Pages

Saturday, November 26, 2016

CÁ CHẾT= THƠ=HỦ QUYỀN=GIÁO DỤC BẮC NAM


LÊ MINH NGUYÊN * TIÊU DIỆT MỘT DÂN TỘC

Để tiêu diệt một dân tộc
Lê Minh Nguyên
Khi sinh tiền bà GS Sheri Rosenberg có viết "Diệt chủng là một tiến trình, không phải một sự kiện" (Genocide Is a Process, Not an Event - http://scholarcommons.usf.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=1045). Bà cho rằng đó là một sự giảm thiểu từ từ sức sống của dân tộc đó về cả hai mặt chất lượng và số lượng (genocide by attrition).
Trong lịch sử loài người, diệt chủng đã xảy ra rất nhiều cho các dân tộc, tuy hoàn cảnh và đặc tính có khác nhau, nhưng nó có các điểm giống nhau như: (1) diễn ra trong bối cảnh thế giới ít quan tâm vì do một sự kiện lớn khác chiếm hết các băng tầng của truyền thông các nước, (2) muốn xoá bỏ, làm bạc nhược, hay đuổi dân tộc đó ra khỏi một vùng lãnh thổ, (3) chủ thể gây ra là một chính quyền hay một quốc gia ở tại thực địa hay ở ngoài thực địa, (4) xem sự hiện hữu hay sự hùng mạnh của dân tộc đó là một mối đe doạ, (5) xảy ra khi dân tộc đó không có khả năng để tự bảo vệ, (6) chủ thể gây ra thường nhân danh một lý tưởng, một chủ nghĩa, một tín ngưỡng, hay một sự tự vệ, (7) chủ thể gây ra thấy không có ai ở bên ngoài thực sự có khả năng can thiệp vào, (8) sự diệt chủng xảy ra trong một thời gian dài, không phải giết hàng loạt trong một vài lần, (9) sự diệt chủng không chừa một ai, dù đàn bà hay trẻ em (https://clg.portalxm.com/library/keytext.cfm?keytext_id=187).

Trong quá khứ ta thấy có khoảng 6 triệu người Do Thái bị Đức Quốc Xã sát hại từ 1933-1945, khoảng 1 triệu người Tutsi bị sát hại trong năm 1994 ở Rwanda bởi chính quyền người Hutu, khoảng 1,5 triệu người Armedian bị sát hại dưới tay người Thổ Nhĩ Kỳ từ 1915-1923, khoảng 1,5 triệu người Cam Bốt dưới tay Pol Pot từ 1975-1979, hơn 1 triệu người Ái Nhĩ Lan chết đói 1846-1852 mà nguời Anh gián tiếp để cho xảy ra, nhiều triệu thổ dân ở Mỹ Châu bị chết vì bệnh đậu mùa (smallpox) do nguời Âu Châu đem sang cùng sự tàn sát người Inca và người Aztecs, chính quyền Úc từ 1909 đến thập niên 1970 chủ trương tiêu diệt thổ dân bằng cách bắt cóc trẻ sơ sinh của họ,... (http://listverse.com/2013/05/03/10-atrocious-genocides-in-human-history/).
Việt Nam là nạn nhân của tiến trình này qua cả ngàn năm lịch sử, nó giảm tốc khi Việt Nam giành được độc lập, nhưng tăng tốc trở lại khi phong trào cộng sản thắng thế với quốc tế vô sản, và càng thảm não hơn khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, CSVN lệ thuộc vào CS Trung Quốc nhiều hơn để tồn tại, mà Hội nghị Thành Đô 1990 và hai thập niên sau đó là đỉnh điểm của sự thần phục.
Trung Quốc từ ngàn năm, do địa chính trị tréo ngoe thất thế, hoặc chỉ thu mình ở trung nguyên hay chỉ có thể tiến nam để bành trướng, nên xem VN là cái gai cần phải nhổ cho trống đường, cả bộ lẫn thuỷ. TQ xem sự hùng mạnh của VN là một mối đe doạ, cản bước TQ trong việc chế ngự Đông Nam Á với khoảng trên 600 triệu dân, với tài nguyên Biển Đông và đường vào Ấn Độ Dương để tiến đến Trung Đông và Phi Châu.

Nhưng tiêu diệt dân tộc VN thì rất khó, ngàn năm lịch sử đã chứng minh. Vậy thì diệt chủng bằng một tiến trình từ từ và đa dạng là giải pháp mà họ có thể làm được, vừa hiệu quả vừa không gây ồn ào để dư luận thế giới quan tâm.
Ở Hội Nghị Geneva 1954, trong các cuộc đàm phán giữa các bên, TQ với thủ tuớng Chu Ân Lai luôn thúc ép phía Việt Nam chia đôi đất nước (https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Hiệp_định_Genève,_1954). Nhà sử học Nayan Chanda nhận xét: “Trung Quốc ủng hộ sự tồn tại của hai Việt Nam và nói chung mong muốn có một đa quốc gia tại biên giới của nó..." (http://www.baogiaothong.vn/vai-tro-den-toi-cua-trung-quoc-tai-hoi-nghi-geneva-1954-d79158.html).

Trong Chiến Tranh VN, TQ cung cấp súng đạn cho Miền Bắc xâm lăng Miền Nam, muốn cho huynh đệ tương tàn, TQ còn cho cả 170.000 quân TQ vào trấn giữ Miền Bắc để CSVN dốc toàn lực lượng xâm lăng Miền Nam (bit.ly/1VCpHVM). Một VN yếu và tan nát là một dạng của tiến trình tiêu diệt một dân tộc.
Khi Miền Bắc chiếm được Miền Nam năm 1975, những ngày trước khi MN sụp đổ, TQ không muốn có một VN thống nhất mà muốn tiếp tục duy trì hai thực thể, họ đã liên lạc với Toà Đại sứ Pháp và với phía ông Dương Văn Minh ý định này, nhưng đã không thực hiện được vì biến cố xảy ra quá nhanh và ông DVM đi về hướng người em ruột của ông là Dương Thanh Nhựt (Mười Ty - http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky-su/20110428/nam-bo-nhung-ngay-hao-hung---ky-5-phuong-an-duong-van-minh/435432.html) phía CSVN, đang ngã hẳn về Liên Xô. Sử gia Dương Trung Quốc đồng ý với đánh giá của truyền thông quốc tế lúc bấy giờ là TQ muốn "đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng". Ông nêu bật là, bất chấp sự chọc gậy bánh xe của TQ, CSVN năm 1975 đã thống nhất đất nước. Phản ứng sau đó của TQ là xúi giục lực lượng Khmer Đỏ của Pol Pot mở cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và xua quân đánh vào vùng biên giới phía Bắc VN năm 1979 (http://m.vi.rfi.fr/viet-nam/20140731-trung-quoc-va-y-do-pha-hoai-su-toan-ven-lanh-tho-cua-viet-nam).

Để tiêu diệt một dân tộc, TQ sử dụng một tiến trình lâu dài và đa dạng: từ chia đôi đất nước, cung cấp súng đạn cho huynh đệ tương tàn, thừa cơ hội Hoa Kỳ rút quân để chiếm Hoàng Sa, thừa cơ hội CSVN chơi vơi trước sự suy tàn của Liên Xô và Đông Âu để chiếm Trường Sa, lợi dụng lúc CSVN sẽ té nếu không có họ chống lưng để tung ra đường lưỡi bò, xây đảo, chiếm thêm ngư trường, đưa thêm giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của VN hay vùng chồng lấn ở vịnh Bắc Bộ, xâm nhập nóc nhà VN qua việc khai thác bauxite, nơi có vị trí chiến lược và xả rác bùn đỏ, chiếm các khu rừng đầu nguồn, khống chế nước sông Mekong gây nhiễm mặn cái nôi nông phẩm và huỷ diệt tôm cá, núp sau Đài Loan xây dựng nhà máy thép Formosa Vũng Áng, nơi có vị trí yết hầu dễ cắt VN cả bộ lẫn thuỷ với chỉ khoảng 40 cây số đến Lào và 320 cây số đến căn cứ hải quân Du Lâm của TQ, làm nhiễm độc biển đưa chất độc vào hệ thống dây chuyền thực phẩm tàn phá sức sống dân tộc nhiều thế hệ về sau, nhập vào VN các thực phẩm và hoá chất độc hại, xây các nhà máy không an toàn gây ô nhiễm không khí hay nguồn nước từ Bắc đến Nam như nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân, Bình Thuận hồi tháng 4/2015 (http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/?a=205843), xây các phố Tàu khắp các tỉnh thành.
TQ từng lấy cớ mượn đường vào đánh Chiêm Thành đời nhà Trần để xâm lăng VN. Ngày nay việc mượn đường được thể hiện dưới hình thức đầu tư kinh tế. Thâm hụt thương mại với TQ năm 2015 là khoảng 35 tỷ đôla, số tiền khổng lồ này mà TQ móc được từ VN mỗi năm giúp TQ mượn đường vào VN bằng chi phí của VN (http://tuoitrenews.vn/business/30633/vietnam-s-trade-deficit-with-china-likely-to-reach-35bn-in-2015-ministry).
VN đất hẹp dân đông, mật độ dân số được coi là quá cao, khoảng 270 người cho một cây số vuông, gấp 7 lần so với tiêu chuẩn thế giới (https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Danh_sách_quốc_gia_theo_mật_độ_dân_số). Cho nên để dọn con đường mòn tiến nam, họ vừa cho dân TQ vào sống xôi đậu chiếm các vị thế thượng phong, vừa huỷ hoại môi trường để bào mòn sức sống, đuổi người Việt đi nơi khác. Các khu phố Tàu nở ra từ sau Hội nghị Thành Đô ở các tỉnh như Bắc Ninh, Quảng Ninh, Bình Dương... (http://soha.vn/xa-hoi/nhung-con-pho-rop-bien-tieng-trung-quoc-20130721184837757.htm#first) càng ngày càng mọc lên nhiều hơn.
Đảng CSVN lại không quan tâm gì đến môi trường, trong khi TQ đang dùng nó để tiêu diệt một dân tộc. Các nước như Đức, Áo, Bỉ, Ý, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ và cả Phi Luật Tân đang chủ trường giảm thiểu và loại bỏ hẳn điện hạt nhân. Các quốc gia khác như Hoa Kỳ, Tây Ban Nha đang cắt xuống dần các nhà máy (https://en.m.wikipedia.org/wiki/Nuclear_power_phase-out). Trong khi đó thì VN lại hồ hởi xây dựng ở Ninh Thuận. Nếu tai nạn xảy ra thì sức tàn phá môi trường sẽ vô cùng khủng khiếp. Rất nhiều các chuyên gia điện hạt nhân bên trong và bên ngoài VN hết sức lo lắng và lên tiếng báo động, nhưng CSVN bỏ ngoài tai vì xây dựng hàng tỷ đôla thì tiền bôi trơn tham nhũng sẽ khổng lồ cho họ (http://mobile.nytimes.com/2012/03/02/world/asia/vietnams-nuclear-dreams-blossom-despite-doubts.html?referer=). VN có bờ biển dài và vô cùng xinh đẹp, các nhà máy như Formosa hay điện hạt nhân sẽ lấy đi món quà thiên nhiên quý giá của dân tộc.

Các nước theo chế độ cộng sản có một điểm chung là xem rẻ sự sống của nguời dân trong nước. Họ xem dân là con vật để thí nghiệm trong việc họ thay Thượng Đế để cơ cấu lại xã hội con người (social engineering). Coi dân như cái đinh con ốc trong bộ máy cơ khí, có thể ném bỏ một cách vô cảm (expendable), hoàn toàn không có nhân vị. Chủ nghĩa cộng sản với ý niệm "đạo đức cách mạng" mà Lênin cổ xuý, dạy cán bộ xem rẻ đạo đức mà các tôn giáo lớn của nhân loại xiển dương để làm bất cứ điều gì có lợi cho đảng. Sự bạo tàn từ đó mà ra! Não trạng này ngày nay cũng còn di truyền sang hậu CS của chế độ Putin (http://www.wsj.com/articles/the-russian-state-of-murder-under-putin-1453419231). CSVN là đàn em của cộng sản Liên Xô và Trung Quốc cho nên cũng không ngoại lệ. Sự kiện cá chết và môi trường sống bị tàn phá đã phơi bày rõ nét điều này.
Các nước theo chế độ cộng sản có một điểm chung thứ hai là "khôn nhà dại chợ", hà hiếp và giết hại dân mình nhưng sợ ngoại bang, nhất là những ngoại bang có sức mạnh quân sự hay kinh tế. Lợi dụng tâm lý "dại chợ" này của CSVN mà TQ đã và đang xây hàng rào khoá các cửa biển của VN, khoá từ các nhà máy dọc bờ cho đến những chuỗi đảo ngoài khơi, khoá từ dưới nước lên đến trên không trung, biến VN thành con đường mòn Mao Trạch Đông ven biển để họ tiến nam.
Hiện tượng cá chết xuất hiện từ ngày 4/4 nhưng tứ trụ đều lặng thinh vô trách nhiệm. Mãi đến 22/4 TBT Nguyễn Phú Trọng mới đến Hà Tĩnh, nhưng không phải để hỏi thăm dân việc cá chết hay lo lắng môi trường mà để kiểm tra mô hình sản xuất nông nghiệp và tiến độ Dự án Formosa (http://news.zing.vn/tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-kiem-tra-san-xuat-tai-ha-tinh-post644266.html).


CTN Trần Đại Quang thì chẳng thèm thăm dân của 4 tỉnh bị nạn, hôm 29/4 vào Đà Nẵng phát biểu "Tôi cũng rất ủng hộ có chính sách đặc thù cho thành phố, có chính sách đặc thù thì Đà Nẵng mới bứt phá đi lên được, nếu không có là rất khó". Sự vô trách nhiệm cùng câu nói này cho thấy chế độ đã quá hư hỏng, chỉ nơi nào có ngoại lệ, có chính sách đặc thù như Đà Nẵng thì mới phát triển được (http://m.vtc.vn/chu-tich-nuoc-noi-nao-cung-nhu-da-nang-thi-bo-cong-an-phai-tinh-gian-bien-che.2.616993.htm).
Ông Chu Xuân Phàm, Giám đốc đối ngoại Công ty Formosa Hà Tĩnh hôm 25/4 trên kênh truyền hình VTC14 nói rằng "Nhiều khi mình không được cả hai thì mình phải lựa chọn. Tôi muốn bắt cá, bắt tôm hay là tôi muốn xây một cái nhà máy thép hiện đại" (http://m.vtc.vn/giam-doc-doi-ngoai-formosa-khong-the-duoc-ca-2-phai-chon-hoac-nha-may-hoac-ca-tom.2.616315.htm). Câu nói tuy nghe rất sốc, nhưng có vẻ không phải nói với dân mà là nhờ truyền thông chuyển qua cho Đảng, vì trong quá trình thành lập, Formosa không làm việc với dân mà làm việc với Đảng CSVN, dân hoàn toàn bị gạt ra bên lề. Tiền Formosa bôi trơn trám miệng thì lãnh đạo Đảng đã ăn và đã chọn nhà máy, vì vậy Đảng "khôn nhà dại chợ" nên biết phải làm gì để bảo vệ Formosa vì công ty có yếu tố nước ngoài.
Để tiêu diệt một dân tộc nó "là một tiến trình, không phải một sự kiện" như GS Sheri Rosenberg quan sát. Tiến trình này TQ lâu nay thực hiện cho dân tộc Việt Nam. Nó lâu dài và đa dạng, được tăng tốc bởi chế độ chính trị của nước nạn nhân. Chế độ khoá tay bịt miệng người dân, không cho đất nước có sức mạnh dân tộc, hai đảng cộng sản đàn anh và đàn em rù rì rủ rỉ với nhau trong bóng tối. Nó biến VN trước tiên là bãi rác, kế đến là con đường mòn nam tiến. Nó bào mòn sức sống của dân tộc và tàn phá một đất nước xinh đẹp mà thiên nhiên ban bố. Lối thoát là đâu? - Nó nằm trong sự thông minh và dũng cảm của dân tộc ta, cho dù đã một lần uống phải bùa mê thuốc lú của chủ nghĩa cộng sản nên còn dật dờ cảnh trí. Lịch sử ngàn năm đã chứng minh, sức sống của dân ta mãnh liệt, dân tộc này không để bị tiêu diệt mà sẽ tỉnh thức để vùng lên.
clip_image002

30/4/2016 L.M.N Tác giả gửi BVN

CÁ CHẾT, THẢM HỌA DÂN TỘC VIỆT NAM


 Cần khởi tố ngay vụ án gây ô nhiễm nguồn nước khiến cá biển chết

Điều cấp bách lúc này là cơ quan chức năng cần khởi tố ngay vụ án về tội gây ô nhiễm nguồn nước theo Điều 183 Bộ Luật hình sự...
Tập đoàn từng có "tiền án" liên quan tới ô nhiễm môi trường
"Thảm họa môi trường" tại một số tỉnh ven biển Miền trung đang là chủ để được người dân trong cả nước và các phương tiện truyền thông quốc tế đặc biệt quan tâm.
Mọi ánh mắt, mọi sự nghi ngờ đều hướng về Vũng Áng,
nơi có khu công nghiệp nặng (luyện gang thép) Formosa lớn nhất Đông Nam Á đang được khẩn trương xây dựng với diện tích đất và mặt nước hơn 3000 ha. 
Sự nghi ngờ, bức xúc của người dân không phải là không có cơ sở khi chủ đầu tư (Tập đoàn Hưng nghiệp Đài Loan) là tập đoàn đã có nhiều “tiền án” lớn liên quan đến môi trường ở nhiều nơi trên thế giới.
Năm 1998, Formosa Plastics bị phát hiện đưa 3.000 tấn chất thải độc hại có chứa thủy ngân tới thành phố cảng Sihanoukville của Campuchia; gây ra nhiều sự cố môi trường ở Mỹ, bị phạt tới 13 triệu USD….
Thậm chí dư luận gần như buộc tội “thủ phạm” duy nhất gây ra thảm họa môi trường vừa qua là Formosa Hà Tĩnh.
Rõ ràng, các bằng chứng có được đang chống lại Formosa Hà Tĩnh, đặc biệt với phát ngôn của Giám đốc đối ngoại đơn vị này, đã gián tiếp thừa nhận hành vi vi phạm (?)
“Người dân không thể đòi hỏi được cả hai mà chỉ có thể chọn cá, tôm hay là nhà máy thép hiện đại” (VTC14 đưa tin). Kèm theo đó là đường ống xả thải dài hàng nghìn mét cắm thẳng xuống đáy biển.
Một số bằng chứng khác có liên quan cho thấy, Formosa nhập số lượng lớn hóa chất cực kỳ độc, dùng để súc xả đường ống (...). Rồi với thí nghiệm cho cá vào nước nước biển lấy từ Vũng Áng. Chỉ trong vòng 2 phút sau khi được thả, cá đã chết.
Với đặc điểm khí hậu thủy văn Biển Đông theo mùa, các dòng hải lưu ven bờ theo mùa, đặc điểm địa hình bờ biển nước ta kéo dài từ Bắc xuống Nam, nguồn ô nhiễm đã nhanh chóng phát tán từ Vũng Áng, Hà Tĩnh chạy dọc tới các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế (nguồn: http://www.vawr.org.vn).
Sự việc gây ra cảnh tượng cực kỳ nghiêm trọng, khiến các loại thủy, hải sản chết, trôi dạt vào bờ với số lượng cực lớn, chưa từng có từ trước đến nay, gây thiệt hại cực kỳ nghiêm trọng về kinh thế, gây hoang mang, bất bình trong dư luận.
Cần phải nhanh chóng khởi tố vụ án
Điều 43 hiến pháp quy định định: “Mọi người có quyền sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”.
Điều 63, khoản 3: “Tổ chức cá nhân gây ô nhiễm môi
trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên, suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại”.
Điều 3. Bộ Luật hình sự quy định về nguyên tắc xử lý:
1. Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật.
2. Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. 
Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng.
Luật sư Nguyễn Văn Kiệm, văn phòng Luật sư Phạm Sơn (ảnh: Nhân vật cung cấp).
Ngay sau khi vụ việc xảy ra, tân Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có chỉ đạo, yêu cầu các bộ ngành, địa phương khẩn trương làm rõ nguyên nhân gây hiện tượng hải sản chết bất thường tại các địa phương này...
Báo cáo Thủ tướng biện pháp xử lý nghiêm vi phạm; chủ động tiến hành rà soát các dự án đầu tư trong các lĩnh vực, nhất là công nghiệp nặng, về công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là môi trường biển.
Tiếp đó, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng yêu cầu, nếu cá biển chết hàng loạt do cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp chủ động gây ra, thì phải xử lý nghiêm, không loại trừ bất kỳ trường hợp nào...

Như vậy Chính phủ đã thể hiện quyết tâm rất cao, không khoan nhượng với các hành vi vi phạm pháp luật.
Đối với vụ việc gây ô nhiễm môi trường tại Vũng Áng,
Hà Tĩnh đã gây hậu quả nghiêm trọng, các dấu hiệu, chứng cứ của hành vi vi phạm pháp luật rất rõ ràng, điều cấp bách lúc này là cơ quan chức năng phải khởi tố ngay vụ án về tội gây ô nhiễm nguồn nước theo Điều 183 Bộ Luật hình sự.
Qua đó xác định rõ nguyên nhân của vụ việc, làm rõ nguồn ô nhiễm từ đâu ra để có biện pháp ngăn chặn, khắc phục.
Nếu qua điều tra, xác minh mà có đầy đủ căn cứ khẳng định thủ phạm là Formosa Hà Tĩnh thì có biện pháp ngăn chặn ngay thảm họa, không để thảm họa kéo dài, đi quá xa, gây hậu quả lâu dài đồng thời buộc người/tổ chức gây ra hâu quả phải có nghĩa cụ bồi thường.
Mặt khác nếu qua điều tra, xác minh vụ án mà có đủ cơ sở khẳng định không phải do Formosa Hà Tĩnh gây ra thì cũng công bố cho toàn thể người dân được biết để tránh những nghi ngờ, áp đặt không có căn cứ để các nhà đầu tư yên tâm đầu tư đóng góp cho nền kinh tế.  
Để việc điều tra được khách quan cần có sự giám sát chặt chẽ của người dân, các tố chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các cơ quan thông tin đại chúng trong quá trình điều tra.
Ngay lúc này, các tố chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp như: Hội Nông dân, hội nghề cá, Hội nuôi trông thủy sản… cần nhanh chóng tiếp cận, liên hệ với các thành viên, hội viên của mình (nơi bị ô nhiễm) để bàn bạc lên phương án và tính toán các thiệt hại làm căn cứ yêu cầu bối thường khi có kết luận điều tra vụ án gây ô nhiễm môi trường nói trên.
Trong quá trình điều tra, nếu có đầy đủ căn cứ xác định việc gây ra ô nhiễm từ trong nước, do lỗi của con người thì cần thiết phải khởi tố thêm vụ án về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo điều 285 Bộ Luật hình sự để làm rõ trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền về quản lý nhà nước, môi trường đã thiếu trách nhiệm để xảy ra vụ việc trên.
 http://www.biendong.net/doc-bao-viet/6245-can-khoi-to-ngay-vu-an-gay-o-nhiem-nguon-nuoc-khien-ca-bien-chet.html



Bauxite Việt Nam
Sự cố CÁ CHẾT VŨNG ÁNG đang làm dân chúng Việt Nam mất ăn mất ngủ từ nhiều ngày nay và lay động lương tri cộng đồng người Việt trên thế giới.
Chúng tôi tuyệt nhiên không tin rằng các ông lớn trong chính quyền Việt Nam từ trung ương đến địa phương Hà Tĩnh khi long trọng rước Formosa vào Vũng Áng và bán đất bán biển của quốc gia cho họ (với thời gian những 70 năm và với cái giá rẻ mạt khiến ai cũng sửng sốt) là có một tầm nghĩ muốn đổi mới nông-ngư nghiệp cổ truyền của đất nước thành công nghiệp hiện đại. Không! Không! Hoàn toàn không có gì cao sang như thế cả, mà đằng sau nó chỉ là một sự thật trần trụi, xin ức đoán mà không sợ lầm: các vị đã mờ mắt trước những bọc đô la nặng trĩu tư túi. Vậy nên không phải tận bây giờ vỡ lở ra vụ cá chết, khu công nghiệp Vũng Áng mới như một cái gai đâm vào mắt nhân sĩ trí thức, mà ngay từ khi nó mới vừa được dọn bãi và tàn bạo đuổi dân đi, bắt họ rời bỏ nghề nghiệp bền vững trên mảnh đất cổ truyền kéo nhau đến những nơi khỉ ho cò gáy đến ma cũng không dám bén mảng, nó đã khiến dư luận tại Hà Tĩnh cũng như Hà Nội dấy lên không ít sự xôn xao, bức bối. Nhưng mỗi lần có họp hành, có tiếng nói thắc mắc, lại một lần các quan chức địa phương hùng hổ lên tiếng đánh bạt đi. Nhiều người đành phải giữ lại trong lòng như một cái gai chưa được nhổ, cứ nhức buốt âm ỉ với thời gian. Riêng trong dân chúng sở tại thì đấy là một cái bọc nung mủ mà bạo phát biểu tình tháng 5-2014 giết 20 lao động Trung Quốc tại chỗ chỉ mới là một dấu hiệu mở màn.
Nay thì "kịch độc" đã phát tác không làm cách nào che giấu được nữa. Nước biển nhiễm độc nghiêm trọng từ Vũng Áng đã lan vào tận Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng và còn có nguy cơ lan xa tới các vùng biển phương Nam khác bởi dòng hải lưu ven biển, đã trở thành một đại thảm họa mang tầm quốc nạn. Những trò diễn rẻ tiền như của ông Phó chủ tịch UBND Hà Tĩnh hay ông Thứ trưởng bộ TN-MT lộ mặt là những con rối hạng bét bênh che Formosa một cách trơ trẽn (đến GS. Ngô Bảo Châu cũng phải phản ứng trên mạng) thật chẳng đáng cho ai đếm xỉa. Trò xin lỗi dối trá của Formosa – không xin lỗi vào bản chất sự việc mà chỉ xin lỗi phát ngôn thực thà của người phụ trách ngoại vụ – cũng chẳng làm nguôi giận được ai. Nội cái thái độ tỉnh bơ của một người đầu đảng như ông Tổng Trọng (than ôi, vẫn có những đầu óc mơ ngủ tưởng nhầm đó là Thein Sein của Việt Nam!) "ngậm hạt thị ăn tiền" trước biến cố tày trời cá chết đầy bờ bãi, dân kêu la ngút trời, khi chủ động vào Hà Tĩnh "động viên" Formosa, chỉ càng chứng tỏ ĐCSVN và CNCS không còn lý do để tự khẳng định trước dân tộc – ngoài đội quân công an bạo hành và đám đầu gấu tay sai "còn đảng còn mình" bảo kê cho họ – không nói tính chính danh thì đã mất lâu rồi. 
Lịch sử Việt Nam có lẽ sắp sang một trang mới từ đây, hoặc ít nhất cũng không thể quay lui được nữa. Dù nói ra hay không, nhân dân cả nước đều đã thức tỉnh, đã thấm thía tình trạng "nan y" của cái thực thể hiện tồn. Dẫu cho Tuyên giáo có hạ lệnh cho báo chí thôi không đưa tin cá chết thì những cuộc biểu tình tự phát sục sôi của đông đảo dân chúng trên Quốc lộ 1A ở Quảng Bình từ 3 ngày nay chưa có dấu hiệu chấm dứt hỏi giấu đi làm sao được?
Bauxite Việt Nam hoan nghênh ngày cả nước biểu thị tinh thần vì một môi trường biển trong lành; kiên quyết đòi tìm cho được nguyên nhân đích thực khiến toàn bộ hệ sinh thái Bắc Trung Bộ đứng trước nguy cơ tuyệt diệt; chỉ đích danh thủ phạm gây nên nguyên nhân đó và trừng trị nghiêm khắc; phản đối mọi thế lực bất chính – vì tham lợi cũng như những động cơ ngu xuẩn khác – đang tâm đẩy nhân dân và đất nước đến cái chết vô phương chống đỡ.
Bất kỳ thế lực nào chống lại quyền được tự do bày tỏ chính kiến của nhân dân trong ngày 1-5 sẽ chỉ tự tố giác chính mình đang xé nát Hiến pháp và đang tự đối đầu với bánh xe lịch sử.
BVN

01/05/2016


Hãy chung sức cứu lấy đất nước khỏi thảm họa cá chết miền Trung

Nguyễn Thế Hùng
Kể từ khi Bắc miền Trung (Hà Tỉnh đến Đà nẵng) bị thảm họa cá chết ven bờ biển đến nay, nhà chức trách Việt Nam đã rất chậm trễ trong việc truy tìm thủ phạm, hiện tại vẫn chưa đưa ra được minh chứng thuyết phục là tổ chức, cơ quan hay nhà máy cụ thể nào gây ra thảm họa này.
Mặc dù hiện nghi can số một là khu công nghiệp FORSOMA, nhưng để giới khoa học và các tổ chức quốc tế thừa nhận rộng rãi, giúp đỡ chúng ta, lên án sự hủy diệt môi trường thủy sinh vật, diệt chủng dân tộc Việt Nam, diệt chủng loài người, nhằm đưa những thủ phạm ra trước vành móng ngựa, chúng ta cần phải đảm bảo tính pháp lý quốc tế nghiêm ngặt trong việc truy tìm thủ phạm.
Với thảm họa cá chết này, trước mắt và lâu dài  là họa diệt chủng cho dân tộc VN chúng ta.

Vì sự việc xảy ra vùng ven bờ biển Việt Nam nên điều đáng lo nhất là những di hại sau thảm họa này gây nên như: hệ động thực vật biển trong một vùng rộng lớn lan tỏa theo hải lưu chưa bị chết ngay vì mức độ nhiễm độc chưa tới ngưỡng gây tử vong tức thời, nhưng cũng đã bị nhiễm độc và sẽ di hại rất lâu dài khi đánh bắt để làm thực phẩm.
Tùy thuộc nguồn phát tán chất ô nhiểm (ví dụ kim loại nặng,…), nó có thể bay trong không khí, nằm trên mặt đất, ngấm xuống nguồn nước ngầm, hấp thụ bởi cây cỏ, thủy sinh vật, và động vật,…
Với kim loại nặng (KLN) thường có tính bền vững rất cao. Do vậy, nó sẽ tồn tại rất lâu trong đất, nước, không khí. Nếu các sinh vật hấp thụ các KLN này thì chất độc sẽ được tích luỹ và chuyển qua các sinh vật khác qua thức ăn. Con người khi dùng thức ăn các KLN này sẽ đi vào cơ thể. Ngoài ra, chúng cũng có thể xâm nhập qua đường hô hấp và qua niêm mạc (da).
Nếu hàm lượng KLN vượt quá ngưỡng cho phép nó sẽ rất độc và gây tác hại lâu dài đến cơ thể con người. Khi cá chết, có nghĩa nồng độ chất độc đã vượt ngưỡng.  Nhưng cá còn sống không có nghĩa là nó không bị ngấm chất độc!
Nếu chúng ta không cảnh báo kịp thời, ngăn chặn nguồn phát tán độc tố, hậu quả là nó sẽ lan truyền nhanh và sâu rộng theo dòng hải lưu ven bờ, ảnh hưởng sâu rộng hơn đến cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Với sự nguy hiểm của chất độc gây cá chết trên một diện rộng hiện tại, chúng ta cần phải nhanh chóng phối hợp trong khảo sát, lấy mẫu để nghiên cứu một cách có cơ sở khoa học và pháp lý quốc tế, gửi đến các phòng thí nghiệm có uy tín (trong nước và quốc tế) nhằm có được kết quả được Quốc tế thừa nhận, điều này cực kỳ quan trọng vì người dân sẽ tin tưởng việc làm của chúng ta, họ yên tâm khắc phục khó khăn do tình trạng cá biển chết hiện tại; và chúng ta sẽ có chứng cứ được giới khoa học quốc tế thừa nhận, đây là cơ sở vững chắc, rất quan trọng, để loài người tiến bộ ủng hộ chúng ta, lên án kẻ gây ra ô nhiễm diệt chủng, có cơ sở nhằm đưa chúng ra trước vành móng ngựa; mặt khác cần khẩn cấp kêu gọi sự hỗ trợ giúp đỡ của cộng đồng khoa học quốc tế để có thể có được sự phát hiện đầy đủ, ngăn chận chất độc lây lan một cách nhanh chóng và toàn diện.
Mặt khác, chúng ta yêu cầu chính phủ cử kiểm toán nhà nước, kiểm tra sổ sách xuất nhập hóa chất của công ty FORMOSA; tạo điều kiện cho các tổ chức khoa học Quốc tế, các tổ chức khoa học Việt Nam được tiếp cận tìm hiểu các khả năng gây ra ô nhiễm của nhà máy này.
Vì sự tồn tại lâu dài của dân tộc Việt, vì sức khỏe của Con, Em chúng ta; chúng ta, quyết không phụ công lao của tiền nhân đã dựng nước và giữ nước, nhanh chóng liên kết, hợp tác, góp công sức trong việc ngăn chặn đại thảm họa diệt chủng này.
Đà nẵng, 13.00, 01/5/2016
N.T.H.

01/05/2016

Tìm ở đâu? Tìm trong đầu ấy! (Mênh mông thế sự 35)

Tương Lai
Là nói chuyện tìm nguyên nhân thảm hoạ môi trường trong cái nóng hầm hập. Càng nóng hơn về hình ảnh ngư dân thẫn thờ bên xác cá chết trên biển miền Trung. Thế mà nóng đầu hơn lại là chuyện trống đánh xuôi kèn thổi ngược của những thủ đoạn chối tội trơ trẽn và khốn nạn từ những con rô bốt ngô nghê được đẩy ra hứng chịu búa rìu của dư luận về thảm hoạ môi trường thay cho sự lẩn trốn của chính danh thủ phạm.
Thật ra, đâu chỉ là thảm hoạ môi trường. Phải gọi đúng tên thảm hoạ, chỉ đúng mặt kẻ rước thảm hoạ đó về phá nước hại dân để giữ bằng được cái ghế quyền lực. Chỉ khi vạch rõ chính danh thủ phạm là ai, là những ai, chúng đang chối tội, chạy tội và tìm cách lấp liếm bằng giọng lưỡi lừa mị dối trá nhà nghề như thế nào đi liền với trấn áp bằng bạo lực ra sao, thì mới có thể bàn được giải pháp trị tận gốc thảm hoạ hôm nay.
Mà như vậy thì cùng với sự vào cuộc của các nhà khoa học trong và ngoài nước để soi tìm, kiểm nghiệm, phân tích, chỉ ra những chất cực độc từ ống xả ngầm xối ra biển, phải tìm ngay trong đầu chính danh thủ phạm.
Thảm hoạ môi trường dễ thấy. Con mắt của người dân vùng biển đủ tinh tường để hiểu ra những tai hoạ ập xuống mạng sống của họ và con cháu họ. Các nhà khoa học đủ sức đưa ra những bằng chứng xác đáng nhằm khoá mõm những thủ phạm và đồng loã của chúng đang lúng túng như gà mắt tóc. Thì chẳng phải câu nói của rô bốt phó bộ Môi trường: “Tắt máy. Tắt máy nghe. Xin lỗi. Không, không, để anh nói riêng với em. Đừng hỏi câu đó. Hỏi câu đó tổn hại cho đất nước của mình. Nhá. Em hỏi câu đó làm tổn hại cho đất nước của mình khi trả lời câu hỏi trong nước có kim loại nặng đã đủ lột trần những toan tính bẩn thỉu của những cái đầu “lớn” đang hốt hoảng đó sao?
Rồi báo cáo tại cuộc họp Chính phủ ngày 28/4 "bước đầu loại trừ nguyên nhân do hiện tượng dị thường của tự nhiên kết hợp với tác động của con người tạo nên hiện tượng tảo nở hoa mà thế giới gọi là thủy triều đỏ" mà vài tờ báo đăng tin đã bị gỡ bỏ! Ai đã ra cái lệnh gỡ bỏ đó, và vì sao phải gỡ bỏ?
Xem ra, đôi khi sự ngu dốt thật thà cũng có tác dụng phơi bày sự thật không kém sự lú lẫn xảo quyệt là bao nhiêu! Đại loại như thủ thuật “photoshop” được sử dụng quá kém cỏi của tờ báo chính thống nọ đưa hình ảnh “thuỷ triều đỏ” để cố gắng nghiêm túc thực thi chỉ thị chạy tội cho Formosa lại có sức công phá uy tín của Đảng cùng bộ máy quyền lực đang xuống tận đáy khó mà đo đếm nổi!
Khi mà tính chính nghĩa đã không còn thì tính chính danh cũng mất đi. Đã mất hai cái đó thì thì cho dù có trong tay một bộ máy tuyên truyền khổng lồ vượt xa bộ máy của Goebbels thời Đức Quốc xã của Adolf Hitler, cùng với bộ máy bạo lực cũng tàn bạo chẳng kém, vẫn không sao tránh khỏi sự bấn loạn với những chỉ thị chồng chéo, mâu thuẫn với nhau, đụng độ lộ liễu trong các giải pháp đang như gà mắt tóc.
Đó là điều đập vào mắt của bàn dân thiên hạ được khởi đầu từ thảm hoạ môi trường biển bị nhiễm chất cực độc đang lừ lừ trôi theo dòng hải lưu từ Hà Tĩnh vào các tỉnh phía Nam. Chất cực độc ấy không chỉ ngấm vào nước biển, nó đang ngấm vào trong cơ thể đất nước, trong sự phẫn nộ của lương tri. Một thảm hoạ khủng khiếp, nhưng đến giờ phút này, vẫn chưa thấy có lối ra cho một quyết sách nhằm cứu vãn tình thế?
Có lẽ cần phải nhắc lại lời của Lê Quý Đôn trong “Quần thư Khảo biện” mà “Mênh mông thế sự số 28” đã dẫn ra: “Xưa nay đâu có chuyện bốn năm người cùng giữ quyền chính mà không chia rẽ, đả kích nhau rồi quay ra cắn xé lẫn nhau, kẻ mạnh thì lăng mạ bạo ngược, kẻ yếu thì xin cứu viện. Đó là đạo lý của sự loạn và sự mất”.
Vào cái thời điểm mà nhiều cái đầu đang bấn loạn, cần nghiền ngẫm về cái đạo lý mà ông cha ta đã truyền dạy đặng biết cách mà hành động chăng?
30.4.2016
T. L.
Tác giả gửi BVN.

01/05/2016


TUYÊN BỐ VỀ TỘI ÁC ĐẦU ĐỘC BIỂN MIỀN TRUNG VIỆT NAM (cập nhật đợt 5, tổng cộng 1170 người ký)

Vụ nước biển miền Trung bị nhiễm độc nặng nề, mà chứng cứ là hàng chục tấn cá biển lớn nhỏ chết giạt vào bờ từ đầu tháng 4/2016 vẫn tiếp tục đến hôm nay, lan từ Hà Tĩnh, vào Quảng Bình, Quảng Trị, đến Thừa Thiên-Huế, … đã gây ra sự phẫn nộ chưa từng có trong toàn thể nhân dân Việt Nam.
Đại hoạ thảm khốc trên không chỉ hủy hoại ngư trường của hàng vạn người dân ven biển miền Trung, hủy hoại môi sinh ven bờ, gây ra tình trạng lan tràn thực phẩm độc hại cho các vùng khác, mà còn gây hậu quả nghiêm trọng và lâu dài đối với các ngành kinh tế khác của Việt Nam như dịch vụ nghề cá, sản xuất muối, nuôi trồng thủy hải sản ven sông biển, du lịch, các dự án đầu tư khu nghỉ dưỡng ven biển…
Tình trạng ô nhiễm biển nặng nề như trên không chỉ gây hậu quả xấu đối với kinh tế biển Việt Nam mà chắc chắn sẽ lan sang một số nước khác trong khu vực.

Đây là một tội ác hủy hoại môi trường sinh thái và diệt chủng tiềm tàng. Trước mắt là cá và các loài thủy hải sản chết hàng loạt, và đã có người chết; sau đó sẽ gây ra bệnh tật nguy hiểm cho con người và các vật nuôi như đã từng xảy ra ở một số nơi trên thế giới trước đây cùng nhiều hệ lụy chưa thể lường hết được.
Cho đến hôm nay, mặc dù được một số thế lực bao che và tìm cách hoãn binh để phi tang, nhiều bằng chứng đã chỉ ra nghi phạm số một của vụ đầu độc biển Vũng Áng: Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Đài Loan đóng tại Vũng Áng Hà Tĩnh (Formosa Hà Tĩnh) đã xả số lượng lớn chất cực độc ra biển trong quá trình súc rửa đường ống xả thải.
Vụ Formosa càng bộc lộ rõ hơn sự vô trách nhiệm, vô cảm và bất chấp lợi ích quốc gia, cuộc sống của người dân, cũng như bất lực của cả một hệ thống quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương trước một đại nạn quy mô lớn của quốc gia, khi vụ việc được người dân phát hiện gần một tháng mới có sự khởi động điều tra. Sự chậm trễ ấy rất nhiều khả năng đã tạo điều kiện cho nghi can có thì giờ xoá tang tích để thoát tội.
Người dân càng phẫn nộ trước phát ngôn hàm ý bao che cho nghi phạm, đánh lừa, xoa dịu dư luận của một số quan chức cấp bộ và tỉnh, trước hành vi hết sức khó hiểu của người đứng đầu Đảng Cộng sản – tổ chức tự cho mình độc quyền lãnh đạo toàn diện quốc gia – đã đến thăm nghi can số một, thay vì thăm hỏi người dân bị nạn, đúng vào thời điểm mọi mũi dùi công luận chĩa hết vào nghi can ấy.
Không thể không nhắc đến những ưu đãi khác thường mà lãnh đạo Hà Tĩnh và trung ương đã dễ dãi cấp cho Formosa Hà Tĩnh, từ thời hạn sử dụng dài hết mức (70 năm) đối với một diện tích đất đai rộng lớn tại một vị trí xung yếu về quốc phòng, đến những lỏng lẻo trong quản lý, như về lao động (với số lượng lớn lao động đơn giản China Đại lục không có giấy phép lao động), về thuế, về kiểm soát nước thải (hoàn toàn lệ thuộc công ty). Những người có quyền quản trị quốc gia đã cho phép Formosa Hà Tĩnh được hoạt động như một đặc khu, các cơ quan chức năng của Việt Nam không dễ gì được vào để kiểm tra kiểm soát về an toàn môi trường cũng như mọi hoạt động của nó, như thực tế đã cho thấy trong vụ cá chết vừa qua.
Trước đại nạn biển miền Trung nhiễm độc và những hệ lụy của nó, chúng tôi, những người tha thiết với vận mệnh đất nước, yêu cầu nhà cầm quyền:
1/ Thi hành mọi biện pháp hỗ trợ người dân ven biển miền Trung nạn nhân vụ biển bị nhiễm độc khôi phục sự sống cả trước mắt và lâu dài. Tạm đình chỉ ngay việc sử dụng đường ống xả thải này trước khi các cơ quan chức năng bảo đảm được công tác kiểm tra an toàn nước thải do nó xả ra biển.
2/ Sử dụng mọi quyền lực nhà nước và biện pháp cần thiết, huy động mọi lực lượng xã hội như giới khoa học kỹ thuật, luật gia, nhà báo độc lập, nếu cần thì mời cả chuyên gia quốc tế, để nhanh chóng đưa thủ phạm vụ đầu độc biển miền Trung ra trước pháp luật; trừng trị nghiêm khắc, đích đáng, bắt chúng bồi thường mọi thiệt hại về người và của cho người dân bị liên lụy, cho những tác hại môi sinh của nước nhà.
3/ Gấp rút điều tra để trả lời câu hỏi: Vì sao Formosa, một công ty sản xuất thép với công nghệ lạc hậu và những thành tích bất hảo phá hoại môi sinh ở nhiều nước, như gần đây đã bộc lộ, lại được hưởng những ưu đãi chưa từng có, vi phạm chủ quyền quốc gia như thế?
4/ Có biện pháp kiểm soát chặt chẽ, không để Formosa thi hành việc xả thải gây ô nhiễm từ từ thay vì gây độc cấp tính như vừa qua, làm công luận phẫn uất. Hậu quả của biện pháp đối phó này sẽ là cá, người và biển chết từ từ.
5/ Sẵn sàng xoá bỏ dự án Formosa, nếu những nguy hiểm tiềm tàng mà dự án gây ra không thể triệt tiêu được.
6/ Kỷ luật các quan chức trung ương và địa phương vô trách nhiệm và có thể có tham nhũng, tiêu cực trong việc xử lý vụ đầu độc biển miền Trung.
Đây là giọt nước tràn ly sau quá nhiều tai hoạ do các dự án từ khai khoáng (như bauxite Tây Nguyên) đến thủy điện, nhiệt điện, chế biến… tràn lan khắp đất nước bất chấp những cảnh báo tâm huyết của trí thức và nhân dân. Đã đến lúc nhà cầm quyền phải nghiêm túc rà soát, điều chỉnh, nếu cần thì hủy bỏ các dự án bất lợi cho sự phát triển bền vững, cho an ninh quốc phòng, nhất là các dự án của China, không để tiếp tục xảy ra những tai hoạ về môi sinh cũng như về các mặt khác.
Người dân Việt Nam quyết không chọn con đường tăng trưởng kinh tế với cái giá hi sinh môi sinh của đất nước, hisinh quyền lợi của dân nghèo, hisinh chủ quyền quốc gia;
Người dân Việt Nam quyết không chấp nhận những kẻ cầm quyền ngu dốt, tham lam, bán rẻ dân tộc vì lợi lộc, tham vọng cá nhân và phe đảng;
Người dân Việt Nam quyết không chịu chết thảm như những con cá nhiễm độc ở Biển Đông!
DANH SÁCH KÝ TÊN VÀO TUYÊN BỐ VỀ TỘI ÁCĐẦU ĐỘC BIỂN MIỀN TRUNG VIỆT NAM
ĐỢT 1
1. Nguyễn Quang A, TS Khoa học Điện tử viễn thông, nguyên Chủ tịch Viện Nghiên cứu phát triển IDS, nguyên Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, Hà Nội
2. Hoàng Hưng, nhà thơ, nguyên Trưởng ban Văn hoá-Văn nghệ báo Lao Động, TPHCM
3. Phạm Gia Minh, TS Kinh tế, Hà Nội
4. Trần Minh Thảo, viết văn, Bảo Lộc, Lâm Đồng
5. Bùi Minh Quốc, nhà thơ, nguyên Chủ tịch Hội Văn nghệ Lâm Đồng
6. Võ Văn Tạo, nhà báo, Nha Trang
7. Phan Hoàng Oanh, TS Hoá, TPHCM
8. Vũ Trọng Khải, PGS TS Kinh tế, nguyên Hiệu trưởng trường Cán bộ quản lý nông nghiệp II, TPHCM
9. Phạm Nguyên Trường, dịch giả, Vũng Tàu
10. Nguyễn Xuân Diện, TS Hán-Nôm, Hà Nội
11. Vũ Ngọc Tiến, hội viên Hội Nhà văn Hà Nội
12. Đào Tiến Thi, Thạc sĩ Ngữ văn, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
13. Vũ Thư Hiên, nhà văn, Pháp
14. J.B. Nguyễn Hữu Vinh, kỹ sư, nhà báo tự do, Hà Nội
15. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TPHCM
16. Nguyễn Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội
17. Nguyễn Đăng Hưng, GS Danh dự Đại học Liège Bỉ, TPHCM
18. Ngô Kim Hoa (Sương Quỳnh), nhà báo, TPHCM
19. Phạm Toàn, nhà văn, nhà giáo dục, người sáng lập nhóm giáo dục Cánh Buồm, Hà Nội
20. Nguyên Ngọc, nhà văn, Hội An
21. Ý Nhi, nhà thơ, TPHCM
22. Hoàng Lại Giang, nhà văn, TPHCM
23. Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn, TPHCM
24. Tô Lê Sơn, kỹ sư, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, TPHCM
25. Nguyễn Huệ Chi, GS Văn học, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội
26. Đặng Thị Hảo, TS Văn học, Hà Nội
27. Trần Đức Quế, chuyên viên Bộ Giao thông Vận tải hưu trí, Hà Nội
28. Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn, Đà Lạt
29. Nguyễn Ngọc Giao, giảng viên Đại học về hưu, Pháp
30. Phạm Tư Thanh Thiện, nhà báo, Pháp
31. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TPHCM
32. Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp
33. Nguyễn Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp
34. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội
35. Tô Hải, nhạc sĩ, Sài Gòn
36. Lâm Thị Ái, Nội trợ, Sài Gòn
37. Lại Thị Ánh Hồng, nghệ sĩ, Sài Gòn
38. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, TPHCM
39. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, Hà Nội
40. Nguyễn Thúy Hạnh, Hà Nội
41. Nguyễn Xuân Tụ (Hà Sĩ Phu), TS Sinh học, Đà Lạt
42. Nguyễn Tường Thụy, Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, Hà Nội
43. Trần Tiến Đức, nhà báo độc lập, đạo diễn truyền hình và phim tài liệu, Hà Nội
44. André Menras – Hồ Cương Quyết, nhà giáo, Pháp
45. Vũ Linh, nguyên giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội, Hà Nội
46. Nguyễn Thị Kim Chi, Nghệ sĩ Ưu tú, Hà Nội
47. Nguyễn Thị Mười, TPHCM
48. Lê Phú Khải, nhà báo, nguyên phóng viên thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại đồng bằng sông Cửu Long, TPHCM
49. Nguyễn Khắc Mai, nhà nghiên cứu, Giám đốc Trung tâm Minh Triết, Hà Nội
50. Trần Thị Băng Thanh, PGS TS Văn học, Hà Nội
51. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, Hội An
52. Lưu Trọng Văn, nhà báo, TPHCM
53. Nguyễn Thanh Giang, TS Địa chất, Hà Nội
54. Nguyễn Thị Hoàng Bắc, nhà văn, Hoa Kỳ
55. Trần Thị Tuyết, thành viên Cánh Buồm, nhân viên Nhà xuất bản Tri Thức, Hà Nội
56. Mạc Văn Trang, PGS TS Tâm lý học, Hà Nội
57. Vũ Thế Khôi, Nhà giáo Ưu tú, nguyên Trưởng khoa Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, Hà Nội
58. Nguyễn Thị Thanh Bình, nhà văn, Hoa Kỳ
59. Dương Thuấn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa, Hà Nội
60. Bùi Hiền, nhà thơ, Canada
61. Thuỳ Linh, nhà văn, Hà nội
62. Lê Mai Đậu, chuyên viên Địa chất Công trình (hưu trí), Hà Nội
63. Nguyễn Duy, nhà thơ, TPHCM
64. Từ Quốc Hoài, nhà thơ, TPHCM
65. Hoàng Minh Tường, nhà văn, Hà Nội
66. Trần Kiêm Đoàn, TS Tâm lý học, GS, nhà văn, Hoa Kỳ
67. Thụy Khuê, nhà nghiên cứu văn học - lịch sử, Pháp
68. Lê Hiền Đức, Hà Nội
69. Nguyễn Thái Nguyên, TS Kinh tế Nông nghiệp, Hà Nội
70. Lê Tuấn Khanh, Sài Gòn
71. Nguyễn Huy Chương, San Jose, Hoa Kỳ
72. Lê Thanh Bình, kỹ sư Xây dựng, Cử nhân Kinh tế, Huế
73. Phan Thành Vinh, Bình Định
74. Manh Phu Nguyen, Philadelphia, PA, USA
75. Nguyễn Văn Nhân, Thạc sĩ Kinh tế, Khánh Hòa
76. Nguyễn Minh Tâm (Lộc Sơn Hải), giáo viên, Krông Buk, Đắc Lắc
77. Nguyễn Thanh Tâm, cựu Phó Chủ tịch Nội vụ Ban Chấp hành Cộng đồng Việt Nam Oregon, Portland, Oregon, Hoa Kỳ
78. Nguyễn Hùng Cường, nhân viên văn phòng, Hà Nội
79. Nguyễn Thị Khánh Trâm, hưu trí, TPHCM
80. Hà Văn Thùy, nhà văn, TPHCM
81. Chien Tran, Nürnberg, Đức
82. Nguyễn Anh Tuấn, Tester - Coder Web & Application, Sài Gòn
83. Văn Thị Nghĩa, giáo viên về hưu, Phan Thiết, Bình Thuận
84. Trịnh Quốc Hậu, thương nhân, TP Ninh Bình, Ninh Bình
85. Đinh Đức Long, TS, bác sĩ Y khoa, TPHCM
86. Đặng Công Thiệu, kinh doanh, Nha Trang, Khánh Hòa
87. Ngô Hoàng Hưng, kinh doanh, Sài Gòn
88. Tăng Bá Hùng, giáo viên cấp 2, Hải Dương
89. Lê Phước Sinh, dạy học, Sài Gòn
90. Antôn Phan Trọng Khánh, Nghệ An
91. Trần Song Hào (Sao Hồng), hưu trí, TP Nha Trang, Khánh Hoà
92. Nguyễn Trọng Thành, công dân Việt Nam, Vilnius, Lithuania
93. Thành Đoàn, kỹ sư phần mềm, Thạc sĩ, London, Vương quốc Anh
94. Nguyễn Anh Tuấn, kỹ sư, Hà Nội
95. Phạm Thanh Nghiên, thành viên Mạng lưới Blogger Việt Nam, cựu Tù nhân Lương tâm, Hải Phòng
96. Huỳnh Anh Tú, thành viên Mạng lưới Blogger Việt Nam, Sài Gòn
97. Vũ Chí Cương, giáo viên, Hải Dương
98. Trần Tuấn Lộc, Cử nhân Kinh tế, Cử nhân Luật, kế toán trưởng, TPHCM
99. Nguyễn Văn Hải, kỹ sư, Tân Bình, TPHCM
100. Nguyễn Thanh Nhàn, thương binh, giáo viên nghỉ hưu, Hà Đông, Hà Nội
101. Đào Hiếu, nhà văn, TPHCM
102. Le Thanh Hong, TPHCM
103. Lê Vương, giáo viên, Thanh Hóa
104. Nguyễn Thị Hoàng Ý, sinh viên, điều tra viên tự do, TPHCM
105. Nguyễn Hoàng Khôi, TPHCM
106. Hoàng Quân, sinh viên, Tampa, Hoa Kỳ
107. Tiết Hùng Thái (Hiếu Tân), dịch giả, Vũng Tàu
108. Nguyễn Gia Hảo, chuyên gia tư vấn độc lập (Kinh tế Đối ngoại), Hà Nội
109. Ly Hoàng Ly, nghệ sĩ thị giác, TPHCM
110. Đoàn Thanh Liêm, luật sư đã nghỉ hưu, Califonia, Hoa Kỳ
111. Nguyễn Đình Nguyên, TS, bác sĩ, Australia
112. Trần Trung Chính, nhà báo, Hà Nội
113. Hoàng Dũng, PGS TS, TPHCM
ĐỢT 2
114. Tuấn Khanh, nhạc sĩ, Sài Gòn
115. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
116. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TPHCM
117. JM Lê Quốc Thăng, Linh mục Tổng giáo phận Sài Gòn
118. GB Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn
119. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, TPHCM
120. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TPHCM
121. Hiền Phương, nhà văn, TPHCM
122. Nguyễn Hồng Anh, giảng viên, TPHCM
123. Hà Dương Tường, cựu GS Đại học, Pháp
124. Hà Dương Tuấn, nguyên chuyên gia công nghệ thông tin, Pháp
125. Arlette Quỳnh-anh Trần, nhóm Art Labor, Sài Gòn
126. Hoàng Tường, kỹ sư Nông nghiệp, Hà Tĩnh
127. Chu Hảo, Giám đốc nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội
128. Huynh Son Thuc Anh, nghệ sĩ, TPHCM
129. Trương Minh Quang, sinh viên, Đaklak
130. Nguyễn Văn An, cán bộ hưu trí, TPHCM
131. Ha Uyên Thy, TPHCM
132. Phan Tấn Hải, nhà văn, Hoa Kỳ
133. Trần Bá Thoại, TS, bác sĩ, Hội Nội tiết Đái tháo đường Việt Nam (VADE), Đà Nẵng
134. Thế Dũng, nhà văn, CHLB Đức
135. Mai Thái Lĩnh, nhà nghiên cứu độc lập, Đà Lạt
136. Dạ Ngân, nhà văn, Sài Gòn
137. Nguyễn Thị Quy, bút danh Minh Hiền, chuyên viên Viện Thông tin Khoa học Xã hội, đã nghỉ hưu, Hà Nội
138. Giáng Vân, nhà thơ, Hà Nội
139. Trần Công Thạch, nhà giáo nghỉ hưu, TPHCM
140. Hoàng Tăng Văn Danh, kỹ sư phần mềm, TPHCM
141. Hoàng Nguyên Hồng, luật sư, Hà Nội
142. Phạm Kỳ Đăng, làm thơ, viết báo, dịch thuật, CHLB Đức
143. Dương Huy Hoàng, hội viên hội Văn học Nghệ thuật An Giang
144. Đặng Ngọc Hưng, Dương Nội, Hà Đông, Hà Nội
145. Trần Văn Tiến, Praha, Czech
146. Trần Nghi Hoàng, nhà văn, Pennsylvania, Hoa Kỳ
147. Khánh Phương, nhà văn, Pensylvania, Hoa Kỳ
148. Trần Xuân Hoài, kế toán, Hà Nội
149. Bùi Bình Thoại, nhà kinh doanh Hà Nội
150. Nguyễn Đình Ấm, nhà báo, Long Biên, Hà Nội
151. Hoàng Ngọc Biên, nhà thơ, San Jose, Hoa Kỳ
152. Nguyễn Tường Vân, thiết kế, Sài Gòn
153. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư Tin học, Genève, Thụy Sĩ
154. Nguyễn Phương Đông, công chức, Hà Nội
155. Võ Thanh Tân, giảng viên, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, TPHCM
156. Nguyễn Văn Dũng, công dân Việt Nam, Czech
157. Phạm Huy Việt, kỹ sư Điện, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã nghỉ hưu, Nghệ An
158. Quan Vinh, chuyên viên Tin học, Roma, Italia
159. Trần Đình Sơn Cước, luật gia, nguyên hội viên Hội Luật gia thành phố Hồ Chí Minh, California, Hoa Kỳ
160. Trương Lợi, kỹ sư, Bình Thạnh, TPHCM
161. Nguyễn Quang Tuyến, nghệ sĩ thị giác, San Francisco, Hoa Kỳ
162. Phạm Trung, phê bình mỹ thuật, Hà Nội
163. Phạm Hữu Uyển, IT, Praha, Czech
164. Nguyễn Quang Thân, nhà văn, TPHCM
165. Cao Xuân Lý, nhà văn, Australia
166. Nguyễn Thị Hải Yến, TS. chuyên ngành Sinh thái Môi trường, CHLB Đức
167. Tuan Le, Senior Medical Scientist, Brisbane, Australia
168. Trần Công Thắng, bác sĩ, cư ngụ Na Uy
169. Đỗ Tuyết Khanh, thông dịch viên, Thuỵ Sĩ
170. Phạm Xuân Yêm, nguyên Giám đốc Nghiên cứu CNRS, Đại học Paris VI, Pháp
171. Uong-Nguyen Thi Xuan Huong, Thụy Sĩ
172. Đào nguyên Ngọc, kinh doanh tự do, Berlin, CHLB Đức
173. Hau Phamova, Praha, Cộng hòa Czech
174. Kenneth Pham, học viên Cao học tại University of New Haven, Connecticut, Hoa Kỳ
175. Đỗ Xuân Cang, Praha, Cộng hòa Czech
176. Trần Thanh Vân, sáng lập viên, chủ dự án Khoa học Sinh thái Nhân văn, Công ty Cổ phần Kiến trúc và Môi trường, Hà Nội
177. Nguyễn Xuân Bách, kỹ sư cơ khí, CHLB Đức
178. Phùng Mạnh Cường, CHLB Đức
179. Nguyễn Trọng Hoàng, bác sĩ, Paris, Pháp
180. Nguyễn Cường, Praha, Cộng hòa Czech
181. Mai Nghiêm, chuyên gia sinh học, Canada
182. Phạm Toàn Thắng, kinh doanh, Cộng hoà Czech
183. Inrasara, nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa Cham, Sài Gòn
184. Lê Quốc Hoàn, công nhân, Cao Hùng, Đài Loan
185. Hồ Nguyên Huy, kỹ sư, TPHCM
186. Phạm Văn Thành, Hiệp hội Tranh đấu Nhân quyền cho Việt Nam, Paris, Pháp
187. Đoàn Hòa, phiên dịch và tư vấn, Cộng hòa Czech
188. Đào Văn Tùng, cán bộ nghỉ hưu, Mỹ Tho, Tiền Giang
189. Ma Van Dung, Sydney, Australia
190. Hòa Nguyễn, bác sĩ, Sydney, Australia
191. Quang Hà, giảng dạy Đại học, Sydney, Australia
192. Nguyễn Thăng Long, nấu bếp, Munich, Đức
193. Phan Thanh Thai, công chức, Hoa Kỳ
194. Nguyễn Thị Hồng Loan, Quản lý nhân sự, TPHCM
195. Hoanh Tran, sinh viên, London, Anh Quốc
196. Nghiêm Hồng Sơn, nghiên cứu viên cao cấp, Đại học Công nghệ Queensland, Australia
197. Phan Tu Quỳnh, giáo viên, Hoa Kỳ
198. Võ Tòng Xuân, GSTS, nguyên Hiệu trưởng Đại học An Giang, Hiệu trưởng Đại học Nam Cần Thơ
199. Trần Quốc Hùng, cựu giáo viên, quận 12, TPHCM
200. Nguyễn Văn Dũng, Ohio, Hoa Kỳ
201. Lê Dũng, Giám đốc công nghệ, Công ty Tư vấn Công nghệ cao, Hà Đông, Hà Nội
202. Pham Dang Ai, nhân viên hưu trí, Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ
203. Triệu Thị Kim Loan, giáo viên về hưu, TPHCM
204. Hoàng Thanh Tâm, sáng tác nhạc, Sydney, Australia
205. Hoàng Thị Hà, hưu trí, Hà Nội
206. Nguyễn Đức Khá, cử nhân lịch sử, Bắc Ninh
207. Lê Anh Dũng, giáo viên, Nha Trang
208. Thường Quán, nhà thơ, Melbourne, Australia
209. Trương Thanh Cảnh, PGS TS Môi trường, TPHCM
210. Nguyễn Đình Bổn, nhà văn tự do, Sài Gòn
211. Mai Toàn Hảo, dịch thuật, thành phố Hồ Chí Minh.
212. Đinh Văn Hương, bác sĩ Y khoa, TPHCM
213. Nguyễn Trung Thành, kỹ sư Giao thông Vận tải, Việt Trì, Phú Thọ
214. Trần Ngọc Lợi, kỹ sư Điện, Minnesota, Hoa Kỳ
215. Nhật Tiến, nhà văn, Hoa Kỳ
216. Lê Công Định, luật gia, cựu tù chính trị, Sài Gòn
217. Phay Van, blogger, Đồng Nai
218. Hoàng N. Liên, kỹ sư Vật lý Hạt nhân, Thạc sĩ Công Nghệ và Chính sách, giảng viên Đại học, Hà Nội
219. Tạ Phong Tần, luật gia, nhà báo tự do, California, Hoa Kỳ
220. Đào Minh Châu, TS, Tư vấn hành chính công và chính sách công, Hà Nội
221. Văn Giá, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội
222. Nguyễn Trung, nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội
223. Đặng Viết Trường, nhà báo, Hà Nội
224. Nguyễn Xuân Nghĩa, kỹ sư cơ khí, trưởng phòng QA, Hải Phòng
225. Nguyễn Hữu Liêm, luật sư, California, Hoa Kỳ
226. Nguyễn Hữu Tuyến, kỹ sư hưu trí, TPHCM
227. Vũ Hoàng Minh, TS Hóa học, cựu công chức Tổng cục Địa chất, đã nghỉ hưu, Hà Nội
228. Lê Văn, TS Vật lý, đã nghỉ hưu, Sài Gòn
229. Lê Khánh Hùng, TS, Công nghệ Thông tin, Hà Nội
230. Nguyễn Văn Lịch, kỹ sư cơ khí, Đống Đa, Hà Nội
231. Tôn Phi, sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM
232. Nguyễn Văn Sĩ, Bảo Lộc, Lâm Đồng
233. Nguyễn Hồng Đức, kỹ sư, Hà Nội
234. Hoàng Đức Doanh, nghỉ hưu, Phủ Lý, Hà Nam
235. Nguyễn Đình Đăng, TSKH, nhà vật lý và hoạ sĩ, Saitama, Nhật Bản
236. Đinhh Thị Thùy Mai, Saitama, Nhật Bản
237. Nguyễn Thanh Tùng, chuyên viên văn phòng, TPHCM
238. Đỗ Như Ly, kỹ sư hưu trí, TPHCM
239. Nguyễn Ngọc Ánh, kỹ sư Nuôi trồng Thủy sản, Bến Tre
240. Hoàng Văn Quang, kỹ sư cơ khí, TPHCM
241. Trần Minh Bách, kiến trúc sư, Hà Nội
242. Lê Tuyết, kỹ sư Điện, Nha Trang
243. Bùi Tuấn Dương, Đắk Nông
244. Nguyễn Thị Ngọc Lan, viết văn, Hoa Kỳ
245. Đỗ Thịnh, Hà Nội
246. Nguyễn Anh Ngọc, TP. Hải Dương
247. Đỗ Thành Nhân, MBA - Quản lý doanh nghiệp, Quảng Ngãi
248. Chu Sơn, nhà thơ, TPHCM
249. Nguyễn Thị Kim Thoa, bác sĩ TPHCM
250. Lý Đăng Thạnh, người chép sử, TPHCM
251. Hoàng Kiến Quốc, Đồng Nai
252. Đào Đăng Hiếu, nhân viên văn phòng, Hà Nội
253. Trần Thái Hòa, Sài Gòn
254. Nguyễn Đức Hiệp, TS, chuyên gia khoa học khí quyển và biến đổi khí hậu, Sydney, Australia
255. Nguyễn Kế Quang, nghề xây dựng, Quy Nhơn, Bình Định
256. Lê Xuân Cương, PGS TS, Giám đốc Trung tâm Công nghệ Sinh học Nông nghiệp (ABC), thuộc Hội Sinh học Việt Nam, Bình Thạnh, TPHCM
257. Ngô Thái Uyên, nhà Thiết kế Thời trang, Massachusette, Hoa Kỳ
258. Nguyễn Huy Dũng, dân thường, TP Vũng Tàu
259. Đỗ Quang Tuyến, kỹ sư, Hoa Kỳ
260. Vi Nhân Nghĩa, kinh doanh tự do, Quảng Ninh
261. Trần Thiện Kế, dược sĩ, Hà Nội
262. Nguyễn Thị Tuyết Xuân, giáo viên hưu trí, Sài Gòn
263. Trần Đĩnh, nhà văn, TPHCM
264. Mai Hoàng Ân, Bình Dương
265. Lê Gia Vinh, TS (PhD), chuyên gia Công nghệ Thông tin, Calgary, Alberta, Canada
266. Nghiêm Việt Anh, kỹ sư Xây dựng, đã nghỉ hưu, Đống Đa, Hà Nội
267. Đỗ Thị Kim Oanh, nội trợ, Sài Gòn
268. Trần Trọng Huy, kỹ sư, California, Hoa Kỳ
269. Trương Hữu Vinh, phân tích tài chính, Saigon
270. David Hoang, Australia
271. Nguyễn Trọng Việt, Hà Nội
272. Nguyễn Văn Đông, họa sĩ, Sài Gòn
273. Phùng Hoài Ngọc, thạc sĩ, cựu giảng viên đại học, An Giang
274. Lê Văn Tâm, TS Kỹ thuật Hóa học, Matsudo City, Nhật Bản
275. Tương Lai, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học
276. Đào Công Tiến, PGS, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP HCM, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của thủ tướng Phan Văn Khải, TPHCM
277. Đào Tấn Phần, lao công thư viện, trường THPT Trần Quốc Tuấn, Phú Hòa, Phú Yên
278. Trương Văn Cường, sinh viên, TPHCM
279. Trần Văn Bang, kỹ sư Máy xây dựng, Bình Thạnh, Sài Gòn
280. Nguyễn Văn Đức, California, Hoa Kỳ
281. Hoàng Ngọc Cầm, TSKH, Hà Đông, Hà Nội
282. Hoàng Ngọc Lĩnh, về hưu, Canada
283. Nguyễn Văn Tú, công dân Việt Nam, nghiên cứu sinh tại Pusan National University, Hàn Quốc
284. Nguyễn Thanh Phụng, lao động tự do, Gia Lai
285. Trịnh Hồng Kỳ, nhân viên kinh doanh xuất nhập khẩu, Long Xuyên, An Giang
286. Nguyễn Xuân Quy, nghề tự do, Tiền Giang
287. Nguyen Nong, hưu trí, Michigan, Hoa Kỳ
288. Dương Thị Hoàng Minh, nhân viên văn phòng, Bình Thạnh, TPHCM
289. Trần Việt Thắng, kỹ sư Truyền thông, Hà Nội
290. Phạm Thị Tình, sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội
291. Nguyễn Mai Oanh, TPHCM
292. Trần Vũ Việt Trung, kỹ sư, cựu sĩ quan chống Mỹ, chống Trung Quốc 1979, TPHCM
293. Đinh Hoàng Thắng, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Hà Lan, Hà Nội
294. Lê Đình Thụ, kỹ sư Viễn thông, đã nghỉ hưu.
295. Phạm Thị Duyên Anh, nghiên cứu sinh, Đại học Queensland, Australia
296. Phạm Quang Tuấn, Sydney, Australia
297. Lê Công Vinh, Công nghệ Thông tin, Vũng Tàu
298. Huynh Van Que, nguyên Hiệu trưởng trường cấp 2 và 3, Phú Lộc, Thừa Thiên - Huế
299. Nguyễn Ngọc Thanh, kinh doanh, TP Quảng Ngãi
300. Trần Thanh Cảnh, nhà văn, Hà Nội
301. Huỳng Văn Thắng, quận 3, TPHCM
302. Trương Long Điền, kỹ sư, đã nghỉ hưu, Hoàng Mai, Hà Nội
303. Ngô Phương Trạch, cựu chiến binh, Bà Rịa Vũng Tàu.
304. Phạm Thị Uyên Chi, TPHCM
305. Phùng Chí Kiên, designer, Hai Bà Trưng, Hà Nội
306. Mai An Nguyễn Anh Tuấn, đạo diễn phim, nhà báo, Hà Nội
307. Đoàn Công Nghị, Nha Trang
308. Nguyễn Hữu Huế, lao động tự do, Thanh Chương, Nghệ An
309. Dương Quốc Huy, cựu chiến binh, Hà Nội
310. Phan Văn Song, nguyên quyền Hiệu trưởng truờng THPT Chuyên Bến Tre, Sydney, Australia
311. Nguyễn Hồng Lam, nhà báo, TPHCM
312. Nguyễn Văn Quảng, nghiên cứu sinh, Hàn Quốc
313. Lưu Thành, nhà thơ, Bình Phước
314. Nguyễn Minh Thiện, công chức, Tây Ninh
315. Đông Quang Vinh, cán bộ hưu trí, Khánh Hòa
316. Nguyễn Minh Thúy, kế toán, TPHCM
317. Cao Anh Thư, kế toán, HCM
318. Tư Núi Cấm, nông dân, An Giang
319. Huỳnh Xuân Tín, bác sĩ, Đông Hà, Quảng Trị
320. Phạm Vương Ánh, kỹ sư kinh tế, cựu Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, Vinh, Nghệ An
321. Doãn Kiều Anh, kỹ sư, TPHCM
322. Luc LE, họa sĩ, Edmonton, Canada
323. Nguyễn Tiến Bính, hưu trí, Hà Nội
324. Trần Đình Nghĩa, cử nhân cầu đường, Đà Nẵng
325. Phạm Văn Hiền, công chức nghỉ hưu, Hải Phòng
326. Đinh Kim Phúc, nhà nghiên cứu, TPHCM
327. Phi Vũ, Anaheim, California, Hoa Kỳ
328. Đặng Đình Mạnh, luật sư, Sài Gòn
329. Huỳnh Thành Pháp, cử nhân Luật, Bình Tân, TPHCM
330. Đặng Minh Phi, cử nhân Tin học, TPHCM
331. Lê Thị Thanh Huyền, cán bộ chương trình, Hà Nội
332. Văn Thị Hạnh, TS Sinh học, TPHCM
333. Kiều Thị Xin, TSKH, hưu trí, nguyên giảng dạy tại Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
334. Pham Terry, The KCI Medical Canada, Vancouver, Canada
335. Le Dinh Hong, kế toán hưu trí, Vancouver, Canada
336. Le Thi Nhan, hưu trí, Vancouver, Canada
337. Bùi Chát, hoạt động xuất bản độc lập, Sài Gòn
338. Đỗ Phương Khanh, nhà văn, Hoa Kỳ
339. Trương Long Điền, công chức hưu trí, Long Xuyên, An Giang
340. Trần Hưng Thịnh, kỹ sư, đã nghỉ hưu, Hoàng Mai, Hà Nội
341. Lê Thị Thu Hằng, Hà Đông, Hà Nội
342. Hồ Thị Thanh Quỳnh, cán bộ hưu trí, Thanh Hóa
343. Nguyễn Thành, California, Hoa Kỳ
344. Vũ Thị Chín, bác sĩ về hưu, nguyên cán bộ Ủy ban Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ em, Hà Nội
345. Nguyễn Đức Tuyên, sửa chữa máy vi tính, điện tử, Bình Thuận
346. Tạ Thị Hậu, nhân viên Ngân hàng NCB, Hà Nội
347. Nguyễn Quốc Toản, kỹ sư phần mềm, Sài Gòn
348. Nguyễn Thị Bình, PGS TS, Hà Nội
349. Lê Văn Oanh, kỹ sư xây dựng, Hà Nội
350. Trần Khánh Ly, viết báo tự do, Sài Gòn
351. Nguyễn Thị Duyên, nhân viên văn phòng, Cầu Giấy, Hà Nội
352. Nguyễn Đình Cống, nguyên GS trường Đại học Xây dựng, Hà Nội
353. Trần Thị Thảo, giáo viên nghỉ hưu, Hà Nội
354. Trần Thị Thanh Nga, nhân viên văn phòng, Hà Nội
355. Minh Trung, phóng viên, TPHCM
356. Mã Thành Long, cán sự điện toán, California, Hoa Kỳ
357. Duong Quynh Nga, sinh viên, Tokyo, Nhật Bản
358. Lê Anh Hùng, nhà báo độc lập, Hà Nội
359. Dinh Hồng, Burlington, Canada
360. Vũ Thị Phương Anh, TS, giảng viên về hưu, TPHCM
361. Đỗ Ngọc Việt Dũng, hội viên Hội Nhà văn Cộng hòa Czech
362. Nguyễn Thị Thúy Hà, Trưởng phòng, quận 1, TPHCM
363. Vũ Hồng Ánh, nghệ sỹ cello, Sài Gòn
364. Minh Cận, Đà Nẵng
365. Phạm Xuân Đài, nhà báo, California, Hoa Kỳ
366. Thai Pham Tuan Vu, Creative Manager, TPHCM
367. Trần Văn Hữu Trí, sinh viên, Điện Bàn, Quảng Nam
368. Trần Đình Thắng, cựu giảng viên, TPHCM
369. Hoàng Thị Dạ Thư, biên tập viên, Huế
370. Bùi Kế Nhãn, cựu chiến binh, cựu Thanh niên Xung phong, TP Vũng Tàu
371. Lưu Anh Tuấn, người lao động, Warsaw, Ba Lan
372. Vũ Hải Long, TSKH, quận 3, TPHCM
373. Đỗ Đình Oai, giáo viên, Quảng Ngãi
374. Nguyễn Phong, Electronics Engineer, California, Hoa Kỳ
375. Nguyễn Hoàng Nhựt, Cử nhân Công nghệ Thông tin, Mỹ Tho, Tiền Giang
376. Nguyễn Ngọc Lý, Bắc Giang
377. Võ Hoàng Quỳnh, giáo viên, quận 5, TPHCM
378. Phan Nhật Tín, sinh viên, Đà Nẵng
379. Nguyễn Thị Kim Thái, phường Hồng Gai, Hạ Long, Quảng ninh
380. Tư Đồ Tuệ, Toronto, Canada
381. Nguyễn Thị Thanh Hoa, Hà Nội
382. Hao Nhu Phan Anthony, California, Hoa Kỳ
383. Tô Oanh, giáo viên THPT, đã nghỉ hưu, Bắc Giang
384. Lê Hạnh, kỹ sư, Hà Nội
385. Nguyễn Văn Chinh, nhân viên thiết kế công ty TNHH Emtopia Việt Nam, Đông Anh, Hà Nội
386. Kimthoa Thị Ngo, chủ tiệm kinh doanh, California, Hoa Kỳ
387. Tuyet Anh Jethwa, Cử nhân Kinh tế Ngoại thương, Hà Nội
388. Trịnh Quốc Việt, kỹ sư, Hà Nội
389. Trần Thu Dung, nhà nghiên cứu văn hóa, Pháp
390. Hoàng Thanh Vĩnh Phong, họa sĩ, Hội An
391. Lê Hồng Hà, công nhân, bang Washington, Hoa Kỳ
392. Đặng Trần Tùng, kiểm toán viên, Hà Nội
393. Nguyễn Mậu Quân, hưu trí, Quảng Bình
394. Nguyễn Lê Thanh Thảo, dược sĩ, Hà Nội
395. Trần Ngọc Báu, Fribourg, Thụy Sĩ
396. Huỳnh Kim-Giám, M.D., Hoa Kỳ
397. Thái Thành Cương, kỹ sư, Tân Bình, TPHCM
398. Trần Minh Xuân, GS, đã nghỉ hưu, California, Hoa Kỳ
399. Hồ Văn Nhãn, giáo viên hưu trí, TPHCM
400. Phạm Duy Quí, xích lô, Sài Gòn
401. Trịnh Kim Thuấn, nông dân, Chợ Mới, An Giang
402. Huỳnh Công Thuận, blogger, cựu quân nhân, Sài Gòn
403. Võ Thị Thanh Hải, giáo viên, Sài Gòn
404. Võ Thị Hải Hòa, chuyên viên tư vấn độc lập, TPHCM
405. Nguyễn Hoàng Công, Thạc sĩ Khoa học Kỹ thuật, Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam, Hà Nội
406. Trần Thế Việt, nguyên Bí thư Thành ủy Đà Lạt, Lâm Đồng
407. Trần Thanh Ngọc Ánh, sinh viên, Hanover, CHLB Đức
408. Bùi Văn Mạnh, Cử nhân kinh tế, Chương Mỹ, Hà Nội
409. Vũ Ngọc Thăng, dịch giả, Canada
410. Võ Văn Cường, nhân viên kinh doanh, TPHCM
411. Trần Quang Ninh, giảng viên đại học, TPHCM
412. Trần Ngọc Tuấn, nhà văn, nhà báo, Cộng hòa Czech
413. Nguyễn Thanh Loan, Gò Vấp, TPHCM
414. Đặng Mai Lan, nhà văn, Paris, Pháp
415. Hồ Thị Thu Hường, kế toán, Thanh Trì, Hà Nội​
416. Lê Anh Phong, đại diện Thiểu số Việt trong Ủy ban tỉnh Karlovy Vary, Cộng hòa Czech
417. Trần Văn Khoản, hưu trí, Vũng Tàu
418. Đặng Xuân Thảo, Directeur de Recherche CNRS, Viện Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp, Pháp
419. Đỗ Bảo Trung, kinh doanh, Hà Nội
420. Long Dang, Cộng hòa Czech
421. Trần Đăng Khoa, kinh doanh, Hà Nội
422. La Thúy Ngoan, designer, Hà Nội
423. Trần Tuấn Anh (Ken), Công ty Mychemist, Australia
424. Nguyễn Tấn Hưng, nghiên cứu sinh, TPHCM
425. Nguyễn Thị Ngọc Trai, nhà văn, nhà báo, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội
426. Nguyễn Hả Hùng Chương, giảng viên, TPHCM
427. Trần Văn Tùng, PGS TS Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
428. Phạm Gia Thắng, người Việt tỵ nạn tại Tokyo, Nhật Bản
429. Nguyen Thi Ven, Adelaide, Australia
430. Nguyễn Phương Thùy, luật sư, Phần Lan
431. Võ Quang Dũng, kinh doanh, CHLB Đức
432. Cao Nam Long, Praha, Cộng hòa Czech
433. Trần Thị Thanh Mai, kế toán, Hà Nội
434. Nguyễn Đức Hạnh, kỹ sư, Hà Nội
435. Hà Huy Sơn, luật sư, Công ty Luật TNHH Hà Sơn, Cầu Giấy, Hà Nội
436. Nguyễn Thị Thương, nhân viên văn phòng, Hải Phòng
437. Đặng Xương Hùng, Thụy Sĩ
438. Nguyễn Thành Long, kinh doanh, Brno, Cộng hoà Czech
439. Nguyễn Minh Khanh, kỹ sư Tin học, Paris
440. Đào Đình Bình, kỹ sư hưu trí, Hà Nội
441. Nguyễn Thiện Nhân, kế toán, Bình Dương
442. Nguyễn Phước, kinh doanh, Đà Nẵng
443. Trịnh Quang Công, sinh viên, Hà Nội
444. Ngô Đức Thọ, PGS TS Ngữ văn Hán Nôm, Ba Đình, Hà Nội
445. Phạm Đặng Thái Minh, kiến trúc sư, Hai Bà Trưng, Hà Nội
446. Hồ Văn Quang, sinh viên trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng, Đà Nẵng
447. Nguyễn Cường Anh, kỹ sư, Hà Nội
448. Hà Đình Lực, kỹ sư, Hà Nội
449. Võ Thị Hảo, nhà văn, Berlin, CHLB Đức
450. Đặng Đình Cung, kỹ sư tư vấn, Pháp
451. Dương Tường, nhà thơ, Hà Nội
452. Hoàng Thị Như Hoa, bộ đội đã nghỉ hưu, Hà Nội
453. Nguyễn Quốc Bình, Phó Tổng giám đốc công ty Cổ phần Kỹ thuật Môi trường, Tân Bình, TPHCM
454. Hồ Sỹ Hải, kỹ sư đã nghỉ hưu, Hà Nội
455. Nguyễn Quốc Dũng, nghiên cứu sinh, Cologne University, CHLB Đức
456. Lê Văn Chinh, kỹ sư Xây dựng, Đà Nẵng
457. Đặng Hồng Phương, đã nghỉ hưu, Sài Gòn
458. Lê Chiến Thắng, hưu trí, CHLB Đức
459. Nguyễn Hữu Thanh, công nhân, quận10, Sài Gòn
460. Ngô Đăng Vinh, kinh doanh, Hà Nội
461. Ngô-Anh Tuấn, kỹ sư Điện toán, đã nghỉ hưu (IBM R&D), Hà Lan
462. Trần Văn Hoàn, hưu trí, Vụ Bản, Nam Định
463. Đinh Nam Thang, kỹ sư kinh tế, Cộng hòa Czech
464. Lưu Thị Quyên, Czech
465. Mai Thành Nam, sinh viên nhạc viện Aubervilliers, Cộng hoà Pháp
466. Ta Quang Duoc, Thạc sĩ Môi trường và Năng lượng Tái tạo, Gifu University, Nhật Bản
467. Lê Như Nhất, kiến trúc sư, Hà Nội
468. Đặng Đăng Phước, giáo viên, Đăk Lăk
469. Phan Thanh Tuấn, cán bộ về hưu, TPHCM
470. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu văn học, Hà Nội
471. Lư Văn Bảy, nghề tự do, Kiên Giang
472. Nguyễn Văn Tạc, giáo học hưu trí, Hà Nội
473. Trần Kim Long, công nhân, CHLB Đức
474. Bảo Giang, nhà văn, Australia
475. Chu Thị Thanh Hà, free lancer, Sài Gòn
476. Lê Văn Hai, kỹ sư, Hội Cựu chiến binh Việt Nam tại Hungary
477. Đỗ Thanh Đại, nhân viên văn phòng, TPHCM
478. Trần Minh Khôi, kỹ sư Điện toán, Berlin, CHLB Đức
479. Nguyễn Hồng Tiến, kỹ sư Khoa học Máy tính, Phú Nhuận, TPHCM
480. Hoàng Thị Nhật Lệ, hưu trí, Bình Thạnh, TPHCM
481. Trần Quang, kỹ sư, Đông Hà, Quảng Trị
482. Anh Chi, nhà thơ, Hà Nội
483. Trần Xuân Toàn, kinh doanh, Hà Nội
484. Phạm Huy Thông, TS, Phó Trưởng ban Tư duy Tôn giáo, Trung tâm Khoa học Tư duy (CTS), Hà Nội
485. Nguyễn Tiến Đức, kỹ sư Công trình Cảng - Đường thủy, đã nghỉ hưu, TPHCM
486. Văn Phú Mai, kinh doanh, Quảng Nam
487. Nguyễn Xuân Thọ, kỹ sư truyền thông, Cologne, CHLB Đức
488. Mau Le, engineer, Orlando, Hoa Kỳ
489. Phạm Minh Hoàng, cựu giảng viên Đại học Bách khoa TPHCM, Sài Gòn
490. Lê Đức Quang, TS, giảng viên Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế
491. Nguyễn Tâm, kỹ sư Điện cơ, TPHCM
492. Tạ Hoàng Lân, Cheb, Cộng hòa Czech
493. Huỳnh Thị Kim Liên, thường dân, Sài Gòn
494. Nguyễn Hồng Khoái, Hà Nội
495. Kiều Mai Sơn, nhà báo, Hà Nội
496. Huỳnh Gia Vũ, kỹ sư Xây dựng, Vancouver, Canada
497. Trần Viết Dung, nhân viên, Sydney, Australia
498. Nguyễn Điền, Canberra
499. Võ Thị Thu Thủy, Quảng Ngãi
500. Nguyen Duc Quyet, kỹ sư Xây dựng, Munich, CHLB Đức
501. Nguyễn Anh Minh, kỹ sư, London, Anh Quốc
502. Trần Thu Thủy, nội trợ, sống ở CHLB Đức
503. Trần Văn Cung, kỹ sư luyện thép, nghỉ hưu, CHLB Đức
504. Hoàng Minh Đề, kỹ sư Điện, Quảng Nam
505. Đoàn Văn Nhân, quận 1, TPHCM
506. Lê Đình Phương, bác sĩ, Sài Gòn
507. Đinh Ngọc, doanh nghiệp tư nhân, Praha, Cộng hòa Czech
508. Bửu Nam, PGS TS, Huế
509. Đỗ Quang Huy, kiến trúc sư, TPHCM
510. Nguyễn Thị Thanh Loan, nhân viên kinh doanh, TPHCM
511. Đinh Lê Na, Thạc sĩ, viên chức, Gia Lai
512. Châu Ngọc Đáo, nhân viên, thành phố Long Xuyên, An Giang
513. Nguyễn Văn Dũng, nhà giáo, TP Huế
514. Trần Xuân Quang, Vinh, Nghệ An
515. Đoàn Văn Tiết, nhà giáo, Sài Gòn
516. Phạm Ngọc Cảnh Nam, nhà văn, Đà Nẵng
517. Nguyễn Thị Thanh Xuân, giảng viên, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM
518. Nguyen Doan Truong, Praha, Cộng hòa Czech
519. Phạm Văn Khá, Tân Bình, TPHCM
520. Đặng Trần Quý, hưu trí, Everett, Washington, Hoa Kỳ
521. Le Thi Phi Van, chuyên gia Kinh tế Nông nghiệp, Hà Nội
522. Lê Thị Kiều Oanh, nội trợ, Sài Gòn
523. Bùi Như Hương, nhà nghiên cứu phê bình mỹ thuật, Hà Nội
524. Trần Minh Thảo, sinh viên, Đại học Oxford, Anh Quốc
525. Kiều Việt Hùng, kiến trúc sư, Hoa Lư, Ninh Bình
526. Nguyễn Văn Hiệp, du học sinh, Advanced Institute of Science and Technology (KAIST), Hàn Quốc
527. Trần Trọng Giang, chung cư Conic, Sài Gòn
528. Vũ Quang Chính, nhà lý luận phê bình phim, Hà Nội
529. Ha Tran, retired physician, Canada
530. Huỳnh Tấn Mẫm, TS, BS, nguyên Chủ tịch Tổng Hội sinh viên Sài Gòn, nguyên Tổng Biên tập báo Thanh niên, hiện là Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc TPHCM, Phó Chủ tịch Hội Bảo trợ Bệnh nhân nghèo TPHCM
531. Nguyễn Tuấn Hiệp, lao động tự do, Vinh, Nghệ An
532. Trần Thị Tuyết, lao động tự do, Vinh, Nghệ An
533. Kim Ngọc Cương, chuyên viên kinh tế, đã nghỉ hưu, Hà Nội
534. Nguyễn Thị Nhân, Bố Trạch, Quảng Bình
535. Nguyễn Xuân Thiệp, nhà văn tự do (freelance writer), Texas, Hoa Kỳ
536. Vũ Thị Khánh Dần, TS Ngữ Văn, Hà Giang
537. Tran Thi Au Hanh, quản lý nhân sự, Thủ Đức, TPHCM
538. Hồ Thị Hoà, nghiên cứu sinh ngành Truyền thông, Paris, Pháp
539. Đỗ Trung Quân, nhà thơ, TPHCM
540. Phùng Thanh Tuyến, kiến trúc sư, Quảng Ngãi
541. Nguyễn Phương Hoa, giáo viên tự do, Gò Vấp, TPHCM
542. Hoàng Gia Vũ, kỹ sư phần mềm, Sài Gòn
543. Vũ Giang, Orange county, California, Hoa Kỳ
544. Hoàng Cơ Định, TS Hóa học, San Jose, California, Hoa Kỳ
545. Nguyen Giang, kỹ sư, Sài Gòn
546. Nguyễn Thị Hoài Hương, bác sĩ, Paris, Pháp
547. Trần Hải Hạc, nguyên PGS trường Đại học Paris 13, Paris, Pháp
548. Luong Van Dung, hướng dẫn viên du lịch quốc tế, Nam Từ Liêm, Hà Nội
549. Duong Ngoc Tu Uyen, họa sĩ, TPHCM
550. Nguyễn Thanh Cương, kinh doanh, Karlovy Vary, Cộng hòa Czech
551. Thái Văn Dung, cựu tù nhân lương tâm, Diễn Châu, Nghệ An
552. Nguyễn Kim Sơn, TS Hóa học, Hemsbach, CHLB Đức
553. Nguyễn Thị Vân, Hemsbach, CHLB Đức
554. Nguyễn Văn Hòa, kỹ sư Điện, CHLB Đức
555. Nguyễn Thị Kiều Phương, nhà báo, Sài Gòn
ĐỢT 3
556. Trịnh Y Thư, nhà thơ, Hoa Kỳ
557. Nguyễn Văn Lộc, Nam Úc Tuần Báo
558. Hiep Tran, machine operator, Hoa Kỳ
559. Đỗ Xuân Quý, cựu công dân miền Trung Việt Nam, California, Hoa Kỳ
560. Trần Thu Hương, nhân viên Ngân hàng Agribank, Hà Nội
561. Hồ Quang Huy, kỹ sư đường sắt, TP Nha Trang, Khánh Hòa
562. Phan Hoàng My, Vancouver, Canada
563. Tran Thi Bao Anh, kỹ sư, Cộng hòa Czech
564. Trần Viết Tuyên, kiến trúc sư về hưu, CHLB Đức
565. Tôn Nữ Ngọc Diệp, kỹ sư về hưu, CHLB Đức
566. Lê Bá Diễm Chi (Song Chi), nhà báo tự do, Oslo, Na Uy
567. Hoàng Phong Tuấn, TS, TPHCM
568. Chau Vo, kỹ sư, quận Tân Bình, TPHCM
569. Ngô Đắc Lợi, nhạc sĩ, Cần Thơ
570. Tạ Thị Phi Hằng, về hưu, Hà Nội
571. Pham Quynh Huong, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Xã hội học, Hà Nội
572. Nguyễn Hữu Tiến, San Francisco, California, Hoa Kỳ
573. Chu Minh Toàn, Thạc sĩ Công nghệ Thông tin, Lyon, Pháp
574. Nguyễn Thị Thu Hương, giáo viên, Nha Trang
575. Nguyen Phuc Thanh, dịch giả, Sài Gòn
576. Nguyễn Trọng Cương, giáo viên, Quảng Ninh
577. Nguyễn Thị Thu Hương, Malden, Hoa Kỳ
578. Nghiêm Sĩ Cường, kinh doanh, Hà Nội
579. Lê Nhiên, giáo viên, TPHCM
580. Chu Văn Sơn, nhà phê bình văn học, Đại học Sư phạm Hà Nội
581. Vũ Bích Chi, điều phối viên, Hà Nội
582. Chu Văn Khang, cán bộ hưu trí, quận 7, Sài Gòn
583. Lương Nguyễn Khoa Trường, kỹ sư Cơ khí nghỉ hưu, Hà Nội
584. Nguyễn Thị Yến, giảng viên tiếng Anh, Tân Phú, TPHCM
585. Nguyễn Phương Chi, nguyên biên tập viên chính, Hà Nội
586. Trần Đình Nam, nguyên biên tập viên, Hà Nội
587. Ngô Kiều Oanh, TS, nguyên cán bộ Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam, Hà Nội
588. Lê Mạnh Hùng, kỹ sư, CHLB Đức
589. NguyễnThiện Công, kỹ sư cơ khí hãng Mercedes Benz Düsselorf, CHLB Đức
590. Bùi Xuân Huy, dược sĩ, huyện Bình Chánh, Sài Gòn
591. Matthew Nguyễn Hường, hướng dẫn viên du lịch nói tiếng Pháp
592. Ngô Chí Nhân, quận Phú Nhuận, Sài Gòn
593. Nguyễn Thúy Mai, kỹ sư, Hà Nội
594. Trần Hữu Khánh, hưu trí, TPHCM
595. Uyên Vũ, nhà báo, Garden Grove, California, Hoa Kỳ
596. Le Thanh Hiep, kinh doanh, TPHCM
597. Nguyễn Thị Túy Vân, nội trợ, TPHCM
598. Phan Thị Công Minh, giảng viên, Đại học Ngoại Ngữ và Tin học TPHCM
599. Trần Thị Diễm Chi, nội trợ, TPHCM
600. Trần Ngọc Khánh, nhân viên văn phòng, TPHCM
601. Trương Đại Nghĩa, Stanton, California, Hoa Kỳ
602. Hoàng Nguyễn Thụy Khê, quản trị nhân sự, quận 2, Sài Gòn
603. Johnny Nguyen, Fremont, California, Hoa Kỳ
604. Trần Khắc Oai, sinh viên, Đà Lạt
605. Nguyễn Ngọc Đức, kỹ sư Tin học, Pháp
606. Vũ Mạnh Hùng, nguyên giảng viên trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Thương mại, hiện là cán bộ quản lý khu nội trú, Thanh Xuân, Hà Nội
607. Phạm Tiến Đạt, kỹ sư Xây dựng, quận Tân Bình, TPHCM
608. Nguyễn Kim Sơn, TS Hóa học, CHLB Đức
609. Tống Văn Công, nhà báo, TPHCM
610. Phùng Thanh Tuyến, kiến trúc sư, công việc thiết kế tự do, Quảng Ngãi
611. Dinh Tri, về hưu, Atlanta, Georgia, Hoa Kỳ
612. Duc Dinh, sinh viên, Atlanta, Georgia, Hoa Kỳ
613. Minh Dinh, sinh viên, Atlanta, Georgia, Hoa Kỳ
614. Di Dang, về hưu, Atlanta, Georgia, Hoa Kỳ
615. Vũ Việt Hà, cán bộ nghiên cứu đã nghỉ hưu, chuyên ngành Sinh học Môi trường, Trung tâm Bảo vệ Môi trường, Viện Kỹ thuật Nhiệt đới và Bảo vệ môi trường, TPHCM
616. Trần Công Khánh, về hưu, Lê Chân, Hải Phòng
617. Pham Anh Tuan, Cộng hòa Czech
618. Phạm Khiêm Ích, nhà nghiên cứu khoa học, nguyên Phó Viện trưởng Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội
619. Cao Thị Nhung, giảng viên khoa Hóa, Đại học Bách khoa TPHCM
620. Lê Thắng, Cộng hòa Czech
621. Huyền Lâm, nhà thơ, Hoa Kỳ
622. Đỗ Thục Hiền, Pháp
623. Hoàng Xuân Sơn, làm thơ, Canada
624. Công Tằng Tôn Nữ Bích Phượng, Đà Nẵng
625. Đào Văn Bính, cán bộ nghỉ hưu, Hà Nội
626. Trần Quốc Vũ, công nhân, CHLB Đức
627. Nguyễn Đắc Thắng, kỹ sư Hóa học, Genève, Thụy Sĩ
628. Nguyễn Hoàng, kĩ sư công nghệ thông tin hưu trí, Hoa Kỳ
629. Nguyen Thinh Le, giảng viên Đại học Humboldt-Universität zu Berlin, CHLB Đức
630. Tran Quoc Tuan, kinh doanh quần áo, CHLB Đức
631. Nguyễn Thị Diệp Thúy, Hoa Kỳ
632. Huynh Bich Ngoc, CHLB Đức
633. Phan Anh Hồng, kiểm soát thuế vụ, Dallas, TX, Hoa Kỳ
634. Phạm Thị Thảo, nhà giáo nghỉ hưu, Hoa Kỳ
635. Hoàng Văn Khẩn, TS Sinh hoá học, Genève, Thụy Sĩ
636. Đài Đoàn, chủ tiệm Spa, Georgia, Hoa Kỳ
637. Nguyễn Lưu, Almere, Hà Lan
638. Khanh Lan, doanh nhân, Cộng hòa Czech
639. Trần Thanh Bình, kỹ sư, Italia
640. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, Đại học Đà Nẵng
641. Vũ Thế Cường, TS Cơ khí, CHLB Đức
642. Nguyễn Th Hiền, CHLB Đức
643. Đỗ Nguyễn Đông Khánh, kỹ sư phần mềm, Stuttgart, CHLB Đức
644. Lê Ngọc An, cựu giáo viên, Đà Nẵng
645. Đỗ Minh Tuấn, Nghệ sĩ Ưu tú, nhà văn, đạo diễn, Hà Nội
646. Nguyen Thanh Trang, Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam, San Diego, California, Hoa Kỳ
647. Dennis Nguyễn Ph.D, bác sĩ, California, Hoa Kỳ
648. Kim Thái Quỳnh, Lyon, Pháp
649. Nguyễn Trọng Hoàng, TSVật lý, Frankfurt, CHLB Đức
650. Nguyễn Bá Dũng, kỹ sư, Hà Nội
651. Nguyễn Bá Trinh, TS, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
652. Nguyen Bao, GS Điện tử, California, Hoa Kỳ
653. Lương Ngọc Châu, kỹ sư Điện toán (hưu trí), Mainz, CHLB Đức
654. Ha Nguyen, California, Hoa Kỳ
655. Nguyễn Hữu Thái, giảng viên đại học, TS Toán, CHLB Đức
656. Nguyễn Hữu Huy, TS Xây dựng, TPHCM
657. Trang Nguyen (Nguyễn Thị Thuỳ Trang), TS, làm việc cho chính phủ Australia
658. Nguyễn Vĩnh Tráng, TS Toán Ứng dụng, đã về hưu, Pháp
659. Cù Huy Hà Vũ, TS Luật, Đại học Luật Northwestern, Hoa Kỳ
660. Nguyễn Thị Dương Hà, luật sư, Hà Nội
661. Nguyễn Quang Lập, nhà văn, Sài Gòn
662. Trịnh Đình Hoà, Hà Nội
663. Võ Văn Rân, hưu trí, Walled Lake, Michigan, Hoa Kỳ
664. Nguyễn Văn Ký, kỹ sư hóa, trợ lý nghiên cứu cho giáo sư, Seoul, Hàn Quốc
665. Đỗ Hùng, nhà văn, Atlanta, Georgia, Hoa Kỳ
666. Trương Khánh Ngọc, kỹ sư Xây dựng, Huế
667. Dương Tùng, chăn nuôi, Thuận An, Bình Dương
668. Nguyễn Văn Thông, hoạt động nhân quyền, Nghệ An
669. Nguyễn Đình Nguyên, cán bộ hưu trí, Phú Lợi, Bình Dương
670. Phạm Lưu Vũ, kỹ sư, viết văn tự do, Tây Hồ, Hà Nội
671. Ngô Ngọc Hà, Thủ Dầu Một, Bình Dương
672. Hoàng Tấn Trung, nhà thơ, nhà thư pháp, Quảng Trị
673. Lê Văn Duyệt, lao động tự do, Quảng Trị
674. Nguyễn Đức Dương, nghiên cứu tiếng Việt, TPHCM
675. Mai Xuân Đông, TS Hóa học, Hà Nội
676. Đoàn Quỳnh Như, Hamburg, CHLB Đức
677. Ngô Thái Văn, Hoa Kỳ
678. Đào Tăng Lực, kiến trúc sư, TPHCM
679. Huỳnh Kim Ân, kỹ sư xây dựng, Thủ Đức, TPHCM
680. Ngụy Hữu Tâm, TS Vật lý, dịch giả, Hà Nội
681. Cao Lập, hưu trí, Hoa Kỳ
682. Mai Dung, Đà Nẵng
683. Đỗ Thị Kim Chi, giảng viên, TPHCM
684. Phạm Thị Thu Hương, kỹ sư nông nghiệp, Viện Cây lương thực Cây thực phẩm Liên Hồng, Gia Lộc, Hải Dương
685. Bắc Phong, nhà thơ, Canada
686. Bùi Oanh, hưu trí, TPHCM
687. Trang Nguyên, TS Giáo dục học, Australia
688. Phạm Minh Vũ, sinh viên, Quảng Trị
689. Nguyễn Đức Long, Ba Đình, Hà Nội
690. Lê Minh Đức, kỹ Sư, Sài Gòn
691. Nguyễn Thanh Thủy, Vinh, Nghệ An
692. Nguyễn Tiến Dũng, Vinh, Nghệ An
693. Lê Ngọc Tâm, kỹ sư, TPHCM
694. Nguyễn Thị Hồng (tức bà Nguyễn Văn Mậu – tên chồng), Cachan, Pháp
695. Trần Văn Long, Cachan, Pháp
696. Bùi Thu, nội trợ, Sài Gòn
697. Nguyễn Tiến Thư, kỹ sư xây dựng, Sài Gòn
698. Nguyễn Quang Nhàn, cán bộ hưu trí, Đà Lạt
699. Nguyễn T. Việt, quận 3, TPHCM
700. Phan M.Loan, quận 3, TPHCM
701. Nguyễn T.Vinh, quận 3, TPHCM
702. Nguyễn T.Ly, quận 3, TPHCM
703. Nguyễn Thượng Long, dạy học và viết báo, Hà Đông, Hà Nội
704. Hương Nam, Sydney, Australia
705. Võ Văn Cường, thầy thuốc Đông y, Biên Hoà, Đồng Nai
706. Nguyen Van Luong, TS, chuyên gia kinh tế Quốc tế, Florida, Hoa Kỳ
707. Võ Đăng Khoa, JD. Houston, Texas, Hoa Kỳ
708. Tran Anh Chuong, kỹ sư, Ph.D, Hoa Kỳ
709. Nguyễn Quang Tuấn, linh mục giáo phận Vinh, Nhà thờ Trang Cảnh, Nghi Xuân, Nghi Lộc, Nghệ An
710. Nguyễn Văn Dương, hưu trí, Hà Nội
711. Hồ Quốc Minh Huy, học sinh, Los Angeles, Hoa Kỳ
712. Nguyễn Hồng Cúc, nghiên cứu độc lập, Sài Gòn
713. Phạm Anh Tuấn, dịch giả, dạy học, Hà Nội
714. Lữ Thị Tường Uyên, trị liệu tâm lý, Hà Lan
715. Dương Viết Đạo, Cử nhân kinh tế, Cần Thơ
716. Trần Van Thanh, cán bộ phòng Tài chính - Kế hoạch, Triệu Phong, Quảng Trị
717. Trần Đình Am, TS, Ottawa, Canada
718. Hoàng Vũ Linh, học sinh, Kỳ Anh, Hà Tĩnh
719. Đinh Hữu Tuấn Vũ, Hà Tĩnh, tạm trú Sài Gòn
720. Nguyễn Ngọc Sẵng, Ph. D, hưu trí, Hoa Kỳ
721. Vũ Thị Thu Nhi, Thạc sĩ Kỹ thuật Môi trường, TPHCM
722. Nguyễn Quang Trường, hưu trí, Kolding, Đan Mạch
723. Trần Đức Thạch, nhà thơ, cựu tù nhân lương tâm, Nghệ An
724. Nguyễn Ngọc Diệp, hưu trí, Cầu Giấy, Hà Nội
725. Linh Vong, sinh viên, New Jersey, Hoa Kỳ
726. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức yêu nước TPHCM
727. Trần Quang Vinh, lái xe, Đà Nẵng
728. Don Vo, Fountain Valley CA, Hoa Kỳ
729. Võ Đình Ngoạn, Maryland, Hoa Kỳ
730. Trần Minh Nhật, phóng viên, cựu tù nhân lương tâm, Lâm Đồng
731. Tống Thùy Trang, kinh doanh, TPHCM
732. Nguyễn Thanh Tân, dạy học, Sài Gòn
733. Nguyễn Thị Bích Hạnh, giáo viên, quận 3, TPHCM
734. Trần Đình Ky, Barrie, Ontario, Canada
735. Dinh Thị Xuyến, Barrie, Ontario, Canada
736. Phan Văn Phong, Hoàn Kiếm, Hà Nội
737. Hà Khánh Linh, kế toán, Tây Hồ, Hà Nội
738. Nguyen B. Dong, hưu trí, Hoa Kỳ
739. Ken Nguyen, hưu trí, Hoa Kỳ
740. Vũ Thu Giang, cán bộ hưu trí, Hà Nội
741. Nguyễn Đăng Nghĩa, TS Nông nghiệp, Trung tâm Nghiên cứu & Tư vấn Nông nghiệp Nhiệt đới, quận 1, TPHCM
742. Nguyễn Liên Phương, hưu trí, quận Tân Bình, Sài Gòn
743. Ngô Văn Hiền, kỹ sư, Sài Gòn
744. Bùi Văn Phú, nhà giáo, nhà báo, California, Hoa Kỳ
745. Nguyễn Chính, về hưu, Hoa Kỳ
746. Nguyễn Đôn Phước, dịch giả, TPHCM
747. Phan Văn Lưu, kinh doanh, Sài Gòn
748. Nguyễn Văn Nghiêm, thợ hớt tóc, TP Hòa Bình, Hòa Bình
749. Duong Le, kỹ sư, Pamdale, California, Hoa Kỳ
750. Nguyễn Thị Ngọc Giao, Virginia, Hoa Kỳ
751. Chu Tất Tiến, nhà văn, Thạc sĩ Khoa học, California, Hoa Kỳ
752. Uông Đình Đức, kỹ sư cơ khí đã nghỉ hưu, quận 1, TPHCM
753. Đặng Hoàng Hùng, nhân viên, Sài Gòn
754. Chu Minh Thức, nhân viên văn phòng, TPHCM
755. Trương Kim Long, cư sĩ, Lấp Vò, Đồng Tháp
756. Trần Văn Thiệp, cư sĩ, Lấp Vò, Đồng Tháp
757. Tô Văn Mảnh, cư sĩ, Lấp Vò, Đồng Tháp
758. Đặng Thành Tân, cư sĩ, Lấp Vò, Đồng Tháp
759. Lưu Văn So, cư sĩ, Lấp Vò, Đồng Tháp
760. Nguyễn Văn Dẽo, cư sĩ, Phú Tân, An Giang
761. Nguyễn Vũ Tâm, cư sĩ, Châu Phú, An Giang
762. Đặng Văn Ngoãn, cư sĩ, Chợ Mới, An Giang
763. Tri Nguyễn, công chức Bộ Y tế, Australia
764. Nguyễn Thạch Cương, TS Nông nghiệp, đã nghỉ hưu, Hà Nội
765. Andy Vu, công nhân, Sydney, Australia
766. Nguyen Dang Khoa, kỹ sư Điện, Washington State, Hoa Kỳ
767. Nguyễn Hữu Chiến, TS Toán, Hà Nội
768. Hoàng Quý Thân, TS, hưu trí, Hà Nội
769. Trần Thoại Nguyên, thi sĩ, Sài Gòn
770. Võ Việt Linh, cựu Thanh niên xung phong Thành phố Hồ Chí Minh, Gò Vấp, Sài Gòn
771. Hồ Uy Liêm, cán bộ khoa học về hưu, Hà Nội
772. Phí Mạnh Hồng, PGS TS Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
773. Đặng Văn Sinh, nhà văn, Hải Dương
774. Đỗ Nam Trung, lao động tự do, Hà Nội
775. Nguyễn Khắc Bá, linh mục, giáo phận Vinh
776. Đoàn Đình Hoàng, giảng viên, Sài Gòn
777. Petrus Nguyễn Văn Hương, Đại chủng viện Vinh Thanh, Nghi Diên, Nghi Lộc, Nghệ An
778. Nguyễn Văn Phượng, lao động tự do, TP Lai Châu, Lai Châu
779. Trần Thị Vân Lương, nội trợ, Hà Nội
780. Uông Đắc Đạo, cử nhân Luật, hưu trí, Hoa Kỳ
781. Lê Hưng, Garden Grove, California, Hoa Kỳ
782. Nguyễn Khánh Linh, sinh viên, biên/phiên dịch viên tự do, Hà Nội
783. Nguyễn Thị Thúy, kinh doanh tự do, quận Bình Thạnh, TPHCM
784. Huynh Nhat Tan, Đà Lạt
785. Ken Nguyen, Banking retiree, California, Hoa Kỳ
786. Mã Lam, nhà thơ, TPHCM
787. Phan Đông Bích, kỹ sư, cựu Chủ tịch Cộng đồng người Việt Tự do Úc Châu/NSW, Sydney, Australia
788. Võ Thanh Hùng, Pleiku, Gia Lai
789. Su Mai, công nhân, Houston, Texas, Hoa Kỳ
790. Nguyễn Khắc Nhượng, nhà báo, TPHCM
791. April Lương, sinh viên trường Đại học Monash, Melbourne, Victoria, Australia
792. Hà Thúc Huy, PGS TS Hóa học, giảng viên, Sài Gòn
793. Nguyễn Quang Đạo, Melbourne, Australia
794. Trần Văn Huynh, Melbourne, Australia
795. Pham Van Hoi, TS, Hà Nội
796. Tran Hung, kỹ sư, CHLB Đức
797. Pham Duy Lương, thông dịch viên tiếng Việt, Cộng hòa Czech
798. Trần Số Mười, sinh viên, Kỳ Anh, Hà Tĩnh
799. Đoàn Viết Hiệp, kỹ sư Điện toán, Anton, Pháp
800. Hồ Minh Phương, nhân viên thiết kế, TPHCM
801. Ngô Thị Thu Huyền, kỹ sư, Hà Nội
802. Nguyen Thanh Binh, Director, Nhật Bản
803. Le Thanh Loi, kỹ sưvề hưu, CHLB Đức
804. Hoàng Minh Tuấn, kỹ sư, lao động tự do, quận 3, Sài Gòn
805. Lê Quang Huy, công dân Việt Nam, Sài Gòn
806. Lê Tiến Dũng, giáo viên, Bình Phước
807. Phùng Thị Mến, sinh viên, TPHCM
808. Nguyễn Ngọc Xuân, làm vườn, Xuyên Mộc, Bà Rịa Vũng Tàu
809. Ngô Thị Kim Xuyến, giám đốc công ty TNHH, Vương quốc Anh
810. Trần Đức Cường, linh mục, Đà Nẵng
811. Phan Châu Danh, kinh doanh tự do, Bỉ
812. Tran Van Tan, kỹ sư, Berlin, CHLB Đức
813. Phan Đức Thông, hưu trí, Augsburg, CHLB Đức
814. Dương Thị Tuyết Mai, TPHCM
815. Nguyễn Kỳ Nam, nhiếp ảnh, Hà Nội
816. Trần Trọng Cảm, bác sĩ Bệnh viện quận Tân Phú, TPHCM
817. Trương Thanh Đạm, Dr. (hưu trí), Hà Lan
818. Lưu Hồng Thắng, công nhân, Morgan City, Los Angeles, Hoa Kỳ
819. Nguyễn Hữu Minh, dược sĩ, Hóc Môn, TPHCM
820. Nguyễn Trần Hải, người lao động về hưu, Hải Phòng
821. Nguyễn Chữ, kỹ sư Tin học tự động công nghiệp, Torino, Italia
822. Trương Ngọc Viễn, kỹ sư Xây dựng, Thủ Đức, TPHCM
823. Nguyễn Thanh Loan, kỹ sư Hóa học, Sài Gòn
824. Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội
825. Bùi Thị Hạnh, lao động tự do, Thủy Nguyên, Hải Phòng
826. Dương Sanh, cựu giáo chức, Vạn Ninh, Khánh Hòa
827. Nguyễn Hoàng Quân, kỹ sư, Sài Gòn
828. Nguyễn Đăng Khoa, giảng viên ngoại ngữ trường kỹ sư INSA, Lyon, Pháp
829. Anh Vu Ngo, nhà báo, Da Nang Daily Newspaper, Đà Nẵng
830. Trần Kế Dũng, Electrolux, Australia
831. Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, TPHCM
832. Hồ Nhật Minh, lao động tự do, Biên Hòa, Đồng Nai
833. Tran Kim Thanh, hưu trí, Hà Nội
834. Nguyễn Chí Trung, công chức, Sở Giao thông Vĩnh Phúc, TP Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc
835. Triệu Sang, làm ruộng, Sóc Trăng
836. Ngo Kim Dung, bác sĩ, Pháp
837. Lê Văn Tài, nhân viên quản lý, Quy Nhơn
838. Trần Ngọc Trình, nghiên cứu sinh, CHLB Đức
839. Trần Ngọc Tiến, nông dân, Đà Lạt, Lâm Đồng
840. Anh Tuan Ta, kỹ sư Môi trường, Bangkok, Thái Lan
841. Vũ Hải Hà, nhân viên văn phòng, Hà Nội
842. Hồ Ngọc Nhuận, nhà báo, Sài Gòn
843. Tran Bao, giáo viên, Hà Nội
844. Pham M Khoi, giám đốc, quận 9, TPHCM
845. Lê Văn Thuyết, kỹ sư, TPHCM
846. Đặng Ngọc Quỳnh, cán bộ hưu trí, Hà Nội
847. Đỗ Trọng Nhân, nghề tự do, Ngô Quyền, Hải Phòng
848. Lê Vũ Hoàng Oanh, giáo viên, Quy Nhơn, Bình Định
849. Trần Thiện Phụng, chuyên gia Tin học, Thụy Sĩ
850. Nguyễn Thiện Phương Hạnh, Pianist, nguyên Phó Trưởng khoa piano Nhạc viện TPHCM, TPHCM
851. Nguyễn Thuy Georges, nhà giáo, nhà văn, đã về hưu, Pháp
852. Nguyễn Mạnh Thắng, kiến trúc sư, Hà Nội
853. Bùi Văn Chưởng, Tân Biên, Đồng Nai
854. Lê Duy Thiện, Brisbane, Australia
855. Nguyễn Quang Ngọc, kỹ sư, Hà Nội
856. Lê Thị Thanh Thuỷ, TS Y khoa, Osaka, Nhật Bản
857. Nguyễn Công Kiểm, bác sĩ, TPHCM
858. Nguyễn Hữu Toàn, kỹ sư Cầu đường, đã nghỉ hưu, Hà Nội
859. Bùi Phương Oanh, kế toán tài chính, đã nghỉ hưu, Hà Nội
860. Nguyễn Văn Thanh, Cử nhân kinh tế, Gò Vấp, Sài Gòn
861. Dương Tấn Trung, kỹ sư Điện toán, Sydney, Australia
862. Nguyễn Chính, luật gia, nhà báo, Nha Trang
863. Hoàng Văn Hoan, TS Thú y, Hà Nội
864. Nguyen Van Dinh, Montréal, Canada
865. Lê Thành Chung, kỹ sư Tin học tại ngân hàng Berliner Sparkasse (bang Berlin), Berlin, CHLB Đức
866. Phạm Văn Thành, công nhân cơ khí Pipe fitter, Ninh Bình
867. Võ Văn Giáp, kỹ sư Cơ khí, Mississauga, Ontario, Canada
868. Lê Mỹ Hạnh, công chức nghỉ hưu, Pháp
869. Luân Hoán, làm thơ, Montréal, Canada
870. Nguyễn Hải Vân, sinh viên, Hà Nội
871. Phan Kim Phẩm, ThS LC/MS Marketing Specialist, San Jose California, Hoa Kỳ
872. Nguyễn Quang Tùng, kỹ sư Xây dựng, Hà Nội
873. Nguyễn Văn Chung, kỹ sư, Sài Gòn
874. Trần Phong Vũ, nhà báo, thành viên Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam, California, Hoa Kỳ
875. Đăng Chương Ngạn, viết văn, Sài Gòn
876. Le Khanh Luan, TS Toán, quận 5, TPHCM
877. Song Thao, nhà văn, Canada
878. Hoàng Thị Thu Hiền, giáo viên, TPHCM
ĐỢT 4
879. Bùi Hương Lan, nhân viên công ty địa chính, Hà Nội
880. Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, Hà Nội
881. Nguyễn Đức Thanh, kinh doanh, quận Gò Vấp, TPHCM
882. Phạm Hoàn Vũ, kinh doanh, Sài Gòn
883. Phạm Trần, nhà báo, Hoa Kỳ
884. Nguyễn Đình Dũng, giảng viên, Hà Nội
885. Nguyễn Quốc Quân, cựu giáo chức, cựu tù nhân lương tâm, TS Toán, California, Hoa Kỳ
886. Phạm Hoàng Phiệt, GSbác sĩ (nghỉ hưu), quận 1, TPHCM
887. Nông Hùng Anh, nghề nghiệp tự do, TP Lạng Sơn, Lạng Sơn
888. Vương Chi Lan, thiết kế in ấn, trưởng phòng, quận 5, TPHCM
889. Vũ Thị Hòa, kế toán, Thủy Nguyên, Hải Phòng
890. Nguyen Ngoc Ha, California, Hoa Kỳ
891. Nguyễn Duy Khánh, kỹ sư Điện tử Viễn thông, quận 8, TPHCM
892. Mai Văn Rê, Tân Phú, Sài Gòn
893. Đoàn Minh Nhật, kỹ sư, Thạc sĩ chuyên ngành structual engineering, Westminster, Hoa Kỳ
894. Nguyen Tuat Thanh Anh, sinh viên, Quảng Ngãi
895. Antôn Nguyễn Thanh Tịnh, linh mục, Phó Chánh Văn phòng Tòa Giám mục Giáo phận Vinh
896. Fx. Nguyễn Hồng Ân, linh mục, Giáo phận Vinh, Nghệ An
897. Nguyen Thi Minh Truc, Montrouge, Pháp
898. Christian Nguyen, Paris, Pháp
899. Do Phuc Hung, Montrouge, Pháp
900. Phạm Ngưng Hương, Genève, Thụy Sĩ
901. Phạm Quỳnh Hương, chuyên gia xã hội, Hà Nội
902. Khanh Do, Sarasota, Florida, Hoa Kỳ
903. Trần Văn Anh Tuấn, kỹ sư, TP Vũng Tàu
904. Nguyễn Lê Thu Mỹ, hưu trí, TPHCM
905. Lý Thành Đạt, doanh nghiệp khu chế xuất Linh Trung Thủ Đức, TPHCM
906. Steve Vo, Manager, Hoa Kỳ
907. Lê Xuân Trường, giảng viên, Nam Định
908. Vo Nhan Tri, nhà kinh tế về hưu, Paris, Pháp
909. Tôn Thất Ha, Thụy Điển
910. Ngô Duy Nhị, lao động tự do, TP Biên hòa, Đồng nai
911. Giang Nguyen, công chức (public servant), Canada
912. Đặng Thái Bình, nhạc sĩ, Pháp
913. Pham Thuy Linh, kinh doanh, Praha, Cộng hòa Czech
914. Nguyen Thi Ngoc Lan, Pháp
915. Tran Van Huong Alex, học sinh, Pháp
916. Trần Đắc Lộc, cựu giảng viên chính Đại học Khoa học Huế, Praha, Cộng hòa Czech
917. Phạm Phương Lan, Royal Bank of Canada, Toronto, Canada
918. Lê Minh Hà, nhà văn, CHLB Đức
919. Đỗ Quang Nghĩa, nhà văn, CHLB Đức
920. Vũ Văn Hoàng, lao động, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên Huế
921. Thu Tu Huynh, sinh viên, Houston, Texas, Hoa Kỳ
922. Thu Huynh, nghỉ hưu, Houston, Texas, Hoa Kỳ
923. Thuy Huynh, kỹ sư, Houston, Texas, Hoa Kỳ
924. Phạm Thị Ngọc Ngà, trợ lí, Việt Nam
925. Uyen Tran, kinh doanh, Boston, Hoa Kỳ
926. Bùi Duy Thiện, kỹ sư, Bình Chánh. TPHCM
927. Trịnh Hùng, Thạc sĩ Kinh tế, CPA, Melbourne, Australia
928. Đặng Nghĩa Quân, công nhân, Đông Kinh, Nhật Bản
929. Trần Đông, nguyên nhân viên Chính phủ, Cao học Điện toán, Australia
930. Phạm Cường, đạo diễn, Hamburg, CHLB Đức
931. Đỗ Trung Triêm, San Jose, California, Hoa Kỳ
932. ĐàmThếLữ (bút danh Hoa Hoàng Lan), viết văn, San Jose, California, Hoa Kỳ
933. Huỳnh Thị Thu, kế toán trưởng, Đồng Nai
934. Phạm Hoàng, kỹ sư công nghệ thông tin, Hội An
935. Truong Roger, hưu trí, Saint Mande, Pháp
936. Nguyễn Thanh Hằng, giáo viên hưu trí, New Zealand
937. Nguyễn Quý Kiên, kỹ thuật viên Tin học, Hà Nội
938. Thái Thăng Long, nhà thơ, TPHCM
939. Nguyễn Đình Khang, thợ sửa xe, TPHCM
940. Trần Ngọc Thêm, Canifornia, Hoa Kỳ
941. Dang Xuan Nua, nghề tự do, California, Hoa Kỳ
942. Dang Xuan Huu, nghề tự do, California, Hoa Kỳ
943. Peter Xuan Dang, nghề tự do, California, Hoa Kỳ
944. Minh Dang, sinh viên UCR, California, Hoa Kỳ
945. Minh D. Dang, học sinh, California, Hoa Kỳ
946. Dang Cao Minh Dung, sinh viên UCR, California, Hoa Kỳ
947. Phan Xuan Ngoc, Nha Trang
948. Nguyễn Hậu Huynh, Trưởng Gia đình Phật tử tại Hoa Kỳ, thuộc Văn phòng 2 Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
949. Trần Văn Phước, làm thuê, Phan Thiết, Bình Thuận
950. Nguyễn Đèn Cù, chủ trang trại, Hàm Thuận Nam, Bình Thuận
951. Minh Nguyen, công nhân, Georgia, Hoa Kỳ
952. Dinh Khiem, nhạc sĩ, Oklahoma, Hoa Kỳ
953. Takemoto Haruki, kỹ sư cơ khí, Yokohama, Nhật Bản
954. Nguyễn Đào Trường, Hải Dương
955. Vũ Thị Hồng Hoa, sinh viên, quận 3, TPHCM
956. Chu Tường Vân, nhân viên kinh doanh, Hào Nam, Hà Nội
957. Liêm Nguyễn, PGS TS Vi sinh học, Cleveland, Ohio, Hoa Kỳ
958. Nguyễn Thị Cầm, giảng viên Đại học Ngoại ngữ Huế
959. Phạm Hữu Phúc, nghỉ hưu, Vancouver, B.C, Canada
960. Pham Van Quang, TS, Sài Gòn
961. Nguyễn Thị Nga, Biên Hòa, Đồng Nai
962. Võ Thị Thảo, nội trợ, quận Bình Thạnh, Sài Gòn
963. Nguyễn Văn Biếu, TS Nông nghiệp đã nghỉ hưu, Hà Nội
964. Lê Thế Bình, hưu trí, quận 2, TPHCM
965. Hanh M. Tran, Melbourne, Australia
966. Lan Pham, Melbourne, Australia
967. Chi To, Melbourne, Australia
968. Jasmine Tran, Poissy, Pháp
969. Tallys Tran, Colombes, Pháp
970. May Dang, Melbourne, Australia
971. Nguyễn Thị Thuý, nhân viên y tế, Vũng Tàu
972. Đỗ Hoàng Điệp, kỹ sư Xây dựng, Thanh Trì, Hà Nội
973. Huỳnh Phước Hòa, kỹ sư, Sài Gòn
974. Trần NgọcThảo Mi, cán bộ hưu trí, Mỹ Tho, Tiền Giang
975. Ngô Điều, sĩ quan quân đội về hưu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
976. Vũ Ngọc Hưng, kinh doanh tự do, Gia Lâm, Hà Nội
977. Trần Đình Sử, GS TS, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
978. Nguyễn Tuấn Thiệp, kiến trúc sư, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
979. Võ Vân Đôn, kỹ sư điện, Sài Gòn
980. Thomas Pham, California, Hoa Kỳ
981. Hoàng Linh, nhà báo, Hà Nội
982. Lưu Kim Nga, kinh doanh, Hà Nội
983. Hồ Thị Hoàng Phương, kinh doanh, Sài Gòn
984. Nguyễn Xuân Phong, Đà Nẵng
985. Mai Thi Huyen, giáo viên, Pleiku, Gia Lai
986. Kelly Dai-Trang Le, bác sĩ thuốc, San Diego, Hoa Kỳ
987. Petrus Nguyễn Vĩnh Tâm, linh mục, Giáo phận Vinh
988. Lê Nam Cảnh, lái xe, TP Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh
989. Nguyen Khanh Van, nội trợ, quận 10, Sài Gòn
990. Tuyết Hà, nội trợ, California, Hoa Kỳ
991. Phạm Xuân Vinh, Tân Bình, TPHCM
992. Trần Định Quốc Khai Nguyên, giám đốc Triple N Water Systems, Arizona, Hoa Kỳ
993. Nguyen Thi Hien, du học sinh tại Philippines, Học viện IFRS
994. Vũ Nguyễn Vũ Hoàng, kỹ sư Môi trường, TPHCM
995. Nguyễn Hoàng Vân, giáo dân Giáo xứ Thủ Thiêm, quận 2, TPHCM
996. Hồ Cao Anh Tuấn, kỹ sư Điện, quận Phú Nhuận, TPHCM
997. Phạm Thu Hồng, Hải Phòng
998. Phạm Quốc Thăng, nhân viên công ty tư nhân, quận 1, TPHCM
999. Nguyễn Trọng Nhân, nhiếp ảnh, TP Mỹ Tho, Tiền Giang
1000. Le Xuan Quang, kỹ sư về hưu, Sài Gòn
1001. Nguyen Bich Nga, thương gia, Westminster, California, Hoa Kỳ
1002. Trần Thị Thùy Dương, Cử nhân, Sale, Bình Dương
1003. Le Hang Nga, kiến trúc sư, quận Bình Thạnh, TPHCM
1004. Dương Ngọc Khiêm, sinh viên Toán, Đại học Khoa học Huế
1005. Ngô Sỹ Hoài, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam và Phó Chủ tịch Câu lạc bộ Lâm nghiệp Việt Nam, Hà Nội
1006. Lê Huỳnh Thanh Tâm, học sinh, Vĩnh Long
1007. Nguyễn Hùng, kỹ sư hóa công nghiệp, Sydney, Australia
1008. Huỳnh Trung Thạnh, kỹ sư Khoa học Thực phẩm, Australia
1009. Nguyễn Hoàng Hưng, kỹ sư Xây dựng đang làm việc tại khu kinh tế Vũng Áng, Kỳ Anh, Hà Tĩnh
1010. Nguyễn Thái Bình, nhà thơ, Buôn Ma Thuột, Đắc Lắc
1011. Bạch Duy Ngà, nhiếp ảnh, Nghi Xuân, Hà Tĩnh
1012. Đoàn Trần Đức, bác sĩ, Paris, Pháp
1013. Phạm Hoài Đức, TS Sinh học, đã nghỉ hưu, Hà Nội
1014. Nguyễn Thu Nguyệt, giáo viên hưu trí, TPHCM
1015. Nguyễn Khắc Vỹ, cán bộ hưu trí, quận Bình Thạnh, TPHCM
1016. Lê Huy Sơn, kỹ sư Công nghệ Thông tin, Thụy Sĩ
1017. Vinh Sơn Trần Đức Hạnh, OFM, Tu sĩ Dòng Thánh Phanxicô, quận 1, TPHCM
1018. Lương Văn Trí, nghiên cứu viên, Hàn Quốc
1019. Tran Phuong Thao, sinh viên, Praha, Cộng hòa Czech
1020. Tran Tuan Anh, sinh viên, Praha, Cộng hòa Czech
1021. Tran Anh Phuong, học sinh, Praha, Cộng hòa Czech
1022. Phạm Trà, TPHCM
1023. Phạm Quang Minh, phiên dịch, tư vấn, Yokohama, Nhật Bản
1024. Nguyễn Văn Trường, kỹ sư Lâm nghiệp, TP Biên Hòa, Đồng Nai
1025. Võ Long, sinh viên, Lille, Pháp
1026. Phạm Vũ Hồng Lĩnh, lập trình viên, Hà Nội
1027. Lê Hải, nhà nhiếp ảnh, Đà Nẵng
1028. Đặng Thị Phương Khánh, giáo viên hưu trí, TPHCM
ĐỢT 5
1029. Nguyễn Thị Từ Huy, Paris, Pháp
1030. Bùi Tiến An, cựu tù Côn Đảo, hưu trí, TP HCM
1031. Le Ngoc Tran, bác sĩ, quận 10, TPHCM
1032. Mai Anh Tuấn, kiến trúc sư, Melbourne, Australia
1033. Nguyễn Thọ Chấn, Mississauga, Canada
1034. Toan Cong Tran, Process-Operator, Hà Lan
1035. Đỗ Văn Ngữ, nghề nghiệp tự do, Tây Ninh
1036. Nguyễn Thị Đông, kinh doanh, Gò Vấp, TPHCM
1037. Đỗ Nam Hải, kinh doanh, Hải Phòng
1038. Nguyen Thuy Thanh, kỹ sư Xây dựng, đã nghỉ hưu, Hà Nội
1039. Đào Thị Vân, giáo viên, Hà Nội
1040. Nguyễn Trinh Thi, nghệ sĩ thị giác, Hà Nội
1041. Khuong Quang Dinh, chuyên gia Công nghệ Thông tin, Pháp
1042. Chu Văn Keng, cử nhân Toán, Berlin, CHLB Đức
1043. Dang Trung Chinh, New South Wales, Australia
1044. Nguyễn Kim Bình, TS Y khoa, Australia
1045. Lê Thị Kim Loan, điều dưỡng, TPHCM
1046. Paul Nguyễn Thanh Bình, linh mục, quận 1, Sài Gòn
1047. Phan Văn Thanh, đã nghỉ hưu, Đống Đa, Hà Nội
1048. Phạm Đình Dương, Sydney, Australia
1049. Nguyễn Kim Dung, EDV Operator, CHLB Đức
1050. Phạm Đức Quý, chuyên viên hưu trí, Hà Nội
1051. Nguyễn Quang Nam, kỹ sư phần mềm, Melbourne, Australia
1052. Ngô Thị Thúy Vân, sinh viên, Praha, Cộng hòa Czech
1053. Da Minh Nguyen Van Hoang, kinh doanh, Sài Gòn
1054. Vũ Ngọc Lân, kỹ sư luyện kim, Hà Nội
1055. Trần Tuấn Dũng, hưu trí, Quebec, Canada
1056. G.B Nguyễn Duy An, linh mục OFM, nhà thờ Lộc Thủy, Quỳnh Lưu, Nghệ An
1057. Giu-se Đinh Chỉ Lam, linh mục OFM, xã Thanh Yên, Thanh Chương, Nghệ An
1058. Nguyễn Vĩnh Hiệp, du học sinh PhD, Hannover, CHLB Đức
1059. Nguyễn Văn Ngà, Air Canada, về hưu, Canada
1060. Phạm Đình Quý, nông dân, Bình Định
1061. Nguyễn Hiếu Hạnh, TS Khoa học, New Jersey, Hoa Kỳ
1062. Khổng Hy Thiêm, kỹ sư điện, Cam Lâm, Khánh Hòa
1063. Nguyen Lan Huong, thường dân, quận 10, TPHCM
1064. Nguyễn Mỹ Thắng, thường dân, Vũng Tàu
1065. Lê Thị Hải Yến, biên kịch, TPHCM
1066. Trần Thị Thanh Tuyền, kiến trúc sư, TPHCM
1067. Trương Thế Kỷ, kỹ sư cơ khí, Munich, CHLB Đức
1068. Trương Bá Thụy, cựu quân nhân, dược sĩ, Sài Gòn
1069. Chinh Luu, Oil Refinery supervisor (retired), Hoa Kỳ
1070. Hồ Văn Tích, kỹ sư, Sài Gòn
1071. Đặng Thị Mai Anh, nhân viên ngân hàng, Sài Gòn
1072. Nguyễn Quang Dũng, Warszawa, Ba Lan
1073. Đoàn Minh Đạo, nhà thơ, California, Hoa Kỳ
1074. Sơn Dương, công chức Bộ Y tế, Sydney, Australia
1075. Ngô Duy Hoàng, kỹ sư xây dựng, Hà Nội
1076. Phạm Văn Điệp, quê  Sầm Sơn, Thanh Hóa, nhà sáng chế dùng năng lượng biển, Liên Bang Nga
1077. Lâm Văn Bình, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần dược Toàn cầu, Bắc Từ Liêm, Hà Nội
1078. Lan Nguyen, California, Hoa Kỳ
1079. Phun Tac Man, California, Hoa Kỳ
1080. Phạm Xuân Thu, luật gia, doanh nhân, Berlin, CHLB Đức
1081. Minh Đức Cao, Loeningen, CHLB Đức
1082. Thị Diên Nguyễn, Loeningen, CHLB Đức
1083. Trần Thuần, nghiên cứu sau tiến sĩ tại Đại học Potsdam, CHLB Đức
1084. Nguyễn Ngọc Thạch, hưu trí, TPHCM
1085. Nguyễn Hồng Lĩnh, Rạng Đông News, California, Hoa Kỳ
1086. Phạm Văn Đinh, TSKH, nguyên giảng viên Ô nhiễm Khí quyển, Đại học UPPA (Pau, Pháp)
1087. Nguyễn Quyền, công nhân, CHLB Đức
1088. Nguyễn Thị Kim Thịnh, kinh doanh, Sài Gòn
1089. Nguyễn Văn Trung, kỹ sư Điện, Düsseldorf, CHLB Đức
1090. Nguyễn Minh Đăng, kỹ sư, TPHCM
1091. Trần Ngọc, họa sĩ, Cần Giuộc, Long An
1092. Nguyên Kim Dung, EDV Operator, CHLB Đức
1093. Võ Văn Điểm (Võ Ngàn Sông), viết báo, San Diego, Hoa Kỳ
1094. Nguyễn Hồng Đức, kỹ sư, Hà Nội
1095. Nguyễn Văn Mẫn, kỹ sư chăn nuôi thú y, quận Tân Phú, Sài Gòn
1096. Lê Văn Anh, kỹ sư xây dựng cầu đường, Hà Nội
1097. Nguyễn Văn Chót, California, Hoa Kỳ
1098. Nguyễn Minh Khánh, California, Hoa Kỳ
1099. Cuong Pham, PE, kỹ sư nghỉ hưu, Houston, Texas, Hoa Kỳ
1100. Nguyễn Đức Phổ, nông dân, Đà Lạt, Lâm Đồng
1101. Phaolô Nguyễn Quốc Hưng, Linh mục Tổng giáo phận Sài Gòn
1102. Duong Duc Hai, kỹ sư, Oldenburg, CHLB Đức
1103. Lương Minh Cường, kinh doanh, khu đô thị Văn Quán, Hà Nội
1104. Nguyễn Đỗ Hòa, kiến trúc sư, Hà Nội
1105. Trần Minh Quốc, nhà giáo nghỉ hưu, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, TPHCM
1106. Đoàn Thuận, nhà giáo, nhà thơ, quận 2, TPHCM
1107. Đinh Văn Tuấn, họa sĩ, nghiên cứu sử và ngữ văn, Biên Hòa, Đồng Nai
1108. Mai Văn Bình, kỹ sư, Sài Gòn
1109. Hà Văn Chiến, cựu chiến binh, Thanh Xuân, Hà nội
1110. Nhi Luong, Missouri, Hoa Kỳ
1111. Đặng Chí Linh, giáo viên, An Giang
1112. Hiệp Trần, operator, Minnesota, Hoa Kỳ
1113. Ngô Quang Tuấn, sinh viên đang học tại Hà Nội, giáo dân Giáo phận Vinh
1114. Nguyễn Tùng Lâm, kỹ sư hoá, Hà Nội
1115. Xuân Nguyễn, Công nghệ Thông tin, California, Hoa Kỳ
1116. Paul Bùi Đình Cao, linh mục Giáo phận Vinh
1117. Ngô Tùng Châu, cựu quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cựu tù nhân cải tạo, Hoa Kỳ
1118. Jos. Nguyễn Minh Trực, Nghi Lộc, Nghệ An
1119. Nguyễn Thị Minh Trang, Khánh Hòa
1120. Nguyễn Anh Tuấn, sinh viên, Sài Gòn
1121. Đào Xuân Hoà, kỹ sư Xây dựng, Bến Tre
1122. Nguyen Thi Thanh Kim Hue, nữ tu dòng Missionary of Christ Jesus in Bolivia, Hà Tĩnh
1123. Nguyễn Ngọc Sơn, Thạc sĩ Tài chính, TPHCM
1124. Giuse Trần Đình Lợi, luật sư, Can Lộc, Hà Tĩnh
1125. Nguyễn Văn Phác, kỹ sư, Hà Nội
1126. Đào Tuấn Khanh, giáo viên, Hà Nội
1127. Lê Hữu Trí, sinh viên, Sydney, Australia
1128. Lưu Vân Khương, về hưu, Đà Nẵng
1129. Dong Thi Kim Chi, giáo viên đã nghỉ hưu, quận 10, TPHCM
1130. Lương Văn Điền, designer, Sài Gòn
1131. Nguyễn Duy Duẩn, nghiên cứu sinh tại Hàn Quốc
1132. Nguyễn Văn Quang, linh mục Giáo phận Vinh
1133. Lê Xuân Thiêm, kỹ sư Xây dựng, TPHCM
1134. Trần Thị Hiền, Notre Dame de Lorette, Paris, Pháp
1135. Pierric, Notre dame de Lorette, Paris, Pháp
1136. Nguyễn Văn Lâm, Yên Thành, Nghệ An
1137. Nguyễn Đức Huấn, hưu trí, Bỉ
1138. Nguyễn Thị Văn, Thạc sĩ, Hà Nội
1139. Ton Nu Tho Tho, họa sĩ, Đà Nẵng
1140. Cao Van Tran, MD, California, Hoa Kỳ
1141. Trần Thị Ngọc Tuyền, nguyên là nhân viên Kế toán Trung tâm Thể dục Thể thao tỉnh Cà Mau
1142. Trịnh Hâm, kế toán, Đồng Nai
1143. Nguyễn Thị Thu Hà, dân oan, Nha Trang, Khánh Hoà
1144. Hoàng Nhơn, người kinh doanh, TPHCM
1145. Ngo Huy Can, Hội Cơ học Thủy khí, hưu trí, Hà Nội
1146. Nguyễn Hữu Thời, cựu quân nhân, cựu giáo chức, Quảng Ngãi
1147. Chu Văn, CHLB Đức
1148. Đỗ Trung Hậu (Ms.), giám đốc bán hàng, Công ty TNHH Thiết kế và In KAN, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh
1149. Tạ Cao Nguyên, giáo viên trung học, TP Lạng Sơn
1150. Nguyễn Văn Kính, sinh viên, Nghệ An
1151. Trần Thế Tuấn, kỹ sư, Hà Nội
1152. Nguyễn Hữu Khải, PGS TS, giảng viên cao cấp, Đại học Quốc gia Hà Nội, hưu trí, Hà Nội
1153. Cao Quốc Luận, nông dân, TPHCM
1154. Antôn Phan Trọng Hoàng, sinh viên, Đại học Vinh
1155. Tran Van Minh, cử nhân luật, đã nghỉ hưu, Đà Nẵng
1156. Võ Thị Cẩm Hồng, nội trợ, CHLB Đức
1157. Bùi Hồng Hải, kỹ sư cơ khí, doanh nhân, Đà Nẵng
1158. Cao Tấn Bửu, kiến trúc sư, TPHCM
1159. Ngô Thị Ngọc Liễu, TPHCM
1160. Lê Thành Đạt, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
1161. Nguyễn Văn Lâm, Vinh, Nghệ An
1162. Lê Hồng Thắng, giáo viên, Hải Phòng
1163. Võ Quốc Anh, lao động tự do, Cam Lâm, Khánh Hòa
1164. Cao Ngọc Vinh, kỹ sư Xây dựng, TP Pleiku, Gia lai
1165. Phạm Hồng Liên, bác sĩ, La Chaux-de-Fonds, Thụy Sỹ
1166. Nguyễn Dục Tú, cán bộ hưu trí, Hà Nội
1167. Vũ Thị Việt Hoa, chuyên viên chính, Hà Nội
1168. Vũ Minh Thoa, cán bộ hưu trí, Nha Trang, Khánh Hòa
1169. Phaolô Vũ Xuân Quế, linh mục, OFM, Chánh xứ Hòa Hội, Giáo phận Bà Rịa
1170. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Thành đoàn TPHCM
Xin mời quý ông/bà/anh/chị/em ký tên vào Tuyên bố này với tên họ, nghề nghiệp/ chức danh (nếu có), nơi cư trú, và gửi về địa chỉ: tuyenboformosa@gmail.com



THƠ- CÁ CHẾT -

Sunday, May 1, 2016

VƯỜN THƠ

Hãy để bố
TRẦN VĂN LƯƠNG



DẠO: Lòng không muốn sống xa nhà
Nhưng trời bắt tội tuổi già biết sao!
Đêm bệnh-viện, sầu tơi trên tóc trắng,
Người già nằm, bóng hạc lắng chiều sương,
Mắt ngu ngơ như nắng lỡ độ đường,
Nhìn con gái dựa bên giường gà gật.

Đầu ngật ngầy váng vất,
Thương con mình tất bật ngược xuôi,
Mấy ngày qua luôn túc-trực không rời,
Đến tối mịt mới về nơi tổ ấm.

Bàn tay già chầm chậm,
Thờ thẩn nắm tay con.
Từ rãnh mắt xoáy mòn,
Giọt thương cảm lăn tròn theo vết cũ.


Khuya rồi đó, sao con chưa về ngủ,
Chuyện tuổi già, con ủ-rũ làm chi.
Chín mươi rồi, Bố chưa bị cất đi,
Mình may mắn, có gì mà áo-não.

Hãy để Bố vào ở nhà dưỡng lão,
Như mọi người vừa khuyên bảo sáng nay,
Vì một mai khi rời khỏi nơi đây,
Khó khăn sẽ theo tháng ngày dai dẳng.

Bố không muốn mình trở thành gánh nặng,
Để cho con phải lo lắng miệt mài
Đời con còn nhiều trách-nhiệm trên vai,
Đâu có thể chực-chầu hoài sớm tối.

Thân gầy còm yếu đuối,
Sao kham nổi đường xa.
Thêm việc sở, việc nhà,
Chuyện con cái, dễ gì mà vất bỏ.

Người già thường cau-có
Nằm liệt giường, càng khó tính gấp trăm.
Dù cho con chẳng quản ngại nhọc nhằn,
Nhưng chịu đựng tháng năm dài sao thấu.

Bố vẫn muốn sống đời bên con cháu,
Dẫu cơ-hàn, mà rau cháo có nhau.
Bao năm qua mất Mẹ , bấy năm sầu,
Bố gượng sống với niềm đau-lẻ-bạn.

Buồn nhớ lại ngày vượt biên hoạn-nạn,
Bỏ quê nhà, chấp-nhận vạn gian-truân,
Chết trong tay đã nắm chặt chín phần.
Mạng sống chỉ ngàn cân treo sợi nhỏ.

Con thuyền khốn khổ,
Sóng gió tả-tơi,
Phút chót đã kề nơi,
Lối định-mệnh, ai người sống sót.

Tưởng chỉ được nhìn Mẹ, con lần chót,
Nhưng Trời thương cho trót-lọt qua đây,
Trong khi bao người biển cả vùi thây,
Giờ sao nữa, chẳng mảy-may tiếc rẻ.

Bố chỉ hận mình không còn sức khỏe,
Đở đần con việc lẻ-tẻ hôm mai,
Để chiều về, con bớt phải loay-hoay,
Được yên nghỉ sau ngày dài kiệt sức.

Khi bị đẩy vào trong phòng hồi-lực,
Bố biết mình gần tới lúc xuôi tay.
Dù thoát nạn hôm nay,
Đời cũng phải rẽ ngay vào lối ngoặc.

Bố tự biết như ngọn đèn sắp tắt,
Nên cố tình bẳn gắt mấy ngày qua.
Nếu chẳng may phải theo gót ông bà,
Con cũng đở xót xa giờ đưa tiễn.

Mai kia rời bệnh-viện,
Con đừng bịn-rịn xót xa,
Hãy nghe lời y-tá dặn ngày qua,
Mà đưa Bố thẳng ra nhà dưỡng lão.

Cuộc sống mới dù là mưa hay bão,
Bố không buồn,tự bảo vẫn còn may,
Vì biết rằng, chỉ quanh-quẩn đâu đây,
Con cháu Bố đang vui vầy hạnh-phúc.

Rồi sẽ có những buổi chiều hun-hút,
Bố nặn dần từng phút ngóng người thân.
Nhưng rủi con chẳng tới được một lần,
Bố cũng hiểu, đừng bận tâm ray-rứt.

Bố không ngại chặng cuối đời khổ cực,
Nhìn thấy con hạnh-phúc, Bố vui lòng.
Tuổi đã nhiều, phận Bố thế là xong,
Con phải sống cho chồng, cho con cái.

Hứa với Bố, con sẽ không buồn mãi,
Nếu mai này, khi Bố phải ra đi,
Mà con không kịp đến lúc phân-kỳ,
Nói cùng Bố lời chia-ly vĩnh-viễn.



Đêm trơn giấc, người con rời bệnh-viện,
Đôi mắt già quyến-luyến vọng đưa chân.
Trong ký-ức phai dần,
Khuôn mặt những người thân vùng hiển-hiện.


Lòng chợt thoáng bùi-ngùi khi nghĩ đến
Phút lên đường, theo ước-nguyện ba-sinh,
Chân bơ-vơ trong tăm tối một mình,
Mò mẫm lối hành-trình về thiên-cổ.

TRẦN VĂN LƯƠNG





Võ Đại Tôn (Danlambao) - Quốc Hận 2016, cảm xúc viết bài thơ này giữa đêm khuya vùng trời lưu vong vắng lặng khi ngồi nghe lại bản nhạc “Mẹ Việt Nam ơi - Chúng con vẫn còn đây”, phổ thơ tôi viết từ năm 1972 trên quê hương tràn ngập khói lửa chiến chinh, nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 phổ nhạc...)


Nỗi lòng dâng Mẹ Việt Nam!

Bốn mươi mốt năm rồi
Con vẫn đi tìm MẸ.
Vết thương mồ côi còn hoen máu lệ
Bao đêm ác mộng bùng lên.
Giữa trùng dương thuyền như lá lênh đênh
Con quỳ lạy khi tầm xa quê cũ.
Trời lưu vong tượng đá đầy rêu phủ
Góc công viên con gọi MẸ, đâu rồi ?
Con trở về - tìm hơi ấm trong nôi
Ôm tay MẸ, sống nguyên đời thơ dại.
Viên gạch lót đường, xuyên rừng đêm biên ải
Phút sa cơ, con thấy MẸ bên mình.
Đời trung niên hằn dấu ấn điêu linh
Trong ngục tối, máu đen thành mực viết.
Xin dâng MẸ, dòng Thơ con tha thiết
Chỉ cầu mong tồn tại, tiếp Lên Đường.
Rồi hôm nay, nhìn lại cảnh quê hương
Con vẫn thấy MẸ cằn khô áo rách.
Tóc bạc cuối đời, con vẫn xin làm gạch
​​Lót đường đi cho thế hệ Em-Con.
Xin MẸ thương con, dù sức yếu mỏi mòn
Nâng con dậy, không quay đầu bỏ cuộc.
Bạn bè con theo tuổi đời bay vút
Bóng cô đơn còn lại giữa đêm trường.
Dù ngày mai theo tiếng gọi Vô Thường
Hồn con vẫn cá Hồi quay tìm MẸ.
Con sẽ về - hòa chung cùng Tuổi Trẻ
Thét vang lên đòi lại Quyền Người.
Đồng hành bên nhau, vang vọng tiếng cười
Quỳ ôm MẸ giữa trời Xuân Dân Tộc.
Tuổi hoàng hôn, con không còn tiếng khóc
Nhưng vẫn còn nguyên vẹn máu hồng tim.
Hơn bốn mươi năm, con còn mãi đi tìm
Hình bóng MẸ nuôi đời con Trung Nghĩa.
Cách không gian nhưng cùng chung tuyến địa
Con nguyện lòng theo bước MẸ ngày đêm.
Con không về - khoe cảnh sống ấm êm
Nơi xứ lạ lãng quên hồn Tổ Quốc.
Không làm khách nhàn du giữa nguồn đau Dân Tộc
Thản nhiên nhìn bao bạo ngược tàn hung.
Đến cuối đời xin tâm nguyện cùng chung
Bao thế hệ lau khô dòng lệ MẸ.
Đất Nước hồi sinh giữa trời Xuân muôn vẻ
Như nghìn xưa theo MẸ lúc lên non.
Hoa Nhân Bản, viết lại Sử vàng son
Dâng lên MẸ - xin vuông tròn Đạo Lý.
Phút tàn hơi chỉ mong lòng toại ý
Được quỳ hôn từng mảnh đất Quê xưa.
Đàn Cháu Con thôi dãi nắng dầm mưa
Trời lại sáng, đường tương lai rộng mở.
Ngẩng cao đầu, nhịp hòa chung hơi thở
Cùng năm Châu sống đẹp với Nhân Quyền.
MẸ VIỆT NAM! Cho con vẹn lời nguyền
Chung góp sức, trọn đời xin dâng MẸ!
Hơn bốn mươi năm, trầm luân dâu bể
Vẫn nguyện tình chung thủy với Quê Hương.

Võ Đại TônHải ngoại, 41 năm Quốc Hận – 2016
             DEAR DADDY
In dedication to our beloved Vietnam War Veterans
Mother hurriedly lit my six candles
on the day Saigon fell.
She embraced me and your portrait,
whispering: “Dad used to say war was hell.”

Mother asked if I liked to learn English
“’cause your Dad was a handsome American;
He died bravely in a fierce battle
on the hills or down the valleys on Khe Sanh.

He came to Vietnam from America
where he Statue of Liberty stands,
helping the South stop the North
from stealing the precious piece of lands.”

Mother died in the rain at a labor camp
’cause there was no food or medicine.
She was caught for “escaping to America”
where you, Daddy, were growing.

I was left a living outcast –
tears dried from missing you, Mom, Dad –
holding onto your spirits each day:
That's all your child has had.

I secretly heard on the shortwave
you name is on the Viet Veteran Wall.
Proud of you, Dad!
You had died for Freedom and Justice for all.


                                   
LINH
                      
(from “Offerings at the Wall”)
 
        BỐ THƯƠNG YÊU

Để tưởng niệm các tử sĩ trong Cuộc Chiến Việt Nam

Thắp vội cho con sáu ngọn cầy
(Sài Gòn thất thủ đúng hôm nay!)
Con, và ảnh Bố, ôm vào ngực,
“Giặc!” Mẹ thì thầm: “Bố ghét cay!”
Mẹ hỏi: “Con ưng học tiếng Anh?”
“Bố con là Mỹ, một hùng binh,
Đèo cao, lũng thấp Khe Sanh nọ
Ngang dọc tung hoành, chết liệt oanh!
Từ xứ tôn thờ Thần Tự Do –
Hoa Kỳ – Bố đến Việt Nam ta
Giúp Miền Nam chống quân Miền Bắc
Vào cướp quê mình – đất gấm hoa ...”
Gục dưới mưa dầm, trại khổ lao,
Mẹ qua đời: thiếu thuốc, cơm, rau!
Chỉ vì “vượt biển” mong qua Mỹ –
Nơi Bố sinh thành – thảm biết bao!
Từ đó, đời con sống bạt phiêu
Khóc thương Bố Mẹ, lệ khô triều!
Hằng ngày chỉ biết trong tâm tưởng
Khấn nguyện linh hồn Bố Mẹ yêu.
Lén mở nghe tin tự nước ngoài:
Danh thơm của Bố khắc linh đài .
Tự-hào: con có Cha nằm xuống
Cho Tự-Do Công-Lý mọi người!

      THANH-THANH Việt-hóa
 

Các bạn hiền
Tôi có bài thơ ngẫu hứng làm khi ở VN.
Xin gửi các bạn đọc chơi đỡ buồn.

ĐỨA  TRẺ HỐT RÁC
Ba năm trước gặp em trong con hẻm nảy
em theo mẹ đẩy xe hốt rác
em đứng trên xe ba gác
lượm hộp các tông xếp thành từng bó 
lượm bao ny lông lành gom lại 
mẹ sẽ đem bán để kiếm thêm tiền

Năm nay gặp lại em
đôi vai gầy mặt sạm đen rám nắng
mười lăm tuổi em không đi học
em đẩy xe một mình 
mẹ đã đi xa
Mẹ để cho em chiếc xe hốt rác
em đã lớn rồi tự kiếm nuôi thân.

Đất nước tôi từ khi mở cửa cũng có người kiếm đủ miếng ăn
Nhiều trẻ thơ bị bắt đi  ăn mày, 
những bé gái thơ bị bán đi làm nô lệ dục tình
khốn khổ quê người không ai che chở
Đất nước tôi cũng đang trên đường  phát triển
có nhiều nhà giầu cửa sắt cửa gương 
trên đường phố có ô tô đẹp
Cán bộ, đãng viên, quan chức quyền hành giầu sang cực kỳ
sớm tối tiệc tùng vung tiền không tiếc
xây nhà, xây mộ, làm mới từ đường chiếm hết ruộng vườn 
nông dân không còn đất sống
con cái đi học bằng xe ta xi hay bằng xe nhà có tài xế lái

Quê hương tôi giầu sang đâu bằng, lắm kẻ chơi ngông mua nhà mua xe sang hơn tỷ phú các nước Âu Mỹ, 
đang mơ giấc mơ làm con rồng  Nam Á, đất nước tổ tiên  mất biển, mất sông, mất núi , mất đèo,...có gì đáng kể.
Em hốt rác ơi em còn may chán
Bao nhiêu người khốn khổ bỏ mẹ cha, bỏ vợ, bỏ chồng, bỏ con bỏ cái xuất cảng lao động sang Nga, sang Tầu, Đài Loan , Mã Lai....làm thân nô lệ
bị người hành hạ như trâu, như ngựa....kiếm không đủ tiền trả nợ nhà nước. 
Trên đất nước người bao nhiêu khổ đau, bao nhiêu lo sợ.....vất vả khôn cùng
bị chủ hành hạ oằn cả tấm thân
không biết kêu ai, 
Đại Sứ làm ngơ, lãnh sự bịt tai, bịt mắt ....

Em hốt rác ơi em còn may mắn
gia tài của mẹ để lại cho em chiếc xe hốt rác
kiếm đủ nuôi thân 
Em sống lương thiện
làm người tử tế.
Nhìn đất nước ta giầu sang kể gỉ
khách sạn nhà hàng ra vào tấp nập
building cao ngất 
cửa sắt cửa gương
đường phố đông xe nhiểu ô tô đẹp.

Em hốt rác ơi
sao tôi muốn khóc.
                    14/4/2016
HẬN SÔNG BA
( cảm thơ TLT – Texas)

Người nặng tình yêu cho đất nước
Bao giờ quên được hận Sông Ba
Chia ly bờ cõi sầu tan tác
Nước Việt nghìn năm thấm lệ nhòa…

Pleiku sương lạnh trời Tây Nguyên
Chiến sĩ hiên ngang chẳng lụy phiền
Cất bước oai hùng theo nhịp trống
Một thời thanh sử dễ nào quên ?…

Ngày ấy xông pha với Tiểu Đoàn
Máu đào loang đỏ dòng Dakpla
Chư Pao lệ nhỏ hờn ai oán
Gởi sóng trùng dương nỗi xót xa…

Ngồi đây mà nhớ mãi Hàm Rồng
Vùng đất cơ đồ rạng núi sông
Thung Lũng Hồng nửa đêm thức giấc
Nghẹn ngào nhìn máu lệ pha hồng !

Lòng dân ngậm nuốt đau hờn tủi
Chỉ phút giây bình địa Củng Sơn
Chiến sĩ gục đầu bên dốc núi
Lòng hờn căm thảm bại đau buồn

Sài Gòn đẹp mãi cho non nước
Một thuở thanh bình ta ấm thân
Cơn gió bạo cường tràn nỗi tức
Mất rồi dòng nước mát trong ngần ?

Địa danh muôn thuở đất Sài Gòn
Xưng bá xưng hùng ngôi Đế Vương
Hòn ngọc viễn đông ngày ấy đã
Ngậm ngùi đưa tiễn kẻ lên đường !

Nỗi đau đã thấu chín từng mây
Buộc phải quy hàng buổi sáng nay
Cả một đời sống cho nghiệp võ
Ðành mang tủi hận tháng năm dài

Máu đào loang đỏ bên dòng nước
Vũ trụ quay cuồng dưới ánh sao
Hàng vạn sanh linh đang nuối tiếc
Còn đâu lựu thắm với hoa đào ?

Quê hương rên xiết lời ai oán
Một dãy sơn hà đẫm khói sương
Tai họa ngày nay, ai biết được
Tại trời cao gieo cảnh tai ương

Uất hờn đôi mắt hằn tia máu
Đêm vắng Sông Ba hiện bóng trơi
Chẳng hẹn cùng nhau ngày gặp lại
Còn may mắn đó … cũng do trời…

Giang san là của người dân Việt
Đừng để ngậm hờn cho cổ nhân
Đừng để Tổ Tiên niềm nuối tiếc
Mấy ngàn năm hùng mạnh dân, quân …

Ly hương nhớ lại thêm buồn tủi
Thương những oan hồn thây chất thây
Bốn chục năm rồi, ai nhớ, hỏi ?
Xường chồng như núi tự xưa rày !

Một lòng mơ ước với quê hương
Một sáng cờ bay ngập phố phường
Nước Việt reo vui mừng phục quốc
Sáng ngời dân tộc, ngát yêu thương …

nguyễn phan ngọc an - 2016
www.trangthongocan.blogspot.com
__._,_.___

Posted by: An Nguyen


TÂM TƯ
NGƯỜI CHIẾN SĨ

Tôi quý trọng anh như bao người lính khác
Bởi giữa căm hờn anh vẫn sống hiên ngang
Máu đổ xương rơi, bầu trời Nam tan tác
Bình địa phủ tràn non nước một màu tang

Tôi trân trọng những tấm lòng vì tổ quốc
Ðã nằm yên nơi lòng đất quê hương
Chiến sĩ vô danh một đời bất khuất
Xác thân vùi quên lãng giữa đau thương !

Chúng ta được gì trong cuộc tương tàn
Nồi da xáo thịt bẽ bàng từng cơn
Hơn bốn mươi năm tha hương đất khách
Nhìn trong mắt người u uẩn nào hơn …

Mùa xuân đến chiến binh ngồi lặng lẽ
Ðếm gian nan trên mái tóc bạc màu
Tự thâm tâm niềm đau đang vọng khẻ
Ðã hết rồi … xuân đến chỉ thêm sầu !

Trời mùa hạ mang mang niềm thống hận
Tháng tư xưa… người chiến sĩ gục đầu
Thảm cảnh xưa xoáy mòn trong vô tận
Thương phận lạc loài cơn lốc bể dâu

Rồi thu đến lá vàng rơi lả tả
Ngập biển trời nỗi buồn đến thiên thu
Mắt mờ lệ xuyên vời dòng biển cả
Thấy gì đâu … trùng điệp khói sương mù !

Tiết đông phong cho lòng thêm giá lạnh
Biết ngày nào thực hiện giấc đoàn viên
Thời gian trôi giết mòn đời bất hạnh
Lớp lớp rồi chiến sĩ đã nằm yên !

Tôi gửi các anh bài thơ từ tim óc
Cùng ly hương cùng cảm nhận niềm đau
Tôi quý các anh một lòng vì tổ quốc
Hãy chung mơ ngày hạnh phúc bên nhau …

nguyen phan ngoc an - 2016
www.trangthongocan.blogspot.com
__._,_.___

Posted by: An Nguyen






THANH PHONG * TRÊN ĐẠI LỘ KINH HOÀNG


Em bé gái trên Đại Lộ Kinh Hoàng của Mùa Hè Đỏ Lửa 1972




Em bé ngày xưa, nay là Trung Tá Kimberly M. Mitchell
Feb 18, 2014 at 7:56 am


Vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, một em bé 4 tháng tuổi nằm trên xác mẹ trên Đại Lộ Kinh Hoàng; em đang trườn người trên bụng mẹ tìm vú để bú nhưng mẹ đã chết từ bao giờ. Một người lính Quân Cụ chạy ngang, bồng em bé bỏ vào chiếc nón lá rồi chạy qua cầu Mỹ Chánh, trao lại cho một Thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến đang hành quân.
Bao năm trôi qua, em bé mồ côi mẹ nay trở thành Trung Tá trong Quân Lực Hoa Kỳ còn người Thiếu úy TQLC sang Hoa Kỳ theo diện HO nay đang định cư tại tiểu bang New Mexico. Hai người vừa gặp nhau sau 41 năm bặt vô âm tín. Ngày Thứ Ba 2 tháng 4, 2013 vừa qua, nhân dịp sang California dự lễ cưới, người Thiếu Úy TQLC này đã kể cho phóng viên Viễn Đông câu chuyện cảm động và ly kỳ ngay tại khách sạn nơi ông đang tạm cư ngụ.
Người Thiếu Úy TQLC tên là Trần Khắc Báo. Vào thời điểm 1972 ông còn độc thân và phục vụ tại Đại Đội Vận Tải Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, được biệt phái sang Phòng 4 của Sư Đoàn làm sĩ quan phụ trách chuyển vận. Vào sáng 1 tháng 5 năm 1972, Thiếu Úy Báo được lệnh cấp trên, cùng một số đồng đội mở cuộc hành quân để giúp di chuyển Tiểu Đoàn 7 TQLC ra khỏi vùng vừa bị thất thủ thuộc tỉnh Quảng Trị vì một số đông quân nhân bị thất lạc không tìm thấy vị chỉ huy của họ. Ngoài ra, ông cũng xin lệnh giúp di tản các Quân, Dân, Cán, Chính khác đang tìm đường chạy về phía nam sông Mỹ Chánh là nơi quân đội VNCH còn đang trấn giữ; ông được cấp trên chấp thuận.
Khi đơn vị ông đến cầu Mỹ Chánh (Quảng Trị) thì nơi đây là phòng tuyến cuối cùng của VNCH để ngăn chặn quân Bắc Việt tràn xuống phía Nam. Ông đã chỉ huy 20 quân xa GMC thực hiện cấp tốc cuộc di tản suốt ngày. Đến khoảng 4 hay 5 giờ chiều ông Trần Khắc Báo nhìn thấy thấp thoáng bên kia cầu còn một người đang ôm chiếc nón lá thất thểu đi qua với dáng điệu hết sức mỏi mệt. Ông định chạy qua giúp người này nhưng vị Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 TQLC đang trách nhiệm trấn giữ tại đó la lớn:

ông Trần Khắc Báo trong ngày hội ngộ
“Cây cầu tao đã gài mìn, có thể nổ và sẵn sàng phá hủy khi thấy chiến xa Việt Cộng xuất hiện, đừng chạy qua, mày sẽ bị bỏ lại bên đó không về lại được đâu nghe!”
Ông cố nài nỉ:
“Đại Bàng chờ em một chút, cho em cứu người cuối cùng này.”
Và ông chạy đến đưa người này qua cầu. Thấy người này đi không nổi, thất tha thất thểu mà tay còn cố ôm vòng chiếc nón lá, Thiếu Úy Báo nói đùa:
“Đi không nổi mà còn mang theo vàng bạc châu báu gì nữa đây cha nội?”
Người ôm vòng chiếc nón lá nói:
“Em là lính Quân Cụ thuộc Tiểu Khu Quảng Trị, trên đường chạy về đây em thấy cảnh tượng hết sức thương tâm này, mẹ nó đã chết từ bao giờ không biết và nó đang trườn mình trên bụng mẹ nó tìm vú để bú, em cầm lòng không được nên bế nó bỏ vào chiếc nón lá mang đến đây trao cho Thiếu Úy, xin ông ráng cứu nó vì em kiệt sức rồi, không thể đi xa được nữa và cũng không có cách gì giúp em bé này.”
Nói xong anh ta trao chiếc nón lá có em bé cho thiếu úy Báo.
Ngừng một chút, ông Báo nói với chúng tôi:
“Mình là người lính VNCH, mình đã được huấn luyện và thuộc nằm lòng tinh thần ‘Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm’ nên lúc đó tôi nghĩ trách nhiệm của mình là lo cho dân nên tôi nhận đứa bé và nói với người lính Quân Cụ: ‘Thôi được rồi, để tôi lo cho nó, còn anh, anh cũng lo cho sức khỏe của anh, lên GMC đi để chúng tôi đưa anh về vùng an toàn.’”

Sau đó, người sĩ quan TQLC ôm em bé leo lên chiếc xe Jeep chạy về Phong Điền, cách đó khoảng 20 cây số. Trên đường đi, ông Báo cảm thấy rất bối rối vì em bé khóc không thành tiếng vì đói, khát mà ông thì còn là một thanh niên trẻ (lúc đó mới 24 tuổi) chưa có kinh nghiệm gì nên ông hỏi người tài xế, bây giờ phải làm sao? Người tài xế tên Tài trả lời:
“Ông thầy cho nó bú đi! Ông thầy không có sữa thì lấy bi đông nước chấm đầu ngón tay vào nước để vào miệng nó cho nó bú.”
Ông Báo làm theo lời chỉ và em bé nín khóc rồi nằm im cho đến khi ông đưa em vào Phòng Xã Hội của Lữ Đoàn TQLC. Tại đây, gặp Thiếu tá Nhiều, Trưởng Phòng 4 TQLC, ông trao em bé cho Thiếu tá Nhiều và nói:
“Thiếu tá, tôi có lượm một em bé ngoài mặt trận, xin giao cho Thiếu tá.”
Ông này nhìn ông Báo cười và nói:
“Mày đi đánh giặc mà còn con rơi con rớt tùm lum!”
Ông Báo thanh minh:
“Không! Tôi lượm nó ngoài mặt trận; nó đang nằm trên xác mẹ nó.” Thiếu tá Nhiều bảo:
“Thôi, đem em bé giao cho Phòng Xã Hội để họ làm thủ tục lo cho nó.” Sau đó, ông Báo đưa em bé cho một nữ quân nhân phụ trách xã hội. Cô này nói với ông:
“Thiếu úy giao thì Thiếu úy phải có trách nhiệm, vì em bé này ở ngoài mặt trận thì Thiếu úy phải cho nó cái tên và tên họ Thiếu úy nữa để sau này nó biết cội nguồn của nó mà tìm.”
Lúc đó, ông còn độc thân nhưng trong thâm tâm ông vốn nghĩ rằng sau này khi ông cưới vợ, nếu có con gái ông sẽ đặt tên là Bích, nếu con trai ông sẽ đặt tên là Bảo, nên sau khi nghe người nữ quân nhân nói, ông Báo đặt ngay cho em bé cái tên là Trần Thị Ngọc Bích.
Sau đó ông trở về đơn vị và cuộc chiến ngày càng trở nên khốc liệt cho tới tháng 3/1975, đơn vị ông bị thất thủ cùng Lữ Đoàn 2 TQLC ở Huế và ông Báo bị bắt làm tù binh. Mãi đến năm 1981 ông được thả về. Tháng 9/1994 ông được sang định cư tại thành phố Albuqueque, tiểu bang New Mexico…
EM BÉ MỒ CÔI GẶP MAY MẮN
Em bé Trần Thị Ngọc Bích được Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC đem đến Cô Nhi Viện Thánh Tâm Đà Nẵng giao cho các Dì Phước chăm sóc. Số hồ sơ của em là 899.
Một hôm có ông Trung Sĩ Hoa Kỳ thuộc binh chủng Không Quân phục vụ tại phi trường Đà Nẵng tên là James Mitchell vô Cô Nhi Viện xin nhận một trong các em tại đây làm con nuôi. Em Trần Thị Ngọc Bích may mắn lọt vào mắt xanh của ông James Mitchell và trở thành thành viên của gia đình này từ đó đến nay.
Sau khi rời khỏi binh chủng Không Quân, ông James Mitchell trở về Hoa Kỳ vào cuối năm 1972. Ông quyết định mang theo đứa con nuôi Trần Thị Ngọc Bích, lúc đó em mới được 6 tháng.
Hai ông bà Mitchell đặt tên Mỹ cho em là Kimberly Mitchell. Em ở tại trang trại của gia đình tại Solon Springs, tiểu bang Wisconsin. Kimberly Mitchell lớn lên tại đây và được bố mẹ nuôi rất thương yêu, coi như con ruột. Em được đi học, tham gia thể thao và vào hội thanh niên. Lớn lên em vừa đi học vừa phụ giúp cha mẹ nuôi bò và làm phó mát. Cái tên Trần Thị Ngọc Bích đã bị quên lãng từ đó, và Kimberly Mitchell cho biết, mỗi khi nghe ai nói gì về Việt Nam, cô thường tự hỏi, Việt Nam là đâu nhỉ?
Khi đã có trí khôn, Kimberly Mitchell nhận thấy mình không phải người Mỹ như bố mẹ, không phải con lai, không phải người Tàu. Cô không biết mình là người nước nào và cứ mang cái thắc mắc đó mãi mà không ai có thể trả lời cho cô.
Một hôm, Kimberly Mitchell đánh bạo hỏi bố:
“Con muốn biết con người gì, nguồn gốc con ở đâu? Tại sao con lại là con bố mẹ?”
Bố nuôi James giải thích cho cô:
“Con là người Việt Nam, bố mẹ xin con từ trong viện mồ côi ở Đà Nẵng, Việt Nam. Nếu con muốn tìm nguồn cội của con, con có thể về Đà Nẵng, may ra tìm được tông tích của gia đình con.”
Ngay từ khi Kimberly còn học lớp ba, bố nuôi em đã muốn sau này cho Kimberly gia nhập Không Quân nhân khi cô được chọn tham dự hội thảo về nghệ thuật lãnh đạo dành cho những học sinh xuất sắc. Nhưng rồi định mệnh xui khiến, cô lại theo Hải Quân. Trong thời gian theo học, Kimberly Mitchell phải bỏ học một năm vì bố nuôi qua đời năm 1991 trong một tai nạn tại trang trại của gia đình. Sau đó cô trở lại trường và tiếp tục học. Năm 1996 cô tốt nghiệp Cơ Khí Hàng Hải và phục vụ trong Hải Quân Hoa Kỳ và hiện nay mang cấp bậc Trung Tá, Phó Giám Đốc Văn Phòng Trợ Giúp Quân Nhân và Thân Nhân tại Ngũ Giác Đài.
Năm 2011, Kimberly Mitchell trở về cố hương với tư cách một nữ Trung Tá Hải Quân, Quân Lực Hoa Kỳ, mong gặp lại người thân. Đến Viện Nuôi Trẻ Mồ Côi Thánh Tâm ở Đà Nẵng, cô may mắn gặp được Sơ Mary, người tiếp nhận cô năm 1972 từ một nữ quân nhân Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC. Giây phút thật cảm động, nhưng Kimberly chỉ được Sơ Mary cho biết:
“Lúc người ta mang con tới đây, con mới có 4 tháng và họ đặt tên con là Trần Thị Ngọc Bích. Họ nói mẹ con đã chết trên Đại Lộ Kinh Hoàng, con được một người lính VNCH cứu đem đến đây giao cho Cô Nhi Viện rồi đi mất, vì lúc đó chiến tranh tàn khốc lắm.”
Kimberly không biết gì hơn và cô quay trở lại Mỹ. Sau khi đã biết mình là người Việt Nam, thỉnh thoảng cô viết trên website câu chuyện của mình.
GẶP LẠI CỐ NHÂN
Ông Trần Khắc Báo đưa cho chúng tôi xem một số hình ảnh, một số báo tiếng Việt và mấy tờ báo tiếng Anh đăng hình cuộc gặp gỡ giữa gia đình ông và cô Trần Thị Ngọc Bích, và nói:
“Sau khi ra tù Việt Cộng, tôi cũng cố tìm hiểu xem em bé Trần Thị Ngọc Bích nay ra sao, kể cả người lính Quân Cụ năm xưa, nhưng tất cả đều bặt vô âm tín. Một hôm tình cờ tôi đọc được một bài viết của tác giả Trúc Giang trên tờ Việt Báo Hải Ngoại số 66 phát hành tại New Jersey, tác giả kể lại câu chuyện đi Mỹ của một em bé trong cô nhi viện Đà Nẵng mang tên Trần Thị Ngọc Bích. Đọc xong tôi rất xúc động pha lẫn vui mừng, vì có thể 80, 90% cô Ngọc Bích đó là do mình cứu và đặt tên cho cô.”
Sau đó, ông nhờ người bạn tên là Đào Thị Lệ làm việc trong New York Life, có chồng người Mỹ và có em cũng ở trong Hải Quân Hoa Kỳ, liên lạc tìm kiếm Mitchell. Và chính cô Đào Thị Lệ là người đầu tiên trực tiếp nói chuyện với Trần Thị Ngọc Bích đang làm việc tại Ngũ Giác Đài.
Theo ông nghĩ, có thể cô Mitchell bán tín bán nghi, không biết chuyện này có đúng không hay là chuyện “thấy người sang bắt quàng làm họ” như ông cha mình thường nói. Nhưng sau khi nói chuyện với ông Trần Khắc Báo, Mitchell quyết định tổ chức một cuộc hội ngộ trước các cơ quan truyền thông. Cô xin phép đơn vị và mời được 7 đài truyền hình cùng một số phóng viên báo chí từ Washington, D.C cũng như nhiều nơi về tham dự.
Cuộc hội ngộ, theo ông Báo cho biết, hoàn toàn do cô Kimberly Mitchell quyết định, địa điểm là trụ sở Hội Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New Mexico vào Thứ Sáu, ngày 29.8.2012. Cô đến phi trường vào tối Thứ Năm 28.8, gia đình ông Báo ngỏ ý ra phi trường đón nhưng cô cho cô Đào Thị Lệ biết là cô không muốn gia đình đón ở phi trường cũng như đưa vào khách sạn. Cô muốn dành giây phút thật cảm động và ý nghĩa này trước mặt mọi người, đặc biệt là trước mặt các cơ quan truyền thông, và cô muốn ông Báo mặc bộ quân phục TQLC như khi ông tiếp nhận cô đưa đến Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC cách nay 41 năm.

ông Trần Khắc Báo và Kimberly Mitchell
GIÂY PHÚT XÚC ĐỘNG
Gia đình ông Trần Khắc Báo gồm vợ và con gái cùng có mặt. Khi ông Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia hỏi cô Kimberly Mitchell:
“Cô đến đây tìm ai?”
Cô trả lời:
“Tôi muốn tìm ông Trần Khắc Báo.”
Vị Chủ Tịch quay sang ông Báo đang mặc quân phục và giới thiệu:
“Đây là ông Trần Khắc Báo.”
Lập tức, Kimberly Mitchell Trần Thị Ngọc Bích tiến lại ôm lấy ông Báo và cả hai cùng khóc nức nở.
Giây phút xúc động qua đi, cô Kimberly hỏi ông Trần Ngọc Báo:
“Ông là người đã cứu mạng tôi, tôi mới có ngày hôm nay; tôi xin cám ơn ông, và bây giờ ông muốn gì ở tôi?”
Ông Trần Khắc Báo nói :
“Thực sự bây giờ tôi chỉ muốn cô nói với tôi một lời bằng tiếng Việt, cô hãy kêu tôi là “Tía”. Vì tất cả các con tôi đều gọi tôi bằng Tía, tôi xem cô cũng như con tôi, tôi chỉ mong điều đó.”
Và Kimberly Mitchell đã gọi “Tía”.
Ông nói với chúng tôi:
“Bấy giờ tôi thực sự mãn nguyện.”
Trả lời các câu hỏi của chúng tôi, ông Trần Khắc Báo cho biết, cô Kimberly chưa lập gia đình và cô có hứa sẽ thường xuyên liên lạc với gia đình ông. Ông có nhắc cô Kimberly điều này, rằng cô không phải là đứa trẻ bị bỏ rơi. Cô đã được những người lính VNCH có tinh thần trách nhiệm cứu sống trên bụng mẹ cô đã chết, và chính ông đã đặt tên cho cô là Trần Thị Ngọc Bích. Ông cũng mong rằng sau này, cô có thể trở lại Quảng Trị, may ra có thể tìm ra tung tích cha cô hoặc người thân của mình. Ông Trần Khắc Báo cũng cho biết, ông mất liên lạc với người lính Quân Cụ từ lúc hai người giao nhận đứa bé đến nay.
Trong cuộc hội ngộ, trả lời câu hỏi của các phóng viên Hoa Kỳ, nữ Trung Tá Kimberly Mitchell cho biết, cô có hai cái may. Cái may thứ nhất là cô được tìm thấy và mang tới trại mồ côi. Cái may thứ hai là được ông bà James Mitchell bước vào trại mồ côi và nói với các Sơ rằng, ông muốn nhận em bé này làm con nuôi.”
Câu chuyện sau 41 năm kết thúc tốt đẹp, cô Trần Thị Ngọc Bích đúng là viên ngọc quý trên Đại Lộ Kinh Hoàng như ý nguyện của người đã cứu mạng em, vì chính cô đã làm vẻ vang cho dân tộc Việt khi cố gắng học hành để trở nên người lãnh đạo xuất sắc trong Quân Lực Hoa Kỳ, một quân lực hùng mạnh vào bậc nhất thế giới.
Người quân nhân binh chủng Quân Cụ và người sĩ quan TQLC Trần Khắc Báo đã thể hiện tinh thần của một quân nhân Quân Lực VNCH, luôn đặt Tổ Quốc – Danh Dự và Trách Nhiệm trên hết.
THANH PHONG
Nguồn: THỜI BÁO (The Vietnamese Newspaper)
https://daohieu.wordpress.com/2014/02/24/em-be-gai-tren-dai-lo-kinh-hoang-cua-mua-he-do-lua-1972/

Saturday, April 30, 2016

NGUYỄN VŨ BÌNH * HIỆU ỨNG CÁNH BƯỚM

Hiệu ứng cánh bướm

     Hiệu ứng cánh bướm là một cụm từ dùng để mô tả khái niệm trong lý thuyết hỗn loạn về độ nhạy cảm của hệ đối với điều kiện gốc. Vốn được sử dụng ban đầu như một khái niệm khoa học đơn thuần, hiệu ứng cánh bướm sau đó đã được nhắc đến nhiều lần trong văn hóa đương đại, đặc biệt là trong các tác phẩm có đề cập tới quan hệ nhân quả hoặc nghịch lý thời gian. Câu chuyện một con bướm vỗ cánh ở bán cầu này có thể gây ra một cơn bão ở bán cầu kia là một ví dụ minh họa cho lý thuyết này nhưng sau này lại trở thành tên gọi học thuyết. Những sự kiện bé nhỏ nhưng để lại những hệ quả to lớn về sau, do đó học thuyết này có ý nghĩa nhân văn và khoa học lớn lao.
     Ở Việt Nam gần đây, đã có những sự việc có tính chất rất giống với lý thuyết hiệu ứng cánh bướm diễn ra. Chúng ta có thể kể sơ lược một vài vụ việc như: một bãi nước bọt của trung úy Nguyễn Văn Bắc, công an khu vực phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội đã làm thành một cơn bão dư luận trên các mạng xã hội, đặc biệt là faceboooks. Vụ việc nhỏ như móng tay (lời của một viên tướng công an) khởi tố chủ quán cà phê “Xin Chào” cũng làm nổi sóng dư luận, đến mức Thủ tướng chính phủ phải chỉ đạo xử lý. Gần đây nhất, vụ nghi án công ty Formosa xả thải gây chết hàng loạt cá, tôm bờ biển bốn tỉnh miền trung, giám đốc đối ngoại công ty này phát biểu: chỉ nên chọn một trong hai, cá tôm hoặc nhà máy thép. Câu nói này đã gây ra siêu bão trong dư luận cả nước. Ngoại trừ nội dung vụ công ty Formosa, các sự việc khác, tuy không phải là lớn, nhưng sự quan tâm và khả năng phát tán, chia sẻ, phổ biến cực nhanh và rộng khắp của mạng xã hội, đã trở thành những cơn bão trong dư luận. Có thể coi đó là một biểu hiện của hiệu ứng cánh bướm nổi tiếng nêu trên.
     Nhìn nhận lại các sự việc diễn ra vừa qua, do tính chất sự việc, cũng như nghịch lý, hoặc tính chất phi lý của sự việc mới đẩy tới phản ứng dữ dội của người dân, của dư luận. Trước hết, đó là những ứng xử vô cùng tùy tiện, độc đoán, bất chấp pháp luật, bất chấp các quy định nghề nghiệp và văn hóa giao tiếp tối thiểu. Một công an khu vực, đang trong đêm tối đến nhà người dân yêu cầu khám nhà khi không hề có giấy tờ, chứng cứ. Khi người dân không đồng ý thì ứng xử như côn đồ, thiếu văn hóa. Tương tự như vậy, chủ quán cà phê  “Xin Chào” không hề vi phạm pháp luật, nhưng đã bị công an, viện kiểm sát khởi tố với tội danh kinh doanh trái phép...
     Khi sự việc được công khai hóa, chúng ta còn được chứng kiến nhiều nghịch lý, nhiều phát ngôn rất thiếu trách nhiệm của những người liên quan thuộc hệ thống công quyền. Công khai hóa cũng làm lộ ra những lỗ hổng, góc khuất và sự hỗn loạn trong quản lý của hệ thống công quyền. Việc Viện kiểm sát huyện Bình Chánh, đồng ý phê chuẩn việc khởi tố chủ quán cà phê “Xin Chào’ trong khi biết rõ đối tượng không hề vi phạm pháp luật thể hiện sự đồng lõa với những điều sai trái, độc đoán chuyên quyền.  Vụ nghi vấn công ty Formosa xả thải gây ô nhiễm môi trường làm cá biển chết hàng loạt là điển hình cho sự hỗn loạn trong quản lý. Khi sự việc đã được công khai hóa, nơi thì nói đường ống xả thải không được cấp phép, cơ quan khác thì lại nói được cấp phép. Việc vào thanh tra công ty, có nơi nói không được phép vào thanh tra vì dự án thuộc quyền quản lý của trung ương, trong khi đó, ngày 26/3/2015 báo Hà Nội Mới lại đăng tin, Hà Tĩnh cấp phép 70 năm cho Formosa khi chưa được chính phủ đồng ý (http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/Xa-hoi/746350/ha-tinh-cap-phep-dau-tu-70-nam-cho-formosa-khi-chua-duoc-chinh-phu-dong-y). Nói chung, có một sự hỗn loạn, không thể hiểu nổi trong quy trình công tác, hoạt động của các cơ quan công quyền ở Việt Nam.
     Hiệu ứng cánh bướm trong các vụ việc vừa qua trong dư luận xã hội Việt Nam còn được tạo ra bởi sự quan tâm của đông đảo người dân vào những vấn đề thời sự nóng bỏng và nhạy cảm. Ngay khi sự việc vừa xảy ra, hàng ngàn, hàng trăm ngàn người quan tâm, đi vào tìm hiểu, phân tích, lý giải, phê phán. Đồng thời, mọi người còn tìm hiểu những thông tin liên quan tới vụ việc, tới  thân nhân những người trong vụ việc. Bởi số lượng người tham gia quá đông, lại đủ các thành phần nên không tránh được những sự xô bồ, cực đoan và thiếu văn hóa. Tuy nhiên, chỉ có những lý giải đúng đắn, hợp tình hợp lý mới thuyết phục được số đông người quan tâm, và đó chính là những điều làm kim chỉ nam cho sự giải quyết các vụ việc.
     Có một câu hỏi đặt ra, một sự việc muốn trở thành hiệu ứng cánh bướm cần phải có những yêu cầu, điều kiện gì? thực hiện ra sao?
     Đầu tiên, sự việc đó phải là những sự việc có tính chất phi lý và oan trái, càng phi lý và oan trái thì càng thu hút được sự quan tâm của nhiều người. Những sự việc bảo đảm yêu cầu này (phi lý và oan trái) trong bối cảnh hiện nay ở Việt nam là vô cùng lớn, ở bất cứ địa phương nào, ngành nghề nào cũng có thể gọi ra ngay được. Điều kiện tiếp theo, sự việc phi lý, người bị oan trái cần phải có chứng cứ xác đáng, thuyết phục. Chúng ta đều biết, nếu cô gái trẻ ở phường Trung Liệt không có clip quay lại cảnh công an khu vực nói năng thiếu văn hóa và nhổ nước bọt vào người, mà chỉ tố cáo bằng lời nói, thì cô gái chắc chắn sẽ thất bại và còn bị trả thù ngược. Tương tự như vậy, nếu không có một phóng viên đã bỏ công nghiên cứu 300 trang hồ sơ khởi tố chủ quán cà phê “Xin Chào” của tòa án và viện kiểm sát thì sẽ không đủ chứng cứ và lý lẽ về luật pháp để đưa ra công luận. Nếu không đủ chứng cứ, và sự chắc chắn về luật pháp thì những người tố cáo sẽ lãnh đủ hậu quả vô cùng thảm khốc. Điều kiện cuối cùng, người tố cáo phải đủ bản lĩnh và theo đuổi đến cùng sự việc. Chúng ta biết rằng, bao giờ các cơ quan công quyền và cán bộ cũng bao che cho nhau. Họ thường đưa ra những yếu tố gây loãng sự việc, hoặc tung hỏa mù rồi dọa dẫm đương sự. Nếu người tố cáo yếu bóng vía, sẽ thỏa hiệp với họ và sẽ thất bại. Chính vì vậy, khi có đủ bằng chứng xác đáng, cần có bản lĩnh để theo đuổi sự việc tới cùng. Muốn vậy, cần tuyệt đối tin tưởng vào truyền thông “lề dân”, vào sức mạnh của faceboook và dư luận.
     Có một điều đáng mừng trong những sự việc qua. Đó là truyền thông chính thống đã vào cuộc, đứng về phía người dân và kết hợp với truyền thông “lề dân” để tạo sức mạnh công phá. Chúng ta cần khen ngợi những phóng viên của báo Sài Gòn Giải Phóng trong vụ việc chủ quán cà phê “Xin Chào”, cũng như VTC, VTC14 trong vụ việc Formosa đang diễn ra./.

Hà Nội, ngày 27/4/2016
N.V.B

ĐOÀN NHÃ AN * MÔI TRƯỜNG VÀ CHỦ QUYỀN

01/05/2016


Bảo vệ môi trường biển là bảo vệ chủ quyền

Đoàn Nhã An
Nếu Việt Nam không ngăn ngừa ô nhiễm biển và không trừng phạt các thủ phạm, Trung Quốc có thể dùng lý lẽ này để bác bỏ chủ quyền của Việt Nam trên biển.
Trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Toà Trọng tài Thường trực Quốc tế, hành vi phá hoại môi sinh và không tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường biển trong việc xây dựng đảo nhân tạo trong vùng biển tranh chấp của Trung Quốc, đã bị phía Philippines lập luận là hành vi phản chủ quyền. Lý do là vì Trung Quốc đã đi ngược lại các điều khoản của Công ước Luật Biển (UNCLOS) 1982 mà theo đó, các quốc gia phải cam kết thực hiện các luật, cũng như các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển [1]. Vụ kiện lịch sử này sắp có phán quyết trong những ngày sắp tới.
Nếu nhà nước Việt Nam muốn thể hiện chủ quyền trên biển Đông, thì hành vi bảo vệ môi sinh và hệ sinh thái biển chính là một cách trực tiếp chứng tỏ chủ quyền, đặc biệt là khi có các hành động tranh chấp.

Trong những ngày qua, dư luận đang nóng dần lên về vụ việc hàng loạt cá biển chết trôi dạt vào bờ với số lượng lớn dọc theo 4 tỉnh duyên hải vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Tuy nguyên nhân của vụ việc vẫn chưa được chính quyền chính thức công bố, kết quả xét nghiệm của Sở Tài nguyên và Môi trường Tỉnh Thừa Thiên – Huế (1 trong 4 tỉnh chịu ảnh hưởng trực tiếp) cho biết: “Nước biển vùng cá chết bị nhiễm kim loại nặng”.
Chi tiết hơn, “hàm lượng nitơ tính theo amoni (NH4+ -N), hàm lượng kim loại nặng crôm (Cr) vượt giới hạn cho phép của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt.”[2]
clip_image002


Cá chết có vẻ không chỉ dừng lại ở 4 tỉnh ven biển Việt Nam. Đà Nẵng đã bắt đầu có nhiều tin đồn xuất hiện hiện tượng này. Ảnh minh họa: Tuổi trẻ.
Chất kim loại nặng crôm (Cr) là một trong những chất thải công nghiệp phải bị kiểm soát hàm lượng nếu xả thải vào biển theo Phụ lục số 2 (Annex II) của Công ước London về việc Ngăn ngừa ô nhiễm biển do xả thải rác và các vật thể khác 1972 (The Convention on the Prevention of Marine Pollution by Dumping of Wastes and Other Matter of 1972), gọi tắt là Công ước London 1972, và Bản quy tắc Công ước London 1996 (The London Protocol).
Với tư cách là thành viên của Công Ước Luật Biển 1982, Việt Nam cũng buộc có trách nhiệm phải tuân thủ.
Vì sao Công ước London 1972 ra đời?
Theo Cục Bảo Vệ Môi Trường Mỹ (Environmental Protection Agency – EPA), trong suốt hai thập niên từ 1950 cho đến 1970, các nước trên thế giới, trong đó có Mỹ, ngày càng lo ngại về những hoạt động sản xuất của con người đã gián tiếp hoặc trực tiếp gây nên những hậu quả tai hại cho môi trường nói chung, cũng như hệ sinh thái biển nói riêng, khi thải các các chất thải chưa qua xử lý ra biển. Công ước London 1972 là một trong những hiệp ước quốc tế đầu tiên đã được ký kết nhằm ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển do những hoạt động của con người gây ra. Công ước London bắt đầu hiệu lực từ năm 1975 đến nay.
Công ước London được áp dụng cho tất cả các công đoạn xử lý chất thải và các vật thể khác (wastes and other matter) vào nguồn nước biển. Những thành viên của Công ước London đã đồng ý thành lập các chương trình cấp quốc gia nhằm quy định việc xử lý chất thải xuống lòng đại dương trong các vùng biển chủ quyền nhằm đánh giá nhu cầu, cũng như sức ảnh hưởng của việc xả thải.
Một danh sách thường được nhắc đến là danh sách “đen-và xám” (“black-and grey” list), chính là một cách phương pháp tiếp cận để xử lý các chất xả thải dựa theo nội dung của Công ước London. Theo đó, những chất nằm trong danh sách đen (black-list items) sẽ hoàn toàn bị nghiêm cấm xả thải vào lòng biển. Đó là những chất nguy hiểm và độc hại (hazardous materials), ví dụ như thủy ngân (mercury) hay các chất phóng xạ (radioactive materials).
Việc xả thải của những chất nằm trong danh sách xám (grey-listed) chính là các chất mà theo Công ước London, những nước thành viên bắt buộc phải có cơ chế cấp phép cho những hoạt động xử lý xả thải các chất này xuống lòng biển, cũng như xác định hàm lượng cho phép có thể xả thải một cách khắt khe và chặt chẽ với những điều kiện bắt buộc, thông qua một cơ quan chính phủ có thẩm quyền (designated national authority). Chất kim loại nặng Crôm (Cr) là một trong những chất nằm trong danh sách “xám”.
Công ước London và Bản quy tắc Công ước London là hai văn bản luật quốc tế duy nhất về chuẩn mực cũng như quy định về việc xả thải xuống lòng biển. Tính đến năm 2015, đã có 87 quốc gia là thành viên của Công ước London.
Bản quy tắc Công ước 1996 là gì?
Cũng theo EPA, vào năm 1996, các thành viên của Công ước London đã họp và thương thảo, bổ sung một bản quy ước nhằm tiến tới việc thiết lập một hiệp ước mới và hiện đại hơn để dần có thể thay thế được Công ước London 1972. Bản quy tắc London có hiệu lực từ năm 2006.
Bản quy tắc London 1996 không đơn giản chỉ là một bản sửa đổi của Công ước London 1972, mà nó chính là một phiên bản hoàn thiện hơn và mang lại nhiều sự bảo vệ hơn cho môi trường. Bản quy tắc 1996 nghiêm cấm mọi hành vi xử lý chất thải bằng việc thiêu hủy trên biển và cũng nghiêm cấm việc xuất khẩu chất thải và các vật thể khác với mục đích xả thải xuống lòng biển.
Theo Bản quy tắc 1996, ngoại trừ những chất được cho phép trong bản Phụ lục số 1 (Annex 1 of the London Protocol), tất cả chất thải và vật thể khác đều bị nghiêm cấm xả thải xuống lòng biển (reverse list approach). Bản quy tắc 1996 đã được soạn thảo và thông qua nhằm đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của các quốc gia trong việc bảo vệ môi trường, đặc biệt là môi trường biển. Các nước thành viên của Công ước London 1972 không bị bắt buộc tham gia vào Bản quy tắc London 1996 và ngược lại.
Đến thời điểm hiện tại, Việt Nam vẫn chưa là thành viên của Công ước London 1972, và cũng không rõ là Việt Nam đã tham gia Bản quy tắc London 1996 (hay còn gọi là Bản bổ sung Công ước London) hay chưa theo thông tin từ Trung Tâm Nghiên cứu Pháp luật và Chính sách Phát triển bền vững [3]. Tuy nhiên, khi tham gia ký kết và thông qua UNCLOS 1982, Việt Nam đã đồng thời có trách nhiệm với việc thực thi các chuẩn mực cũng như quy định về xử lý xả thải xuống lòng biển theo điều kiện mà các công ước quốc tế này đã đặt ra.
UNCLOS 1982 có ảnh hưởng như thế nào đến các công ước quốc tế trên?
Thành viên của Công ước Quốc tế về Luật Biển UNCLOS 1982 bị ràng buộc bởi Điều 210 của công ước này, mà trong đó, các thành viên, về mặt pháp lý, bắt buộc phải ban hành các điều luật ở cấp quốc gia về quy định quản lý ô nhiễm môi trường do xả thải gây ra.
Định nghĩa về xả thải xuống lòng biển (dumping) nằm ở khoản 5 (a), Điều 1 của UNCLOS 1982. Các nước thành viên của UNCLOS 1982 cũng bị bắt buộc phải cấp phép cho tất cả các hoạt động xả thải trong vùng biển chủ quyền (territorial sea), trong khu vực đặc quyền kinh tế (EZZ), và bờ biển thềm lục địa (continental shelf.) Xem thêm UNCLOS 1982, Điều 210, khoản 5.
Trên hết và quan trọng hơn, theo khoản 6 của Điều 210, những điều luật cũng như các quy định cấp quốc gia đó không được thấp hơn chuẩn mực mà các công ước quốc tế về vấn đề xả thải xuống lòng biển đã quy định. (National laws, regulations and measures shall be no less effective in preventing, reducing, and controlling such pollution than the global rules and standards.)[4]
clip_image004



Ghi nhận về thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển theo UNCLOS. Nguồn: Xem trên ảnh.
Ngoài ra, Điều 216 của UNCLOS 1982 còn đòi hỏi các nước thành viên phải có trách nhiệm thực thi các điều luật và quy định về xả thải xuống lòng biển mà pháp luật của nước họ đã đặt ra, cũng như phải tuân thủ các quy định và chuẩn mực quốc tế.
Vì vậy, cho dù có đến 77 trong 145 nước tham gia UNCLOS 1982 không phải là thành viên của Công ước London 1972, các nước đó vẫn phải tuân thủ những nguyên tắc của công ước này vì Công ước London và Bản Quy tắc London chính là các văn bản pháp lý của luật pháp quốc tế hiện hành (leading international laws) về các điều khoản quy định và chuẩn mực quốc tế (global rules and standards) trong vấn đề xả thải (dumping) mà khoản 6, điều 210 của UNCLOS quy định như đã nêu ở trên.
Nói đơn giản hơn, các nước thành viên của UNCLOS 1982 phải ban hành điều luật và quy định cũng như cấp phép về vấn đề xả thải xuống lòng biển trong vùng biển chủ quyền, khu vực đặc quyền kinh tế, và thềm lục địa với mức độ quy định và xử phạt ngang bằng hoặc cao hơn so với các chuẩn mực của Công ước London 1972 và Bản quy tắc London 1996, phải thực thi cũng như chấp hành nghiêm ngặt luật định mà chính họ đã đặt ra theo các chuẩn mực đó.
Bảo vệ môi trường và hệ sinh thái biển là bảo vệ chủ quyền biển
Sở dĩ UNCLOS 1982 đòi hỏi các nước thành viên phải chịu trách nhiệm ban hành các đạo luật và quy định về xả thải xuống lòng biển theo cùng một chuẩn mực của Công ước London và Bản quy tắc London để bảo vệ môi trường và hệ sinh thái biển vì đó là trách nhiệm đi cùng với chủ quyền.
Trong vùng biển chủ quyền quốc gia (territorial sea), khu vực Đặc quyền kinh Tế (EEZ), và bờ biển thềm lục địa (continental shelf), một quốc gia có quyền ban hành và thông qua, cũng như thực thi các đạo luật về bảo vệ môi trường và phòng chống ô nhiễm. (Xem thêm UNCLOS 1982, Điều 56, 61-64, 210-211.) Do đó, việc thực thi và xử lý các vi phạm về ô nhiễm môi sinh, ví dụ như các vi phạm về xử lý chất thải và xả thải xuống lòng biển trái luật định hoặc trái với luật pháp quốc tế, là một hành động trực tiếp khẳng định chủ quyền trên biển.
Bản quy tắc 1996 bao quát hai nguyên tắc cơ bản đó là nguyên tắc phòng chống (precautionary principle) và nguyên tắc “kẻ phá hoại môi trường phải trả giá” (“the polluter pays” principle.)
Trong Bản quy tắc 1996, nguyên tắc phòng chống đã được nhắc đến hơn 1 lần và các nước thành viên được khuyến nghị nên ngăn ngừa việc xả thải xuống lòng biển nếu như họ tin rằng khả năng gây thiệt hại đến môi trường biển là có thể xảy ra, cho dù một mối quan hệ giữa chất thải và mối hiểm họa tiềm ẩn vẫn chưa được chứng minh bằng khoa học.
Chương 3 (Article 3) của Bản quy tắc cũng khuyến nghị các nhà nước thành viên phải bắt những kẻ phá hoại môi trường chịu trách nhiệm bồi thường cũng như chịu sự trừng phạt của pháp luật khi gây ra thảm họa cho tài nguyên và môi trường biển.
Sự việc cá chết hàng loạt dọc khắp 4 tỉnh duyên hải Bắc Trung Bộ Việt Nam là sự thật. Theo các báo cáo sơ bộ, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để lo ngại về hệ sinh thái biển ở các vùng thiệt hại, cũng như trên khắp vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Việc công khai các điều luật và quy định về việc xử lý chất thải xuống lòng biển, cũng như tất cả các tài liệu, chỉ số, thống kê có liên quan đến vấn đề này là cần thiết và cấp bách.
clip_image006


Một hành động rõ ràng và quyết liệt của chính phủ Việt Nam trong việc điều tra về ô nhiễm môi trường ở các vùng thiệt hại không chỉ là việc làm để an dân. Quan trọng không kém, đây là một hành động thực thi chủ quyền dứt khoát và mạnh mẽ trong một thời điểm mà chủ quyền trên biển của Việt Nam đang đứng trước rất nhiều thách thức, khi Trung Quốc vốn chưa bao giờ từ bỏ ý định đòi hỏi sự công nhận của quốc tế về đường lưỡi bò trên biển Đông.
Nếu như chúng ta không có thái độ thể hiện chủ quyền trong vùng biển tranh chấp, chẳng hạn như việc thực thi các công ước quốc tế về xả thải xuống lòng biển và bảo vệ môi trường biển, hay truy tìm thủ phạm hủy hoại môi trường, tài nguyên thiên nhiên, thì liệu đó có phải là cơ sở pháp lý để đối phương dùng làm lập luận về chủ quyền trên cơ sở có lợi cho họ?
Đ.N.A.
Chú giải của người viết
Nguồn tài liệu tham khảo

LÊ QUỲNH * THẢM HỌA CÁ CHẾT

01/05/2016

Thảm họa cá chết miền Trung: Nguồn độc có khả năng lan xuống tận Phú Quốc

Lê Quỳnh – Doãn Mạnh Dũng
Tôi khóc cho ngư dân tôi...
Tôi khóc cho những ngư dân khi con đường sống của họ bỗng nhiên đứt đoạn không còn nữa. Khóc cho những đàn cá chết oan uổng nằm phơi xác bên bờ cát.
Khóc cho dân tôi khi đang bị họa giặc Tàu o ép ở biển Đông, thì giờ thêm họa cá chết không còn nữa, phải sống làm sao đây…
Khóc cho dải miền Trung sao lắm họa chất chồng, khóc cho những đàn cá mênh mông bỗng nhiên bị đầu độc chết giữa ban ngày…
Khóc cho những đoàn tàu đánh cá trống không khi cập bến, khóc cho những bạn chài ngơ ngác không còn muốn ra khơi.
Khóc cho những chàng trai cô gái không dám mở hội nơi bờ cát, khóc cho những em nhỏ không còn được đùa vui nơi ven biển...
Khóc cho biển chết, cho cá chết cùng niềm hy vọng cũng chết.
Khóc khi người dân tôi gào ngàn uất hận, đòi trả lại cho họ biển xanh cùng đàn cá trắng đã ra đi không quay về.
Tôi khóc cho dân tôi khi ánh dương không còn chiếu sáng quê hương, mà vầng trăng cũng đã vội vã đi rồi.
Mẹ cơm chan nước mắt trông tăm cá,
Con đói ngẩn ngơ đợi bóng thuyền về.
Mai Tú Ân
29/04/2016 - 15:36 PM
Qua tính toán dòng chảy đáy biển, KS Doãn Mạnh Dũng, phó Chủ tịch – Tổng thư ký Hội Khoa học kỹ thuật và kinh tế Biển TP.HCM, cảnh báo: nếu không cắt ngay nguồn độc đang gây cá chết tại 4 tỉnh ven biển miền Bắc Trung Bộ, và mới ngày hôm nay 29.4 là Đà Nẵng, thì nguy cơ chất độc sẽ còn lan xuống tận Phú Quốc! Đặc biệt, cần nhìn nhận Sơn Dương – Vũng Áng là một yếu huyệt bảo vệ sự an ninh lãnh thổ Việt Nam từ hướng biển!
clip_image002
Cá chết ở vùng biển Đà nẵng sáng ngày 29.4. Ảnh: Tuổi Trẻ
Phỏng vấn của Người Đô Thị với KS Doãn Mạnh Dũng, phó Chủ tịch – Tổng thư ký Hội Khoa học kỹ thuật và kinh tế Biển TP.HCM, nguyên trưởng ban Cơ sở hạ tầng cảng biển thuộc Cục Hàng hải Việt Nam.
clip_image004
Thưa ông, với thảm họa cá chết hàng loạt trong thời gian dài, chủ yếu là cá tầng đáy, ở 4 tỉnh ven biển miền Trung gồm Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, và mới hôm nay ngày 29.4 là Đà Nẵng, thì liệu tình trạng cá chết này có khả năng còn lan rộng nữa không?
Trong đặc điểm tự nhiên của bờ biển Việt Nam, do chênh lệnh nhiệt độ giữa Bắc cực và Xích đạo, do trái đất quay từ Tây sang Đông, do bờ biển Trung Quốc khi xuống phía Nam thì lệch về hướng Tây nên trong 365 ngày/năm luôn luôn có dòng hải lưu tầng đáy chạy dọc bờ biển Việt Nam từ Bắc xuống Nam, nhưng mạnh nhất từ Vũng Áng - Sơn Dương, Hà Tĩnh đến mũi Cà Mau.
Tốc độ dòng tầng đáy tính toán được khỏang 0,38 m/s trên hiện tượng di chuyển của các thi thể hành khách trên xe 48K-5868 bị tai nạn ngày 18.10.2010 ở Nghị Xuân - Hà Tĩnh.
Về mùa đông, vào tháng 1, 2, 3, 4, 8, 9, 10, 11, 12 (9/12 tháng), vì ảnh hưởng gió đông bắc nên có dòng chảy mặt theo hướng từ Bắc xuống Nam với tốc độ bình quân 0,757 m/s.
Dòng tầng đáy và tầng mặt cộng hưởng đưa phù sa bờ biển Việt Nam theo hướng từ Bắc xuống Nam. Vùng bờ biển Vũng Áng, Sơn Dương nằm phía nam vĩ tuyến cực Nam của đảo Hải Nam, nên bờ biển miền Trung từ vị trí này hướng về Nam là chịu tác động của dòng chảy tầng đáy và cả tầng mặt.
Bạn nhớ bài hát "Quảng Bình - Quê ta ơi" với những cồn cát trắng? Ở Bắc sông Gianh, các cồn cát đã cao đến 17-18 m, nhưng ở Hà Tĩnh hoàn toàn không có cồn cát. Đó là hiện tượng khác biệt giữa bờ biển Hà Tĩnh và Quảng Bình. Do nguyên lý này mà các vịnh ở bờ biển Đông Việt Nam chỉ sâu khi vịnh chống được dòng hải lưu trên chảy vào vịnh, có nghĩa rằng cửa vịnh phải quay về hướng Nam. Ví dụ như vịnh Cam Ranh, vịnh Vân Phong, Vũng Rô. Vì là các vịnh ven núi, nên các vịnh chỉ sâu khi không có dòng sông lớn xuất phát từ dãy Trường Sơn. Ví dụ vịnh Dung Quất có sông Trà Bồng nên hạn chế độ sâu. Khi đến mũi Cà Mau, dòng hải lưu bị đẩy về hướng Tây, nên mũi Cà Mau có hình dàng như mũi tàu cong về phía Tây. Chính dòng hải lưu trên làm vịnh Thái Lan bị cạn dần và đang bị ngọt hóa. Chính sự ngọt hóa này mà Phú Quốc có những hải sản khác thường với ngư trường Phan Thiết.
Như vậy sự việc chất độc gây cá chết tại Hà Tĩnh sẽ không giới hạn khu vực từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên - Huế.
Đúng thời điểm này, gió Tây Nam đưa dòng tầng mặt qua đảo Hải Nam, nên hiện tượng cá chết chưa lan tràn xuống Nam Trung Bộ. Hơn nữa hiện tượng cá tầng đáy bị chết chứng tỏ nguyên nhân gây chết cá là độc tố trong nước. Các chất thải ra biển hầu hết có tỷ trọng cao hơn nước biển nên nhanh chóng lắng xuống tầng đáy. Vì vậy sự viện dẫn cá chết do rong tảo trôi nổi trên tầng nước mặt là không logic và không thuyết phục được những người quan tâm.
Như vậy, dòng tầng đáy đã chắc chắn đưa chất độc xuống bờ biển Nam Trung Bộ, Nam Bộ và Tây Nam. Tôi cho rằng, khu vực này chưa thấy cá chết do mật độ chất độc thấp, nhưng tiềm ẩn đem lại bệnh tật trong tương lai là khó tránh khỏi.
Tóm lại, theo tính toán dòng chảy như trên, thì chất độc không chỉ ở 5 tỉnh miền Trung mà còn có nguy cơ lan chảy từ Hà Tĩnh xuống Phú Quốc. Những tính toán này là thuộc về vấn đề khoa học cơ bản, rất rõ ràng.
Tôi cho rằng đây là một hiểm họa cực kì lớn đối với cả đất nước, nó triệt tiêu nguồn tài nguyên để nhiều triệu người có thể duy trì cuộc sống trong nhiều ngàn năm qua dọc theo mảnh đất hình chữ S.
clip_image006
Hệ thống ống dẫn nước xả thải kéo dài từ Formosa đến biển Vũng Áng. Ảnh: T.Hoa/infornet
Là người có nhiều nghiên cứu về biển, theo ông, những “điểm” nào có khả năng gây ra chất độc khiến cá chết hàng loạt và kéo dài như hiện nay?
Không chỉ nghi vấn riêng Formosa, mà tất cả các khu công nghiệp (KCN) trước khi nước thải ra biển đều phải có sự kiểm tra hết. Không kiểm tra được thì đóng cửa. Đó là nguyên tắc. Quyền lợi của một nhóm luôn nhỏ hơn rất nhiều quyền lợi của cả một dân tộc. Vừa rồi trên thế giới có tập đoàn thép của Ấn Độ đã phải từ bỏ thị trường nước Anh, vì chi phí môi trường ở đây quá lớn. Còn ở Việt Nam thì lại chọn chi phí môi trường thấp nhất để kiếm lời. Đó là sự kiếm lời trên cái sống tàn tạ và trên tiền thuốc men, bệnh tật của người Việt Nam. Chúng ta làm việc và chiến đấu để sống, chứ không phải để chết.
Theo ông, việc xây dựng và phát triển công nghiệp tại vị trí Vũng Áng – Sơn Dương có phù hợp hay không?
Việc hình thành KCN, tôi cho rằng tùy vào mục tiêu của mình. Mục tiêu của ta là làm giàu bằng mọi giá, hay chúng ta từng bước phát triển, xây dựng quê hương tốt đẹp cho chúng ta? Hai mục tiêu đó khác nhau, mà mục tiêu của một nhóm người bằng mọi giá để lấy tiền và sau đó ra đi định cư ở nước ngoài là khác xa với mục tiêu của đa số người dân Việt Nam này là mơ ước tìm hạnh phúc ngay trên đất nước của mình.
Một khu kinh tế với những ngành công nghiệp nặng như Vũng Áng hiện nay là một nguy cơ rất lớn cho ô nhiễm môi trường vùng biển và nguy cơ cho ngành kinh tế thủy sản biển của mình. Nhất là khi mình vẫn chấp nhận nền công nghiệp lạc hậu của Trung Quốc, đó là điều không chấp nhận được và hậu quả sẽ không lường.
Ông đã từng đánh giá Vũng Áng – Sơn Dương có vị trí quân sự đặc biệt quan trọng...
Đúng vậy! Sơn Dương là một trong bốn yếu huyệt bảo vệ sự an ninh lãnh thổ Việt Nam từ hướng biển đuợc xếp theo thứ tự: Cam Ranh, Sơn Dương, Nam Du và Côn đảo. Bốn yếu huyệt này được xác định dựa vào những yếu tố địa lý tự nhiên.
Ở vịnh Bắc Bộ, cảng Sơn Dương nằm phía nam Vũng Áng thuộc Hà Tĩnh có vị trí khá đặc biệt. Vị trí này cùng vĩ tuyến với cảng Tam Á, có hạm đội nguyên tử của Trung Quốc. Vị trí cảng Sơn Dương cũng nằm ngay phía bắc đèo Ngang nơi có đường Quốc lộ 1A với đường đèo và hầm qua núi. Độ sâu cảng Sơn Dương sau khi xây đê 3.000 m từ mũi Ròn đến hòn Sơn Dương thì vùng cảng kín sóng gió và đạt độ sâu đến trên -16 m cùng với vùng nước rộng rãi. Vì vậy, cảng Sơn Dương là yếu huyệt của vịnh Bắc Bộ, kiểm soát đường biển và đường bộ từ Nam Bộ và Trung Bộ tiếp tế cho miền Bắc Việt Nam.
Vùng nước Sơn Dương phía Nam Vũng Áng là vị trí duy nhất của cả miền Bắc có thể đón tàu sân bay được, nhưng mình giao cho Trung Quốc là hỏng. Vị trí đó nằm ngay Đèo Ngang, chỉ cần hai trung đội là đủ cắt đôi đất nước ngay, vì ở đây có hầm Đèo Ngang và đường độc đạo, xe lửa đi tới đây phải chạy ngược lên về phía Tây để băng qua, chứ còn vị trí này là đèo, không đi qua được.
Vị trí này là huyệt đạo của cả hải quân Việt Nam. Nó phải dành cho Hải quân Việt Nam chiếm lĩnh để bảo vệ đất nước. Vì với một nước nhỏ, nghèo, mọi việc từ xây dựng đến bảo vệ đất nước phải biết sử dụng những đặc điểm địa lý tự nhiên. Hải quân Việt Nam phải có các căn cứ quân sự đủ sức phòng ngự và tấn công để phòng ngự. Các căn cứ hải quân phải có độ sâu thích hợp, độ rộng mặt nước đủ năng lực tiếp nhận nhiều tàu quân sự, có núi cao để che chắn và thuận lợi trong cung ứng hậu cần. Và sự hợp tác với các đối tác nước ngoài trong xây dựng kinh tế ở các yếu huyệt trên cần gắn chặt với nhu cầu quốc phòng khi xảy ra chiến tranh vệ quốc.
Còn làm kinh tế là từng bước, chúng ta làm để sống chứ không phải làm để chết.
Năm 2003, tôi là người trực tiếp đã báo cáo tiềm năng vịnh Sơn Dương với bí thư Hà Tĩnh hồi đó - Trần Đình Đàn, tiềm năng của cảng Hà Tĩnh không phải ở Vũng Áng phía Bắc mà là phía Nam Vũng Áng, tức là vùng Sơn Dương. Việc đầu tư kinh tế tại đây là một sai lầm. Người Việt Nam mình phải hiểu địa phương mình hơn nước ngoài chứ!
clip_image008
Cá chết bất thường ở vùng biển miền Bắc Trung Bộ. Ảnh: Quang Tiến/zing.vn
Việc kiểm tra của các đoàn cơ quan Nhà nước vẫn đang được tiến hành tại KCN Vũng Áng nói chung và Formosa nói riêng. Trước tính chất nghiêm trọng của thảm họa cá chết hiện nay, ông đánh giá việc kiểm tra như mức độ hiện nay của Nhà nước là đủ chưa? Hành động ngay trong lúc này của Nhà nước cần là gì, thưa ông?
Tốt nhất bây giờ chúng ta cứ giải quyết vấn đề sòng phẳng với các doanh nghiệp kinh doanh, nếu anh gây ra ô nhiễm thì anh phải chịu trách nhiệm với hậu quả của chính anh. Việc chính quyền nhân nhượng doanh nghiệp trong việc kiểm soát chất thải là điều không chấp nhận và là nguyên nhân chính dẩn đến sự hỗn loạn của xã hội, nhất là với các doanh nghiệp nước ngoài.
Vấn đề cần làm hiện nay là phải cắt ngay nguồn độc này! Việc đầu tiên hiện nay là cần cấm đưa chất thải chưa xử lý ở các KCN ra biển. Hệ thống kiểm tra môi trường cần xác định ngay tính hợp pháp của những đường ống chất thải ra biển. Nếu hệ thống ống không hợp pháp thì cần xử lý ngay theo pháp luật, kể cả giải thể doanh nghiệp. Nếu hệ thống ống thải là hợp pháp thì cần thay đổi ngay những cán bộ có chức năng đang kiểm soát môi  trường tại Hà Tĩnh vì họ không hoàn thành nhiệm vụ.
Khi người dân Việt Nam từ Hà Tĩnh đến Phú Quốc không dám ăn cá biển thì  kinh tế và xã hội Việt Nam sẽ ra sao? Thương hiệu hải sản Việt Nam sẽ đi về đâu? Nó là một tai họa không tưởng tượng được, và tôi nghĩ rằng nó sẽ đốt tất cả những thành quả bao nhiêu năm qua của chúng ta. Khi con người ở ven biển mà không dám ăn cá, khi hàng triệu ngư dân không có công việc để  kiếm sống thì đất nước này sẽ hỗn loạn.
Lê Quỳnh (thực hiện)
***
Khu kinh tế (KKT) Vũng Áng chủ yếu do Trung Quốc thầu và thi công. KKT này được thành lập vào tháng 4.2006, trên cơ sở khu công nghiệp - cảng biển Vũng Áng đã được thành lập từ năm 1997. Đây là một bộ phận của khu đô thị Vũng Áng và vùng kinh tế Bắc Quảng Bình - Nam Hà Tĩnh. KKT Vũng Áng được Thủ tướng Chính phủ thành lập tại Quyết định số 72/2006/QĐ-TTg ngày 3.4.2006 có diện tích 22.781 ha với mục tiêu xây dựng, phát triển thành khu kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực với trọng tâm là:
(1) phát triển các ngành công nghiệp luyện kim gắn với lợi thế về tài nguyên, nguồn nguyên liệu; các ngành công nghiệp gắn với khai thác cảng biển, công nghiệp thép, trung tâm nhiệt điện và lọc hóa dầu,
(2) phát triển đồng bộ khu liên hợp cảng Vũng Áng - Sơn Dương bao gồm việc đầu tư và khai thác có hiệu quả khu liên hợp cảng, phát triển dịch vụ cảng và các dịch vụ vận tải biển để tạo thành một trong những cửa ngõ ra biển quan trọng của Bắc Trung Bộ.
(3) xây dựng khu đô thị mới Vũng Áng, đồng thời ưu tiên phát triển các khu du lịch sinh thái, du lịch nghĩ dưỡng biển trở thành các điểm du lịch quan trọng trong tuyến du lịch ven biển Bắc Trung Bộ.

No comments:

Post a Comment