào.
Theo nhiều thân hữu, ông Như Phong có một dự án chính trị, và đã không thành công trong dự án này. Trong cuộc bầu cử Thượng viện năm 1967, ông vận dụng những liên hệ có sẵn với các đảng cách mạng, các khuynh hướng tôn giáo và giới chuyên viên trẻ ở miền Nam để lập nên ba liên danh ứng cử cùng lấy danh hiệu “Cây Dừa” (các liên danh “Một Cây Dừa,” “Hai Cây Dừa,” “Ba Cây Dừa”). Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, “Đây là một liên minh chính trị lớn mà chỉ Như Phong ráp lại được vì ông là người thân của mọi phe phái, được các phe phái mến, tin tưởng, và họ biết là ông chỉ nghĩ đến quyền lợi dân tộc chứ không thủ lợi cho chính mình” (tuy vận động lập nên ba liên danh, ông đứng ngoài chứ không tham dự các liên danh ấy). Mỗi liên danh đều có sự góp mặt của giới chuyên viên trẻ (được tín nhiệm ở Sàigòn), Việt Nam Quốc Dân Đảng (ảnh hưởng mạnh ở miền Trung), Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo (mạnh ở nhiều tỉnh miền Nam).
 Nếu cùng đắc cử, ông hi vọng ba liên danh này sẽ tạo nổi đa số trong Thượng viện, ủng hộ tướng Kỳ thực hiện những thay đổi đáng kể trong chính trường miền Nam Việt Nam trong trường hợp ông Kỳ đắc cử Tổng thống và tiếp tục là một tướng lãnh “sạch.” Nhưng sau khi tướng Kỳ nhường tướng Nguyễn Văn Thiệu làm ứng cử viên Tổng thống trong liên danh duy nhất của quân đội và bằng lòng làm Phó cho tướng Thiệu, cả ba liên danh “Cây Dừa” đều bị loại, hết trông cậy vào sự yểm trợ của quân đội nay đã thuộc tướng Thiệu. Theo ông Nguyễn Ngọc Linh, nhà báo Như Phong coi đây là thất bại chính trị nặng nhất đối với ông.

2) Liên hệ với học giới và ngành truyền thông quốc tế

Cùng với việc quân đội Hoa kỳ sang tham chiến từ giữa năm 1965 trở đi, các báo, các hãng tin ngoại quốc gửi nhiều ký giả tới Việt Nam. Tình trạng chính trị miền Nam sau khi Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ vô cùng phức tạp. Theo nhận xét của ký giả Phan Lạc Phúc, “đảng phái mọc ra như nấm ... không biết chính, tà, thật, giả ra sao. Người trong nước cũng không biết đằng nào mà lần, huống chi các nhà báo, các hãng tin ngoại quốc.” Trong tình trạng ấy, người thường được các hãng tin, các nhà báo nước ngoài tìm tới để tham vấn là nhà báo Như Phong. Cũng theo ký giả Phan Lạc Phúc, “những đóng góp của Như Phong đối với giới truyền thông nước ngoài đã được coi là nguồn tin đáng tin cậy nhất.”

Theo một số thân hữu có liên hệ gần với nhà báo Như Phong, sau cuộc đảo chính 1-11-1963, rất nhiều lần ông tìm cách tái xuất bản nhật báo Tự Do nhưng không thành công. Tuy vẫn thuận hảo đối với ông, các chính quyền quân nhân từ 1963 về sau không muốn ông điều khiển báo Tự Do trở lại. Với nhiều lý do khác nhau, các đơn ông gửi để xin tái xuất bản báo đã bị từ khước một cách khéo léo. Từ 1969 trở đi, ông cũng có thêm một mối bận: ông được mời làm giảng viên về các vấn đề Bắc Việt tại trường Cao đẳng Quốc phòng. Theo nhiều thân hữu, trong đó có ông Nguyễn Ngọc Linh, ông Như Phong dùng rất nhiều thời giờ trong những năm đầu của thập niên 1970 để hoàn tất bộ trường thiên “Khói sóng.” 
Đầu năm 1972, ông dành nhiều thời giờ giúp một trí thức Hoa kỳ sang nghiên cứu về sinh hoạt chính trị tại Việt Nam. Tiến sĩ John C. Donnell, giáo sư Chính trị học tại Temple University, Philadelphia, người từng viết nhiều bài nghiên cứu về Việt Nam, được Asia Society tại New York tài trợ để sang Việt Nam nghiên cứu về mối liên lạc giữa trung ương và địa phương của các tổ chức chính trị không Cộng sản. Ông Như Phong đã giới thiệu giáo sư Donnell với nhiều nhân sĩ, trí thức, lãnh tụ các đoàn thể chính trị hầu thực hiện các cuộc phỏng vấn. Khi về nước, giáo sư Donnell chủ biên một cuốn sách về sinh hoạt chính trị liên quan tới bầu cử tại Nam Việt Nam: Electoral Politics in South Vietnam (Lexington, Mass. : Lexington Books, 1974). Cuốn này có sự đóng góp bài vở của các giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Tạ Văn Tài, Douglas Pike, Stephen B. Young... Giáo sư Donnell viết một chương quan trọng về những triển vọng cho sự kết hợp chặt chẽ về phương diện chính trị và việc tranh cử (“Prospects for political cohesion and electoral competition”).


3) Những ngày cuối của miền Nam

Theo nhạc sĩ Từ Công Phụng, giữa năm 1974 bà Hoàng Đạo đau nặng vì chứng ung thư tái phát. Theo bác sĩ Trần Ngọc Ninh, vị bác sĩ điều trị trong thời gian này, bà bị một loại bướu thịt ác tính (myosarcoma) ở tay trái. Mỗi lần vào nhà thương trị liệu là một lần cánh tay bị cắt thêm vì ung thư lan. Khi cánh tay bà mất hẳn vào tháng 2-1975, tình hình miền Nam đã trở nên tồi tệ. Nhạc sĩ Phụng nhận thấy “những nét lo lắng hằn lên khuôn mặt của cậu Tiến.”
Đầu tháng 4-1975, khi tình hình miền Nam trở nên hết sức trầm trọng, ông Như Phong khuyên nhạc sĩ Phụng nên tìm cách đưa vợ con ra đi. Trước câu hỏi, “Cậu có dự tính ra đi không?” ông trả lời: “Tôi không đi vì nhiều lý do. Trước mắt là Me đang đau nặng, cần người chăm sóc. Thứ hai là đời sống ở nước ngoài không thích hợp với tôi.” Trước nỗi lo lắng của nhạc sĩ Phụng, “Cậu ở lại thì rất nguy hiểm,” ông thản nhiên mỉm cười: “Không sao. Tôi biết họ (Cộng sản), tôi biết họ rõ lắm nên tôi có thể tìm được một lối sống.”
Nhà thơ Hà Thượng Nhân cho biết: “Những ngày miền Nam sắp mất, Như Phong thường nhịn ăn, gọi là ‘vào thất’.” Khi được hỏi, “Vào thất’ có lợi gì?” ông trả lời: “Tôi chuẩn bị để đi tù.” Bà Đỗ Thúc Vịnh và ông Hà Thượng Nhân cùng cho biết: Tuy không đi, ông Như Phong giục mọi người tìm cách ra đi vì “không thể sống với Cộng sản được đâu!”
Ngày 7 tháng 7 năm 1975, một người bạn ngoại quốc của nhà báo Như Phong, học giả Patrick J. Honey, viết thư than thở với một người bạn Việt ở Mỹ: “I could never get him to leave his beloved Vietnam” (Tôi đã không làm sao kéo được ông ta rời khỏi nước Việt Nam yêu dấu của ông ta). Theo nhà báo, nhà kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa: Tháng 4 năm 1975, nhà báo Như Phong quyết định ở lại Việt Nam “dù có hai vé máy bay để đi Anh và Mỹ.” Ký giả Nguyễn Huỳnh Mai cũng cho biết: “Trước những ngày tháng Tư năm 1975, chú Như Phong đã có nơi hứa hẹn cho chú việc làm và vé máy bay sẵn để qua Anh hoặc Mỹ, nhưng chú đã viết thư cám ơn và từ chối cả hai.”
SAU KHI MIỀN NAM RƠI VÀO TAY CỘNG SẢN
Tính từ 30 tháng 4-1975 đến 11 tháng 4-1994, ngày nhà báo Như Phong rời đất nước Việt Nam để sang Mỹ, ông đã sống dưới quyền những người Cộng sản gần 19 năm. Trong chưa đầy 19 năm ấy, trên 13 năm ông bị giữ trong các nhà tù. Ông bị họ bắt giam hai lần: lần đầu gần 12 năm, từ ngày 4 tháng 4-1976 đến ngày 8 tháng 2-1988, lần thứ hai gần 15 tháng, từ 20 tháng 12-1990 đến ngày 7 tháng 3-1992. Trong lần bị giam nào ông cũng biểu lộ một thái độ ung dung, bất khuất.
Trước hết, ông được sống yên ổn gần một năm. Theo nhạc sĩ Từ Công Phụng, hai tháng sau khi Sàigòn thất thủ, bệnh bà Hoàng Đạo trở nên trầm trọng hơn. “Bà rên la suốt ngày đêm. Cứ khoảng hai tiếng đồng hồ sau khi morphine hết hiệu nghiệm thì bà lại đau. Lúc này thì không còn cơ may chữa trị được nữa.” Bốn tháng sau đó, tức nửa năm sau khi miền Nam sụp đổ, bà từ trần. Cũng theo nhạc sĩ Từ Công Phụng, sau tang lễ, cảnh nhà vô cùng bần bách. “Thỉnh thoảng cậu Tiến hay vắng nhà vài hôm. Dường như cậu đi xuống miền Tây lo việc gì đó mà tôi không rõ.” 
1) Lần bị giam thứ nhất, 1976-1988
Cộng sản tới bắt ông đêm ngày 3 qua ngày 4 tháng 4-1976, trước sự chứng kiến của nhạc sĩ Từ Công Phụng và cô Từ Dung, thứ nữ của ông bà Hoàng Đạo. Bài viết đầy cảm động của nhạc sĩ Từ Công Phụng cho ta nhiều chi tiết hữu ích liên quan đến cuộc bắt bớ này.
Ông bị giam tại sở Công an thành phố, sau đó chuyển qua trại số 4 Phan Đăng Lưu, nơi đây ông gặp sinh viên tranh đấu Đinh Quang Anh Thái. Tới tháng 9 năm 1979, ông bị chuyển qua Chí Hòa. Ông thành bạn đồng tù với giáo sư Đoàn Viết Hoạt trong gần 9 năm tại đây. Trong thời gian ở Chí Hòa, người sinh viên tranh đấu (sau thành ký giả) Đinh Quang Anh Thái có thêm một năm sống với ông, từ đầu năm 1981 đến đầu năm 1982. Ông Thái ôn lại quãng thời gian ấy như sau: “Những tháng ở cùng cậu Tiến thật là khó quên. Xiết bao là kỷ niệm vui buồn ..., nhưng quan trọng hơn cả, tôi học được ở cậu không biết bao nhiêu điều, từ kiến thức uyên bác của cậu cho đến nhân cách sáng ngời của cậu ... Đời sống của cậu trong tù là mẫu mực của một người khí phách, an nhiên tự tại. Không ai có thể bắt gặp nơi cậu một giây phút yếu lòng nào trước kẻ thù. 
Lúc nào bạn tù cũng thấy ở cậu tinh thần an nhiên, chấp nhận mọi nghịch cảnh và lạc quan, tin vào tương lai.” Giáo sư Đoàn Viết Hoạt cho biết: “Tôi học được ở ông tính kiên nhẫn và nhiều đức tính tốt khác ... Dù tuổi tác cách xa nhau hơn một con giáp, chúng tôi vẫn giữ được mối quan hệ tương thân tương kính suốt những ngày ở chung Chí Hòa cũng như cho tới tận hôm nay. Ông là một trong những người mà nếu không ở tù, chắc tôi khó có cơ hội được gần gũi và thân thiết.” Cũng theo giáo sư Đoàn Viết Hoạt, suốt trong thời gian bị giam, ông Như Phong và ông đều tập Yoga một cách đều đặn hầu giữ cho thân thể được khang kiện.
Một biến cố đáng lưu ý xảy ra trong lần bị giam thứ nhất này. Theo ký giả Nguyễn Huỳnh Mai: “Vào tháng 7-1976, chú bị lôi ra sỉ nhục. Chú nói với cán bộ rằng, ‘Lời lẽ đó khiến tôi phát bệnh,’ và làm đơn xin nhịn ăn 7 tuần để chữa bệnh. Khi chú nhịn ăn đến ngày thứ 47, các cai ngục buộc chú vào băng-ca, khiêng ra bệnh xá để vô nước biển và đổ sữa ... Thế là một tên kềm đầu, một tên kềm chân, một tên ngồi trên bụng, còn anh bác sĩ dùng muỗng cạy miệng chú để đổ sữa. Cuộc vật lộn kéo dài từ sáng đến trưa thì nghỉ mệt, rồi cạy tiếp suốt buổi chiều. Vì chú cắn chặt răng nên răng bị mẻ, hai nướu đổ máu và môi bị rách. Sau cùng họ thành công khi thọt được đuôi muỗng vào kẽ răng và nhét thỏi sắt vào giữa hàm răng khiến chú không cắn lại được nữa. Họ luồn ống cao su vào miệng và bơm sữa vào bao tử.” Ký giả Nguyễn Huỳnh Mai cho biết rõ, “Chẳng phải họ ưu ái hoặc mong chú sống làm gì,” và bình luận một cách dí dỏm: “Họ không muốn chấp nhận rằng ‘duy vật biện chứng pháp’ phải thua ‘Đạo Nhịn’.” 
Dưới bút hiệu Tiểu Du, nhà văn Hạ Quyên tìm cách giải thích: “Vốn là một trong vài ba tù nhân được các tổ chức nhân quyền quốc tế chú ý, và trong các kỳ tuyệt thực trước, khi nói ‘nhịn’ là anh Như Phong nhịn thật sự, nhịn suốt thời gian vài ba tuần lễ như anh đã định ... Họ sợ anh nhịn đủ bảy tuần thì sẽ chết trong tù, và họ sẽ không biết trả lời các tổ chức quốc tế ra sao.”
Theo giáo sư Đoàn Viết Hoạt, ông Như Phong được trả tự do ngày 8 tháng 2-1988, một ngày trước khi chính ông cũng được thả.
2) Lần bị giam thứ hai, 1990-1992
Trong lần bị bắt trước, để chịu cảnh giam giữ suốt 12 năm, nhà báo Như Phong chỉ có một tội danh vu vơ là “phản động.” Trong lần bị bắt sau, tội danh của ông cụ thể và ghê gớm hơn nhiều: “gián điệp” và “hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân.” Để đi bắt ông, những người cầm quyền huy động một lực lượng khá hùng hậu. Theo cô Thơ Thơ, cháu ngoại nhà văn Hoàng Đạo, “hai xe lính chặn đầu ngõ, hai xe chắn ngang cửa ra vào, công an có đến ba chục người.” Trước cảnh tượng ấy, cũng theo cô Thơ Thơ, ông “vẫn bình tĩnh như không, cứ như đó chỉ là một vở tuồng.”
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân Thành phố HCM, ông bị buộc tội đã “trao đổi những ý kiến có tính cách chính trị” với một người Việt đang định cư ở Mỹ là nhà báo Hồ Văn Đồng (Ông Hồ Văn Đồng cho biết ông và ông Như Phong có tình thân từ 1955. Hai ông cùng bị giam tại Phan Đăng Lưu một thời gian. Sau khi ra tù năm 1988, ông Đồng tìm cách vượt biên và đến Mỹ cuối tháng 3-1989). Ông Như Phong cũng bị buộc tội đã “giao du thân” với giáo sư Đoàn Viết Hoạt và các ông Phạm Đức Khâm, Nguyễn Mậu, những người bị coi là chủ chốt trong nhóm Diễn Đàn Tự Do. (Giáo sư Hoạt cho biết trong những người bị nêu danh kể trên, chỉ có ông và ông Khâm là thực sự dính dáng tới Diễn Đàn Tự Do. Ông chỉ mới gặp ông Nguyễn Mậu có một lần. Ông và ông Khâm cùng không muốn ông Như Phong bị liên lụy với Diễn Đàn Tự Do vì năm ấy, 1990, ông Như Phong đã 68 tuổi. “Chúng tôi thấy ông đã già yếu, nên sợ nếu bị bắt lần này ông không đủ sức khỏe để chịu đựng được nữa”). 
Giáo sư Hoạt và ông Khâm bị bắt trung tuần tháng 11-1990 vì bản tin Diễn Đàn Tự Do. Hơn một tháng sau, ngày 20 tháng 12-1990, ông Như Phong cũng bị bắt. Giáo sư Hoạt cho biết: “Họ vẫn cho rằng ông Như Phong mới là người lãnh đạo, hay ít nhất, cố vấn cho chúng tôi.” Sau sáu tháng bị biệt giam ở trại số 3 Bạch Đằng, các ông bị chuyển qua trại giam số 4 Phan Đăng Lưu. Giáo sư Hoạt cho biết theo bản kết cung của chấp pháp mà ông được đọc cho nghe, Diễn Đàn Tự Do “chỉ là phương tiện truyền thông của một âm mưu phản động lớn” liên quan đến hàng mấy chục người ở cả trong nước lẫn hải ngoại. Ông nhận thấy “rõ ràng là phe bảo thủ trong đảng Cộng sản muốn làm lớn vụ này ... Theo danh từ chuyên môn của Công an thì Diễn Đàn Tự Do được ‘nâng quan điểm,’ trở thành một vụ án ‘điển hình.’ Có nghĩa là sẽ xử rất nặng.” 
Đầu năm 1992, từ ngày rằm tháng giêng âm lịch tức 18 tháng 2 dương lịch, ông Như Phong bắt đầu tuyệt thực. Sau đây là những đoạn chính trong lá đơn ông viết để nêu lý do chuyện tuyệt thực ấy:
“Tôi ký tên dưới đây, Lê Văn Tiến, sinh năm 1923 tại Nam Định, địa chỉ thường trú 67 Đinh Công Tráng, F. Tân Định, Q.1, TP HCM, bị bắt ngày 20 tháng 12 năm 1990 về tội Gián điệp và tội Hoạt động Lật đổ Chính quyền Nhân dân, hiện giam tại Phòng số 3, Khu C 2.
“Làm đơn này xin Ban Lãnh đạo trại giam cho tôi được TĨNH TÂM một thời gian để cầu nguyện cho Tổ quốc và Dân tộc. Thời gian Tĩnh tâm là chín (9) tuần, bắt đầu từ ngày hôm nay, 18.02.1992 tức là Rằm tháng Giêng âm lịch Nhâm Thân, và sẽ chấm dứt sáu mươi ba (63) ngày sau đó. Trong thời gian Tĩnh Tâm này tôi sẽ không dùng một chút thức ăn gì, đặc hoặc lỏng, mà chỉ uống nước từ vòi nước của trại. Việc Nhịn ăn này nhằm giữ cho thể xác được trong sạch, tâm trí được sáng suốt đặng dốc lòng cầu nguyện. Tôi cũng xin nhắc lại rằng đây không phải lần thứ nhất tôi xin được phép Tĩnh tâm và Nhịn ăn trong thời gian bị giam. Lần trước cũng tại trại giam này, hồi tháng 7.1976 khi tôi bị giam tại phòng Biệt giam số 21 khu B, tôi đã làm đơn và đã được phép cho Tĩnh tâm và Nhịn ăn trong thời gian bảy (07) tuần tức là bốn mươi chín (49) ngày. Tôi tin rằng trong hồ sơ lưu trữ tại trại và tại Sở Công an Thành phố còn đầy đủ tài liệu về việc này.
Trong cuộc tĩnh tâm lần này:
- Tôi cầu Anh Linh của Tổ tiên, các Đấng sinh thành Dân tộc này, khai sáng đất nước này, đã từ ngàn đời dẫn dắt cháu con tạo dựng nên nước Việt Nam ngày hôm nay,
- Tôi cầu Khí thiêng Sông núi đã không ngừng hun đúc trí tuệ và lòng dũng cảm cho mọi cộng đồng con dân trên dải đất này từ thế hệ này qua thế hệ khác vượt qua biết bao thiên tai địch họa để Việt Nam còn bền vững đến ngày nay,
Xin hãy soi sáng
- Cho các vị Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và các vị Lãnh đạo Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, để các vị đó SỚM TỈNH NGỘ mà trả lại cho bảy mươi triệu người Việt Nam chúng tôi QUYỀN SỐNG, QUYỀN LÀM NGƯỜI, QUYỀN MƯU CẦU HẠNH PHÚC với đầy đủ những TỰ DO đã được minh định trong bản TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ NHÂN QUYỀN của Liên Hiệp Quốc, bản Tuyên Ngôn mà tất cả các quốc gia hội viên đều đã long trọng cam kết thi hành trọn vẹn, trong đó có nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam;
- Cho bảy mươi triệu đồng bào tôi sớm nhận rõ những QUYỀN của mình mà không ai được phép tước đoạt, trong đó có Quyền được BÃI MIỄN bất cứ một chế độ nào, một hệ thống cai trị nào đã từng tỏ ra không xứng đáng, không đủ năng lực và không lương thiện trong nhiệm vụ mang lại lợi ích cho nhân dân, mà trái lại đã làm ngược hẳn với lòng mong ý muốn của nhân dân và đã bội phản lời thề nguyện của chính tập đoàn lãnh đạo chế độ; đồng thời cho đồng bào sớm nhận rõ TRÁCH NHIỆM của mình, Trách Nhiệm mà không một ai được phép lẩn tránh, trong đó có Trách Nhiệm phải chung lòng hợp sức xây dựng nên một thể chế mới được điều hành bởi những người thay mặt đích thực của nhân dân, do nhân dân tự do lựa chọn, những người có đủ khả năng, lương thiện và thật sự trung thành với sứ mạng mà nhân dân ủy thác cho họ và cũng chính họ tình nguyện nhận lãnh, là mang lại Dân chủ, Tự do, Công bằng và Thịnh vượng cho dân cho nước...” 
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt cho biết: “Một buổi chiều tối sau giờ làm việc, anh lao động, một người có thiện cảm với chúng tôi, trở vào buồng giam đưa tôi một lá thư của ông Như Phong gửi. Giở ra xem là bản nháp tờ đơn gửi ban giám thị trại. Chữ ông Như Phong, viết trên giấy hút thuốc rê. Đó là ‘Đơn xin phép Tĩnh tâm và Nhịn ăn’.” Giáo sư Hoạt lo âu: “Trong lần tù trước, ông Tiến cho tôi biết ông đã tập được phương pháp nhịn ăn từ lâu, và có thể nhịn được 7 thất, mỗi thất 7 ngày tức 49 ngày. Nay ông quyết định sẽ nhịn ăn tới 9 thất, tức 63 ngày, không biết ông có chịu nổi không?” Giáo sư Hoạt viết tiếp: “Tôi lo ngại cho ông, nhưng hi vọng quyết tâm của ông sẽ khiến Công an phải suy nghĩ lợi hại để thả ông ra.”
Cuối tháng 2-1992, tin tức về việc ông Như Phong tuyệt thực được bà Minh Thu, trưởng nữ nhà văn Hoàng Đạo, và cô Thơ Thơ, ái nữ của bà, loan báo rộng rãi tới các cơ sở truyền thông và cơ quan tranh đấu nhân quyền quốc tế. Ngày 28 tháng 2-1992, tổ chức bảo vệ nhân quyền Human Rights Watch ra thông cáo báo chí về việc ông Như Phong tuyệt thực, và yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do ngay cho ông. Ngày 10 tháng 3-1992, một số dân biểu Hoa kỳ gửi thư cho ông Võ Văn Kiệt, yêu cầu trả ngay tự do cho ông Như Phong.” Giáo sư Hoạt cho biết: “Sau đó không lâu, khoảng giữa tháng 3, tôi được các anh lao động từ khu A khiêng cơm nước sang cho biết ông Lê Văn Tiến đã được thả.” 
Thật ra, ông Như Phong được trả tự do từ ngày 7 tháng 3-1992, 19 ngày sau khi ông bắt đầu tuyệt thực, ba ngày trước khi các dân biểu Mỹ viết thư, và một tuần trước khi giáo sư Đoàn Viết Hoạt biết tin. Với những tội danh ghê gớm như “gián điệp,” “hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân,” ông bị giam chưa tới 15 tháng. Trong lần bắt giữ trước, ban giám thị trại còn cố cạy miệng ông để đổ sữa.Trong lần bắt giam này, họ thả ông một cách vội vã khi ông nhịn chưa tới 20 ngày. Một điểm đáng lưu ý là tuy bị những người cầm quyền Cộng sản bắt giam hai lần, cộng trên 13 năm, chưa bao giờ ông được đưa ra xét xử. 
Nhà báo Đỗ Quý Toàn cho biết: “Khí phách của ông được tất cả các bạn tù kính nể. Những người đã thoát trước ông ... đều nói tới tư cách hào hùng, cương nghị của Như Phong, Doãn Quốc Sỹ ... với niềm thán phục.” Theo giáo sư Đoàn Viết Hoạt: “Việc nhịn ăn của ông Như Phong cùng kết quả tốt đẹp của hành động này đã giúp nâng cao tinh thần tù nhân trong trại ... Chúng tôi thấy được thế mạnh của chúng tôi và thế yếu của những kẻ đang giam giữ chúng tôi.‘Lực’ thì họ vẫn còn, nhưng ‘thế’ và ‘thời’ đang vuột dần khỏi sự chi phối của họ ... Viết thư công khai báo nhịn ăn với giọng điệu thách thức chế độ như thế mà không những không bị kỷ luật còn được trả tự do ngay. Đang bị giam giữ trong nhà tù Cộng sản mà được chứng kiến những chuyện như thế, làm sao không lên tinh thần được! Những gì ông Như Phong đã làm giúp chúng tôi ở tù thản nhiên hơn, vững tin hơn.”
Ông Như Phong không có gia đình riêng. Người em tại miền Nam là ông Nguyễn Ngọc Ấn đã ra khỏi nước từ tháng 4-1975. Thăm nom, tiếp tế cho ông trong suốt mười mấy năm bị giam là một số bà con và thân hữu cũng đang sống khó khăn, đầy bất trắc trong một Sàigòn vừa đổi chủ. Hi sinh tới cùng độ, không quản những nguy hiểm có thể tới với bản thân trong việc liên lạc, tiếp tế cho ông là bà Cả Trác và cô Từ Dung, em họ và thứ nữ của bà Hoàng Đạo. Một người thân của gia đình là chú Tư đi cùng bà Cả và cô Từ Dung trong các chuyến thăm nuôi. Tận lực tiếp tay với các vị vừa kể là bà Minh Thu, trưởng nữ nhà văn Hoàng Đạo, hai người con của bà Cả, một người bạn của ông Như Phong là ông Bảy, và một vài người bạn ít tuổi hơn, có tình thân với ông từ những năm đầu của nhật báo Tự Do, đáng kể nhất là ông H.V.T. Tất cả đều đang sống một cách chật vật, có bữa sớm lo bữa tối trong giai đoạn ấy.
Bà cả Trác với con trai, con dâu, cháu nội, và nhà báo Như Phong


sau ngày ông Như Phong được thả

3) Cuộc sống trong mấy năm không bị giam
Có sự khác nhau trong cách sống của ông Như Phong trong hai giai đoạn sau khi ra khỏi nhà giam: giai đoạn 1988-1990 (sau khi ra khỏi nhà giam lần thứ nhất), và giai đoạn 1992-1994 (sau khi ra khỏi nhà giam lần thứ hai).
Nhà giam lần thứ nhất năm 1988, ông vẫn ở Sàigòn (nhà một người cháu họ, 67 Đinh Công Tráng, Tân Định). Ngay năm ấy ông thực hiện một chuyến ra Bắc gặp một số bạn cũ, trong đó có nhiều người theo Việt Minh từ trước năm 1945. Khi trở về, ông ghé thăm ông bà Lê Mạnh Hùng – Phan Lâm Hương (con rể và con gái của bác sĩ Phan Huy Quát, cả hai vợ chồng đều có tình thân với ông), kể lại nỗi thất vọng của những người bạn ấy đối với chính thể Cộng sản. Cũng năm ấy, ông tới dự một buổi họp mặt tại nhà họa sư Nguyễn Gia Trí để tiễn nhà thơ Trần Dạ Từ và nhà văn Nhã Ca rời đất nước Việt Nam lên đường sang Thụy Điển (xin xem các bài của bà Phan Lâm Hương và nhà văn Nhã Ca, phía sau). Năm 1989, với sự tan vỡ của Đế quốc Cộng sản, nhiều cán bộ của chế độ tại Sàigòn tìm tới ông để hỏi han, nhờ phân tích tình hình. 
Một thư ông viết cho một nhân vật Cộng sản khá cao cấp, đề ngày 21 tháng 6-1989, cho ta thấy nhiều phân tích tinh tế về tình hình quốc tế và quốc nội với những dự phóng sắc bén cho tương lai. Theo giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, “khó có thể tưởng tượng được rằng đó là nhận định của một người mới đi tù về sau nhiều năm bị cô lập với thế giới bên ngoài.” Năm 1990, ông tiếp xúc với giáo sư Đoàn Viết Hoạt nhiều lần, hoặc ông mời ông bà Hoạt cùng ông bà Phạm Đức Khâm đi ăn phở, hoặc tới nhà ông bà Hoạt, ít nhất một lần vào ngày 10 tháng 11-1990 để tiễn giáo sư Hoàng Xuân Hào lên đường sang Hoa kỳ. 

Sau khi ra khỏi nhà giam lần thứ hai năm 1992, ít nhất theo bề ngoài, ông sống lặng lẽ và kín đáo hơn. Hai nhà văn Doãn Quốc Sỹ và Phan Nhật Nam cho ta nhiều chi tiết đáng chú ý về cuộc sống của ông Như Phong trong giai đoạn này.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ có một người bạn làm chủ một khu trại chừng 7 mẫu tại Hóc Môn, cách Sàigòn khoảng 20 cây số. Trại trồng mía, chanh, cam, với một khu trồng hoa nhài (lài) để bán cho người ướp trà. Do niềm quý mến, ông bà chủ trại dành riêng cho ông Như Phong một khoảng vườn ít trăm thước vuông để sống ẩn lánh con mắt soi mói của Công an Cộng sản. Trên khoảng đất này, ông Như Phong cho dựng lên một căn nhà lá, chung quanh nuôi nhiều loại phong lan, gây ít luống hồng, một số cây cảnh, và đào một ao nhỏ để trồng sen. Nhà văn Doãn Quốc Sỹ cho biết: “Vùng này đất phèn nên trồng cây khá vất vả.” Năm ấy, 1992, ông Như Phong đã 70 tuổi.
 
 Căn nhà của ông Như Phong trên trại Hóc Môn năm 1992-1993

Ông bà chủ trại gọi ông Như Phong là “ông Ba cô đơn” vì ông vẫn sống độc thân. Mỗi tuần chừng hai lần, một cô cháu gái tới thu vén nhà cửa cho gọn ghẽ hơn. Thỉnh thoảng tới thăm ông trên trại Hóc Môn này, bên cạnh ông bà Doãn Quốc Sỹ còn nhà văn Phan Nhật Nam ở gần đó, và họa sĩ Đằng Giao cùng vợ là ký giả Chu Vị Thủy (ái nữ nhà văn Chu Tử ) từ Sàigòn lên. 
Với những nhận xét tinh tế của một người viết văn giàu tình cảm và có tài, nhà văn Phan Nhật Nam hé cho ta nhiều chi tiết về một khía cạnh ít người biết: cuộc sống nội tâm của ông Như Phong trong giai đoạn này:
“Trời nắng đổ ngoài hiên ... Ông Ba tháo kính, bình yên ngủ thiêm thiếp. Tôi đi vào ngăn kín đáo nhất của căn nhà. Một bàn thờ đơn giản trên tấm gỗ đóng thẳng góc với bức vách. Hình những người đã chết yên lặng. Có tấm ảnh một người còn trẻ, nhìn nghiêng, mặt hơi cúi xuống—Nhà văn Hoàng Đạo, người lập thuyết của Tự Lực Văn Đoàn đầu thế kỷ. Hóa ra ông Ba cũng chỉ sống-với-những-người-đã-chết, như mình chỉ có tấm ảnh của bà già đi đâu cũng mang theo. Tôi nói thầm vì thấy những chân hương còn mới...”




Tối hôm ấy, sau khi ông bà Doãn Quốc Sỹ và vợ chồng họa sĩ Đằng Giao đã trở về Sàigòn, nhà văn Phan Nhật Nam cho biết tiếp: “Tôi ở lại, ngồi cùng ông Ba cho đến khuya ... Trước khi vào phòng ngủ, ông ngừng ở ngăn nhà ngang đốt nén hương. Động tác lặng lẽ, chậm rãi, thắm thiết, đơn độc...”
Trong giai đoạn này có một sự kiện đáng lưu ý. Năm 1993, khoảng một năm sau khi ra khỏi nhà giam, ông được Asia Watch, phân bộ Á châu của tổ chức Human Rights Watch, vinh danh và trao tặng một giải thưởng về Tự Do Phát Biểu (Free Expression Award).
Cuối năm 1993, nhà văn Hạ Quyên gặp ông ở Sàigòn hai lần. Một lần khi hai người cùng đến thăm bà Trần Thị Thức, hiền nội và chiến hữu của giáo sư Đoàn Viết Hoạt, lúc ấy còn bị giam ở Thanh Cẩm; lần thứ hai ở nhà một người bạn khác. Nhà văn Hạ Quyên cho biết ông lái một chiếc xe mô tô cũ kỹ, “như loại xe của thập niên 1970,” và tuy đã 71 tuổi, vẫn “vui tính, dí dỏm, và trẻ trung” (xin xem bài “Nhớ anh Ba Tốc” của Tiểu Du, phía sau).

CUỘC SỐNG TỪ KHI RA KHỎI VIỆT NAM (tháng 4/1994 – tháng 12/2001)

Ngay từ sau khi ông Như Phong ra khỏi nhà giam lần thứ nhất năm 1988, một số thân hữu của ông đã tìm cách liên lạc với em ông là ông Nguyễn Ngọc Ấn để phối hợp hành động, tạo áp lực cùng hoàn cảnh thuận tiện hầu đưa ông ra khỏi Việt Nam. Nhà báo Sol Sanders với phạm vi giao tiếp rộng rãi; giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng qua một người bạn học tại University of Virginia hồi trước, năm 1991 đang phụ trách vấn đề Đông dương tại Bộ Ngoại giao Hoa kỳ; bác sĩ Đường Thiện Đồng cùng hiền nội là bà Trần Thị Như Hảo qua một số dân biểu liên bang tại địa phương ... là một vài trường hợp điển hình cho những cố gắng này. Nhà báo Sol Sanders cho biết: công việc không giản dị. Không phải chỉ vì tính cách tráo trở và tham nhũng của những kẻ cầm quyền, mà còn vì chính ông Như Phong chưa muốn rời đất nước Việt Nam: ông vẫn muốn tìm hiểu thêm về những chuyện nội bộ của tập đoàn lãnh đạo Cộng sản. (“It was not easy. Not only were the Communist authorities duplicitous and corrupt, but Tien ... was still trying to find out what was going inside the Communist leadership”). 
Các cố gắng trên được xúc tiến mạnh hơn sau khi ông bị bắt trở lại. Cuối cùng, nhờ thêm áp lực của các tổ chức bảo vệ nhân quyền (Amnesty International, Human Rights Watch) và Văn Bút Quốc Tế (P.E.N. International), nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam nhân nhượng. Sau khi hoàn tất một số thủ tục cần thiết, ngày 11 tháng 4-1994, nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến rời đất nước Việt Nam sang Hoa kỳ.
So với cuộc sống tĩnh lặng trên trại Hóc môn trong các năm 1992-1993 thì cuộc sống của ông từ tháng 4-1994 trở đi sinh động và khởi sắc hơn nhiều.

1) Dự án và thực hiện
Sau khi để ra ít ngày dành cho việc nối lại mối liên lạc với thân quyến và thân hữu các nơi, ông đề cập ngay với một số người thân nhiệm vụ chuẩn bị để xây dựng lại đất nước sau giai đoạn Cộng sản. Một tuần sau khi tới Mỹ, ông thảo luận với mấy người bạn ít tuổi hơn, có tình thân với ông từ những năm đầu của nhật báo Tự Do khoảng 1955-56, việc thành lập một hệ thống thông tin có tầm vóc để cung cấp tin tức và tài liệu có kèm phân tích, bình luận về hiện trạng Việt Nam. Ông muốn xuất bản trước hết một bản tin hàng tháng bằng Anh ngữ với những phân tích có chiều sâu về tình hình đất nước, tương tự China News Analysis (Hongkong : CNA, 1953-1994 ; Taipei : Socio-Cultural Research Center, Fu Jen Univ., 1994-1998) và lấy tên là Vietnam News Analysis. Sau đó là một chuyên san nghiên cứu, mời gọi thêm sự cộng tác bài vở của học giới quan tâm đến Việt Nam, xuất bản mỗi ba tháng, tương tự China Quarterly (London : Contemporary China Institute, London Univ., 1960- ) và lấy tên là Vietnam Quarterly.

Nhà báo Như Phong giữa hai trong mấy người “bạn trẻ” từ giữa thập niên 1950

(Từ trái: Trần Huy Bích, Như Phong, Trần Như Tráng,

Hàng đứng: Bà Trần Như Tráng, cô Từ Dung)
Tuy rất khâm phục ý chí cùng nghị lực của ông, đa số trong nhóm thân hữu ấy nêu nhận xét: việc “không dễ thực hiện.” Muốn cung cấp một cách đều đặn một dịch vụ như thế, hệ thống thông tin cần ít nhất 3, 4 người làm việc toàn thời gian. Bên cạnh khả năng chuyên môn, những người này phải có một kiến thức tạm đủ về các vấn đề của thế giới hiện tại và thông thạo ngoại ngữ (đọc và viết tiếng Việt, tiếng Anh một cách lưu loát, cộng thêm kiến thức về một vài ngôn ngữ khác). Trong số những bạn cũ có tình thân và có thể đóng góp công sức với ông, cũng còn 4, 5 người có khả năng và trình độ như thế. Nhưng họ ở phân tán tại nhiều nơi khá xa nhau và chưa tiện bỏ những công việc ổn định đang có. Muốn thực hiện những bản tin và chuyên san định kỳ như thế, sẽ phải lo cung cấp bài vở đúng kỳ hạn. Không như hồi làm báo Tự Do ông mới trên 30 và nhóm bạn trẻ trên dưới 20, nay ông đã trên 70 và bọn họ đều ở tuổi 60, khó còn thể làm việc miệt mài một cách trường kỳ như trước. Những người bạn trong ngành báo chí ngoại quốc ông tin tưởng có thể mời cộng tác cũng đều đã cao tuổi, về hưu từ lâu, khả năng làm việc không còn như xưa. Trước trở lực của tuổi tác, đa số nhóm thân hữu ông tham khảo đều tỏ ý e dè, cho rằng dự án này “quá nặng,” “quá vất vả,” nhất là đối với ông. 


Thủ bút của nhà báo Như Phong.

Ngày 29-6-1994, hai tháng rưỡi sau khi tới Mỹ, ông viết thư cho một người bạn ở xa.
Trước sự dè dặt của nhóm người thân thứ nhất, ông còn thử nêu ra -- ít nhất một lần nữa – với lớp hậu bối thứ hai. Ký giả Đinh Quang Anh Thái cho biết: “Những người bạn trạc lứa tuổi tôi do tôi đưa đến thăm cậu, khi nghe cậu say sưa như thế chỉ cung kính chứ không tán thành, vì ước mơ của cậu to lớn quá, không dễ gì thực hiện nổi. Có lần khi chỉ có hai cậu cháu, tôi nói với cậu Tiến về suy nghĩ của tôi. Cậu tặc lưỡi rồi nói: “Thì ‘ba tốc’ tí chơi ấy mà’.” Xét một cách công bằng, nếu năm 1994 ông Như Phong trẻ lại 10, 15 tuổi (thời gian mất trong các nhà giam Cộng sản) và tìm được đủ người có khả năng dấn thân, dự án của ông không hẳn là một chuyện “ba tốc.” 
Dễ thực hiện hơn là một đề nghị khác: ông Như Phong đem những hiểu biết về Cộng sản Việt Nam giúp các báo và cơ sở truyền thông Việt ngữ ở ngoài nước, đồng thời, liên lạc lại để gửi bài tới các báo có uy tín quan tâm đến thời cuộc Việt Nam như Far Eastern Economic Review, Asian Wall Street Journal ... Đề nghị này được tất cả tán thành: thực tiễn, hữu ích, và sẽ không làm ông Như Phong quá mệt. Một đề nghị nữa, “nhà báo Như Phong nghỉ một thời gian rồi viết một cuốn hồi ký” bị chính ông bác ngay. Gió Như Phong là loại gió năng động. Đất nước như thế, dân tộc như thế, tập thể cầm quyền còn như thế! Mới có hơn 70 tuổi, nhà báo Như Phong đâu thể ngồi yên mà viết hồi ký được! 
Đối với ông Như Phong, “giúp các báo Việt ngữ” không phải chỉ là một nguồn vui mà còn là một nghĩa vụ. Nhà báo Nguyễn Thượng Hiệp và nhà biên khảo Trần Đông Phong cùng cho biết: ngay trong ngày đầu tiên, vừa tới Mỹ sau một hành trình dài và vất vả từ Việt Nam, ông Như Phong đã hỏi ngay hai ông về tình trạng báo chí Việt ngữ ở ngoài nước, và yêu cầu hai người đưa ông đi thăm các nhật báo Người Việt và Việt Báo. Mấy hôm sau, ông tâm sự với ông Trần Đông Phong: “Cậu không biết tôi thèm nhìn thấy một tờ ‘báo Việt ngữ của mình’ như thế nào sau gần hai mươi năm sống với bọn Cộng sản. Nghe cậu nói bọn họ ra được nhật báo ở đây, tôi mừng vô cùng... Trong bao nhiêu năm qua, niềm mơ ước của tôi là các anh em trẻ có cơ hội tiếp tục làm báo ở xứ người, những tờ báo xứng đáng được gọi là ‘báo’ như tôi thường mong ước, với những nhà báo xứng với chức năng của người cầm bút.”
Như Phong Lê Văn Tiến tại nhà Phạm Phú Minh vào khoảng cuối năm 1996.


Bấy giờ họ là láng giềng của nhau trong khu mobile home
trên đường Bolsa, Westminster, Nam California.
(Hình do Phạm Phú Minh chụp)


Cuối năm 1996, nhà báo Đỗ Quý Toàn cho biết: “Sau khi đến tạm trú ở Mỹ, Như Phong đã giúp đỡ, cộng tác với các báo Việt ngữ bằng ý kiến, tài liệu, các bài thuyết trình, và các bài viết... Ông là kho tài liệu sống của bao nhiêu người hoạt động trong các lãnh vực báo chí, truyền thông khác.” Một số tin đặc biệt từ Việt Nam do Như Phong phát hiện ra, nhiều bài đặc sắc do ông viết ... cũng đã được gửi tới Far Eastern Economic Review, Asian Wall Street Journal, Washington Times ..., và một vài tờ báo nữa từ cuối năm 1994. Một số bạn trẻ tuổi hơn của ông, đang giảng dạy hay làm việc tại một vài Đại học ở Hoa kỳ, tích cực tiếp tay ông trong giai đoạn đầu. Mấy năm sau, một nghĩa nữ hiếu thảo tận lực phụ giúp ông (xin nói thêm về người nghĩa nữ đáng quý này trong ít trang sau).
Năm 1997, Ban Việt ngữ Đài Á Châu Tự Do (Radio Free Asia, RFA) được thành lập. Một trong những việc làm đầu tiên của giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người được giao trách nhiệm điều khiển chương trình, là mời nhà báo Như Phong cộng tác. Ông rất vui nhận vai trò một chuyên viên nghiên cứu kiêm bình luận cho Đài. Từ đó, những bài nhận định hoặc phân tích sâu sắc về tình trạng đất nước, những lời nhận xét dí dỏm về tập đoàn lãnh đạo Cộng sản của “ông Hai Trang” được phát thanh đều đặn về quốc nội cũng như được say mê theo dõi tại quốc ngoại. Ông cũng phối hợp một số chương trình đặc biệt về lịch sử Việt Nam thời gần đây, như loạt bài về cuộc khởi nghĩa Yên bái, về phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, hoặc loạt bài về cách mạng Việt Nam năm 1945 nhìn từ mọi khía cạnh, quốc gia cũng như cộng sản, trong Nam cũng như ngoài Bắc. Theo ký giả Tâm Việt (bút hiệu của Gs. Nguyễn Ngọc Bích), “sự hiểu biết của ông về phong trào Cộng sản Việt Nam đã giúp cho Đài có những nhận định mà thính giả cho là vô cùng chính xác.” Ông đảm nhận vai trò này một cách tận tụy cho tới những ngày cuối của cuộc đời.

2) Mối quan tâm tới đất nước

Một trong những đóng góp quý báu của nhà báo Như Phong cho các chương trình phát thanh Việt ngữ cũng như cho công cuộc tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ ở Việt Nam là các buổi phỏng vấn những tiếng nói của lương tâm, các buổi thảo luận với những nhân vật can đảm ở trong nước nhưng dám lên tiếng cho dân chủ và nhân quyền như Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, Trung tướng Trần Độ, Đại tá Phạm Quế Dương, ông Hoàng Minh Chính, nhà văn Dương Thu Hương... Sẵn quen biết các nhân vật ấy từ khi còn ở trong nước, ông đã giúp các đài RFA và VNCR thực hiện được nhiều buổi phỏng vấn và phát thanh giá trị.
Chưa hài lòng với những tài liệu có thể tìm thấy trên đất Mỹ, năm 1997, tuy đã 75 tuổi ông sang Anh để tìm những tài liệu về Việt Nam được lưu giữ tại Anh. Năm 1998 và 2000, ở tuổi 76 và 78, ông hai lần sang Pháp, tới văn khố về Đông dương tại Aix-en-Provence tận miền Nam nước Pháp để tìm các tài liệu về đảng Cộng sản Đông dương và Hồ Chí Minh. Ông phát hiện nhiều tài liệu đáng lưu ý về lãnh tụ Cộng sản này cũng như về nhân vật Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung hoa một thời của ông ta trong giai đoạn 1925-1927. 
Do những đóng góp tích cực trong các hoạt động của Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo tại quốc ngoại, ký giả Nguyễn Huỳnh Mai thường được mời tham dự các hội nghị, hội thảo quốc tế về tự do tôn giáo tại Việt Nam. Để chuẩn bị cho các hội nghị ấy, cô thường liên lạc với thân hữu các nơi, mong được giúp ý kiến hoặc tiếp tay trong việc thu góp tài liệu. Cho tới tháng 12 năm 2001, người đầu tiên cô liên lạc, cũng là người thường cung cấp cho cô những ý kiến, tài liệu giá trị nhất, là nhà báo Như Phong. 
Theo nhà báo Đỗ Quý Toàn, sau khi nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự bị bắt ở Đà lạt, tổ chức bảo vệ nhân quyền Asia Watch điện thoại tới một người Việt ở Mỹ để biết thêm về Bảo Cự cùng những chi tiết và lý do của chuyện bắt bớ. Người được Asia Watch tham khảo là nhà báo Như Phong. Cũng theo ông Đỗ Quý Toàn, ông Như Phong “tự coi mình có bổn phận giúp các tổ chức tranh đấu cho quyền làm người, nhất là quyền của con người ở Việt Nam.” Rất nhiều năm, Human Rights Watch tham khảo ý kiến ông trước khi quyết định các giải thưởng Hellman-Hammett (dành cho các nhà văn bị đàn áp), và rất tôn trọng những đề nghị của ông.
Rất nhiều người trong cộng đồng Việt Nam ở quốc ngoại đã tích cực đóng góp trong việc vận động cho dự luật Nhân Quyền cho Việt Nam (Vietnam Human Rights Act, H.R. 2833), bản dự luật được thông qua một cách vẻ vang tại Hạ viện Quốc hội Hoa kỳ với đa số tuyệt đối (410 phiếu chống 1) năm 2001. Riêng những “người trong cuộc” tại thủ đô nước Mỹ biết thêm về vai trò quan trọng của nhà báo Như Phong cùng hai nhân vật có liên quan mật thiết với ông trong việc hình thành văn bản cùng việc vận động cho dự luật này. Những nét chính của dự luật do nhà báo Như Phong phác thảo. Bản Anh ngữ đầu tiên là tác phẩm của một nữ ký giả xuất sắc, có liên hệ đặc biệt đối với ông. Bản văn cuối cùng, đúng thể thức một dự luật đệ trình trước Quốc hội Hoa kỳ với những qui định chặt chẽ về hình thức và ngôn từ pháp lý, là tác phẩm của một luật gia trẻ nhưng lỗi lạc của Hoa kỳ, rất quý trọng nhà báo Như Phong. Như chúng ta có thể đoán: ít nhất trong buổi đầu, hai nhân vật trẻ, một Việt một Mỹ, sốt sắng góp sức vào việc hình thành dự luật này do sự động viên tinh thần của nhà báo Như Phong cùng do niềm quý trọng đặc biệt của họ đối với ông.
Bên cạnh việc lên tiếng cho quyền làm người và quyền công dân của người Việt, nhà báo Như Phong còn rất quan tâm đến quyền lợi cùng những mối nguy của đất nước. Ông rất lưu tâm tới những con đập do nhà cầm quyền Hoa lục xây ở thượng nguồn sông Mekong, gây ảnh hưởng tai hại đến các quốc gia ở cuối dòng như Căm bốt và nhất là Việt Nam. Ông theo dõi những chuyến đi nghiên cứu tại chỗ của một người bạn, nhà văn bác sĩ Ngô Thế Vinh, một cách rất chuyên chú. Kỹ sư Phạm Phan Long cho biết ông Như Phong tham dự các sinh hoạt của “Nhóm bạn Cửu long” từ 1995, mới một năm sau khi ông tới Hoa kỳ. Cũng theo kỹ sư Long, ông Như Phong luôn luôn “chú tâm theo dõi những hiểm họa đang xảy đến cho dòng sông,” và đã giúp cho bản Việt ngữ của “Bản Tuyên ngôn sông Mekong năm 1999” sống động và khởi sắc hơn nhiều.
3) Cố gắng và nghị lực
Để đưa được nội dung các buổi điện đàm, phỏng vấn vào chương trình phát thanh, ông phải thạo cách sử dụng các máy thu âm nối với điện thoại. Để truy tìm tin tức, tài liệu và trao đổi ý kiến hầu thực hiện nhiệm vụ một nhà nghiên cứu nghiêm túc khi thế kỷ 20 bước sang 21, ông phải làm quen với computer, Internet và email. Để gửi hình ảnh kèm theo các bài viết một cách mau chóng, ông phải dùng digital camera và scanner. Tới Hoa kỳ năm 1994 khi đã 72 tuổi, sau 19 năm bị cô lập trong các nhà tù nhỏ, nhà tù lớn, ông Như Phong học cách sử dụng các phương tiện và khí cụ truyền thông ấy một cách tích cực và rất nhanh. Một bạn trẻ thuộc thế hệ gọi ông bằng “bác,” kỹ sư Vũ Mạnh Hùng, nêu nhận xét như sau: “Qua Mỹ chỉ trong một thời gian ngắn, bác đã sử dụng thông thạo computer, email, fax, phone recording, digital camera ... trong những công việc bác làm.” 
Một sự kiện nữa chứng tỏ ý chí và nghị lực của nhà báo Như Phong. Tháng 6 năm 2001, ông được Vietnam Center tại Texas Tech University (Lubbock, Texas) mời trình bày một tham luận về Việt Nam. Buổi sáng trước khi lên đường, ông leo lên bắc dàn cho hoa lan trên sân phía sau nhà, chẳng may trượt chân ngã, đầu đập vào thành máy lạnh, ngất đi một lúc khá lâu, ra rất nhiều máu. Tuy thế, sau khi được khâu và băng bó tạm ông vẫn lên đường, không muốn sai lời cam kết với một trung tâm nghiên cứu, cũng như không chịu lỡ cơ hội trình bày trước một cử tọa có trình độ về một đề tài hữu ích liên quan tới đất nước. Sau chuyến đi này ông yếu hơn trước nhiều (ông đã 79 tuổi). 
4) “Mở lòng với tuổi trẻ”
Thật sự quan tâm đến dân, đến nước tự nhiên đưa tới thái độ cởi mở, quý mến dành cho lớp người tới sau. Ôn lại những ngày sống chung trong một căn mobile home trên đường Bolsa trong khu vực Little Sàigòn trong những năm 1996-97, ký giả Đinh Quang Anh Thái cho biết: “Những người bạn tôi thuộc thế hệ con cháu cậu Tiến, ai cũng yêu kính cậu. Họ tìm thấy ở cậu một tâm hồn trẻ trung, sống động, bao dung, hài hòa, một con người uyên bác, sẵn sàng trao truyền mà không hề giấu diếm những kiến thức và kinh nghiệm cho các lớp người sau. Cậu không bảo thủ, không hẹp hòi, không hợm mình, lúc nào cũng mở lòng với tuổi trẻ. Nhiều bạn của tôi quen cậu sau này gắn bó với cậu có phần hơn cả tôi nữa.” Kỹ sư Vũ Mạnh Hùng cho biết: “Tôi không phải là người duy nhất vào hàng tuổi con cháu mà quý mến bác và được bác quý mến như vậy ... 
Không biết có phải vì bác là một trí thức lớn tuổi, vui tính và không có vợ con ràng buộc nên “tự do như gió” mà được nhiều người trẻ quý mến không? Nhưng quả thật tôi chưa hề biết một người khác có thể gây được nhiều cảm tình như vậy nơi những người khác thế hệ, đặc biệt trong đời sống xa quê hương Việt Nam.” Sau khi ông qua đời ít hôm, những dòng hồi tưởng xuất hiện trên một nhật báo địa phương của một người trẻ thuộc thế hệ gọi ông bằng “ông” là cô Thơ Thơ đã khiến nhiều người đọc trào nước mắt. Nếu ông không thành thật hướng về lớp người tới sau với một cái “tâm” thật đẹp và thật bao la, đâu dễ gì gây được nơi họ những tình cảm quý mến sâu đậm đến thế!

5) Niềm vui cuối đời


Mấy năm chót trong cuộc sống, nhà báo lão thành Như Phong tìm được một nghĩa nữ và qua đó, có được một “mái ấm gia đình.” Ông gặp ký giả Ánh Chân (Lan Đài) tại đài Á Châu Tự Do vì công việc bài vở, phát thanh. Theo nhà văn Hạ Quyên, “Lan Đài kể chuyện sau khi gặp nhà báo Như Phong ít lần, cô tự nhiên cảm mến ông như người cha tinh thần, và ông cũng thương mến cô như con gái vậy. Lan Đài đã thuyết phục được ‘ông già’ cho phép cô trông nom ông cho hết quãng đời còn lại, để ông có một mái ấm, một gia đình trở về sau những kỳ lang bạt khắp nơi kiếm tìm tài liệu.” 
Nhà văn Hạ Quyên cho biết: “Lan Đài đối đãi với nhà báo lão thành bằng tấm lòng chân thật, tràn đầy thương kính, khiến cho ai thấy cũng phải cảm động ... Có lẽ từ kiếp trước, hai bố con đã thất lạc nhau, kiếp này mới tìm lại được chăng?” Luật gia trẻ Joseph G. Rees, lúc đó là vị-hôn-phu của Lan Đài, cũng rất quý trọng nhà báo Như Phong. Theo nhà văn Hạ Quyên, “có lẽ nhà báo vui tính, dí dỏm cũng là một sợi dây hồng giúp cho đôi trẻ nhiều lắm trong giao tình của hai người.” Do niềm quý trọng dành cho ông Như Phong cũng như do những tình cảm đằm thắm đối với Lan Đài, Joseph (nay đã thành một nhà ngoại giao quan trọng của Hoa kỳ) đã giúp rất nhiều trong việc dự luật “Nhân Quyền cho Việt Nam” được hình thành và thông qua ở Hạ viện năm 2001 như đã nói trên.
Trong gần tám năm từ khi ra khỏi nước, nhà báo Như Phong đã cư ngụ ở nhiều nơi khác nhau. Trong khoảng ba năm đầu (1994-96), nơi ở chính của ông là miền Nam California. Từ 1997 trở đi, do những liên hệ với đài Á châu Tự do, ông sang miền Đông, sống trong vùng phụ cận Washington, D.C. Nhưng ông di chuyển rất nhiều. Không kể những chuyến đi thăm bà con và thân hữu ở khắp nơi, ông còn sang Anh một lần và sang Pháp hai lần như trên đã nói. Chỉ sau khi về sống trong không khí gia đình với Lan Đài tại căn nhà do Lan Đài mua và xếp đặt, trang trí theo ý ông tại thành phố Alexandria, tiểu bang Virginia (phía Nam Washington, D.C.), cuộc sống của ông mới lại mang tính cách ổn định.

6) Những ngày cuối
Tuy yếu đi nhiều sau chuyến đi Lubbock, Texas đọc tham luận tại Vietnam Center (phải chịu một hành trình dài liền theo chuyện bị ngã và mất nhiều máu ở tuổi 79), nhà báo Như Phong thực sự qua đời do bệnh ung thư phổi. Bệnh được phát hiện mùa hè năm 2001. Ông Nguyễn Ngọc Ấn cho biết khi gặp lại ông Như Phong tại California tháng 6-2001, ông bàng hoàng khi thấy thần sắc anh mình suy kém rất nhiều. Cô Thơ Thơ cho biết thêm, “trông ông sút hẳn đi, tay run lẩy bẩy, hay kêu lạnh, và ăn rất ít.” 
Sau khi trở lại Virginia, sức khỏe ông xuống thêm. Lan Đài tận tâm chăm sóc ông theo sự hướng dẫn của vị thầy thuốc gia đình, bác sĩ Nguyễn Quốc Quân, anh ruột bác sĩ Nguyễn Đan Quế. Do báo riêng cho nhau, thân hữu các nơi biết tin ông Như Phong lâm trọng bệnh và đều rất quan tâm, nhưng ông vẫn làm việc như thường, không muốn nhắc tới chuyện ấy. 
Đầu tháng 12-2001, trước tin Lan Đài sẽ phải đi vắng ít ngày (sang Nhật theo sự chỉ định của Đài Á châu Tự do để theo dõi một hội nghị quốc tế), một người bạn quý trọng ông Như Phong là ông Lâm Ngọc Chiêu bay từ California sang Virginia để săn sóc ông. Một thân hữu vùng Washington, D.C., giáo sư Đặng Đình Khiết, dành rất nhiều thời giờ tới túc trực để chăm nom, tiếp tay với ông Chiêu. Hai ông cũng phải đưa ông Như Phong vào nhà thương làm hóa chất trị liệu. Ông Chiêu cho biết trong thời gian này, rất nhiều điện thoại của thân hữu các nơi gọi tới, hỏi thăm ông Như Phong. 
Giữa tháng 12, bệnh trạng ông trở nên trầm trọng hơn. Với sự hội ý của bác sĩ Quân, hai ông Khiết và Chiêu gọi xe cấp cứu đưa ông Như Phong vào bệnh viện Fairfax. Một trong những nữ y tá tận tâm chăm sóc ông Như Phong trong thời gian ở nhà thương này là cô Lan Anh, ái nữ nhà văn Duy Lam.
Sáng sớm ngày 18 tháng 12, ông Nguyễn Ngọc Ấn từ California bay sang tới nơi. Trưa hôm ấy, thấy ông Như Phong quá đau đớn, các bác sĩ phải dùng một lượng thuốc an thần và gây mê khá mạnh để ông ngủ cho bớt cơn đau. Trước khi dùng thuốc và thiếp đi, ông vẫn vui vẻ trò chuyện với một số thân hữu và thân quyến tới thăm: các giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Đào Thị Hợi, Đoàn Viết Hoạt, Trần Thị Thức, ông bà Nguyễn Huy Long, Trương Anh Thụy, các ông Nguyễn Tường Ánh và Nguyễn Lân (trưởng nam và thứ nam của nhà văn Hoàng Đạo), bác sĩ Nguyễn Tường Giang (thứ nam của nhà văn Thạch Lam) , ông Trần Tử Thanh (con trai Luật sư Trần Văn Tuyên) ... Tới chiều tối, Joseph (vị-hôn-phu của Lan Đài) tới thăm và cho biết Lan Đài đang từ Nhật bay về. Cùng các ông Ấn, Khiết, và Chiêu, Joseph nhập vào toán túc trực bên giường bệnh. 
Ông Như Phong ra đi lúc 9 giờ 36 phút tối ngày 18 tháng 12 năm 2001, giờ miền Đông Hoa kỳ, tức 9 giờ 36 phút sáng ngày 19 tháng 12 theo giờ Việt Nam. Ngay sau khi nhận biết ông đã trút hơi thở cuối cùng, Joseph vội quỳ xuống làm dấu thánh giá và đọc kinh cầu nguyện theo nghi thức Thiên chúa giáo. Giáo sư Đặng Đình Khiết đọc kinh siêu độ theo nghi thức Phật giáo. Tính theo năm sinh thật (Nhâm Tuất 1922), ông ở với thế gian 79 năm. Theo lối tính tuổi ta, ông được 80 tuổi. 
Hôm sau Lan Đài từ Tokyo về tới nơi. Vâng theo di chúc ông Như Phong để lại, “tang lễ cử hành thật đơn giản,” “không đăng cáo phó trên các báo” để khỏi làm phiền tới nhiều người, Lan Đài chỉ gửi “tin báo tử” tới một số bà con và bạn bè thật thân theo một danh sách giới hạn ông lập sẵn từ trước. Tuy thế, do báo tin lẫn cho nhau, rất nhiều thân hữu và nhân vật quan trọng trong cộng đồng Việt Nam vùng Washington, D.C. đã tới Arlington Funeral Home để viếng tiễn ông. 
Ngày cử hành nghi thức vĩnh biệt là Thứ bảy, 22 tháng 12. Hai người thân gần nhất là ông Nguyễn Ngọc Ấn, em ruột, và Lan Đài, nghĩa nữ. Thuộc gia đình Nguyễn Tường có các ông Nguyễn Tường Ánh, Nguyễn Lân, bác sĩ Nguyễn Tường Giang, và anh Nguyễn Tường Kiên, cháu đích tôn nhà văn Hoàng Đạo, con ông Nguyễn Tường Ánh. Phía họ bà Hoàng Đạo có cụ bà Đỗ Thúc Thừa và các con. Các thân hữu gần nhất của nhà báo Như Phong tại địa phương có mặt đầy đủ: các giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Đào Thị Hợi, Đoàn Viết Hoạt, Trần Thị Thức, Đặng Đình Khiết, Nguyễn Mạnh Hùng, Lê Mạnh Hùng, ông bà Nguyễn Huy Long, Trương Anh Thụy, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và bào huynh là Trung tá Nguyễn Công Giân ... 
Trong các thân hữu từ xa, có ông Lâm Ngọc Chiêu và nhà văn Hạ Quyên bay tới từ miền Nam California, ông Vũ Văn Lê bay tới từ Houston, Texas. Với tư cách một người em kết nghĩa, nhà văn Hạ Quyên chít khăn tang. Cũng có sự hiện diện của một số bà con và nhiều nhân vật tai mắt trong cộng đồng Việt Nam vùng Washington, D.C. Sau khi đọc một đoạn trong một tập sách ông Như Phong vẫn hay hỏi tới nhưng tác giả đã không kịp hoàn tất trước khi ông hôn mê, nhà văn Trương Anh Thụy kính cẩn đặt tập bản thảo vào cạnh ông trong linh cữu. Sau những lời vĩnh biệt đầy cảm động, giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đọc cặp câu đối mô tả cốt cách ông Như Phong theo nhận thức của một người bạn trẻ có cơ duyên biết ông trên 40 năm từ giữa thập niên 1950:


Tự tại vững thân tùng, đất Lý Thắng chẳng chìm cơn Khói Sóng
Thung dung vươn ý trúc, trời Như Phong nào khuất ánh Tự Do.



HỂ TẮT”
Xúc động trước tin ông qua đời, nhiều nhóm thân hữu tại nhiều địa phương khác nhau tự động tổ chức rất nhiều nghi thức họp mặt để tưởng niệm và cầu nguyện cho ông. Trong suốt khoảng cuối tháng 12-2001 và tháng 1-2002, báo chí Việt ngữ tại hải ngoại đăng rất nhiều bản Phân Ưu cùng nhiều bài tưởng nhớ, vinh danh ông. Các bài ấy xuất hiện rải rác trên báo chí vùng Washington, D.C. (như Hoa Thịnh Đốn Việt Báo), California (như các nhật báo Người Việt, Việt Báo, Thời Luận ... , tuần báo Viet Tide), Houston, Texas (tuần báo Ngày Nay), Minnesota (tuần báo Ngày Nay Minnesota) ... cùng nhiều báo địa phương khác. 


Chủ bút tạp chí Thế Kỷ 21 Phạm Phú Minh phát biểutrong lễ tưởng niệm nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến tại trụ sở báo Nguời Việt năm 2001
(hình do Phạm Phú Minh cung cấp)

Tháng 12 năm 2002, để ghi nhớ một năm sau khi ông ra đi, tạp chí Thế kỷ 21 thực hiện một số đặc biệt về ông. Sau khi phổ biến trên các báo, một số tác giả đã nhuận sắc bài viết để chuẩn bị in lại vào một tập sách tưởng niệm. Một số tác giả khác viết và gửi bài sau khi được thông báo sẽ có một Tuyển tập về Như Phong Lê Văn Tiến.
 Một trong những mục đích của tập sách là gom góp để lưu giữ những bài thân hữu các nơi viết về ông. 


Quy tụ trong Tuyển tập về Như Phong Lê Văn Tiến gồm bài của nhiều thân hữu biết ông từ lâu như bà Đỗ Thúc Vịnh, nhà thơ Hà Thượng Nhân, họa sĩ Phạm Tăng, nhà văn Doãn Quốc Sỹ, cựu Đại sứ Bùi Diễm, giáo sư Lê Xuân Khoa, họa sĩ Ngô Bảo, các nhà văn Phan Lạc Phúc, Uyên Thao, các ông Nguyễn Ngọc Linh, Nguyễn Ngọc Phách, Trịnh Đình Thắng, các giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, Tạ Văn Tài, Nguyễn Mạnh Hùng, nhà báo Sol Sanders, bác sĩ Ngô Thế Vinh, bà Trần Thị Như Hảo, các nhà văn Nhã Ca, Hạ Quyên, Phan Nhật Nam, Bùi Bảo Trúc, nhà báo Đỗ Quý Toàn, nhà giáo Trần Thị Thức, chuyên viên kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa ... Có liên hệ gia đình hoặc tình thân gần như tình gia đình là cô Từ Dung, bác sĩ Nguyễn Tường Giang, nhạc sĩ Từ Công Phụng, cô Thơ Thơ, bà Phan 

 Lâm Hương, ký giả Nguyễn Huỳnh Mai, kỹ sư Hứa Quốc ... Nói lên phong thái cùng tư cách của ông trong ngục tù Cộng sản là bài của giáo sư Đoàn Viết Hoạt và ký giả Đinh Quang Anh Thái. Những người bạn trong công cuộc tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam như nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà hoạt động nhân quyền Quản Mỹ Lan… Thay mặt những người bạn kết tình thân sau khi ông Như Phong ra khỏi nước năm 1994 là ông Lâm Ngọc Chiêu, các kỹ sư Phạm Phan Long, Vũ Mạnh Hùng, chuyên viên tâm lý học đường Lê Nguyên Phương, và cô Trần Nguyễn Trang-Đài… Hai câu sau đây của nhà thơ Hà Thượng Nhân có thể nói lên phần nào tâm trạng chung của các tác giả, những người đã gặp nhau trong niềm quý trọng ông:




Từ Mai Trần Huy Bích
Email

No comments:

Post a Comment